Biến cố trong tháng
Bao giờ Hoa Kỳ & Đồng Minh Nato Tháo Chạy Khỏi A Phú Hãn?
Bao giờ Hoa Kỳ & Đồng Minh Nato Tháo Chạy Khỏi A Phú Hãn?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
I- Từ Đồng Minh tới địch thủ
Ngày 24.12.1979 hơn 100.000 lính Sô-viết tấn công vào A Phú Hãn mở đầu cho cuộc xâm lăng lật đổ chế độ của Tổng-thống Amin và đưa tay sai Babrak Garmal, rồi Mohammad Najibullah lên nắm chính quyền. Cũng từ đó Hoa Kỳ, từ thời Tổng-thống Jimmy Carter, rồi qua TT. Ronald Reagan, với Học-thuyết Reagan (Reagan Doctrine) đã ngầm trợ giúp các cuộc chiến chống Cộng-sản tại Angola, Nicaragua và nhiều quốc gia khác. Ở A Phú Hãn thì chính phủ Mỹ giúp chí nguyện quân Mujahideen, được cả Hồi Quốc, Ả-rập Saudi và một số quốc gia Islam hỗ trợ, mở cuộc Thánh-chiến chống quân xâm lược Sô-viết. Taliban, một trong các tổ chức chiến đấu giải phóng A Phú Hãn đã nắm được 95% quyền lực vào năm 1996 và hoàn toàn kiểm soát lãnh thổ vào năm 2000. Nhưng sau đó, vụ khủng bố Nữu Ước ngày 11.9.2001 đã biến Hoa Kỳ và Taliban thành thù địch.
Ngày 20.9.2001, trong bài thuyết trình trước Quốc-hội Mỹ, TT. George W. Bush đã đưa ra lời khuyến nghị tối hậu cho nhóm cầm quyền Taliban sau vụ khủng bố ngày 11.9.2001 tại Nữu Ước:
-Bắt Osama bin-Laden giao cho Hoa Kỳ, -Phóng thích tất cả các tù nhân ngoại quốc, trong đó có công dân Mỹ. -Bảo vệ các nhà báo, viên chức ngoại giao và nhân viên của các hội từ thiện tại A Phú Hãn. -Đóng cửa các trại huấn luyện khủng bố, và giải giao cho các nhà cầm quyền hợp pháp tất cả các tên khủng bố, và bất cứ người nào và bất cứ cơ cấu trợ giúp nào. -Cho phép Hoa Kỳ tới các trại huấn luyện để xác định các trại huấn luyện này đã đóng cửa.
Nhóm Taliban cao ngạo cho rằng sẽ xúc phạm tới đạo Islam, nếu nói chuyện với các lãnh tụ chính trị ngoại đạo (không phải Muslim) nên không muốn nói chuyện với TT. Bush. Taliban, qua đại sứ ở Hồi Quốc (Pakistan) không chấp nhận khuyến nghị tối hậu, vì thiếu bằng chứng chứng minh Osama bin-Laden có liên quan tới vụ khủng bố.
Ngày 7.10.2001, với lý do nhóm này đã yểm trợ cả về tài chính lẫn quân sự, kể từ năm 1996, cho tổ chức khủng bố Al-Qaeda, do trùm khủng bố Osama bin-Laden cầm đầu, quân đội Anh-Mỹ tấn công vào A Phú Hãn để lật đổ nhóm cầm quyền Taliban. Cuộc can thiệp vào A Phú Hãn cũng nhằm truy lùng Osama bin-Laden và hủy diệt các trung tâm huấn luyện của tổ chức Al-Qaeda. Hành động của chính phủ Mỹ dựa vào Quyết-định số 1267 năm 1999 và QĐ 1333 năm 2000 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đòi Taliban phải bắt nộp Osama bin-Laden. Ngày 12.11.2001 Taliban thua phải bỏ Thủ-đô Kabul chạy tới vùng biên giới giữa A Phú Hãn và Hồi Quốc.
8 năm trôi qua nhưng quân đội Mỹ và Đồng Minh NATO vẫn không bắt hoặc giết được thủ-lãnh của Taleban là Mohammed Mullah Omar và Osama bin-Laden. 8 năm trôi qua mà tình hình A Phú Hãn vẫn chưa thực sự được ổn định.
Để tìm hiểu những thành quả và thất bại của quân đội Mỹ và Đồng Minh tại A Phú Hãn, cũng như đến thời điểm nào thì Hoa Kỳ lại tháo chạy khỏi A Phú Hãn, mời quí độc giả theo dõi các điểm dưới đây:
II- Thành quả của Hoa Kỳ và Đồng Minh
Cuộc hành quân của Liên-minh Anh-Mỹ đã lật đổ chế độ độc tài Taliban và phá hủy các trại huấn luyện của Tổ chức khủng bố Al-Qaeda, đồng thời xây dựng một chế độ dân chủ tự do theo kiểu mẫu Tây phương. Cuộc bầu cử Tổng-thống vào ngày 20.8.2009 vừa qua là một chứng minh cụ thể. Ngày 8/9/2009 hãng thông tấn Pháp AFP và nhật báo The Wall Street Journal của Mỹ cho biết kết quả bầu cử Tổng thống tại A Phú Hãn do Đặc-nhiệm Bầu-cử Độc-lập “IEC” (Independent Electoral Commission) công bố như sau:
Đương kim Tổng-thống Hamid Karzai, thuộc dân tộc Pashtun ở phía Nam, được 54,1% tổng số phiếu và cựu Bộ-trưởng Ngoại-giao Abdullah Abdullad, được các dân tộc thiểu số khác ở phía Bắc ủng hộ, được 28,3% sau khi 91,6% phiếu được kiểm duyệt. Đặc-uỷ Khiếu-nại Bầu-cử “ECC” của quốc gia (The Country’s Electoral Complaints Commission) lần đầu tiên nói rằng đã có sự gian lận bầu cử.
Theo Nữu-ước Thời-báo (The New York Time) của Mỹ và hãng thông tấn Reuters của Anh-quốc thì những người trung thành với TT. Karzai đã đặt hàng trăm vị trí bầu cử mà không có cử tri đi bầu, nhưng vẫn có hàng trăm ngàn phiếu bầu. Phát ngôn viên của Đặc-nhiệm Bầu-cử Độc-lập, Daud Ali Najafi, nói rằng các thùng phiếu từ 600 vị trí trên toàn quốc đã bị “niêm phong”, cho thấy có khoảng 360.000 phiếu bất hợp lệ, mỗi vị trí bầu cử có từ 600 tới 700 phiếu. Theo điều lệ bầu cử thì TT. Karzai phải được hơn 50% tổng số phiếu mới thắng cử. Dưới 50% phải tranh cử giai đoạn hai.
Có 5,4 triệu cử tri đi bầu. 1,7 triệu dân còn đang tị nạn tại Hồi Quốc trong thời kỳ Taliban nắm quyền lực tại A Phú Hãn. Trong số đó có 860.000 cử tri có quyền bầu cử. Nhưng trong cuộc bầu cử Tổng-thống năm 2009 kỳ này không ai lo cho họ về vấn đề được bầu cử vắng mặt, như trong cuộc bầu cử lần thứ nhất vào năm 2004. Dù sao đi nữa, thành quả của một chế độ dân chủ tự do được thành hình, cũng như ở Iraq, thật đáng ca tụng.
III- Hậu quả của chiến tranh
Tuy nhóm Taliban bị thua và bỏ chạy; nhưng tình hình an ninh của A Phú Hãn vẫn không hoàn toàn được yên ổn. Quân đội Đồng Minh đang đứng trước những khó khăn như:
1- Vấn đề trồng cấy và bán thuốc phiện (Opium)
Sau khi nhóm cầm quyền Taleban bị sụp đổ thì vấn đề trồng cây thuốc phiện để chế biến thành bạch phiến (heroin) lại phát triển mạnh. A Phú Hãn ngày nay sản xuất bất hợp pháp khoảng 92% thuốc phiện của thế-giới. Từ năm 2005 tới 2006 gia tăng 78%, đặc biệt vùng mất an ninh ở phía Nam lại phát triển mạnh. Theo Văn phòng Dược phẩm và Tội ác “UNODC” (United States Office on Drugs and Crime) có thể so sánh tình hình an ninh với việc sản xuất thuốc phiện. Ở khu vực an ninh nông dân chỉ sản xuất 20% thuốc phiện; ở khu vực kém an ninh thì lên tới 80%. Hiện quân đội Đồng Minh có hai khuynh hướng đề nghị giải quyết tệ nạn trồng thuốc phiện:
-Phương pháp 1: phá hủy các cánh đồng trồng thuốc phiện, trong đó có bàn tay của Taleban và Al-Qaeda nhúng vào. Nhưng thực tế không đơn giản. Gần 3 triệu dân nghèo chỉ có thể sống nhờ trồng thuốc phiện. Nếu Hoa Kỳ và NATO tiêu hủy các cánh đồng trồng thuốc phiện, dân nghèo sẽ không có tiền mua thực phẩm và họ sẽ chạy theo Taliban và Al-Qaeda, trở thành địch thủ khá nguy hiểm. Nếu để họ canh tác thuốc phiện hợp pháp và chỉ bán lại cho chính phủ hay NATO thì giá cả trên thị trường bất hợp pháp và chợ đen cũng sẽ giảm đi rất nhiều.
-Phương pháp 2: Nâng cao lợi tức cho nông dân bằng cách khuyến khích trồng các nông phẩm khác có lợi tức cao hơn cây thuốc phiện. Muốn vậy, Hoa Kỳ và Đồng Minh phải giúp về kỹ thuật canh tác, phân bón và hệ thống dẫn nước vào các cánh đồng, cũng như bảo đảm thị trường tiêu thụ nông phẩm của dân.
2- Vấn đề một quốc gia theo chế độ dân chủ, tự do
Trước tình trạng bất ổn tại A Phú Hãn, vào tháng 11/2006, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (HĐBA/LHQ) cảnh cáo là A Phú hãn có thể trở thành một quốc gia không thành công (The unsuccessful State), vì chính quyền không kiểm soát được phần lớn lãnh thổ. Lý do: các tệ nạn bạo hành, sản xuất thuốc phiện bất hợp pháp, cơ cấu chính quyền yếu đuối, khủng bố bằng bom tự sát, tấn công vào cơ sở công cộng và gài mìn bẫy trên các trục lộ giao thông v.v…. Năm 2006, A Phú Hãn bị xếp vào hàng thứ 10 các quốc gia không thành công.
3- Vấn đề Lực-lượng Yểm-trợ An-ninh Quốc-tế “ISAF” (International Security Assistance Force)
Giai đoạn đầu của cuộc chiến chỉ có quân đội Mỹ và Anh quốc. Đến ngày 20.12.2001 thì Lực-lượng Yểm-trợ An-ninh Quốc-tế được HĐBA/LHQ thành lập qua QĐ số 1386. Thời kỳ đầu Lực-lượng đồn trú chung quanh Thủ-đô Kabul. Nhưng qua năm 2003 ISAF mở rộng hoạt động tới miền Bắc, năm 2005 miền Tây và năm 2006 miền Đông. Ngày nay coi như ISAF lãnh trách nhiệm bảo vệ an ninh toàn quốc với quân số 37.000 lính từ 37 quốc gia. Mục tiêu của Lực-lượng Yểm-trợ An-ninh Quốc-tế là vãn hồi hòa bình, trợ giúp tái thiết và phát triển đất nước. Sự hiện diện của quân đội Mỹ và Đồng Minh trong thời gian đầu nhằm đánh đuổi Taliban và Al-Qaeda không gây hận thù trong lòng người dân A Phú Hãn. Nhưng với thời gian, cuộc chiến kéo dài và nhiều người dân bị chết oan do phi pháo bắn lầm hoặc qua các cuộc hành quân tảo thanh. Có thể nói những vụ gây nên chết chóc, như vụ “Mỹ Lai” của Việt Nam, đã xẩy ra. Vụ mới nhất xẩy ra vào thượng tuần tháng 9/2009, khi Taliban phục kích cướp được 2 xe chở dầu xăng tiếp tế cho NATO từ Tajikistan tới Afghanistan. Để giải thoát, người chỉ huy quân sự của quân đội Đức đã kêu phi cơ Đồng Minh tấn công toán Taliban. Cuộc oanh kích phá hủy 2 xe xăng gần khu dân cư gây cho hơn 90 người dân tử thương và bị thương. Chính phủ A Phú Hãn, NATO, đặc biệt Đức-quốc đã phàn nàn và xin lỗi.
4- Tổn thất nhân mạng
Tính tới ngày 4.9.2009, tổng cộng có 1.297 binh sĩ Đồng Minh tử trận tại A Phú Hãn gồm: USA: 746, UK: 211, Gia Na Đại: 128, Đức: 38, Pháp: 31, Đan Mạch: 26, Tây Ban Nha: 25, Hòa Lan: 21, Ý: 15, Úc: 11, Romania: 11, Ba Lan: 10, Estonia: 6, Na-uy: 4, Tiệp Khắc: 3, Latvia: 3, Hung Gia Lợi: 2, Bồ Đào Nha: 2, Nam Hàn: 2, Thụy Điển: 2, Thổ Nhĩ Kỳ: 2, Bỉ: 1, Phần Lan: 1, Lithuania: 1.
5- Tốn phí về chiến tranh
Ngày 17.2.2009, TT. Barack Obama quyết định gửi thêm 17.000 lính tới A Phú Hãn, không kể 36.000 binh sị Mỹ đã có mặt tại đây, nhằm mở các cuộc hành quân tiêu diệt và đẩy lui Taliban và Al-Qaeda ra khỏi các vùng dân cư ở phía Nam. Sau 8 năm tham chiến, Hoa Kỳ đã tiêu hết khoảng 220 tỷ Mỹ-kim (MK) cho chiến trường A Phú Hãn. Mỗi tháng tốn khoảng 4 tỷ MK. Nếu cuộc chiến kéo dài mãi thì gánh nặng chiến tranh sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng xã hội và kinh tế của Hoa Kỳ. Dù thêm quân và tốn phí ngày càng cao; nhưng quân đội Mỹ và Đồng Minh vẫn không hoàn toàn tiêu diệt được nhóm tàn quân Taliban và Al-Qaeda.
IV- Taleban vẫn chưa thua
Với quân số còn lại khoảng từ 10.000 tới 15.000 mà Taliban vẫn có khả năng làm cho quân đội NATO và quân đội của A Phú Hãn mất ăn mất ngủ. Trong tuần đầu của tháng 9/2009, Taliban đã gia tăng các hoạt động tấn công quân đội Đồng Minh và cơ sở của chính quyền A Phú Hãn. Hành động này nhằm khủng bố tinh thần cử tri đi bầu trong cuộc tranh cử Tổng-thống năm 2009. Khi đặc sứ của LHQ, Richard Holbrooke, tới Thủ-đô A Phú Hãn thì Taliban và Al-Qaeda đã tung một loạt các cuộc tấn công vào dinh thự của chính quyền tại Thủ-đô, gây cho 26 người chết. Ngày 1/9/2009, một xe chở bom tự sát đã vượt qua ba lớp bảo vệ an ninh lao vào cổng chính phi trường Kabul gây cho 3 thường dân chết và 6 bị thương. Cùng thời gian này, phát ngôn viên của Lực-lượng Mỹ, Đại-úy Elizabeth Mathias, cho biết có 4 binh sĩ Mỹ bị quân Taleban phục kích giết chết tại tỉnh Kunar. Ngày 6.9.2009, Taliban cũng tấn công Bộ chỉ huy của quân đội NATO bằng xe chở bom tự sát. Cuộc tấn công gây cho 7 người chết và 91 bị thương. Anthony Cordesman, chuyên gia về quân sự cho biết Taliban đã mở rộng vùng ảnh hưởng, từ 30 khu vực trong năm 2003 lên tới 160 thành phố tính tới cuối năm 2008.
Hoa Kỳ và Đồng Minh tham chiến thường dựa vào nguyên tắc tiếp liệu chuyên nghiệp, trong khi đó Taliban chỉ cần áp dụng các chiến thuật có vẻ tài tử, nhưng lắm lúc làm cho quân đội Mỹ phải điêu đứng. Trong cuộc phục kích và tấn công lần thứ ba trong tháng này vào các đoàn quân xa tiếp liệu cho quân đội Mỹ và Đồng Minh trên tuyến đường ở phía Tây-Bắc Hồi Quốc, quân Taliban đã phá huỷ 150 xe Humvees và các quân xa khác của NATO. Humvees giá chưa trang bị vũ khí khoảng 85.000 MK một chiếc và 140.000 MK khi trang bị đầy đủ. Humvees là loại xe zeep lớn đa dụng, trên nóc có thể đặt đại liên, hỏa tiễn TOW chống xe thiết giáp, kể cả hỏa tiễn Địa đối Không chống phi cơ. Mỗi ngày có khoảng 350 xe chở đồ tiếp tế cho quân đội Mỹ và Đồng Minh tại A Phú Hãn. Đèo và đường hầm Khyber là địa điểm nguy hiểm nhất đối với quân đội Đồng Minh. Tại nơi đây, hơn một thế kỷ qua, quân A Phú Hãn đã đánh tan đạo quân của Thực-dân Anh Quốc và giết hơn 160.000 lính Anh. Quân đội Sô-viết cũng đã bỏ mạng tại A Phú Hãn hơn 15.000 lính.
V- Biện pháp giải quyết của Hoa Kỳ và Đồng Minh
Ngoài các vũ khí tối tân trang bị cho Lục-quân, Không-quân Mỹ cũng tham chiến với các phi cơ phóng hỏa tiễn không người lái có tên là “Predator và Reaper Drones”. Phi cơ này có đặc tính là hoạt động lâu 20 giờ trên không, bay với độ cao 15.000 feets, không phát ra tiếng động ồn ào, nên có thể xuất hiện bất ngờ và phóng hỏa tiễn vào mục tiêu mà địch thủ không phát giác trước được. Taliban cố tìm cách chống trả loại phi cơ này bằng kỹ thuật điện tử và bằng súng phòng không, pháo kích vào các phi trường; nhưng không đạt được hiệu quả quan trọng. Cuối cùng chúng phải dùng dân làm bia đỡ đạn. Có nghĩa Taliban, hình như học theo chiến thuật của Việt Cộng và Saddam Hussein, sống trà trộn vào dân chúng. Khi phi cơ Predator phóng hỏa tiễn vào mục tiêu phát ra tiếng súng thì Taliban hay Al-Qaeda chết một, dân chết mười. Thế là những vụ “Mỹ Lai” Việt Nam lại xẩy ra và thế giới, thay vì lên án quân khủng bố dùng dân làm bia đỡ đạn, lại quay chống quân đội Mỹ và Đồng Minh! Từ con số 100 phi cơ Predator vào năm 2000, ngày nay quân đội Mỹ đã được trang bị tới 7.000 chiếc. Phi cơ Predator cũng được dùng trong chương trình chống các tổ chức buôn bán thuốc phiện, cocaine, heroin, marijuana, coke và methamphetamine. Mỗi chiếc Predator hay Heron giá khoảng 6,5 triệu MK, do hãng Stark Aerospace của Mỹ với sự trợ giúp của Kỹ-nghệ Máy-bay Do Thái “IAI” (Israel Aircraft Industries).
Tuy vậy, theo các nhà bình luận thời cuộc thì giải pháp hòa bình cho A Phú Hãn không phải chỉ dựa vào sức mạnh quân sự của Đồng Minh, mà cần giải quyết sự xung đột giữa Ấn Độ và Hồi Quốc, hai quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình A Phú Hãn. Hồi Quốc ủng hộ nhóm Taliban ở phía Nam trong thập niên 1980 và là quốc gia đầu tiên công nhận nhà cầm quyền Taliban, khi nhóm này chiếm được Thủ-đô Kabul vào năm 1994. Ấn Độ yểm trợ cho Liên Minh miền Bắc (Northern Alliance) A Phú Hãn. Tổng-thống hiện nay của A Phú Hãn, Hamid Karzai, du học Ấn Độ và ưu tiên cho chính phủ Ấn Độ đầu tư vào các công trình tái thiết hàng triệu Mỹ-kim tại A Phú Hãn. Hiện Ấn Độ và Hồi Quốc vẫn còn xung đột về sự tự trị của vùng Kashmir từ năm 1947, nơi đa số dân theo đạo Islam muốn sát nhập vùng đất này vào lãnh thổ của Hồi Quốc. Vụ tấn công tòa đại sứ Ấn Độ tại Thủ-đô Kabul gây cho 61 người chết có bàn tay của tình báo Hồi Quốc nhúng vào là một bằng chứng chứng minh cuộc tranh dành ảnh hưởng tại A Phú hãn giữa Ấn và Hồi còn căng thẳng. Do đó, chỉ khi nào lấy được vùng Kashmir, nhận được trợ giúp của Hoa Kỳ cả về tài chính lẫn thương mại thì Hồi Quốc may ra sẽ không ủng hộ Taliban. Lúc đó tình hình A Phú Hãn mới ổn định.
VI- Chống khủng bố hay nuôi khủng bố?
Tính tới ngày 14.8.2009, có 782 lính Mỹ bị giết, không kể tốn phí chiến tranh 4 tỷ MK một tháng. Bao giờ quân đội Mỹ rút khỏi A Phú Hãn đối với Bộ-trưởng Quốc-phòng Robert Gates thì vẫn còn nằm trong kế hoạch bí mật. Không thắng được Taliban chính phủ Mỹ lại dùng chính sách “Cây gậy và củ cà-rốt”. Theo Phó Tổng-thống Mỹ, Joe Biden, thì khoảng 5% chiến đấu quân Taliban không thể cải hóa được (incorrigible) sẽ bị đánh bại, 70% chiến đấu chỉ vì tiền và số còn lại 25% vừa trung thành với Taliban vừa vì tiền bạc. Như vậy Hoa Kỳ chỉ cần chi cho mỗi quân Taliban 20 MK một ngày, tức cao gấp đôi lợi tức hiện tại của họ, thì chấm dứt được cuộc chiến đấu chống Mỹ và Đồng Minh.
Như vậy chính phủ Mỹ chỉ tốn 300.000 MK một ngày, so với tốn phí cho chiến trường 133.000.000 MK một ngày do tiền thuế của dân đóng góp. Phí tổn hàng tháng nếu bỏ ra mua đứt nhóm Taliban lên tới khoảng 9 triệu MK, còn thấp hơn giá mua một chiếc Trực-thăng chiến đấu AH-64 (Apache Helicopter).
Theo John McCreary, nhà phân tích tình báo của Ngũ Giác Đài (Pentagon), viết trong Blog “Night Watch” của ông thì “Nếu Taliban có thể mua được chiến binh, thì Hoa Kỳ có khả năng cao hơn Taliban về vấn đề này”. Lập luận này của McCreary dựa trên sự kiện tương tự đã xẩy ra tại Iraq. Quân đội Mỹ chi 300 MK một tháng cho 100.000 loạn quân Muslim hệ phái Sunni của Saddam Hussein, để họ chấm dứt chiến đấu chống Mỹ. Như vậy mỗi ngày chính phủ Mỹ chỉ tốn khoảng 1.000.000 MK, phí tổn bằng giá một chiến xa bảo vệ mìn và phục kích “MRAP” của quân đội Mỹ, thì tại sao không thay đổi chiến lược? Hoa Kỳ đã gửi hơn 10.000 loại chiến xa này tới chiến trường Iraq và A Phú Hãn.
Nhận định
-Bao giờ Hoa Kỳ và Đồng Minh tháo chạy?
Theo sự suy luận của chúng tôi thì Hoa Kỳ và Đồng Minh chưa bỏ A Phú Hãn cũng còn một lý do khá quan trọng: đó là lợi tức về bạch phiến. Nói tới thuốc phiện hay nha phiến (opium) và bạch phiến (heroin) là một trong các nguyên nhân kéo dài sự hiện diện của quân đội Mỹ và Đồng-minh Tây-phương trong khối NATO tại A Phú Hãn nghe qua có vẻ vô lý. Nhưng sự thật là thế.
A Phú Hãn hiện là đối thủ cạnh tranh với các quốc gia Úc, Pháp, Ấn Độ, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ trong việc xuất cảng thuốc phiện hợp pháp (licit opiates) trên thị trường Thế-giới. Nói tới thuốc phiện hay bạch phiến, thông thường người ta nghĩ ngay tới những người nghiện ngập sì-ke, ma-túy v.v… Nhưng ngoài việc dùng bạch phiến như một tệ nạn xã hội, bạch phiến, loại bột trắng, có công dụng rất lớn trong ngành y dược và bệnh viện mà chúng ta thường biết là Morphine, thuốc giảm đau hay gây tê mê. Giá sản xuất 1kg Morphine vào năm 1999 tại Úc (Autralia) là 56 MK; tại Ấn Độ (India): 159,77 MK và tại Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey): 250 MK. Ngày nay giá sản xuất 1kg Morphine tại A Phú Hãn lên tới trên dưới 450 MK. Giá thuốc phiện (opium) hợp pháp ở Ấn Độ vào năm 2000, 1kg: 13-29 MK; bất hợp pháp: 155-206 MK.
Đối với Hoa Kỳ và Đồng-minh Tây-phương nhờ thuốc phiện mới có nguồn cung cấp đầy đủ Morphine cho ngành y dược và bệnh viện, khi mua lại toàn bộ số lượng thuốc phiện tại A Phú Hãn. Nếu nói dầu hỏa của Iraq đem lại lợi ích lớn lao cho nền kinh tế Mỹ, thì thuốc phiện cũng có thể nói là nguồn lợi lớn lao về lãnh vực y dược cho cả Hoa Kỳ và Đồng-minh Tây-phương. Nhận định của chúng tôi dựa trên tin tức của Tổ-chức Y-tế Thế-giới (The World Health Organization). WHO cho biết sự thiếu thốn cấp thời thuốc men từ nguồn gốc thuốc phiện trên thế giới (an acute global shortage of poppy-based medicines) hiện nay là Morphine và Codeine, hai loại thuốc an thần và làm giảm đau. Sự thiếu hụt một phần do qui định năm 1961 của Ủy-ban Kiểm-soát Narcotics Thế-giới (The International Narcotics Control Board) dành 77% thuốc phiện cung cấp cho thế-giới, trong đó chỉ có 6 quốc gia được sử dụng; các quốc gia còn lại bị thiếu hụt trầm trọng Morphine và Codeine.
Theo Văn-phòng Dược-phẩm và Tội-phạm của Liên Hiệp Quốc (United States Office On Drugs and Cirmes) “UNODC”, A Phú Hãn sản xuất vào năm 2007 khoảng 8.200 tấn khối, tức 88% thuốc phiện của thế-giới, trên một diện tích khoảng 1.600 km2. Nếu đổi 8.200 tấn khối ra kilogram khối (kg) rồi nhân với giá trung bình 20MK/1kg thì số tiền sẽ khổng lồ, có thể bù đắp một phần lớn kinh phí chiến tranh của quân đội Mỹ tại A Phú Hãn.
Như vậy, làm chủ được thị trường thuốc phiện A Phú Hãn cũng có nghĩa là cô lập nguồn tài chính của cả Taliban và Al-Qaeda.
Qua sự kiện nuôi khủng bố tại Iraq và dự tính có thể nuôi khủng bố Taliban và Al-Qaeda tại A Phú Hãn để có hòa bình, người ta thấy đúng là sự tính toán của một đế quốc nhà giầu đầu tư vào chiến trường.
Có lẽ cũng với bài tính như vậy mà Hoa Kỳ đã thất bại trong chiến tranh Việt Nam, khi nghĩ tới phí tổn viện trợ cho VNCH. Đúng là Mỹ giầu mạnh, nhưng khờ. Mục tiêu của Taliban hay Al-Qaeda là bành trướng đạo Islam khắp thế giới bằng bạo lực, chứ không theo chiến thuật “tằm ăn dâu”. Trong tiến trình bành trướng này, Hoa Kỳ, dưới con mắt của Al-Qaeda là đạo quân Thập Tự Giá lớn nhất làm trở ngại, nên cần khủng bố. Không có hệ thống tự do, dân chủ và nam nữ bình quyền trong các chế độ cai trị dân bằng luật Shia của đạo Islam.
Nếu nuôi khủng bố như vậy có làm giảm số lượng quân khủng bố không, hay người ta lại phải đối đầu với một lực lượng khủng bố ngày càng đông hơn?
Và khi yêu cầu về tiền bạc của quân khủng bố không được thỏa mãn thì chiến tranh lại xẩy ra?
Nhiều nhà quân sự cho rằng không thể thắng tại chiến trường A Phú Hãn và Lực lượng an-ninh của A Phú Hãn, dù gia tăng gấp hai lần, cũng không hy vọng bảo đảm được tình hình yên ổn hoặc đủ sức chống lại quân Taliban, sau khi quân đội NATO rút khỏi nơi đây.
Trong dịp trình bày trước cuộc họp của NATO ngày 27.7.2009, Bộ-trưởng Anh quốc, David Miliband, tuyên bố chính quyền A Phú Hãn cần tách biệt những ai trung thành với Taliban, bạo hành, không cải hóa được và những ai có thể đưa vào hệ thống chính trị nước nhà, để giảm bớt tiềm lực của Taliban và Al-Qaeda. Quan niệm này được Richard Holbrooke, đặc sứ Liên Hiệp Quốc tại A Phú Hãn, tán đồng và phát biểu trong cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC: những ai đang chiến đấu trong hàng ngũ Taliban và Al-Qaeda chịu buông súng và tham gia vào đời sống chính trị của đất nước thì vẫn có chỗ cho họ.
Lịch sử tái diễn. Lại kế hoạch “Hòa hợp hòa giải” và “A Phú Hãn hóa chiến tranh” được đề ra!
Phải chăng Hoa Kỳ đang tìm đường tháo chạy khỏi A Phú Hãn, như ở miền Nam Việt Nam?
Phải chăng số phận của chính quyền Hamid Karzai hay một Tổng-thống nào khác kế nhiệm cũng sẽ rơi vào hoàn cảnh của Việt Nam Cộng Hòa?
Nghi vấn lịch sử: Phải Chăng phi Đoàn Bắc Tiến của Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã oanh tac trúng Nhà Thờ Tam Tòa?
Nghi vấn lịch sử: Phải Chăng phi Đoàn Bắc Tiến của Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã oanh tac trúng Nhà Thờ Tam Tòa?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Trong Nguyệt san Dân Chúa Âu Châu tháng 9/2009, chúng tôi đã đề cập tới một số nguồn tin khác nhau về biến cố Nhà Thờ Tam Tòa tại Quảng Bình (Vinh) bị Việt Cộng đặt bom giật sập hay bị bom Mỹ tàn phá. Hai nguồn tin khác nhau về thời điểm Nhà Thờ Tam Tòa bị phá hủy vào năm 1965 và 1968 khiến chúng tôi phân vân và tiếp tục đi tìm sự giải thích có thể chấp nhận được. Từ đó chúng ta có cái nhìn khách quan về lịch sử, không đổ tội cho ai khi chưa chứng minh được các bằng chứng. ( Xem: Biến Động Miền Trung tháng 9/2009)
Sau nhiều ngày cố tâm nghiên cứu báo chí, sách vở và tài liệu trên hệ thống Internet, chúng tôi lại tìm được những nguồn tin khác, trực tiếp hay gián tiếp, có liên quan tới sự sụp đổ của Nhà Thờ Tam Tòa.
Chúng tôi phân tích 2 thời điểm khác nhau:
A-Thời điểm năm 1965
Năm 1965, dưới thời Thủ-tuớng Nguyễn Khánh, chiến dịch tấn công miền Bắc Việt Nam được gọi là Bắc Tiến đã được chuẩn bị. Thời Báo ``TIME´´ của Mỹ ngày 31.7.1964 có bài viết với tựa đề: ``Miền Nam Việt Nam: Bắc tiến?´´ (South Vietnam: To the North?) đề cập tới tình hình chính trị tại miền Nam VN có đoạn như sau:
``Thủ-tướng miền Nam Nguyễn Khánh, không đúng hẳn là thằng phỗng của Hoa Kỳ, chắc chắn là một lãnh tụ mà Hoa Kỳ tỏ ra tín nhiệm nhất, và là người Hoa Kỳ kỳ vọng cao nhất. Tuần trước, Khánh tiến hành chính sách của Mỹ qua sự phát biểu rằng, thực tế chiến tranh chống Cộng-sản không thể thắng nếu chỉ giới hạn tại miền Nam, quyết định duy nhất là tiến công ra miền Bắc VN’’
(South Viet Nam: To the North? South Viet Nam's Premier Nguyen Khanh, not exactly an American puppet, certainly is the Vietnamese leader in whom the U.S. has shown its greatest confidence, and in whom it has placed its highest hopes. Last week, Khanh moved well ahead of official U.S. policy by saying, in effect, that the war against the Reds cannot be won so long as it is restricted to the south, that the only solution is to move against North Viet Nam).
Đưa ra một bằng chứng thiết thực trên, chúng tôi muốn chứng minh việc Không Quân VNCH (KQ/VNCH) oanh tạc miền Bắc là có thật và thời điểm Nhà Thờ Tam Tòa bị phá sập vào năm 1965 có thể tin tưởng được. Còn vấn đề Nhà Thờ Tam Tòa bị phá hủy do Việt Cộng, do bom Mỹ hay bom của KQ/VNCH thì chúng ta cần nhận xét một cách khách quan qua các chứng tích lịch sử.
I-Nguồn tin từ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa
Sự thực, kế hoạch dùng Không-quân đánh phá Bắc Việt không phải là ý định đầu tiên của các tướng lãnh Hoa Kỳ, mà từ nhiều tháng trước đó, Thủ-tướng Nguyễn Khánh và Chuẩn-tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư-lệnh Không-quân, đã đưa ra chiến dịch “Lấp sông Bến Hải, Bắc Tiến”. Chiến dịch này được xác định qua tài liệu dưới đây:
a)-Hồi-ký của Không-quân Trần Đình Giao De Couteau
Qua tựa đề: ``Những Phi-vụ Bắc phạt của Không Quân Việt Nam´´ tác giả đã kể lại:
* Thân tặng: -Những anh em Kiểm báo đã làm việc với tôi tại Trung Tâm Kiểm Báo 41 PANAMA CONTROL trong những năm 1964- 1965 và 1969 tại Đà Nẵng.
* Đồng kính tặng: - Đại Tá Dương Thiệu Hùng, cựu Tư Lệnh Không-đoàn 41 (KĐ 41), người đã hướng dẫn 6 phi tuần khu trục A1H oanh kích những vị trí quân cộng sản Bắc việt tại Đồng Hới ngày 28-2-1965, bị phòng không địch bắn trúng nhưng đã can đảm lái tầu về tới ngoài khơi vịnh Đà Nẵng, nhảy dù an toàn và được cứu cấp đưa về căn cứ. - Tưởng niệm anh hùng phi công, cố Trung Tá Phạm Phú Quốc, Tư Lệnh Không Đoàn 23 Chiến-thuật (KĐ 23 CT), đã anh dũng đền nợ nước trong phi vụ oanh tạc căn cứ quân cộng sản Bắc việt tại Hà Tĩnh ngày 19-4-1965.
… Đầu năm 1965, tình hình quân sự trở nên sôi động. Cộng sản Bắc việt đưa nhiều sư đoàn chính qui xâm nhập Quân Khu 2 và Quân Khu 1. Ngày 1-2-65, chúng tấn công căn cứ Pleiku phá hủy một số trực thăng của Hoa Kỳ, và đặt chất nổ phá hoại Câu Lạc Bộ (CLB) Hạ-sĩ quan Mỹ ở Qui Nhơn, đồng thời pháo kích doanh trại quân đội Hoa Kỳ và VNCH ở Phước Tường gần căn cứ KQ Đà Nẵng.
Để trả đũa và cảnh cáo CS Bắc Việt, Hoa Kỳ cho nới rộng mục tiêu oanh tạc miền Bắc từ vĩ tuyến 17 cho đến vĩ tuyến 19. Từng đoàn khu trục F-100 và F-105 liên tục oanh tạc những vị trí địch từ Vĩnh Linh tới Đồng Hới, Hà Tĩnh. Không Quân VNCH cũng khởi sự tham gia những phi vụ Bắc phạt từ tháng 2-1965.
1-Phi vụ Bắc Phạt đầu tiên ngày 5-2-65, dưới sự chỉ huy dẫn đầu bởi Chuẩn-Tướng Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ…
Chúng tôi nghe anh em bên Không Đoàn kể lại: sau khi đáp, bước xuống parking, Tướng Kỳ đã được Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 đích thân tới dưới cánh phi cơ đón và hai ông tướng đã "hug" nhau trong khi mọi người vỗ tay chào mừng dưới ống kính quay phim của đài truyền hình và máy ảnh của các phóng viên. Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tuyên bố đặc biệt ân thưởng mỗi hoa tiêu tham dự phi vụ hành quân Bắc phạt Anh Dũng Bội tinh với nhành Dương liễu, các sĩ quan yểm trợ hành quân được tưởng thưởng ADBT với ngôi sao bạc, những quân nhân bảo trì phi cơ và vũ khí được tưởng thưởng ADBT với ngôi sao đồng. Thiếu Tướng TLQĐ còn ra lệnh cho trưng dụng nhà hàng Bạch Đằng ngoài bờ sông Hàn đêm nay hoàn toàn dành cho Không quân mở tiệc liên hoan.
Các phi vụ Bắc phạt của Không Quân VN cứ tiếp diễn song song với những cuộc oanh kích hàng ngày của Không lực, TQLC và hải quân Mỹ theo nhịp độ mỗi tuần một lần, cho đến khi các mục tiêu oanh tạc được nới ra tới vĩ tuyến 19.
2-Phi vụ Bắc Phạt ngày 28-2-65.
