Suy Niệm Lời Chúa
- Chi tiết
- Viết bởi Mt 1, 16. 18-21. 24a
- Lượt xem: 0
Người Công Chính.
Thứ Ba tuần 5 Mùa Chay. – THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA.
Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
* Thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria, có sứ mạng “chăm sóc Đức Giêsu như một người cha”. Nhưng Chúa đã muốn người chủ Thánh Gia ở Nagiarét tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh, thân thể của Chúa Kitô.
Đức Maria là Mẹ của Hội Thánh thì thánh Giuse là Đấng che chở Hội Thánh.
Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA
Lời Chúa: 2Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16; Rm 4, 13. 16-18. 22; Mt 1, 16. 18-21. 24a
Contents
1. Đặt tên cho con trẻ--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
2. Bài suy niệm trong tháng thánh Giuse-- Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
3. Thánh Gioan Phaolô II Nói Về Gương Thánh Giuse
4. Noi gương thánh Giuse sống cuộc đời công chính --TGM Giuse Nguyễn Năng
5. Thánh Giuse thinh lặng--GM G.B Bùi Tuần
6. Sự thinh lặng nơi thánh Giuse--GM GB Bùi Tuần
7. Thánh Giuse, Đấng bảo vệ Hội Thánh--GM GB Bùi Tuần
8. Thánh Giuse, người đi trong đêm tối--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
9. Thánh Giuse, người công chính--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Thánh Giuse, gương mẫu thời đại--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
11. Uy quyền và thương xót--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
12. Người công chính sống bởi đức tin--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
13. Sống Đức Tin Theo Gương Thánh Giuse--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
14. Lễ thánh Giuse--GM. Giuse Đỗ Mạnh Hùng
15. Thánh Giuse--TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
16. Thánh Lễ kính Thánh Giuse--GM. Giuse Võ Đức Minh
17. Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ các người cha--Giáo Phận Bắc Ninh
18. Làm theo ý Chúa và chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
19. Lễ thánh Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
20. Người tầm thường, đầy tin và mến--Lm Giuse Đinh Tất Quý
21. Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
22. Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
23. Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Maria--tgpsaigon.net
24. Thánh Giuse, người thinh lặng và hành động-- Lm. Giuse Nguyễn văn Thú
25. Người thợ vô danh--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
26. Thánh Giuse là mẫu gương chu toàn thánh ý Chúa--Lm. G. Võ Tá Hoàng
27. Thánh Giuse, Nhạy Bén Và Kiên Quyết--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
28. Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
29. Chiêm ngắm Thánh Giuse--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
30. Thánh Giuse, đường nên thánh--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
31. Thánh Giuse, mẫu gương cho gia trưởng--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
32. Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Maria--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
33. Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
34. Thánh Giuse, vị thánh tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
35. Thánh Giuse từng có ý định bỏ Đức Mẹ, tại sao?--Lm Nguyễn Thể Hiện
36. Thánh Giuse, người không thích “nổ”--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu
37. Sự công chính của Thánh Giuse--Lm Giuse Nguyễn An Khang
38. Thánh Giuse Bạn Hiền Trinh Nữ, Cha Nuôi Hài Đồng Giêsu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
39. Thánh Giuse là người chồng, người cha mẫu mực-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
40. Noi Gương Thánh Giuse Sống Lòng Thương Xót--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
41. Thánh Giuse, Mẫu Gương Cho Các Người Cha-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
42. Thánh Giuse, người Cha tuyệt vời- Logos năm C
43. Thánh Giuse Lao Động, Người Cha tuyệt hảo--WHĐ
44. Thánh Giuse, người chồng tốt, người cha hiền--Logos năm B
45. Thánh Giuse, người Cha tuyệt vời--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
46. Trở nên công chính nhờ biết thực thi Ý Chúa--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.
47. Âm thầm nhưng ngời sáng-- Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.
48. Thánh Giuse, con người mạnh mẽ với trái tim yêu nồng nàn-- Lm. Giuse Lê Danh Tường
49. Thánh Giuse 19-3—Lm. Phêrô Mai Quốc Anh sss. 71
50. Thánh Giuse, người công chính sống bởi đức tin--Lm Giuse Đinh Quang Thịnh
51. Tín thác, cậy trông, yêu mến như thánh Giuse--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Đại, SVD
52. Thánh Giuse: tận tâm với Chúa và là người Cha tận tụy với gia đình--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
53. Người Công Chính--‘Lẽ Sống’ – R. Veritas
54. Trung Thành Với Thánh Ý Thiên Chúa
55. Khủng hoảng gia đình
56. Suy Niệm về Thánh Giuse—PM Cao Huy Hoàng
57. Yên lặng, làm việc và vâng phục
58. Người gia trưởng gương mẫu
59. Thánh Giuse, người sống theo lời Chúa
60. Tìm hiểu về lễ Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria”-- Lm. Phan Tấn Thành, O.P
61. Ngày 19 Tháng 3: Thánh Giuse-- NguoiTinHuu.com
62. Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Maria
63. Thánh Giuse 19-3--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết
64. Thánh Giuse đón nhận mầu nhiệm--Minh An
1.Đặt tên cho con trẻ--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Cô Maria đã đính hôn với ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ.
Phải đợi một năm sau cô mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không nghĩ thế.
Ý định của Ngài được báo với Giuse trong giấc mộng.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông về,
vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần” (c. 20).
Giuse hay bị đánh thức vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
Điều khiến cho Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ
đó là việc ông đón Maria đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
Thánh Giuse đã lập gia đình, đã có một mái ấm với người mình yêu.
Ngài sống như một người chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
2.Bài suy niệm trong tháng thánh Giuse-- Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Ơn xin: xin cho tôi biết để cho Chúa sử dụng đời mình
hầu phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
1. Thánh Giuse là người có đức tin lớn lao
Ngài đã đón nhận những biến cố độc nhất vô nhị do Thiên Chúa gửi đến cho đời mình. Ngài đã uốn đời mình theo ý Chúa: ngài chấp nhận chung sống như một người bạn bên cạnh người mà ngài yêu mến và muốn lấy làm vợ là Đức Maria. Đúng là ngài đã chấp nhận đổi tình cầm sắt hóa ra cầm kỳ. Ngài đã chấp nhận thai nhi mà ngài không phải là cha, vì tin vào quyền năng của Thần Khí đang tác động.
Thánh Giuse không xa lạ với cái bất ngờ của đường lối Chúa, cái bất ngờ hẳn đã làm ngài khắc khoải, chới với đến nỗi định âm thầm ly dị Maria (Mt 1,19). Rồi từ đó ngài đạt được bình an trong đức tin. Tuy nhiên, đức tin của thánh Giuse – cũng như của chúng ta – tuy lớn lao nhưng vẫn là một đức tin không ngừng lớn lên và là một đức tin liên tục kéo dài. Thánh Giuse bị vây bọc bởi mầu nhiệm: mầu nhiệm về Đức Maria mang thai bởi Thánh Thần và mầu nhiệm về thai nhi Giêsu. Bề ngoài, dưới mắt người đời, thì Thánh Gia là một gia đình bình thường như mọi gia đình khác. Nhưng bên trong Giuse thấy mình sống trong một thế giới thần linh, liên tục đằm mình trong thế giới đó và vẫn không sao hiểu hết được (Lc 2, 33; 2, 48.50). Mầu nhiệm luôn vẫy gọi Giuse bước sâu thêm. Cùng với nghề thợ mộc vất vả, thánh Giuse hẳn đã sống đời chiêm niệm thâm trầm. Đức Giêsu vẫn lớn lên trước mắt Giuse, lớn lên một cách bình thường. Maria vẫn là người được Giuse yêu mến kính trọng. Bà vẫn chu toàn bổn phận làm mẹ một cách bình thường. Nhưng Giuse vẫn khám phá thấy trong cái bình thường đó một mầu nhiệm đang hé lộ. Tin là một hành trình tìm kiếm mãi.
Thánh Giuse chấp nhận cái nghịch thường của ý định Thiên Chúa. Giuse muốn lập gia đình với Cô Maria, người ông đã đính hôn nhưng chưa về chung sống như vợ chồng (Mt 1, 18). Giuse chỉ mong làm một người chồng, một người cha bình thường, nhưng Thiên Chúa lại không muốn ngài là chồng, là cha bình thường như những người khác. Ngài không phải là cha đẻ của Đức Giêsu. Matthêu đã không viết là “ông Giuse sinh Giêsu” ở Mt 1,16, nhưng đã viết: “Ông Giacóp sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, Đấng được gọi là Kitô”. Giuse đã sống như một người bạn, người trợ giúp bên cạnh Đức Mẹ. Đức Maria vẫn là người mà thánh Giuse chỉ “biết” trong đức tin. Thế nhưng cái nghịch thường mà thánh nhân phải đảm nhận đó là: bề ngoài ngài vẫn được mọi người coi như chồng của Maria, như cha của Giêsu, và ngài phải gánh mọi trách nhiệm trong tư cách đó. Nhưng thực tế thì lại khác. Thánh Giuse đã chấp nhận điều đó trong âm thầm suốt đời. Đúng là ngài phải trở thành nhà chiêm niệm. Chính đời ngài cũng là một mầu nhiệm mà người ngoài không biết rõ được. Người ta chỉ coi ông Giêsu là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria thôi. Người ngoài không biết rõ căn tính của tôi được, và tôi cũng không được nói với ai.
Giuse sống mầu nhiệm đời mình trước mặt Thiên Chúa. Chính cái âm thầm làm nên mầu nhiệm. Chúng ta không thích âm thầm và ẩn danh. Chúng ta thích quyền lợi và nghĩa vụ phải tương xứng. Nhưng khi phá vỡ cái âm thầm riêng tư, chúng ta cũng có nguy cơ phá vỡ cả mầu nhiệm và đời sống chúng ta sẽ mất đi một điều rất quý, điều mà chỉ riêng Thiên Chúa và ta mới hiểu được, cái thế giới thần linh riêng tư giữa Thiên Chúa và ta mà người khác chỉ đứng ngoài. Không cần thiết người ngoài phải biết hết, phải hiểu được hết mọi sự trong đời ta. Ta cũng không cần chia sẻ mọi sự mình có, để mãn nguyện vì được thông cảm, được biện minh. Phải duy trì khoảng cách với thụ tạo (đó là từ bỏ) để có thể nói được rằng Thiên Chúa là Đấng duy nhất hiểu mình thật là gì. Chúng ta thường cảm thấy mình là điều người khác nghĩ (thậm chí sống theo điều người khác nghĩ về mình). Chúng ta dễ quên rằng “Thiên Chúa nghĩ về ta như thế nào thì ta là thế ấy” (thánh Têrêsa Nhỏ).
2. Thánh Giuse là một người đã thánh hiến đời mình cho sứ mạng của Thiên Chúa
Giuse phải sống đức khiết tịnh trong một tình cảnh đặc biệt. Đúng là ngài đã chọn sống như thế, tuy ngài có quyền sống như người chồng thật của Đức Maria. Đức khiết tịnh nào cũng là một lựa chọn, một từ khước cái quyền tự nhiên mình có thể có. Không cần thiết thánh Giuse phải là một cụ già để bảo đảm điều đó. Nếu ngài là một thanh niên, chúng ta mới hiểu được rằng với ơn Chúa, người ta làm được cả những điều vượt quá sức con người. Chắc chắn thánh Giuse đã giữ được khiết tịnh suốt đời nhờ có cảm nghiệm sâu xa về việc mình đang tiếp cận với một mầu nhiệm linh thánh. Maria bây giờ không còn là một đối tượng để mê đắm và chiếm hữu. Cô là hiện thân của một mầu nhiệm khôn dò, mầu nhiệm khiến Giuse phải kính ngưỡng. Giữ khiết tịnh chính là nhìn nhận Maria là người của Thiên Chúa, được Ngài tuyển chọn cách riêng. Người thiếu nữ mà tôi vốn yêu quý ấy nay đã là đối tượng cho tình thương đặc biệt của Thiên Chúa và là nơi diễn ra mầu nhiệm cứu độ. Giữ khiết tịnh chính là nhìn nhận trong đức tin rằng mình không còn quyền làm chủ trên đời Maria nữa, vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn. Sống khiết tịnh là sống trong một mầu nhiệm. Trước một mầu nhiệm ta chỉ có thể đáp lại bằng cách sống một mầu nhiệm khác. Chẳng mấy chốc Giuse cũng thấy đời mình là một mầu nhiệm, với những điều chỉ có thể hiểu được nhờ đức tin. Cuối cùng Giuse thấy mình được kêu gọi để thuộc trọn về Thiên Chúa như Maria, để cùng nhau cộng tác cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Giuse sống đức khó nghèo qua lao động chân tay. “Ông ấy không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13, 55), người làng Nadarét đã nói với nhau như thế về Đức Giêsu. Chính Ngài đã theo nghề của Giuse theo kiểu cha truyền con nối (Mc 6, 3). Nghề thợ mộc không phải là một nghề được trọng vọng vào thời đó. Lao động để nuôi gia đình và giúp cậu Giêsu đi vào lao động. Lao động trở thành một thời gian kết hiệp với Thiên Chúa trong âm thầm. Trong các Phúc âm, ta không thấy thánh Giuse nói một lời nào. Ngài là con người hành động. Chúng ta không nên quên những cuộc hành trình vất vả của ngài. Ngài không đi một mình. Ngài luôn đi với Maria và Giêsu. Đi từ Nadarét lên Bêlem và lúng túng trước cảnh Maria sinh con đầu lòng trong thiếu thốn, sợ hãi đem Con đi trốn qua Ai Cập rồi lại đưa về, đem Con tiến dâng cho Thiên Chúa tại Đền Thờ để nghe lời tiên tri không vui của cụ Simêon, và bồn chồn lo âu ba ngày đi tìm con bị lạc. Việc lao động chính của Giuse không phải chỉ là lao động chân tay, nhưng còn là đứng mũi chịu sào để bảo vệ Đức Giêsu và Mẹ Ngài. Như những gia đình khác trên mặt đất, Thánh Gia cũng không được miễn trừ khỏi những sóng gió và lo âu.
Giuse sống triệt để sự vâng phục đối với ý định của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Matthêu, ý định này được chuyển đạt qua việc sứ thần Chúa nói trong mộng (Mt 1, 24; 2, 13.19.22). Giuse chấp nhận hình thức chuyển đạt này. Trong Tin Mừng Luca, sứ thần nói với Maria lúc thức, nên có cuộc đối thoại thực sự, và Maria đã nói tiếng Xin Vâng. Trong Tin Mừng Mátthêu, sứ thần đã nói với thánh Giuse lúc ngủ. Thánh nhân đã không nói tiếng Xin Vâng thành lời, nhưng ngài đã nói bằng hành động vâng phục khi tỉnh dậy. Chúng ta cũng phải chấp nhận những hình thức khác, những hình thức quen thuộc mà Chúa thường dùng với riêng từng người. Giuse luôn vâng phục mau mắn mọi lệnh truyền. Ông luôn bị đánh thức vào lúc đang an nghỉ. Thiên thần Chúa luôn bảo ông “trỗi dậy” để làm điều này điều khác cách khẩn trương. Và ông đã trỗi dậy ngay để thực hiện (Mt 2, 13-14; 2, 20-21). Bỏ dở giấc ngủ và lên đường giữa đêm khuya, Giuse lúc nào cũng thấy mình có trách nhiệm với những kho báu của Thiên Chúa, đó là gìn giữ Hài Nhi và Mẹ Ngài. Vâng phục mà không đặt vấn đề, đó là đức tính của Giuse.
3. Thánh Giuse là người chấp nhận đóng một vai trò khiêm tốn nhưng hết sức cần thiết trong chương trình cứu độ
Giuse là con vua Đavít (x. Mt 1, 20), và như thế khi được Giuse nhận là con mình về mặt pháp lý, Đức Giêsu cũng thuộc về dòng tộc vua Đavít. Lời hứa xưa của Thiên Chúa với Đavít qua miệng ngôn sứ Nathan đã được ứng nghiệm: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền… Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi.” (2Sm 7, 12-13). Đó cũng là lời của sứ thần Gabrien nói với Đức Maria về người Con mà Bà sắp cưu mang: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít… Người sẽ trị vì nhà Gia cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” (Lc 1, 32-33).
Hành động có tính quyết định và nền tảng là hành động nhận Maria đang mang thai về làm vợ chính thức. Chính hành động đó đủ để thánh Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ. Người ta không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu như Giuse cương quyết ly dị Đức Maria, hay lớn tiếng tố cáo vị hôn thê của mình. Theo sách Đệ Nhị Luật thì Bà có thể bị ném đá (Đnl 22, 23-27), và Con Thiên Chúa có thể chết trước khi chào đời. Ơn cứu độ sẽ bị đổ vỡ từ trong trứng nước. Hành vi đón nhận Maria về làm vợ cũng bao hàm việc đón nhận cả thai nhi mà ngài tin là do Thánh Thần. Như thế, Giuse đã là điểm tựa sống còn của ơn cứu độ, là chỗ nương thân nhờ cậy của Maria và Hài Nhi. Nhờ Giuse, Đức Maria không bị mang tiếng ngoại tình, và Đức Giêsu không phải là con hoang. Đức Giêsu có thể công nhiên và tự tin mà đến với Dân Ngài. Vai trò của Giuse thật hết sức quan trọng, nhưng cũng thật khiêm hạ. Chắc Giuse chẳng có gì để khoe về vị thế quan trọng của mình. Chúa mới là người điều động mọi chuyện. Giuse chỉ xin được là người giúp việc cho Thiên Chúa thôi.
Mừng lễ Thánh Giuse, chúng ta được mời gọi để đứng đúng chỗ Chúa chọn cho mình trong chương trình cứu độ nhân loại, và làm đúng việc Chúa trao phó một cách tận tụy hy sinh. Xin được có lòng tin khiêm hạ và đời sống nội tâm sâu xa của thánh nhân.
3.Thánh Gioan Phaolô II Nói Về Gương Thánh Giuse
Anh chị em rất thân mến,
Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.
Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên "Lời Ngài" đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.
Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện "tình cha thiêng liêng".
Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa. Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng. Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.
+ Gioan Phaolô II
(bản dịch của Nguyễn Việt Nam)
4.Noi gương thánh Giuse sống cuộc đời công chính --TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Thánh Giuse vâng lời sứ thần để nhận Chúa Giêsu là con của mình, nhờ thế Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi vua Đa-vít. Thánh Giuse là người công chính vì Ngài luôn tôn trọng Thánh Ý Thiên Chúa và tôn trọng Đức Mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì Cha đã chọn cho Chúa Giêsu một người cha nuôi thánh thiện là thánh Giuse. Ngài thánh thiện vì ngài là người công chính sống đúng thân phận và vai trò của mình. Đối với Cha, ngài đã luôn tôn trọng Thánh ý nhiệm mầu và kế hoạch cứu độ. Dù hiểu hay không hiểu, ngài vẫn luôn sẵn sàng chờ đợi để thực hiện điều Cha muốn nơi ngài. Đối với Chúa Giêsu, ngài luôn tôn trọng và chu toàn trách nhiệm của người cha nuôi. Đối với Đức Mẹ, dù ngài không hiểu rõ điều đã xảy đến cho Đức Mẹ, nhưng ngài vẫn hết lòng tôn trọng và không muốn tố giác Đức Mẹ.
Lạy Cha, xin Cha giúp con noi gương thánh Giuse để sống cuộc đời công chính. Xin Cha cho con biết tôn trọng Cha để con thờ Cha cho phải đạo. Xin cho con biết tôn trọng mầu nhiệm Thánh Ý Cha để con tuân giữ và vâng phục, dù trí khôn hèn mọn của con chẳng thể hiểu thấu. Xin giúp con tôn trọng người khác, vì mỗi người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Cha mới có quyền đi vào. Con cũng muốn tôn trọng cả thiên nhiên, vì Cha muốn con phải làm chủ vạn vật theo kế hoạch của Cha.
Trong đức tin, con nhận ra rằng cả một mầu nhiệm vĩ đại đang bao trùm cuộc sống con. Con chỉ biết chờ đợi Cha lên tiếng mời gọi và hướng dẫn, để con sống đúng thân phận và vai trò của con. Amen.
Ghi nhớ: ”Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền”.
5.Thánh Giuse thinh lặng--GM G.B Bùi Tuần
Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan.
Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng.
Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương. Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài.
Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh. Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv… Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực.
Trước hết sự thinh lặng của thánh Giuse tích cực ở chỗ Ngài luôn vâng phục đức tin.
Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Đức Maria, đúng thực là “Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần. Con trẻ đó chính là Đấng cứu thế.
Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt. Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài.
Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao. Sứ vụ đó là bảo vệ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn. Thực nhiệm mầu. Ngài chỉ biết tin. Ngài chưa hiểu hết. Nhưng không thắc mắc. Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục.
Bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng. Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng. Thinh lặng đó không phải vì sợ. Nhưng vì vâng phục đức tin.
Tin Mừng là một mầu nhiệm “vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16,25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí mà thôi. Chúa muốn như vậy (Rm 16,27).
Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã có đức tin như thế, và đã vâng phục đức tin đó. Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín.
Ngoài ra, sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực ở chỗ Ngài được âm thầm đào tạo để có một sự tự do mới.
Đọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài. Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc. Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng. Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng.
– Ông Môisen vào sa mạc Madian.
– Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê.
– Thánh Phaolô vào sa mạc Syria.
– Thánh Benedictô lên núi Subiacô.
– Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi.
– Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày.
Đối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài. Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới. Đó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết. Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa. Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ. Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1,24). Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,14). Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2,21). Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do. Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn.
Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa. Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ. Không có những trang trọng vật chất. Không có cả những nhân đức cần có. Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót. Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi. Thiếu tất cả, nhưng được tất cả. Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng. Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng. Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ.
Sau cùng, tôi thấy thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực trong sự hiện diện phong phú của Ngài giữa đời.