Lúc 2PM, Thiếu-Tá Dương Thiệu Hùng, TLKĐ 41 đích thân chỉ huy 6 phi tuần khu trục bay ra oanh kích những mục tiêu địch ngoài tỉnh Đồng Hới cách Đà nẵng khoảng 1 tiếng 15 phút bay. Đặc biệt phi vụ này có sự tham gia của phi cơ khu trục Không Đoàn 62 trên Pleiku do Trung Tá Tư Lệnh KĐ Trần Văn Minh hưỡng dẫn ra Đà Nẵng tham dự cuộc hành quân Bắc phạt.
Vì giới hạn mục tiêu oanh tạc đã được Mỹ công bố trước (từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 19) nên cộng sản Bắc Việt đã có đủ thời giờ di tản các đơn vị tiếp liệu, hậu cần, các kho dự trữ về những vùng ngoài vĩ tuyến 20, và chỉ để lại những đơn vị phòng không được bố trí và che dấu khéo léo, nên đã gây thiệt hại cho phi cơ của Không quân Mỹ và KQVNCH không ít.
Trong một phi vụ oanh tạc Vĩnh Linh, chiếc A1 do Thiếu úy Nguyễn Đình Quý (khóa 61) bị bắn rơi đã crashed ngay trên DMZ bên bờ sông Bến Hải. Thiếu úy Nguyễn Quốc Đạt (khóa 63A) bị trúng đạn nhảy dù ra bị địch bắt sống làm tù binh. Phi vụ lần này gồm 3 phi tuần A1H của KĐ 62 Pleiku và 3 phi tuần A1H của Phi đoàn 516 (Phi Hổ) do Tr/ úy Ôn Văn Tài hướng dẫn, tổng cộng là 18 phi cơ, mục tiêu oanh tạc là Đồng Hới.
3-Phi vụ Bắc Phạt ngày 19-4-65, oanh tạc Hà Tĩnh.
Phi vụ này được chỉ huy và hướng dẫn bởi Trung Tá Phạm Phú Quốc, Tư Lệnh Không Đoàn 23 CT Biên Hòa với 6 phi tuần A1H và A1G.
Mục tiêu: kho đạn và kho tiếp liệu của quân Bắc Việt ở tỉnh Hà Tĩnh. Các phi tuần của KQ/VNCH (18 phi cơ) cất cánh lúc 1 PM, danh hiệu là "Tiger Red". Danh hiệu của Trung Tá Quốc là "Tiger Red 1". Panama đã hướng dẫn Tiger Red tới mục tiêu oanh tạc và trở về gần như an toàn, mặc dù gặp phải hỏa lực phòng không địch bắn lên dữ dội. Khi các phi tuần bay trở về đến gần đảo HÒN CỌP (Tiger island), một hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi phía bắc DMZ lối 5 miles, thì bỗng thấy Tiger Red-1 báo cáo thấy có súng dưới đất bắn lên. Một lát sau, Panama nghe Tiger Red 2 báo cáo: "Tiger Red-1 bị bắn rớt rồi và đã crashed xuống đất gần bãi biển!" Khoảng 3 PM, Tr/úy Hoạt ASOC 1 gọi Panama cho biết: "Lệnh của Ch/Tướng Tư Lệnh KQ là bằng mọi cách phải rescue Tr/Tá Quốc cho bằng được!"
Tổng kết những phi vụ Bắc Phạt của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta đã tổn thất: 7 phi cơ A1H và A1G bị bắn hạ và 7 anh hùng phi công đã anh dũng đền nợ nước:
Trung Tá Phạm Phú Quốc, Trung Úy Vũ Khắc Huề, Trung Úy Nguyễn Tấn Sĩ, Trung Úy Nguyễn Hữu Chẩn, Thiếu Úy Nguyễn Đình Quý, Thiếu Úy Nguyễn Thế Tế, Thiếu Úy Nguyễn Quốc Đạt (bị bắt làm tù binh sau khi nhảy dù). Tổ Quốc ghi ơn các anh.
Nhận định 1
Theo lời kể của KQ Trần Đình Giao ở trên, chúng ta nhận thấy Đồng Hới đã bị phi cơ của Không Quân VN, dưới thời Nguyễn Cao Kỳ làm Tư-lệnh, oanh tạc 2 lần vào ngày 28.2.1965.
-Lúc 2PM, Thiếu-Tá Dương Thiệu Hùng, TLKĐ 41 đích thân chỉ huy 6 phi tuần khu trục bay ra oanh kích những mục tiêu địch ngoài tỉnh Đồng Hới cách Đà nẵng khoảng 1 tiếng 15 phút bay.
-Trong một phi vụ oanh tạc Vĩnh Linh, chiếc A1 do Thiếu úy Nguyễn Đình Quý (khóa 61) bị bắn rơi đã crashed ngay trên DMZ(5)bên bờ sông Bến Hải. Thiếu úy Nguyễn Quốc Đạt (khóa 63A) bị trúng đạn nhảy dù ra bị địch bắt sống làm tù binh. Phi vụ lần này gồm 3 phi tuần A1H của KĐ 62 Pleiku và 3 phi tuần A1H của Phi đoàn 516 (Phi Hổ) do Tr/ úy Ôn Văn Tài hướng dẫn, tổng cộng là 18 phi cơ, mục tiêu oanh tạc là Đồng Hới. Trong các cuộc oanh tạc này có cả Không Quân Mỹ.
Như vậy, người ta có thể phân vân tự hỏi: Biết đâu Nhà Thờ Tam Tòa bị sập vào thời gian này?
b)-1965-[Rolling Thunder] VNCH oanh kích căn cứ Cộng Quân ở Bắc vĩ tuyến 17
Tư Lệnh Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, Trận Chiến Oanh Kích Cộng Sản Bắc Việt
Vương Hồng Anh. Việt Báo Thứ Bảy, 6/30/2001, 12:00:00 AM
Từ đầu năm 1965, CSBV đã tung thêm nhiều đơn vị vượt vĩ tuyến 17 xâm nhập vào miền Nam, gia tăng các cuộc tấn công vào vị trí phòng ngự của các đơn vị VNCH. Để triệt hạ các căn cứ tiếp vận của CSBV tại phía Bắc vĩ tuyến 17, những nơi đã cung cấp quân dụng, vũ khí cho CQ tại miền Nam, từ tháng 2 đến tháng 4/1965, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Không quân Việt Nam Cộng Hòa đã phối hợp với Không quân Hoa Kỳ tiến hành nhiều cuộc oanh kích một số căn cứ trọng điểm của địch quân từ Vĩnh Linh đến Thanh Hóa. Sau đây là phần lược trình một số cuộc oanh kích của Không lực VNCH và Hoa Kỳ diễn ra trong thời gian nói trên. Phần này được biên soạn dựa theo bản tin chiến sự được bộ Tổng tham mưu QLVNCH và bộ chỉ huy Yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ phổ biến cho báo chí, hồi ký của đại tướng Westmoreland (nhà xuất bản Sự Thật) và tài liệu Việc Từng Ngày của nhà nghiên cứu Đoàn Thêm.
Tướng Nguyễn Cao Kỳ và các trận oanh kích thượng tuần tháng 2/1965 gồm:
Ngày 8 tháng 2 năm 1965, Không quân VNCH khởi động cuộc oanh kích đầu tiên với một lực lượng gồm 24 khu trục cơ, do Tư lệnh Không quân VNCH lúc bấy giờ là Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ tổng chỉ huy. Lực lượng khu trục cơ của Không quân VNCH cùng với một số phi cơ của Hoa Kỳ đã oanh kích các căn cứ CSBV tại Vĩnh Linh (ở phía Bắc vĩ tuyến 17 thuộc địa hạt tỉnh Quảng Trị). Một số phi cơ trúng đạn nhưng đều trở về Đà Nẵng, 1 phi cơ bị hư hại, phi công vô sự. Phi cơ của Thiếu tướng Kỳ bị trúng 4 viên đạn, 1 viên xuyên qua nách quân phục phi hành của ông.
Ngày hôm sau, 9 tháng 2, các phi công VNCH tham dự cuộc oanh tạc Vĩnh Linh đã được chính phủ tiếp đón nồng nhiệt tại phi trường Tân Sơn Nhất. Quyền Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh (tạm thay Thủ tướng Trần Văn Hương bị Hội đồng Quân lực giải nhiệm), Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng, và một số tướng lãnh, đại diện các đoàn thể đã tham dự buổi tiếp đón này.
Ba ngày sau, 11 tháng 2/1965, hai phi đội Không lực VNCH oanh kích dội 50 tấn bom vào các căn cứ của CSBV tại đồi 83 bên sông Rào Quang và Quan Tây, cách Bến Hải 15 cây số về phía Bắc, Trung tá Phạm Phú Quốc trực tiếp chỉ huy phi đội 1.
Tính chung các cuộc không tập xuống vùng Chấp Lễ vẫn diễn ra trong vòng 24 giờ đồng hồ do Không quân Không quân VNCH và Hoa Kỳ thực hiện, và xuống vùng Đồng Hới do phi cơ của Hải quân Hoa Kỳ phụ trách.
Trong tháng 3 và tháng 4/1975, KQ/VNCH do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ tổng chỉ huy đã tiếp tục thực hiện nhiều cuộc oanh kích vào các căn cứ của CSBV ở phía Bắc vĩ tuyến 17.
-Ngày 2 tháng 3/1965, lúc 15 giờ 45 phút, 5 phi đội gồm 20 phi cơ của Không lực Việt Nam Cộng Hòa đã oanh tạc căn cứ hải quân CSVN tại Quảng Khê, cách Đồng Hới 30 cây số và gây tổn thất nặng cho đối phương. Phi đội 2 do Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó Không quân hướng dẫn, 1 phi cơ bị bắn rớt, phi công nhảy dù xuống biển và được vớt.
-Ngày 14 tháng 3/1965, lúc 14 giờ, 24 phi cơ của Không quân VNCH do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp chỉ huy, đã oanh tạc đảo Hòn Cọp, căn cứ của thủy đoàn CSBV, căn cứ này đã bị phá hủy.
Ngày 21 tháng 3, 26 phi cơ của Không lực VNCH oanh tạc căn cứ Vu Côn cách Bến Hải 25 km về Tây Bắc.
-Ngày 23 tháng 3, tám phi cơ Không lực VNCH oanh tac dọc trên Quốc lộ số 1, từ Bến Hải đến Đồng Hới, phá hủy đài radar Ba Bình cách Bến Hải 15 km về phía Bắc.
-Ngày 31-3/1965, 14 phi cơ Không lực VNCH oanh tạc đài Radar Hà Tĩnh. Cũng trong ngày này hơn 100 phi cơ Việt- Mỹ oanh tạc mật khu Bời Lời, quận Khiêm Hạnh, Tây Ninh, mục đích: thiêu hủy các kho lương thực, đạn dược và các cơ sở trung ương của CSBV tại miền Nam.
Ngày 4 tháng 4, 24 phi cơ VNCH và 12 phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc cầu Đồng Hới, 2 phi cơ bị bắn rớt do cao xạ CSBV.
Ngày 13 tháng 4, 15 phi cơ VNCH oanh tạc Thanh Yên, Đồng Hới, cùng lúc đó, 15 phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc các đài Radar Hòn Mật và Cửa Lò.
-Ngày 14/4, 1 phi đội VNCH bay đêm trên BV lần đầu tiên, oanh kích các đoàn quân xa và rải 3 triệu truyền đơn. Trước đó, cũng trong ngày 14/4, 15 phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc Hòn Mật, tuần thám trên Đồng Hới, Vinh, Thanh Hóa.
Ngày 19 tháng 4, một phi tuần VNCH oanh kích Quốc lộ 1, một phi cơ bị súng cao xạ CSBV bắn rớt gần Hà Tĩnh, phi cơ này do Trung tá Phạm Phú Quốc điều khiển
-Ngày 30 tháng 4, theo Bộ Quốc Phòng Mỹ, từ 7/2 đến 30 tháng 4, các phi cơ Hoa Kỳ đã oanh tạc BV 89 lần, với 2,788 phi xuất, ném 1,380 tấn bom, không kể hàng tấn đạn và rocketts, phá hủy 30 cơ sở quân sự, 127 ổ súng phòng không, 34 cầu, 17 đoàn quân xa, 17 đoàn hỏa xa, 1 căn cứ không quân, 2 căn cứ hải quân, 5 bến phà, 20 đài radar, 33 tiểu đĩnh.
Nhận định 2
Đồng Hới bị KQ/VNCH oanh tạc trong 3 ngày:
-Ngày 23 tháng 3, tám phi cơ Không lực VNCH oanh tac dọc trên Quốc lộ số 1, từ Bến Hải đến Đồng Hới, phá hủy đài radar Ba Bình cách Bến Hải 15 km về phía Bắc. -Ngày 4 tháng 4, 24 phi cơ VNCH và 12 phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc cầu Đồng Hới, 2 phi cơ bị bắn rớt do cao xạ CSBV. -Ngày 13 tháng 4, 15 phi cơ VNCH oanh tạc Thanh Yên, Đồng Hới, cùng lúc đó, 15 phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc các đài Radar Hòn Mật và Cửa Lò. Như vậy người ta cũng có thể thắc mắc: Phải chăng Nhà Thờ Tam Tòa bị phá sập vào thời gian này?
II-Nguồn tin của Mỹ
a)- Tài liệu Website-1
Vì giới hạn của bài viết, chúng tôi chỉ dịch sang tiếng Việt những đoạn văn có liên hệ tới Không-quân VN và địa danh Đồng Hới (Tam Tòa) mà thôi.
``…12 giờ sau khi trái đạn sung cối rơi vào căn cứ Mỹ ở Pleiku ngày 6.2.1965 thì (ngày 7.2.1965) 49 phản lực cơ A-4 Skyhawks và F-8 Crusaders cất cánh từ Hàng Không Mẫu Hạm tiến về phía Bắc Vĩ-tuyến 17 trong cuộc hành quân mang tên Flaming Dart, qua màn mây dầy đặc trên Đồng Hới thả bom và bắn hỏa tiễn vào khu vực huấn luyện du kích và tập dượt. Vì thời tiết xấu trên đất liền, nên phi cơ Nam Việt Nam không tấn công. Nhưng ngày hôm sau, phi đoàn 24 phi cơ Skyraiders của Không-quân VN và phản lực cơ chiến đấu F-100 của Mỹ cất cánh từ Đà Nẵng oanh kích các trung tâm huấn luyện và liên lạc của du kích quân tại Vĩnh Linh và Chấp Lễ ngay trên Vĩ-tuyến 17. Chuẩn tướng Nguyễn Cao Kỳ hướng dẫn cuộc oanh tạc và bị đạn phòng không bắn trầy da. Trở về Đà Nẵng, Kỳ, sáng chói trong bộ đồ bay đen, khăn quàng cổ mầu tím, và mũ phi công mầu trắng vạch da cam, bước xuống từ phòng lái phi cơ tươi cười nói: ``Đây là ngày đẹp nhất đời tôi!’’
Thực tế, theo tường trình sự tàn phá do bom gây ra đối với mục tiêu oanh kích gần 500 tòa nhà; nhưng chỉ có 47 bị phá hủy và 22 bị hư hại. Đó là cuộc biểu diễn mà Bộ-trưởng Quốc-phòng McNamara phê bình.
Ngày 12.2.1965, hơn 100 phi cơ của Hải-quân Mỹ từ các Hàng-không Mẫu-hạm Ranger, Hancock và Coral Sea tấn công Chánh Hoà, một khu vực tiếp tế và huấn luyện gần Đồng Hới. Một thời gian ngắn ngay sau đó, 20 phản lực cơ chiến đấu F-100 của Không-quân Mỹ và 28 phi cơ A-1H Skyraiders của KQVN cất cánh từ Đà Nẵng tiến tới Chấp Lễ nhằm phá hủy các mục tiêu còn sót trong cuộc không kích Faming Dart 1.
Ngày 13.2.1965, TT. Johnson cùng với cố vấn Bundy, Đại-sứ Taylor, Tham-mưu trưởng Liên-quân và Bộ-trưởng Quốc-phòng McNamara quyết định chiến dịch Rolling Thuder oanh tạc Bắc Việt 2 phi vụ một tuần, từ phía Nam Vĩ-tuyến 19.
b)-Tài liệu Website-2:
…Tháng 2/1965, Thủ-tướng Sô-viết Kosygin tới Hà Nội và tuyên bố ủng hộ Bắc Việt cả về kinh tế và quân sự để chống Đế-quốc Mỹ. Mặc dù TT. Kosygin đang thăm Hà Nội, ngày 8.2.1965, chính phủ Mỹ quyết định oanh tạc Bắc Việt, qua cuộc hành quân Flaming Dart I, để trả đũa vụ Việt Cộng tấn công vào cơ sở Mỹ tại Pleiku vào ngày 7.2.1965. Có 49 phản lực cơ của Hải-quân Mỹ oanh tạc các trại lính của Việt Cộng tại Đồng Hới. Kế hoạch tấn công của KQVNCH bị hủy bỏ vì thời tiết xấu.
Nhận định 3
Như vậy, vào ngày 7.2.1965, chỉ có KQ Mỹ oanh tạc Đồng Hới và vì mây mù dầy đặc, các phi cơ đã thả bom và bắn hỏa tiễn vào các mục tiêu quân sự của Việt Cộng theo cách định tọa độ chứ không phải do phi công nhìn thấy mục tiêu. Do đó, bom rơi lung tung và Nhà Thờ Tam Tòa có thể bị bom Mỹ phá sập vào ngày 7.2.1965 hay vào ngày 12.2.1965?
Thời điểm trên cũng trùng hợp với tin tức của Website tỉnh Quảng Bình:
``Ngày 8/2/1965, thất bại trước chiến trường miền Nam, Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Vĩnh Linh bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và chi viện cho chiến trường miền Nam. Để đảm bảo cho chiến đấu, 4,5 vạn người dân Vĩnh Linh (người già, trẻ em) được sơ tán ra miền Bắc. Lực lượng còn lại bám trụ quê hương vừa sản xuất vừa chiến đấu ở cả ba chiến trường (bảo vệ Vĩnh Linh, chi viện cho đảo Cồn Cỏ, chia lửa với bà con Gio Linh, Cam Lộ´´.
KQ/VNCH oanh kích Đồng Hới năm 1965 vào các ngày 28 tháng 2 (18 phi cơ), 23 tháng 3 (8 phi cơ), 4 tháng 4 (24 phi cơ), 13 tháng 4 (15 phi cơ) năm 1965. Tổng cộng có 65 phi cơ oanh tạc Đồng Hới khiến người ta thắc mắc: Phải chăng Nhà Thờ Tam Tòa bị phá sập vào thời gian này?
c)-Tài liệu trên Website-3
Nam Việt Nam tái oanh tạc miền Bắc. Phản lực cơ Mỹ hộ tống cho sự trống trả (S. Vietnam Bombers strike in north again, Author: AAP — Reuters, Source: The Age, Date: 12 Feb 1965 – US Jet escort for reprisal Raid). Sàigòn ngày 11/2 (1965), hôm nay 28 phi cơ chiến đấu bỏ bom được hộ tống bởi 20 phản lực cơ F-100 Mỹ tàn phá các mục tiêu ở Bắc Việt Nam trong cuộc không tập lần thứ ba kể từ Chúa nhật. Mục tiêu là các cơ sở và khu huấn luyện du kích ở phía Bắc Vĩnh Linh. Phi cơ Mỹ tới mục tiêu trước bắn phá các giàn phòng không, sau đó các phi cơ Skyraider tới và phủ bom nổ lên khu vực.
d)-Tài liệu Website-4
Không chiến chống Bắc Việt Nam (The Air War Against North Vietnam, Chapter IV from The United States Air Force in Southeast Asia, 1961-1973, By the United States Air Force, 1984)
-Cuộc khộng tập Bắc Việt Nam lần 1 xẩy ra vào tháng 2/8/1964, khi khu hạm USS Maddox bị tầu Bắc Việt tấn công.
-Cuộc không tập lần 2 mang tên Flaming Dart 1, được Hải-quân Mỹ thực hiện vào ngày 7.2.1965, sau cuộc tấn công căn cứ quân sự Mỹ-Việt tại Pleiky ngày 6.2.1965. Mục tiêu trại lính Chấp Lễ. Phi cơ Mỹ F-100 tấn công hệ thống phòng không của địch, 3 RF-101 cung cấp hình ảnh khu vực.
-Cuộc không tập lần 3 vào ngày 11.2.1965, có tên là Flaming Dart 3 được phi coơ của Hải quân và Không-quân Mỹ cùng KQVN tấn công các trại binh tại Chánh Hoà và Vit Thu Lu để trả đũa việc Việt Công tấn công vào cơ sở Mỹ tại Qui Nhơn giết chết 20 lính Mỹ.
Chiến dịch Rolling Thunder bắt đầu vào ngày 2.3.1965, có 25 F-105, 20 B-57 và phi cơ tiếp xăng trên không KC-135 tấn công kho đạn Bắc Việt tại Xóm Bồng, 15 cây số trên Vĩ-tuyến 17.
B-Thời điểm năm 1968
Theo tác giả R. Ben Madison trong Global War World War II in a box! thì vào mùa Thu năm 1967, TT. Johnson ra lệnh cho Lực-lượng Mỹ tấn công miền Bắc Việt Nam. Thành phố Vinh bị tràn ngập bởi Sư-đoàn 1 Kỵ-binh của Mỹ (First Calvary Division); nhưng Đồng Hới, gần Khu Phi Quân-sự (DMZ) còn cầm cự.
Mùa Xuân 1968, Trung Cộng từ chối can thiệp quân sự vào Bắc Việt, mặc dù Lực-lượng Mỹ chiếm đóng một phần đất nhỏ của Bắc Việt. Tinh thần quân đội Mỹ lên cao. Nhưng giờ thì Hà Nội bị thiệt hại, cuộc tấn công Tết bắt đầu. Các cuộc nổi dậy của VC chủ yếu tại phía Bắc và chung quanh Vịnh Cam Ranh, và bao vây Sư-đoàn 1 Kỵ-binh Mỹ tại Vinh. Các đơn vị Không-quân Mỹ bỏ bom tất cả mục tiêu nhìn thấy; Lực-lượng Đặc-biệt chiếm Đồng Hới, gần Khu Phi Quân-sự; Sư-đoàn 1 Kỵ-binh phá vỡ vòng vây tại Vinh và bắt liên lạc với lực-lượng tại Đồng Hới.
(SPRING, 1968: China refuses to intervene militarily on North Vietnam’s behalf, in spite of the fact US forces occupy a chunk of North Vietnam. US morale surges upward. But now Hanoi goes for broke; the Tet Offensive begins. VC uprisings concentrate in the north and around Cam Ranh Bay, and surround the First Cavalry Division in Vinh. US air units bomb everything in sight; Special Forces take Dong Hoi, near the DMZ; the First Cavalry breaks out of Vinh and links up with our forces in Dong Hoi.)
Nhận định 4
Như vậy, vào mùa Xuân 1968, Sư-đoàn thiện chiến nhất của quân đội Mỹ trong Thế Chiến II đã chiếm đóng thành phố Vinh và Lực-lượng Đặc-biệt của Mỹ chiếm thị xã Đồng Hới. Cuộc giao tranh giữa quân Mỹ và VC có thể đưa tới sự sụp đổ của Nhà Thờ Tam Tòa trong thời gian này. Bom Mỹ rơi trúng Nhà Thờ do thả lầm mục tiêu hay vì VC đặt súng phòng không bên cạnh Nhà Thờ nên bị phi cơ Mỹ bắn phá?
-Mùa Xuân năm 1969
Hoa Kỳ công bố chiến-dịch Phượng-hoàng (Operation Phoenix hay còn gọi là Phoenix Campaign) nhằm ám sát các thủ trưởng VC và tay sai ở miền Nam, khởi đầu ít thành công. Đường hầm của VC gần Sài Gòn được VC tái chiếm, nhưng lại bị Quân-đội VNCH tràn ngập. Cuộc không chiến đầu tiên trong chiến tranh VN đã xẩy ra. Đơn vị phản lực cơ mới MIG-21 của Bắc Việt đã vượt qua các đơn vị Không-quân Mỹ và bỏ bom lực-lượng Mỹ tại Đồng Hới. Cuộc bỏ bom này giúp cho Bắc Việt tấn công vũ bão vào Đồng Hới và tái chiếm thành phố cuối cùng của Việt Nam bị Mỹ chiếm. Sư-đoàn 1 Kỵ-binh Mỹ lại bị thảm bại nặng nề trong cuộc tấn công.
(SPRING, 1969: US declares Operation Phoenix (the assassination of VC leaders and sympathizers in the South), but it begins with little success. VC Tunnel Complex near Saigon is reoccupied by the VC, but overrun again by the ARVN. First air battle of the war: NVA’s new MiG-21 unit evades American air units and bombs US forces at Dong Hoi. This helps the NVA to storm into Dong Hoi and recapture the last North Vietnamese city under US occupation. The First Cavalry is again devastated in the attack.)
Nhận định 5
Như vậy, người ta nghi ngờ Nhà Thờ Tam Tòa cũng có thể bị phá sập khi quân VC tấn công chiếm lại Đồng Hới vào năm 1969.
Trong DCÂC tháng 9/2009, chúng tôi đã trích lời Đại-tá Bùi Tín nói có 2 ụ súng phòng không tại Nhà Thờ Tam Tòa. Như vậy giả thuyết bom đạn do phi cơ và hải pháo của Mỹ bắn phá 2 ụ phòng không của VC tại Nhà Thờ Tam Tòa vào ngày 7/2/1965 có thể chấp nhận được.
Các cuộc không tập các cơ sở quân sự của Cộng-sản Miền Bắc (CSMB) của KQ Mỹ dĩ nhiên được nghiên cứu và chỉ điểm trên bản đồ quân sự. KQVN thi hành các phi vụ oanh tạc này đương nhiên dựa theo bản đồ hành quân của Mỹ.
Nhưng, như đã có lần chúng tôi trình bày trên DCÂC là mức độ chính xác của các cuộc oanh tạc vào các mục tiêu của KQ Mỹ trong chiến tranh VN chỉ đạt khoảng 60% - 70%, chiến tranh Trung Đông lần 1 vào năm 1991-1992 lên 80% - 90% và chiến tranh Iraq gần như 100%. Như vậy, các phi công của Mỹ lái các loại phi cơ phản lực tối tân hơn, nếu giỏi, mỗi lần thả 100 trái bom thì 60-70 trái rơi trúng mục tiêu; 30-40 trái rơi ngoài mục tiêu. Phi công VN lái các loại phi cơ thường Skyraiders và bán phản lực A-37, chắc không giỏi hơn phi công Mỹ, nên thả cứ 100 trái bom thì có thể chỉ 50% rơi trúng mục tiêu.
Như vậy, nếu Nhà Thờ Tam Tòa nằm cạnh cơ sở quân sự của CSBV thì bị ăn bom oan! Trong toàn cuộc chiến, KQ/VNCH cũng đã có những lần oanh tạc lầm vào quân bạn, kể cả trận chiến cuối cùng ở Đá Chồng, Long Khánh. Trong các cuộc chiến Trung Đông, quân Đồng Minh cũng bị phi cơ bắn lầm hoặc phòng không của mình bắn lầm.
Do đó, chúng ta không biết 18 phi cơ của KQVN oanh tạc Đồng Hới ngày 28.2.1965 có trái bom nào rơi vào Nhà Thờ Tam Tòa không?
Kết luận
Chúng tôi nghĩ rằng:
-Vì công lý và sự thật, Gíao phận Vinh yêu cầu chính phủ Mỹ bồi thường chiến tranh bằng cách xây lại Nhà Thờ Tam Tòa. Về phía KQ Mỹ thì chắc chắn họ có không ảnh, vì mỗi phi vụ đều được chụp hình, nên việc xác nhận Nhà Thờ Tam Tòa có bị bom Mỹ phá sập hay không và vào thời điểm nào là chuyện có thể chứng minh được.
-Vì sự thật lịch sử, các phi công của KQ/VNCH đã tham dự vào các phi vụ oanh tạc Đồng Hới, nên kể lại chính xác hơn về các mục tiêu oanh tạc và hiệu quả nếu có do không ảnh VNCH hay Hoa Kỳ chụp được.
-``Giặc lái´´ Nguyễn Cao Kỳ, cựu Tư-lệnh Không-quân VNCH cũng nên lên tiếng, vì ông ta có trách nhiệm trực tiếp trong các phi vụ oanh tạc miền Bắc trong chiến dịch ``Bắc Tiến´´ năm 1965.
Nếu phía Hoa Kỳ và VNCH, với các bằng chứng xác thực, phủ nhận việc Nhà Thờ Tam Tòa bị bom của Mỹ hay VNCH phá sập, thì chỉ còn VC là thủ phạm ném đá dấu tay.
Sự thật cần được sáng tỏ để người ta không đổ tội oan cho bất cứ phía nào. Tội ác thì bất cứ ai chủ động, ở đâu, vào lúc nào v.v… đều bị người đời lên án.
Biến Động Miền Trung
Biến Động Miền Trung
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Trong tháng 7 và 8/2009, khi quí độc giả Dân Chúa Âu Châu đang vui hưởng những ngày hè đẹp đẽ để lấy lại sức khoẻ sau một năm làm việc mệt nhọc, thì tại Việt Nam, công-an Việt Cộng (VC) và lũ bất lương tỉnh Quảng Bình, đã bất chấp luật pháp quốc gia, đánh đập tàn nhẫn Tu Sĩ và Giáo-dân trong các buổi cầu nguyện đòi lại Thánh-đường Tam Tòa. Các buổi cầu nguyện hiệp thông cùng giáo dân xứ Tam Tòa của các giáo xứ thuộc Địa-phận Vinh trong những ngày qua cho thấy sự đoàn kết keo sơn gắn bó của cộng đồng giáo dân trước hiểm họa đàn áp tôn giáo do Cộng-sản vô-thần gây ra. Sự phản đối của cộng đồng Công Giáo Việt Nam ở ngoại quốc đã nói lên tinh thần tương trợ các nạn nhân đang phải sống dưới chế độ bạo quyền Cộng-sản. Hệ thống truyền thông và báo chí ngoại quốc đã quan tâm tới biến cố Tam Tòa, cũng như Thái Hà trước đây, chứng tỏ Thế-giới ngày nay luôn lắng tai nghe những tiếng kêu đòi dân chủ và tư do tôn giáo ở bất cứ quốc gia nào.
Vì sự quan trọng của vấn đề, chúng tôi sẽ trình bày biến cố Tam Tòa một cách đầy đủ, qua sự tổng hợp các nguồn tin từ Việt Nam, trên hệ thống Internet và truyền thông của ngoại quốc.
I-Nhà Thờ Tam Tòa trước năm 1945
Giáo xứ Tam Tòa (tọa lạc tại đường Nguyễn Du, thành phố Đồng Hới hiện nay) được thành lập khoảng năm 1631 với tên gọi xứ đạo Đông Hải (hoặc Họ Lũy tức Lũy Thầy hay Lũy Trường Dục). Đây là tiền thân của giáo xứ Tam Tòa, ở về phía Nam Quảng Bình. Năm 1774, cuộc chiến cuối cùng giữa Nhà Nguyễn và Nhà Trịnh xẩy ra. Quân của Trịnh Sâm chiếm được thủ đô Thuận Hóa của Nhà Nguyễn ngày 29.1.1775 và phá tan Lũy Thầy, một chiến tuyến phòng ngự nổi tiếng do Đào Duy Từ xây dựng. Quảng Bình và Triệu Phong thời bấy giờ là hai Phủ thuộc đất Thuận Hóa. Vì lý do thời cuộc, Nhà-thờ Đông Hải được chuyển về khu vực Cầu Ngắn, nay thuộc phường Phú Hải, và được gọi là giáo xứ Sáo Bùn. Khoảng năm 1886, Sáo Bùn có trên dưới 200 nóc nhà và 1200 giáo dân. Ở đây có Viện Dục Anh để giúp nuôi trẻ em nghèo và Tu viện Dòng Mến Thánh Giá.
Năm 1886, quân Văn Thân trong chiến dịch Cần Vương, với khẩu hiệu ``bình Tây, sát Tả’’ (1) đã tàn sát người Công Giáo bất cứ nơi nào họ gặp. Nhóm này đã đột kích vào giáo xứ Sáo Bùn, không chỉ giết chết hơn 50 giáo dân, lại đang tâm đốt phá Nhà-thờ Sáo Bùn. Bị bách hại một cách vô nhân đạo, giáo dân phải chạy về Đồng Hới lánh nạn. Sau khi các vụ bách hại chấm dứt, Linh mục Claude Bonin (1839-1925) đã tập trung các giáo dân tị nạn Nam Quảng Bình lại và quyết định thành lập một giáo xứ mới ở phía bắc thành Động Hải (sau này gọi là Đồng Hới) và lấy tên là giáo xứ Tam Tòa. Ngày 8/12/1887 Linh-mục Claude Bonin khánh thành ngôi Thánh-đường Tam Tòa đầu tiên và giáo dân đã trồng nhiều cây phi-lao để cản bụi cát, tạo cho ngôi Thánh-đường có một quang cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và thiêng liêng thánh thiện. Năm 1934, Linh mục Réné Toussaint Morineau (thường gọi là Cố Trung) được bổ nhiệm làm Chánh xứ Tam Tòa. Năm 1945 khi Việt Minh chiếm được chính quyền ở Miền Bắc, bắt đầu áp dụng chế độ độc và tiêu diệt tôn giáo, thì những hàng cây phi-lao do giáo dân trồng đã bị đốn hết để làm củi cho hậu cần quân VC. Một nơi tôn nghiêm và cảnh trí đẹp đẽ như vậy đã bị VC tàn phá, biến Tam Tòa thành vùng trơ trụi, quạnh hiu.
Những công trình hiện diện tại Tam Tòa cho tới khi giáo dân rời đi năm 1954 đều là công sức của Linh-mục Morineau: Năm 1940 Ngài xây nhà thờ Tam Tòa, làm nhà cha sở trong một khu vườn rộng rất đẹp và khang trang, thiết lập hệ thống đường xá trong giáo xứ, nhất là con đường nối liền nhà thờ với quốc lộ 1, vận động sở Công Chánh xây một bờ đê kiên cố từ cầu Mụ Kề đến hết nhà cha xứ, xây dựng trường Sainte Marie, xây Dòng Mến Thánh Giá đối diện với nhà cha sở, xây Nhà Dục Anh ở cuối làng để nuôi trẻ mồ côi.
Chính nhờ ngôi Thánh-đường khang trang và sự phát triển đức tin ngày một sống động mà giáo dân trở về ngày một đông. Vào thời điểm đó giáo xứ Tam Toà đã trở thành một giáo xứ lớn nhất của tỉnh Quảng Bình, trực thuộc Địa-phận Huế. Năm 1953, cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận sau khi chịu chức Linh mục đã về làm cha phó của giáo xứ này.
II-Nhà Thờ Tam Tòa sau năm 1945
Năm 1954, sau hiệp định Genève, hầu hết giáo dân Tam Tòa, cùng với rất nhiều dân cư ở đây và giáo dân các xứ thuộc hạt Nam Quảng Bình phải di cư vào Đà Nẵng sinh sống và thành lập một giáo xứ Tam Tòa tại Đà Nẵng. Một số khác sống rải rác ở Huế, Ninh Thuận, Bình Tuy...
Năm 1956, theo người ta kể lại, Nhà-thờ Tam Tòa bị Việt Cộng trưng dụng vài lần làm nơi đấu tố địa chủ trong chiến dịch mang tên ``Cải cách ruộng đất’’, một chiến dịch đã giết chết hàng chục ngàn nông dân miền Bắc. Một nơi thờ phượng trang nghiêm của một tôn giáo mà bọn vô thần đã nhẫn tâm dùng vào việc bất chính! Sau cuộc di cư 1954, số giáo dân còn lại ở Tam Tòa được coi sóc bởi 2 Linh-mục Trần Quang Nghiêm và Lương Minh Thể. Hạt Bình Chính với 24 giáo xứ, trong đó có nhiều giáo xứ rất lớn, có đông giáo dân (từ 3000 trở lên) như Giáp Tam, Chợ Sáng, Cầu Nâm, Đan Sa, Hướng Phương, Kinh Nhuận, Vĩnh Phước II, v.v. Tất cả các giáo xứ này đều nằm trong hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch ở phía bắc Quảng Bình, cách xa thành phố Đồng Hới. Đến năm 1962, Lm. Thể qua đời và năm 1964 chiến tranh vùng hỏa tuyến bộc phát mãnh liệt, Lm. Nghiêm phải lánh nạn và Tam Tòa từ thời gian đó không có linh mục coi sóc.
Ngày 11/2/1965 (có nơi ghi năm 1968), nhà thờ Tam Tòa bị máy bay Mỹ oanh kích, đổ nát, chỉ còn lại tháp chuông và được duy trì như vậy cho đến ngày nay.
Sau khi VC chiếm được miền Nam, ngày 30-04-1975, một số giáo dân gốc Tam Tòa đã theo đoàn người di tản rời quê hương và hiện đang định cư trên các quốc gia tự do như Hoa Kỳ, Pháp, Hòa Lan, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch và Anh-quốc. Ngôi Nhà-thờ năm xưa đã bị bom đạn tàn phá, nhưng giáo dân còn lại tại Tam Tòa vẫn quây quần bên mảnh đất của Tiền Nhân, tiếp tục bảo vệ đức tin và trung thành với việc thờ phượng Chúa.
Sau 1975, tuy thuộc Giáo-phận Huế, nhưng không một Linh mục nào ở Huế được Việt Cộng cho về Quảng Bình nhận chức cai quản một giáo xứ; mặc dù Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể đã nhiều lần xin với chính quyền địa phương. Hành động này chứng tỏ Việt Cộng cố tình làm trở ngại mọi sinh hoạt tôn giáo của Công Giáo. Đó cũng là nguyên nhân tại sao mấy chục năm qua Đồng Hới không có Nhà-thờ và không có cha xứ.
Ngày 26.3.1997, UBND tỉnh Quảng Bình đã có Quyết định số 143/QĐ-UB công nhận tháp chuông Nhà-thờ Tam Toà là chứng tích tội ác chiến tranh. Ngày 15/5/2006, Tổng Giáo phận Huế chuyển giao Hạt Nam Quảng Bình cho Giáo-phận Vinh, trong đó có giáo xứ Tam Tòa. Ngay sau đó, Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, Giám mục Giáo phận Vinh bổ nhiệm linh mục Phêrô Lê Thanh Hồng về quản xứ Sen Bàng, kiêm xứ Tam Tòa. Vào lúc này Tam Tòa có hơn 1000 giáo dân sinh sống tại địa bàn thành phố Đồng Hới. Do nhà thờ cũ đổ nát, mọi sinh hoạt tôn giáo phải mượn nhà của một giáo dân tại đường Nguyễn Du, cách nền nhà thờ Tam Tòa khoảng 100 mét về phía Tây Bắc.
Ngày 08/12/2007, 13 linh mục cùng khoảng 1000 tín hữu đã tổ chức Rước Kiệu và dâng Thánh-lễ đầu tiên tại nền nhà thờ Tam Tòa, một hình thức biểu hiện sự mong muốn đòi lại quyền sở hữu sau gần nửa thế kỷ. Ngày 13/02/2008, nhằm mùng 7 Tết Mậu Tý, ĐGM Cao Đình Thuyên và 17 linh mục cùng giáo dân đã tổ chức Thánh-lễ tại Nhà-thờ đổ nát Tam Tòa. Tỉnh Quảng Bình hiện nay có trên 100.000 giáo dân, nhưng thành phố Đồng Hới lại không được phép thành lập một giáo xứ và xây cất một nhà thờ. Tại sao?
III-Diễn tiến của cuộc xung đột
Theo bản Cấp báo, Thông báo rồi Đơn Khiếu-nại của Tòa Giám mục Xã Đoài ngày 20 và 21-07-2009, cùng thông tin liên tục từ các phương tiện truyền thông quốc nội và hải ngoại thì sáng ngày 20-07-2009, Anh Chị Em Giáo-hữu Tam Toà, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, với sự giúp đỡ của Giáo hữu một số Giáo xứ bạn, đã dựng một nhà tạm trên nền Nhà-thờ Tam Toà để cử hành Thánh Lễ. Công việc vừa hoàn thành thì hàng trăm Công an tỉnh Quảng Bình (với sự hỗ trợ của nhiều thành phần côn đồ bất hảo) đã ngang nhiên xông vào phá đổ nhà tạm, xúc phạm Thánh-giá, cướp máy móc vật liệu, đánh đập dã man giáo dân già trẻ bằng hung khí, cướp các máy quay phim chụp hình của họ, cuối cùng tống một số người lên xe đem về đồn giam nhốt.
Sau đó nhà cầm quyền còn huy động người dân khác đạo trong vùng tới phá rối. Để tránh một cuộc xung đột tôn giáo do Việt Cộng cố tình gây ra, Giáo-dân phải giải tán. Trong thời gian này người ta thấy công an chìm nổi và lũ côn đồ được thuê mướn canh gác khu vực nhà thờ, hăm dọa và hành hung những ai đến thăm viếng hiệp thông với Giáo xứ Tam Tòa. Hành động này không khác gì kế hoạch của công an Hà-nội đã áp dụng trong biến cố Thái Hà.
Để hiểu tình hình đã xẩy ra như thế nào, chúng tôi ghi lại đây bản Thông-cáo của Tòa Giám Mục Quảng Bình
THÔNG CÁO (SỐ 4)
V/v Tam Tòa tại Đồng Hới, Quảng Bình
1-Tin 2 linh mục và một số giáo dân Vinh bị nhóm "côn đồ" đánh đập tại Tam Tòa trước sự chứng kiến của những người mang sắc phục công an, làm cho dư luận khắp nơi thêm phẫn nộ, bàng hoàng, lo lắng. Nhiều nơi điện thoại về Tòa Giám mục thăm hỏi tình hình và phỏng vấn. Cha Fx. Võ Thanh Tâm - Tổng đại diện Giáo phận Vinh đã xác định chắc chắn có sự việc trên.
2- Chiều 27/7/2009, linh mục Phaolô Nguyễn Đình Phú và mấy giáo dân bị đánh trọng thương về tới Kỳ Anh (Hà Tĩnh). 21 giờ cùng ngày, linh mục Phêrô Ngô Thế Bính được đưa về Phòng khám Đa Khoa của Tòa Giám mục Xã Đoài. Giáo dân kéo đến, thấy cảnh linh mục bị đánh bầm dập mặt mũi và thân thể mang nhiều vết thương đã không thể kìm nén được sự phẫn uất của mình. Không khí sục sôi.
3- Chiều 27/7/2009, Tòa Giám mục nhận được tin chị Yên bị công an Quảng Bình tới nhà mang đi hôm 26/9/2009 được thả về. Lúc 01 giờ sáng 28/7/2009, Tòa Giám mục nhận được tin anh Thống bị mang đi hôm 26/7/2009, lúc đó đang bị công an tống ra đường.
4- Sáng 28/8/2008, phái đoàn Tòa Giám mục vào thăm Cha Phú tại giáo xứ của ngài coi sóc. Được Cha Phú kể lại, phái đoàn hiểu thêm âm mưu ác độc của nhóm côn đồ và những kẻ tiếp tay trong sắc phục công an đứng chứng kiến cảnh tượng kinh khủng đó. Ngài nói, chỉ trước đó mấy phút, khi xe của ngài vừa đậu tại phần đất gần nền nhà thờ Tam Tòa thì nhóm côn đồ ập tới đánh ngài và các giáo dân cùng đi.
5- Tại phòng khám Tòa Giám mục, từng đoàn người đến thăm Cha Bính và hỏi thăm sự thể. Dù bị đau đớn, ngài vẫn cố kể lại những hành động của nhóm côn đồ đánh hội đồng trước sự chứng kiến của công an Quảng Bình, làm cho không khí căng thẳng lan nhanh khắp Giáo phận Vinh. Cha Tổng đại diện và các linh mục tại Tòa Giám mục cố trấn an mọi người bình tĩnh, cầu nguyện, với ý thức rằng hành động của ma quỷ rất dễ lún sâu trong vũng lầy nhơ nhớp của nó. Còn con cái Chúa phải chiến đấu với quỷ ma bằng cách thế khôn ngoan như Lời Chúa dạy.
6- Tối 28/7/2009, một số gia đình có nạn nhân đang bị công an Quảng Bình bắt giữ báo cho Tòa Giám mục biết là chính quyền địa phương đề nghị tới "làm thủ tục" đón người nhà về. Rồi cả ngày 29/7 vấn đề đó cũng chưa xong!
7- Chiều 29/7/2009 phái đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội tới Tòa Giám mục thăm Giáo phận Vinh và gửi quà thăm anh chị em giáo dân Tam Tòa.
8- Ngày 30/7/2009, vào lúc 10 giờ, ông Nguyễn Đức Thịnh - Vụ phó vụ Công giáo và bà Đào Thị Đượm - Chuyên viên Công giáo thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam đã tới Tòa Giám mục gặp và trao đổi với linh mục Võ Thanh Tâm - Tổng Đại diện Giáo phận Vinh cùng với linh mục Phạm Đình Phùng - Chánh văn phòng Tòa Giám mục Xã Đoài. Tại cuộc gặp này, Đại diện Ban Tôn giáo Chính phủ muốn nghe những ý kiến từ Giáo phận Vinh. Linh mục Tổng đại diện lần lượt nêu lên các ý sau đây :
-Sự việc Tam Tòa lúc đầu chỉ là việc nhỏ. Giáo dân chỉ đến dựng cái lán che trên nền nhà thờ Tam Tòa, nền đất thánh thiêng của giáo dân Tam Tòa suốt mấy trăm năm qua. Thế mà công an Quảng Bình đã đánh đập tàn nhẫn, bắt giữ trái phép giáo dân, chiếm đoạt Thánh Giá - biểu tượng cao quý của người Công giáo, chiếm đoạt tài sản của Giáo hội và của giáo dân, rồi lại tiếp tục sa vào sai lầm khi 2 linh mục và một số giáo dân bị đánh trọng thương, càng làm cho dư luận ngày thêm bất bình phẫn uất. Cha Tổng nói: "Chính tôi là người đã vào Tam Tòa thăm các nạn nhân. Họ kể và tôi thấy những viết thương bầm tím trên người họ mà xót xa, đau đớn".
-Về phía Giáo hội, chúng tôi cố gắng trấn an dân chúng. Họ sục sôi vì những hành động tàn nhẫn của công an Quảng Bình.
-Chúng tôi tự hỏi: Nếu UBND tỉnh Quảng Bình nói chỉ có giáo dân và lương dân xô xát với nhau, vậy tại sao công an chỉ bắt giữ giáo dân, đánh đập, giam cả 10 ngày nay rồi, mà lại không bắt một ai là lương dân?
-Nếu công an nói rằng họ đến để dẹp việc gây rối trật tự công cộng thì tại sao lại lấy hết tất cả các máy quay phim, chụp hình của giáo dân, tới nay cũng chưa trả lại. Nếu họ làm việc chính nghĩa thì phải để cho dân thấy chứ?
-Và nếu công an đến để dẹp việc gây rối thì tại sao lấy hết tất cả, từ Thánh Giá, khung sắt, tôn lợp, xe cộ, máy phát điện, thức ăn, cả đến tiền bạc của giáo dân mà không lập biên bản gì cả?
-Cụ thể hơn cả là tại sao trong mấy ngày qua, công an không bắt nhóm "côn đồ" đông tới hàng trăm đánh đập 2 linh mục và các giáo dân trong ngày 27/7/2009?
9- Sau khi nghe những lời trình bày của linh mục Tổng đại diện và linh mục Chánh văn phòng, đại diện Ban tôn giáo chính phủ hiểu rõ hơn vấn đề và muốn được Tòa Giám mục đưa ra những đề xuất. Tòa Giám mục lặp lại những yêu cầu từ ban đầu:
-Thả ngay, thả hết những giáo dân bị công an Quảng Bình đánh đập và đang bị bắt giữ.
-Săn sóc, chữa lành những giáo dân bị công an đánh đập.
-Bồi thường tại chỗ lán che của giáo xứ Tam Tòa.
-Trả lại Thánh giá, trả lại tài sản của Giáo hội và tài sản của giáo dân.
-Dừng ngay việc xuyên tạc sự thật, bôi nhọ tôn giáo, kích động hận thù, gây chia rẽ khối đoàn kết lương giáo.
-Còn việc 2 linh mục và các giáo dân bị đánh đập, UBND tỉnh Quảng Bình phải chịu trách nhiệm việc chữa trị, lo thuốc men và phải xét xử những kẻ "côn đồ" theo pháp luật.
10- Lúc 18 giờ ngày 30/7/2009, Tòa Giám mục nhận được tin từ người nhà của các nạn nhân cho biết: công an Quảng Bình đã thả thêm 4 giáo dân bị bắt giữ từ ngày 20/7/2009. Hiện còn 3 giáo dân bị giữ. Còn ông Nguyễn Công Lý bị mang đi ngày 26/7/2009 đã được thả ngày sau đó.
Xin mọi người tiếp tục hiệp ý cầu nguyện và thể hiện tình yêu thương liên đới với Tam Tòa.
Văn phòng Thư ký Tòa Giám mục - Chánh Văn phòng - (Đã ký và đóng dấu) - Linh mục Antôn Phạm Đình Phùng
IV-Nhà Thờ Tam Tòa bị Mỹ dội bom hay Việt Cộng phá hoại?
Khi nghiên cứu tài liệu về việc Nhà-thờ Tam Tòa bị phá sập, chúng tôi nhận thấy có những nguồn tin khác nhau:
1- Nghi ngờ Việt Cộng đặt bom giật sập
-Theo tác giả Thu Hiền (Hà Nội) Vietland Staffs thì có thể để đánh lạc hướng tội ác, Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã tổ chức cho gài bom nổ nơi tôn giáo để tìm cách lên án Mỹ, nhằm né tránh cuộc thảm sát tại Huế. CSVN cho nổ bom hai "thí điểm" tôn giáo quan trọng là chùa An Xá thuộc xã Lộc Thủy, Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình và Nhà Thờ Tam Tòa để nhằm đổ thừa cho Đế Quốc Mỹ, đánh lận con đen. Một số nhân chứng kể lại cho thấy là vào sớm ngày thứ Ba 27 tháng 2 năm 1968 (1), không có chiếc máy bay Mỹ nào bay qua, nhưng còi báo động tại Quảng Bình hụ lớn, dân chúng được đưa xuống hầm ẩn tránh "bom Mỹ" thì ngôi Chùa An Xá và nhà thờ Tam Tòa bị nổ tung.
Con số ngẫu nhiên 20 và ngày Thứ Ba có thánh lễ! Chùa An Xá được chính quyền báo cáo cho biết là Bom Mỹ thả trúng chính diện làm cho 12 Phật Tử chết, nhà thờ Tam Tòa nổ tung làm cho 8 Giáo Dân chết. Những "bằng chứng" tội ác đế quốc Mỹ "đã" thả bom cơ sở tôn giáo được Hà Nội đánh bóng đưa tin. Nhiều người lúc đó thắc mắc là ngày Thứ Ba mà sao Nhà thờ Tam Tòa lại có thánh lễ và Chùa An Xá cũng có đông Phật Tử tới viếng để rồi bị đế quốc Mỹ thả bom chết! Hay có thể là những xác chết nầy được chở từ Huế vào để làm bằng chứng chụp hình, làm phim phản tuyên truyền!
Vụ nổ của hai cơ sở tôn giáo tại Quảng Bình vẫn nằm trong những câu hỏi:
-Có phải thật sự hai cơ sở nầy bị Mỹ Đánh Bom?
-Có Phải đảng CSVN dàn dựng để đánh lạc hướng vụ thảm sát Tết Mậu thân do CSVN gây ra?
-Tại sao ngày thứ Ba 27 tháng 2 năm 1968 lại có nhiều giáo dân đi lễ và Phật tử viếng chùa?
Nếu vụ nổ xẩy ra vào ngày Chúa Nhật 25 tháng 2 thì sẽ không ai thắc mắc chuyện nầy. Tuy nhiên, CSVN chọn cho bom nổ ngày 27 tháng 2 năm 1968 có thể vì lý do lúc đó phía Hoa Kỳ có nhiều phi vụ thả bom Khe Sanh gần Quảng Bình. Ngày Chủ Nhật 25 tháng 2 thì không có phi vụ nào gần Quảng Bình nên rất khó dàn dựng sân khấu.
Hiện nay chùa An Xá được CSVN "xóa dấu tích" tội ác đế quốc Mỹ, cho xây lại vào năm 1994; trái lại, nhà thờ Tam Tòa thì vẫn còn bị cho làm "di tích tội ác đế quốc Mỹ".
2-Nghi ngờ Do bom Mỹ phá sập
a)-Ông Bùi Tín, Đại-tá quân đội VC, trước là Phó Tổng biên-tập báo Nhân Dân, cơ quan tuyên truyền của đảng CSVN, từng có mặt tại Đồng Hới vào những năm 1960, nay tị nạn chính trị tại Pháp-quốc, có viết bài: ``Đáp lễ bài ``Hãy nói sự thật’’ trên báo Quân-đội Nhân-dân (chủ nhật 2.8.2009): Đâu là sự thật?’’ Trong bài này có đoạn ông Bùi Tín viết như sau:
``… - thêm nữa bom Mỹ có phá hủy phần lớn nhà thờ Tam Tòa, nhưng theo tôi được biết khi ấy cả Đồng Hới đã sơ tán triệt để, không có linh mục hay giáo dân nào ở lại trong nhà thờ, nên bom Mỹ không gây thương vong cho dân thường, nên gọi là Chứng tích tội ác chiến tranh "để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ" thì có phần khiên cưỡng;…
-hồi ấy tôi đã thấy 2 ụ súng phòng không lớn được đắp ngay cạnh nhà thờ, nên ở ngoài khơi Đồng Hới tàu chiến, tàu sân bay, máy bay do thám Mỹ của hạm đội 7 có thể biết rất rõ từng mục tiêu, nên các cuộc ném bom có nhiều khả năng nhằm vào các mục tiêu quân sự ấy.’’ (Bùi Tín - Paris 4-8-2009)
b)- Tác giả Lữ Giang trong bài ``Một Nhà Thờ cho TP Đồng Hới, có ghi:
Trong thời gian chiến tranh, ba tỉnh bị lãnh bom đạn của Mỹ nhiều nhất là Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Riêng tỉnh Quảng Bình bị oanh tạc nặng nề nhất vì nằm sát với vỹ tuyến 17. Người ta ước lượng từ 1965 đến 1972 đã có khoảng 40.000 phi vụ oanh tạc Quảng Bình và khoảng 3.000 trận pháo kích do các tàu chiến ở ngoài khơi hay phía Nam bờ Bến Hải bắn vào. Vì thế, Quảng Bình gần như bằng địa. Không một chiếc cầu nào bắc qua quốc lộ 1 còn tồn tại và quốc lộ này không còn xử dụng được nữa. Dân chúng phải di tản ra khỏi vùng ven biển. Thành phố Đồng Hới được dời lên Cổn ở vùng núi phía Tây... Ngôi nhà thờ lớn nhất và đẹp nhất của thành phố Đồng Hới và tỉnh Quảng Bình là nhà thờ Tam Toà đã bị máy bay Mỹ phá sập vào năm 1968, chỉ còn chừa lại cái tháp cao chơi vơi. Hình như người Mỹ muốn giữ lại cát tháp này làm một dấu ghi nhớ (point de repère) để mỗi khi trở lại oanh tạc Đồng Hới, cứ theo dấu đó mà lao vào.
V-Nhận định
Để có thêm bằng chứng, chúng tôi đã phải nghiên cứu các tài liệu chiến sử của quân đội Mỹ tại Việt Nam và biến cố Nhà Thờ Tam Tòa, căn cứ vào thời điểm của các nguồn tin nêu trên.
1-Thời điểm 11.2.1965 (do báo Quân- đội Nhân-dân VC ghi)
Qua các tài liệu chiến sử, chúng tôi được biết ngày 27.1.1965, Tướng Nguyễn Khánh dành được sự kiểm soát hoàn toàn chính phủ và cũng là thời kỳ một cuộc ``Bắc Tiến’’ đã được thực hiện theo quan niệm ``Tại sao chúng ta cứ ngồi để cho định đánh?’’ Biến cố trung-úy phi-công Phạm Phú Quốc bị tử trận trong khi thi hành nhiệm vụ lái bay từ căn cứ không quân Đà Nẵng vượt qua Vĩ-tuyến 17 bỏ bom trục lộ giao thông của tỉnh Hà Tĩnh vào năm 1965 là một bằng chứng xác định thời điểm năm 1965 là đúng. Phi công Phạm Phú Quốc, một lần cùng Nguyễn Văn Cử, thay vì lái máy bay hộ tống hành quân, lại quay về thả bom Dinh Thống Nhất, nhằm giết chết Tổng-thống Ngô Đình Diệm và Cố-vấn Ngô Đình Nhu vào năm 1962, nhưng không thành công. Biến cố Phạm Phú Quốc thực ra nằm trong chương trình không-tập miền Bắc của Không-quân Mỹ để trả đũa các cuộc tấn công của VC vào tàu Maddox của Hải-quân Mỹ tại vịnh Bắc Việt vào ngày 31.7.1964, và cơ sở quân sự Mỹ tại Pleiku ngày 6.2.1965. Đây là nguyên cớ mở đường cho quân đội Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân đưa tới chương trình oanh tạc miền Bắc của chính phủ Mỹ.
Theo tài liệu Tối-mật (Top Secret) của Bộ Ngoại-giao Hoa Kỳ được giải mật và phổ biến công khai, chúng tôi tìm thấy Điệp văn ngày 11.2.1965 của Tham Mưu Trưởng Liên Quân Mỹ gửi cho Bộ-trưởng Quốc-phòng McNamara có ghi: ``Để trả lời sự yêu cầu của ngài tại buổi họp ngày 8.2.1965, một chương trình quân sự mở đầu các hoạt động chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã được khai triển… Chương trình kéo dài trong một thời gian hơn 8 tuần lễ và được giới hạn tại các mục tiêu dọc theo đường số 7 và phía Nam của Vĩ-tuyến 19. Chương trình sử dụng các lực lượng VNCH và Mỹ, và ưu tiên cho không-tập. Nó cũng được cung cấp bởi các cuộc hải pháo và tiếp tục các hoạt động hiện tại, kể cả cuộc hành quân 34A, bắt đầu lại các cuộc tuần tra DeSoto và cho phép các cuộc hành quân trên đất liền băng qua biên giới.’’ (DeSoto là chương trình tuần tra của Hải-quân Mỹ tại các vùng biển phía Tây Thái Bình Dương),
Tuy nhiên, mãi tới ngày 2.3.1965, cuộc hành quân ``Sấm sét quay cuồng’’ (Rolling Thuder) mới mở màn. 100 chiến đấu cơ thả bom của Mỹ bắt đầu tấn công các mục tiêu miền Bắc. Kế hoạch Rolling Thunder thay vì chỉ thực hiện trong khoảng thời gian 8 tuần lễ, đã kéo dài 3 năm. Ngày 8.3.1965, những binh sĩ chiến đấu Mỹ đầu tiên đến Việt Nam là 3000 Thuỷ Quân Lục Chiến đổ bộ lên bờ biển để bảo vệ căn cứ Không-quân Đà Nẵng, cùng với 23.000 cố vẫn quân sự Mỹ đã có mặt tại Việt Nam. (Tài liệu: 109. Memorandum from the Joint Chiefs of Staff to Secretary of Defense McNamara (Source: Washington National Records Center, RG 330, OSD Files: FRC 71 A 6489, Vietnam 381. Top Secret: Sensitive).
Như vậy thời điểm ngày 27.2.1968 đối với tài liệu của tác giả Thu Hiền và Lữ Giang nêu trên có sự sai biệt về năm. Nhưng sự nghi ngờ của Thu Hiền về sự kiện tại sao có cử hành Thánh-lễ vào ngày thứ ba và có người tham dự là một nghi vấn đáng tin tưởng.
Thời điểm Nhà-thờ Tam Tòa bị tàn phá ngày 11.2.1965 do báo Quân-đội Nhân-dân của VC công bố thì đúng thời điểm năm 1965; nhưng sai ngày tháng.
Bài của ông Bùi Tín xác định được yếu tố chiến trường, nhưng tiếc rằng thiếu yếu tố thời gian. Tuy vậy, ông Bùi Tín đã chứng minh được sự gian dối của VC về vấn đề đã sơ tán triệt để, thì làm gì có những người chết trong nhà thờ?
Nếu VC đã đắp 2 ụ phòng không ngay bên cạnh Nhà-thờ Tam Tòa thì đúng là họ có ý đồ hiểm độc, ném đá dấu tay, biến Mỹ thành kẻ phá hoại và trở thành kẻ thù của Công Giáo. Để khóa họng súng phòng không của địch, Không-quân Mỹ oanh tạc hoặc Hải-quân pháo kích vào vị trí này là việc không thể tránh khỏi trong bất cứ cuộc chiến tranh nào.
2-Thời điểm ngày 27.2.1968
a)-Website http://www.historyplace.com/unitedstates/vietnam/index-1965.html có ghi lại tất cả các hoạt động quân sự của quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhưng chúng tôi không tìm thấy hoạt động quân sự nào trong ngày 27.2.1968. Như vậy nhận định của tác giả Thu Hiền có thể tin được về việc VC tự đặt bom phá Nhà-thờ Tam Tòa, rồi đổ tội cho quân Mỹ.
Vì giới hạn của bài viết, chúng tôi chỉ tạm dịch sang tiếng Việt sự kiện xẩy ra trong ngày 27.2.1968:
February 27, 1968 -Influential CBS TV news anchorman Walter Cronkite, who just returned from Saigon, tells Americans during his CBS Evening News broadcast that he is certain "the bloody experience of Vietnam is to end in a stalemate.
Xin tạm dịch: " Walter Cronkite, phối trí viên tin tức đài truyền hình có ảnh hưởng lớn CBS, người vừa mới trở về từ Sài Gòn kể cho dân Mỹ trong phần đưa tin buổi chiều của đài CBS rằng ông ta chắc chắn biến cố đẫm máu của Việt Nam sẽ chấm dứt trong bế tắc.’’ (The History Place presents The Vietnam War, The Jungle War 1965-1068).
b)-Trong Website của viện đại-học Ohio: http://ehistory.osu.edu/osu/books/1968/index.cfm?page=0212 trang 212 – 1968 The Defining War – 1968), có ghi các cuộc hành quân của quân đội Mỹ từ ngày 24 đến ngày 27.2.1968 và riêng ngày 27.2.1968 cuộc giao tranh cũng chỉ xẩy tại Cửa Việt, chứ không liên quan tới Tam Tòa của Quảng Bình nằm trong lãnh thổ của miền Bắc, bên kia Vĩ-tuyến 17.
On 27 February, for example, an enemy B-40 rocket-propelled grenade struck an LCU on the Cua Viet laden with explosives resulting in the disabling of both the LCU and an escort patrol boat. Most of the convoyed vessels, however, completed the trip without incident.
(Xin tạm dịch: ví dụ, một trái hỏa tiễn B-40 của địch bắn trúng chiếc phà ``LCU’’ chứa chất nổ tại Cửa Việt đưa tới sự thiệt hại cho cả phà và tầu hộ tống tuần tra. Tuy vậy, phần lớn đoàn tầu hộ tống hoàn thành cuộc chuyển vận mà không có vấn đề.’’
The 3d Marine Division also took measures to safeguard the Cua Viet and attempt to keep North Vietnamese regulars and VC main force units out of the northeastern quadrant of Quang Tri Province above the Cua Viet. (Sư đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến cũng thực hiện việc bảo vệ Cửa Việt và cố gắng đẩy lui quân chính quy và các đơn vị lực lượng chính của Việt Cộng ra khỏi một phần tư tỉnh Quảng Trị nằm về phía Bắc Cửa Việt’’
Thật ra, từ tháng 1.1968 tới tháng 4.1968, 6000 lính Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ và Tiểu-đoàn 37 Biệt Động Quân của QLVNCH bị 3 sư-đoàn VC, quân số khoảng 20.000 người có các trung đoàn chiến xa, phòng không, đặc công và pháo binh yểm trợ, bao vây và bắt đầu tấn công vào ngày 21.1.1968. Chiến trường Khe Sanh được VC coi là Điện Biên Phủ đối với quân đội Mỹ. Cuộc chiến đã kéo dài 77 ngày đêm với những trận mưa bom và pháo kích lớn chưa từng có sau Thế Chiến II. Mưu đồ biến Khe Sanh thành Điện Biên Phủ của Tướng Võ Nguyên Giáp bị thất bại hoàn toàn. Trong thời gian này tất cả hỏa lực yểm trợ của Không-quân và Hải-quân Mỹ phải được ưu tiên cho chiến trường Khe Sanh và các cuộc hành quân giải phóng cố đô Huế trong dịp Tết Mậu Thân, thì người ta không nghĩ các cuộc không-tập Quảng Bình nằm bên kia Vĩ-tuyến 17 đã xẩy ra?
Như vậy, thời điểm Nhà-thờ Tam Tòa bị phá nổ tung vào ngày 27.2.1968 vẫn còn những điểm cần thận trọng.
VI-Tại sao Việt Cộng Quảng Bình cố giữ Nhà thờ Tam Toà?
Theo tác giả Thu Hiền nêu trên thì CSVN có phải muốn giữ nhà thờ Tam Tòa làm nơi "di tích tội ác đế quốc Mỹ không?
Sự thật không phải vậy, nhưng sự thật là ông Nguyễn Hữu Hoài, Phó Chủ tịch Thường trực Uỷ Ban Nhân Dân (UBND) tỉnh Quảng Bình là người có phần hùn trong công ty du lịch vùng Phi quân-sự ở Vĩ-tuyến 17 ``DMZ’’ (Demilitarized Zone), Khe Sanh & Phong Nha. Nhà thờ Tam Tòa được giữ lại để làm "di tích" bán vé cho Tour tham quan tại Huế cho khách ngoại muốn đi tham quan. Tour "thăm di tích chiến tranh" DMZ & Phong Nha đi từ Huế với giá $25-$40 USD cho khách nước ngoài. Xe TOURS của Sing Cafe & DMZ sẽ đón khách tại Huế vào lúc 6 giờ sáng, sau đó tới Đông Hà để đón hướng dẫn viên nói tiếng Anh "được đảng huấn luyện" nơi đây. TOURS gồm Hiền Lương, Khe Sanh và Phong Nha ... Quảng Bình, sau đó khách sẽ ghé thăm nhà thờ "di tích" Tam Tòa ...
Theo chúng tôi: Nếu nói Nhà-thờ Tam Tòa là di tích chiến tranh do Mỹ gây ra cần giữa lại, tại sao biết bao nhiêu di tích chiến tranh tại miền Bắc, như cầu Long Biên, bệnh viện Bạch Mại, phố Khâm Thiên v.v… bị tàn phá do phi cơ B-52 và F-111A của Không-quân Mỹ oanh tạc 12 ngày đêm, từ 18-29/12/1972, trong chiến dịch Linebacker-2, mà VC không giữ lại?
Nếu nói cần giữ lại các di tích lịch sử chiến tranh do Mỹ gây ra, tại sao chùa An Xá bị phá hủy cùng ngày với Nhà-thờ Tam Tòa lại được VC "xóa dấu tích" tội ác đế quốc Mỹ và cho xây lại vào năm 1994; trái lại, nhà thờ Tam Tòa thì vẫn còn bị giữ làm "di tích lịch sử tội ác đế quốc Mỹ?"
Nếu nói cần giữ lại các di tích lịch sử chiến tranh, tại sao các vụ khủng bố của VC dưới đây không được cả hai phía VNCH và VC giữ lại hoặc làm đài kỷ niệm và tưởng niệm:
Ngày 20.5.1962, bom nổ tại khách sạn Hưng Đạo làm bị thương 8 người Việt và 3 người Mỹ. Ngày 16.2.1964, rạp hát Kinh Đô bị đánh bom làm 3 người Mỹ chết và hơn 32 người bị thương. Ngày 25.8.1964, khách sạn Caravelle bị đặt bom làm sập nhiều tầng. Phía MTDTGP nói có hơn 100 người bị chết và bị thương. Ngày 4.10.1965, Sân vận động Cộng Hòa bị đặt bom làm 11 người thiệt mạng, 42 thường dân khác bị thương. Ngày 5.12.1967, du kích Việt Cộng tấn công vào làng người Thượng Đắk Sơn, phóng hoả đốt cháy 150 nhà dân và giết chết 252 người, chỉ vì 54 tay súng người thiểu số cương quyết chống trả. Đặc biệt cuộc tàn sát và chôn sống hơn 5.000 người dân huế trong biến cố Mậu Thân 1968. Hàng ngàn người chết trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 do VC pháo kích và tấn công người dân trên Đại-lộ Kinh-hoàng Quảng Trị và Quốc-lộ 13 tại An Lộc, Bình Long. Ngày 9.3.1974, trường tiểu học Cai Lậy (Tiền Giang) bị tàn phá do súng cối 82 ly của VC. Theo tướng Lâm Quang Thi, vụ tấn công này đã làm 34 học sinh đang chào cờ buổi sáng bị chết và hơn 70 bị thương. Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có 32 học sinh chết và 55 bị thương. Nhạc sĩ Anh Bằng có viết bài hát nhằm "Tố cáo Cộng Sản pháo kích dã man vào trường tiểu học ở Cai Lậy", có đoạn lời hát như sau:
Hỡi bé thơ ơi, sao tội tình gì em lại bỏ đi, em lại bỏ đi, Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp, Bạn bè còn ngồi chăm chỉ lắng nghe, Sao em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi...
Vụ trên cũng được nhắc lại trong hồi ký Tù-binh và Hòa-bình của nhà văn, Đại-úy Dù, Phan Nhật Nam viết năm 1974.
V-Vấn đề pháp luật
Theo hiến pháp của VC Điều 70: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hay không theo một tôn giáo nào". Điều khoản này được xác định rõ hơn qua Điều 5 trong Pháp-lệnh Tôn-giáo năm 2005 : "Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của Pháp luật".
Giáo phận Vinh yêu cầu UBND tỉnh Quảng Bình trả lại khu đất nhà thờ Tam Tòa, để xây dựng một Thánh-đường mới, theo nhu cầu phụng vụ của giáo dân địa phương là điều chính đáng. Trước và sau hiệp định Genève 1954, Địa bàn quản lý của Giáo-phận Huế bao gồm cả hạt Nam Quảng Bình. Do đó, Nhà-thờ Tam Tòa vẫn thuộc sự quản lý cả về phương diện lý thuyết và thực tiễn. Việc giáo dân Tam Tòa, vì hoàn cảnh chiến tranh phải di cư đi nơi khác làm ăn sinh sống, và Nhà-thờ dù bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nhưng số giáo dân còn lại vẫn có quyền sở hữu; mặc dù họ không có khả năng tái thiết Nhà-thờ để tiếp tục các sinh hoạt đạo. Như vậy quyền sở hữu Nhà-thờ và đất đại của giáo xứ Tam Tòa vẫn thuộc về Tòa Giám-mục Huế.
Điều 70 hiến pháp của VC cũng quy định rõ ràng rằng: "Những nơi thờ tự của các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ, không ai được xâm phạm". Điều này được quy định cụ thể hơn tại Điều 26 trong Pháp-lệnh Tôn-giáo năm 2005: "Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưởng tôn giáo được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm mọi việc xâm phạm tài sản đó" và Điều 27: "Đất có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường..."
Giáo phận Vinh và giáo dân giáo xứ Tam Tòa có quyền đòi lại toàn bộ đất và tài sản theo hiện trạng ban đầu. Điều 256 Luật đất đai 2003 quy định: "Chủ sở hữu, người sở hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó..."
Kết luận
Nhà-thờ Tam Tòa thuộc quyền sở hữu của Công Giáo thì phải trả lại cho Giáo-phận và Giáo-dân.
Nếu Nhà-thờ Tam Tòa bị bom Mỹ tàn phá thì chính phủ Mỹ phải bồi thường sau chiến tranh, xây lại Nhà-thờ này. Dĩ nhiên chính phủ Mỹ phải điều tra lại sự kiện Nhà-thờ Tam Tòa có bị bom Mỹ tàn phá không? Đơn vị Không-quân hay Hải-quân nào thi hành nhiệm vụ vào thời điểm đó?
Nhân cơ hội này chúng tôi xin đề nghị Địa-phận Vinh nên làm đơn yêu cầu chính phủ Mỹ bồi thường và xây lại Nhà-thờ mới cho Giáo-dân Tam Tòa. Sự việc sẽ không gặp khó khăn vì Việt Nam đã xóa bỏ hận thù Đế-quốc và thiết lập quan hệ ngoại-giao với Hoa Kỳ từ thập niên 1990.
Nếu chính phủ Mỹ từ chối thì xin Giáo-hội Công Giáo Hoa Kỳ; hoặc xin một giáo xứ người Mỹ kết nghĩa và trợ giúp xây lại Nhà-thờ Tam Tòa.
Tầu Cộng là nguyên nhân đưa tới sự tan rã của Các Mãnh Hổ Tamil
Tầu Cộng là nguyên nhân đưa tới sự tan rã của Các Mãnh Hổ Tamil
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Kể từ tháng 4+5/2009, quân đội Tích Lan (Ceylon hay Sri Lanka) bao gồm Hải, Lục và Không-quân đã mở cuộc tổng tấn công miền Đông-Bắc lãnh thổ Tích Lan, nơi tổ chức có tên “Các Mãnh Hổ Giải Phóng Lãnh Thổ Eelam Của Dân Tamil" (The Liberation Tigers of Tamil Eelam), thường viết tắt là “Các Mãnh Hổ Tamil” (Tamil Tigers) làm chủ tình hình hơn 27 năm qua. Cuộc đấu tranh dành chủ quyền và đất nước riêng cho dân thiểu số Tamil không thành công và nay cuộc chiến coi như bị thất bại hoàn toàn, sau khi thủ lãnh của tổ chức này tự vẫn trên chiến trường.
Về yếu tố thời gian thì biến cố này đã xẩy ra trong tháng 5/2009; nhưng vì sự quan trọng của nó, vì có bàn tay của Tầu Cộng nhúng vào, nên chúng tôi muốn giới thiệu tới độc giả để Quí Vị có cái nhìn chính xác hơn về Tích Lan.
1- Đôi hàng lịch sử Tích Lan
Về truyền thuyết: Trong sách Mahavamsa có kể về một Công-chúa lãng mạn mà người ta nghĩ là nàng muốn giao tình với sư tử. Do đó nàng không còn được coi trọng trong gia đình vì cái tính kỳ cục của mình, nên quyết định bỏ nhà ra đi. Nàng tham dự vào đoàn lữ hành, nhưng đoàn này bị một con sư tử tấn công. Tất cả các người lữ hành đều bỏ chạy, chỉ còn lại một mình Công-chúa đứng âu yếm nhìn sư tử. Con sư tử bỗng trở nên thân thiện và để nàng cỡi lên, rồi chạy vào rừng. Sau sự giao hợp với sư tử, nàng sinh đôi, một trai và một gái, đặt tên là Sinhabahu và Sinhasivali (chữ Sinha đối với ngôn ngữ của người Sinhalese và Tamil đều có nghĩa là sư tử).