Kinh nghiệm cho thấy: Nhiều khi sự hiện diện thinh lặng vẫn có sức gây được cảm tưởng tốt về Tin Mừng, hơn một sự hiện diện nhiều lời. Nhất là khi sự hiện diện đó có Chúa ở cùng. Tôi có cảm tưởng là thời nay tại Việt Nam này, dân chúng vẫn trân trọng và khát khao những người, tuy không nói, nhưng toả ra được ánh sáng tâm linh, lửa thiêng tâm hồn, hương thơm từ những giá trị nội tâm. Họ thinh lặng nhưng có chiều sâu tâm hồn, biết phân định, biết phấn đấu, biết sắp xếp, biết thanh luyện, biết ý tứ, biết tế nhị.
Điều đó không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói. Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tuỳ ơn gọi. Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau. Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà hoàn cảnh chỉ cho ta, con đường mà ta thấy thích hợp cho tính tình và khả năng của ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt hơn việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm.
Riêng tôi, trong năm Mân Côi này, tôi xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta
– biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa,
– biết thinh lặng hơn để suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi,
– biết thinh lặng hơn để đón nhận ơn cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để cộng tác vào chương trình cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn,
– biết thinh lặng hơn, để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt.
Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy. Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse. Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.
6.Sự thinh lặng nơi thánh Giuse--GM GB Bùi Tuần
Thánh Giuse là người thinh lặng.
Tôi nghĩ là ngài cũng đã nói năng như mọi người bình thường. Nhưng, khi soi dẫn các thánh sử viết Phúc âm, Chúa Thánh Thần đã chủ ý không muốn ai ghi lại lời nói nào của thánh Giuse.
Sự kiện đó phải được coi là một lựa chọn tốt, đề cao sự thinh lặng của thánh Giuse như một vẻ đẹp. Hơn nữa đó cũng là một bài học đạo đức cho các thế hệ mai sau.
Như vậy, thánh Giuse là một trường học dạy thinh lặng. Noí đứng ra thầy dậy ở trường này là Chúa thánh Linh. Vì thế mọi tài liệu bàn về sự thinh lặng của thánh Giuse, nhất là bài này, chỉ nên được coi là những gợi ý yếu ớt Đọc thì cứ đọc, nhưng việc quan trọng cần làm để hiểu và để học, chính là cầu nguyện với Chúa Thánh Linh.
Riêng trong bài này, xin chia sẻ vài suy nghĩ riêng tư. Có nghĩa là những suy nghĩ này đã ảnh hưởng đến đời tôi, từ đó tôi có phần nào kinh nghiệm.
Điểm phát xuất những suy nghĩ sau đây của tôi là hình ảnh con trẻ Giêsu tại Nagiarét sống bên Đức Mẹ và thánh Giuse thinh lặng . "Con trẻ dần dần đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta thương mến" (Lc 2,52). Theo cái nhìn đó, thánh gia là một cộng đoàn Hội Thánh cực nhỏ. Chúa Giêsu, tuy là con, nhưng là vai chính trong kế hoạch cứu độ, đổi mới con người. Đức Mẹ và thánh Giuse là những người cộng tác gần gũi nhất. Đây là những cộng tác viên đắc lực đưa lại kết quả cao. Bởi vì đã góp phần làm cho trẻ Giêsu được nổi tiếng là phát triển về khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta mến thương.
Vậy, cộng tác đắc lực của thánh Giuse là gì ? Thưa chính là sự cộng tác thinh lặng. Tất nhiên đây là sự thinh lặng tích cực. Thinh lặng tích cực đó được thể hiện như thế nào ? Trước hết tôi nghĩ ngay tới sự thinh lặng tu thân.
Thinh lặng tu thân
Phong tục A châu rất coi trọng việc tu thân. Những người muốn cải cách tôn giáo, chủ trương cứu độ, đổi mới con người và xã hội, thường phải xây dựng uy tín cho mình trước hết bằng việc tu thân. Thời này vẫn là thế. Thời xưa còn hơn bây giờ.
Thánh gia là một cộng đoàn đề cao tu thân. Một cách tu thân bình dân, phổ thông nhưng chất lượng cao. Trong cái ấy, thánh Giuse là một người tu tại gia. Nội dung tu thân của thánh gia nói chung và của thánh Giuse nói riêng là thực hiện trước những gì mà chúa Giêsu sẽ rao giảng sau này. Có thể tóm gọn lại là tu thân nhắm mục đích trở nên một tao vật mới, dần dần nên giống Chúa là tình yêu và kết hợp với Ngài là Tình yêu. Muốn được thế phải thực thi thánh ý Chúa, hết tình yêu mến Ngài và chân thành yêu thương moị người.
Như vậy, tu thân là hằng ngày vun tưới chăm sóc những hạt giống tình yêu Chúa đã gieo sẵn trong lòng mình. Tu thân là hằng ngày học hành tập luyện, để biết tự do chọn điều lành và tự do bỏ điều xấu. Lựa chọn tốt nhất và quan trọng nhất là chu toàn bổn phận phục vụ của mình.
Phục vụ tốt là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, với đúng cách, vào đúng lúc. Tất cả trong tình mến Chúa và yêu người với mức cao nhất.
Nhìn thoáng qua tu thân là như thế, chúng ta có thể tưởng tu thân là việc đơn sơ. Đúng là đơn sơ, nhưng chính là một cuộc phấn đấu thinh lặng cam go và thường xuyên với chính mình. Bởi vì có một vấn đề gai góc đứng đàng sau việc tu thân đó là một sự thực phũ phàng mà thánh Phao lô đã thực thà thú nhật: "Vẫn biết rằng Lề luật là Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thực vậy tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì diều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm... Tôi biết là sự thiện không có ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi... Theo con người nội tâm, tôi vui thích luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác. Luật này chiến dấu chống lại luật của lý trí và giam tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi" (Rm 7,14-23).
Như thế, tu thân đòi phải học hành, tập luyện để biết phân định điều lành điều dữ. Biết rõ rồi, lại phải biết can đảm chọn lựa điều lành một cách tự do. Chọn rồi, lại phải kiên cường thực hành điều mình đã tự do chọn lựa. Để được thế phải phấn đấu nhiều lắm, phải từ bỏ mình nhiều lắm, phải cầu nguyện nhiều lắm.
Tôi dám chắc là thánh gia nói chung và thánh Giuse nói riêng đã thực hiện việc tu thân một cách trọn vẹn từng ngày, từng tháng, từng năm. Suốt 30 năm tu thân trong thinh lặng, đúng là một hành trình phát triển ơn khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta thương mến.
Suy nghĩ trên đây co phép tôi rút ra một kinh nghiệm về mục vụ và truyền giáo. Đó là người có chức vụ cộng tác với Chúa vào kế hoạch cứu độ, đổi mới con người và xã hội, sẽ phải quan tâm rất nhiều đến việc tu thân nơi chính mình. Tu thân một cách thinh lặng là một yếu tố quan trọng có sức cứu độ. Rất mong kinh nghiệm này của thánh Giuse được sống lại mạnh mẽ nơi mỗi người tín hữu, nhất là nơi các tông đồ ngày nay, bất kỳ là giáo sĩ, tu sĩn hay giáo dân.
Thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện
Kinh nghiệm cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa được ban đồi dào cho những người thực sự tu thân. Và kinh nghiệm còn cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa còn được trao ban rất dồi dào cho những người gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện.
Một nơi thuận lợi để Chúa gặp gỡ con người, chính là nơi thinh lặng: "Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc và sẽ nói với lòng nó" (Ose 2,14). Sa mạc là biểu tương nơi yên tĩnh. Nơi yên tĩnh là không gian thinh lặng, và nhất là tâm hồn thinh lặng.
Ai cầu nguyện suy gẫm và chiêm niệm trong thinh lặng sẽ dễ gặp được Chúa. Và khi Chúa đã đến với lòng họ, Chúa lại làm cho lòng họ càng thinh lặng hơn. Để rồi lúc đó sự thinh lặng trở nên đầy sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong gặp gỡ thinh lặng này, con người không còn tìm hiểu Chúa nữa, mà là có chính Chúa. Họ cảm nghiệm được Chúa là tình yêu, là hạnh phúc của mình. Lúc đó con người sẽ thấy mọi sự đều rất đơn giản. Bất cứ việc gì tốt mình làm mặc dù bề ngoài coi là rất bé nhỏ, rất âm thầm, nhưng nếu làm với một tình mến lớn lao, chỉ vì Chúa, thì sẽ là việc rất giá trị có sức cứu độ, đổi mới bản thân, đổi mới con người và xã hội.
Trong cuộc gặp gỡ ấy, con người cũng sẽ thây rõ mình hơn. Mình chẳng là gì, chẳng thể làm gì có sức cứu độ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Do đó mà phải chết đi cho chính mình để quyền năng Chúa ngự trị hoàn toàn trong con người của mình, từ lớp ý thức đến lớp tiềm thức và vô thức sâu thẳm, từ trí khôn cho đến ý chí và tình cảm, ký ức, trí vẽ và mọi tiềm nang sáng tạo.
Người học hành cần thinh lặng. Người nghiêm cứu suy nghĩ cần thinh lặng. Người sáng tạo cần thinh lặng. Người tìm minh triết cần thinh lặng. Người hồi tâm cần thinh lặng. Phương chi người muốn gặp gỡ, lắng nghe Chúa càng cần phải thinh lặng. Bởi vì Chúa muốn được thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý, chứ không hài lòng với những hình thức ồn ào. Và bởi vì Chúa chỉ nói nhỏ nhẹ với những tâm hồn thinh lặng. Và bởi vì ơn đổi mới con người cũng chỉ được thực hiện nơi những con người khiêm tốn, thinh lặng.
Thánh Giuse, cần cù, nhiệt thành, tâm hồn khát khao tuân phục thánh ý Chúa, không bị ràng buộc bởi bất cứ kiêu căng ích kỷ nào. Đóa là một thinh lặng thuận lợi co việc cầu nguyện sống thân mật với Chúa, lắng nghe được ý Chúa.
Thời gian thinh lặng cầu nguyện nơi thánh Giuse là suốt đời mình. Dài mấy chục năm. Đó là một cộng tác qúi báu vào công trình cứu độ của Chúa. Đây là một gương sáng rất quan trọng ma mọi người đang cộng tác với Chúa tại Việt Nam hôm nay cần suy nghĩ và bắt chước.
Bởi vì tôi thấy hiện nay sự thinh lặng cầu nguyện đang có chiều hướng giảm dần, nhường chỗ cho những hình thức thờ phượng và hoạt động tôn giáo nhiều khi quá ồn ào, trình diễn, chiếu lệ, phô trương, cạnh tranh, lố lăng. Thinh lặng cảm thương thân phận con người đau khổ
Bất cứ ở đâu và ở thời điểm nào, lịch sử những người làm cách mạng chân chính đều làm chứng họ là những trái tim rực cháy lửa cảm thương số phận dân mình. Họ sống không những vì dân, cho dân, nhưng nhất là gân dân, giữa dân và như dân. Dân nói đây là lớp dân khổ đau. Họ đồng cảm nỗi lo nỗi khổ của lớp người đau khổ lo âu. Họ cùng trải quạ những hoàn cảnh khó khăn bế tắc như lớp người nghèo khổ nhất.
Trong ba năm đi rao giảng, Chúa Giêsu tỏ ra Ngài đã có những thương cảm đặc biệt sâu sắc đối với mọi thứ người đau khổ. Riêng đôi với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã không ngại yêu thượng gần gũi, tìm đến, với tất cả tấm lòng cảm thương lạ lùng chưa từng thấy "Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Lc 5,32).
Tôi nghĩ là trước đó thánh Giuse cũng đã âm thầm cộng tác với Chúa Giêsu trong lãnh vực cảm thương. Suốt mấy chục năm tại Nagiareth, thánh gai nói chung và thánh Giuse nói riêng đã được dân nghèo coi như những người thân thương của họ. Và nhất là những người tội lỗi đã coi các Ngài như những người hiểu họ, thương họ, cảm hóa được họ và lôi kéo họ về đàng lành.
Những cảm thương của thánh Giuse dành cho những người tội lỗi là rất sâu sắc. Bởi vì ngài được Đấng cứu độ chia sẻ cho sự thực về những nỗi kinh hoàng mà những kẻ tội lỗi sẽ phải gánh chịu. Nói cho đúng ra, thì không phải Chúa sẽ phạt họ, nhưng chính những việc xấu của họ sẽ kết án họ. An rất nặng nề, rất đáng sợ.
Vì cảm thương số phận người tội lỗi, thánh Giuse coi việc cứu con người khỏi xiềng xích tội lỗi là ưu tiên, hàng đầu. Xiềng xích do tính xấu xác thịt, xiềng xích do thói xấu thế gian, xiềng xích do ác quỉ Sa tan, tất cả làm nên một hệ thống mãnh lực ghê gớm nô lệ hóa con người tội lôi.
Giải cứu họ là cả một thách đố lớn. Khuyên bảo dạy đỗ chỉ là một phương cách thô sơ nhất. Trừng trị, đe dọa cũng vẫn chỉ là một cach may ra sinh kết quả tạm thời. Sau cùng Chúa Giêsu đã hết sức cầu nguyện và tự hiến mình chịu chết để đền tội thay cho tội nhân.
Những tội nhân sẽ chỉ được cứu, nếu họ biết đón nhận ơn tha thứ và cộng tác vào việccứu độ của họ. Thực tế cho thấy rất nhiều người đã không biết dón nhận ơn cứu dộ, đã không cộng tác vào ơn cứu độ. Đây là một thảm họa kinh hoàng, mà thánh Giuse đã thinh lặng cảm nhận. Do đó ngài đã âm thầm hiến dâng đời mình để cam lòng chịu mọi hy sinh cùng với Chúa Giêsu dấn thân vào con đường cứu độ. Giai đoạn sau cùng của Chúa Giêsu là sự thinh lặng chịu chết trân cây thánh giá. Thánh giá là khí cụ cứu độ. Tôi nghĩ là thánh Giuse cũng đã phần nào chia sẻ tất cả những chặng đường cứu độ của Chúa Giêsu. Chia sẻ một cách thinh lặng nhưng đã gây được kết quả tốt cho nhân loại. Sám hời, sửa mình, đổi mới cách sống, trở về đàng lành, đó là những việc rất cần có ơn thánh giá mới thực hiện được
Thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
Đe cứu độ nhân loại, Thiên Chúa có kế hoạch riêng của Ngài. Trong kế hoạch đó, Thiên Chúa chọn một số người. Mỗi người được trao nhiệm vụ nhất định, để thi hành tại những nơi nhất định và trong thời điểm nhất định. Thánh Giuse được trao trách nhiệm bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Chắc là ngài cũng biết nhiều chuyện về Chúa Giêsu và Đức mẹ Nhưng ngài thinh lặng. Ngài là người bảo mật tối đa. Ngài là người thận trọng tuyệt đối với trật tự mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã phần nào soi sáng cho ngài. Đó là phải tuân phục thánh ý Cha trên trời, như con trẻ Giêsu đã mạc khải: "Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha của con sao (Lc 2,49).
Với sự thinh lặng và thận trọng đó, thánh Giuse lùi vào bóng tối. Chính nhờ vậy mà tất cả Tin Mừng đều tập trung vào Chúa Giêsu. Tập trung vào Chúa Giêsu, đó là điểm căn bản của kế hoạch cứu độ. Điểm căn bản này đã được thánh Giuse thực hiện một cách triệt để, khi ngài khiêm tốn ẩn mình vào thinh lặng hoàn toàn.
Phải chăng đây cũng là gương để chúng ta chỉnh đốn lại cách sống đạo. Khi mà nhiều nơi mục vụ xem ra càng ngày càng bớt tập trung vào Đức Kitô để đến nỗi trên thực tế, nơi nhiều người và nhiều cộng đoàn, Chúa Giêsu thực sự trở nên mờ nhạt, cô đơn, giữa những sùng kính phụ thuộc càng ngày càng đua nhau phát triển tưng bừng.
Thiết tưởng một sự kiện như thế giữa một tình hình Hội Thánh đang có nhiều vấn đề phúc tạp không là dấu chỉ của một lòng đạo phát triển khôn ngoan và ân sủng.
Khi tĩnh tâm tại các tu viện chiêm niệm, tôi cảm thấy thấm thía một nhu cầu khẩn cấp hiện nay của tu đức, mục vụ và truyền giáo. Nhu càu khẩn thiết đó là sự thinh lặng mà tích cực tôi vừa trình bày ở trên. Thinh lặng tu thân, thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, thinh lặng cảm thương số phận những người khổ đaư tội lỗi, thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Chúa. Những đấng hiện nay đang gây được ảnh hưởng rộng lớn trong việc đổi mới con người, xã hội và Hội Thánh như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, Mẹ Têrêsa Calcutta, Anh Charles de Foucauld, đều là những người đã thinh lặng nhưng tích cực trong bốn lãnh vực nói trên. Thiết tưởng các vị đó đã đi con đường thinh lặng của thánh Giuse. Thời nay, nhất là tại Việt Nam này, người ta quá nhàm chán với những thứ người ồn ào la lối về cái rác nơi mắt người khác, còn cái xà nơi mắt mình thì lại không thấy (Lc 6,41-42).
Con đường thinh lặng mà tích cực đang mở rộng. Chúa tha thiết mời gọi chúng ta đi vào. Nguyện xin thánh Giuse giúp đỡ chúng ta biết mộ mến con đường đó. Hy vọng bằng con đường đó, chúng ta chứng minh được chúng ta là những người thực sự có sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, đẹp lòng Chúa và đáng được người ta mến thương, tin cậy.
7.Thánh Giuse, Đấng bảo vệ Hội Thánh--GM GB Bùi Tuần
Thánh Giuse là một Đấng thánh thinh lặng. Ngài không nói gì trong Phúc Âm. Nhưng Phúc Âm giới thiệu Ngài là con người làm việc, con người hoạt động, con người phục vụ.
Ngài được coi như điểm tựa của Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu trong một quãng lịch sử đầy khó khăn.
Ngài được rất nhiều nơi, nhiều người mộ mến. Riêng trong giáo phận Long Xuyên này, tất cả 156 nhà thờ lớn nhỏ đều có ảnh tượng Ngài. Trong tổng số 205 linh mục của giáo phận, thì đã có 63 vị nhận thánh Giuse làm quan thầy. Rêng Đức Giám Mục giáo phận Trần Xuân Tiếu vẫn được gọi bằng một danh gọi thân thương: Đức Cha Giuse. Bởi vì thánh Giuse là Bổn mạng Ngài.
Mỗi người chúng ta có thể nhìn thánh Giuse bằng tâm tư riêng của mình, dựa theo Kinh Thánh và cảm nghiệm tư riêng.
Riêng tôi, tôi vẫn quen nhìn thánh Giuse là Đấng bảo vệ Hội Thánh. Cái nhìn này càng đậm nét hơn qua những kinh nghiệm phục vụ giáo phận Long Xuyên thân yêu này.
Thực vậy, thánh Giuse đã bảo vệ Hội Thánh địa phương qua biết bao thăng trầm. Không những chỉ bảo vệ, mà còn phát triển. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên hai ơn, mà tôi cho là đặc biệt quí giá, Ngài đã ban cho giáo phận ta.
Ơn thứ nhất là ơn truyền giáo và tái truyền giáo.
Giáo phận Long Xuyên có hai cảnh thiên nhiên, mà Chúa Giêsu hay nói tới. Đó là cánh đồng và sông biển.
Trên cánh đồng xã hội bao la này, trong mấy chục năm nay, biết bao hạt giống Tin Mừng đã được gieo vào, cho tới những vùng sâu vùng xa.
Trên những dòng sông và biển cả là dòng lịch sử địa phương bao la, biết bao lưới tình thương đã được thả xuống, chỗ nông cũng như chỗ sâu.
Tất cả đều âm thầm, đúng lúc, đúng cách, mà Chúa muốn.
Một điều cũng nên nhắc ở đây, là trong truyền giáo có tái truyền giáo. Việc tái truyền giáo tại giáo phận ta đã chú trọng đến việc tập trung vào Lời Chúa, phép Thánh Thể và Bác ái.
Tất cả cũng âm thầm, đi vào nội tâm và đơn sơ vắn gọn.
Bên cạnh ơn truyền giáo và tái truyền giáo, còn có một ơn thứ hai, tôi cho là rất quí giá. Tôi xin nói:
Ơn thứ hai là ơn nhân sự.
Trong những năm qua, nhờ thánh Giuse, những nhân sự đã từng cộng tác vào việc bảo vệ và phát triển Hội Thánh địa phương ta là một con số rất đông và rất đa dạng. Trước tiên, chúng ta phải kể đến Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ, vị giám mục tiên khởi, cha chung của chúng ta. Bên cạnh ngài là bao nhiêu cộng tác viên, thuộc đủ mọi thành phần. Có những người đã qua đời. Có những người còn sống. Họ là những nhân chứng về Chúa Giêsu, Đấng cứu độ loài người.
Về ơn nhân sự, tôi muốn nhắc lại ở đây trường hợp hai Đức Cha thân mến, rất gần gũi với chúng ta. Tôi biết rất rõ trường hợp này. Hồi đó Cha Giuse Trần Xuân Tiếu đang là Tổng đại diện kiêm Cha Sở nhà thờ chánh toà Long Xuyên và Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, đang là thư ký Toà Giám Mục Long Xuyên. Khi biết hai cha được Toà Thánh đưa vào danh sách đề cử lên Giám mục, tôi đã khấn cầu tha thiết với thánh Giuse. Để thánh ý Chúa được thực hiện, thánh Giuse đã nhận lời. Kết quả xảy ra rất tốt đẹp, rất mau lẹ, rất êm xuôi. Chỉ trong ba tháng, một vị đã trở thành Giám mục ở biên giới Việt Nam phía Bắc, một vị đã làm Giám mục ở biên giới Việt Nam phía Nam. Cả hai Giám mục đều là Giuse.