Khi hai đứa trẻ lớn lên, chúng lìa xa gia đình. Sau đó người con trai giết chết sư tử và lấy em gái mình làm vợ. Hai người sinh một bọc có 16 con trai. Vì tính hung bạo và tàn ác, người con trưởng tên là Vijaya bị cha đuổi đi cùng với 700 con cháu. Vijaya đem con cháu đến đảo Lanka vào cùng ngày Đức Phật nhập Niết Bàn. Khi tới đảo, Vijaya gặp nữ quỷ Kuvanna, người đã giết 700 con cháu của chàng. Vijaya ép nữ quỷ kết bạn trăm năm và tạo quyền lực cho chàng. Nữ quỷ Kuvanna đã làm theo ý chàng dù phản bội dân mình và Vijaya đã giết hết lũ quỷ trên đảo này. Nhưng cùng vào thời điểm đó chàng Vijaya đã hứa hôn với công chúa của vua Pandu ở phía Nam Ấn Độ. Khi con gái vua tới đảo Lanka, Vijaya bắt nữ quỷ Kuvanna phải trốn đi. Sau đó chàng kết hôn với công chúa. Bằng cách này Vijaya nắm toàn quyền trên đảo. Biên niên sử kể rằng người Sinhalese xuất phát từ Vijaya và dân chàng. Sách cũng kể rằng Sri Lanka là đất hứa của Phật Giáo và người Sinhalese là dân phải bảo vệ đạo này.
Về dân tộc & tôn giáo
Dân Tích Lan có khoảng 20.242.000 người, bao gồm nhiều giống dân khác nhau: Sinhalese: 73,8%, Tamil: 13,9%, Moors:7,2%, Tamil gốc Ấn Độ: 4,6%, các dân tộc thiểu số khác: Burghers, Kaffirs, Malays và Veddha: 0,5%. Dân Sinhalese, nói tiếng Sinhala, theo đạo Phật giáo, chiếm đa số trong các cơ cấu chính quyền. Xưa kia Tích Lan được coi là một trung tâm của Phật Giáo trong vùng Á Châu. Thực-dân Anh chiếm Tích Lan năm 1815 và đưa một số dân từ miền Nam Ấn Độ đến đây để khai thác các nông trại trồng trà, cà phê và cao su. Phần lớn số người này là người Tamil và do làm việc với người Anh, nên các sinh hoạt chịu ảnh hưởng văn hóa của Tây-phương. Do đó, dưới con mắt dân Sinhalese và chính quyền Tích Lan, người Tamil bị coi là hợp tác với Thực-dân Anh, nên bị kỳ thị, không có quốc tịch và quyền bầu cử.
Các tôn giáo chính tại Sri Lanka gồm: Phật Giáo chiếm khoảng 70%, Ấn Độ Giáo (Hinduism): 15%; Thiên Chúa Giáo: 8%; Islam: 7%.
Về lịch sử cận đại
Eelan là tên thời xưa của quốc gia Tích Lan (Ceylon thời thuộc địa Anh) hay Sri Lanka ngày nay. Tích Lan là vị trí giao thông chiến lược hàng hải. Nhiều tuyến đường biển từ vùng Tây Á và Đông Nam Á Châu gặp nhau tại đây. Sau khi chiếm Tích Lan vào năm 1815, Thực-dân Anh thành lập hội đồng lập pháp vào năm 1833 gồm bốn đại diện: 3 người Âu Châu và đại diện của các dân tộc thiểu số: 1 người Sinhalese, 1 Tamil và 1 Burgher. Đến năm 1921 dưới thời toàn quyền William Manning hội đồng này cải tổ theo tư tưởng công xã. Nhân cơ hội này người Tamil muốn có đại diện riêng của mình bèn thành lập một tổ chức có tên “Hội Nghị Toàn Tích Lan Tamil” (All Ceylon Tamil Congress), do G.G. Ponnambalam đứng đầu.
Đến năm 1948 Anh quốc trao trả độc lập cho Tích Lan. Chính phủ mới ra đời đổi tên nước từ Ceylon thành Sri Lanka và ban hành “Đạo-luật Công-dân Tích Lan” (The Ceylon Citizen Act) trong đó tước quyền ứng cử và bầu cử của các công nhân đồn điền người Tamil gốc Ấn Độ mà Thực-dân Anh đã tuyển mộ và đem đến Tích Lan. Thủ lãnh Ponnambalan im lặng khiến cho người Tamil nghĩ ông ta không chú trọng tới quyền lợi của người Tamil gốc Ấn Độ. Năm 1949, một đảng chính trị của người Tamil được thành lập có tên là Đảng Liên Bang (The Federal Party) do S.J.V. Chelvanayakam cầm đầu, tách ra khỏi “Hội Nghị Toàn Tích Lan Tamil”. Năm 1956 chính quyền lại ban hành “Đạo Luật Ngôn Ngữ Chính” (The Official Language Act hay Sinhala Only Act) lấy ngôn ngữ Sinhala làm tiếng nói chính của Tích Lan. Hai đạo luật này bị coi là kỳ thị chủng tộc đưa tới sự căng thẳng chính trị giữa hai sắc dân Sinhalese và Tamil. Đảng Liên Bang chống hai đạo luật này nên trở thành nổi tiếng trong dân Tamil qua các cuộc bầu cử đòi bình đẳng và chấp nhận hai ngôn ngữ Tamil và Sinhala trong mọi cơ cấu của đất nước. Đảng Liên Bang dự trù thành lập vùng tự trị cho dân Tamil, nhưng không được đảng của dân Sinhalese chấp nhận.
Về sinh hoạt chính trị
Năm 1970 Mặt-trận Thống-nhất do Sirimavo Bandaranaike cầm đầu thắng cử và lên nắm chính quyền. Dựa vào đa số dân Sinhalese, đảng cầm quyền ngang nhiên ban hành chính sách giới hạn sinh viên Tamil và sinh viên của các dân tộc thiểu số khác vào đại học, bằng cách đòi hỏi số điểm đậu phải cao hơn sinh viên Sinhalese. Ngoài ra, số lượng được thâu nhận người Tamil làm việc trong cơ cấu công quyền cũng bị hạn chế, chỉ khoảng 10%. Đảng Liên Bang phản đối và Chelvanyakam phải từ chức trong Quốc-hội. Hiến-pháp mới năm 1972 cũng có nhiều điều luật kỳ thị đối với dân Tamil khiến cho tuổi trẻ Tamil muốn thành lập quốc gia riêng cho người dân mình. Năm 1973, các đảng của người Tamil đòi hỏi các vùng tự trị của họ trở thành quốc gia riêng biệt mang tên Tamil Eelam. Năm 1975 các đảng người Tamil kết hợp thành “Mặt-trận Tamil Thống-nhất Giải-phóng” (The Tamil United Liberation Front: TULF). Năm 1976, đại hội đầu tiên của Mặt-trận được tổ chức tại Vaddukodai đã thông qua một quyết định mang tên Quyết Định Vaddukodai, trong đó lên án chính quyền do người Sinhalese nắm giữ đã dùng hiếp pháp năm 1972 để hủy bỏ lãnh thổ, ngôn ngữ, quyền công dân, đời sống kinh tế, cơ hội kiếm công ăn việc làm và học vấn của người Tamil. Quyết định kêu gọi thành lập Quốc-gia Tự-do, Chủ-quyền, Xã-hội Trần-thế Tamil Eelam.
Năm 1977 chiến dịch bầu cử mở đầu cho chương trình thành lập quốc gia Tamil đã đưa tới các cuộc xung đột đẫm máu, khiến cho 300 dân Tamil bị giết. Năm 1983 cuộc bạo động khác tiếp diễn được gọi là “Tháng sáu đen” gây tử thương cho khoảng từ 1.000 tới 3.000 người. Chính quyền Sinhalse dùng nhiều biện pháp tàn bạo đối với dân Tamil. Bị áp bức, người Tamil nhận thấy chỉ có giải pháp duy nhất là thành lập một quốc gia riêng biệt để bảo vệ dân mình. Sau hàng chục năm đấu tranh, người Tamil đã dành được quyền tự trị miền Đông-Bắc, có hệ thống luật pháp riêng, lực lượng quân sự Hải-quân (Sea Tigers), Lục-quân và Không-quân (Tamil Air Force), cảnh sát, ngân hàng, đài phát thanh và truyền hình v.v… Song song với lực lượng quân sự, sinh viên ở đại học Jaffina cũng thành hình tổ chức mang tên Pongu Tamil (Cuộc nổi dậy của người Tamil) thu hút khoảng 4.000-5.000 sinh viên. Năm 2003, phong trào này được khoảng 150.000 người hỗ trợ và trở thành biến cố kỷ niệm hàng năm.
Trong những năm vừa qua, người tỵ nạn Tamil ở rải rác trên thế giới đã vận động và thu hút được người ngoại quốc đồng tình ủng hộ như: ở Pháp: 7.000 người, Anh quốc: 30.000; Gia Nã Đại: 75.000; Úc Đại Lợi: 2.000 và nhiều người bản xứ tại các quốc gia Tân Tây Lan, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Ý Đại Lợi, Nam Phi v.v… Biến cố quốc gia Tamil đã được cựu Thủ-tướng nổi danh Á Châu là Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew) của Tân Gia Ba (Singapore) lưu tâm và khuyên nên tìm giải pháp cho Tamil, theo chính sách của Mã Lai trước đây. Sau các cuộc xung đột, Thủ tướng Mã Lai, Tunku Abdul Rahman, đã chấp thuận cho Tân Gia Ba tự trị, tách khỏi Mã Lai để thành hình quốc gia Tân Gia Ba giầu có ngày nay.
Nhưng kể từ khi cuộc khủng bố tại Hoa Kỳ ngày 11.9.2001, Tổng-thống George W. Bush đề ra chính sách chống khủng bố trên toàn thế giới, thì hầu hết các tổ chức mệnh danh là giải phóng dân tộc hay dành quyền tự trị đều bị liệt vào tổ chức khủng bố. Tamil Tigers cũng không thoát khỏi số phận, bị Hoa Kỳ và Đồng-minh Tây-phươmg xếp vào danh sách của các tổ chức khủng bố. Các cuộc đàm phán để giải quyết dứt khoát cuộc chiến đã kéo dài 27 năm giữa chính quyền Tích Lan và Các Mãnh Hổ Tamil do Na Uy làm trung gian bị thất bại. Kể từ tháng 2/2009, nhờ Tầu Cộng hỗ trợ, chính quyền Sri Lanka hủy bỏ hệ thống tự trị của dân Tamil và mở cuộc tổng tấn công vào các lãnh thổ do Tamil Tigers quản trị. Với quân số ít và vũ khí thô sơ, Các Mãnh Hổ Tamil bị thua lớn và phải tuyên bố buông súng. Vì không muốn bị bắt, Thủ lãnh Velupillai Prabhakaran đã tự tử bằng thuốc độc cyanid mà ông ta luôn để trong túi nhỏ treo trước ngực.
2- Nguyên nhân thành hình của tổ chức “Tamil Tigers”
Ông bà chúng ta thường nói: “Không có lửa làm sao có khói?” Tích Lan, đất nước mà, về tôn giáo, người ta thường gọi là quê hương thứ hai của Đức Phật, sau Népal, đã rơi vào tình trạng khủng hoảng chính trị. Vấn đề chủng tộc đa số và thiểu số cùng với sự khác biệt tôn giáo đã trở thành các cuộc tranh chấp về quyền lợi trong xã hội. Tổ chức “Các Mãnh Hổ Tamil” được thành hình do các nguyên nhân:
-Dân số của Tích Lan hơn 20 triệu người, trong đó người Sinhalese theo Phật-giáo chiếm tới trên 70% và sinh sống tại vùng phía Nam và miền Trung-tâm. Số còn lại: Ấn Giáo (Hinduism) 15%, Tamil: 10%, Thiên Chúa Giáo 8%, Muslim: 7%. Phần lớn, 90%, dân Tamil sống ở vùng Đông-Bắc
-Sau khi Thực-dân Anh trao trả độc lập thì người Tamil theo đạo Hindu gốc Ấn Độ được Thực-dân Anh đem tới đảo Tích Lan trước đây lại không được nhập quốc tịch và bị đuổi về Ấn Độ, mặc dù con cháu của họ được sinh ra tại Tích Lan.
-Dựa vào đa số, người Sinhalese nắm hầu hết quyền hành trong các cơ cấu của chính quyền và dành được nhiều ưu tiên về quyền lợi trong xã hội. Chỉ tiếng Sinhala được coi là ngôn ngữ chính áp dụng trong tất cả các lãnh vực và Phật Giáo trở thành quốc giáo được qui định trong hiếp pháp 1972.
-Người Sinhalese có tinh thần quốc gia cực đoan lại moi lại đống tro tàn lịch sử, ghen tức dân Tamil và các dân tộc thiểu số khác được hưởng nhiều quyền lợi, cả về giáo dục và kinh tế, xã hội dưới thời Thực-dân Anh. Nay người Anh không còn, lợi dụng đa số, người Sinhalese bắt đầu kỳ thị các sắc dân thiểu số khác để dành mọi quyền lợi ưu tiên cho chủng tộc mình.
3- Các hoạt động quân sự của Tamil Tigers
Ban đầu noi gương thánh Gandhi của Ấn Độ, các sinh viên Tamil tổ chức biểu tình bất bạo động và tuyệt thực để phản đối chính sách kỳ thị của chính phủ. Nhưng các cuộc biểu tình và tuyệt thực không làm cho chính quyền thay đổi chính sách kỳ thị và đàn áp khiến cho Các Mãnh Hổ Tamil bắt đầu thực hiện các cuộc tấn công bằng quân sự.
Năm 1983 Các Mãnh Hổ Tamil mở màn cho các hoạt động quân sự bằng cuộc tấn công một đồn lính, giết chết 15 người. Biến cố này đưa tới cuộc biểu tình bạo động lớn nhất trong lịch sử của người Sinhalese tại thủ đô Colombo. Nhà cửa của người Tamil bị đốt phá và khoảng 3.000 người Tamil bị sát hại.
Tamil Tigers có khoảng 15.000 tay súng. Hoạt động chủ yếu của Tamil Tigers là khủng bố các cơ sở của chính quyền và quân đội, bằng bom nổ và bom tự sát. Cái hay của thủ lãnh Prabhakaran là khuyến khích được phụ nữ đeo bom tự sát trong mình và trước khi những người này thi hành nhiệm vụ, ông ta thường cùng ăn bữa cơm cuối cùng với họ, như một sự khích lệ và tuyên dương công trạng.
Năm 1975 thủ lãnh Prabhakaran bắn chết tỉnh trưởng Jaffna ở phía Bắc. Năm 1986 Tamil Tigers giết chết thủ lãnh của Tổ-chức Giải-phóng Lãnh-thổ Tamil Eelam và 200 thành viên, để dành độc quyền đại diện cho dân Tamil về lãnh vực chính trị. Tamil Tigers đã trực tiếp nhúng tay vào cuộc khủng bố bằng bom tự sát giết chết Tổng-thống thứ ba của Tích Lan là Ranasinghe Premadasa vào năm 1988, khi ông này đang dự cuộc diễn hành kỷ niệm ngày độc lập của đất nước tại thủ đô Colombo. Tamil Tigers cũng giết chết nữ ứng cử viên Tổng-thống Chandrika Kumaratunga trong cuộc tranh cử vào tháng 12/1999, và các cuộc khủng bố người Sinhalese và Muslim. Chính các hoạt động khủng bố và sử dụng trẻ em trên chiến trường đã làm cho Tamil Tigers ngày một mất tiếng trên chính trường thế giới và mất sự ủng hộ của nhiều người.
Ngược lại, Tamil Tigers cũng bị giết khoảng 20.000 người. Cái yếu của thủ lãnh Tamil Tigers là quá cứng rắn về quân sự và yếu về phương diện tuyên truyền và ngoại giao; nên mất sự hỗ trợ của các chính phủ ngoại quốc. Tamil Tigers bị 32 quốc gia xếp vào danh sách các tổ chức khủng bố trên thế giới. Tháng 2/2002 trước áp lực thế giới và nhu cầu hòa bình, Tamil Tigers đã đồng ý ngưng chiến và bỏ đòi hỏi thành lập quốc gia riêng biệt; nhưng phải được chia sẻ quyền lực với chính phủ Tích Lan. Na Uy và một vài quốc gia đồng ý làm quan sát viên cho cuộc ngưng chiến. Nhưng qua năm 2003 sau khi bị loại khỏi cuộc bầu cử quốc hội, Tamil Tigers hủy bỏ thỏa hiệp ngưng chiến. Các cuộc khủng bố bằng bom tự sát tiếp tục được thi hành. Hậu quả của cuộc chiến kéo dài 27 năm đã đưa tới cái chết của khoảng 90.000 người.
4- Ai hỗ trợ Tamil Tigers?
Khi nói Các Mãnh Hổ Tamil có lực lượng Bộ-binh, Hải-quân và Không-quân người ta nghĩ ngay tới vấn đề ai hỗ trợ?
Như trên đã trình bày, Thực-dân Anh đưa những người Tamil ở phía Nam Ấn Độ tới Tích Lan thì sự liên hệ giữa những người Tamil theo đạo Ấn với đất nước Ấn Độ vẫn còn. Do đó, trong cuộc đấu tranh đòi hỏi quyền lợi cho dân Tamil ở Tích Lan, dĩ nhiên có sự hậu thuận của chính quyền Ấn. Trong thập niên 1980, quân Ấn mang danh bảo vệ hòa bình đã được điều động tới giữ gìn an ninh và làm giảm sự căng thẳng giữa Tamil Tigers và chính quyền Tích Lan. Nhưng vào năm 1990 lực lượng Ấn rút khỏi Tích Lan, vì không giải quyết được tình trạng tiếp tục bạo động tại quốc gia này. Nhận thấy quân đội và chính phủ Ấn không nhiệt thành hỗ trợ dân Tamil trong cuộc tranh đấu đòi tự chủ cho dân Tamil, Các Mãnh Hổ Tamil bất mãn và quyết định tấn công cả các nhân vật quan trọng trong chính quyền Ấn. Người ta nghĩ Thủ-tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi bị ám sát vào năm 1991 cũng do tổ chức này chủ mưu.
Ngoài Ấn Độ, người Tamil tị nạn trên thế giới đã đóng góp rất nhiều công sức và tiền bạc cho Các Mãnh Hổ Tamil. Ngoài các hoạt động yểm trợ về truyền thông báo chí và biểu tình, theo báo Time mỗi năm người Tamil tị nạn tại các quốc gia trên thế giới; đặc biệt tại Tây-phương, Gia Nã Đại và Úc Đại Lợi v.v… đã yểm trợ cho Các Mãnh Hổ Tamil khoảng 200 triệu Mỹ-kim (US Dollar).
Dựa vào thành quả trên, chúng tôi nhận thấy người Tamil tị nạn đã học được bài học kháng chiến và yểm trợ kháng chiến giống như Phong trào Giải-phóng Palestina “PLO” (Palestina Liberation Organization) của Yassir Arafat trong thập niên 1970-1980. Đây là những bài học quí giá cho các tổ chức kháng chiến trên thế giới.
5- Ai giúp chính quyền Tích Lan tiêu diệt Tamil Tigers?
Có thể nói, ngày nay Hoa Kỳ và Đồng-minh Tây-phương đang bị rơi vào tình trạng bị Tầu Cộng qua mặt về chính sách đòi hỏi về Nhân-quyền và phong tỏa kinh tế đối với các quốc gia không tôn trọng Nhân-quyền. Khi một chế độ độc tài cai trị độc đoán và đàn áp các tổ chức đòi dân chủ, tự do và nhân quyền thì Hoa Kỳ và Đồng-minh thường lên án. Khi tình trạng vi phạm lên cao thì các chế độ độc tài bị phong tỏa kinh tế, cấm bán vũ khí v.v.... Tầu Cộng lưu manh hơn, họ lợi dụng tình trạng này để gây ảnh hưởng đối với các quốc gia liên hệ bằng chính sách bán vũ khí không hạn chế, viện trợ tài chính để giải quyết khủng hoảng kinh tế hoặc cho vay với số lời rất thấp trong thời gian dài hạn. Các nước bị phong tỏa kinh tế và quân sự đang là bạn của Hoa Kỳ và Tây-phương nay trở thành thù định. Họ bị rơi vào cái hố lớn mà không biết. Chịu ơn thì phải dành các ưu tiên cho Tầu Cộng về phương diện kinh tế và quốc phòng. Tầu Cộng được xây dựng các hải cảng, bề ngoài nói là mở mang thị trường xuất nhập cảng, nhưng trong sách lược thì các hải cảng này sẽ trở thành điểm chiến lược của Hải-quân Tầu. Tầu Cộng cũng đòi hỏi được ưu tiên trong việc khai thác mỏ quặng, sử dụng công nhân Tầu và độc quyền xuất cảng hàng hóa cũng như nguyên liệu sản xuất vào các nước con nợ.
Ngoài Việt Nam, Miến Điện…, Tích Lan đã trở thành một con mồi ngon. Sau khi bị Hoa Kỳ và Tây-phương cúp viện trợ trực tiếp (Hoa Kỳ: 7,4 triệu USD và Anh quốc 1,24 triệu Bảng Anh) và phong tỏa về quân sự thì chính quyền Tích Lan đã quay sang chơi thân với Tầu Cộng và được giúp 1 tỷ USD cùng với hàng tấn quân dụng, đạn dược. Theo Viện nghiên cứu Hòa-bình Thế-giới tại Stockholm của Thụy Điển thì năm 2008 Tầu Cộng đã cho không Tích Lan 6 phản lực cơ chiến đấu Jian-7, sau khi phi cơ của Tamil Tigers tấn công phi trường và tiêu hủy 10 phi cơ của Không-quân Tích Lan vào năm 2007. Một trong các phi cơ của Tầu đã bắn hạ phi cơ của Tamil Tigers vào năm 2008.
Theo tin an ninh tình báo của Ấn Độ thì từ năm 2007, Tầu Cộng khuyến khích Pakistan bán vũ khí và huấn luyện phi công Tích Lan lái máy bay do Tầu Cộng tặng. Ngoài việc cung cấp vũ khí, Tầu Cộng còn ngăn chặn việc đưa vấn đề Tích Lan ra trước Hội-đồng Bảo-an Liên Hiệp Quốc. Trong cuộc tổng tấn công vào chiến khu của Tamil, quân đội Tích Lan đã dùng phản lực cơ chiến đấu Jian-7, các súng phòng không và hệ thống Radar JY-11 3D do Tầu cung cấp. Không chỉ thế, Tầu Cộng còn che dấu hành động của mình bằng cách nhờ đồng minh Pakistan mỗi năm viện trợ quân sự cho chính quyền Tích Lan 100 triệu USD.
Bài Biến cố trong tháng 6 vừa qua, chúng tôi có đề cập tới vấn đề Tổng-thống Pakistan xin chính phủ Mỹ viện trợ 5 tỷ USD cho Hồi Quốc và A Phú Hãn trong 5 năm; vậy Pakistan lấy tiền đâu để giúp Tích Lan, khi kinh tế Pakistan đang suy thoái trầm trọng? Hiện Tầu Cộng đã đổ hơn 1 tỷ USD xây xa lộ, hai nhà máy phát điện và hải khẩu mới tại Hambantota, thành phố quê hương của Tổng-thống Tích Lan Mahinda Rajapakse. Hambantota một thời được được Ngũ Giác Đài (Pantagon) sử dụng làm trường huấn luyện Hải-quân Mỹ. Như vậy Tích Lan có thể rơi vào tình trạng bị lệ thuộc trầm trọng vào Tầu Cộng. Khi có hành động phản lại thì qua đảng cộng sản Tích Lan, Tầu Cộng sẽ lật đổ bất cứ Tổng-thống nào của nước này. Đây cũng là sách lược Tầu Cộng áp dụng tại Népal trong kế hoạch lật đổ vương quyền.
Theo Brahma Chellaney, chuyên gia về chiến lược ngoại giao, thì Tầu Cộng không sợ tốn khi viện trợ cho Tích Lan, với mục đích muốn dùng nước này làm điểm chiến lược trong việc kiểm soát đường hàng hải chuyên chở dầu hỏa từ Ấn Độ Dương (Indian Ocean) qua Thái Bình Dương (Pacific Ocean), phòng ngừa khi bị Hoa Kỳ và Tây-phương phong tỏa về nhiên liệu. Về phương diện kinh tế khi sản xuất được hàng hóa mà không có thị trường tiêu thụ sẽ bị lỗ vốn và phá sản. Khi có thị trường tiêu thụ mà không có phương tiện chuyên chở hoặc phải thuê phương tiện chuyên chở mắc mỏ thì giá hàng lên cao, cũng bị khủng hoảng. Ngày nay, Tầu Cộng đứng hàng thứ hai trên thế giới về kinh tế. Hàng hóa của Tầu Cộng sản xuất càng nhiều thì càng cần có phương tiện chuyển vận đến các thị trường Âu Châu, Mỹ Châu, Trung Đông v.v…
Muốn bảo vệ nền ngoại thương, bảo đảm được đường chuyển vận hàng hải để không bị hải tặc cướp hoặc không phải thuê tầu buôn ngoại quốc chuyên chở thì Tầu Cộng phải tự mình chuyển hàng hóa đi bán. Do đó phải phát triển hải quân. Các thương thuyền thời bình là các hạm đội chở hàng xuất cảng, thời chiến là các hạm đội chuyên chở chiến cụ và tiếp tế. Trong tương lai có thể thương thuyền của Tầu sẽ phát triển mạnh, đủ sức cạnh tranh với các thương thuyền của các quốc gia, và biết đâu sẽ làm phá sản các công ty hàng hải của các nước trên thế giới. Tầu Cộng đã xây dựng các hải cảng tại Miến Điện (Myammar), Wardar nay mở rộng thành căn cứ Hải-quân tại Hồi Quốc (Pakistan), tại Bangladesh. Tầu Cộng cũng mở rộng đường buôn tới các đảo thuộc Ấn Độ Dương như: Maldives, Seychelle, Mauritius, Madagascar. Kiểm soát được Ấn Độ Dương, Tầu Cộng sẽ bảo vệ được nguồn cung cấp nhiên liệu, đặc biệt tuyến hàng hải chở dầu hỏa từ Trung Đông qua ngã vịnh Ba Tư (Iran) và từ Phi Châu về Trung Quốc.
Theo chiều hướng này, tháng 12/2008, Tầu Cộng đã gửi 3 chiến hạm đến vùng vịnh Aden thuộc hải phận Somalia, để chặn đứng cướp biển và bảo vệ các tầu buôn của họ chuyển hàng tới Âu Châu qua ngã kinh đào Suez của Ai Cập và xuống phía Nam Phi Châu. Đây là bằng chứng chứng minh tại sao Tầu Cộng phát triển việc khai thác và xây dựng các hải cảng ở ngoại quốc trong thời bình. Các hải cảng này dĩ nhiên sẽ trở thành căn cứ hải quân khi có chiến sự. Đảo Guam của Hoa Kỳ là một ví dụ cụ thể về điểm chiến lược của Hải-quân Mỹ tại Thái Bình Dương mà ngày nay Tầu Cộng đã học được.
Kết luận
Từ khi chính quyền Tích Lan mở cuộc tổng tấn công vào vùng phía Bắc và khi quân Tamil Tigers bị tổn thất nặng thì các cuộc biểu tình chống chính quyền Tích Lan và các chính quyền không ủng hộ Tamil Tigers đã diễn ra tại một số các quốc gia Âu Châu như: Anh quốc, Đan Mạch, Đức, Gia Nã Đại, Pháp, Thụy Sĩ, Na Uy, Úc Đại Lợi và Hoa Kỳ. Ngày 19.5.2009, sau cái chết của thủ lãnh Prabhakaran, Tổng-thống Mahinda Rajapaksa của Tích Lan đã tuyên bố toàn quốc chiến thắng Tamil Tigers. Hàng ngàn người đã xuống đường ăn mừng chiến thắng.
Nhưng sau bức màn chiến thắng này, mấy ai hiểu được: vì quyền lợi lâu dài, Tầu Cộng đổ tiền bạc, quân dụng, vũ khí vào Tích Lan để chính quyền nước này dẹp tan Tamil Tigers, trước sự hờ hững của Hoa Kỳ và Đồng-minh Tây-phương. Các cuộc biểu tình của dân tị nạn Tamil trên thế giới không làm cho các chính phủ Mỹ, Liên Hiệp Âu Châu và Ấn Độ tích cực can thiệp vào Tích Lan. Hình ảnh dân Tamil không khác hình ảnh Tây Tạng (Tibet). Thế giới lạnh lùng nhìn. Bên kia thì Tầu Cộng ăn mừng, vì đạt được một hải cảng chiến lược cho Hải-quân có giá trị bằng cả tỷ USD, làm chủ Ấn Độ Dương và bảo vệ nguồn tiếp tế nguyên liệu từ Ả Rập Saudi và vùng vịnh Ba Tư. Tổng-trưởng Nội-vụ của Ấn Độ, Palaniappan Chidambaram, đã phát biểu khá chính xác: Tầu Cộng lợi dụng “Nước đục thả câu” (Chinese is fishing in troubled waters) trong khi Hoa Kỳ và Tây Phương đang bị khủng hoảng kinh tế, tài chính; bị chia rẽ về chiến tranh chống khủng bố và nhu nhược đối với Bắc Hàn và Iran.
Liệu Pakistan & Hoa Kỳ có thắng được Du Kích quân Taleban không?
Liệu Pakistan & Hoa Kỳ có thắng được Du Kích quân Taleban không?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Trong những ngày vừa qua, cuộc chiến giữa quân đội Hồi Quốc (Pakistan) và nhóm Taleban đã diễn ra ác liệt. Gần nửa triệu người dân đã phải bỏ nhà cửa và đồ đạc để chạy khỏi vùng giao tranh. Thực phẩm thiếu, nước uống không trong lành và nhà vệ sinh không đủ sạch sẽ sẽ gây nên bệnh hoạn, đặc biệt đối với các cụ già và trẻ thơ. Trước tai họa này không chỉ chính quyền Hồi Quốc mà cả Liên Hiệp Quốc đang khẩn cấp tìm biện pháp cứu trợ nạn nhân chiến tranh. Nhiều người tự hỏi:
-Tại sao chính phủ Hồi Quốc trong đầu tháng 5/2009 đã chấp nhận cho nhóm Taleban được kiểm soát và ban hành luật "Sharia "tại vùng thung lũng Swat, nay lại hành quân tấn công nhóm này?
Để hiểu rõ cuộc chiến đang diễn ra tại Hồi Quốc, mời quí độc giả theo dõi các mục dưới đây:
1- Nhóm Taleban là ai?
Ngược dòng thời gian chắc quí độc giả còn nhớ Cộng sản Liên Bang Sô Viết đã xâm lăng A Phú Hãn (Afghanistan) vào thập niên 1980. Hoa Kỳ muốn đẩy Liên Sô ra khỏi vùng này, nên hỗ trợ tài chính và vũ khí cho kháng chiến quân Mujahideen do Mullah Mohammad Omar chỉ huy. Các kháng chiến quân phần lớn thuộc dân tộc Pastun ở trung tâm lãnh thổ Talebanistan; nên tổ chức kháng chiến có tên là Taleban. Được Cơ-quan Tình-báo Trung-ương Hoa Kỳ C.I.A (Central Intellingence Agency) hậu thuẫn, Sở Tình-báo Hồi Quốc "ISI " (Inter-Service Intelligence) trực tiếp trợ giúp việc tổ chức và huấn luyện cho Taleban, dùng biên giới A Phú Hãn và Hồi Quốc làm địa bàn tấn công vào các lực lượng của Sô Viết tại A Phú Hãn. Năm 1992, kháng chiến quân mở rộng vùng hoạt động, lấy thành phố Kandahar nằm về phía Nam A Phú Hãn làm cơ sở và tiến lên giải phóng thủ đô Kabul. Cuộc kháng chiến thành công. Chế-độ Cộng-sản Kabul bị lật đổ. Tổng-thống Mohammad Najibullah tay sai của Liên Sô bị treo cổ. Quân đội Liên Sô thua to phải rút về nước. Taleban lên nắm chính quyền và cai trị một cách độc đoán, qua việc ban hành luật Sharia của đạo Islam. Tất cả tài liệu phim ảnh, sách báo, ca nhạc và văn hóa đồi truỵ của Tây-phương đều bị đốt; phụ nữ phải ở nhà, trẻ gái trên 10 tuổi không được đến trường học và khi ra ngoài đường đàn bà phải mặc áo chùm kín mặt chỉ để lộ hai con mắt v.v…
Hồi Quốc, Ả-rập Saudi và Liên-hiệp Ả-rập Emirates là ba nước đầu tiên công nhận chính quyền Taleban. Thủ lãnh của Taleban là Mullah Mohammad Omar không chỉ cho trùm khủng bố Osama Bin Laden mượn đất thành lập tổ chức Al-Qaeda và các trung tâm huấn luyện khủng bố, mà còn gả con gái cho Osama Bin-Laden nữa. Do đó, tuy là hai tổ chức riêng biệt, nhưng các hoạt động của Omar và Bin-Laden đều lấy danh nghĩa đạo Islam chống Hoa Kỳ và Đồng-minh Tây-phương. Sau cuộc khủng bố tại Nữu Ước (New York) và Hoa Thịnh Đốn (Washington D.C) ngày 11.9.2001, Hoa Kỳ bắt đầu tấn công các cơ sở của nhóm cầm quyền Taleban và các trung tâm huấn luyện của tổ chức khủng bố Al-Qaeda tại A Phú Hãn bằng hỏa tiễn phóng từ các chiến hạm và phi cơ. Sau đó, năm 2003 quân đội Mỹ đổ bộ vào nước này. Nhóm cầm quyền Taleban bị sụp đổ. Thủ lãnh Mullah Mohammad Omar của Taleban và Osama bin-Laden của Al-Qaeda bị thua phải đem quân chạy trốn vào vùng đồi núi giáp biên giới A Phú Hãn và Hồi Quốc. Cho đến nay quân đội Mỹ và Đồng-minh vẫn chưa bắt được hoặc biết rõ tin tức hai nhân vật nguy hiểm này đang ở đâu, còn sống hay đã chết?
2- Thoả hiệp giữa Taleban và chính quyền Hồi Quốc
Kể từ khi bị quân đội khối NATO do Mỹ cầm đầu chiếm A Phú Hãn, quân Taleban và Al-Qaeda chạy trốn tại các vùng núi đồi gần biên giới Hồi Quốc và tiếp tục hoạt động du kích không chỉ chống quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh NATO mà còn gây rối loạn tại vùng biên giới giữa hai nước. Qua các nhóm Taleban địa phương ở Hồi Quốc Taleban tố cáo chính quyền Hồi Quốc là tay sai của Mỹ. Để cảnh cáo việc hợp tác với Hoa Kỳ, Taleban cho thực hiện nhiều cuộc tấn công cơ sở của Mỹ, Đồng-minh và chính phủ Hồi Quốc bằng bom tự sát. Cuộc ám sát nữ Thủ-tướng Benazir Bhutto cũng nằm trong kế hoạch này. Vùng phía Tây-Bắc của Hồi Quốc trở nên bất ổn đến nỗi chính quyền phải chấp thuận ngưng chiến và cho Taleban quyền kiểm soát tại vùng thung lũng Swat, kể cả việc ban hành luật Sharia tại Malakand vào tháng 2/2009, với điều kiện Taleban phải giải tán và nộp vũ khí cho chính quyền. Thừa thắng xông lên, Taleban tiếp tục đối xử tàn bạo đối với ai chống lại chúng. Các trường học dành cho nữ sinh bị phá, phụ nữ phải tôn trọng các qui định như Taleban đã ban hành khi nắm quyền tại A Phú Hãn. Trong tháng 4/2009 quân Taleban không chịu bỏ vũ khí mà còn tiếp tục tiến xuống phía Nam, chỉ cách thủ đô Islamabad khoảng 100 cây số. Tình hình trở nên khẩn cấp khiến cho chính phủ Mỹ và Tây-phương lo ngại Taleban có thể chiếm luôn thủ đô Islamabad và cướp kho vũ khí nguyên tử.
Về lịch sử, vùng Waziristan là đất của Bộ-lạc Pastun, nơi mà dưới thời kỳ thuộc địa, Đế-quốc Anh cũng không thể đàn áp nổi, nên đành phải cho họ tự trị. Dân bộ lạc Pastun cũng chiếm đa số tại A Phú Hãn và Taleban là tổ chức của người Pastun bắt nguồn từ trung tâm lãnh thổ Talebanistan. Khi Hồi Quốc dành được độc lập vào năm 1947, chính phủ vẫn tôn trọng những thỏa hiệp trước đây. Đến nay, quân đội Hồi cũng không thể kiểm soát được vùng Waziristan, bị tổn thất hơn 700 lính trong các cuộc giao tranh với du kích quân, nên phải thỏa hiệp với điều kiện của Taleban là quân đội Hồi phải hủy bỏ các chướng ngại vật và đồn kiểm soát trên trục lộ giao thông vào vùng này. Đổi lại, quân Taleban hứa sẽ không tấn công quân đội và chấm dứt vượt qua biên giới tấn công vào A Phú Hãn. Giới nhận định thời cuộc cho rằng quân đội Hồi Quốc đã thua cuộc chơi này. Bằng chứng là sau khi quân đội chấm dứt các cuộc hành quân vùng biên giới thì các cuộc tấn công vượt qua biên giới vào A Phú Hãn gia tăng và số lượng bom tự sát nhắm vào các đơn vị và cơ sở của quân đội Mỹ, NATO và chính quyền A Phú Hãn lên cao gấp ba lần.
Taleban lợi dụng các đền thờ Islam có cảm tình với họ để tuyển mộ chiến binh chống quân đội Mỹ và Tây-phương tại A Phú Hãn. Nhờ tiền bạc và lợi dụng danh nghĩa Islam Taleban khuyến khích thanh thiếu niên tham gia thánh chiến và tình nguyện mang bom tự sát. Taleban cũng dùng chiến thuật khủng bố thủ lãnh của các bộ lạc, nếu họ không chịu cộng tác.
Một trường hợp điển hình đã xẩy ra. Báo TIME trong một cuộc phỏng vấn kể lại rằng: Malik Haji Awar Khan, 55 tuổi, thủ lãnh của 2.000 chiến binh bộ lạc Mutakhel Wazir ở phía Bắc Waziristan đã sát cánh với Taleban một năm trước đây. Khi ông ta không tiếp tục nữa, quân Taleban bắt cóc con nhỏ của ông. Awar Khan từng là cựu kháng chiến quân Mujahideen tham gia thánh chiến chống Sô-viết vào thập niên 1980; nhưng nay ông không thích chiến đấu trong hàng ngũ Taleban và Al-Qaeda với lý do bọn này chỉ vì tiền và quyền lực. Malik Sher Muhammad Khan, một thủ lãnh lão thành ở Wana kể rằng Taleban đi trên đường phố la lớn trẻ không được tới trường học các môn mới như toán học và khoa học; phụ nữ không được lái xe. Khi tràn tới vùng Buner, cách thủ đô gần 100 cây số, Taleban cảnh cáo phụ nữ không được ra khỏi nhà, đàn ông không không được cạo râu và các tiệm buôn không được bán phim ảnh và âm nhạc v.v…
Theo Muhammad Khan thì ông và dân làng muốn tiến bộ, vì trong làng có những người không biết viết tên mình. Do đó chỉ có khoảng 5% dân số Waziristan ủng hộ phiến quân. Một số người khác thì vi muốn có tiền, đã cung cấp dịch vụ và cho Taleban thuể đất thành lập trại huấn luyện. Số còn lại đành im lặng vì sợ hãi. Một vài tháng trước đây phiến quân tràn vào lãnh địa của ông vì ông chỉ trích sự hiện diện của chúng trong khu vực. Trong cuộc xung đột, chúng đã ném một trái lựu đạn giết chết vợ ông. Ông ta nói nếu có súng, ông có thể cứu vợ thoát chết. Ông ta cũng than thở là dân làng không có cách nào đuổi chúng đi được; nên vùng này trở thành căn cứ địa của Taleban trong việc huấn luyện quân khủng bố đến từ nhiều quốc gia Trung Đông và Bắc Á.
3- Luật Sharia qui định gì?
Quí độc giả nghe nói nhiều về luật Sharia của đạo Islam được áp dụng tại một số quốc gia; nhân dịp này chúng tôi ghi lại một cách khái quát một số qui định điển hình liên quan đến gia đình và phụ nữ được qui định như sau:
Nguyên nghĩa của Sharia là đường (way) hay lối đi (path). Thực tế Sharia không phát sinh từ Kinh Thánh Koran (Qur’an), không phải là lời trực tiếp của Thượng Đế Allah, nhưng được các hệ phái Islam diễn giải theo quan điểm của mình từ Kinh Koran. Sharia không giống 10 Giới Răn của đạo Do Thái và Thiên Chúa Giáo. Luật lệ và việc thi hành Sharia có một số qui định như sau:
Về hôn nhân: một người đàn ông Muslim chưa có vợ chỉ được kết hôn với một phụ nữ chưa có chồng hay còn trinh trong đạo và ngược lại. Người đàn ông có thể cưới 4 vợ; nhưng chỉ được phép nếu các vợ được đối xử công bằng ngang nhau. Người phụ nữ không thể kết hôn khi không được sự thỏa thuận của người giám hộ của nàng. Nếu cô ta kết hôn thì người chồng sẽ là người giám hộ mới của nàng. Người giám hộ có thể chọn người thích hợp cho cô gái còn trinh; nhưng cô gái được tự do phản đối và có quyền từ chối. Người giám hộ không thể cưới người đàn bà đã ly dị hoặc góa bụa, nếu bà ta không muốn tái hôn. Người phụ nữ chỉ được lấy một chồng. Muốn cưới vợ người đàn ông phải cho nàng một thứ gì đó vì nó là quyền lợi của nàng. Đó là bổn phận của chàng rể phải cho cô dâu một món quà.
Về Ly dị: Người vợ muốn ly dị cần được sự thỏa thuận của chồng. Tuy nhiên, nhiều trường phái cho phép nàng được ly dị nếu nàng chứng minh cho toà án người chồng đối xử tệ bạc, không giúp đỡ tài chính hay bất lực. Nếu người chồng thỏa thuận việc ly dị thì nàng không phải trả lại tặng vật mà chàng đã cho nàng khi kết hôn. Đàn ông có quyền đơn phương ly dị. Sự ly dị chỉ có hiệu quả khi người chồng nói chàng ly dị nàng. Lúc này người đàn ông phải trả cho vợ tặng vật chung do sự trì hoãn. Người phụ nữ ly dị ở tuổi tái lập gia đình phải chờ ba tháng trước khi kết hôn để đảm bảo nàng không có thai và người chồng đã ly dị phải giúp nàng về tài chính trong thời gian này. Trong một số hoàn cảnh (ví dụ như bị lạm dụng), người vợ có thể yêu cầu tòa án cho hai người ly thân. Nếu người đàn ông nói với vợ "Tôi ly dị bà " ba lần thì anh ta không thể kết hôn với nàng nữa, ngoại trừ nàng lấy người khác và lại ly dị. Tuy nhiên, mỗi trường phái giải thích và cho phép hành động khác nhau.
Các qui định khác
Theo Kinh Thánh Koran và điều luật Hadith thì người trộm cắp bị phạt tù hoặc chặt một ngón tay hay ngón chân tùy theo số lần phạm tội và loại tội trạng. Nhẩy đầm và các màn giải trí dưới hình thức hài hước bị cấm. Người đàn ông hay phụ nữ phạm tội ngoại tình sẽ bị phạt ném đá đến chết. Đối với nam và nữ chưa kết hôn thì bị phạt 100 roi đòn…
4- Quốc-gia nào trực tiếp hỗ trợ Taleban?
-Hồi Quốc:
Như trên đã trình bày, Tình báo Hồi Quốc đã trực tiếp trong việc tổ chức, huấn luyện và hỗ trợ Taleban trong cuộc chiến chống Liên Sô xâm lăng vào thập niên 1980. ISI là cơ quan tình báo của quân đội, một trong ba ngành chính của Cục Tình-báo Hồi Quốc (Pakistan’s Intelligence Agencies), được thành lập năm 1947 trong cuộc xung đột Ấn Độ - Hồi Quốc. Sau được cải tổ và thi hành cả nhiệm vụ theo dõi đối lập chính trị, Cố Thủ-tướng Bhutto bị ám sát, theo dư luận có thể có bàn tay của ISI. Trong cuộc phỏng vấn mới đây của báo Thời Báo Washington (Washington Times) đại sứ HờI Quốc tại Hoa Kỳ, Husain Haqqani, xác nhận Sở Tình-báo "ISI " (Inter-Service Intelligence) trợ giúp Taleban đã 20 năm và thời kỳ đắc lực hỗ trợ thánh chiến Jihadis đã qua rồi. Nay đảng cầm quyền, Quốc Dân Đảng Hồi Quốc (Pakistan People’s Party) quyết tâm chống khủng bố và là bạn đồng hành với Hoa Kỳ. Ông cũng kêu gọi Đồng-minh, đặc biệt Hoa Kỳ, hãy quên đi quá khứ và bỏ qua những bất đồng để trợ giúp Pakistan, vì muốn Hồi Quốc thay đổi theo thể chế dân chủ cần phải có thời gian để dân chúng làm quen và chấp nhận. Tuy vậy, Howard Berman, Chủ-tịch Ủy-ban Ngoại-giao Hạ Viện Mỹ đề nghị đạo luật viện trợ quân sự cho Hồi Quốc, nhưng với điều kiện Tổng-thống Mỹ phải bảo đảm việc Hồi Quốc không dùng viện trợ này để giúp khủng bố tấn công vào Ấn Độ. Yêu cầu này phát xuất từ kinh nghiệm tình báo Hồi Quốc đã nhúng tay vào các vụ khủng bố năm 2001-2002 tại Quốc-hội Ấn và vùng Kashmir; và 8 vụ khủng bố tại Mumbai (Bombay), thành phố hải cảng tài chính và lớn nhất của Ấn Độ, vào ngày 26-29.11.2008. Cuộc khủng bố giết chết 173 người và 308 bị thương.
-Iran:
Theo ký giả Kate Clark, cuộc điều tra của đài truyền hình BBC của Anh quốc đã khám phá Iran gửi vũ khí qua biên giới cho Taleban. Sự thật này được xác nhận bởi các thành viên của Taleban là họ nhận được vũ khí do Iran sản xuất từ phía chính phủ và từ nhập lậu. Đại sứ Iran tại thủ đô Kabul phủ nhận điều này và tuyên bố là chính phủ Iran ủng hộ chính quyền của Tổng-thống Hamid Kazai. Tuy nhiên, qua những gì Iran hứa với Liên Hiệp Quốc và Liên Hiệp Âu Châu về việc hủy bỏ chương trình phát triển vũ khí nguyên tử, sau lại tiếp tục chương trình này; người ta không thể tin những gì Iran nói nữa. Một khẩu sung cá nhân Kalashnikov do Iran chế tạo giá bán cao hơn khoảng 200-300 USD so với giá của Hồi Quốc, Nga Sô và Trung Quốc. Một nhóm tại Iran cũng cung cấp loại mìn có tên là "Mìn Rồng " (Dragon mine) có khả năng phá huỷ xe thiết giáp (tank) hạng nặng. Đại sứ Anh ở Kabul, Sir Sheard Cowper-Coles cũng xác nhận có một toán ở nội địa Iran cung cấp vũ khí cho Taleban. Nhưng toán này là ai thì vẫn còn trong bí mật.
5- Chiến lược mới của Hoa Kỳ
Sau 8 năm can thiệp vào A Phú Hãn và hỗ trợ một chính phủ thành hình theo thể chế dân chủ theo Tây phương, chính phủ Mỹ vẫn chưa đạt được thắng lợi hoàn toàn về phương diện an ninh lãnh thổ. Hàng chục ngàn Quân đội Mỹ và Đồng-minh NATO không bảo đảm được an ninh cho dân chúng A Phú Hãn, đặc biệt là vùng phía Nam. Trước tình hình không mấy khả quan như vậy, Tổng-thống Mỹ, Barach Obama, đã quyết định thay đổi chiến lược mà các nhà nhận định thời cuộc gọi là "Cuộc chiến của Obama". Ba trong các quyết định quan trọng là:
-Thay thế Tư-lệnh quân đội Mỹ tại A Phú Hãn, Đại-tướng David McKiernan, người chỉ huy lực lượng Mỹ được 11 tháng qua mà kết quả bình định lãnh thổ chưa đạt được theo yêu cầu. Tư-lệnh chiến trường mới là Trung-tướng Stanley McChrystal, Tham Mưu Trưởng Liên Quân Mỹ. Sự thay đổi Tư-lệnh chiến trường, theo Bộ-trưởng Quốc-phòng Robert Gates là để có tư tưởng và cái nhìn mới về A Phú Hãn.
-Tăng cường 21.000 lính Mỹ, thay vì 17.000 như cựu TT. George W. Bush đề nghị, cho chiến trường A Phú Hãn nhằm tấn công Taleban và Al-Qaeda trên khắp các chiến tuyến, đặc biệt là các vùng ẩn trú của địch tại biên giới giữa hai quốc gia A Phú Hãn và Hồi Quốc.
-Thắt chặt quan hệ ngoại giao giữa hai chính phủ A Phú Hãn và Hồi Quốc, thống nhất kế hoạch tấn công và tiệu diệt quân phiến loạn Taleban và Al-Qaeda. Cuộc họp giữa Tổng-thống Mỹ, Barack Obama, Hamid Kazai (A Phú Hãn) và Asif Ali Zardari (Hồi Quốc) tại Hoa Thịnh Đốn (Washington D.C) vào ngày 6/5/2009 đã chứng minh có sự thống nhất về chiến lược giữa ba chính phủ. Trong cuộc họp thượng đỉnh này Hồi Quốc đề nghị một khoản tiền 30 tỷ Đô-la viện trợ trong thời kỳ 5 năm tới cho hai nước có đủ phương tiện chống Taleban và Al-Qaeda.
Mở đầu cho kế hoạch này, ngày 12/5/2009, quân-đội Hồi Quốc đã huy động khoảng 50.000 lính mở cuộc tấn công vào vùng thung lũng Swat, nơi mà thủ lãnh Taleban ở Wardak tuyên bố họ có 6.000 tay súng, sẽ sẵn sàng trả đũa các cuộc tấn công. Quân-đội Hồi có khoảng 100.000 lính biên phòng; nhưng quân dụng bị thiếu thốn và binh sĩ không có kinh nghiệm về cuộc chiến chống du kích. Sự kiện này quí độc giả có thể nhìn thấy hình ảnh trên đài truyền hình. Trong cuộc hành quân vừa qua, người ta thấy lính Hồi Quốc được chở cả bằng xe dân sự.
Đồng hành với các cuộc tấn công của quân đội Hồi Quốc, phi cơ không người lái "Predator hay Drone " của Mỹ đã thực hiện 30 phi vụ phóng hỏa tiễn vào vùng Waziristan nằm sát biên giới hai nước, giết được hàng chục quân Taleban. Nhưng các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn cũng giết chết 700 thường dân khiến dân địa phương cho rằng Mỹ xâm phạm chủ quyền của Hồi Quốc và giết hại dân họ. Biến cố Mỹ Lai của Việt Nam có thể xẩy ra tại A Phú Hãn và Hồi Quốc sẽ là cơ hội phát triển phong trào phản chiến và đòi quân đội Mỹ rút ra khỏi A Phú Hãn, như trong chiến tranh Việt Nam.
Kết luận
Khi quân đội Hồi Quốc mở màn tấn công căn cứ địa quan trọng của Taleban tại vùng thung lũng Swat có nghĩa công khai thi hành kế hoạch diệt khủng bố của chính phủ Mỹ. Như vậy, sự tuyên chiến đã bắt đầu và Taleban sẽ dùng mọi biện pháp mạnh để trả thù. Một trong các biện pháp đã được công bố. Ngày 14.5.2009, Muslim Khan, phát ngôn viên của Taleban đã ra lệnh:
"Tất cả dân biểu đại diện cho miền Malakand trong Quốc-hội quốc gia và trong quốc hội thành phố phải từ chức trong vòng ba ngày. Nếu không tất cả thân nhân nhân trong gia đình sẽ bị bắt và nhà cửa bị phá hủy toàn bộ."
Malakand là vùng dân Pastun chiếm đa số và là cơ sở của Taleban đã được chính quyền Hồi Quốc nhượng bộ cho ban hành luật Sharia với hy vọng an ninh trong vùng này được tái lập. Nay do cuộc tấn công vào vùng thung lũng Swat và Malakand của quân chính phủ khiến Taleban hủy bỏ tất cả thỏa hiệp đã ký kết trước đây. Ngoài ra, Muslim Khan cũng yêu cầu đảng chính trị Pakistan’s Islamist phải công khai ủng hộ chiến binh Taleban. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài truyền hình CNN của Mỹ, Muslim Khan cho biết ông ta đã sống 4 năm và làm nghề thợ sơn ở Tiểu bang Boston, Hoa Kỳ.
Như vậy, trong những ngày tới cuộc chiến giữa quân đội Hồi Quốc và Taleban sẽ tàn khốc và dã man hơn.
Tổng Thống Mỹ Barack Obama Lần Đầu Tiên “Đem Chuông Đi Đánh Xứ Người” hay “Làm Nhục Quốc Thể!”
Tổng Thống Mỹ Barack Obama Lần Đầu Tiên “Đem Chuông Đi Đánh Xứ Người” hay “Làm Nhục Quốc Thể!”
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Nhân cuộc họp G.20 tại Luân Đôn và kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Khối NATO, TT. Mỹ Barack Obama đã mở đầu chuyến công du Âu Châu nhằm Phục hồi uy tín của Hoa Kỳ trên chính trường Thế giới.
1- Cuộc họp thượng đỉnh G.20
Sự xuất hiện lần đầu tiên của TT. Obama là cuộc họp thượng đỉnh G.20 được tổ chức vào ngày 1.4.2009 tại thủ đô Luân Đôn, Anh quốc. G.20 gồm 19 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới và đại diện của Liên Hiệp Âu Châu (EU). G.20 đại diện cho 85% tổng sản lượng quốc gia của thế giới (Global Gross National), 80% thương mại thế giới (World Trade) và 2/3 dân số thế giới (World Population).
G.20 năm 2009 có 19 quốc gia gồm: Á Căn Đình (Argentinia), Úc Đại Lợi (Australia), Ba Tây (Brazin), Gia Nã Đại (Canada), Trung Quốc (China), Pháp (France), Đức (Germany), Ấn Độ (India), Nam Dương (Indonesia), Ý Đại Lợi (Italy), Nhật Bản (Japan), Mễ Tây Cơ (Mexico), Nga Sô (Russia), Ả-rập Saudi (Saudi Arabia), Nam Phi (South Africa), Nam Hàn (South Korea), Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey), Liên Hiệp Vương Quốc Anh (United Kingdom) và Hiệp Chủng Quốc Mỹ (The United States of America).
Tham dự cuộc họp thượng đỉnh có các thủ lãnh quốc gia và chính quyền, các bộ trưởng tài chính, các giám đốc ngân hàng quốc gia, chủ tịch Quỹ Tiền tệ Thế giới „IMF“ (International Monetary Fund), giám đốc Ngân hàng Thế giới „WB“ (World Bank), chủ tịch ngân hàng Liên hiệp Âu Châu „ECB“ (European Cetral Bank) và chủ tịch Ủy ban Phát triển (Development Committee) v.v…
G.20 họp thương đỉnh nhằm các mục mục đích như sau:
-Giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính của thế giới bắt đầu xuất phát từ thị trường tài chính Hoa Kỳ.
-Tái tạo niềm tin thị trường kinh tế thế giới bằng các biện pháp thích ứng, đặc biệt yểm trợ các ngân hàng phát triển, để củng cố cơ cấu kinh tế thị trường tự do.
-Tiếp tục duy trì chính sách tự do mậu dịch, chống lại chính sách bảo vệ (protectionism).
Qua các dữ kiện trên, người ta nhận thấy TT. Obama coi như bị thất bại về chủ trương bảo vệ thị trường Mỹ qua khẩu hiệu „Dân Mỹ mua đồ Mỹ“. Đây là thất bại thứ nhất của TT. Obama về lãnh vực kinh tế.
Trong cuộc họp phía Tầu Cộng đưa ra đề nghị cần cải tổ hệ thống ngân hàng và tài chính, cần thay thế đồng Mỹ-kim (US Dollar) bằng một đồng tiền Quốc Tế; để thị trường thế giới không bị lệ thuộc vào tiền tệ của một quốc gia Hoa Kỳ. Nhưng đề nghị này chưa được giải quyết.
Trong cuộc họp này TT. Obama và TT. Dmitrij Medvedev của Nga Sô đã hội đàm và củng cố tình hữu nghị giữa hai quốc gia, vì dưới thời cựu TT. Bush hai nước đã có các xung đột về hệ thống Radar chống hỏa tiễn và một số quốc gia trong Liên Bang Sô-Viết xưa nay muốn gia nhập NATO và EU. Hai nhà lãnh đạo cũng đi tới quyết định giảm bớt số đầu đạn nguyên tử tới mức độ đã được ấn định vào năm 2002.
Trong thời gian họp hội nghị thượng đỉnh đã xẩy ra các cuộc biểu tình chống đối G.20 trên đường phố Luân Đôn. Các cuộc xung đột giữa người biểu tình và cảnh sát đã xẩy ra. Hàng chục người biểu tình bạo động bị bắt giữ. Mục đích của các cuộc biểu tình nhằm phản đối các xí nghiệp và nhà máy vẫn gia tăng thải khí độc CO2, phản đối các chính phủ dùng tiền thuế của dân cứu trợ các ngân hàng phá sản. Những người biểu tình còn đòi hỏi ưu tiên cho dân chúng, giải quyết tình trạng nghèo đói, nhân quyền và môi trường trái đất v.v... chứ không thuần túy chỉ giải quyết các vấn nạn kinh tế.
Kết quả của Hội nghị Thượng đỉnh G.20:
Các nhà lãnh đạo quốc gia đã đồng ý về những điểm như sau:
-Quỹ Tiền tệ Thế giới „IMF“ và Ngân hàng Thế giới „WB“ sẽ sử dụng 1.000 tỉ US Dollars để trợ giúp hệ thống ngân hàng phát triển và ngành xuất cảng, nhằm ổn định thị trường thế giới. Quyết định này đưa tới kết quả là giá trị cổ phần và cổ phiếu của các công ty gia tăng. Sự gia tăng này sẽ khích lệ đầu tư và xuất cảng.
-Để tránh rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính trong tương lai, các chính phủ sẽ theo dõi các hoạt động của ngân hàng chặt chẽ hơn, kể cả tiền thưởng cho các giám đốc ngân hàng.
-Chấm dứt việc trốn thuế và rửa tiền đen bằng biện pháp phong tỏa các nước không thi hành luật lệ của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển „OECD“ (Organization for Economic Co-operation and Development).
-Tôn trọng tự do thương mại. Các quốc gia xâm phạm qui định phải được lập danh sách và thông báo.
Những vấn đề chưa được giải quyết sẽ bàn thảo trong hội nghị thượng đỉnh năm kỳ tới, năm 2010.
2- Phục hồi uy tín của Hoa Kỳ đối với Âu châu.
Kể từ khi cựu TT. George W. Bush quyết định can thiệp vào Iraq năm 2003 thì đa số các quốc gia đồng minh Tây phương phản đối. Đặc biệt Đức và Pháp quốc. Trong cuộc chiến A Phú Hãn các tù binh bị bắt được quân đội Mỹ nhốt tại nhà tù Guantanamo vùng vịnh Cuba mà không đưa ra xét xử trước tòa án Mỹ. Trong số các tù binh bị bắt tại A Phú Hãn có những người có quốc tịch cùa các nước trong Liên Hiệp Âu Châu, mà chính phủ Mỹ không giải giao cho các quốc gia liên hệ để đưa ra toà án xét xử. Do đó, quan hệ giữa Liên Hiệp Âu Châu và Hoa Kỳ rơi vào tình trạng lạnh cảm.
TT. Obama lên cầm quyền muốn giải quyết vấn đề này. Một trong các chính sách mới là hủy bỏ chương trình chiến tranh chống khủng bố „War on Terror“ do cựu TT. Bush đề ra. Quyết định này tạm thời có thể trấn an được các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu (EU) về vấn đề khủng bố. Chính sách này dựa trên dữ kiện sau mỗi cuộc khủng bố Osama bin-Laden và tổ chức Al-Qaeda thường đưa ra yêu sách đòi hỏi các quốc gia có quân đội tham chiến tại A Phú Hãn và Iraq phải rút quân về, nếu không muốn bị khủng bố. Hai cuộc khủng bố điển hình do Al-Qaeda đã thực hiện nhằm cảnh cáo các quốc gia đồng minh với Hoa Kỳ là:
-Cuộc khủng bố tại thủ đô Madrid, Tây Ban Nha
Sau vụ khủng bố ngày 11.9.2001 ở Nữu Ứơc, tổ chức Al-Qaeda cho nhóm khủng bố thuộc dân Syria, Marocco, Algeria nổ 10 bom phá hủy 4 tuyến đường xe lửa vào ngày 11.3.2004 tại thủ đô Madrid của Tây Ban Nha. Bốn cuộc khủng bố đồng loạt gây cho 191 chết 1.800 bị thương. Cuộc khủng bố nhằm cảnh cáo Thủ tướng Anzar đã ủng hộ TT. Bush trong việc gửi quân qua chiến trường Iraq. Cuộc khủng bố đưa tới hậu quả thứ hai là chính quyền Bảo Thủ của Thủ tướng Aznar bị thất bại về tay đảng Dân chủ Xã hội trong cuộc bầu cử ngày 14.3.2004. Sau khi thắng cử Thủ tướng Rojé Louis Rodríguez Zapatéro đã rút quân lính Tây Ban Nha ở Iraq về nước. Cuộc rút quân này bị Hoa Kỳ và Đồng Minh chỉ trích là đầu hàng khủng bố.
-Cuộc khủng bố tại thủ đô Luân Đôn, Anh Quốc
Cũng nằm trong kế hoạch trả đũa và cảnh cáo quốc gia đồng minh với Hoa Kỳ, trong dịp Anh quốc tổ chức cuộc họp thượng đỉnh G.8 tại Luân Đôn, quân khủng bố đã cho nổ hàng loạt bom tại đường xe lửa ngầm của thủ đô Luân Đôn vào ngày 7.7.2005. Cuộc khủng bố gây cho 40 người chết và 390 bị thương.
3- Phục hồi uy tín của Hoa Kỳ trên chính trường thế giới.
-Công khai hủy bỏ „chiến tranh chống khủng bố và chiến tranh thế giới chống khủng bố“
Muốn chứng tỏ có một cuộc thay đổi đường lối ngoại giao, TT. Obama đã công khai hủy bỏ „chiến tranh chống khủng bố và chiến tranh thế giới chống khủng bố“. (War on terror and Global War on Terror). Chương trình này do cựu TT. George W. Bush đề ra sau vụ khủng bố ngày 11.9.2003 tại Nữu Ước. TT. Bush phát động chương trình này là để kêu gọi đồng minh sát cánh trong chương trình chống khủng bố và hợp thức hóa cuộc xâm lăng Iraq nhằm lật đổ nhà độc tài Saddam Hussein và thiết lập nền dân chủ tại một quốc gia Trung Đông.
Theo tin của hãng thông tấn Mỹ AFP, ngày 30.3.2009, Tân Bộ trưởng Ngoại Giao Mỹ, bà Hillary Clinton (vợ cựu TT. Bill Clinton), đã tuyên bố xác nhận quyết định của TT. Obam trong hội nghị về chiến tranh A Phú Hãn tại thủ đô Hague của Hòa Lan: „Tôi không nghe chương trình này được sử dụng. Tôi không nhận trực tiếp chỉ thị nào về việc sử dụng hay không sử dụng chương trình này. Chương trình này thực ra không được sử dụng.“ (I haven't heard it used. I haven't gotten any directive about using it or not using it. It's just not being used.)
Sự hủy bỏ chương trình chống khủng bố cũng nằm trong kế hoạch xoa dịu sự bất mãn của các quốc gia Hồi Giáo (Islam) dựa trên lý thuyết „Nếu tiếp tục phát động chiến tranh chống khủng bố thì sẽ có các cuộc khủng bố.“ và „Nếu tiếp tục phát động chiến tranh chống khủng bố thì an ninh thế giới không bảo đảm và kinh tế thế giới khó có thể phát triển đều hòa“. Nguyên nhân là không nhà đầu tư nào, đặc biệt Mỹ và Tây phương, dám đầu tư tại các quốc gia khác vì sợ bị khủng bố.
Sự hủy bỏ chương trình chống khủng bố theo Bộ trưởng Hillary Clinton đã phát biểu trong hội nghị tại Hoà Lan cũng là giải pháp nhằm nối lại quan hệ ngoại giao với Iran trong việc nhờ nước này kiểm soát biên giới, bắt khủng bố và ngăn chặn đường dây buôn thuốc phiện từ A Phú Hãn. Chính phủ George W. Bush không nói chuyện với Iran, một quốc gia chứa chấp và trợ giúp khủng bố. Chính quyền Obama lại muốn bắt tay với Iran để giải quyết theo phương thức ngoại giao. Nhưng các đạo trưởng trong hội đồng lãnh đạo quốc gia Iran đã từ chối, vì chưa thấy Hoa Kỳ có một chính sách thay đổi thiết thực nào đối với Iran và Palestina.
Đây là thất bại thứ hai của TT. Obama về lãnh vực ngoại giao.
-Công khai hủy bỏ nhà tù Guantanamo ở vịnh Cuba và các nhà tù bí mật của CIA tại ngoại quốc.
Nhà tù Guantanamo được thiết lập để nhốt các tù binh của tổ chức khủng bố thế giới Al-Qaeda đã gây nên nhiều cuộc tranh cãi hợp pháp và không hợp pháp trên thế giới. Nếu dựa vào Hiệp định Genève về tù hàng binh thì tù hàng binh ở A Phú Hãn, sau thời gian bị bắt, phải được đem ra xét xử tại tòa án Hoa Kỳ. Nếu có tội thì bỏ tù, nếu không phải phóng thích.
Cái rắc rối ở chỗ có một số tù binh khủng bố lại là dân Muslim có quốc tịch của các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu, như ở Anh quốc, Đan Mạch, Đức quốc v.v… và có những tên khủng bố không dính dáng gì tới vụ khủng bố tại Nữu Ước. Họ chỉ chống lính Mỹ tại A Phú Hãn theo luận điệu tuyên truyền của Al-Qaeda như một hình thức chống quân xâm lược.
4- Kỷ niệm 60 năm (1949-2009) thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương „NATO“
(The North Atlantic Treaty Organization, Organisation du Traité de l'Atlantique Nord (OTAN))
NATO được thành lập ngày 4.4.1949, Bộ Chỉ Huy đặt tại Brussels (Bruxelles) của Bỉ quốc và có khoảng 5.000 nhân viên. Ban đầu tổ chức này coi như là một tổ chức chính trị.
Nhưng sau chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950 thì vai trò của NATO nghiêng về quân sự nhiều hơn. Sau khi khối Cộng sản do Liên-Sô cầm đầu tạo nên nhiều cuộc chiến cục bộ, vai trò của NATO càng trở nên quan trọng trong việc bảo vệ Tây Âu trong suốt thời gian chiến tranh lạnh. Sau thời gian chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây, NATO tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ Bosnia-Herzegovina (1994) và lần lượt mời gọi các quốc gia Cộng sản Đông Âu đã thoát khỏi ách Cộng sản như Ba Lan, Hung Gia Lợi và Tiệp Khắc tham gia vào NATO.
Năm 1999 NATO can thiệp vào Kosovo nhằm chận đứng cuộc diệt chủng dân tộc thiểu số Albania tại Kosovo của Nam Tư (Yugoslavia). NATO còn chịu trách nhiệm bảo vệ trật tự và an ninh trên thế giới dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc hay với danh nghĩa của NATO. Sau cuộc khủng bố Hoa Kỳ ngày 11.9.2001 do Osama bin-Laden và tổ chức khủng bố Al-Qaeda chủ mưu, NATO trở thành lực lượng Đồng Minh trong cuộc chiến chống khủng bố tại A Phú Hãn. Từ năm 2002 lần lượt các quốc gia Cộng sản Đông Âu được mời tham gia NATO là Esthonia, Latvia, Lithuania, Slovenia, Slovakia, Bulgaria, Romania, Croatia, Albania. Ukraine và Georgia cũng dự tính trở thành hội viên của NATO trong tương lai. Tuy nhiên hai quốc gia này gặp phải sự chống đối mãnh liệt từ phía Nga Sô, điển hình là Nga Sô không cung cấp khí đốt cho hai quốc gia này trong mùa đông 2008.
Hướng về tương lai, TT. Obama nhân cuộc họp thượng đỉnh NATO sẽ giới thiệu chiến lược mới về A Phú Hãn và Hồi Quốc trong cuộc chiến chống Al-Qaeda và nhóm Taliban. Hoa Kỳ sẽ gửi thêm 4.000 trong số 17.000 binh sĩ đã dự trù dưới thời TT. Bush tới A Phú Hãn để huấn luyện quân đội A Phú Hãn và giúp nhiều cố vấn dân sự trong chương trình bình định và phát triển đất nước. Trong dịp này TT. Obama cũng kêu gọi EU đóng góp thêm. Đây có thể coi như chương trình Phượng Hoàng (Phoenix Program) mà CIA đã áp dụng tại Nam Việt Nam trước đây.
Trong dịp kỷ niệm NATO 60 tuổi, Tân Tổng Thư ký NATO cũng sẽ được tuyển chọn và nhậm chức vào ngày 1.8.2009 trong một nhiệm kỳ 4 năm. Thủ tướng Anders Fogh Rasmussen của Đan Mạch là ứng cử viên duy nhất cho chức vụ này. Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel, công khai tuyên bố ủng hộ trong cuộc họp báo ngày 3.4.2009; nhưng gặp sự chống đối quyết liệt của Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Tayyip Erdogan. Lý do Thổ Nhĩ Kỳ đưa ra là:
-Thủ tướng Đan Mạch vào năm 2006 đã không kết tội họa sĩ vẽ biếm họa Tiên Tri Muhammed, Giáo chủ của đạo Islam; mặc dù cả thế giới Hồi Giáo chống đối qua kháng thư và qua các cuộc biểu tình.
-Thủ tướng Đan Mạch đã cho phép đài truyền hình ROJ-TV của dân Kurdistan thuộc nhóm kháng chiến thân Cộng sản năm xưa „PKK“, do thủ lãnh Abdullah Ocalan cầm đầu, một tổ chức bị Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu liệt vào danh sách các tổ chức khủng bố. Đài truyền hình ROJ có trụ sở chính đặt tại thủ đô Copenhagen tiếp tục phát hình chống Thổ Nhĩ Kỳ.
Tuy nhiên, 27 quốc gia hội viên NATO, đặc biệt là Anh, Đức, Pháp, Ý và anh cả Hoa Kỳ, đã chấp thuận thì một mình Thổ Nhĩ Kỳ không thể tự mình bỏ phiếu phủ quyết (Veto Right) được, trong khi nước này đang cần sự ủng hộ để trở thành hội viên của Liên Hiệp Âu Châu.
5- Những cử chỉ chứng tỏ vợ chồng TT. Barack Obama thiếu hiểu biết về nghi thức ngoại giao.
-Phu nhân TT. Obama rờ lưng, rờ vai Nữ Hoàng!
Cả thế giới truyền thông và các bà vợ Tổng thống, Thủ tướng đều ngỡ ngàng khi phu nhân TT. Obama là Michelle Obama đã dám „rờ lưng, rờ vai“ Nữ Hoàng Elizabeth Đệ II của Vương quốc Anh trong cuộc tiếp khách nhân dịp họp thượng đỉnh G.20 tại Luân Đôn.
Theo phong tục và truyền thống Quân chủ thì không một ai được rờ vào thân thể Vua hay Nữ Hoàng. Theo đúng lễ nghi thì Michelle Obama có thể bắt tay Nữ Hoàng theo cách xã giao đương thời hoặc hơi khuỵu chân xuống theo tục lệ cũ, một cử chỉ tôn trọng đối với Nữ Hoàng hay vua chúa như các phụ nữ từng làm.
Trong hình ảnh này người ta coi Michelle Obama có vẻ „chơi trèo“, thiếu lịch sự hoặc thiếu hiểu biết về phong tục ngoại giao; mặc dù bà ta chỉ muốn làm một cử chỉ tỏ vẻ thân mật. Cũng may mà Nữ Hoàng Elizabeth tỉnh bơ và đưa tay quàng lại tỏ vẻ thân thiện; nên cái lỗi hớ hênh của Michelle được giảm đi một phần.
Quí độc giả có thể vào xem đoạn Video ngắn về Michelle tại địa chỉ:
www.huffingtonpost.com/2009/04/02/michelle-obama-hugs-queen_n_182237.html
Về lịch sử liên quan tới sự kiện này, chúng tôi nhận thấy, trước khi cố TT. John F. Kennedy thăm Anh quốc lần đầu, Đệ Nhất phu nhân Jacqueline Kennedy có hỏi Quận Công về việc bà có phải khuỵu chân trước Nữ Hoàng không?
Quận Công trả lời không, vì bà là phu nhân của một nguyên thủ quốc gia. Các nguyên thủ quốc gia và phu nhân của họ không cúi đầu và khuỵu chân đối với người khác.
Ba năm sau, sau lễ an táng của chồng (TT.Kennedy bị ám sát vào ngày 22.11.1963), bà Kennedey tiếp khách tại khu vực dành cho gia đình tại Tòa Bạch Ốc. Hoàng Thân Philip (chồng của Nữ Hoàng Elizabeth) tới chia buồn, bà khuỵu chân trước ông. Quận Công quá ngỡ ngàng vì bà Kennedy là người đã hỏi thủ tục ngoại giao, và có một trí nhớ nhanh nhẹn, sắc sảo và thông minh về vấn đề đó. Thấy ông ta sững sờ, bà Jacqueline Kennedy nói nhỏ với ông ta: „Angie, Tôi không còn là vợ của nguyên thủ quốc gia nữa“. Quận Công kể lại là ông ta rời ngay văn phòng và ra ngoài khóc…“
Do đó, cử chỉ của Đệ nhất phu nhân Michelle Obama không khuỵu chân trước Nữ Hoàng Elizabeth là chuyện chấp nhận được; nhưng còn việc rờ lưng, rờ vai của Michelle thì hơi quá đáng.
Theo thăm dò dư luận có 61,8% không chấp nhận cử chỉ của Michelle và 38,15% chấp nhận.
-TT. Obam cúi đầu rạp xuống và khuỵu gối trước vua Abdullah bin Saud!
Trong cuộc tiếp xúc ngoại giao với các lãnh tụ của các quốc gia G.20 Tổng thống Siêu cường Hoa Kỳ, Barack Obama đã cúi rạp người và khuỵu gối khi bắt tay với vua Abdullah của Ả-rập Saudi.
Theo tục lệ, về nghi thức tiếp xúc với các lãnh đạo quốc gia hay vị quyền cao chức trọng thì có ba cử chỉ khác nhau:
-Đối với đàn ông thì cúi đầu ở phần dính với cổ thôi.
-Đối với phụ nữ thì hơi khuỵu chân xuống.
-Những người khác thì bắt tay theo cách bình thường.
Cả ba cách TT. Obama và vợ Michelle đều không làm đúng.
Chồng thì cúi rạp, khuỵu gối kiểu đàn bà; vợ thì rờ lưng, rờ vai.