Với sự nhắc lại biến cố trên đây, tôi muốn xin anh chị em tạ ơn thánh Giuse. Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho hai Đức Cha, nhất là cho Đức Cha Giuse đang là giám mục giáo phận chúng ta. Các ngài đang và sẽ phải gánh nhiều trọng trách nặng nề. Đặc biệt là trong thời kỳ đức tin cần được thanh luyện, và nhân sự cần được rèn luyện một cách sâu sắc hơn.
Tâm sự của tôi xin được kết thúc bằng một cái nhìn và một hy vọng.
Cái nhìn của tôi phản ánh cái nhìn của Đức Mẹ ở Fatima. Đó là đã đến lúc con cái Chúa phải trở về con đường Phúc Âm một cách triệt để, dứt khoát. Nếu không, sẽ khó tránh được những tại hoạ phần hồn phần xác.
Với cái nhìn cảnh báo đó, tôi hy vọng lương tâm chúng ta sẽ được thức tỉnh, để bắt chước thánh Giuse, hết sức bảo vệ Hội Thánh, bằng sự khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa, với điểm tựa là Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria.
Thiết nghĩ đó là cách tốt nhất để mừng kính thánh Giuse, Đấng bảo vệ Hội Thánh Việt Nam chúng ta.
8.Thánh Giuse, người đi trong đêm tối--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong các bức vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ Thánh Giuse đưa Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập. Bầu trời đen thẫm, một vài tia chớp lóe lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh Giuse, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Ðức Maria bồng Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người, cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm mà còn đẹp về ý nghĩa. Ngắm nhìn bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời Thánh Giuse, một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin, Ngài đã sống chung với Ðức Maria và Chúa Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Ði bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối, Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đồng hành hết suốt cuộc đời. Thánh Giuse giống như một người lính canh, được cấp trên giao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quí giá. Nhưng cũng có thể chỉ là một chiếc hộp rỗng không. Không biết, nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Maria người bạn yêu quí. Trước những mầu nhiệm cao cả, Ðức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Giêsu. Thiên Chúa làm người là một mầu nhiệm ẩn giấu vì Ðức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần mà chỉ là những tiếng vọng mơ hồ giữa đêm khuya trong giấc ngủ, vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Im lặng đáng sợ nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu. Khi những gì thân thiết nhất trong đời trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã cây cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất.
Trong cả 4 Phúc Âm không thấy ghi lại lời nào của Thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ. Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong một làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến cũng chỉ để chê bác ái, dè bĩu, hạ thấp thân phận của Ðức Giêsu: "Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện". Ngài bị lãng quên luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Ðức Maria, sách Tông đồ Công vụ kể về Ðức Maria. Nhưng từ khi Ðức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh người dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại còn phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếu ớt. Nhưng những thử thách khốn khó về thể lý, dù cam go thế nào cũng còn chịu được, những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Ðức Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà tin được. Sao Con Thiên Chúa quyền uy dường ấy lại bé nhỏ yếu ớt nghèo hèn thế này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dày hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách còn nặng nề nhưng Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardis nói "Người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm. Ban đêm người bơi lội vùng vẫy làm dao động mặt nước biển có ánh sáng lóe lên chung quanh mình".
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm lóe lên ánh sáng soi bước cho chân Ngài đi.
Ði trong đêm tối đức tin. Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Ðêm đen lắm nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng, Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phần mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng, khiêm nhường phục vụ. Khiêm nhường sâu thẳm. Ngài cũng có tâm tình như thánh Gioan Tẩy Giả: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Trong đêm tối thử thách Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào lời Chúa, hoàn toàn phó thác cho Chúa, để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.
9.Thánh Giuse, người công chính--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi mừng lễ thánh Giuse, tôi thường tự hỏi. Không biết thánh Giuse, người sống cách đây 2000 năm có còn thích hợp với thời đại chúng ta không? Không biết thánh Giuse, Đấng đã coi sóc một gia đình gồm toàn những đấng thánh có thể làm gương mẫu cho gia đình chúng ta, những gia đình gồm toàn những con người phàm trần không?
Tin Mừng hôm nay nói thánh Giuse là người công chính. Nhìn vào cuộc đời thánh Giuse, ta có thể hiểu được nội dung tính từ công chính. Công chính trước hết là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi công chính là không dám nhận những gì không phải của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria mang thai. Theo lối giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria. Nhưng theo các nhà chú giải thời mới thì thánh Giuse định bỏ trốn vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Chức vị làm cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
Công chính là chu toàn nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tế nhị, kính cẩn, nâng niu, hãy nhìn cảnh Thánh Gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp đẽ hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu, ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa bảo thức dậy trốn sang Ai cập, ngài cũng thức dậy lên đường ngay tức khắc.
Những nhiệm vụ của thánh Giuse xem ra tăm tối, không có gì vinh quang. Nhưng thánh Giuse vẫn chăm chỉ chu toàn, và không đòi cho mình nhiệm vụ nào khác. Chẳng hạn sau này các Tông đồ được mọi người kính phục, thánh Giuse vẫn không ghen tị và đòi cho mình quyền đó. Ngài thật là người công chính.
Sau cùng, công chính là trung tín với nhiệm vụ. Thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ gìn giữ Đức Maria và Đức Giêsu, gìn giữ gia đình, ngài đã hết sức chu toàn trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải lao động vất vả để nuôi sống gia đình. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải chung sống với súc vật trong ngày Đức Maria hạ sinh Đức Giêsu. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải vất vả bồng bề Đức Giêsu chạy trốn sang Ai cập. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse kiên trì tìm kiếm khi Đức Giêsu đi lạc 3 ngày trong Đền thờ. Trung tín không hề xao nhãng, không hề lẩn tránh, không hề lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn, thánh Giuse thật là người công chính.
Ngày nay thánh Giuse vẫn hợp thời, vẫn là gương mẫu cho con người, vẫn là niềm mơ ước của con người. Vì thế giới ngày nay đang thiếu vắng sự công chính. Người ta gian tham nhận những gì không phải của mình. Không phải chỉ gian tham tiền bạc mà còn gian tham chức quyền, danh vọng. Vì thiếu công chính mà người ta hãm hại người khác, chiếm đoạt tiền của, danh dự của người khác. Vì thiếu công chính mà người ta sống giả dối, làm hàng giả, nói dối, mượn bằng giả. Vì thiếu công chính nên người ta trốn tránh nhiệm vụ. Chỉ thích những việc nhàn tản, phô trương, trốn tránh những việc nặng nhọc, hèn kém.
Các gia trưởng nhiều khi lười biếng, ham vui mà thiếu trách nhiệm với gia đình, với vợ con. Sự trung tín ngày nay đang là một vấn đề lớn, người ta bất tín, lừa đảo, gian dối trong đời sống xã hội, trong kinh doanh buôn bán, người ta thiếu trung tín cả trong gia đình. Chỉ một vài thử thách, thiếu thốn, người ta sẵn sàng từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ người thân.
Nên thánh Giuse vẫn còn là gương mẫu cần thiết cho người thời nay. Những đức tính của ngài, sự công chính của Ngài rất hữu ích để chấn chỉnh, xây dựng xã hội hôm nay.
Thánh Giuse, người đi trong đêm đen
Trong các bức tranh vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ thánh Giuse đưa Đức Mẹ và Đức Giêsu trốn sang Ai cập. Bầu trời đen thẫm. Một vài tia chớp loé lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh gia, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Đức Maria bồng Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm, mà còn đẹp về ý nghĩa, Ngắm bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời thánh Giuse: một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin. Ngài đã sống chung với Đức Maria và Đức Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Đi bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối. Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đống hành cho đến mãn đời. Thánh Giuse giống như người lính canh được cấp trên trao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quý giá. Nhưng cũng có thể là chiếc hộp rỗng không. Không biết. Nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Maria, người bạn yêu quý. Trước những mầu nhiệm cao cả, Đức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người vẫn là một mầu nhiệm ẩn dấu và Đức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần. Mà chỉ là những tiếng vọng mô hồ, giữa đêm khuya, trong giấc ngủ. Vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Im lặng đáng sợ. Nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu khi những gì thân thiết nhất trong đời lại trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã thân cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Trong cả bốn Phúc Âm, không thấy ghi lại lời nói nào của thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến, cũng chỉ để chê bai, dè bỉu, để hạ thấp thân phận của Đức Giêsu: “Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện”. Ngài bị lãng quên vì luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Đức Maria. Sách Tông Đồ Công Vụ kể về Đức Maria. Nhưng từ khi Đức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách. Thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếâu ớt. Nhưng những thử thách, khốn khó về thể lý dù cam go thế nào cũng còn chịu được. Những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Đức Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà chấp nhận được. Sao này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dầy hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách có nặng nề, Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardin nói: người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm: “Ban đêm, người bơi lội vùng vẫy trong làn nước biển có chất lân tinh, làm ánh sáng loé lên chung quanh mình”.
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm loé lên chung quanh Ngài những làn ánh sáng soi bước chân Ngài đi.
Đi trong đêm tối đức tin, Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Đêm đen lắm, nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa, và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng. Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe, đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phím đàn mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng, phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ, Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng. Khiêm nhường phục vụ, khiêm nhường sâu thẳm. Ngài có cùng tâm tình như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
Trong đêm tối thử thách, Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào Lời Chúa. Hoàn toàn phó thác cho Chúa. Để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.
10.Thánh Giuse, gương mẫu thời đại--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi chọn một vị thánh bảo trợ, ta đặt mình dưới sự chở che cứu giúp của Người và cũng mong noi gương bắt chước đời sống đức hạnh của Người. Tất cả những ai xin thánh cả Giuse bảo trợ chắc chắn sẽ được Người chở che gìn giữ, như xưa Người đã gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria trong cuộc đời dương thế. Nhưng ít có ai noi gương được đời sống của Người. Đó là một đời sống thánh đức chiếu toả ra những nét đẹp cao quý mà ta khó bắt chước.
Nét đẹp thứ nhất ở nơi thánh Giuse mà ta khó bắt chước, đó là đức tính ít nói. Lần giở những trang Tin Mừng, ta thấy diễn tả nhiều hành động của thánh cả Giuse, nhưng không thấy trích dẫn lời nói nào của Người. Người làm nhiều nhưng nói ít. Còn ta, ta thương nói nhiều và làm ít. Tục ngữ Việt nam có câu: Đa ngôn đa quá. Ai nói nhiều sai lỗi nhiều. Thực vậy trong đời sống có biết bao hiểu lầm phát sinh từ những lời nói thiếu trung thực. Biết bao đổ vỡ do những lời nói thiếu trách nhiệm gây nên. Biết bao lời nói trống rỗng không chứa đựng nội dung xây dựng. Biết bao lời nói làm vẩn đục tâm hồn, vẩn đục môi trường đạo đức, làm ô nhiễm bầu khí bác ái. Thánh Giacôbê thật chí lý khi nói: “Ai không sai lỗi trong lời nói thì đó là người hoàn hảo. Người ấy có khả năng kiềm chế toàn thân” (Gc 3,2). Thánh Cả Giuse đã kiềm chế được lời nói, chứng tỏ Người hoàn toàn làm chủ được bản thân. Sự im lặng của Người là sự im lặng của kẻ mạnh. Sự im lặng của Người là sự im lặng của một đời sống nội tâm phong phú. Sự im lặng của Người là sự im lặng hoạt động đem lại những kết quả tốt đẹp.
Nét đẹp thứ hai ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự vâng lời tuyệt đối. Người luôn vâng lời Chúa, dù lệnh Chúa truyền chỉ mơ hồ trong cơn mê ngủ, dù lệnh Chúa truyền nhiều khi rất khó chấp nhận. Làm sao chấp nhận được một phụ nữ đã có thai làm bạn? Không bao giờ Người thắc mắc, chối từ. Không bao giờ Người tỏ ý ngần ngại trước những mệnh lệnh khó khăn. Trong mọi nơi mọi lúc, Người luôn vâng lệnh Chúa một cách mau chóng, tức khắc, vui tươi. Thấy Đức Maria đã mang thai, Người muốn trốn đi, nhưng khi Chúa tỏ ý muốn Người ở lại nhận Đức Maria làm bạn, Người vâng lệnh ngay tức khắc. Khi Chúa muốn Người đưa Đức Giêsu và Đức Maria trốn sang Ai cập, Người đã thức dậy và tức khắc lên đường giữa đêm khuya. Thật là một sự vâng lời tuyệt đối. Còn ta, trước những lệnh truyền của Chúa, ta có thái độ nào? Nếu ta không chối từ thì cũng uốn nắn theo ý riêng. Ít nhất cũng thắc mắc, giảm nhẹ. Nếu có vâng lời thì cũng ngần ngại, chậm trễ thi hành. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên đức tin mãnh liệt vào Chúa. Vì hoàn toàn tin tưởng nên hoàn toàn phó thác. Vì hoàn toàn phó thác nên hoàn toàn vâng phục. Dù không hiểu, nhưng cứ dấn bước lên đường. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên một lòng mến yêu tha thiết. Vì mến yêu tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ điều gì, cho dù không hiểu, cho dù khó khăn. Thánh Cả Giuse có lòng tin tưởng tuyệt đối và lòng yêu mến tha thiết đối với Chúa, nên đã vâng lời Chúa một cách tuyệt đối.
Nét đẹp thứ ba ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự khiêm nhường quên mình. Đọc trong Tin Mừng, ta không bao giờ thấy Người xuất hiện ở những nơi công khai được nhiều người biết đến, trái lại Người luôn có mặt ở những nơi tối tăm âm thầm. Người không làm những việc lớn lao trọng đại, nhưng chỉ chu toàn những bổn phận nhỏ bé thông thường. Một hình ảnh quen gặp là bức vẽ hoạ cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập. Đức Mẹ bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse đi bộ, dắt lừa âm thầm trong đêm tối. Tôi có cảm tưởng Người đã tự nguyện hạ mình xuống để Chúa được tôn vinh. Người đã tự nguyện sống âm thầm để Chúa được nhận biết. Người đã tự nguyện lùi vào bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Người đã chấp nhận bị quên lãng để Chúa được yêu mến. Còn chúng ta, chúng ta thường làm ngược lại. Ta luôn muốn nâng mình lên, nên Chúa thường bị hạ xuống. Ta luôn muốn phô trương bản thân, nên Chúa bị chìm trong âm thầm. Ta luôn muốn xuất hiện trong ánh sáng, nên Chúa bị đẩy lùi vào bóng tối. Ta luôn tìm cho mình được yêu mến, nên Chúa bị chôn vùi trong quên lãng.
Những nhân đức của thánh Cả Giuse thật khó bắt chước, nhưng đó là những đức tính rất cần cho thời đại chúng ta. Thế giới ngày nay quá ồn ào, cần có những con người hành động. Thế giới ngày nay đã chán ngán những lý thuyết, cho dù rất hay, rất đẹp, nên cần có những con người thực hành, làm chứng nhân. Thế giới ngày nay đang đánh mất niềm tin yêu phó thác, cần có thánh Cả Giuse như mẫu gương trung tín và khôn ngoan. Thế giới càng ngày càng tiến đến hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa, đang cần những con người khiêm nhường, phục vụ, quên mình. Nếu ta biết noi gương những nhân đức của thánh Cả Giuse, ta sẽ có thể thánh hoá bản thân, củng cố gia đình và góp phần cải tạo xã hội.
Lạy thánh Cả Giuse, xin hãy chở che gìn giữ giáo phận chúng con. Amen.
11.Uy quyền và thương xót--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Hãy đến cùng Giuse
Thánh cả Giuse được chọn giữa muôn người để làm cha nuôi Chúa cứu thế. Ngài là một người khiêm nhường về công chính, được diễm phúc chăm lo cho Chúa Giêsu mọi thứ, từ nhà ở đến của ăn thức uống, đã dâng Chúa Giêsu vào đền thờ và cứu thoát khỏi cơn thịnh nộ của Hêrôđê. Ngài đã làm việc bằng đôi tay chai cứng để đem lại một đời sống vật chất ấm no cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Ngoài tước vị là cha nuôi Chúa Giêsu, ngài còn là bạn thanh sạch Đức Maria. Điều đó phải giả thiết rằng, ngài hội đủ những nhân đức trổi vượt. Và sự thánh thiện của ngài phải tương xứng với sự thánh thiện của Mẹ Maria. Chắc hẳn thánh cả Giuse đã thương yêu mẹ Maria bằng một tình thương trong trắng. Đã an ủi Mẹ trong những giây phút đau khổ, đã hướng dẫn Mẹ trên những nẻo đường xa lạ, và đã bảo vệ Mẹ khỏi mọi mưu toan hãm hại.Chính vì thế mà Đức Hồng y Fulton Sheen đã quả quyết:
– Mẹ Maria và thánh cả Giuse đã đem vào trong cuộc hôn nhân của các ngài không chỉ lời hứa trong sạch mà còn là hai trái tim ngập tràn thương yêu, không ai có thể có được.
Thực vậy, không một người chồng, cũng như không một người vợ nào có thể yêu thương nhau đến thế. Và Mẹ Maria cũng không thể trao gửi trái tim mình cho một người nào xứng đáng hơn. Đó là một cuộc hôn nhân thực sự, nhưng được miễn trừ những quyền lợi xác thịt, đồng thời cân bằng về nhân đức.
Từ hai tước vị này chúng ta thấy ngài thực sự là đấng quyền thế.
Đúng thế, ngài là đấng quyền thế nơi cõi lòng Chúa Cha vì Chúa Cha đã cho ngài tham dự vào chức vụ làm cha, cũng như trao phó cho ngài sứ mạng cao cả, xứng với niềm tin tưởng tuyệt vời.
Ngài còn là đấng quyền thế nơi cõi lòng Chúa Con, là Đấng ngài đã yêu thương và chăm sóc suốt những tháng năm sống nơi trần thế.
Sau cùng, ngài còn là đấng quyền thế nơi cõi lòng Mẹ Maria, vì ở dưới đất các ngài đã yêu thương và làm đẹp lòng nhau thế nào, thì bây giờ ở trên trời, chẳng lẽ Mẹ Maria lại không thể đoái nhìn đến lời cầu bầu của thánh cả Giuse hay sao?
Là đấng quyền thế mà thôi chưa đủ, ngài còn là đấng đầy lòng xót thương.
Như chúng ta thường nghe nói:
– Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Thánh cả Giuse là đấng đã trải qua mọi khổ cực, mọi cay đắng của kiếp người, nên ngài cảm thông với chúng ta hơn hết. Bởi vậy, cùng với Mẹ Maria và Chúa Giêsu, thánh cả Giuse, sẽ đặc biệt chăm sóc đến chúng ta và bầu cử cho chúng ta trước ngai toà Thiên Chúa.
Chính vì thế, hãy chạy đến cùng thánh cả Giuse trong mọi cơn gian nguy thử thách, vì ngài là đấng quyền thế và đầy lòng xót thương.
12.Người công chính sống bởi đức tin--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
(2S 7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a)
Lời Chúa hôm nay trình bày hai khuôn mặt được tuyên dương là người công chính. Tổ phụ Áp-ra-ham và Thánh Cả Giu-se. Người công chính sống bởi đức tin. Các ngài công chính vì đã có một đức tin kiên vững. Tin vào Lời Chúa Hứa.
Chúa hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham một miền đất và một dòng dõi. “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không…Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó… Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát, đất của những người Ke-ni, Cơ-nát, Cát-môn, Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” (St 15,5-21). Tổ phụ vững tin vào Lời Chúa Hứa không chút nghi nan. Chúa bảo ông đi đâu ông liền vâng theo. Kể cả khi đến cuối đời mà chẳng có mảnh đất nào. Khi bà Xa-ra qua đời, tổ phụ phải khéo léo thương thuyết và tốn rất nhiều vàng bạc mới mua được một mảnh đất nhỏ ở Mác-pê-la, của người Khết, để chôn cất bà. Và sau này chôn cất chính ông. Còn về dòng dõi. Hơn 90 tuổi Áp-ra-ham mới sinh được một con trai. Nhưng khi đứa trẻ lên 12 tuổi, tuổi trưởng thành của người Do thái, Chúa truyền cho ông sát tế mà dâng cho Chúa. Đó là niềm hi vọng cuối cùng. Đó là chỗ dựa duy nhất. Nhưng ông vẫn mau mắn vâng phục không chút từ nan. Thật là một đức tin lớn lao. Thánh Phao-lô đã ca tụng ông: ”Mặc dù không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin”. Quả thật khi không có gì để tin mà ông vẫn tin vào Lời Chúa Hứa. “Bởi vậy, ông được kể là người công chính”.
Thánh Cả Giu-se cũng được Tin mừng tuyên dương là người công chính. Vì đức tin của người thật lớn lao. Từ ngàn xưa Chúa đã hứa với vua Đa-vít: ”Trước mặt Ta, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai vàng của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”. Thánh Cả thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Được thừa hưởng lời hứa đó. Nhưng đến thời Thánh Cả thì nhà của Đa-vít không còn nữa. Vì đã rơi vào ách nô lệ ngoại bang La-mã. Vương quyền Đa-vít không còn nữa. Vì Hê-rô-đê, người Ê-đôm đã trở thành vua người Do thái. Bản thân người chỉ là một bác thợ mộc nghèo hèn sống âm thầm trong ngôi làng Na-da-rét nhỏ bé. Nhưng Thánh Cả vẫn vững tin vào Lời Chúa Hứa. Niềm tin vững vàng được thể hiện qua việc nhận Đức Mẹ và Chúa Giê-su. Làm sao một trinh nữ có thể sinh con? Làm sao Thiên Chúa lại mặc lấy thân xác một trẻ sơ sinh bé nhỏ yếu ớt như thế. Tại sao Thiên Chúa nhập thể phải sinh ra trong chuồng bò? Tại sao vua cả trời đất vừa sinh ra đã phải trốn chạy bạo chúa trần gian? Đức tin của người thật lớn lao. Người chấp nhận tất cả những gì Thiên Chúa dạy bảo. Người thi hành tức khắc những gì Thiên Chúa truyền. Dù phải thức dậy giữa đêm khuya. Dù phải lên đường tức khắc. Dù phải chấp nhận những điều ngược lại ý thích.