Quí độc giả có thể coi đoạn video ngắn về TT. Obama tại địa chỉ:
haaretz.com/hasen/spages/1077463.html
(http://www.americanthinker.com/blog/2009/04/obama_bows_down_to_saudi_king.html)
-Người Mỹ da trắng thấy hình ảnh trên có thể coi là „quốc nhục“. Là một nhà lãnh đạo của siêu cường quốc Hoa Kỳ thì không bao giờ lại cúi rạp mình khi bắt tay với nhà lãnh đạo quốc gia khác.
-Người Mỹ da đen thấy hình ảnh trên có thể hổ thẹn về một Tổng thống lại có vẻ hạ thấp mình trước mặt một nguyên thủ quốc gia khác.
-Người Muslim thấy hình ảnh trên có thể bất mãn vì chỉ trước Đức Chúa Trời „Allah“ thì con người mới phải cúi rạp mình và quỳ gối thờ lậy.
6- Tại Thổ Nhĩ Kỳ
21 phát súng đại bác bắn chào mừng quốc khách làm cho TT. Obama giật mình! Có thể ông ta quá suy nghĩ về việc mình sẽ bị ám sát, nên mỗi khi nghe tiếng nổ là giật mình sợ hãi?
Chắc quí độc giả còn nhớ trong cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ vào cuối năm 2008 vừa qua, FBI đã khám phá và bắt giữ các can phạm trong hai vụ mưu sát Ứng cử viên Barack Obama. Do đó, TT. Obama luôn bị ám ảnh về một cuộc mưu sát mình.
Thổ Nhĩ Kỳ là trạm chót trong chuyến du hành Âu Châu của TT. Obama. Đây cũng là nơi mà cả thế giới Hồi Giáo chờ đợi những hứa hẹn cải tổ quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và các nước Islam, đặc biệt là các nước Ả Rập vùng Trung Đông; cũng như chính sách của Hoa Kỳ đối với Do Thái và Palestina.
Ngày 6.4.2009, TT. Obama tuyên bố: „Hoa Kỳ không và không bao giờ chiến tranh với Islam“. (The United States is not, and will never be, at war with Islam).
Nhận định về bài diễn văn của TT. Obama đọc tại Thổ Nhĩ Kỳ, Bộ trưởng Ngoại giao Ai Cập tuyên bố bài diễn văn của TT. Mỹ là bước đầu tốt đẹp làm giảm sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Thế giới Hồi giáo.
Về vấn đề Do Thái và Palestina TT. Obama tuyên bố „Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ mục tiêu hai quốc gia.“ Thực tế thì cựu TT. Bush cũng tuyên bố như vậy trong các cuộc họp báo khi vấn đề về Do Thái và Palestina được giới truyền thông gạn hỏi. Nhưng hết 8 năm nhiệm kỳ của TT. Bush mà chính sách này vẫn không đem lại kết quả nào.
Sợ có sự xung đột ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ, TT. Obama không đả động gì tới việc Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát hàng loạt người Armenia vào năm 1915 mà Liên Hiệp Âu Châu đã xếp vào hành động tội ác chống nhân loại. TT. Obama cũng lờ qua việc Thổ Nhĩ Kỳ không cho phép quân đội Mỹ chuyển quân qua lãnh thổ nước này để tấn công Iraq vào năm 2003.
Về phía Iran thì TT. Obama vừa muốn bắt tay vừa khuyến cáo Iran nên huỷ bỏ chương trình làm giầu Uranium để chế tạo bom nguyên tử. Và dĩ nhiên khi hướng về Iran TT. Obama không dám dùng câu „Trục Tội Ác“ (The Axis of Evil) như dưới thời cựu TT. Bush.
Người ta nhận thấy chiến lược mới của TT.Obama liên quan tới các nước Hồi Giáo không chỉ liên kết chống tổ chức khủng bố thế giới Al-Qaeda mà hy vọng được sự trợ giúp bởi lợi ích và sự kính trọng hỗ tương.
Nhưng sau bức màn tối, người ta khó có thể biết được ý định của các nước Islam.
Quốc Hận 30.04.1975 - 30.04.2009
Quốc Hận 30.04.1975 - 30.04.2009
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Vinh danh Thương phế binh, Cô nhi và Quả phụ Việt Nam Cộng Hòa
34 năm đã qua đi; nhưng vết hằn của ngày 30.4.1975 vẫn còn in đậm trên thân thể các cựu thương phế binh và trong tâm hồn Dân, Quân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Sau 34 năm, cái chết bất đắc kỳ tử của Việt Nam Cộng Hòa vẫn không phôi pha trong lòng dân Việt tỵ nạn Cộng sản.
Có những người đặt câu hỏi là:
-Tại sao sau 34 năm vết hằn vẫn còn?
-Tại sao không quên quá khứ và về xây dựng quê hương?
Câu trả lời không có gì khó đối với người Quốc Gia chân chính.
-Sau hàng chục, hàng trăm năm, sự hy sinh tính mạng của ông, cha, chú bác, anh chị em…cho chính nghĩa Quốc Gia làm sao con cháu quên được? Chả lẽ quên chính nghĩa để phục vụ vô chính nghĩa?
-Sau 34 năm Chủ nghĩa Cộng sản vẫn còn là mẫu mực xét đoán người dân yêu nước hay không yêu nước và đảng Cộng sản vẫn độc quyền cai trị đất nước bằng chính sách đàn áp những người tranh đấu cho nhân quyền, tự do, dân chủ, và những ai dám đòi lại quyền sở hữu đất đai và tài sản của mình, thì làm sao quên quá khứ được?
-Sau 34 năm Việt Cộng vẫn ngang nhiên cắt đất, đặc biệt khu vực Ải Nam Quan, Hoàng Sa và Trường Sa; vẫn cúi đầu nhượng biển cho Tầu Cộng … thì làm sao người Quốc Gia có thể tha thứ hành động “cõng rắn cắn gà nhà" của Việt Cộng được?
-VC mệnh danh đánh giặc Mỹ xâm lược mà Hoa Kỳ không chiếm một tấc đất nào của miền Nam. Ngược lại Tầu Cộng luôn được đề cao là nước anh em, lại xâm chiếm Việt Nam cả trên đất liền và vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa và Vịnh Bắc Bộ mà VC lại cấm dân, học sinh và sinh viên biểu tình chống đối!
-VC hô hào đoàn kết dân tộc, nhưng Nghĩa trang Quân đội VNCH bị phá phách và coi thường, còn quân Tầu Cộng xâm chiếm đất đai của Việt Nam lại được VC chôn cất đàng hoàng, tôn thờ và làm bia đời đời nhớ ơn! (xin xem hình đính kèm)
-Toàn bộ Đế quốc Liên-sô và các nước Đông Âu đã từ bỏ chế độ Cộng sản, một chế độ vô thần, tàn ác, phi nhân và bất nghĩa, để xây dựng đất nước theo chế độ tự do, dân chủ; mà Việt Cộng vẫn tiếp tục áp đặt cái chủ nghĩa quái gở lên dân tộc Việt Nam thì người Quốc Gia chân chính làm sao có thể trở về xây dựng quê hương?
-Nếu hùa theo chính sách chiêu hồi của Việt Cộng thì người Quốc Gia còn gì để tự hào về cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa của toàn dân miền Nam và nói được gì trước thế giới về nguyên nhân quá khứ tỵ nạn Cộng sản?
Thực tế chứng minh rằng VC nhuộm đỏ Việt Nam và cai trị đất nước càng lâu bao nhiêu thì chính nghĩa Quốc Gia càng sáng ngời bấy nhiêu.
-Người Quốc Gia chân chính không chống lại Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam.
-Người Quốc Gia chân chính chỉ chống Chủ nghĩa Cộng sản, nay được nguỵ trang dưới danh xưng Xã hội Chủ nghĩa, và những ai còn tôn thờ chủ nghĩa man rợ và tàn ác này.
Nhân dịp kỷ niệm ngày 30.4.1975 - 30.4.2009, chúng tôi muốn viết đôi hàng để Vinh Danh các Thương Phế Binh, Cô Nhi và Quả Phụ của các Anh hùng Tử sĩ VNCH đã bỏ mình vì Chính nghĩa Quốc Gia.
I- Số lượng dân và quân bị chết trong chiến tranh Việt Nam
Cuộc chiến mà VC mệnh danh là giải phóng miền Nam là do Cộng sản Quốc tế Sô-viết và Tầu Cộng hậu thuẫn với mục tiêu nhuộm đỏ các nước Đông Dương gồm Việt Nam, Cao Miên và Lào. Miền Nam là mục tiêu hàng đầu cần phải xâm chiếm bằng bất cứ giá nào. Chiến công oanh liệt đưa tới chiến thắng chiếm trọn miền Nam mà hàng năm VC vẫn ăn mừng là mâm cỗ hàng trăm ngàn xác chết con dân Việt của cả hai miền Nam-Bắc đã phơi thây trên chiến trường hay tại các thành phố và miền quê hẻo lánh.
Một lãnh tụ vang danh không chỉ đối với Ấn Độ mà toàn thế giới, Thánh Ghandi, đã tranh đấu dành lại độc lập cho đất nước không bằng vũ khí giết người, không bằng nướng hàng trăm ngàn xác dân, mà bằng phương pháp biểu tình bất bạo động. Sức mạnh của Thực dân Anh quốc trong thế kỷ 18-19 được coi là Đế quốc không có mặt trời lặn đã phải đầu hàng cao trào đòi độc lập của toàn dân Ấn Độ. Một cuộc tranh đấu không tốn máu đã vang danh lịch sử.
Cũng cuộc chiến dành độc lập, ông Hồ và đảng Cộng sản VN đã nướng hàng trăm ngàn dân trong lửa đạn chiến tranh chống Pháp, thanh toán hàng ngàn người thuộc các đảng phái Quốc Gia và dồn hàng trăm ngàn thanh niên, thiếu nữ vào chỗ chết trên khắp chiến trường miền Nam; sát hại hàng ngàn dân vô tội trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam. Có thể nói máu dân Việt đã nhuộm đỏ non sông nước Việt do súng đạn, dao găm và mã tấu của VC.
Để có cái nhìn thiết thực về số lượng Cô Nhi và Quả Phụ của Dân, Quân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta thử nhìn lại tổn thất trong toàn cuộc chiến xâm lăng miền Nam do Việt Cộng gây ra theo ghi chú của các tác giả ngoại quốc như sau:
-Edward Doyle trong tác phẩm "Kinh nghiệm Việt Nam" (The Vietnam Experience) ghi nhận số tử thương của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (QĐVNCH) là 220.357 người; Việt Cộng và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN): 444.000. Dân hai miền Nam-Bắc chết: 587.000 người.
-Harry G. Summers trong tác phẩm "Niên giám Chiến tranh Việt Nam" (The Vietnam War Almanac) ghi nhận: QĐVNCH chết: 243.748 người; VC và MTGPMN: 666.000. Dân miền Bắc chết: 65.000 người; dân miền Nam: 300.000.
-Marc Leepson trong tác phẩm "Webster" Tân Tự điển Thế giới về Chiến tranh Việt Nam ghi QĐVNCH chết: 224.000; số tổn thất dân sự miền Nam 300.000 người, miền Bắc: 65.000.
Một số tác giả khác ghi nhận:
Số tử thương của QĐVNCH:
-Lewy, Ency. Americana: 220.357 -Kutler & Olson: 224.000 -Clodfelter, Grenville: 250.000 -Wallechinsky 254.257 -Britannica: 185.000 - 225.000.
Số tử thương của VC & MTGPMN:
-Ency. Americana: 444,000
-S&S: 500.000 -Olson: 660,000
-(COWP 1965-75]: 700,000;
-Wallechinsky: 700.000 – 1.000.000
-Britannica: 900.000 -Clodfelter: 1.000.000;
Số tử thương của dân miền Nam:
Theo ghi nhận của các tác giả:
-Gilbert: 50.000 người -Olson: 250.000 -Clodfelter 287.000 (247.600 chết vì chiến tranh + 38.954 bị ám sát bởi MTGPMN) -Kutler; Summers: 300.000 -Lewy, Olson trong Ủy ban của Thượng Nghị sĩ Edward Kennedy: 430.000 -Wallechinsky: 522.000 -Tucker, theo tin của Việt Nam (N&S, 1954-75): 2.000.000 -Giới truyền thông ước tính khoảng: 1.500.000 người chết, sai biệt 300.000 người.
Số tử thương của Dân miền Bắc: Theo các tác giả Kutler, Lewy, Olson, Summers, Wallechinsky có 65.000 người chết vì các cuộc bỏ bom miền Bắc do Không quân Mỹ gây ra.
II- Vinh danh Thương Phế Binh VNCH
Tính từ sau khi Sài Gòn bị VC chiếm đóng, theo Bộ Cựu Chiến Binh VNCH có khoảng 300.000 binh sĩ bị thương với mức độ tàn phế trên dưới 30%, và khoảng 3.000-4.000 người bị mù hoặc bị cụt tay, cụt chân với mức độ tàn phế 100%. Những người thương phế binh VNCH phải sống cơ cực, lang thang bên lề cuộc đời, rách nát và bơ vơ như một khách lạ trên quê hương mình. Họ bị VC hất hủi, hạ thấp danh dự và xua đuổi ra khỏi sinh hoạt xã hội bình thường.
Tại sao vậy?
Thưa chỉ vì họ là Thương Phế Binh của QLVNCH; những người bị VC kết án “có nợ máu với nhân dân”.
34 năm lạnh lùng trôi qua với bao nhiêu đau thương của cuộc đời, người TPB /VNCH và gia đình họ vẫn tiếp tục lẻ loi chịu đựng, mưu sinh thoát hiểm trong bao nỗi đắng cay, nghèo đói và tủi nhục. Thỉnh thoảng có một vài tổ chức từ thiện từ hải ngoại giúp đỡ xe lăn, tay chân giả, thuốc men và tiền bạc. Nhưng phần lớn những tặng phẩm này đã không lọt qua nổi con mắt cú vọ và hệ thống tham nhũng khủng khiếp và trắng trợn nhất lịch sử dân tộc, tức tập đoàn VC.
Những ai còn tấm lòng biết ơn các Thương Phế Binh, Cô nhi và Quả phụ VNCH, những người đã dâng hiến một phần thân thể mình cho Tổ Quốc và sự an ninh của đồng bào miền Nam và những người đã dâng hiến cha, chồng mình cho Tổ Quốc, hãy giúp đỡ cho những người xấu số này qua các hội yểm trợ TPB và CNQP/VNCH tại địa phương hoặc các văn phòng ở Hoa Kỳ.
Xin liên lạc các địa chỉ:
-Mr. Ngo The Linh,
20009 Stevens Creek Blvd,
CUPERTINO, CA 95014
Tel: (408)255-5110.
Fax: (408)255-5111
-Ms Hoang Minh Thuy VN Republic Disabled Veterans Support Organization PO Box 1585 HOUSTON,
TX 77251-1585
Tel: (713) 697-1882
-Ms Hoang Mong Thu, Tel: (510) 228-6230 (H) (510) 680-2845 (W)
-The Handicapped and Orphans Fund
- C/o: Dung Nguyen
P. O Box 524 San Gabriel,
CA 91776 USA
III- Vinh Danh Cô Nhi và Quả Phụ VNCH
Vì mỗi tác giả đưa ra một con số khác nhau, nên chúng tôi tính trung bình dân chúng miền Nam bị tử thương khoảng: 548.429 người và QĐVNCH: 233.808 chiến sĩ.
-548.429 thường dân bị chết oan trong cuộc chiến gồm cả người già, phụ nữ và trẻ em. Mặc dù họ không trực tiếp cầm súng chống VC; nhưng đa số có tinh thần Quốc Gia. Tinh thần này được thể hiện qua sự kiện "nơi nào VC đến thì dân bỏ chạy vào vùng Quốc Gia".
-233.808 tử sĩ đã trực tiếp hay gián tiếp chiến đấu tại hậu phương và trên khắp các chiến trường của bốn Vùng Chiến thuật, phần lớn là chiến sĩ trong cơ cấu chính quyền VNCH và trong QLVNCH. Họ là những anh hùng đã chiến đấu bên cạnh cách chiến hữu của mình, cũng có khi bên cạnh người vợ thân yêu tại các tiền đồn hẻo lánh.
Trong số 233.808 chiến sĩ hy sinh vì tổ quốc, chúng tôi tạm chia làm hai; một nửa còn độc thân và một nửa đã có gia đình. Như vậy có 116.804 Quả Phụ và nếu tính trung bình một gia đình chiến sĩ có 3 con thì sẽ có 116.804 x 3 = 350.412 Cô Nhi.
Trước cuộc chiến xâm lược miền Nam của Cộng sản Bắc Việt, các chiến sĩ VNCH đã ngày đêm chiến đấu tại khắp bốn Quân Khu và trên bốn Vùng Chiến Thuật để bảo vệ an ninh cho dân chúng và bảo toàn mảnh đất thân yêu miền Nam, một vùng đất trù phú, thanh bình và tiến bộ. Hàng trăm ngàn Dân, Quân, Cán, Chính của VNCH đã trực tiếp hay gián tiếp chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc. Sự ra đi về lòng đất mẹ của hàng trăm ngàn chiến sĩ đã để lại hàng trăm ngàn Cô Nhi và Quả Phụ; những người không trực tiếp chiến đấu, nhưng đã cống hiến những người chồng, người cha thân yêu nhất của mình cho Tổ Quốc.
Trong toàn cuộc chiến, những người vợ lính, vì lý do an ninh của đơn vị, phần lớn không được sống chung với chồng tại các tiền đồn hẻo lánh hay theo sát trong các cuộc hành quân diệt địch. Trừ một vài trường hợp vợ con của các chiến sĩ người dân tộc thiểu số thuộc Lực luợng Đặc biệt, Biên phòng. Vì cuộc sống du mục, họ không có đất đai hay không nhà cửa cố định; nên được phép theo chồng và sống trong các trại gia binh hay trong đồn bót.
Một số Sư đoàn chủ lực và Binh chủng cũng có trại gia binh tại hậu cứ. Tuy không cầm súng chiến đấu, nhưng vợ con lính sống trong các trại gia binh cũng có nhiều người chết vì đạn pháo kích của VC hay bị tàn sát trong các cuộc tấn công vào đồn và trại gia binh. Trong một vài trường hợp, tại các đồn bót, có những người vợ đã ráp đạn vào băng đạn hay khuân các két lựu đạn thay cho chồng, khi các anh đang phải cầm cự một sống một còn với định quân. Những hình ảnh hào hùng vợ chồng cùng chiến đấu mấy ai chụp được và mấy ai biết để vinh danh?
Chúng tôi xin đưa ra một vài trường hợp điển hình:
1-Vợ một nghĩa quân đã chiến đấu và cùng chết với chồng
Tại Đồn Giồng Riềng tỉnh Tiền Giang trong mấy vòng kẽm gai hoen rỉ và mười sáu quả lựu đạn cuối cùng, Nghĩa Quân Lê Văn Hùng và người vợ Phạm Thị Thàng đã cùng chiến đấu. Nghe anh phó đồn cụt chân kể lại: sau khi chồng bị tử thương, chị Thàng ẵm hai con nhỏ núp sau ụ đất với một thùng lựu đạn 16 quả. Cánh tay của người vợ lính vung lên, từng tiếng nổ ầm, át cả tiếng khóc trẻ thơ. Mười lăm quả lựu đạn vút đi, ngăn chân biển địch. Hết đạn, chị Thàng đã tự sát cùng hai con để đi theo chồng là Nghĩa Quân Lê Văn Hùng vào cõi vĩnh hằng, cô đơn, côi cút và âm thầm trong cuộc chiến. Người vợ lính đã từng nuôi con bằng gạo Quân Tiếp Vụ, hạnh phúc bình thường qua bữa cơm với cua đồng cá nội. Ảnh của chị đã được treo lên tại góc đường Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt ở Saigon một thuở nào giữa dòng người thờ ơ qua lại.
Người phụ nữ miền Nam với nụ cười đơn sơ chất phát, e ấp qua mảnh khăn rằn. Từ Bến Hải đến Cà Mau, bước chân của người vợ lính ẵm con đã đi theo chồng khắp bốn vùng chiến thuật. Không có những móng chân đỏ hồng, những người vợ lính đã sống chết cùng chồng trên tuyến lửa đạn. Ôi! Những cái chết hào hùng của các phụ nữ đã hiểu được nghĩa vụ của chồng, của dân miền Nam.
2-Người Vợ Lính và đứa con nhỏ giúp chồng tử thủ tuyến thép Ba Tơ
Tác giả Bắc Phong Sài Gòn kể:
Mùa Hè Quảng Ngãi 1972, Bắc quân muốn đánh gục Quảng Ngãi bằng mọi giá, muốn xé xác miền Trung ra làm hai bằng mọi giá... trong âm mưu nhuộm đỏ miền Nam. Chỉ trong vòng một tháng, quận Mộ Đức đã hy sinh hai sĩ quan quận trưởng, chi khu Quế Sơn thất thủ và lọt vào tay Bắc quân thuộc Sư Đoàn chính quy 711. Chi khu Ba Tơ là cái nút chặn chiến lược nằm sát biên giới Lào Việt sẽ là mục tiêu sinh tử cần phải nhổ của địch, và cần phải giữ bằng mọi giá của ta. Ba Tơ mất là Quảng Ngãi lâm nguy. Mất Quảng Ngải là miền Trung bị địch cắt làm hai, nhưng chúng ta sẽ bẻ gẫy ý đồ địch!
Chi khu Ba Tơ nằm giữa một vùng đồi núi chập chùng liếp liếp rừng xanh tiếp cận biên giới Lào Việt. Ba Tơ dân số khoảng 16 ngàn người với một căn cứ quân sự được Tiểu đoàn 69 Biệt Động Quân Biên Phòng và 2 đại đội Địa Phương Quân khoảng 160 người trấn giữ. Ba Tơ như một con mắt, một cái ống nhòm bám theo các hoạt động địch, dòm ngó chân địch. Bắc quân xẻ núi vượt sông vô tận Kampuchea được mà không bứng nỗi Ba Tơ để mở đường chiếm Quảng Ngãi, cắt miền Trung ra làm hai được là một nỗi bực tức của Hà Nội.
Cũng như đa số anh em Địa Phương Quân khác, anh Bẩy Địa Phương Quân, 4 năm lính, một con 9 tuổi, cu Thành; một vợ vừa cấn thai... sống với anh trong trại từ ngày cưới nhau.
Mùa hè năm nay, Ba Tơ bị cộng quân đe dọa nghiêm trọng hơn, anh Bẩy nghe Trung đội trưởng đi họp về, họp trung đội và anh biết tình hình vô cùng nguy hiểm trong những ngày tới, hay có thể cả trong đêm nay. Anh lo cho an nguy của vợ con, anh muốn chị Bẩy đem cu Thành về phố ở nhà ngoại chờ tình hình sáng sủa mẹ con hãy trở lại. Anh gọi vợ:
-Sáng mai có chuyến trực thăng tiếp tế và máy bay sẽ về lại Tiểu Khu, anh xin phép ông thẩm quyền cho mình và con theo máy bay về ở dưới ít hôm! Trên này bây giờ căng và nguy hiểm lắm!
-Không! Em và cu Thành ở lại với anh. Em mà về dưới đó, nghe Việt Cộng đánh đồn là em bỏ ngủ, bỏ ăn. Em đâu sợ chết! Em không về!
-Còn cu Thành! Con có muốn về ngoại ít hôm không?
-Không! Con ở lại với Ba!
Cạnh bìa rừng như có tiếng con chim giật mình hốt hoảng xé kẽ lá bay vụt vào đêm đen. Một loạt trái sáng và claymore tự động nổ vang, chiếu tỏa rực một góc rừng phía Tây Bắc. Đại liên, M16 và phóng lựu từ bên trong dập ra đơn vị địch như mưa. Nhiều bóng đem quỵ xuống và những bóng đen khác giạt ra hai bên và tiến quân ào ạt vào hàng rào phòng thủ. B40. AK và các loại pháo địch tác xạ tập trung vào ổ đại liên của anh Bẩy dọn đường cho toán đặc công cắt hàng rào kẽm gai mở đường tiếp cận kháng tuyến để tránh phi kích và pháo binh.
Cùng lúc, các tuyến phòng thủ bên Biệt Động Quân cũng bị tấn công đồng loạt, song dường như Bắc quân có kế hoạch áp lực nặng hơn bên tuyến Địa Phương Quân với hy vọng chọc thủng hàng rào mặt này. Các loại thượng liên và pháo địch cày tung tóe những mô bao cát trước mặt anh Bẩy. Anh Bẩy tay siết cò, vai đưa bá súng xoa qua lại, lưới lửa đan cheo chéo vào các toán địch quân đông như kiến. Khẩu đại liên của hạ sĩ Bình bên cạnh và khẩu của anh nổ không biết bao nhiêu thùng đạn anh không nhớ. Anh không quay lại, mắt chong về phía trước, miệng gọi chị Bẩy:
-Em chuyển gấp thêm mấy thùng đạn đến sắp sẳn cho anh! Nhanh lên! Cạy nắp kéo sẵn mấy giây đạn ra cho anh!
-Chỉ còn có 4 thùng anh ơi!
-Trời ơi! Tụi nó xã láng suốt đêm nay, 4 thùng sao đủ! Em theo giao thông hào vô hầm gọi Cu Thành phụ đem đạn ra cho anh, tiếp tế thêm vài thùng cho ổ bên phải của hạ sĩ Bình. Nhanh lên đi em!
Từ hôm đến giờ, khẩu đại liên của anh Bẩy bắn không ngừng nghỉ. Khi chị Bẩy trở ra với hai thùng đạn, cu Thành khệ nệ cong lưng mang theo ra một thùng.
Anh Bẩy bảo con:
-Con mang thùng đạn qua cho chú Bình! Nhiệm vụ của con là tiếp thêm đạn.
Đêm thứ hai, đêm thứ ba, địch trở lại tấn công nhưng cường độ nhẹ hơn, dường như hôm đầu địch tổn thất nặng. Qua ba đêm bị tấn công mà nặng nhất là đêm đầu, số thương vong của quân trú phòng không đáng kể, đạn dược lương thực căn cứ đã chuẩn bị cho gần một tháng bao vây mà không cần tiếp tế. Các binh sĩ bị thương được điều trị tại chỗ vì không thể tản thương về Tổng Y Viện Duy Tân hay Bệnh viện Quảng Ngãi.
Đêm thứ tư, đúng như dự đoán của Trung Tâm Hành Quân và chi khu Ba Tơ, địch tăng cường thêm một số không rõ về hỏa lực và quân số để dứt điểm Ba Tơ. Mới khoảng 6 giờ tối, các toán tiền sát đã báo cáo về các dấu hiệu chuyển quân đông đảo của địch.
Cũng như mọi hôm, đêm nay, chị Bẩy mang mền và áo giáp ra ngủ bên chồng. Chị ráp băng đạn vô cây M16, chị chuẩn bị đạn sẵn sàng cho cây M79, chị khui nắp mấy thùng đạn đại liên để sẵn cho chồng rồi chị lăn ra quấn mền ngủ dưới chân anh Bẩy. Lúc này chị mang bầu cũng gần hai tháng, cái bầu làm chị mỏi mệt, thêm ba đêm chiến đấu bên chồng, bị mất ngủ làm người chị như rã rời không mang nổi một thùng đạn, thế mà khi địch bắt đầu khai hỏa, những tràng thượng liên đầu tiên tua tủa những lằn lửa như điện xẹt cắm vào bao cát bên cạnh anh Bẩy cùng với tiếng pháo của địch trút vào căn cứ, chị bung mền chụp súng bắn tiếp chồng một cách tỉnh queo.
Gần đến 4 giờ sáng, súng các mặt nổ dữ hơn, pháo trên các đồi xung quanh rót đạn ào ạt hơn, kinh nghiệm chiến trường cho anh Bẩy biết là địch chuẩn bị biển người. Và quả như vậy, tiếng hô xung phong dậy vang rừng núi nghe rõ len lách trong tiếng đạn nổ như mưa, như pháo Tết.
Lúc này chị Bẩy không trở lại hầm mang đạn ra, chị dựa vách bao cát bên chồng bắn chính xác vào các mục tiêu đang tràn vào các mảng hàng rào bị cắt, chị bắn có lúc hàng loạt cả băng đạn, có lúc chị bắn từng ba hay bốn viên một.
Còn cu Thành?
Nhóc nhỏ đêm nay không núp trong hầm mà ra hẳn giao thông hào. Anh Bẩy gọi con:
-Đêm nay hao đạn quá trời!
Mấy khẩu đại liên mà hết đạn thì M72 có thánh cũng không thay nổi. Trong hầm còn nhiều đạn không con?
-Còn Ba! Con thấy còn một đống lận! Nãy giờ con mang đạn ra cho Ba và chú Bình mà Ba mê bắn Ba đâu có hay!…
Trên đây là hai trong số hàng trăm câu chuyện kể về vợ con lính VNCH cùng sống chết với chồng trên các chiến tuyến tiền đồn.
Những chiến công và sự hy sinh của những vợ con lính VNCH phải được ghi chép trong sử sách.
Các Cô Nhi và Quả Phụ VNCH phải được vinh danh và nhớ ơn suốt đời.
IV- Từ Thứ Qui Tào, bài học cho những ai đầu hàng và làm tay sai cho VC
Từ Thứ là họ tên của một nhân vật đời Tam quốc bên Tàu, làm Quân sư cho Lưu Bị trước khi Lưu Bị gặp Khổng Minh. Từ Thứ bị mắc kế của Trình Dục, đành vì chữ hiếu trở về đầu Tào Tháo, rồi giới thiệu Khổng Minh với Lưu Bị.
Từ Thứ, tự là Nguyên Trực, quê ở Dĩnh Châu, thuở nhỏ thích nghề cung kiếm, lớn lên ẩn tích lo học hành và trở nên rất tài giỏi, lấy tên giả là Đan Phúc, ra làm Quân sư cho Lưu Bị, lúc Lưu Bị đóng quân ở Tân Dã. Đan Phúc bày kế cho Lưu Bị đánh tan đạo quân của Tào Nhơn ở Phàn Thành. Tào Tháo lo sợ, cho điều tra lý lịch của Đan Phúc, Trình Dục liền thưa rằng:
-Đan Phúc, tên thật là Từ Thứ, tự Nguyên Trực, tài học rất giỏi, mồ côi cha từ nhỏ, thờ mẹ chí hiếu. Nay mẹ hắn đang ở đây, sống với em của Từ Thứ là Từ Khang, nhưng vừa rồi, Từ Khang chết, bỏ lại bà lão một mình, không ai nuôi dưỡng. Vậy Thừa Tướng nên mời bà lão ấy đến hiểu dụ, rồi bảo viết thư gọi Từ Thứ về Hứa Đô, thế nào Từ Thứ cũng phải nghe theo.
Tào Tháo mừng rỡ làm y theo kế của Trình Dục. Tào Tháo nói với Từ mẫu, mẹ của Từ Thứ:
-Tôi nghe lệng lang Từ Nguyên Trực, một bậc kỳ tài trong thiên hạ, đang giúp cho tên nghịch thần Lưu Bị ở Tân Dã phản lại triều đình. Tôi muốn bà lão viết thơ gọi Nguyên Trực về đây để cùng nhau phò vua giúp nước. Tôi sẽ tâu với Thiên Tử phong chức cho Nguyên Trực.
Từ mẫu đáp:
-Từ lâu, ta đã nghe Lưu Bị là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu của vua Hiến Cảnh Hoàng Đế, nhún mình trọng kẻ sĩ, cung kính đãi người hiền, nổi tiếng nhơn đức. Con ta theo giúp Lưu Bị là thờ đúng chúa rồi. Còn như ông, tuy là tôi nhà Hán chớ kỳ thật là thằng giặc của nhà Hán, nay ông muốn bắt con ta bỏ sáng tìm tối hay sao?
Nói rồi, Từ mẫu chụp bình mực liệng Tào Tháo. Tào Tháo giận dữ, sai quân lôi bà lão đem chém. Trình Dục vội can rằng:
-Bà lão xúc phạm Thừa Tướng là bà lão có ý muốn chết đó. Nếu Thừa Tướng giết bà lão thì Thừa Tướng mang tiếng bất nghĩa, còn bà lão lại được tiếng tiết liệt. Bà lão bị giết rồi thì Từ Thứ càng thù hận Thừa Tướng, càng nỗ lực giúp Lưu Bị. Chi bằng cứ để bà lão sống ở đây, Từ Thứ thân ở một nơi, bụng ở một nẻo, có giúp Lưu Bị cũng không dám hết lòng. Vả tôi có một kế đánh lừa để gạt Từ Thứ về đây.
Tào Tháo nghe có lý, bỏ ý giết Từ mẫu, sai dọn một ngôi nhà khang trang và cho người ở nuôi dưỡng săn sóc Từ mẫu. Trình Dục tới lui thăm viếng, thường đem quà tới biếu. Mỗi lần như vậy thì Từ mẫu viết thiệp cảm ơn.
Nhờ vậy, Trình Dục học được nét chữ của Từ mẫu, rồi Trình Dục nháy theo nét bút của Từ mẫu, viết một bức thư giả là của Từ mẫu, gọi Từ Thứ trở về, sai người đem qua Tân Dã trao cho Từ Thứ.
Từ Thứ mở thư ra xem, thấy rõ là nét chữ của mẹ mình. Bức thơ đại khái như sau:
“Em con là Từ Khang đã mất. Mẹ nhìn trước trông sau, không còn ai thân thích, bơ vơ một mình một bóng. Đang khi sầu thảm, lại bị Tào Thừa Tướng lừa đến Hứa Xương, bắt tội con phản triều đình, đem mẹ giam vào ngục. May nhờ có Trình Dục sớm tối chăm sóc mới được an thân. Nay chỉ có cách là con về hàng thì mẹ mới khỏi chết. Con hãy nghĩ đến ơn dưỡng dục, bắt được thư nầy, phải về ngay để trọn niềm hiếu đạo, rồi mẹ con ta sẽ lui về thôn dã, sống với ruộng vườn cho yên thân. Hiện giờ, tánh mạng của mẹ như chỉ mành treo chuông, rất nóng lòng mong con về cứu mẹ.”
Từ Thứ đọc xong thư, hai hàng nước mắt tuôn sa nhớ mẹ, quyết đi tìm Lưu Bị kể hết sự tình và xin Lưu Bị cho quay trở về Tào để lo cho mẹ già, và cam kết với Lưu Bị rằng:
-Tôi, tài hèn trí mọn, được Lưu Sứ Quân trọng dụng, không ngờ giữa đường chia cách vì nạn mẹ già. Nay tôi về Tào, dù Tào Tháo có bức bách đến đâu, tôi quyết trọn đời không giúp một kế. Nay tôi nhớ lại, tại vùng nầy, cách thành Tương Dương chừng 20 dặm, có một ẩn sĩ họ Gia Cát, tên Lượng, tự là Khổng Minh, người ấy tài giỏi hơn tôi gấp bội, Sứ Quân nên đến cầu người ấy thì lo gì việc lớn không thành.
Từ Thứ gạt nước mắt từ giã Lưu Bị, giục ngựa ra đi. Từ Thứ trở về thăm mẹ, gặp mẹ thì sụp lạy dưới thềm.
Từ mẫu trông thấy mặt con thì giật mình kinh hãi nói:
-Sao con lại về đây?
Từ Thứ thưa rằng:
-Con đang ở Tân Dã giúp Lưu Huyền Đức, vì được thư mẹ gọi nên vội trở về đây.
Từ mẫu nổi giận mắng rằng:
-”Mày đi phiêu lưu giang hồ từ nhỏ đến lớn, ta tưởng mày học hành khá để lập công nghiệp, ngờ đâu mày lại ngu dốt hơn trước, mày học sách phải biết trung hiếu không thể vẹn toàn cả hai bề. Mày không biết Tào Tháo là thằng giặc khi quân sao? Lưu Huyền Đức nổi tiếng nhân nghĩa, lại là dòng dõi nhà Hán, mày thờ Huyền Đức là gặp chơn chúa, cớ sao lại tin vào một tờ giấy giả mạo, không chịu suy xét kỹ càng, bỏ chỗ sáng về chỗ tối, làm điếm nhục tổ tông. Mày thật là một đứa ngu phu, ta không còn mặt mũi nào trông thấy mày nữa."
Từ Thứ cúi rạp đầu xuống đất, không dám ngẩng mặt nhìn mẹ. Bà lão đứng dậy đi vào trong.
Qua một lúc lâu, Từ Thứ vẫn còn quì đó như pho tượng, bỗng phía sau có người la:
-Lão phu nhân đã treo cổ tự tử ở xà nhà.
Từ Thứ thất kinh, sợ hãi chạy vào cứu mẹ, gỡ dây đem xuống nhưng Từ mẫu đã chết rồi.
Từ Thứ tưởng đâu bỏ nghĩa để đặng hiếu, nào ngờ hiếu cũng mất. Từ Thứ trở thành người thất chí, lỡ một kiếp sanh.
Những Thành Công và Thất Bại Đầu Tiên Của Tổng Thống Barack Obama, Sau Ngày Nhậm Chức 20.1.2009
Những Thành Công và Thất Bại Đầu Tiên Của Tổng Thống Barack Obama, Sau Ngày Nhậm Chức 20.1.2009
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Ngày 20.1.2009, Barack Obama nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ với những lời chúc tụng và tung hô của gần 2 triệu người tham dự đứng dài khoảng 2,4 cây số dọc theo hai bên đường, từ đài kỷ niệm cố TT. Washington tới tòa nhà Quốc Hội Mỹ Capitol. Theo báo New York Daily News tốn phí cho lễ nhậm chức Tổng thống lên tới 160 triệu Đô-la, một sự chi phí cao nhất từ trước tới nay, so với lễ nhậm chức của TT. George W. Bush chỉ tốn 42,3 triệu Đô-la. Trên thế giới thì hàng trăm triệu người theo dõi sự kiện lớn lao của Hoa Kỳ trên các đài truyền hình. Các lãnh tụ của các quốc gia từ các lục địa Á, Âu, Mỹ và Phi châu cũng hân hoan gửi điện chúc mừng và hy vọng Thế giới sẽ có những đổi mới.