Người cũng như tổ phụ Áp-ra-ham. Không còn gì để trông cậy mà vẫn trông cậy. Không có gì để tin mà vẫn tin. Tin như thế cũng là từ bỏ mình hoàn toàn. Từ bỏ tất cả ý riêng. Chương trình riêng. Để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Để hoàn toàn theo chương trình của Thiên Chúa.
Tin như thế là dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Là phó thác hoàn toàn. Huỷ mình ra không. Để Thiên Chúa sử dụng đời mình. Và thật lạ lùng. Khi ta không có gì thì Thiên Chúa là tất cả ở trong ta. Khi ta không thể làm gì thì Thiên Chúa làm tất cả qua ta.
Quả thật Thiên Chúa đã trung tín với Lời Thề Hứa. Tất cả đã được thực hiện qua Thánh Cả Giu-se. Nhờ đức tin người đã đón nhận Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là tất cả. Khi đón nhận Chúa Giê-su Thánh Cả có tất cả. Nhờ đức tin người trở thành cha của Chúa Giê-su. Nhờ người Chúa Giê-su thuộc về dòng dõi vua Đa-vít. Chính Chúa Giê-su sẽ giữ gìn ngai vàng của nhà Đa-vít đến muôn ngàn đời. Và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.
Mừng lễ Thánh Cả Giu-se ta noi gương người sống đức tin. Nhiều lúc cuộc đời ta tăm tối. Giáo hội tăm tối. Thế giới tăm tối. Không có gì. Không là gì. Không thể làm gì. Không biết đi đâu. Nếu ta noi gương Thánh Cả. Phó thác tất cả cho Chúa. Để Chúa hành động. Ta sẽ có tất cả. Vì Chúa là tất cả. Và Chúa sẽ làm tất cả. “Bởi vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một người cha. Để Con Chúa giáng trần. Trở thành nguồn ơn phúc cho chúng con. Để nhờ dòng dõi vương giả của người chúng con được trở thành miêu duệ xứng đáng hưởng Lời Chúa Hứa. Xin cho chúng con biết noi gương Thánh Cả. Từ bỏ tất cả. Để chỉ được một mình Chúa. Như thế chúng con sẽ được tất cả.
Lễ Thánh Giuse 19-3-2016.
13.Sống Đức Tin Theo Gương Thánh Giuse--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh Giuse được Tin mừng hôm nay công khai tuyên dương là “người công chính”. Công chính là gì?
Theo luân lý, công chính là trả cho người khác cái thuộc về họ. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu cũng có lần nói: “Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Việc thánh Giuse muốn kín đáo bỏ trốn được giải thích nhiều cách khác nhau. Nhưng cách giải thích chính xác nhất là của thánh Bênađô. Ngài nói:
“Lý do Giuse muốn rời bỏ Maria cũng là lý do mà Phêrô đã xin Chúa tránh xa ông: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! “ (Lc 5:8). Đó cũng là lý do viên đại đội trưởng không dám mời Đức Giêsu vào nhà : “Thưa thầy tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi” (Lc 7:6). Như vậy, vì tự coi mình không xứng đáng và là người tội lỗi, nên Giuse tự nhủ rằng mình chẳng là gì hết để có thể sống chung với một con người vĩ đại như Đức Maria… Phêrô đã sợ hãi sự cao cả của quyền năng, viên đại đội trưởng đã e sợ sự hiện diện uy nghi, Giuse cũng thế, ông sợ hãi trước sự mới lạ, trước chiều sâu của một mầu nhiệm lớn lao, nên muốn rời bỏ bà cách kín đáo.. . Lý do khiến Giuse muốn rời bỏ Maria là thế đó”.
Thánh Giuse công chính không dám nhận những gì không phải của mình. Ngài muốn trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa. Bào thai trong lòng Đức Mẹ là quyền năng của Thiên Chúa. Thánh Giuse không dám lãnh nhận địa vị cao cả đó.
Đặc biệt hơn, công chính là sống đức tin. Đó chính là điều thánh Phaolô quả quyết khi nói về tổ phụ Abraham trong thư Rôma 4, 3.18-22 mà chúng ta nghe một phần trong bài sách thánh thứ hai: “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính….Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin…, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế ông được kể là người công chính”.
Quả thật Abraham luôn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì tin tưởng nên ông mau mắn vâng lời, thi hành mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy. Thiên Chúa truyền cho ông bỏ quê hương xứ sở, lập tức ông lên đường. Thiên Chúa truyền dòng dõi ông sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển, dù lớn tuổi, ông vẫn tin. Khi Isaac, con trai ông, đứa con của lời hứa, được mười hai tuổi, Thiên Chúa truyền ông sát tế dâng cho Người, ông lập tức thi hành.
Cũng trong thư Rôma, thánh Phaolô nhắc lại lời tiên tri Habacuc: “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4// Rm 1,17// Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính. Vì ai tin vào Lời Chúa, thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả. Ta chẳng là gì. Mọi sự là của Thiên Chúa. Ta chẳng có gì. Vì thế tuyệt đối vâng lệnh Thiên Chúa và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Người là điều hợp lý.
Thánh Giuse là người công chính vì thánh nhân tuyệt đối tin tưởng lời Thiên Chúa, dù lời Thiên Chúa nói với thánh nhân trong giấc ngủ. Thánh nhân tin vào lời Thiên Chúa, trong những sự việc bình thường và hợp lý. Như khi truyền cho thánh nhân đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ trốn sang Ai cập và sau đó trở về. Thánh nhân còn tuyệt đối tin tưởng ngay cả trong những trường hợp bất thường và lý trí không giải thích được. Như khi thánh nhân định trốn đi, nhưng Thiên Chúa truyền cho thánh nhân ở lại để nhận Đức Mẹ về làm bạn. Không những tuyệt đối tin tưởng, thánh nhân còn mau mắn thi hành không chút chậm trễ. Đức tin của thánh nhân thật lớn lao. Và vì thế sự công chính của thánh nhân thật trổi vượt, xứng đáng được Tin Mừng chính thức ca tụng.
Chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin. Nhưng xem ra chúng ta còn thiếu đức tin. Nếu “người công chính sống bởi đức tin” thì ta chưa sống bởi đức tin. Vì ta còn thiếu công chính. Ta chưa trả cho người khác những gì thuộc về họ. Bất công lớn lao đang tràn lan khắp nơi. Ta chiếm đoạt những gì không phải của mình. Từ chiếm đoạt vật chất của cải, đến chiếm đoạt danh dự, phẩm giá của người khác. Từ chiếm đoạt quyền lợi, đến chiếm đoạt cả tự do. Từ chiếm đoạt uy tín, đến chiếm đoạt cả tiếng nói, cả ý kiến của người khác. Nhất là khi sự chiếm đoạt bât công được thể chế hóa qua guồng máy có tổ chức, được hợp thức hóa qua luật lệ. Tiếm quyền, tiếm danh, tiếm ngôn đang được thực hiện khắp nơi. Nhưng trên hết con người đang chiếm đoạt quyền lợi, và vị trí của Thiên Chúa.
Cần sửa chữa những tệ nạn này bằng một đời sống công chính. Đó là điều mà Hội đồng Giám mục Việt nam đã thể hiện qua bản góp ý để sửa đổi Hiến pháp nước Việt nam. Hãy trả cho từ ngữ đúng ý nghĩa của nó. Hãy trả cho người dân đúng quyền lợi của họ. Hãy trả cho đảng phái đúng vị trí của nó. Và hãy trả cho các cơ quan chính quyền đúng chức năng của nó.
Hôm nay chúng ta vui mừng hiệp thông với toàn thể Giáo hội trong ngày lễ đăng quang của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha là người thao thức với đời sống đức tin thể hiện qua sự công chính. Vì thế suốt đời mục tử ngài quan tâm tới đoàn chiên nghèo khổ. Đòi công bằng cho người nghèo được nghe rao giảng Tin mừng, ngài đã nói với các linh mục: “Chúa Giêsu dậy chúng ta một phương cách khác: Hãy đi. Hãy đi chia xẻ chứng tá của các bạn, hãy đi mà giao dịch với các anh chị em, hãy đi và chia xẻ, đi và thăm hỏi. Hãy trở thành Lời Chúa bằng cả thân xác lẫn tinh thần.”
Đòi công bằng cho người nghèo được quan tâm nên Ngài đã lên án các đồng sự lãnh đạo giáo hội là đạo đức giả vì đã quên rằng Chúa Giêsu Kitô đã làm cho người phong cùi được sạch và ăn uống với phụ nữ làng chơi. Để chia sẻ với người nghèo, bản thân ngài thường đi xe buýt đến sở làm, tự nấu ăn lấy và thường xuyên thăm viếng các khu xóm nghèo nàn xung quanh thủ đô nước Argentina.
Cũng vì luôn đứng về phía người nghèo và luôn bảo vệ công lý, chống lại bất công, bất bình đẳng trong xã hội, Ngài không ngại lên tiếng chỉ trích những điều bất công, phi lý. Mark Rice-Oxley trên nhật báo The Guardian tại Anh, hôm 13/03, năm 2009, cho biết Ngài đã chỉ trích chính phủ của Tổng thống Ernesto Kirchner, chồng của Tổng thống hiện tại của Argentina là Cristina Fernández de Kirchner, là xấu xa và bất chính khi để bất bình đẳng tại nước này gia tăng. Theo báo La Croix, Ngài đấu tranh chống nghèo đói vì Ngài coi nghèo đói là một sự vi phạm nhân quyền. Cũng theo bài viết này, trong một đất nước mà đối lập hầu như không tồn tại, Ngài thực sự là tiếng nói duy nhất dám đương đầu với vợ chồng Tổng thống Kirchner – người mà Ngài không ngừng chỉ trích là độc đoán, chuyên quyền.
Tạ ơn Chúa đã ban cho thời đại chúng ta một vị Giáo hoàng sống đức tin mãnh liệt trong đức công chính lớn lao. Chúng ta hãy đồng hành với ngài và noi gương ngài sống đức tin trong Năm Đức Tin này bằng đời sống công chính.
Lạy Thánh Cả Giuse là Đấng Công Chính, xin nâng đỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.
14.Lễ thánh Giuse--GM. Giuse Đỗ Mạnh Hùng
1. Ước mơ của con người là được hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Giuse, mời gọi chúng ta hướng đến ngài, học hỏi con đường đạt được hạnh phúc vĩnh cửu của Ngài và cũng cầu xin ngài cho chúng ta cũng đạt được hạnh phúc như vậy.
Trong ước mơ này, xin được chia sẻ 3 điểm :
* Có một ước mơ hạnh phúc và cố gắng đạt được
* Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn.
* Bí quyết Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc của thánh Giuse
2. Có một ước mơ hạnh phúc và cố gắng đạt được
Cũng như mọi người, chàng thanh niên Giuse làng Nagiarét cũng có ước mơ hạnh phúc. Ước mơ có được người bạn đường hiền dịu, đạo đức như Maria. Và Giuse đã cố gắng đạt được ước mơ này: giữa bao chàng trai làng Nagiarét, Maria đã chọn Giuse.
Tôi nhớ lại một bức tranh của nhà danh họa Raphael với tựa đề “Lễ Đính Hôn của Maria”. Năm 1983, UNESCO có khởi xướng mừng kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Họa sĩ Raphael, dịp đó Việt Nam đã cho in một con tem. Trên con tem in phần trọng tâm của bức họa “Lễ Đính Hôn của Maria” : cảnh Thánh Giuse đang trao nhẫn cưới cho Đức Maria, trước sự chứng kiến của một thày Tư Tế.
Nếu xem bản gốc của bức tranh, thì thấy hậu cảnh là ngôi đền thờ hình đa giác, có một sân thật rộng. Cận cảnh là lễ đính hôn. Một thầy tư tế đứng giữa thánh Giuse và Đức Mẹ. Sau và cạnh thánh Giuse là 5 chàng trai phù rể, đối diện phía bên kia, sau Đức Mẹ là 5 thiếu nữ phù dâu. Thánh Giuse đang long trọng xỏ nhẫn cho Đức Mẹ bằng tay phải. Tay trái cầm cây gậy gỗ trổ bông, dấu hiệu của người đã được tuyển chọn. Chỉ có cây gậy của Thánh Giuse trổ bông, còn những cây gậy của 5 chàng thanh niên khác thì khô chồi. Hai trong những thanh niên này, thất vọng, đang bẻ gãy cây gậy của mình.
Theo như bài chú giải về bức tranh, chiếc nhẫn nhỏ bé đó chính là trọng tâm, nói lên toàn bộ ý nghĩa của bức tranh: Lễ đính hôn của Đức Mẹ và Thánh Giuse. Hình ảnh chàng thanh niên đang chủ động xỏ chiếc nhẫn đính hôn vào tay vị hôn thê của mình với khuôn mặt tràn đầy hạnh phúc.
Có lẽ phải trải qua nhiều cố gắng lắm mới Giuse mới đạt được ước mơ của mình : có được Maria làm vị hôn thê của mình. Vì có nhiều người thanh niên khác trong làng cũng để ý Maria. Điều này họa sĩ Raphael họa lại thật sống động qua cảnh 2 chàng thanh niên, vì thất vọng và bực tức, đang bẻ gãy chiếc gậy của mình.
3. Bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn.
Thế nhưng, kể từ lúc đính hôn, lúc đã đạt được ước mơ hạnh phúc của mình, Giuse lại bắt đầu phải bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn.
Đó là những khó khăn trong tương quan với những người chung quanh. Trước hết, là tương quan với Maria, vị hôn thê yêu quí, đức hạnh, nhưng trước khi chung sống đã mang thai. Và rồi, sau khi vượt qua được khó khăn này, những khó khăn khác lại xảy đến. Phải về quê Bêlem khai sổ kiểm tra, lúc Maria gần tới ngày sinh. Phải trốn sang Ai Cập, nơi đất khách quê người. Rồi lại trở về Nagiarét. Trước những khó khăn thử thách đó, Giuse đã luôn chu toàn bổn phận của mình, chăm lo và nuôi sống cả gia đình.
Ở đây có thể thấy 2 yếu tố bảo vệ và xây dựng hạnh phúc của thánh Giuse: yếu tố thứ nhất là bảo vệ những tương quan trong cuộc sống, khởi đi từ những người thân nhất, và yếu tố thứ hai là cố gắng chu toàn bổn phận dù bao biến cố, bao khó khăn thử thách.
Kính thưa cộng đoàn,
Giờ phút này đây, nhìn lại cuộc đời của mình ai cũng thấy được điều này… Cuộc sống với rất nhiều bất ngờ, với những khó khăn…
Ví dụ như các linh mục lớn tuổi về hưu trong giáo phận. Cuộc sống êm đềm. Nhưng các cố tại nhà hưu trong tuổi già… vẫn phải đối diện với những người chung quanh, rất thân thiết, nhưng mỗi người một tính với những sở thích khác nhau… Và luôn có những khác ý mình. Vẫn có những hy sinh, những đón nhận trái ý trong cuộc sống.
Hay trong tầm mức lớn hơn trên thế giới hiện nay: bất ngờ con virus Corona xuất hiện làm mọi sinh hoạt đảo lộn, con người sống trong lo sợ, nhất là tại những vùng dịch bệnh.
Làm thế nào để có được một cuộc sống bình an, hạnh phúc khi phải đối diện với những khó khăn đến từ những người chung quanh hay từ những biến động của môi trường sống, là một thách đố lớn!
4. Làm sao để bảo vệ và xây dựng hạnh phúc mà mình đã chọn?
Thật vậy, đâu là bí quyết giúp Thánh Giuse bảo vệ và xây dựng hạnh phúc của mình?
Thưa: đó là khám phá ra thánh ý Thiên Chúa và mau mắn thi hành.
Trước hết, để khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, phải có một đời sống nội tâm sâu xa, với những giây phút thinh lặng suy nghĩ tìm kiếm. Khi xác tín được đâu là thánh ý Chúa: tâm hồn chúng ta sẽ được bình an. Và xác tín này chỉ có thể đạt được trong đức tin hay nói cách khác là do Thiên Chúa ban tặng. Giữa lúc rối bời, chuẩn bị lìa bỏ Maria, được thiên thần báo mộng, Giuse đã tin dù về lý luận tự nhiên thật là khó hiểu.
Tiếp đến, bước thứ hai là mau mắn thi hành. Và điều này không dễ dàng chút nào. "Khi tỉnh dậy, Giu-se đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền". Niềm tin vào lời thiên thần trong mộng đã biến thành hành động cụ thể.
Từ bài học trên của thánh Giuse, chúng ta có thể nhìn lại chính ước mơ hạnh phúc của mình
Các cha, các thày, các soeurs và anh chị em có thể nhớ lại ước mơ tuổi trẻ của mình: hạnh phúc được trở thành một linh mục, một nữ tu hay niềm vui của ngày thành hôn, ngày được chấp nhận vào dòng, vào Chủng viện, được chấp nhận khấn lần đầu, rồi khấn trọn hay chịu chức linh mục. Và đạt được ước mơ hạnh phúc trên cũng không phải dễ dàng gì.
Thế nhưng đạt được ước mơ đó với cao điểm là ngày thành hôn, ngày khấn trọn đời hay ngày chịu chức linh mục không phải là đã trọn vẹn. Sau đó là cả bao cố gắng để bảo vệ và xây dựng hạnh phúc đó.
a) Cũng như thánh Giuse, trước hết là bảo vệ những tương quan với người chung quanh, trước hết là những người gần gũi nhất với mình trong cộng đoàn, trong gia đình. Những hiểu lầm, những đụng chạm… phải khó khăn lắm mới vượt qua được.
b) Tiếp theo là cố gắng chu toàn bổn phận được trao phó với bao biến động, thay đổi trong cuộc sống.
Tóm lại, sống tương quan vui tươi với những người chung quanh đồng thời luôn cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngay xem ra không đơn giản tí nào.
Tự sức riêng mình có lẽ không thể vượt ra khỏi hoàn cảnh khó khăn. Không có ơn Chúa, không có tình yêu của TC hướng dẫn và nâng đỡ, có lẽ chúng ta đã bỏ cuộc, không còn được như ngày hôm nay.
Ơn Chúa ban tặng qua những điều xem ra rất nhỏ bé trong cuộc sống. Một lời an ủi, góp ý của ai đó, một sự cảm thông hỗ trợ nào đó… bỗng nhiên như ánh sáng bừng lên giúp ra khỏi cảnh tăm tối.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng dâng lên Chúa cuộc sống của chúng ta với những khó khăn. Và cũng như thánh Giuse, nhiều khi chúng ta không thể hiểu hết được.
Nhưng xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa qua những biến cố thật nhỏ, thật tự nhiên… như thánh Giuse đã đón nhận qua giấc mơ thật bình dị.
Lạy thánh cả Giuse, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con, cho gia đình chúng con, cho giáo phận chúng con. Amen.
15.Thánh Giuse--TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Thánh Giuse, và một cách đặc biệt hơn Giáo hội Việt Nam của chúng ta có Quan Thầy là Thánh Giuse. Hôm nay cũng là lễ Bổn mạng của Cha Sở Giuse, Chính xứ của Giáo xứ Mông Triệu và nhiều người hiện diện ở đây. Xin chúc mừng Cha sở và mọi người.
Lời Chúa, nhất là bài Tin mừng nói về Thánh Giuse, tường thuật câu chuyện, mà một vài nhà kinh thánh gọi là câu chuyện truyền tin cho Thánh Giuse. Thiên thần hiện ra với Thánh Giuse trong giấc mộng, và khuyên thánh nhân đừng ngại nhận Đức Maria về làm vợ mình, đừng ngại đưa Mẹ Maria về nhà, dù Mẹ Maria đang có thai. Vì thai nhi trong lòng Mẹ, không phải tự nhiên mà có, không phải do xác thịt hay máu huyết, mà là do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội.
Như thế là Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, thay mặt cho Thiên Chúa, trở thành người cha của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già.
Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian.
Trường hợp Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho các bậc mày râu. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ , chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.
Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “người công chính”. Mà người công chính, theo lời kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người công chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn đời của Đức Trinh nữ Maria”. Người đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo người cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê.
Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó.
Ngày nay Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gủi với Chúa , chia sẻ cuộc đời của Chúa. Người giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.
16.Thánh Lễ kính Thánh Giuse--GM. Giuse Võ Đức Minh
Chúng ta vừa nghe các bài đọc Lời Chúa. Lời Chúa chính là sự sáng soi dẫn đời sống của chúng ta. Như có lời đã chép rằng: “Lời Người là đèn rọi bước chân, ánh sáng cho nẻo đường tôi đi”. Và đặc biệt, trong ngày hôm nay, ngày đại lễ kính thánh cả Giuse. Không những mối liên hệ hết sức mật thiết với Mẹ Maria, với Chúa Giêsu, mà ngài còn như được nối kết với các tổ phụ Ápraham, với vua Đavít. Và hơn thế nữa, Ngài thực hiện những gì Thiên Chúa trao phó cho Ngài trong công trình cứu độ. Vì thế, chúng ta khó có thể trong một khoảng thời gian của một thánh lễ nói về Thánh Giuse. Tuy nhiên, vì ngài là người cha của chúng ta, người thân cận của chúng ta. Vì thế, trong ngày đại lễ của ngài, chúng ta xúc động và hãnh diện nói về người cha của chúng ta.
Chúng ta mượn Lời Chúa soi sáng và mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria, Mẹ nhân lành, người mà Chúa đã định liệu ở bên thánh Giuse. Để từ đó, chính Mẹ Maria là trinh nữ lắng nghe lời Chúa, trinh nữ cầu nguyện, trinh nữ cưu mang và sinh hạ Chúa, trinh nữ hoàn toàn và trọn vẹn hiến dâng đời sống cho Chúa. Chính Mẹ Maria hiểu lời Chúa, hiểu thánh Giuse và soi sáng cho chúng ta, để chúng ta thêm hiểu về người cha Giuse kính yêu, để yêu mến và luôn luôn tin tưởng, cậy trông ở nơi Ngài. Nếu chúng ta được phép hỏi Mẹ Maria, thưa Mẹ, xin Mẹ chỉ dạy cho chúng con điều mà Mẹ hiểu sâu xa nhất về Thánh Giuse. Chắc hẳn, ngài cũng xúc động, bởi vì ngài hiều và biết ơn Thánh Giuse.
Và đặc điểm của Mẹ Maria, Ngài không phát xuất từ bản thân của mình, từ cảm tính của mình, nhưng ngài đã dùng lời Chúa để cho chúng ta hiểu về thánh Giuse. Và Ngài như muốn nói với chúng ta rằng các bài đọc lời Chúa hôm nay bao trùm mầu nhiệm của Thánh Giuse. Mà đã là mầu nhiệm thì chúng ta không thể nào quán triệt hết tất cả. Muốn hiểu được mầu nhiệm phải có ơn của Chúa Thánh Thần. Cũng như Mẹ Maria, Mẹ chẳng là gì cả, nhưng Mẹ trở nên Đấng mà muôn đời gọi là diễm phúc vì Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ.
Vì thế, hiểu về thánh Giuse phải có ơn của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Thánh Thần soi sáng để cho thấy rằng nơi Giuse chính là hình ảnh của tổ phụ Ápraham, người công chính của Thiên Chúa. Người công chính là người tin, thờ phượng, đi theo, và hết sức khiêm tốn trước Thiên Chúa. Người công chính trước mặt Thiên Chúa luôn luôn nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa bằng đời sống cầu nguyện để Lời Chúa trở nên thật sự như lương thực cho cuộc đời của mình. Và chính Lời Chúa sẽ là sức mạnh để hướng dẫn cả cuộc đời của người công chính. Vì thế, nếu muôn thế hệ gọi Mẹ là người diễm phúc, thì Mẹ cũng có thể nói lòng thương xót, ân sủng, tình thương của Thiên Chúa tuôn đổ từ đời nọ đến đời kia trên những ai kính sợ Chúa, trên những ai được Thánh Kinh gọi là đấng công chính. Cứ đến với đấng công chính sẽ gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa, sẽ gặp được tình thương của Thiên Chúa, sẽ gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa, sẽ gặp được chính sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ không ngần ngại nói rằng Giuse là hiện thân của tổ phụ Ápraham như bài đọc thứ 2 chúng ta vừa nghe. Năm xưa tổ phụ Ápraham đi trong đức tin, đi dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa mà hôm nay trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô đã dùng một cái hình ảnh thật là lạ lùng. Bên bờ tuyệt vọng vẫn một niềm tin. Đối với thế gian thì mất tất cả, tuyệt vọng rồi. Nhưng mà tổ phụ Ápraham vẫn tin, vẫn tin vào Thiên Chúa, vẫn đặt để tất cả niềm tin yêu, sự sống của mình, tương lai của mình nơi Thiên Chúa, bên bờ tuyệt vọng vẫn một niềm tin:“ spes contra spem” Ngôn ngữ tuyệt vời đó của thánh Phaolô diễn tả đời sống, hình ảnh và cuộc hành trình thiêng liêng của tổ phụ Ápraham. Điều đó rọi soi vào đời sống của Thánh Giuse. Giuse là một người như tất cả mọi người, nghĩ đến tương lai của mình. Chúa lại hướng dẫn Giuse trên một con đường, mà Giuse, không bao giờ ngờ, không bao giờ nghĩ tới. Con đường của Chúa khác hẳn con đường của con người. Và nhiều khi mình phải đối diện với sự tối tăm, bên bờ tuyệt vọng nhưng vẫn một niềm tin. Vì thế, hình ảnh của tổ phụ Ápraham, hình ảnh của các tổ phụ, hình ảnh của các bậc tiền bối trong lịch sử dân Chúa như tìm gặp được, như cô đọng lại nơi chính con người của Thánh Giuse. Có thể nói tất cả những vị tổ phụ, các vị tiên tri, các vị hiền nhân trong lịch sử dân Chúa đều có thể thấy hình ảnh của mình nơi chính thánh Giuse. Nhờ Thánh Thần soi dẫn, nhờ Lời Chúa soi sáng, khuôn mặt và đời sống của thánh Giuse tỏ hiện một cách đặc biệt.
Rồi trong bài đọc thứ nhất, Lời Chúa lại cho thấy rằng hào quang của Vua Đavít, sự huy hoàng của Vua Đavít cũng chiếu tỏa nơi chính Thánh Giuse. Bởi vì Thánh Giuse thuộc hoàng tộc Đavít. Nếu trong dòng lịch sử, thì Giuse phải là đấng kế vị hoàng tộc Đavít. Thế nhưng, Giuse đã sống điều mà sau này Chúa Giêsu đã ngợi khen: Ai là người lớn nhất, ai là người cao trọng, thì hãy trở nên người tôi tớ phục vụ anh em của mình. Không ai có thể ngờ, hình ảnh của Giuse cao trọng quá sức, muôn đời đều ngợi khen Giuse là người cha công chính. Ngài vẫn âm thầm. Ngài vẫn nhẫn nại. Ngài vẫn bao dung. Ngài không thốt ra một lời nào làm cho ai phải đau đớn, nhưng hình ảnh của ngài âm thầm, yêu thương, hiền lành, khiêm nhường, phục vụ và phục vụ hết mình. Ai là người lớn nhất, ai là người có quyền thì trở nên người phục vụ, và thậm chí là người tôi tớ của anh em của mình.
Lời Chúa soi sáng để chúng ta hiểu. Và Mẹ Maria chia sẻ dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần để chúng ta gặp được nơi thánh Giuse mẫu gương của các tổ phụ, mẫu gương của các bậc hoàng đế, mẫu gương của các bậc tiên tri. Và rồi Giuse có thêm cái gì nữa cho chúng ta. Giuse vẫn luôn luôn ở bên Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa Giêsu cho đến độ sau này trong thời gian hoạt động rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, đi tới đâu, mọi người đều nhận Chúa Giêsu là người con thiêng liêng của thánh Giuse. Khuôn mặt của Thánh Giuse, hình ảnh của Thánh Giuse và thậm chí lời nói của Thánh Giuse cũng ẩn hiện nơi chính Chúa Giêsu. Bởi vì, Giuse khi đã hiểu được sứ mạng của Mẹ Maria, khi đã nói lời xin vâng với thánh ý của Thiên Chúa, thì Giuse gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Và điều kỳ diệu cũng như tuyệt vời mà bài Phúc âm hôm nay gợi lên cho chúng ta. Thiên Thần nói với Giuse: Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ được sinh ra bởi Đức Maria, bạn thanh sạch của ngài, tên đó chính là Giêsu, là Đấng Cứu Thế. Giuse được diễm phúc có một không hai như thế, đặt tên cho Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế.
Kính thưa anh chị em!
Mừng lễ Thánh Cả Giuse hôm nay, chúng ta xúc động nói về người cha kính yêu của mình, nói về vị thánh bổn mạng của mình, nói về người cha của cả Giáo Hội, của dòng lịch sử của dân Chúa. Mà vì thế, lời mời gọi hãy đến với Giuse như nhắc nhở tất cả chúng ta. Khi chúng ta gặp những khốn khó trong cuộc đời, khi chúng ta gặp những lúc bên bờ tuyệt vọng, nhưng nhìn vào Giuse vẫn kiên trì trong đức tin, vẫn kiên trì trong đức tin. Và khi chúng ta thành đạt, vinh quang có tất cả mọi sự, có quyền lực, thì nhìn vào Giuse để thấy rằng ai là người có quyền, ai là người danh vọng, hãy trở nên khiêm hạ, khiêm tốn, hiền lành để yêu thương và phục vụ anh em đồng loại của mình. Hoàn cảnh hiện nay trên thế giới như nhắc bảo chúng ta hãy đến với thánh Giuse. Chính ngài sẽ cùng với Mẹ Maria chuyển cầu cùng Thiên Chúa để đem lại sự bình an, hiệp nhất mở đường cho hạnh phúc của các tạo vật của Chúa. Amen.
17.Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ các người cha--Giáo Phận Bắc Ninh
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Thánh Cả Giuse là Cha nuôi Chúa Giêsu, là Bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria, là Đấng Bảo trợ Hội Thánh, Bảo trợ nước Việt Nam. Đó là những lý do chính thúc giục chũng ta yêu mến, tin cậy và cầu xin Thánh Giuse.
Nhưng trong bài này, tôi muốn nói về một lý do nữa: Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ các người cha gia đình.
Thưa anh chị em,
Trong một căn nhà, cột trụ có một vai trò và vị trí rất quan trọng. Cột trụ vững mạnh thì căn nhà sẽ đứng vững. Trái lại, nếu cột trụ yếu ớt, xiêu vẹo, thì căn nhà cũng xiêu vẹo và sụp đổ.
Người cha cũng là cột trụ của gia đình. Người cha khôn ngoan, can đảm, đạo đức, thì gia đình sẽ an vui, hòa hợp và đứng vững. Trái lại, người cha vụng về, nhát đảm, khô khan, thì gia đình sẽ lục đục, chia rẽ và sụp đổ khi gặp gian nan.
Kinh nghiệm cho thấy, một gia đình trong thời chiến tranh, cửa nhà bị tàn phá, tài sản bị phân tán, vợ thì yếu đuối, con thì thơ dại, trông mặt nào cũng thấy bi quan chán nản, không phương cứu vãn. Tuy nhiên, người cha vẫn đứng vững và trung thành yêu vợ thương con, can đảm hy sinh vì vợ con, thì khi đó tình yêu và lập trường của người cha trở nên bảo đảm cuối cùng cứu gia đình khỏi tan vỡ.
Để làm trọn nghĩa vụ cao quí đó, người cha phải làm gì?
Trước hết, phải biến gia đình thành nhà cầu nguyện theo gương Thánh Giuse. Đối với Thánh Giuse việc cầu nguyện chiếm địa vị ưu tiên trong mọi sinh hoạt của Thánh Gia: Cầu nguyện hằng ngày trong gia đình, cầu nguyện hằng tuần ngày Sabat trong hội đường, cầu nguyện hằng năm ở Đền thờ Giêrusalem… Đó là tấm gương sáng mà Thánh Gia để lại cho chúng ta.
Về phần xác, mỗi ngày gia đình ta họp nhau ít là hai lần để ăn cơm chung do người cha đứng đầu, thì phần hồn, mỗi ngày chúng ta cũng cần hợp nhau tối sớm để đọc kinh chung do người bố chủ sự. Đó là điều kiện cần thiết để nuôi dưỡng đức tin. Kinh nghiệm cho thấy gia đình nào siêng năng đọc kinh tối sớm, gia đình ấy sẽ giữ vững đức tin, gia đình nào lười đọc kinh, đức tin sẽ suy yếu và có nguy cơ sụp đổ trước những cơn thử thách của cuộc đời.
Đọc kinh tối sớm là điều kiện cần thiết nuôi dưỡng đức tin, hơn nữa còn là bảo đảm cho gia đình hòa thuận an vui.
Đời sống gia đình không phải bao giờ cũng vui tươi như ngày mới cưới, gia đình nào cũng có lúc va chạm, vợ chồng cãi cọ nhau, con cái ngỗ nghịch. Nhưng ban tối nếu gia đình họp nhau đọc kinh thì những bất bình va chạm ban ngày sẽ tan đi trong giấc ngủ. Trái lại nếu không đọc kinh, mỗi người đi ngủ đem theo sự buồn giận trong lòng, thì ban đêm sẽ khó ngủ và sáng dậy đầu óc sẽ nặng nề hơn.
Đọc kinh chung là điều kiện nuôi dưỡng đức tin, bảo đảm sự hòa thuận trong gia đình, hơn nữa còn là nguồn nghị lực giúp gia đình đứng vững trước cơn gian nan thử thách.
Đời sống gia đinh không phải luôn êm xuôi như nước chảy một chiều, gia đình nào cũng có lúc trải qua những ngày khó khăn thử thách như ốm đau bệnh tật, mất cha, mất con, làm ăn thất bại, tai nạn túng thiếu… Trong những tình huống đó, nếu gia đình vững lòng tin cậy, bền bỉ cầu nguyện thì thế nào Chúa cũng ban ơn trợ giúp để vượt qua.
Sau nữa, phải biến gia đình thành trường luyện nhân đức, nhất là đức hiền lành nhẫn nại.
Sống chung là một dịp hãm mình rất lớn. Người ta thường nói: “Bá nhân bá tính”. Nghĩa là một trăm người, một trăm tính nết khác nhau. Không nói gì đến một trăm người, chỉ mấy đứa con, trong một vấn đề nhỏ mọn như ăn uống thôi mà người mẹ cũng khó lòng dọn thức ăn cho vừa tất cả: đứa thích món này, đứa thích món kia, làm thế nào mà chiều được. Nếu không hợp tính nhau, không đồng quan điểm với nhau thì chỉ còn một cách là nhịn nhục chịu đựng trong tinh thần hy sinh bác ái, thì gia đình mới yên ổn được. Về vấn đề này, người cha phải làm gương sáng cho vợ con trước nhất, bởi vì sự thường người bố hay lấy quyền mình mà áp đặt, đòi hỏi, không được như ý sinh ra cáu gắt, đánh đập làm cho vợ con khiếp sợ. Thật là hạnh phúc cho gia đình nào có người bố hiền lành nhịn nhục. Người ta kể chuyện: Ông Socrate, xưa là một nhà hiền triết Hy Lạp có một bà vợ dữ tợn và lắm đều, nhưng ông cứ bình tĩnh chịu đựng. Một hôm bà ta xỉa xói ông những điều thậm tệ, ông im lặng khoác áo ra đi, bà ta còn chạy theo hất một chậu nước vào ông. Nhà hiền triết quay lại thái độ bình tĩnh nói: Tôi biết mà! Sau cơn giông tố thì thể nào cũng đổ mưa! Thế rồi ông cứ bình tĩnh bước đi.
Thưa các ông là những người cha gia đình,
Sứ mạng Chúa trao cho các ông thật là cao cả tựa như sứ mạng của Thánh Giuse, trách nhiệm của các ông cũng rất nặng nề, hoàn cảnh hiện nay cũng đầy khó khăn phức tạp. Chẳng hạn gia đình túng thiếu, việc làm ăn vất vả đi sớm về khuya, còn giờ đâu mà dạy dỗ con cái. Đang khi ấy thì bao nhiêu quyến rũ bên ngoài, bao nhiêu tệ nạn xã hội lôi kéo con cái ta vào con đường hư hỏng: cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút, bạn bè xấu, phim ảnh trụy lạc… Nhiều lúc các ông cảm thấy khổ tâm và bất lực, các ông lo lắng nhìn con cái và tự hỏi: Sau này chúng sẽ ra sao ? Còn giữ vững đức tin hay bỏ đạo ? Còn trung thành với nền nếp gia đình hay trở nên người hư hỏng
Dù sao chúng ra cũng không thể ngã lòng nản chí, vì quyền năng của Thiên Chúa thường biểu lộ ra trong sự yếu đuối và bất lực của con người, lúc chúng ta thấy mình yếu đuối là lúc chúng ta mạnh.
Vậy chúng ta hãy đến cùng Thánh Giuse, xin Người hộ giúp. Xưa Thánh Giuse cũng sống đời sống gia đình như ta. Người đã làm đầu coi sóc mọi sự trong nhà Đức mẹ mà nay người là Đấng mọi nhà phải cậy trông cho được vững vàng.
Thánh Giuse thấu hiểu hơn ai hết những nỗi khó khăn phức tạp của đời sống gia đình. Người cũng hiểu hơn ai hết vai trò và trách nhiệm của người cha gia đình. Do đó, với một tình thông cảm bao la, Thánh Giuse luôn sẵn sàng hộ giúp các người cha gia đình, khi đến cầu xin Người.
Sau cùng, tôi đề nghị anh chị em, nhất là các bà mẹ, cầu nguyện nhiều cho các gia đình có một người gia trưởng giống như Thánh Giuse, thì đời sống gia đình ta sẽ hạnh phúc biết bao. Người ta kể lại: Một người mẹ gia đình đến xin một luật sư biện hộ cho mình trong dự định ly hôn với ông chồng. Bà nói: Ông nhà tôi quá thể, tôi không chịu nổi, tối nào về cũng say khướt rồi đánh mắng vợ con, đập phá đồ đạc om sòm nhà cửa… Luật sư hỏi: Khi ấy thì bà làm gì?- Tất nhiên tôi phải lên tiếng cãi lại không chịu ngồi yên. Luật sư nói: Tôi nghĩ nhà bà còn thiếu một cái. Thiếu cái gì? Thiếu một cái ghế quì. Nếu khi ông nhà bà say sưa, đánh mắng như vậy, bà cứ yên lặng quì cầu nguyện cho ông sửa đổi tính nết thì sẽ có kết quả hơn nhiều.
Trên đây là một bài học rất khôn ngoan và thâm thúy, mong rằng chúng ta đem ra áp dụng trong đời sống gia đình khi gặp trường hợp tương tự. Amen.
18.Làm theo ý Chúa và chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (Hạt giống...)
Trong bài trích Phúc Âm này, Thánh Matthêu kín đáo cho biết một số chi tiết quan trọng về Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu:
1. Về Đức Mẹ Maria: một số chi tiết chứng tỏ Maria là một Trinh nữ (do đó đứa con trong bụng Người không phải là con của Thánh Giuse):
- “Maria đính hôn với Giuse” (câu 18): Mt dùng chữ “đính hôn” chứ không phải “kết hôn”.
- “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18); “vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 20).
2. Về Thánh Giuse: “Là người công chính” (câu 19): “công chính” có 2 nghĩa:
a/ nghĩa thông thường là “công bình”, điều gì không phải của mình thì mình không nhận. Giuse biết thai nhi không phải của mình nên không dám nhận làm cha, do đó muốn bỏ đi;
b/ nghĩa đạo đức: công chính là tuân theo ý Chúa. Khi được thiên sứ cho biết Thiên Chúa muốn Giuse rước mẹ con Đức Mẹ Maria về nhà mình thì Giuse mau mắn vâng theo.
3. Về Chúa Giêsu: Ngài là một đứa con đặc biệt: “thụ thai “bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18 và 20), “chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội” (câu 21).
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
Thánh Giuse nêu gương cho chúng ta về nhiều điểm:
1. Một người luôn làm theo ý Chúa: theo khuynh hướng tự nhiên, việc tuân theo ý Chúa để nuôi dưỡng Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu là điều rất khó, vì Đức Mẹ Maria không phải là vợ Người đúng nghĩa, và Chúa Giêsu không phải là con ruột của Người. Nhưng Thánh Giuse đã nuôi dưỡng hai Đấng, không phải một cách miễn cưỡng mà hết sức chu đáo.
2. Một ngươi chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm: Trong các sách Phúc Âm, chúng ta không nghe Thánh Giuse nói một lời nào, cũng không thấy Giuse được vinh dự gì nổi bật. Lời nói của Người là làm bổn phận, vinh dự của Người là chu toàn bổn phận, niềm vui của Người cũng là chu toàn bổn phận.
3. Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.
4. Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng một tháng.
Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh... Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm...
Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa. (Trích “Phúc”)
5. ”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)
6. Học xa…
Mỗi lần tôi về nhà, đám em tôi lại ùa ra tíu tít, mẹ thì hỏi dồn dập khiến tôi không kịp trả lời. Riêng ba chỉ lặng lẽ nhìn tôi, với ánh mắt ấm áp một nụ cười.
Cuộc đời ba là những tháng ngày âm thầm làm việc nuôi chúng tôi khôn lớn. Ba là bệ phóng vững chãi cho chúng tôi vào đời. Mỗi đứa con cứ thế lấn lượt đi lên từ bệ phóng ấy.
Lạy Thánh Giuse, ngày xưa Ngài đã sống một đời âm thầm cho Chúa Giêsu được lớn lên. Xin dạy con biết sống vì và sống cho người khác (Hosanna)
19.Lễ thánh Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Kinh thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Khi gọi Giuse là người công chính, và nhìn vào cuộc sống của Ngài, chúng ta có thể hiểu được nội dung của từ công chính ấy.
Theo nghĩa thông thường: từ “công chính” có nghĩa là “công bình”, nghĩa là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi, công chính là không dám nhận những gì không phải là của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria đã mang thai.
Theo lời giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria bất trung. Nhưng theo các nhà chú giải mới thì thánh Giuse định bỏ trốn, vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm Cha Đấng Cứu Thế. Chức vị làm Cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
Theo nghĩa đạo đức: trước sự kiện Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, mặc dù không hiểu và định tâm rút lui trong âm thầm, để thực hiện kế “đào vi thượng sách” khôn ngoan, nhưng một khi đã được mạc khải cho biết sứ mạng “Cha nuôi” của mình thì Giuse đã mau mắn rước mẹ con Đức Maria về nhà mình.
Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tinh tế, kính cẩn, nâng niu. Hãy nhìn cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa báo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.
Ngài là một gia trưởng: thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ coi sóc Đức Giêsu và Đức Maria, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong mọi hoàn cảnh trong lúc thuận tiện cũng như trong hoàn cảnh khó khăn.Theo pháp lý, thánh Giuse là Bạn trăm năm của Đức Maria, Ngài là chồng thực sự, mặc dầu không ăn ở với nhau. Ngài cũng phải là Cha của Đức Giêsu mặc dù chỉ là cha nuôi. Cả ba vị đã làm thành một gia đình thực thụ. Người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ), như vậy trong gia đình Nazareth thì đương nhiên thánh Giuse phải là gia trưởng, và Đức Maria và Đức Giêsu phải vâng lời Ngài với tư cách Ngài là gia trưởng.