Trong ngày trọng đại như thế mà John Roberts, Chủ tịch Tối Cao Pháp Viện (TCPV) và Barack Obama, Tân Tổng thống lại đọc sai lời tuyên thệ! Nguyên văn câu tuyên thệ gồm 35 chữ:
“Tôi (Barack Hussein Obama) long trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ trung thành thi hành chức vụ Tổng thống Hiệp Chủng Quốc, và sẽ đem hết khả năng để duy trì, bảo vệ và bảo tồn Hiến pháp Hiệp Chủng Quốc”
(I do solemnly swear (eller affirm) that I will faithfully execute the office of President of the United States, and will to the best of my ability, preserve, protect, and defend the Constitution of the United States.)
Khi TT. Obama bị khớp ngay giây phút đầu thì Chủ tịch Tối Cao Pháp Viện nhắc lại lời thề một lần nữa. Nhưng ông ta lại đọc sai một chữ khiến TT. Obama cũng lập lại sai luôn. Chữ “faithfully“ (trung thành) là trạng từ và theo văn phạm thì trạng từ phải đặt sau động từ execute. Khi có trợ động tử thì trạng từ faithfully phải đặt giữa trợ động từ will và động từ execute. Chủ tịch TCPV cũng bị khớp, nên lại để chữ faithfully sau nhóm chữ the United States: „…I will execute the office of the United States faithfylly!”
Đúng là chuyện khó tin nhưng có thật, hai ông luật sư giỏi của đại học luật trứ danh Hardvard, một Tổng thống, một Chủ tịch TCPV lại đọc sai văn phạm trong một buổi lễ vô cùng quan trọng và trước mắt của hàng trăm triệu người trên Thế giới. Vì thế, ngày 22.1.2009, Chủ tịch TCPV John Roberts lại phải mời TT. Obama tuyên thệ lại lần thứ hai tại Tòa Bạch Ốc, để dư luận không hoài nghi Obama chưa thành Tổng thống, vì đọc không đúng lời tuyên thệ! (Xin coi hình đính kèm)
Những hy vọng của dân chúng Mỹ và Thế giới về một Hoa Kỳ đổi mới có thể nhận ra qua một số quyết định và sự thành công cũng như thất bại dưới đây của TT. Obama trong thời gian vừa qua.
I- Thành công về phía Hoa Kỳ
Ngay sau khi trở thành Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, TT. Barack Obama đã có những quyết định khá quan trọng như sau:
1.1- Hủy bỏ nhà tù ở vịnh Guantanamo của Cuba
Từ sau biến cố khủng bố Nữu Ước ngày 11.9.2001 và sau cuộc can thiệp vào A Phú Hãn, quân đội Mỹ đã bắt hàng trăm tên khủng bố. Nhưng thay vì đưa ra tòa án Mỹ để kết tội, chính phủ Bush lại giam giữ các tên khủng bố tại nhà tù Guatanamo, một hòn đảo của Cuba. Hành động này đi ngược với Thỏa ước Genève về tù binh. Bị thế giới chỉ trích về cả tính cách bất hợp pháp và các phương pháp thẩm vấn, nhưng chính phủ Mỹ vẫn không giải quyết. Ngày 22.1.2009, sau khi nhậm chức, TT. Obama đã ký nghị định nhằm hủy bỏ nhà tù Guantanamo trong vòng năm nay. 245 tù nhân sẽ được di chuyển đi nơi khác để xét xử theo luật pháp và phóng thích tùy theo tội trạng.
1.2- Giới hạn mức lương tối đa của nhân viên phục vụ tại Tòa Bạch Ốc
Hòa chung sự khốn khó của dân chúng trong cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, TT. Obama cũng xét lại lương bổng của các nhân viên phục vụ tại Tòa Bạch Ốc và đưa ra giới hạn mức lương không quá 100.000 Đô-la. Đây là biện pháp thắt lưng buộc bụng mà TT. Obama học được từ cuộc khủng hoảng kinh tài lớn nhất thế kỷ 20 vào năm 1929-1930. Không chỉ về lương bổng bị hạn chế, TT. Obama còn hủy bỏ tất cả quà cáp do các hội ái hữu (Lobbies) trao tặng các cố vấn Tòa Bạch Ốc. TT. Obama muốn nhắc nhở các công chức họ luôn là đầy tớ của dân và công vụ phải ưu tiên hàng đầu.
1.3- Giới hạn mức lương tối đa của các giám đốc ngân hàng
Sau khi hạn chế mức lương tối đa của nhân viên Tòa Bạch Ốc, TT. Obam cũng hạn chế lương tối đa cho các giám đốc ngân hàng và công ty không quá 500.000 Đô-la một năm, nếu muốn nhận quỹ cứu trợ của chính phủ. Lương tổng thống Obama chỉ có 400.000 Đô-la một năm mà tiền thưởng của một số công ty cho các giám đốc lên tới 18 triệu trong năm 2008 thì không thể chấp nhận được, khi mà đất nước đang bị khủng hoảng kinh tài. Thượng Nghị Sĩ McCaskill cũng phát biểu họ không được kiếm nhiều tiền hơn Tổng thống Mỹ. Bình thường tiền thưởng cho các giám đốc ngân hàng vào khoảng 10% tới 50% lương bổng, tùy theo thoả hiệp của các ngân hàng và công ty. Cái mánh mung của các ngân hàng hay công ty là trong khi họ xin chính phủ giúp đỡ tài chính (tức thuế của dân mà chính phủ phải bảo vệ), vì gặp khó khăn mà họ lại thưởng cho các giám đốc hàng chục triệu Đô-la thì không thể coi là hành động hợp lý được! Các qui định khác cũng được thắt chặt thêm như: các giám đốc muốn được tiền thưởng thì phải đảm nhiệm chức vụ trong nhiều năm, làm gia tăng lợi tức công ty và không có điều kiện nào ràng buộc về tiền thưởng v.v…
Tuy nhiên, các chuyên viên về bồi thường trong lãnh vực tư nhân lại cảnh cáo rằng, hành động như vậy là xâm phạm vào các quyết định nội bộ của công ty tài chính. Nó có thể làm giảm sự hăng say tham gia vào chương trình cứu nguy kinh tế và làm chậm sự phục hồi trong lãnh vực tài chính. Nhận định này dựa trên lý thuyết là một giám đốc ngân hàng hay công ty kiếm lời cổ phần hay kiếm việc làm cho hàng trăm, hàng ngàn công nhân thì tại sao họ không được quyền hưởng lương cao và tiền thưởng gấp nhiều lần công nhân?
1.4- Cứu vãn nền kinh tế và tài chính Mỹ với ngân khoản 787 tỷ Đô-la
Ngân khoản cứu nguy nền kinh tế ban đầu dự trù 838 tỷ Đô-la, nhưng bị Quốc hội cắt giảm còn 787 tỷ Mỹ-kim đã được Thượng viện thông qua ngày 13.2.2009 với số phiếu 60 thuận và 38 chống.
TT Obama tuyên bố đây là bước đầu tốt đẹp cho chương trình phục hồi kinh tế Mỹ và kiếm việc cho 4 triệu việc làm. Timothy Geithner, Bộ trưởng Ngân khố tuyên bố chương trình cấp cứu các ngân hàng sẽ lên tới 1 ngàn tỷ (trillion) Đô-la thay vì 200 tỷ (billion), vì hệ thống ngân hàng hiện tại đi ngược lại với sự phục hồi và đó là động lực nguy hiểm mà chúng ta phải thay đổi. Về phía đảng Cộng Hòa, Nghị sĩ Mitch McConell, lãnh đạo khối thiểu số, cho rằng đạo luật này không có gì bảo đảm trong việc tìm 4 triệu việc làm hay phục hồi kinh tế. Hạ viện muốn gia tăng tiền cho trường học, các chính quyền địa phương và các tiểu bang cá biệt; nhưng Thượng viện lại đặt nặng vấn đề giảm thuế.
1.5- Bảo vệ sức khoẻ trẻ em
TT. Obama cũng ký nghị định về việc mở rộng bảo hiểm sức khoẻ cho trẻ em. Đây là một quyết định thay đổi hẳn đường lối cũ của cựu TT. George W. Bush và là một thành công lớn đối với những gì Tân Tổng thống đã hứa hẹn. Ngân khoản 33 triệu Đô-la sẽ dùng cho việc bảo hiểm khoảng 4 triệu trẻ em của các gia đình có lợi tức thấp nhất. Theo tường trình thì một gia đình 4 người có lợi tức khoảng 21.000 Đô-la một năm mà giá bảo hiểm sức khoẻ tốn 12.680 Đô-la, có nghĩa một nửa lợi tức. Như vậy gia đình 4 người làm sao có thể sống với số tiền hơn 1.000 đô-la một tháng? Có khoảng 7 triệu trẻ em của các gia đình có lợi tức hai lần thấp hơn mức nghèo đói. Ở Hoa Kỳ hiện nay có khoảng 35,6 triệu người được xếp vào dưới mức nghèo đói. Nancy Pelosi, Phát ngôn viên của Hạ Viện tuyên bố: ”Đây là khởi đầu cho sự thay đổi mà dân chúng Mỹ bỏ phiếu cho cuộc bầu cử vừa qua”. Vấn đề bảo hiểm sức khoẻ đã bị cựu TT. George W. Bush cản trở nhằm dùng số tiền này phí cho quân đội Mỹ đang chiến đấu tại Iraq và Afghanistan.
II- Thất bại trên chính trường nội địa
-Thượng nghị sĩ Tom Daschle được TT. Obama đề cử vào chức vụ hướng dẫn chương trình bảo vệ sức khoẻ thế giới (Universal healthcare) bị phát giác trốn thuế 128.000 Đô-la, nên phải từ chức.
-Nancy Killefer làm việc cho công ty cố vấn lớn McKinsey &Co được đề cử vào chức vụ chánh văn phòng với nhiệm vụ giám sát tiền bạc đóng thuế của dân phải được sử dụng đúng với các chương trình. Nhưng bà lại bị báo chí phát giác không đóng thuế thất nghiệp cho người giúp việc trong gia đình bà; nên phải từ chức!
-Tony Rezko, người Mỹ gốc Syria, một tài phiệt chủ công ty Reznar Corp tại Chicago, Tiểu bang Illinois. Ông này bị tai tiếng và điều tra về hối lộ và thành lập quỹ tranh cử vào Thượng Viện của Obama. Ông ta cũng từng đề nghị giúp Obama có việc làm, dính líu tới vụ bán nhà trị giá 1,5 triệu Đô-la, rẻ hơn 300.000 Đô-la, cho gia đình Obama ở Kenwood, và miếng đất dài 3 mét thuộc tài sản của Rezko với giá 104.500 Đô-la, cao hơn giá trị tài sản 60.000 Đô-la. Tháng 6/2007 Obama đề nghị chương trình 14 triệu Đô-la, kể cả 885.000 Đô-la tiền công cho Rezko và Davis, nhằm giúp người có lợi tức thấp v.v…
-Tướng Anthony Zinni nguyên là Tư lệnh chiến trường Trung Đông, cho biết được chọn làm tân đại sứ Iraq. TT. Obama và Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton đã gọi điện thoại chúc mừng. Nhưng bất ngờ ông lại được chọn làm đại sứ tại Ả Rập Saudi mà không có lời giải thích. Hành động này chứng tỏ quyết định của TT. Obam thiếu đắn đo và không thống nhất.
Người ta phê bình TT. Obama vì trong chiến dịch tranh cử, Ứng cử viên Obama đưa ra khẩu hiệu “đạo đức chính trị và sự thật mờ ám của các chính sách của Hoa Thịnh Đốn” (ám chỉ chính phủ Bush) mà nay ông ta lại bổ nhiệm một số nhân vật có hành động không đạo đức chính trị tí nào vào chức vụ quan trọng thì chính ông tự phản lại mình! Uy tín của TT. Obama bị tổn thương ngay trong thời gian đầu khiến ông phải than “Tôi điên đầu!” (Iscrewed up)
III- Thành công trên chính trường thế giới
Thành công nổi bật nhất là làm giảm sự căng thẳng với Nga Sô.
Sự hòa hoãn giữa Hoa Kỳ và Nga Sô cũng được xác định qua cuộc điện đàm giữa TT. Obama và TT. Dmitrij Medvedev ngày 27.1.2009. Vấn đề sẽ trở nên tốt hơn khi hai nhà lãnh đạo gặp nhau tại hội nghị thượng đỉnh G.20 tại Luân Đôn vào tháng 4/2009. Kết quả của chính sách hòa hoãn của TT. Obama đưa tới việc Nga Sô ngày 28.1.2009 quyết định rút các dàn hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử nhắm hướng Âu châu khỏi Kaliningrad, gần biên giới Ba Lan. Các dàn phóng hỏa tiễn của Nga Sô được đặt gần biên giới Ba Lan là do quyết định của TT. George W. Bush thiết lập hệ thống Radar phòng thủ chống hỏa tiễn tại Ba Lan và Tiệp Khắc.
Tuy nhiên, TT. Obama chưa có một chính sách thiết thực đối với Nga Sô. Ông vẫn xác định là không thừa nhận bất cứ quốc gia nào nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng (ám chỉ các quốc gia trong Liên bang Sô-viết xưa) và không công nhận chủ quyền các tỉnh Abkhazia và South Ossetia thuộc lãnh thổ Georgia, nhưng lại đòi độc lập nằm trong lãnh thổ Nga Sô.
IV- Thất bại trên chính trường thế giới
4.1- Thất bại vì chính sách bảo vệ kinh tế (Protectionism)
Trong bài Biến Cố Trong Tháng, Nguyệt san Dân Chúa Âu Châu số 314, trang 9, mục 4/2 Về phương diện kinh tế, chúng tôi cũng đã viết: “Bề ngoài thì các nhà lãnh đạo các quốc gia Á châu, Âu châu, Phi châu, Úc châu, Trung Đông và Nam Mỹ tươi cười chúc mừng Tân Tổng thống Obama với nhiều hy vọng; nhưng trong lòng lại lo ngay ngáy, kể các nhà kinh doanh và tài chính. Tại sao vậy? Tại vì đảng Dân Chủ luôn đề cao thuyết Bảo vệ (Protectionism).
Chính sách bảo vệ kinh tế đã được Ứng cử viên Barack Obama tung ra vào tháng 8/2008 qua khẩu hiệu “Buy American - Vote Obama” (có nghĩa dân Mỹ mua hàng Mỹ sản xuất - Bầu cho Obama). Nay, sau khi trở thành Tổng thống, trong dự luật cứu nguy kinh tế và tài chính đệ trình Quốc hội thông qua, TT. Obama cũng bao gồm đề nghị “Buy American”. Đề nghị như vậy TT. Obama đi ngược lại với qui định tự do kinh doanh của Tổ chức Thương mại Thế giới “WTO” và chính sách “Toàn Cầu Hoá” (Globalization) và dĩ nhiên ông gặp chống đối từ nhiều quốc gia, điển hình là:
-Liên hiệp Âu châu phản đối
Ngày 3.2.2009, Liên Hiệp Âu châu tiếp tục làm áp lực chính phủ Mỹ phải xét lại chính sách “Buy American” qua dự luật khôi phục kinh tế với 787 tỷ Đô-la. Lý do đưa ra là chỉ sắt, thép và sản phẩm kỹ nghệ được tài trợ trong kế hoạch, có nghĩa sắt, thép và hàng hóa kỹ nghệ nhập từ ngoại quốc không được hưởng trợ cấp. Phát ngôn viên của Liên Hiệp Âu Châu cho biết Liên Hiệp sẽ khiếu nại trước Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Ban đầu TT. Obam nhất quyết yêu cầu Quốc hội đừng trì hoãn đạo luật kích thích (the Stimulus Bill) của mình, mặc dù có những khác biệt, nhằm phục hồi kinh tế Mỹ. Nhưng cuối cùng vì áp lực khắp thế giới, trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài truyền hình CNN và Fox News ngày 3.2.2009, TT. Obama công nhận có sai lầm và nói là sẽ sửa đổi khẩu hiệu “Buy American” trong dự luật bằng một từ ngữ khác, để tránh một cuộc chiến tranh thương mại có thể xẩy ra.
Chính sách bảo vệ qua chương trình Buy American làm cho tinh thần quốc gia lên cao và ảnh hưởng tới một số nước khác. Một bằng chứng điển hình là hàng trăm công nhân Anh của các nhà máy điện đã đình công để phản đối thợ nước ngoài đến từ Ý Đại Lợi và Bồ Đào Nha.
Nữ Thủ tướng Đức, bà Angela Merkel, trong cuộc điện đàm với TT. Obama đã nói rằng “Thuyết bảo vệ là câu trả lời sai!” (Protectionism the wrong answer) và Hoa Kỳ cần hủy bỏ các chính sách hạn chế trong thương mại. Thủ tướng Đức bênh vực cho tự do giao thương cũng có lý của bà, vì Đức quốc là nước xuất cảng sản phẩm kỹ nghệ lớn nhất trong Liên Hiệp Âu Châu. Mọi hạn chế đối với hàng nhập cảng vào Hoa Kỳ dĩ nhiên gây bất lợi cho Đức và nhiều quốc gia khác. Lời phát biểu của Thủ tướng Đức đồng thanh với cảnh cáo của chủ tịch Quỹ Tiền tệ Thế giới IMF, ông Dominique Strauss-Kan, từ thủ đô Tokyo, Nhật Bản: “chính sách này không bao giờ đạt được thành quả tốt”
-Gia Nã Đại phản đối: Là quốc gia lân bang và là khách hàng lớn nhất của Hoa Kỳ nằm trong thị trường chung Mỹ châu, chính phủ Gia Nã Đại cũng cảnh cáo rằng “Buy American” có thể đưa tới hậu quả suy thoái kinh tế hoàn cầu.
4.2- Lép vế khi chấp nhận đối thoại với Iran
Trong hội nghị Davos, Manouchehr Mottaki, Bộ trưởng Ngoại giao Iran nói nước ông sẵn sàng trả lời tích cực nếu TT. Obama hứa thay đổi chính sách ngoại giao. Tổng thống Iran, Mahmoud Ahmadinejad, trong lễ kỷ niệm 30 năm Cách mạng Islam thành công 1979-2009, cũng tuyên bố chào mừng các cuộc đối thoại với Hoa Kỳ dựa trên căn bản tôn trọng lẫn nhau. Cao ngạo hơn nữa, TT. Iran còn đòi Hoa Kỳ phải xin lỗi Iran vì cựu TT. George W. Bush liệt kê Iran vào một trong các quốc gia thuộc “Trục Tội Ác” (The Axis of Evil). Chính phủ Bush không bao giờ thèm nói chuyện với khủng bố và hợp tác với các nước chứa chấp hay ủng hộ khủng bố.
Thực ra, lời tuyên bố của hai Tổng thống Mỹ và Iran chỉ có tính cách ngoại giao. Vấn đề là Do Thái có cùng quan điểm với Hoa Kỳ hay không. Khi Iran tiếp tục phát triển bom nguyên tử và trực tiếp ủng hộ hai tổ chức thù địch của Do Thái là Hamas tại Gaza của Palestina và Hizbollah ở Lebanon, thì vì sự sinh tồn của đất nước và trước khi Iran có ý định khiêu khích, Do Thái sẽ bỏ bom các cơ sở nguyên tử của Iran. Kế hoạch này đã được hoạch định trong thời TT. Bush còn tại chức và các phi công Do Thái đã tập dượt để thi hành nhiệm vụ. Do Thái đã oanh tạc các cơ sở chế tạo bom nguyên tử tại Iraq trước đây.
Hoa Kỳ đã liệt kê Hamas vào danh sách các tổ chức khủng bố Thế giới mà TT. Obama lại bắt tay với Iran, một nước từng bị lên án trợ giúp khủng bố Hamas và Hizbollah, thì chính phủ Obama không thể bỏ Do Thái đứng về phe Iran được. Thực tế cho thấy hiện nay TT. Obama chưa dứt khoát về một chính sách phong tỏa hay có hành động quân sự trừng phạt, khi Iran bất tuân quyết định của Liên Hiệp Quốc về việc ngưng chế tạo bom nguyên tử và công khai ủng hộ các tổ chức khủng bố hoặc trực tiếp gây hấn với Do Thái. Một cuộc tấn công của Do Thái vào lãnh thổ Iran sẽ gây biến động toàn vùng Trung Đông, làm rạn nứt tình hữu nghị giữa Hoa Kỳ và các nước Ả Rập, làm khủng hoảng thị trường dầu hỏa thế giới cũng như chiến trường Iraq và Afghanistan. Vì thế, chính phủ Obama không dễ bỏ rơi Do Thái hoặc trở thành địch thù của Iran và các nước Ả Rập. Đây là bài toán khó mà qua nhiều đời Tổng thống Mỹ đã không giải được.
4.3- Có nguy cơ phải rời căn cứ quân sự tại Kyrgyzstan
Theo tin tức của Nga Sô thì Quốc hội Kyrgyzstan có chương trình đóng cửa căn cứ quân sự và phi trường Manas. Chính phủ Mỹ đã thuê căn cứ này với giá 63 triệu Đô-la một năm và sử dụng 320 nhân công người bản xứ. Căn cứ Manas rất quan trọng vì không quân Mỹ phát xuất từ đây để thi hành các nhiệm vụ tiếp xăng cho phi cơ oanh kích và yểm trợ quân Mỹ tại A Phú Hãn. Nhân cơ hội một lính Không quân Mỹ giết chết một người Kyrgyzstan vào tháng 12/2006, dân chúng và chính phủ Kyrgyzstan đã bày tỏ sự bất mãn đối với Hoa Kỳ. Nga Sô muốn hất cẳng Mỹ ra khỏi vùng này, nên hứa cho Kyrgyzstan vay một ngân khoản dài hạn 40 năm với số lời 0,75% và chịu thuê căn cứ này với giá 300 triệu Đô-la, nhiều gấp gần 5 lần Hoa Kỳ. Chính phủ Nga cũng hứa hủy bỏ 180 triệu Đô-la còn nợ của Kyrgyzstan. Theo thông tấn Nga RIA-Novosti thì tại hội nghị Mạc Tư Khoa, tổng thống Kurmanbek Bakiyev cũng xác nhận quyết định đóng cửa căn cứ Manas.
Trong tháng vừa qua, tướng David Petraeus, tư lệnh các cuộc hành quân tại Trung Đông và Trung Á, kể cả A Phú Hãn đã tới Kyrgyzstan để bàn thảo về vấn đề này. Nhưng với sự mời gọi và số tiền hứa hẹn quá lớn lao của Nga Sô đối với một quốc gia nghèo nhất trong vùng, người ta khó hy vọng Mỹ có thể tiếp tục thuê căn cứ Manas. Trong những tháng vừa qua, các tuyến đường chở vật dụng tiếp tế cho quân đội NATO theo đường bộ, qua ngã Pakistan vào Afghanistan đã bị khủng bố Al-Qaeda và Taleban tấn công và cướp đoạt. Như vậy, vấn đề tăng cường, tiếp liệu và chuyên chở 30.000 quân Mỹ tăng cường cho chiến trường A Phú Hãn sẽ gặp nhiều trở ngại, khi căn cứ Không quân Manas không còn.
Kết luận
Tuy trong một thời gian ngắn, nhưng TT. Obama đã thực hiện được một số lời hứa mà ông đưa ra trong thời kỳ tranh cử và sau khi nhậm chức. Các chính sách của một chính phủ thành công nhiều hay ít phải qua một thời gian thử thách, thi hành và rút tỉa kinh nghiệm. Một số thành công hay thất bại nêu trên chưa thể được coi là bằng chứng để nhận định chính sách của chính phủ Obam đúng hay sai, đi đúng hướng hay trật đường rầy.
Chúng ta chờ xem TT. Obama có thực hiện được ước mơ thứ hai là khôi phục kinh tế Mỹ và đem lại hạnh phúc ấm no, đặc biệt cho người nghèo da đen đồng chủng của ông không.
Nếu TT. Obama không thành công trong các chương trình đổi mới, thần tượng Obama của tuổi trẻ và người da đen sẽ dần dà phôi pha trong đầu óc và con tim của họ.
Nếu Thế giới, vì chính sách Bảo vệ của TT. Obama, tiếp tục rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và bất an vì các cuộc chiến cục bộ, thì những hy vọng ban đầu về một TT. Obama đổi mới sẽ tiêu tan trong lòng người khắp năm châu.
Sau 8 Năm Cầm Quyền Tổng Thống George W. Bush Đã Làm Được Gì Cho Nước Mỹ?
Sau 8 Năm Cầm Quyền Tổng Thống George W. Bush Đã Làm Được Gì Cho Nước Mỹ?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Trong 8 năm cầm quyền, Tổng thống Hoa kỳ George W. Bush đã thi hành hai chính sách làm chấn động thế giới là:
-Cuộc xâm lăng A Phú Hãn (Afghanistan) năm 2001 nhằm dẹp tan nhà cầm quyền Taliban (1996-2001) do Mullah Mohammed Ohmar cầm đầu. Nhà cầm quyền Taliban không chỉ hà khắc đối với dân mình mà còn công khai chứa chấp trùm khủng bố Osama bin-Laden và cho phép thiết lập các trung tâm huấn luyện chí nguyện quân của tổ chức khủng bố Al-Qaeda.
-Cuộc xâm lăng Iraq (20.3.2003) nhằm lật đổ Tổng thống Saddam Hussein, nhà độc tài khét tiếng tại Trung Đông, đã gây nên cuộc chiến Iran và Iraq trong thập niên 1980, tiêu diệt dân Kurdistan bằng bom hóa học và ngang nhiên đem quân xâm chiếm Kuwait vào năm 1991. Saddam Hussein cũng bị tố cáo có dính líu tới vụ khủng bố ngày 11.9.2001, phát triển chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử và vũ khí giết người hàng loạt.
Nhân dịp TT. George W. Bush từ giã chính trường, chúng tôi mời quí độc giả Dân Chúa Âu Châu nhìn lại sau 8 năm cầm quyền Tổng thống George W. Bush đã làm được gì cho nước Mỹ.
I- Đối Nội
Trong 8 năm cầm quyền, Tổng thống George W. Bush bị chỉ trích nặng nhất về các vấn đề như sau:
-Không có biện pháp thích ứng khi tin tức của Cơ quan Trung ương Tình báo Hoa Kỳ "CIA" cho biết có thể có khủng bố. Cuộc khủng bố ngày 11.9.2001 xẩy ra là một bằng chứng chứng minh chính phủ Bush coi thường tin tức tình báo, không đưa ra biện pháp ngăn ngừa và can thiệp kịp thời.
-Không tích cực trong việc cứu trợ hàng chục ngàn nạn nhân của bão Katrina. TT. Bush chỉ ngồi trên phi cơ quan sát, chứ không tới tận nơi xẩy ra thiên tai để ủy lạo, khích lệ và đưa ra các biện pháp trợ giúp cấp thời.
-Không tôn trọng hiệp định Genève về tù binh. Các tù binh tại A Phú Hãn và Iraq bị làm nhục, bị tra hỏi bằng các phương thức được coi là bất hợp pháp. Nhà tù tại vịnh Guantanamo ở Cuba là bằng chứng cho thấy chính phủ Mỹ không tôn trọng luật pháp quốc tế và quốc gia về việc phải đưa ra tòa án để xét xử các tù nhân.
-Không bảo đảm được mức sung túc về an ninh xã hội, kinh tế không phát triển và không giải quyết được cuộc khủng hoảng tài chính. Tài nguyên quốc gia được dùng vào hai cuộc chiến A Phú Hãn và Iraq làm cho Hoa Kỳ rơi vào tình trạng khủng hoảng chính trị và kinh tế trầm trọng. Xã hội bị chia rẽ giữa hai phe ủng hộ và chống chiến tranh Iraq.
Sự chỉ trích trên không phải là vô cớ hoặc chỉ phát xuất từ phe đối lập. Chính Tổng thống Bush cũng đã trực tiếp hay gián tiếp công nhận một phần hay toàn phần những lỗi lầm của mình trong cuộc họp báo ngày 12.1.2009 tại Tòa Bạch Ốc, trước khi từ giã nhiệm vụ Tổng thống.
II- Đối Ngoại
Hoa Kỳ mất uy tín trên chính trường thế giới. Các nguyên nhân quan trọng hàng đầu là:
Cuộc xâm lăng A Phú Hãn thành công, nhưng không bắt được thủ lãnh Taliban và trùm khủng bố Osama bin-Laden; không tiêu diệt được tổ chức Al-Qaeda, những kẻ chủ mưu trong cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 tại Nữu Ước.
Cuộc xâm lăng Iraq thành công trong việc lật đổ chế độ độc tài và xây dựng một quốc gia dân chủ; nhưng không chứng minh được Iraq sản xuất bom nguyên tử và Tổng thống Saddam Hussein có liên hệ với tổ chức Al-Qaeda. Sau 5 năm chiến tranh chính phủ Mỹ và Iraq vẫn chưa hoàn toàn ổn định được tình thế.
Cuộc chiến Iraq làm cho Hoa Kỳ mất mát nhiều đồng minh và uy tín của TT George W. Bush bị lu mờ trên chính trường thế giới, kể cả Âu châu, một lục địa bao giờ cũng vai sát vai với Hoa Kỳ, trong cuộc chiến tranh lạnh chống Cộng sản và trong các vấn đề liên quan tới thế giới, trong hàng chục năm qua. Các cuộc thăm viếng Âu Châu của Tổng thống Bus, nhà lãnh đạo siêu cường quốc Hoa Kỳ, phần lớn chỉ xẩy ra có vẻ cá nhân giữa hai nhà lãnh đạo chính phủ mà không được dân chúng đón tiếp như một quốc khách đồng minh!
2.1-Ai chủ trương xâm lăng Iraq?
Nhiều người không ngần ngại trả lời ngay là Tổng thống Bush chứ còn ai?
-Vâng, đúng vậy. TT. Bush có quyền quyết định tối hậu tấn công hay không một quốc gia.
Nhưng khi tìm hiểu sâu xa hơn về vấn đề này, chúng tôi thấy cả một chính sách quan trọng phát nguồn từ tư tưởng chiến lược có tên: Kế hoạch cho Thế kỷ Mới của Mỹ "PNAC" (Project for New American Century) hay dưới danh xưng khác: Viện Nghiên cứu Tiến bộ Chiến lược và Chính trị "IASPS" (Institute for Advanced Strategic & Political Studies) đã được phát triển bởi nhóm "Tân Bảo Thủ" (NeoConservative) bao gồm các nhân vật có ảnh hưởng lớn về chính sách đối ngoại của chính phủ Hoa Kỳ từ thời cựu Tổng thống George Bush (bố), đặc biệt về lãnh vực Quốc phòng, mà chúng tôi tạm gọi là nhóm "Diều Hâu" hay "Chủ Chiến".
Như quí độc giả đã biết, Tổng thống Mỹ nào ban hành các chính sách, về đối nội cũng như đối ngoại, thường do các cố vấn nghiên cứu, thiết lập và đệ trình.
Nếu Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger đã có ảnh hưởng toàn bộ về các chinh sách, kể cả chiến tranh Việt Nam, của cố Tổng thống Richard Nixon, thì Phó Tổng thống Dick Cheney và ban tham mưu của ông cũng có ảnh hưởng tới tất cả chính sách của cựu Tổng thống George Bush (bố) và George W. Bush (con), đặc biệt về lãnh vực Quốc phòng. Ủy ban này đã thành công trong việc cố vấn cựu TT George Bush quyết định can thiệp bằng quân sự vào Trung Đông để giải cứu Kuwait khỏi sự xâm lăng của TT Saddam Hussein. Nhưng sau đó Ủy ban này lại tiếc nuối là tại sao không nhân cơ hội chiến thắng tiến thẳng tới thủ đô Baghdad lật đổ luôn Saddam Hussein trong cuộc chiến 1991-1992?
Sự tiếc nuối này đã được thỏa mãn dưới thời Tổng thống George W. Bush.
Đứng đầu Tân Bảo Thủ là: Phó Tổng thống Dick Cheney và các cộng sự viên đắc lực gồm: Ronald Rumsfeld Bộ trưởng Quốc phòng, Paul Wolfowitz Phụ tá BT Quốc phòng (sau được đề cử vào chức vụ giám đốc Ngân hàng Thế giới), Lewis Libby, Tham mưu trưởng, David Wurmser ủy viên tham mưu về Trung Đông, Douglas Feith Thứ trưởng Bộ Quốc phòng về chính sách của Phó Tổng thống Dick Cheney, Abraham ủy viên tham mưu Tòa Bạch Ốc và Richard Perle chủ tịch Ủy ban chính sách Quốc phòng.
Mục đích chính của Ủy ban là tìm thế đứng và đồng minh tại Trung Đông. Nhưng thực tế cho thấy chỉ Do Thái được quan tâm nhiều hơn cả. Sau biến cố khủng bố 11.9.2001 tại Nữu Ước, Ủy ban Tân Cộng Hòa đã lèo lái TT. Bush đi ngược lại các nguyên tắc căn bản của đảng Bảo Thủ mà ông tung ra trong cuộc tranh cử Tổng thống. Ủy ban này cũng làm lu mờ cả vai trò của Bộ trưởng Ngoại giao, Tướng Collin Powell trong chính sách đối ngoại của Tòa Bạch Ốc.
David Frum, người từng soạn thảo các bài diễn văn cho TT. Bush, và Richard Perle trong Ủy ban Cố vấn về Quốc phòng cho Ngũ Giác Đài (Pentagon) đã cho ra đời tác phẩm "Sự kết thúc của tội ác: Làm sao chiến thắng cuộc chiến chống khủng bố" (The End of Evil: How to Win the War on Terrorism), trong đó có đoạn nói lên chủ trương của họ trong cuộc chiến xâm lược A Phú Hãn và Iraq như sau:
"Khủng bố vẫn còn là tội ác lớn lao của thời đại chúng ta, và cuộc chiến chống tội ác là chính nghĩa lớn lao của thế hệ chúng ta… Không có trung đạo đối với người Mỹ; chiến thắng hay lò sát sinh (Holocaust) khủng khiếp". Sự đe dọa khủng bố lớn lao ngang bằng sự đe dọa của người Muslim. Bảo vệ người Mỹ khỏi sự khủng bố đòi hỏi phải lật đổ một số chế độ Ả Rập và Muslim, và cưỡng bức sự cải tổ đạo Islam thật nhiều: "Chúng ta phải làm mất niềm tin và đánh bại tư tưởng Islam cực đoan chính thức và nuôi dưỡng khủng bố…"
Như trong bài trước chúng tôi đã nói sơ qua về các nhóm các đại biểu "Lobbies" của Do Thái có ảnh hưởng lớn trong quốc hội và chính quyền Mỹ. Chính vì thế, nhà kinh tế Thomas Stauffer cho rằng từ năm 1973 Do Thái đã nhận được 240 tỷ Mỹ-kim viện trợ của Hoa Kỳ. Chính vì thế, trùm khủng bố Osama bin-Laden khẳng định sự trợ giúp của Hoa Kỳ cho Do Thái là nguyên nhân thù nghịch chính yếu của tổ chức khủng bố bao trùm thế giới Al-Qaeda. Bằng chứng còn được xác nhận qua nhật báo Ha’aret của Do Thái tường trình ngày 5.4.2003 rằng: "Chiến tranh Iraq được thai nghén bởi 25 nhà thông thái trong nhóm Tân Cộng Hòa, phần lớn là người Do Thái, những người thúc đẩy TT. Bush thay đổi lịch sử. Ủy ban Hành động Chính trị Do Thái-Mỹ "AIPAC" (The American Israeli Political Action Committee) được coi là nhóm đại biểu chủ chiến có ảnh hưởng rộng lớn tại Hoa Thịnh Đốn.
Thực ra, vấn đề xâm lăng Iraq đã được Viện Nghiên cứu Tiến bộ Chiến lược và Chính trị "IASPS" đưa ra từ năm 1996. Kế hoạch này cũng được thông báo cho Thủ tướng Do Thái để chuẩn bị đối phó với sự trả đũa của Iraq và các nước Islam trong vùng Trung Đông. Ảnh hưởng quá mạnh của Uỷ ban Tân Bảo Thủ khiến Tướng Anthony Zinni, Tư lệnh các lực lượng của Mỹ tại Iraq, người đầu tiên đã công khai lên truyền hình kể 60 phút sự thật về Tòa Bạch Ốc đã cố giữ bí mật và Ủy ban Tân Bảo Thủ đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh khó chiến thắng và gia tăng cuộc chiến bẩn thỉu. Ai chống lại các chương trình của Tân Bảo Thủ liền bị phê bình là "Chống Do Thái" (Anti-Semitic, một nhóm từ khơi lại hành động tàn ác của Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái trong thời Đệ II Thế chiến. Ai chống Do Thái bị đồng hóa với Hitler!)
Theo Trung tá Karen Kwiatkowski thì các tin tình báo đưa tới cuộc chiến xâm lăng Iraq hầu như dựa vào nguồn tin cung cấp của Do Thái. Do Thái muốn lật đổ Saddam Hussein bằng bất cứ giá nào để chấm dứt việc Tổng thống Iraq công khai ủng hộ các nhóm khủng bố tại Palestina và Libanon.
Như chúng tôi đã từng viết trong các bài liên quan tới tình hình Trung Đông trước đây là Saddam Hussein công khai khiêu khích Do Thái và Hoa Kỳ bằng cách tưởng thưởng khoảng 3.000 Mỹ-kim cho mỗi gia đình có thân nhân mang bom tự sát chống Do Thái.