Người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước bao giông tố của cuộc đời. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình.
Ngài là người cộng tác âm thầm trong công cuộc cứu thế, với vai trò thật mờ nhạt. Kinh Thánh chỉ nhắc đến Ngài với tư cách là một bác thợ mộc ở Nazareth và là cha của ông Giêsu, thế thôi, rồi Ngài rút vào bóng tối không ai biết đến nữa. Nhưng công dưỡng dục vào bảo vệ thánh gia, được thánh tiến sĩ Bênađô ghi nhận: “Thiên Chúa Cha chọn thánh Giuse không những để làm người an ủi Đức Maria khi gặp gian truân và để làm Cha nuôi Chúa Con mà còn để thánh nhân cộng tác vào công trình của Chúa Cứu Thế là công việc chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.
Ngài là đầy tớ trung thành: nếu ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa và nỗ lực của bản thân để đáp trả lời mời gọi, thì qua bài Tin mừng hôm nay, chiêm ngưỡng thánh Giuse trong dáng dấp “người công chính” cũng cho thấy Thánh Giuse là tôi tớ trung tín một đời, sẵn sàng vâng nghe tiếng gọi và mau mắn thi hành, như một đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10), sẵn sàng bỏ ý riêng làm theo ý Chúa để cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.
Ngài có thần thế trước toà Chúa: ngày xưa vua Pharaon nói với dân chúng: “Ite ad Joseph”: hãy đến cùng Giuse, tiên báo Giuse ngày nay: không phải chỉ ban phát gạo thóc mà là muôn ơn. Thánh Giuse có thần thế trước mặt Chúa. Cảm nghiệm điều đó, thánh nữ Têrêsa Avila đã nói: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý, ngài giúp chúng ta trong mọi trường hợp”.
20.Người tầm thường, đầy tin và mến--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse (cách riêng chúng ta cầu nguyện cho các đức Giám mục, các linh mục và tu sĩ cũng như anh em giáo dân nhận thánh Giuse làm Bổn mạng).
1. Đọc kỹ lại Tin mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về cái vẻ tầm thường bề ngoài của Ngài:
- Làm chủ một gia đình nghèo,
- Làm nghề thợ mộc để nuôi sống gia đình nhỏ bé của mình.
Xét về mặt xã hội lúc bấy giờ thì Giuse cũng như gia đình của ngài là những con người rất tầm thường trong xã hội Do thái.
Nhưng chính cái vẻ tầm thường đó mà chúng ta phải suy nghĩ và cảm động. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Người đã ban cho Giáo Hội một vị thánh cả tầm thường như thế. Và tôi nghĩ không sợ lầm rằng, ngoài những vị thánh lừng danh được Giáo Hội tuyên phong, thì trên thiên đàng còn có rất nhiều những vị thánh mà cuộc đời trần gian của các ngài bề ngoài cũng rất tầm thường như thế. Như vậy thì chúng ta thấy đâu phải những con người tầm thường là những con người không có hy vọng trong nước của Thiên Chúa.
Theo như những hình ảnh chúng ta có thể thấy được đó đây thì Thánh Giuse có bộ râu hình trái tim rất dễ thương, tay cầm cành huệ trắng và mặc áo nhiều màu. Có lẽ vì muốn kính trọng ngài cho nên các họa sĩ đã tô vẽ cho Ngài trở thành dễ thương như thế nhưng nếu chúng ta có dịp nhìn vào một người nông dân Palestine trên truyền hình thì chúng ta có thể thấy được một Giuse hoàn toàn khác: đầu vấn khăn, bộ râu xồm xoàm của người bình dân, tay cầm đục búa thay vì bông huệ trắng, với một bộ áo nông dân màu đất.
Kinh Thánh có nói Giuse thuộc Hoàng tộc David, nhưng là một hoàng tộc đã đến ngày tàn, còn bây giờ ngài chỉ là một anh thợ mộc tầm thường trong một xóm nghèo. Cũng như ngày nay chúng ta thỉnh thoảng gặp những cô "công tằng tôn nữ" .... cũng là dòng dõi vua chúa đấy nhưng là những "Công chúa" đi bán vé số hay đậu phộng rang trên vỉa hè.
Trong Tin mừng, chúng ta thấy Giuse không để lại một lời. Ngài sống với Chúa Giêsu và Đức Mẹ như hình với bóng. Giuse vào đời lúc nào không ai hay, chết lúc nào không ai biết. "Đức Maria đính hôn với một người tên là Giuse". Kinh Thánh nói về ngài như nói về một người nào đó, một người tầm thường.
Vâng những nét trên đây đã cho chúng ta thấy về một Giuse rất khiêm tốn, thầm lặng, sống chỉ để phục vụ; một con người gần với đại đa số những người bình dân tầm thường như chúng ta.
2. Tuy nhiên nếu đọc kỹ Kinh Thánh chúng ta có thể tìm ra được những nét rất nổi bật nơi con người tầm thường này. Có rất nhiều nhưng tôi chỉ xin nói đến hai nét đặc trưng này: Đó là đức tin và lòng mến của ngài.
Giuse có một đức tin mạnh mẽ lạ lùng, một đức tin tỉnh thức cả trong giấc mơ. Thiên thần chỉ nói với Giuse trong giấc mơ, nhưng ông thức dậy và thi hành ngay, không chút do dự.
Giuse cũng là người có một đức ái rất tế nhị. Sự thường theo luật Do thái, một cô gái có thai ngoài hôn phối thì sẽ bị ném đá chết. Nhưng Giuse chỉ định tâm bỏ Maria cách kín đáo, không một lời trách móc phàn nàn, hay đừng nói đến tố cáo. Đó là dấu chứng của một đức ái đầy kính trọng. Lòng mến của Giuse còn được thể hiện bằng một cuộc đời vất vả, cực nhọc, suốt đời vì vợ con.
Tuy là một người tầm thường, nhưng đời sống của thánh Giuse đã được tô điểm bằng hai nhân đức sáng chói là đức tin và lòng mến như thế.
3. Chúng ta có thể rút ra được bài học nào qua cuộc đời của vị thánh đặc biệt này? Có rất nhiều bài học nhưng ở đây tôi chỉ xin được nêu lên một vài bài học này
a- Bài học đầu tiên là đừng coi thường những cái tầm thường, những con người bề ngoài rất tầm thường. Kinh nghiệm mục vụ linh mục của tôi cho thấy, phần đông những người thánh thiện lại có một cuộc sống rất tầm thường trước mặt mọi người. Một Gioan XXIII mà Giáo Hội đã phong lên hiển thánh nay mai. Một Têrêsa Calcutta cũng sắp được Giáo Hội tôn phong lên như thế.
b- Bài học thứ hai là thánh Giuse là tấm gương cho mọi người cha gia đình cũng như cho mọi người chúng ta: nên thánh trong việc chu toàn bổn phận tầm thường của mình một cách anh hùng.
Một cô gái kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi:
- Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời:
- Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói:
- Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà chúng ta có thể làm hay không.
Chúa ban cho chúng ta, mỗi người những khả năng khác nhau, trước mắt loài người, những khả năng đó có thể bị kẻ khác coi là tầm thường, nhưng trước mặt Chúa thì không có khả năng nào hơn khả năng nào.
Một người dù đã làm hết sức nhưng vẫn không đạt đến những thành quả được người đời đánh giá cao, thì trước mặt Thiên Chúa người đó đáng được lãnh phần thưởng trọng hậu rồi.
Trước mắt Chúa tất cả chúng ta chỉ là những người quản lý. Nhiệm vụ của người quản lý là đem hết khả năng của mình ra để làm cho số vốn đã được cấp phát sinh lợi ra. Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta có thế.
21.Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Đọc kỹ lại Tin Mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về công việc của Chúa. Chúa làm những việc mà con người khó có thể đoán trước được.
+ Thường thì để làm một công việc gì, chúng ta thấy con người luôn phải ưu tiên nghĩ đến vấn đề nhân sự. Những tiêu chuẩn người ta đặt ra để tìm kiếm những con người cho phù hợp với những chức danh hay những địa vị cũng thật quan trọng. Trên báo chí ngày này, nhìn vào những bố cáo tuyển dụng nhân viên chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó.
Ở đây tôi xin đan cử một thí dụ:
Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần. Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ ”nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”
Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.
Những nhà lãnh đạo ngày nay cũng thường làm như vậy. Chọn những con người có trình độ, có năng lực có kinh nghiệm.
+ Khi khởi sự một công trình lớn lao vô tiền khoáng hậu: Công trình cứu chuộc cả loài người để loài người được thoát khỏi ách thống trị tội lỗi thì Thiên Chúa cũng đã không đi ra ngoài khuôn khổ đó. Chúa cũng phải chú trọng đến vấn đề nhân sự. Và những người quan trọng nhất Thiên Chúa đã chọn đó là ai thì anh chị em đã biết. Đó là Đức Maria và Thánh Cả Giuse.
Chúng ta tự hỏi Chúa đã dựa vào tiêu chuẩn nào để chọn thánh Giuse. Chúa không dựa vào những tiêu chuẩn mà con người thường dựa vào đó để tuyển chọn như trình độ, có khả năng, có kinh nghiệm nhưng Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ tiêu chuẩn Chúa muốn là tiêu chuẩn nào: Thánh Matthêô đã ghi ”Ông Giuse, chồng bà, là người công chính” (Mt 1,19).
Vâng, Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính nơi một người thợ mộc nghèo khó để chọn thánh Giuse để cộng tác với Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.
+ Nếu chúng ta có dịp nhìn lại toàn bộ Kinh Thánh thì chúng ta cũng thấy mỗi khi tuyển chọn ai thì Chúa cũng theo tiêu chuẩn ấy.
Đây là một ít thí dụ: Chúa đã chọn ông Dacaria và bà Elizabeth. Thánh Luca ghi: ”Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,5).
Với việc Chúa chọn Gioan Tẩy Giả, ta thấy thánh Marcô cho biết: ”Thật vậy, vua Hêrôđê biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe” (Mc 6,20).
Vâng đúng là Thiên Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính để chọn những công tác với Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.
II. BÀI HỌC
1. Chúa yêu thích sự công chính đạo đức. Tại sao thế? Chúng ta thừa biết một xã hội mà thiếu những con người đạo đức công chính thánh thiện thì xã hội ấy sẽ ra sao.
Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức” rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định ”Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức”.
Đây là lời của sách Khôn ngoan: ”Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.
2. Muốn được Thiên Chúa quí chuộng và ban ơn thì không có con đường nào khác hơn là con đường trở nên công chính đạo đức.
Sách Giáo Lý mới số 227 đã viết thật hay: Đối với những ai lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, Người hứa sẽ ban cho họ đủ mọi sự. Mọi sự đều là của Chúa: ai có được Thiên Chúa thì có mọi sự, miễn là Thiên Chúa có người ấy (T. Cyprien 21).
Thánh Augustinô nói: ”Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”… ”Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).
Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà Chúa muốn chúng ta làm hay không. Thánh Giuse đã làm như thế trong cả cuộc đời của Ngài. Và ngày nay Ngài đã được Chúa ân thưởng vinh quang trên nước trời.
22.Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
(2020.03.19-saigon.net)
Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse
(cách riêng chúng ta cầu nguyện cho các đức Giám mục, các linh mục và tu sĩ cũng như anh em giáo dân nhận thánh Giuse làm Bổn mạng).
1. Đọc kỹ lại Tin mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về cái vẻ tầm thường bề ngoài của Ngài:
- Làm chủ một gia đình nghèo,
- Làm nghề thợ mộc để nuôi sống gia đình nhỏ bé của mình.
Xét về mặt xã hội lúc bấy giờ thì Giuse cũng như gia đình của ngài là những con người rất tầm thường trong xã hội Do thái.
Nhưng chính cái vẻ tầm thường đó mà chúng ta phải suy nghĩ và cảm động. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Người đã ban cho Giáo Hội một vị thánh cả tầm thường như thế. Và tôi nghĩ không sợ lầm rằng, ngoài những vị thánh lừng danh được Giáo Hội tuyên phong, thì trên thiên đàng còn có rất nhiều những vị thánh mà cuộc đời trần gian của các ngài bề ngoài cũng rất tầm thường như thế. Như vậy thì chúng ta thấy đâu phải những con người tầm thường là những con người không có hy vọng trong nước của Thiên Chúa.
Theo như những hình ảnh chúng ta có thể thấy được đó đây thì Thánh Giuse có bộ râu hình trái tim rất dễ thương, tay cầm cành huệ trắng và mặc áo nhiều màu. Có lẽ vì muốn kính trọng ngài cho nên các họa sĩ đã tô vẽ cho Ngài trở thành dễ thương như thế nhưng nếu chúng ta có dịp nhìn vào một người nông dân Palestine trên truyền hình thì chúng ta có thể thấy được một Giuse hoàn toàn khác: đầu vấn khăn, bộ râu xồm xoàm của người bình dân, tay cầm đục búa thay vì bông huệ trắng, với một bộ áo nông dân màu đất.
Kinh Thánh có nói Giuse thuộc Hoàng tộc David, nhưng là một hoàng tộc đã đến ngày tàn, còn bây giờ ngài chỉ là một anh thợ mộc tầm thường trong một xóm nghèo. Cũng như ngày nay chúng ta thỉnh thoảng gặp những cô "công tằng tôn nữ".... cũng là dòng dõi vua chúa đấy nhưng là những "Công chúa" đi bán vé số hay đậu phộng rang trên vỉa hè.
Trong Tin mừng, chúng ta thấy Giuse không để lại một lời. Ngài sống với Chúa Giêsu và Đức Mẹ như hình với bóng. Giuse vào đời lúc nào không ai hay, chết lúc nào không ai biết. "Đức Maria đính hôn với một người tên là Giuse". Kinh Thánh nói về ngài như nói về một người nào đó, một người tầm thường.
Vâng những nét trên đây đã cho chúng ta thấy về một Giuse rất khiêm tốn, thầm lặng, sống chỉ để phục vụ; một con người gần với đại đa số những người bình dân tầm thường như chúng ta.
2. Tuy nhiên nếu đọc kỹ Kinh Thánh chúng ta có thể tìm ra được những nét rất nổi bật nơi con người tầm thường này. Có rất nhiều nhưng tôi chỉ xin nói đến hai nét đặc trưng này: Đó là đức tin và lòng mến của ngài.
Giuse có một đức tin mạnh mẽ lạ lùng, một đức tin tỉnh thức cả trong giấc mơ. Thiên thần chỉ nói với Giuse trong giấc mơ, nhưng ông thức dậy và thi hành ngay, không chút do dự.
Giuse cũng là người có một đức ái rất tế nhị. Sự thường theo luật Do thái, một cô gái có thai ngoài hôn phối thì sẽ bị ném đá chết. Nhưng Giuse chỉ định tâm bỏ Maria cách kín đáo, không một lời trách móc phàn nàn, hay đừng nói đến tố cáo. Đó là dấu chứng của một đức ái đầy kính trọng. Lòng mến của Giuse còn được thể hiện bằng một cuộc đời vất vả, cực nhọc, suốt đời vì vợ con.
Tuy là một người tầm thường, nhưng đời sống của thánh Giuse đã được tô điểm bằng hai nhân đức sáng chói là đức tin và lòng mến như thế.
3. Chúng ta có thể rút ra được bài học nào qua cuộc đời của vị thánh đặc biệt này? Có rất nhiều bài học nhưng ở đây tôi chỉ xin được nêu lên một vài bài học này
a- Bài học đầu tiên là đừng coi thường những cái tầm thường, những con người bề ngoài rất tầm thường. Kinh nghiệm mục vụ linh mục của tôi cho thấy, phần đông những người thánh thiện lại có một cuộc sống rất tầm thường trước mặt mọi người. Một Gioan XXIII mà Giáo Hội đã phong lên hiển thánh nay mai. Một Têrêsa Calcutta cũng sắp được Giáo Hội tôn phong lên như thế.
b- Bài học thứ hai là thánh Giuse là tấm gương cho mọi người cha gia đình cũng như cho mọi người chúng ta: nên thánh trong việc chu toàn bổn phận tầm thường của mình một cách anh hùng.
Một cô gái kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi:
- Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời:
- Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói:
- Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà chúng ta có thể làm hay không.
Chúa ban cho chúng ta, mỗi người những khả năng khác nhau, trước mắt loài người, những khả năng đó có thể bị kẻ khác coi là tầm thường, nhưng trước mặt Chúa thì không có khả năng nào hơn khả năng nào.
Một người dù đã làm hết sức nhưng vẫn không đạt đến những thành quả được người đời đánh giá cao, thì trước mặt Thiên Chúa người đó đáng được lãnh phần thưởng trọng hậu rồi.
Trước mắt Chúa tất cả chúng ta chỉ là những người quản lý.
Nhiệm vụ của người quản lý là đem hết khả năng của mình ra để làm cho số vốn đã được cấp phát sinh lợi ra. ------- Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta có thế.
23.Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Maria--tgpsaigon.net
Chỉ có Phúc Âm Mátthêu và Luca mới nói về thánh Giuse. Theo hai thánh sử, Giuse thuộc chi tộc Đavít: người được xem như dây liên hệ giữa dòng dõi Đavít với Đấng Mêsia.
Những chặng đường đời của thánh Giuse cũng được thấy rõ: thánh nhân là con người của niềm tin và phó thác, một người được chia sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Thánh nhân là người sống thinh lặng, được Thiên Chúa chọn làm Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Người cũng được trao phó việc chăm sóc con Thiên Chúa, như một người cha.
Thánh nhân sống bao lâu, chúng ta không rõ. Lần cuối cùng chúng ta thấy người xuất hiện tại Giêrusalem là khi trẻ Giêsu lên 12 tuổi.
Giáo Hội Phương Tây chính thức tôn kính thánh Giuse vào thế kỷ XIV, XV. Thánh lễ hôm nay chỉ gặp được trong phụng vụ Rôma vào năm 1621. Đức Thánh Cha Piô XI công bố: Thánh Giuse là quan thầy của Hội Thánh.
Xin Chúa vì công nghiệp và lời cầu bầu của thánh Giuse, ban cho chúng con ơn khiêm nhường và lòng tin tưởng vào tình thương và quyền năng Chúa trong cuộc đời của mỗi người chúng con.
Suy niệm 1: ĐỨC VÂNG PHỤC CỦA THÁNH CẢ GIUSE
Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa truyền dạy. (Mt 1,24a)
Suy niệm: Thánh Giuse không được các thánh sử cho “phát biểu” một câu nào trong cả bốn Tin Mừng, chỉ thấy Ngài làm theo những gì được truyền: nào là bỏ ý định toan tính trốn; nào là dắt Đức Maria và Hài Nhi Giêsu đi “tị nạn” bên Ai-cập… nhất nhất cái gì cũng làm theo lời chỉ dạy của Thiên Chúa. Sự vâng phục của thánh Giuse không phải là thứ vâng lời tối mặt, mù quáng. Để thực hiện sứ mạng, ngài không được Chúa ban cho sự can thiệp đặc biệt nào ngoài những lời báo tin của thiên thần. Thế nên phải thật khôn ngoan mưu lược, thánh Giuse mới hoàn thành sứ mạng đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài thoát khỏi vòng vây trùng điệp của binh lính Hêrôđê để sang tới Ai Cập. Sự khôn ngoan của thánh Giuse càng thể hiện rõ khi hồi hương từ Ai Cập, ngài đã đưa thánh gia về Nadarét thay vì Bêlem. Thánh Giuse vâng phục thánh ý Chúa cách tuyệt đối, không máy móc mà đầy khôn ngoan và sáng tạo.
Mời Bạn: Thánh Giuse được Thiên Chúa tuyển chọn làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng cũng vẫn phải trải qua những long đong của cuộc sống thường nhật. Ngài không “nói” lời nào nhưng luôn lắng nghe và vâng phục thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa.
Sống Lời Chúa: Bạn đọc lại câu Phúc Âm trên đây cách chậm rãi và suy niệm về việc vâng phục ý Chúa từ những kinh nghiệm sống của mình.
Cầu nguyện: Lạy thánh Giuse, Ngài đã lang nghe và thực hành lời Chúa trong sự khiêm nhường tột bậc. Xin giúp chúng con cũng biết lắng nghe và vâng phục ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống hằng ngày. Amen.
Suy niệm 2: THÁNH GIUSE NGƯỜI GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH
Để đảm bảo hạnh phúc gia đình, hơn lúc nào hết các đôi vợ chồng ngày hôm nay cần phải ý thức và can đảm sống nhân đức trung thành theo mẫu gương của Thánh Giuse.
1. Thánh Giuse trung thành bảo trợ gia đình
Sau khi nhận được thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để bảo trợ Thánh gia.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử.
Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê. Để bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu, thánh Giuse phải vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Ngoài việc bảo vệ sự sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ cho Đức Maria và Hài Nhi Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vả tại xưởng mộc bé nhỏ tại làng Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để nuôi sống gia đình.
Cuộc đời thánh Giuse quả không phải sung sướng, an nhàn, trái lại ngài phải trãi qua trăm chiều thử thách và đau khổ. Ý Chúa quan phòng để ngài nêu gương cho ta khi gặp gian lao, thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để bảo vệ sự sống, mạng sống và tạo điều kiện cho gia đình mình được sống an bình.
Là người cha phải hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi tay kẻ dữ, khỏi bầu khí hận thù và bất công. Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.
Hằng ngày có biết bao hài nhi bị hủy diệt trong bào thai. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến không ít những hài nhi vừa cất tiếng khóc chào đời lại bị chính cha mẹ chúng bỏ rơi, thật đau lòng!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là chúng ta phải biết tỉnh thức để nghe tiếng Chúa nói trong lương tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ, ngài vẫn thức tỉnh nhận ra tiếng Chúa nói trong giấc mộng.
2. Thánh Giuse trung thành trong nhiệm vụ giáo dục con cái
Tin mừng thánh Luca đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu: “Hài nhi lớn lên càng mạnh khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và người ta” (Lc 2,40-52). Chỉ một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn tả hầu như trọn vẹn cách thế giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con mình. Các ngài đã để ý và giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí dục, đức dục …
- Thể dục: Trẻ Giêsu càng lớn lên càng mạnh mẻ, đầy sức lực nhờ vào lao động nơi xưởng mộc Nazarét mà thánh Giuse đã dày công tạo dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã đi bộ suốt bốn năm ngày đàng lên Giêrusalem dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh nói trẻ Giêsu mệt mỏi. Sau này giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc, thành phố và cả những vùng lân cận nữa.
- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn khi mới 12 tuổi, cậu bé Giêsu của làng Nazarét quê mùa, vô danh, ở tít vùng sâu, vùng xa đã đàng hoàng vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem, ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp khôn ngoan của cậu. Nếu gia đình Thánh Giuse không quan tâm đến việc hướng dẫn con mình học hỏi và trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự hiểu biết như thế?
Mỗi ngày Sabát là dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật Chúa. Như trở thành thói quen mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa Giêsu thường xuyên vào Hội Đường đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ nhờ việc quan tâm đến giáo dục tri thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc lòng các khoản Luật và Lời Chúa.
- Đức dục: Ngoài đức công chính gắn liền với tên tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn nhận thấy một nhân đức khác nổi bậc nơi ngài nữa đó là đức vâng lời. Vâng lời thánh ý Thiên Chúa, ngài đã bỏ ý riêng mình để đón nhận Đức Maria về nhà mình. Vâng lời Thiên Chúa, ngài đã mau mắn đem Đức Maria và Hài Nhi trốn sang Aicập.
Chính nhờ ảnh hưởng của một nền đạo đức như vậy mà Đức Giêsu trở nên người con hằng “đẹp lòng Chúa Cha”. Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai chữ “xin vâng” theo thánh ý Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:
Vâng lời Chúa Cha từ trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên người phàm, từ Đấng Thánh Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang lại trở nên nghèo khó…; và Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế nên Người hằng xác quyết: “lương thực của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Ngoài việc vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn vâng lời thánh Giuse và Đức Maria: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Vậy những bậc cha mẹ cũng hãy noi gương thánh Giuse, quan tâm giáo dục con mình phát triển toàn diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con chúng ta trở nên tốt.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta cũng đang sống trong tâm tình của mùa chay thánh. Nếu mùa chay Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về, thì trước hết, chúng ta hãy bắt đầu trở về với chính mình, với những bổn phận của người chồng-vợ, người cha-mẹ, người gia trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương thánh Giuse trung thành trong vai trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách nhiệm làm cha-mẹ và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình trở thành người và thành người con Chúa.
Vì sự sống và hạnh phúc gia đình, xin cho các gia trưởng-hiền mẫu quyết sống với HAI CHỮ TRUNG THÀNH theo gương thánh Giuse Bổn mạng gia trưởng. Amen.
Suy niệm 3: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG CỦA THINH LẶNG
Dẫn nhập
Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận ra con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù hợp với ý Chúa hơn.
Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm, thinh lặng.
Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu quý đời sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh lặng”.
Chia sẻ
Có truyện kể về 3 pho tượng: Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau. Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.
Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.
Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do. Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng.
Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.
Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình”.
Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không nên giao chiến”.
Trong các sách Tin Mừng dù có nhắc tên Thánh Giuse đôi lần, nhưng không hề thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse. Có lẽ không phải vì vô tình mà Thánh Kinh không ghi nhận một lời nào của Thánh Giuse, nhưng muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng.
Thinh lặng giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp.
…Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu…”
Trong bài thơ “Đà Lạt Trăng Mờ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử kêu mời ta hãy lắng đọng tâm hồn trong cỏi riêng tư để cảm nhận sâu xa vẻ đẹp thiên nhiên mà Thượng Đế yêu thương ban tặng cho. Chỉ có thinh lặng, ta mới chìm sâu vào tận đáy lòng mình để nhận ra đáy nước hồ reo, nghe thấy nhịp rung của liễu tơ và nhận ra tình yêu của đất trời.
Chính đời sống thinh lặng, Thánh Giuse mới có khả năng nhìn thấu được phía bên kia của những biến động làm xáo trộn cuộc sống của ngài. Chính trong thinh lặng ngài mới thấu suốt và tin tưởng vào những vẽ đẹp của ơn Chúa ban trước những biến cố đầy sóng gió xảy đến cho gia đình mình.
Thinh lặng là chọn cho mình lối sống khôn ngoan
Người đời thường nói: “Lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Thinh lặng hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng, là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc. Như thế thinh lặng được ví như một chuẩn mực của đạo đức, một tiêu chí của khôn ngoan thông thái.
Ông bà ta vẫn nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” (Người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như mình, người biết thì lại không nói vì nghĩ rằng mọi người đều biết”.).
Trong thinh lặng đầy khôn ngoan, Thánh Giuse đã âm thầm bảo vệ che chở Đức Maria và nuôi dưỡng Hài Nhi Giêsu trong bầu khí ấm êm của một gia đình hợp pháp. Cho nên Heidegger mới khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ hoà quyện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới.
Thinh lặng giúp ta nhận ra giới hạn của mình
Thinh lặng để thấu đạt được cái vô thường, cái bất biến, cái trường cửu của đất trời. Thinh lặng để thấu triệt được nội quan cũng như ngoại giới. Thinh lặng đễ thấy ta là nhỏ bé, là mong manh, là hạn hữu trong mênh mông, bao la, vô hạn giới của đất trời, của vũ trụ thường hằng và vô biên. Thinh lặng để chuyển tải nhiều hơn, thinh lặng để nói nhiều hơn, để nghe nhiều hơn, để thấu đạt nhiều hơn, có lẽ cũng đáng giá lắm thay sự thinh lặng ấy!
Trong chính sự thinh lặng của đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Vì thế ngài được gọi là “người công chính”: làm theo ý Chúa.
Giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, ta phải chọn lựa như thế nào? Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, ta biết đâu là đúng, đâu là sai? Có lẽ ta hãy học thinh lặng như thánh Giuse, để lắng đọng tâm hồn, bình tĩnh lắng nghe tiếng Chúa nói. Khi nghe được tiếng Chúa, ta phải cương quyết chọn lấy cho mình con đường. Đó là sống cho nền văn minh tình thương và văn hoá của sự sống theo gương Thánh Giuse. (trích từ trang Lamhong.org)
24.Thánh Giuse, người thinh lặng và hành động-- Lm. Giuse Nguyễn văn Thú
Khi tìm học ở thánh Giuse, Đức Bênêđictô khám phá một gương sống cần thiết nơi thánh Giuse giúp cho tín hữu trong thời đại này, đó là đời sống thinh lặng của thánh nhân: “Hãy để chúng ta “nhiễm” lây sự thinh lặng của thánh Giuse! Chúng ta cần rất cần nhân đức ấy trong một thế giới quá ồn ào xao động hôm nay, một thế giới không thân thiện với việc suy niệm và lắng nghe tiếng Chúa.” Thánh Giuse còn là người hành động trong thinh lặng.
Thánh Giuse, người thinh lặng
Chúng ta không biết nhiều về thánh Giuse. Chỉ biết, thân phụ thánh Giuse tên là Gia-cóp, Giuse là chồng của cô Maria và là người công chính, làm nghề thợ mộc ở Nazarét. Chỉ biết, sau khi biết Maria mang thai, thánh Giuse hoang mang không biết điều gì xảy ra, nên định tâm rời bỏ Maria cách kín đáo. Chỉ biết, thánh Giuse giữ luật đạo khi đưa Chúa Giê-su lên Đền Thờ Giêrusalem, giữ luật xã hội khi về miền Giu-đa khai sổ bộ và một số nhỏ chi tiết khác. Điều lạ lùng, không nơi nào trong các sách Tin Mừng ghi lại dù chỉ một lời của thánh Giuse. Theo Đức Phanxicô, điều này không có nghĩa thánh Giuse bị câm hay sống lầm lì, nhưng đó là dấu chứng một đời sống nội tâm sâu xa, một sự thinh lặng lắng nghe tiếng Chúa.
Thinh lặng là không gian đón rước Chúa bước vào đời sống của thánh Giuse. Thánh Augustinô quả quyết: khi Ngôi Lời, nghĩa là Thiên Chúa làm người ở với chúng ta, thì những lời khác nhỏ lại, bởi Chúa Cha đã nói lời trọn vẹn trong chính Con của Ngài, Ngôi Lời. Đó là lý do Thiên Chúa giáng sinh làm người trong sự thẳm lặng giữa thế giới. Ba mươi năm đầu, cuộc đời của Ngài cũng diễn ra trong thầm lặng. Ba năm hoạt động là thời gian đi đây đó rao giảng, gặp gỡ nhiều người, cũng là thời gian Ngài tỏ dấu sự thinh lặng, đặc biệt trong cuộc khổ nạn của Chúa như lời ngôn sứ Isaia báo trước: “Như con chiên bị đem đi làm thịt, như con cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Cho đến hôm nay, Ngôi lời làm người vẫn thinh lặng trong bí tích Thánh Thể, bởi sự hiện diện của Ngài đủ thay cho mọi lời nói. Thánh Giuse đã cảm nghiệm sâu xa sự hiện diện thinh lặng của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, nên đã mê mẩn trong thinh lặng chiêm ngưỡng những mầu nhiệm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Sống trong thinh lặng minh chứng đời sống nội tâm trưởng thành của thánh Giuse. Trong thinh lặng, thánh Giuse nghe được tiếng Chúa nói, hiểu được điều Chúa muốn cho cuộc đời mình. Trong thinh lặng, thánh Giuse trở thành người cầu nguyện, không bị cuốn hút bởi những xôn xao bên ngoài, bởi thánh Giuse biết Chúa đang ở trong ngôi nhà của mình.
Thánh Giuse, người hành động
Tuy nhiên, sự thinh lặng của thánh Giuse không phải là sự thinh lặng của một người hèn nhát, lười biếng. Thánh nhân nói qua hành động của ngài. Thánh Giuse không cần nhiều lời để diễn tả niềm tin vào Thiên Chúa và tình yêu đối với Mẹ Maria và Chúa Giê-su. Thánh nhân không cần nhiều lời để mô tả sự xông xáo của ngài khi đối mặt với những gian nan của gia đình Nazarét. Ngài nói bằng hành động. Đức tin và tình yêu của thánh Giuse được chuyển dịch sang hành động, vì đối với thánh Giuse, hành động của ngài cất tiếng mạnh hơn bất cứ lời nào ngài nói. Vì thế, chúng ta chỉ biết hành động của thánh Giuse.
Khi nghe sứ thần bảo, thánh Giuse vội vã đón Maria đang cưu mang Con Thiên Chúa về nhà mình. Thánh Giuse đảm đương việc đưa Mẹ Maria đi đoạn đường xa về Giêrusalem khai sổ bộ và sinh con. Thánh Giuse cũng nhanh chóng đưa Mẹ Maria và Hài Nhi sang Ai-cập lánh nạn. Thánh Giuse làm lụng nuôi sống gia đình và lo liệu đưa gia đình lên Đền Thờ thờ phượng Thiên Chúa. Cuộc đời của Chúa Giê-su đầy dấu ấn công sức của thánh Giuse, từ gương sáng, việc làm cho đến bảo vệ và giáo dục. Ngài là con người hành động: khi nghe lời Chúa, chỗi dậy và làm theo.
Trong ngày trọng kính thánh Giuse, chúng ta xin thánh Giuse giúp chúng ta biết sống thinh lặng trong hành động giữa thế giới xôn xao này. Trong thinh lặng, chúng ta nghe được lời Chúa và trưởng thành trong đời sống nội tâm. Trong hành động, chúng ta diễn tả điều mà sự thinh lặng muốn nói về đức tin vào Chúa và tình yêu đối với Hội Thánh và anh chị em mình.
Nhưng cũng xin Chúa ban cho chúng ta phục hồi đời sống chiêm niệm nơi mỗi người, vì giữa xã hội này, chúng ta sợ thinh lặng, muốn nói, nói và nói nhanh, muốn ồn ào nghe truyền hình, các hình thức giải trí, vì sợ thinh lặng và không hiểu giá trị của sự thinh lặng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con noi gương thánh Giuse, thinh lặng chiêm niệm và hành động trong đức tin và lòng mến đối với Chúa và tha nhân.
25.Người thợ vô danh--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh hoàn vũ, chúng ta long trọng cử hành lễ Thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, Cha nuôi Chúa Cứu thế, và được mệnh danh là ‘Người Công Chính” hay là “Vị quản lý trung tín và không ngoan mà Chúa đã cắt đặt để trông coi Nhà Chúa” (CNL).
Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…
Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse 19. 3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền giáo: vào chính ngày nầy, 19. 3. 1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.
1. Giuse, Người công chính
Để tôn vinh và xác nhận địa vị cao cả của Thánh Giuse trong chương trình cứu rỗi, Thánh thi của Giờ Kinh Phụng vụ kinh sáng của ngày lễ hôm nay đã hát lên:
Đây Chúa tể càn khôn đây Thượng Đế,
Một dấu tay là địa ngục hải hùng,
Cả thiên đình đều phụng mệnh khiêm cung
Mà không quản vâng ý ngài trọn vẹn.
Trong khi đó thánh Bê-na-di-nô thành Siê-na trong bài đọc của giờ phụng vụ Kinh Sách đã lý giải vai trò cao cả của Thánh Giuse như sau: “Nếu bạn muốn nói đến vị thế của Thánh Giuse trong Hội Thánh Đức Kitô, thì không phải thế nầy sao: Thánh nhân chính là con người được tuyển chọn, con người đặc biệt. Nhờ có thánh nhân đứng bảo lãnh mà Đức Kitô đã vào trần gian một cách hợp pháp và đàng hoàng? Vậy nếu toàn thể Hội Thánh mắc nợ Đức Mẹ đồng trinh, vì nhờ Mẹ mà Hội Thánh được đón nhận Đức Kitô, thì sau Đức Mẹ, Thánh Giuse phải được Hội Thánh biết ơn và tôn sùng hơn hết”.
Nhưng, còn điều gì khác nữa khiến Thánh Giuse được tôn vinh, trọng vọng như thế?
- Có phải vì thánh Cả xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc như các thánh sử Matthêô và Luca trình bày: Ông là “Con cháu Vua Đa-vít” (Mt 1,23), thuộc “hoàng tộc Đa-vít” (Mt 1,27), thuộc “dòng dõi vua Đa-vít” (Lc 2,4). Có phải vì ý nghĩa đó, mà Bài đọc 1 trong Phụng vụ Lời Chúa của thánh lễ hôm nay đã chọn trích đoạn sách thứ 2 Samuel để nhắc lại lời giao ước của Thiên Chúa dành cho Đa-vít là sẽ “thiết lập cho Đa-vít một nhà chính là dòng dõi kế vị để vương quyền bền vững thiên thu”. Tin Mừng Matthêô đã xác nhận cái mắc xích liên tục trong cái chuỗi huyết tộc vương giả mà Giuse được dự phần: “Ông Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16).
Nhưng trong lịch sử loài người có cơ man những người danh gia vọng tộc như thế nhưng nào có được tôn vinh!
- Hay vì thánh Giuse đã để lại những công trình vĩ đại, những tác phẩm danh tiếng, những lời vàng ngọc làm thước đo về luân thường đạo lý cho cuộc sống của nhân sinh? Điều nầy thì hoàn toàn không. Phúc âm không để lại một lời phát ngôn nào của “người thợ mộc Na-da-rét” nầy và cũng chẳng ghi lại một tác phẩm nào, một công trình nghệ thuật, tâm linh nào của Ngài. Cả đến “Người con” mà người có công chăm sóc, nuôi dạy, bảo bọc ngay từ lúc mới sinh thì lại là “con nuôi”, “con theo giấy tờ”, chứ hoàn toàn không phải là “giọt máu” của Ngài. Cũng chính sự kiện nầy mà ngay từ buổi bào thai Giêsu còn trong bụng mẹ, thánh Giuse đã một phen bối rối, băn khoăn đến độ, nếu không có thiên thần hiện ra báo mộng mặc khải, chắc thánh Giuse đã khăn áo lên đường bôn tẩu cao bay xa chạy để khỏi gây nên vụ án thảm khốc cho người yêu Maria trong trắng dịu dàng.
Như vậy thì điều gì khiến thánh Giuse được ca tụng, cao rao và đặt trên bệ thờ với muôn ngưỡng vọng kính tôn của Dân Chúa muôn nơi muôn thuở.
Thưa, chỉ cần một nhân đức thôi: Giuse người công chính. (Mt 1,19)
Để hiểu khái quát về nội dung của từ Công chính theo nghĩa Thánh kinh, chúng ta hãy theo chân học giả Phạm Đình Khiêm để nghe ông chia sẻ trong tác phẩm “Thánh Giuse trong Dân Chúa”:
“Ông Giuse là người công chính” (Mt 1,19). Đó là lời giới thiệu cao quí nhất mà Phúc âm Chúa Giêsu dành cho thánh Cả Giuse ngay ở trang đầu. Nếu diễn ngữ “Đầy thánh sủng” là lời thiên sứ chào mừng Đức Trinh nữ như biểu dương trọn vẹn nhân phẩm Đức Mẹ thế nào thì diễn ngữ “Người công chính” cũng tóm gọn phẩm giá và nhân đức Thánh Giuse như vậy.
Trong cựu ước, công chính là đức tính của người tuân giữ trọn vẹn lề luật, công bình với mọi người, và theo một nghĩa rộng hơn, đó là sự thánh thiện của bản thân hay ít nhất là một nếp sống nhân đức đã thành lề thói. Công chính là trái ngược với tội lỗi. (X. St 18,23), và người công chính là người sống theo lẽ phải, chỉ làm điều thiện, không bao giờ làm điều ác, điều tội lỗi (X. Ez 18,5). Tóm lại, người công chính là người có đủ mọi nhân đức, và đức công chính là nhân đức toàn thiện, toàn hảo, như thánh Gioan Kim Khẩu, tiến sĩ HộiThánh, đã nhận định.
Thông thường nhất, người công chính được khen ngợi bằng sự tuân thủ lề luật và các giới răn Thiên Chúa, như Phúc âm Luca viết về hai ông bà Giacaria và Êligiabét: “Cả hai đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, đi theo đường lối Người truyền dạy, không ai chê trách được điều gì (Lc 1,6). Những người biệt phái và người thông giáo thời đó cũng tự cho mình là người công chính vì chăm chỉ giữ lề luật, nhưng đó là thứ công chính che dấu một lương tâm suy đồi, khiến họ chỉ biết giữ hình thức lề luật mà khinh khi, vi phạm cả công bình và bác ái.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã lên án lối giữ lề luật như vậy và Chúa đã đòi hỏi nơi các môn đệ một đức công chính mới trổi vượt hơn nhiều (x. Mt 5,20,tt), sự công chính của Nước Trời: khiêm nhường, thành thật, không giả hình, bác ái, không phô trương, đạo đức nội tâm, lương tâm trong sáng, siêu thoát của cải, cậy tin Đấng quan phòng, làm cho người khác tất cả những gì mình muốn người khác làm cho mình v. v. . . (x. Mt chương 6). Tóm lại, đó là đức toàn thiện của Kitô giáo vậy.
Diễn ngữ “người công chính” mang ý nghĩa trọn vẹn nhất trong câu nói của viên đại đội trưởng quân binh La Mã, khi chứng kiến thái độ phi thường và nghe những lời bất tử của Chúa Giêsu trên thập giá, lại thấy những hiện tượng vũ trụ kinh hoàng xảy ra lúc Chúa trút hơi thở cuối cùng. Ông ta cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa và nói: “Chắc hẳn ông đây là người công chính” (Lc 23,47). Người công chính ở đây không phải chỉ là người vô tội như Philatô tuyên xưng (Lc 23,22) mà phải là bậc Toàn thiện, là Đấng chí thánh, hơn nữa, là chính “ConThiên Chúa” theo bản văn của Matthêô: Mt 27,54) và của Mát-cô (Mc 15,39).
2. Giuse, Người Quản lý mầu nhiệm Thiên Chúa
Và cũng từ nhân đức “công chính” đó, Thánh Giuse xứng đáng được Thiên Chúa ký thác để giữ gìn mầu nhiệm thiên Chúa theo quảng diễn của tông huấn “REDEMPTORIS CUSTOS” (Đấng Hộ thủ Chúa Cứu Thế) của Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II. Chúng ta cùng dừng lại suy niệm đôi điều về nội dung nầy của tông huấn:
Đức Thánh Cha, trong khi nêu bật đức tin của Thánh Giuse đối chiếu với đức tin của Đức Maria, Ngài đã làm rõ sứ mệnh “quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” của Thánh cả:
“Bằng một cách đặc thù và phi thường, Thánh Giuse đã trở thành Người được ký thác mầu nhiệm “giấu kín từ muôn thuở trong Thiên Chúa” (Ep 3,9)…. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi phục vụ bản thân Chúa Giêsu và sứ mệnh của Chúa bằng cách thực hành quyền làm Cha của mình: Chính bằng cách ấy mà, khi thời gian đến hồi viên mãn, Người được cọng tác vào mầu nhiệm vĩ đại của công trình cứu chuộc, và Người đích thực là vị “Thừa quản ơn cứu độ”…Đức Maria là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa, đã được chuẩn bị từ muôn thuở cho sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa; còn thánh Giuse là người mà Thiên Chúa đã chọn làm “phối trí viên sắp đặt mọi sự cho Chúa ra đời, người có trách vụ lo liệu, chu cấp mọi sự cho Con Thiên Chúa bước vào trần gian “trong trật tự”, nghĩa là tôn trọng mọi ý định của Thiên Chúa và lề luật của loài người. Trọn vẹn đời sống “riêng tư” hay “ẩn dật” của Chúa Giêsu được giao phó cho Thánh Giuse trông coi” (Số 8).