Cuộc khủng bố ngày 11.9.2001 là một nguyên nhân ngàn năm một thuở để chiến lược đặt chân lên Trung Đông và thiết lập một chế độ đồng minh với Hoa Kỳ được thực hiện và đã thành công.
III- Hậu quả do chiến tranh Iraq gây ra
Hậu quả về nhân bản
Theo Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) có 1,9 triệu người dân phải chạy tỵ nạn loanh quanh trên đất nước và 2 triệu chạy tỵ nạn ra nước ngoài, đặc biệt tại Syria và Jordan. Trung bình mỗi ngày có hàng chục người chết vì chiến tranh, do khủng bố và các phe phái Hồi giáo thanh toán lẫn nhau. Xã hội xáo trộn khiến cho 1/3 dân chúng rơi vào cảnh bần cùng. Hệ thống giáo dục, y tế và xã hội rơi vào tình trạng tồi tệ được coi là một trong các cuộc khủng hoảng và tàn phá quan trọng nhất trên thế giới trong những năm đầu của thế kỷ 21.
Hậu quả về chính trị
Cuộc chiến Iraq gây ảnh hưởng dây chuyền từ Syria đến Lebanon, từ Ả Rập Saudi tới Iran, Do Thái, Palestina và các nước Islam trong vùng. Đặc biệt trùm khủng bố Osama bin-Laden và tổ chức Al-Qaeda lợi dụng biến cố này hợp thức hóa hành động khủng bố tại Iraq với danh nghĩa chống Mỹ cứu nước. Một đất nước Iraq bị chia thành ba phần: dân Kurdistan ở miền Đông-Bắc, dân Muslim hệ phái Sunni ở miền Trung-Tây và dân Muslim hệ phái Shia ở miền Nam. Dân Kurdistan và Shiite cám ơn Hoa Kỳ đã giải phóng họ khỏi chế độ độc tài Saddam Hussein; nhưng dân Sunni hận thù vì Tổng thống của họ bị Mỹ lật đổ.
Sự thất bại trong chương trình ổn định tình hình, tái thiết và phát triển dân chủ tại Iraq lại vô tình củng cố vị trí lãnh đạo của các thủ lãnh quốc gia trong vùng. Họ không sợ bị Hoa Kỳ lật đổ như Saddam Hussein nữa.
Hậu quả về kinh tế
Cuộc xăm lăng Iraq gây cho 60% dân chúng tại đất nước này bị thất nghiệp và các hệ thống sản xuất, kể cả điện nước, bệnh viện, trường học, rơi vào tình trạng bị tàn phá, thiếu điều hành. Mặc dù sau cuộc xâm lăng, chính sách của Mỹ và tân chính phủ Iraq là mở cửa cho các nhà đầu tư ngoại quốc, hủy bỏ các cơ sở, xí nghiệp quốc doanh, Quỹ Tiền tệ Thế giới tung hàng triệu Mỹ-kim để tái thiết đất nước, Liên Hiệp Quốc hủy bỏ lệnh phong tỏa kinh tế Iraq; nhưng khủng bố và hận thù giữa các phe nhóm làm cho chương trình tái thiết và phát triển trở nên khó khăn và kéo dài thời gian.
Hậu quả về di sản văn hóa
Cuộc xăm lăng Iraq là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp hủy hoại một phần hay toàn phần di sản văn hóa và khảo cổ của đất nước có một quá trình lịch sử văn hóa lâu đời. Bảo tàng viện và thư viện quốc gia Iraq bị phá hủy hoặc bị ăn cắm đồ cổ quí giá. Quân đội Mỹ đóng căn cứ và phá hại trung tâm lịch sử văn hóa Babylon cũng như một số địa danh nổi tiếng tại vùng ngoại ô.
Hậu quả về công pháp quốc tế
Cuộc xăm lăng Iraq bất chấp có hay không có quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đưa tới hậu quả là các nhà độc tài tại một số quốc gia trong tương lai có thể lợi dụng biến cố Iraq như là một tiền lệ cho phép họ hành động qua mặt Liên Hiệp Quốc. Nga Sô ngang nhiên đem 5.000 quân và hơn 150 chiến xa tràn vào Georgia ngày 8.8.2008, với danh nghĩa bao vệ dân Nga và dân Georgia thân Nga, đã tạo nên cảnh rối loạn và mất an ninh trong vùng. Hơn 115.000 người dân Georgia phải chạy tỵ nạn là một bằng chứng cụ thể chứng minh sự coi thường luật pháp quốc tế.
Hậu quả về tôn giáo
Không kể sự rạn nứt đi tới thù địch bắn giết lẫn nhau giữa hai phe Muslim hệ phái Sunni và Shiite, người ta lo ngại Thiên Chúa giáo sẽ bị quét sạch khỏi Iraq. Cuộc xâm lăng Iraq là nguyên nhân khiến cho người Muslim quá khích và tổ chức khủng bố Al-Qaeda khơi lại đống tro tàn lịch sử; gán cho quân đội Mỹ và đồng minh Tây phương là Thập Tự Quân. Một số sự kiện sau đây cho thấy Thiên Chúa giáo đã và đang bị bách hại.
Theo ký giả Joe Sterling của đài truyền hình CNN thì tín hữu Thiên Chúa giáo đang phải trực diện sự giết chóc và đe dọa đến tính mạng phải chạy tỵ nạn ra nước ngoài. Cộng đồng dân Chúa ở Iraq vào năm 2003 có khoảng 1,4 triệu, nay chỉ còn khoảng 500.000 đến 700.000 người! Anna Eshoo gốc Syria và Armenia, Dân biểu thuộc đảng Dân Chủ Mỹ đã phải nói là người Ki-tô hữu Iraq đang sống trong tình trạng bị diệt trừ tôn giáo và bà kêu gọi hãy giúp đỡ các tín hữu tỵ nạn. Ông Kassab, Giám đốc điều hành tổ chức từ thiện Mỹ Cheldan Federation of America cũng phải kêu lên: "chúng tôi đang phải đối đầu với cái chết! Thánh giá bị biến mất khỏi nhà thờ, các Linh mục không dám mặc áo chùng thâm khi ra ngoài, giáo dân sợ bị ám sát hay bắt cóc không dám đi lễ, nhà thờ sợ bị phá phách và chiếm cứ nên phải thuê an ninh bảo vệ v.v…"
Kết luận:
Tham chiến tại A Phú Hãn và Iraq, chính phủ Mỹ đã phải chi khoảng 12 tỷ Đô-la một tháng. Ngân sách của chính phủ thâm thủng hàng trăm tỷ Đô-la đưa tới hậu quả Hoa Kỳ bị nợ nần trên 10 ngàn tỷ Đô-la vào thời điểm 30.9.2008. Nếu chương trình can thiệp vào A Phú Hãn và Iraq còn tiếp tục thì tốn phí cho ngân sách sẽ gia tăng thêm khoảng 1,7 ngàn tỷ đến 2,7 ngàn tỷ vào năm 2017.
Với số lượng tiền bạc tiêu xài vung phí lớn lao như vậy, người ta tự hỏi các chính phủ Mỹ lấy lại được gì trong hai cuộc chiến?
Câu hỏi này chúng tôi đã trả lời một phần trong bài trước (Dân Chúa Âu Châu số 315) và một vài đoạn ở trên. Chúng tôi hy vọng sẽ có dịp trình bày tiếp chiến lược toàn cầu của nhóm Tân Bảo Thủ khi có cơ hội.
Biết đâu Việt Nam, Bắc Hàn và Đài Loan sẽ nằm trong chiến lược của các nhóm Tân Bảo Thủ vào những năm tới?
Kinh tế Hoa Kỳ đi về đâu ?
Kinh tế Hoa Kỳ đi về đâu ?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Trong năm 2008, không phải chỉ các chuyên gia kinh tế hay tài chính nhận ra sự khủng hoảng một phần hay toàn phần hệ thống tài chính ở Hoa Kỳ và tại các quốc gia trên thế giới, mà các bà nội trợ đi mua bán cũng than sao giá hàng kỳ này mắc mỏ quá. Thực vậy, nếu theo sát nền kinh tế của mỗi nước, người ta thấy nó đang rơi vào tình trạng suy thoái. Hậu quả đầu tiên gây ra là nhiều nhà triệu phú bất ngờ trở thành trắng tay và nhiều người dân Mỹ trở thành vô gia cư, vì không có tiền trả nợ bị ngân hàng tịch thu tài sản.
Có bốn nguyên nhân tạo nên tình trạng khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ. Cuộc khủng hoảng này như một bệnh truyền nhiễm lan rộng trên toàn thế giới:
Nguyên nhân 1
Sự khủng hoảng kinh tế bắt đầu bằng giá dầu hỏa leo thang, có lúc lên đến đỉnh cao nhất 150 Đô-la Mỹ (USD) một thùng dầu thô. Sự gia tăng giá dầu khiến cho hàng hoá sản xuất cũng như hàng hoa bán trên thị trường đắt lên gấp hai hay ba bốn lần, tuỳ theo nền kinh tế của mỗi quốc gia. Sự gia tăng giá dầu đặt ra vấn đề cho các chính phủ, đặc biệt chính phủ Mỹ, phải tìm biện pháp giảm thiểu số lượng dầu tiêu thụ và thay thế bằng một nhiên liệu khác. Các nhà bác học đã thành công trong hai lãnh vực:
-Dùng than đá chế biến thành khí ``Ethanol hay ethyl alcohol: C2H5OH, gồm 3 hợp chất: carbon, hydrogen và oxygen’’ để đốt và thay thế dầu hỏa.
-Dùng các loại cây thực phẩm như: bắp (ngô), đậu phọng (lạc), đậu nành, lúa, bông hoa mặt trời v.v… và mỡ thú vật để chế biến thành ``biodiese’’ (methyl hay ethyl) thay cho dầu hỏa.
Nguyên nhân 2
Tình trạng lạm phát quốc tế (Global Inflation) hay nói nôm na là đồng tiền mất giá tại các quốc gia trên thế giới, khiến cho các chính phủ phải in thêm nhiều bạc giấy, hầu đáp ứng với nhu cầu của dân chúng và đối phó với vấn đề vật giá gia tăng. Nạn lạm phát bắt nguồn từ tình trạng vật giá gia tăng, hậu quả của nguyên nhân 1 ở trên. Đồng Đô-la của Mỹ ngày nay sụt giá so với những năm trước đây phát xuất từ sự thâm thủng trong ngân sách ngoại thương. Hoa Kỳ nhập cảng hàng hóa nhiều hơn xuất cảng, lỗ nhiều hơn lời và nợ nần hàng trăm tỷ Mỹ-kim.
Nguyên nhân 3
Cuộc khủng hoảng tín dụng ngân hàng (Credit crisis) tại Hoa Kỳ.
Tháng 4/2007, mở đầu là Công ty New Century Financial (NCF) bị thâm thủng 225 triệu Mỹ-kim và phải sa thải 3.200 nhân viên. Công ty này có 11 tiểu công ty, trong đó có Goldman Sachs ở Hoa Kỳ và Barlays Bank ở Anh quốc. Barly Bank lại có chi nhánh tại Hòa Lan là ngân hàng ABN Amaro. Công ty NCF cũng cho nhóm đầu tư kinh doanh Carrington Capital Management ở California vay 139 triệu Mỹ-kim và nhóm này bị phá sản 188 triệu Mỹ-kim vào tháng 5/2007. Ngân hàng đầu tư Bear Stearns, một trong các ngân hàng lớn nhất thế giới về đầu tư và bảo hiểm thương mại, trụ sở đặt tại Nữu Ước, vào tháng 3/2008, bị rơi vào tình trạng khủng hoảng dây chuyền về buôn bán nhà cửa. Ngân hàng Dự trữ Liên bang của Nữu Ước phải cấp thời tung tiền ra bảo đảm để ngân hàng Bear Stearns không bị sụp đổ. Nhưng ngân hàng này không cứu vãn được lại bán cho công ty dịch vụ tài chính lớn JPMorgan Chase với giá quá rẻ 10 Mỹ-kim một cổ phiếu, trong khi giá cổ phiếu 52 tuần trước cuộc khủng hoảng là 133,20 Mỹ-kim.
Trong thời gian kế tiếp, lần lượt các ngân hàng rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính gồm: công ty bảo hiểm hợp đồng MBIA mất 3,2 tỷ Mỹ-kim, Hiệp hội cầm cố quốc gia Liên bang Freddie Mae và Freddie Mac có tài sản trị gía 5 ngàn tỷ Mỹ-kim đã làm thất thoát 4.5 tới 4.7 tỷ trong việc cho dân vay mua nhà cửa; ngân hàng Merrill Lynch được Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ mua lại với giá 50 tỷ; quỹ dự trữ Liên bang cứu vớt công ty bảo hiểm lớn nhất AIG với số tiền 85 tỷ Mỹ-kim; ngân hàng cho vay Washington Mutual có tài sản 307 tỷ cũng phải bán cho công ty JPMorgan Chase; ngân hàng Wall Street Lehman Brothers tổn thất 3,9 tỷ; ngân hàng Wachovia lớn thứ tư ở Mỹ cũng lỗ 42 tỷ phải bán cho Citigroup với sự trợ giúp của chính phủ. Từ tháng 3/2008, một số ngân hàng lớn của Hoa Kỳ rơi vào tình trạng phá sản như: Bear Stearns nhà băng lớn thứ 5 của Wall Street bán cho JPMorgan Chase 240 triệu USD; Fannie và Freddie phá sản, Lehman Brothers, Merrill Lynch đồng ý bán cho Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ 50 tỷ USD; AIG được Ngân hàng Dự trữ Liên bang cứu vớt với số tiền 85 tỷ USD, Washington Mutual (WaMu) bị phá sản phải bán cho Citigroup v.v…
Nguyên nhân 4
Ngân hàng Dự trữ Hoa Kỳ (US Federal Reserve) hạ mức tiền lời cho vay xuống quá thấp nhằm khích lệ việc đầu tư và phát triển kinh tế Hoa Kỳ. Tiền lời thấp, nhiều người Mỹ vội vã mượn tiền ngân hàng mua nhà với điều kiện quá dễ dãi, có khi không cần phải có tiền đặt cọc và không cần nghề nghiệp vững chắc v.v... Khi kinh tế Mỹ bị suy thoái do hậu quả tham chiến tại chiến trường Iraq, Afghanistan, chương trình chống khủng bố và nhiều xí nghiệp sản xuất chuyển ra ngoại quốc v.v… nhiều gia đình bị rơi vào cảnh thất nghiệp. Các chủ nhà không có đủ tiền trả nợ định kỳ cho ngân hàng đành phải mất nhà. Theo thống kê, nguyên trong năm 2007 có tới 1,3 triệu căn nhà rơi vào tình trạng bị ngân hàng đòi lại (tịch biên), tăng 79% so với năm 2006. Nhiều nhà bị bán đấu giá hay bỏ trống khiến cho thị trường nhà cửa rơi vào cuộc khủng hoảng lớn chưa từng có. Các ngân hàng cho vay lấy lại nhà, nhưng bán không được hoặc phải bán với giá thấp hơn trước đây, bị lỗ vốn lớn thành phá sản. Từ biến cố này, người ta mới mỉa mai gọi là ``gia cư bong bóng’’ (housing Buble) bộc phát từ năm 2007.
Nguyên nhân 5
Do vấn đề đầu cơ, thao túng thị trường qua các dự án mơ hồ hoặc khó thực hiện được gọi là ``Dot.com Buble’’ hoặc ``I.T. Buble’’ của các tay tài phiệt và chủ ngân hàng. Họ đánh giá cổ phần (shares, stocks) và cổ phiếu quá cao hay quá thấp trên thị trường chứng khoán (stock market hay equaty market) với mục tiêu thu lợi càng nhiều càng tốt. Sự kiện này bắt đầu xuất hiện từ năm 1995-2001. Người ta không phải như các bà nột trợ mang rổ ra chợ kỳ kèo giá cả rồi mới mua đồ, họ ngồi trong phòng bấm máy điện toán mua bán cổ phần, cổ phiếu có khi lời lỗ hàng triệu Mỹ-kim chỉ trong một giây, chỉ ấn một cái nút O.K.
Cuộc khủng hoảng tài chính phần lớn do lỗi của ngân hàng; nhưng cũng do những kẻ buôn bán bất hợp pháp hoặc lừa đảo gây ra. Cảnh sát Liên bang FBI, sau các cuộc điều tra, đã bắt giữ 406 người buôn bán bất hợp pháp.
Sự thao túng và đánh giá sai lầm hoặc lừa đảo làm cho thị trường buôn bán cổ phần, cổ phiếu bị lỗ 7 ngàn tỷ Mỹ-kim (US $7 trillions) kể từ năm 2001. Thị trường buôn bán chính thức của công quyền hay tư nhân trên thế giới có giá trị ước tính vào khoảng 36,6 ngàn tỷ Mỹ-kim kể từ đầu năm 2008, nhưng thị trường không chính thức lại lên tớ 480 ngàn tỷ, gấp 12 lần. Sự bấp bênh nằm ở chỗ này. Viện Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia NBER (National Bureau of Economic Research) đã công bố nền kinh tế Hoa Kỳ nắt đầu bị trì trệ từ tháng 12/2007.
Ngày 21/1/2008 được coi là ngày khởi đầu thị trường chứng khoán thế giới bị khủng hoảng lớn nhất kể từ sau biến cố khủng bố tại Nữu Ước ngày 9/11.
1-Biện pháp giải quyết của chính phủ Mỹ
Để cứu vãn cuộc khủng hoảng tài chính, ngày 6/12/2007, tổng thống George W. Bush đưa ra chương trình trợ giúp hơn một triệu gia đình rơi vào tình trạng không đủ tiền trả nợ mua nhà. Ngày 13/12/2007, ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ hợp tác với 5 ngân hàng trung ương hàng đầu của trên thế giới cho các ngân hàng thương mại vay nhiều tỷ Mỹ-kim, để giải quyết các vấn nạn mà các ngân hàng này đang phải đối phó. Hoa Kỳ giúp 20 tỷ Mỹ-kim, Liên Hiệp Âu châu 500 tỷ. Quốc hội Mỹ cũng thông qua đề nghị trợ giúp các ngân hàng bị khủng hoảng với số tiền 700 tỷ Mỹ-kim. Đây là khoản tiền lớn nhất được sử dụng kể từ cuộc khủng hoảng tài chính trong thập niên 1920-1930.
Ngoài ra, tổng thống Bush đã đưa ra Đạo luật Ổn định Cấp thời (Emergency Stabilization of 2008) với ngân khoản 700 tỷ Mỹ-kim, được Quốc hội thông qua, nhằm bảo vệ niềm tin trên thị trường tài chính và tín dụng ngân hàng.
Khi Ủy ban Hoa Kỳ của chính phủ (US Committee of Government) dự đoán về chương trình cải tổ kinh tế, tiến sĩ Alan Greenspan, giám đốc Hệ thống Dự trữ Liên Bang (the Federal Reserve System, the Federal Reserve, viết tắt the Fed hay còn gọi là Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ), đã tuyên bố về cuôc khủng hoảng như một cơn bão tín dụng Tsunami trong thế kỷ! (An Once-in-a-century credit tsunami). Tiến sĩ Alan Greenspan là nhà kinh tế lỗi lạc, đã được tổng thống Ronald Reagan bổ nhiệm vào chức vụ giám đốc Hệ thống Dự trữ Hoa Kỳ vào ngày 19.10-1987, khi thị trường chứng khoán Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng mà người ta quen gọi là ngày thứ hai đen (Black Manday). Ông đã thành công trong việc ổn định kinh tế từ 1987 tới thời TT. George W. Bush 2006. Từ năm 2007, ông tiên đoán cuộc khủng hoảng tín dụng sẽ xẩy ra do mức độ tiền lời dài hạn gây ra, đặc biệt về buôn bán nhà cửa, nhưng ông tin tưởng Ngân hàng Trung ương sẽ kiểm soát được, vì giá trị của sự bảo hiểm dài hạn thị trường thế giới đã đạt tới 100 ngàn tỷ Mỹ-kim.
2-Cuộc khủng hoảng tài chính lan ra khắp thế giới
Tháng 8/2007, dịch hạch tài chính Mỹ lan tới Âu châu. Ngân hàng BNP Paribas và một số ngân hàng lớn khác tại các quốc gia hội viên của Liên Hiệp Âu Châu cũng bị rơi vào cuộc khủng hoảng, BNP Paribas là một trong các ngân hàng đầu tư lớn nhất thế giới về dịch vụ tài chính, có chi nhánh tại 85 quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, và dẫn đầu ở Á châu, với 171.200 nhân viên, lợi tức khoảng 7,614 tỷ EURO. Ngân hàng Trung ương Âu châu (European Central Bank) phải bơm vào thị trường tài chính 95 tỷ EURO để trợ giúp việc trang trải và sẽ giúp thêm 108,7 tỷ trong những ngày tới. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ không chỉ lan rộng tới các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu, mà tới tận Á châu, Phi châu, Nam Mỹ, Trung Đông v.v…
Từ tháng 8/2007, ngân hàng Liên bang Hoa Kỳ, ngân hàng quốc gia Gia Nã Đại và Nhật Bản cũng bắt đầu can thiệp vào thị trường tài chính. Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ giảm tiền lời cho vay từ 6,25% xuống 5.75%; sau đó từ 5,75% xuống 4,75% rồi 3,5% vào ngày 22.2.2008; một sự cắt giảm lớn nhất trong 25 năm. Quyết định này làm cho thị trường chứng khoán sống trở lại. Nhưng gặp sự cảnh cáo của các chuyên gia kinh tế, vì nó có ảnh hưởng không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
3-Biện pháp giải quyết của các nhà lãnh đạo thế giới
Trong cuộc họp với tổng thống Pháp, Nicolas Sarkozy, thủ tướng Anh Gordon Brown và Chủ tịch Ủy ban Đặc nhiệm Liên Hiệp Âu Châu, Jose Manuel Barrosso, vào các ngày 18-19/10/2008 tại Camp David, tổng thống George W. Bush đã đề nghị tổ chức cuộc họp thượng đỉnh 25 nhà lãnh đạo tài chính: gồm các Bộ trưởng tài chính, giám đốc ngân hàng trung ương; và lãnh đạo chính quyền của 20 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20) vào ngày 14+15/11/2008 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Mục đích của cuộc họp là làm sao đi tới sự thống nhất trong việc giải quyết vấn nạn tài chính và kinh tế thế giới, hầu ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng tài chính khác có thể xẩy ra trong tương lai. Các chuyên gia kinh tế muốn duyệt lại cơ cấu tài chính đã dựa theo hệ thống Bretton Woods System có từ sau Đệ II Thế chiến. Qua hai ngày họp các nhà lãnh đạo của G20 đã đồng ý về 5 vấn đề: -Nhận thức được nguồn gốc của sự khủng hoảng, Quan sát hành động giải quyết của các quốc gia và theo dõi để báo cáo ngay sự khủng hoảng cũng như sự gia tăng trong tương lai; đồng ý nguyên tắc chung về việc cải tổ thị trường tài chính; đưa ra chương trình hành động để hoàn thành các nguyên tắc và yêu cầu các Bộ trưởng khai triển các khuyến cáo rộng hơn, để xét lại trong cuộc họp thượng đỉnh tới, dự trù vào ngày 30.4.2009 và tái xác định nguyên tắc thị trường tự do. Trong hội nghị có ý kiến đưa ra nên thành hình một đồng bạc chung cho thế giới là một đề nghị rất có ý nghĩa.
G20 gồm các quốc gia: Á Căn Đình (Argentina), Úc Đại Lợi (Australia), Ba Tây (Brazil), Gia Nã Đại (Canada), Trung quốc (China), Pháp (France), Đức (Germany), Ấn Độ (India), Nam Dương (Indonesia), Ý Đại Lợi (Italy), Nhật Bản (Japan), Mễ Tây Cơ (Mexico), Nga Sô (Russia), Saudi Arabia, Nam Phi (South Africa), Nam Hàn (South Korea), Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey), Anh quốc (United Kingdom), Hoa Kỳ (United States) và Liên Hiệp Âu Châu (European Union), Quỹ Tiền tệ Thế giới (International Monetary Fund) và Ngân hàng Thế giới (World Bank).
4-Kinh tế Hoa Kỳ đi về đâu?
Trước cuộc khủng hoảng tài chính xẩy ra tại Hoa Kỳ và đang lan rộng trên thế giới, người ta tự hỏi: kinh tế Hoa Kỳ đi về đâu?
Trả lời cho thắc mắc này, chúng ta nên tìm hiểu:
4.1-Sự lỗ lã trong ngành xuất nhập cảng của Hoa Kỳ
Theo thống kê năm 2007 ngành ngoại thương của Hoa Kỳ bị lỗ khá nhiều. Hoa Kỳ buôn bán với các quốc gia bị lỗ theo thứ tự: Trung quốc: 259,1 tỷ USD (tăng 11,4% so với năm 2006), Nhật Bản: 83,1 tỷ USD (giảm 6,1%), Mễ Tây Cơ: 74 tỷ USD (tăng 15,4%), Gia Nã Đại: 65 tỷ (giảm 10,7%), Đức: 44,5 tỷ USD (giảm 6,9%), Nigeria: 28,9 USD (tăng 12,5%), Venezuela: 28,4 tỷ USD (tăng 0,6%), Saudi Arabia: 24,5 tỷ USD (tăng 1,8%), Ái Nhĩ Lan: 21,6 tỷ USD (tăng 7,5%), Ý: 20,9 tỷ USD (tăng 3,7%), Mã Lai: 20,8 tỷ USD (giảm 13.2%), Pháp: 14,5 tỷ USD (tăng 12.5%), Nam Hàn: 13,6 tỷ (tăng 2.5%), Đài Loan: 12,7 tỷ USD (giảm 16.7%), Anh quốc: 6,7 tỷ (giảm 16.8%).
4.2-Ngân sách của chính phủ Mỹ bị thâm thủng quá nhiều
Năm 2008 thiếu hụt ngân sách lên tới 455 tỷ Mỹ-kim.
Tính tới tháng 11/2008, tổng số nợ nần gồm tiền bạc và vật chất của Hoa Kỳ lên tới 10,6 ngàn tỷ Mỹ-kim, chia cho mỗi đầu người thì mỗi người Mỹ nợ 37.316 USD. Nợ trong lãnh vực công quyền năm 2007 chiếm tới 36,9% tổng sản lượng nội địa (GDP), nợ trong lãnh vực tư nhân 65,5% tổng sản lượng nội địa. Theo thống kê của CIA tỷ số nợ (phần trăm) của Hoa kỳ đứng hàng 27 trên thế giới.
6-Tại sao cổ phiếu mất giá?
Trong các cuộc khủng hoảng tín dụng ngân hàng thì những người mua cổ phần hay cổ phiếu thường bị lỗ, có khi trắng tay.
Tại sao?
Cổ phiếu xuống giá do ba nguyên nhân:
6.1-Công ty hay ngân hàng mà quí độc giả mua cổ phiếu làm ăn bị thất bại, sản phẩm bán trên thị trường bị ế ẩm; hoặc vì lý do chính trị nào đó, như bị khủng bố chẳng hạn.
Ví dụ: công ty sản xuất bơ sữa ARLA của Đan Mạch ba năm trước đây hàng hóa bị tẩy chay tại Trung Đông và các nước Hồi Giáo, vì các tranh hí hoạ nhạo báng Tiên tri Mohammad. Sự tẩy chay đưa tới hậu quả là việc sản xuất bị giảm đi, hàng chục nhân công bị sa thải và cổ phiếu của công ty này bi giảm giá trị trên thị trường chứng khoán.
6.2-Khi kinh tế và tài chính của một quốc gia rơi vào tình trạng khủng hoảng thì giá trị của cổ phiếu nói chung cũng bị mất giá theo.
Ví dụ: hiện nay Băng Đảo (Iceland) bị khủng hoảng tài chính và kinh tế nặng nhất. Vào tháng 10/2008 cổ phiếu bị mất gía tới 76%. Một cổ phiếu trước đây mua vào 100 đồng, nay bán ra chỉ được 24 đồng, lỗ 76 đồng. Nếu tính hàng chục, hàng trăm ngàn cổ phần, cổ phiếu thì số tiền mất mát tăng lên hàng chục, hàng trăm triệu! Cả nước bị khủng hoảng thì người dân bị ảnh hưởng lây, đặc biệt những người giầu có mua nhiều cổ phần, cổ phần trong các ngân hàng hay công ty kinh doanh. Do đó chính phủ Băng Đảo đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán để chờ biện pháp cứu vãn cuộc khủng hoảng này.
6.3-Khi chuyên viên của ngân hàng hay của công ty lừa dối hoặc tính toán sai lầm khi mua bán ngoại tệ và cổ phiếu trên thị trường chứng khoán sẽ gây ra sự lỗ vốn hàng trăm triệu đồng, rồi đi tới phá sản, nếu không có biện pháp cứu giúp của chính phủ hoặc của hệ thống ngân hàng.
Vì thế, qua kinh nghiệm, người ta khuyên không nên để một số tiền quá lớn trong một ngân hàng. Hãy gửi tiền tiết kiệm hoặc mua cổ phiếu nhiều nơi khác nhau. Đối với Đan Mạch thì tiền bảo chứng của một ngân hàng bị phá sản, khi được chính phủ cứu giúp cũng chỉ trả lại cho những ai có sổ băng ký thác từ 300.000 kroner trở xuống. Số tiền bồi thường nhiều hay ít dĩ nhiên tuỳ thuộc vào chính sách tài chính của mỗi quốc gia. Vậy quí độc giả nào gửi quá nhiều tiền trong một ngân hàng hay mua nhiều cổ phiếu của một công ty thì nên tính lại kẻo mất cả chì lẫn vốn.
7- Quyền lực nằm trong tay Chính phủ Mỹ hay tài phiệt Do Thái?
Cuộc diệt chủng dân Do Thái do Adoft Hitler gây ra trong thời Đệ Nhị Thế chiến không chỉ vì thuyết chủng tộc (Racism) mà còn do nhiều nguyên nhân khác. Một trong những nguyên nhân là các nhà giầu Do Thái, ngày nay gọi là tài phiệt, cho vay tiền nặng lãi! Tại Hoa Kỳ cũng vậy, người ta thường nói tới các nhóm Hobby của Do Thái có ảnh hưởng rất lớn trên chính trường Mỹ, đối với các chính phủ cũng như trong Quốc Hội. Các nước Ả Rập Trung Đông giầu tài nguyên dầu hỏa, trong khi Hoa Kỳ thiếu thiếu thốn nhiên liệu, mà không nước nào làm áp lực được các chính phủ Mỹ trong việc tranh đấu cho một quốc gia Palestina thành hình. Tổng thống Mỹ nào lên nắm quyền cũng tuyên bố ủng hộ Do Thái và viện trợ cho Do Thái bằng cách này hay bằng cách khác.
Tại sao?
Xin thưa: vì tiền!
Đã có người hỏi: Tại sao Do Thái sở hữu Hoa Kỳ qua Hệ thống Dự trữ Liên bang?
Muốn hiểu nguyên nhân vì tiền, chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc sâu xa của sự thành hình cái gọi là Hệ thống Dự trữ Liên bang “The Federal Reserve System”.
Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra một vài điểm chính.
Thực tế cho thấy Hệ thống Dự trữ Liên bang không hoàn toàn thuộc thẩm quyền của chính phủ Mỹ mà là của tư nhân. Theo tiến sĩ Chuck Missler các ngân hàng chính danh có cổ phần, cổ phiếu trong Hệ thống Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ là: các ngân hàng có tên Rothschild ở Anh và Berlin (Đức); các ngân hàng Warburg ở Hamburg (Đức) và Amsterdam (Hòa Lan); các ngân hàng Lazard Brothers ở Ba-lê (Pháp); Các ngân hàng Do Thái Moses Seiff ở Ý, các ngân hàng Lehman Brothers, Kuln, Loeb, Goldman, Sachs ở Nữu Ước (Hoa Kỳ) v.v… Vì cùng sở hữu chủ cổ phần và cổ phiếu; nên các ngân hàng này dễ dàng được vay nhiều tiền của chính phủ Mỹ với số tiền lời phải trả rất thấp. Trong khi đó họ lại cho ngân hàng hay công ty khác vay với số tiền lời cao hơn. Khi đầu tư được lợi tức bao nhiêu thì họ gửi về Do Thái, hoặc di chuyển văn phòng về Do Thái để được bảo vệ và được ưu tiên, theo chính sách mời gọi trở về xây dựng quê hương của chính phủ.
Ví dụ:
Một ngân hàng Do Thái vay 1.000.000 Mỹ-kim của chính phủ Mỹ với lý do để đầu tư và kinh doanh thì giả sử phải trả khoảng 2% tiền lời một năm. Ngân hàng này cho người đang muốn mua nhà vay mà không cần đặt điều kiện gì cả, nên phải trả tiền lời cao 5%, so với giá thị trường 3%-4%. Như vậy họ lời 3%. Nếu ngân hàng trả nợ cho chính phủ mỗi tháng 1.000 Mỹ-kim cũng bằng số tiền người mua nhà trả cho ngân hàng, thì sau một năm, ngân hàng phải trả cho chính phủ 1.000.000 – 12.000 x 2:100 = 1.019.760 Mỹ-kim. Trong khi đó, cùng số tiền vay và tiền trả theo định kỳ hàng tháng, chủ nhà phải trả cho ngân hàng: 1.000.000 – 12.000 x 5:100 = 1.049.900 Mỹ-kim. Ngân hàng lời 30.140 Mỹ-kim.
Giả sử sau một năm, chủ nhà thất nghiệp, không trả nợ được, nhà bị tịch thu, thì ngân hàng sẽ rơi vào hai trường hợp:
-Nếu giá thị trường nhà cửa đang lên cao thì ngân hàng đã lời 30.140 Mỹ-kim rồi, vẫn còn lời thêm nữa tuỳ theo giá nhà tăng nhiều hay ít..
-Nếu thị trường nhà cửa bị khủng hoảng thì ngân hàng bị lỗ vốn nhiều hay ít tuỳ theo giá thị trường.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay, người ta nghi ngờ có thể do bàn tay của tài phiệt khuynh đảo.
Tài liệu cho thấy có khi ngân hàng cho vay trên 150% so với giá trị của cái nhà. Khi ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng, vì các chủ nhà không có tiền trả, thì trên nguyên tắc họ không mất đồng nào. Tiền họ mượn là tiền của chính phủ. Chính phủ sợ mất tiền lại phải bỏ ra một số tiền để cứu uy tín và không để ngân hàng bị phá sản, như trường hợp hiện nay tại Hoa Kỳ và các quốc gia đang bị khủng hoảng dây chuyền. Chính sách lấy tiền thuế của dân cứu các ngân hàng ``mượn đầu heo nấu cháo’’ bị các chuyên gia kinh tế phê bình. Nó như khuyến khích người ta dùng tiền dân để rồi phá sản mà chẳng mất mát gì.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay, người ta cũng nghi ngờ tài phiệt khuynh đảo để tạo nên khó khăn cho chính phủ Barack Obama kế tiếp trong việc giải quyết sự suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính. Hàng loạt các ngân hàng mà tạo nên khủng hoảng thì chính phủ không dễ gì đối phó.
Họ làm như vậy để làm gì?
Xin thưa:
-để tạo áp lực và đòi yêu sách với tân chính phủ;
-để phá giá đồng bạc, làm giảm giá trị trữ lượng ngoại tệ Đô-la Mỹ quá lớn của một số quốc gia theo thứ tự: Trung quốc: 1.905 tỷ USD, Nhật Bản: 997 tỷ, Nga Sô: 484,7 tỷ, Liên Hiệp Âu Châu: 430 tỷ, Đài Loan: 282 tỷ, Ấn Độ: 247 tỷ, Ba Tây: 208 tỷ, Nam Hàn: 201 tỷ, Tân Gia Ba: 105 tỷ, Hương Cảng: 158 tỷ, Đức quốc: 137 tỷ, và còn nhiều quốc gia khác với trữ lượng Đô-la ít hơn, Việt Nam chẳng hạn.
-để giảm giá dầu. Hiện giá dầu xuống còn khoảng 50 USD.
Nếu trữ lượng ngoại tệ là đồng Đô-la Mỹ nằm trong kho bạc của ngoại quốc quá nhiều, trong khi nền ngoại thương của Hoa Kỳ thâm thủng, thì lấy tiền đâu để sử dụng trên thị trường nội địa.
In thêm bạc giấy, nguyên nhân của lạm phát và làm giảm giá đồng Đô-la không phải không có chủ đích.
Kết luận
Phía sau bức màn đen, ai hiểu được quyền lực của đồng tiền và sự liên hệ giữa chính quyền với tài phiệt?
- Tân Tổng Thống Barack Obama đã viết lên trang sử mới
- John McCain, một anh hùng trong chiến tranh Việt Nam, có đánh bại được Barack Obama trong cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2008 không?
- Barack Obama, Người Mỹ Da Đen Đầu Tiên Trong Lịch Sử Hoa Kỳ
- Cuộc chiến tại Georgia có nguy cơ làm sống lại chiến tranh giữa Nga Sô và Hoa Kỳ
- Tại Sao Quân Phiệt Miến Điện Không Cho Các Tổ Chức Nhân Đạo Thế Giới Đến Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt?
- Máu Tăng Ni và Phật Tử đã đổ vì Đấu Tranh cho Độc Lập Tự Do
- Nhân Quổc Hận 30.4.1975 – 30.4.2008 Xin Đừng Quên Cầu Nguyện Cho Hơn 5 Ngàn Nạn Nhân Bị Việt Cộng Tàn Sát Ở Huế Tết Mậu Thân năm 1968
- Vinh Danh Dân, Quân, Cán Chính đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia
- Đan Mạch tuy nhỏ nhưng chịu chơi
- Benazir Bhutto, cựu Thủ Tướng Pakistan, người phụ nữ nổi danh nhất trong thế giớiIslam đã bị ám sát