Ý nghĩa nầy cũng đã toát lên nơi lời cầu nguyện của Hội Thánh qua lời kinh tổng nguyện của ngày lễ kính Thánh Giuse hôm nay: "Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giêsu, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu".
Và chúng ta cũng biết rằng: Giáo Hội không bao giờ là một thực tại trừu tượng, một cơ cấu rỗng tuếch. Giáo Hội đó chính là tôi, là anh, là chị. Giáo Hội là mỗi người kitô hữu chúng ta. Vì thế, “cầu xin cho Giáo Hội biết luôn luôn cọng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu” là cầu xin cho chúng ta biết từng ngày lắng nghe tiếng Chúa âm vang trong cuộc sống và can đảm, khiêm nhu cúi dầu thực hiện trong thái độ phó thác tin yêu.
Trong ý nghĩa và tâm tình đó, chúng ta có thể mượn lời Thánh Thi giờ kinh Phụng vụ lễ Thánh Giuse Thợ 1/5 để cầu nguyện với Thánh Giuse:
Hỡi người thợ vô danh
Của xưởng mộc nghèo khó,
Xin ban no lành
Cho người lao công khắp cùng xứ sở.
Chúng con càn gương ngài
Để thấy kho tàng trong giọt mồ hôi,
Thấy nụ cười trong từng dòng nước mắt,
Thấy Nước Trời trong lòng đất mẹ cằn khô
Thấy sáng tạo, đi lên, tình người,
Yêu thương và hiệp nhất.
Thấy lớn lao trong từng nhỏ nhặt,
Thấy vinh quang trong khổ nhục, ngài ới.
Hỡi người thợ vô danh
Của xưởng mộc nghèo khó,
Xin cho những người đang xây dựng thé giới nầy
Thấy Ngài phục sinh,
Thấy Ngài phục sinh trong bàn tay của họ…
26.Thánh Giuse là mẫu gương chu toàn thánh ý Chúa--Lm. G. Võ Tá Hoàng
Thánh Giuse đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi, gạt bỏ những sợ hãi để đón lấy ơn gọi của mình.
Thánh Giuse luôn là mẫu gương hoàn hảo cho chúng ta trong việc tuân theo thánh ý Chúa trong cuộc đời mình. Bất chấp những nỗi sợ hãi và lo lắng của riêng mình, ngài đã gạt chúng sang một bên để đáp lại những thúc giục của Chúa.
Thánh Giuse có thể từ bỏ Đức Mẹ để tiếp tục cuộc sống của mình, nhưng khi sứ thần đến để chuyển thông sứ điệp của Thiên Chúa, Thánh Giuse lập tức thay đổi hướng đi.
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1, 24-25).
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã suy tư về cuộc đời của Thánh Giuse trong buổi đọc Kinh Truyền Tin năm 2006, nhắc lại lòng trung thành của Thánh Giuse với Thiên Chúa là một mẫu gương hoàn hảo cho chúng ta.
“Từ tấm gương của thánh Giuse, tất cả chúng ta được mời gọi hãy thi hành trọng trách mà Chúa Quan Phòng đã uỷ thác, một cách tận tụy, đơn giản và khiêm tốn. Trước hết, tôi nghĩ đến các bậc cha mẹ trong gia đình, và tôi cầu xin cho họ biết quý trọng vẻ đẹp của một cuộc sống đơn giản và cần cù, phát triển tình nghĩa phu thê và vui vẻ thi hành sứ mạng giáo dục con cái, một sứ mạng cao quý và nhiều khó khăn”.
Thánh Giuse đã đáp lại tiếng Chúa gọi bằng tấm lòng quảng đại, sẵn sàng gác lại những toan tính để theo đuổi những dự định của Chúa.
Tấm gương của ngài nhắc nhở chúng ta về nhiệm vụ của mình là trung thành với ơn gọi mà Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta, không để nỗi sợ hãi lấn át chúng ta, nhưng tin tưởng vào kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa.
27.Thánh Giuse, Nhạy Bén Và Kiên Quyết--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong nghi thức làm phép ảnh tượng các thánh, thừa tác viên Giáo Hội cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không chê bác việc tạc vẽ tượng ảnh các thánh, để mỗi lần con mắt thể xác chiêm ngưỡng ảnh tượng đó, chúng con cũng dùng con mắt ký ức để suy niệm các hành vi và đời sống thánh thiện của các Ngài mà bắt chước. Chúng con nài xin Chúa làm phép + và thánh hóa tượng ảnh này để tôn kính và tưởng niệm đến… Xin Chúa đoái thương, để ai siêng năng tôn kính… trước tượng ảnh này, thì nhờ công nghiệp và sự che chở của Người, được Chúa ban ơn thánh ở đời này và vinh hiển ở đời sau. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con”.
Người Kitô hữu tôn kính các thánh qua các ảnh tượng. Con mắt thể xác chiêm ngưỡng vị thánh thì con mắt ký ức suy niệm hành vi và đời sống thánh thiện của ngài để noi gương bắt chước.
Bước vào tháng kính Thánh Giuse, chiêm ngắm và học nơi Ngài hai nhân đức cần thiết cho đời sống đức tin.
Nhạy bén
Đọc Phúc Âm, ta thấy Thánh Giuse có tâm hồn mở ra với tiếng gọi của Thiên Chúa và rất nhạy bén trước ý định của Người. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ biết là ý Thiên Chúa, Thánh Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành.
-Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người Hôn Thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nỗi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24).
– Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Ai cập sống kiếp lưu đày. Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai cập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14).
– Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng. Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi. Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21).
Trước Thánh ý Thiên Chúa, Giuse nhạy bén lắng nghe và vâng phục chu toàn. Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).
Để nhạy bén với tiếng gọi của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, Ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi Ngài. Thánh Giuse hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, Ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình.
Kiên quyết.
Phúc Âm nói rất ít về thánh Giuse. Nhưng có một điều chắc chắn đã giúp Ngài chu toàn bổn phận bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Điều đó là đức tính kiên định.
Nhạy bén tình hình thực tế nên thấy mối đe dọa cho Hài Nhi, Ngài mau mắn lên đường lánh nạn. Đường xa vạn dặm từ Do thái sang Ai cập mà vợ yếu con thơ, núi đồi hiểm trở, cướp bóc rình rập, nhưng Thánh Giuse luôn kiên quyết đã quyết định là làm cho đến cùng để bảo vệ gia đình.
Đọc Phúc Âm ta thấy rõ đức tính ấy. Từ khi đưa Đức Maria đang mang thai về quê hương Bêlem để khai sổ kiểm tra cho đến khi định cư tại Nazareth, Thánh Giuse luôn kiên quyết bảo vệ gìn giữ gia đình. Về quê quán, đường xa xôi cách trở. Khi đến nơi “Maria đã đến ngày sinh nở”, và phải sinh con “nơi hang đá bò lừa” vì “hai ông bà không tìm được nhà trọ”(Lc 2,7). Chỉ ít lâu sau được lệnh “Thiên sứ báo tin phải lên đường, đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2,13). Vâng theo ý Chúa, “ngay đang đêm, Giuse chỗi dậy đem con trẻ và mẹ Người lên đường đi Ai cập” (Mt 2,14). Định cư tại Ai cập cho đến khi nhận được lệnh thiên sứ “hãy đưa con trẻ trở về quê hương”, Giuse “lại chỗi dậy đưa gia đình về lại quê hương Nagiaret”. Bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua. Ngài là cột trụ gia đình, kiên nhẫn làm việc đổ mồ hôi nước mắt, bằng sức lao động để nuôi sống và đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho tất cả chúng ta soi. Tấm gương của một con người luôn nhạy bén tình hình thực tế và khi đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá. Tấm gương của một con người luôn kiên định xin vâng trước Thiên ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Nhờ hai đức tính nhạy bén và kiên quyết mà Thánh Giuse đã trở thành đấng bao bọc che chở Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người rất hiệu quả. Đó cũng là bài học quý giá cho đời sống đức tin và trách nhiệm mà Chúa giao phó cho chúng ta. Luôn nhạy bén với tiếng Chúa gọi, nhạy bén với tiếng lương tâm, với các biến cố đời sống, với những biến chuyển của thời đại và với những lời nhắn nhủ của anh chị em mình. Nhạy bén trước những mối nguy hiểm đe dọa những nguy cơ rình rập đời sống, cần kiên quyết để vượt qua. Bất cứ việc gì, đã quyết định là làm cho đến cùng với tinh thần trách nhiệm.
Thánh Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Thánh Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống đời thường đã biến thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.
Lạy Thánh Giuse, xin cho mỗi người chúng con học nơi Ngài, luôn biết nhạy bén và kiên quyết sống theo hướng dẫn của đức tin. Amen.
28.Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 19.06.2013, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích công bố một Sắc lệnh đã được Đức hồng y Bộ trưởng Antonius Cañizares Llovera và Đức Tổng giám mục Thư ký Arturus Roche ký vào ngày lễ Thánh Giuse Thợ 01.05.2013. Sắc lệnh quyết định đưa tên Thánh Giuse vào các Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV, sau tên của Đức Trinh Nữ Maria.
Trước đây, tên Thánh Giuse chỉ được đọc trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Lễ quy Rôma).
Sắc lệnh viết: ”Qua việc làm cha chăm sóc Chúa Giêsu, Thánh Giuse làng Nazareth, khi được đặt lên trông coi gia đình của Chúa, đã hoàn thành nhiệm vụ đã nhận được nhờ ân sủng. Do gắn bó chặt chẽ với các mầu nhiệm khởi đầu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài trở nên mẫu gương về lòng khiêm nhường và nhân ái, những điều làm cho đức tin Kitô giáo có được những phẩm giá cao cả; và thể hiện những nhân đức nhân bản và đơn sơ, cần cho con người trở nên môn đệ tốt lành và đích thực của Chúa Kitô. Nhờ các nhân đức đó, Người Công Chính này, sau khi đã hết sức trìu mến chăm sóc Mẹ Thiên Chúa và vui vẻ tận tình dạy dỗ Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên người quản lý kho tàng quý giá của Thiên Chúa Cha và qua các thế hệ được Dân Thiên Chúa không ngừng tôn kính như đấng bảo trợ thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, nghĩa là Hội Thánh” (Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo dịch).
Sắc lệnh ghi nhận rằng các tín hữu trong Hội thánh Công giáo luôn tỏ lòng sùng mộ Thánh Giuse và không ngừng tôn kính Ngài là Bạn rất thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa và là Đấng bảo trợ trên trời của Giáo hội hoàn vũ. Vì lý do này mà Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã truyền đưa thêm tên Thánh Giuse vào Lễ quy Rôma, sau tên của Mẹ Maria (Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Novis hisce temporibus, 13.11.1962).
Sắc lệnh nhắc lại rằng Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhận được nhiều lời thỉnh cầu đạo đức từ khắp nơi trên thế giới và ngài đã vui lòng chấp thuận, nay lại được Đức giáo hoàng Phanxicô tái xác nhận. Điều này diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với các Thánh, là những người đồng hành với chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô để liên kết chúng ta với Người.
Nội dung Sắc lệnh cũng ghi rõ các phần Kinh nguyện Thánh Thể (II, III và IV) bằng tiếng Latinh với tên Thánh Giuse đã được thêm vào, chẳng hạn như trong Kinh nguyện Thánh Thể II: ”ut cum beata Dei Genetrice Virgine Maria, beato Ioseph, eius Sponso, beatis Apostolis”. Ngoài ra còn có thêm phần phụ lục cho các ngôn ngữ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức và Ba Lan. Đối với các ngôn ngữ khác, bản dịch sẽ do các Hội đồng Giám mục soạn thảo, theo quy định của luật và được Tòa Thánh phê chuẩn thông qua Bộ Phụng tự (trích: “Phải đọc tên Thánh Giuse trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, III và IV”, ‘WHĐ 19.06.2013’).
“Maria đã đính hôn với Giuse” (Mt 1,18). Từ ngày đó, Thánh Giuse đã trở nên Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Vui buồn sướng khổ, gian truân thử thách, Thánh Giuse đều đã trải qua. Ngài chính là mẫu gương cho anh em Gia trưởng trong đời sống gia đình.
Kể từ khi hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại. Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới. Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.
Thế rồi điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.
Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: ”vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24).
Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm đến bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.
Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc1,38).
Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.
Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.
Anh em Gia trưởng thân mến,
Thánh Giuse – Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ là gương sáng khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.
Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.
Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẻ nỗi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.
Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.
Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em. Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá. Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động, ngài xứng đáng là Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ.
29.Chiêm ngắm Thánh Giuse--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong nghi thức làm phép ảnh tượng các thánh, thừa tác viên Giáo Hội cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không chê bác việc tạc vẽ tượng ảnh các thánh, để mỗi lần con mắt thể xác chiêm ngưỡng ảnh tượng đó, chúng con cũng dùng con mắt ký ức để suy niệm các hành vi và đời sống thánh thiện của các Ngài mà bắt chước. Chúng con nài xin Chúa làm phép + và thánh hóa tượng ảnh này để tôn kính và tưởng niệm đến…Xin Chúa đoái thương, để ai siêng năng tôn kính…trước tượng ảnh này, thì nhờ công nghiệp và sự che chở của Người, được Chúa ban ơn thánh ở đời này và vinh hiển ở đời sau. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Người Kitô hữu tôn kính các thánh qua các ảnh tượng. Con mắt thể xác chiêm ngưỡng vị thánh thì con mắt ký ức suy niệm hành vi và đời sống thánh thiện của ngài để noi gương bắt chước.
Hôm nay Lễ Thánh Giuse, chiêm ngắm và học nơi Ngài hai nhân đức cần thiết cho đời sống đức tin.
1. Nhạy bén
Đọc Phúc Âm ta thấy Giuse có tâm hồn mở ra với tiếng gọi của Thiên Chúa và rất nhạy bén trước ý định của Người. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ biết là ý Chúa là Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành. -Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm. Người Hôn Thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” ( Mt 1,19).Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24). – Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày.Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). – Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng.Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi.Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21). Trước Thánh ý Thiên Chúa, Giuse nhạy bén lắng nghe và vâng phục chu toàn.Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).
Để nhạy bén với tiếng gọi của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi Ngài. Thánh Giuse hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững.Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, Ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình.
2. Kiên quyết.
Phúc Âm nói rất ít về thánh Giuse. Nhưng có một điều chắc chắn đã giúp Ngài chu toàn bổn phận bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Điều đó là đức tính kiên định.
Nhạy bén tình hình thực tế nên thấy mối đe dọa cho Hài Nhi, Ngài mau mắn lên đường lánh nạn. Đường xa vạn dặm từ Do thái sang Ai cập mà vợ yếu con thơ, núi đồi hiểm trở, cướp bóc rình rập, nhưng Thánh Giuse luôn kiên quyết đã quyết định là làm cho đến cùng để bảo vệ gia đình.
Đọc Phúc Âm ta thấy rõ đức tính ấy. Từ khi đưa Đức Maria đang mang thai về quê hương Bêlem để khai sổ kiểm tra cho đến khi định cư tại Nazareth, Thánh Giuse luôn kiên quyết bảo vệ gìn giữ gia đình. Về quê quán, đường xa xôi cách trở. Khi đến nơi “Maria đã đến ngày sinh nở”, và phải sinh con “nơi hang đá bò lừa” vì “hai ông bà không tìm được nhà trọ”(Lc 2,7). Chỉ ít lâu sau được lệnh “Thiên sứ báo tin phải lên đường, đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2,13). Vâng theo ý Chúa, “ngay đang đêm, Giuse chỗi dậy đem con trẻ và mẹ Người lên đường đi Ai cập” (Mt 2,14). Định cư tại Ai cập cho đến khi nhận được lệnh thiên sứ “hãy đưa con trẻ trở về quê hương”, Giuse “lại chỗi dậy đưa gia đình về lại quê hương Nagiaret”. Bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua. Ngài là cột trụ gia đình, kiên nhẫn làm việc đổ mồ hôi nước mắt, bằng sức lao động để nuôi sống và đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho tất cả chúng ta soi.Tấm gương của một con người luôn nhạy bén tình hình thực tế và khi đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn kiên định xin vâng trước Thiên ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Nhờ hai đức tính nhạy bén và kiên quyết mà Thánh Giuse đã trở thành đấng bao bọc che chở Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người rất hiệu quả. Đó cũng là bài học quý giá cho đời sống đức tin và trách nhiệm mà Chúa giao phó cho chúng ta. Luôn nhạy bén với tiếng Chúa gọi, nhạy bén với tiếng lương tâm, với các biến cố đời sống, với những biến chuyển của thời đại và với những lời nhắn nhủ của anh chị em mình. Nhạy bén trước những mối nguy hiểm đe dọa những nguy cơ rình rập đời sống, cần kiên quyết để vượt qua. Bất cứ việc gì, đã quyết định là làm cho đến cùng với tinh thần trách nhiệm.
Thánh Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”.Thánh Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống đời thường đã biến thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động. Xin cho mỗi người chúng con học nơi Ngài, luôn biết nhạy bén và kiên quyết sống theo hướng dẫn của đức tin. Amen.
30.Thánh Giuse, đường nên thánh--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong các loài hoa, có một loài không những thân luôn mọc về phía ánh sáng mà hoa còn luôn quay về phía mặt trời. Đó là Hoa hướng dương. Hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời với cánh hoa mở rộng đón nhận ánh sáng và sức sống để toả hương khoe sắc. Thánh Giuse như hoa hướng dương luôn hướng về Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài hằng hướng mắt, hướng lòng về Thiên Chúa để nhận ra và làm tròn Thiên Ý. Thánh Giuse được sách Tin mừng gọi là “người công chính”. Theo Kinh thánh, “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4; Rm 1,17; Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính, là hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người công chính, nói đơn giản là người tốt, ngay thẳng, trung tín, có trách nhiệm. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Thánh Giuse tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa. Ngài đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào,hễ biết là Ý Chúa, Thánh Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành. -Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm. Người Hôn thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” ( Mt 1,19). Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20);rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24). – Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Trước mắt là gian truân vất vả,đường dài vạn dặm mà vợ yếu con thơ, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). – Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng. Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi. Thật mau mắn trước Thiên Ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về đất Israel”(Mt2,21). Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy,đúng thời gian,đúng địa điểm mà không thắc mắc,không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).
Thánh Ý Thiên Chúa bao giờ cũng hoàn hảo, không những cho cá nhân mà còn cho toàn thể nhân loại. Thánh Giuse người công chính đã thực hiện lời mời gọi “nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo” (Mt 5, 48) bằng cách thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Công đồng Vatican II dạy: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tuỳ theo con đường của mỗi người” (GH 11,3).
Nên thánh theo con đường của Thánh Giuse là một con đường cho nhiều người. Không quan trọng mình là ai, địa vị nào trong xã hội, làm việc cao quý hay tầm thường. Trước nhan Thiên Chúa, mọi địa vị và công việc đều có giá trị. Điều quan trọng là hãy thực thi thánh ý Chúa, đáp lại tiếng Người mời gọi trong cuộc sống. Địa vị và công việc lao động chân tay của Thánh Giuse chỉ ở mức tầm thường; thế nhưng, ngài vẫn có khả năng biến đổi nó trở thành phi thường. Cái phi thường ở trong cái tầm thường của mỗi con người là một viên ngọc quý tiềm ẩn. Những người đồng thời nói về Thánh Giuse rất trìu mến là “bác thợ mộc”. Một tên gọi rất thường nhưng lại bao hàm lòng yêu mến con người thợ mộc ấy. Dĩ nhiên, phải có điều gì đó nơi người thợ mộc kia đã tạo được thiện cảm và lòng yêu mến của nhiều người. Ngày nay có bao nhiêu người chức nọ, quyền kia, có học vị, có địa vị, rất giàu có; nhưng khi nói về họ, nhiều người rủa thầm: tên này, tên nọ, thằng này, thằng kia, tay này, tay nọ… Để được tôn trọng, trước tiên người đó cần có lòng tự trọng. Công việc mỗi ngày bộc lộ tính tự trọng trong đó, người có lòng tự trọng sẽ làm công việc cẩn thận, có trách nhiệm, liêm khiết, công bằng, hợp tác, thân tình… Thánh Giuse là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Thánh Giuse nên thánh trong nghề nghiệp của mình nên Ngài là Thánh bổn mạng của những người lao động.
Theo gương thánh Giuse, sống đạo là tin tưởng, cậy trông, yêu mến Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác nguyện cầu và sống theo Ý Chúa.
Hoa hướng dương là hình ảnh Thánh Giuse. Nhìn một đoá hoa hướng dương khoe sắc ta nghĩ đến Thánh Giuse. Nhìn cả vườn hoa hướng dương đang rực rỡ trong nắng ấm ta ước mong mỗi người Kitô hữu là một bông hoa nhỏ luôn hướng tâm hồn về Thiên Chúa, mở rộng lòng đón nhận sự sống,tình yêu, niềm vui để rồi toả hương khoe sắc cho cuộc đời.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho tất cả chúng ta soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá. Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn, sống theo Ý Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã làm nên một con đường tu đức hướng đến trọn lành. Thánh Giuse là bậc thầy dạy con người sống an vui và nên thánh trong địa vị của mình. Thánh Giuse là mẫu gương cho mọi người nên thánh trong cuộc sống thường ngày.
31.Thánh Giuse, mẫu gương cho gia trưởng--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng hôm nay đề cập đến câu chuyện Truyền tin cho Giuse.
Maria đã đính hôn với Giuse (Mt 1,18). Từ ngày hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại.
Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới. Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.
Điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.
Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nỗi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (1,24).
Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn đời của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.
Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự. Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).
Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi ngài. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.
Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.
Anh em Gia trưởng thân mến,
Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.
Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.
Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẽ nổi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.
Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.
Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa -Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em.
Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá. Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.
32.Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Maria--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thánh Luca viết: “Đây là người quản gia trung tín và khôn ngoan, Chúa đã đặt lên coi sóc gia đình Chúa” (Lc 12, 42) và qua Tin Mừng của thánh Matthêu, Chúa nói: “Hỡi gia nhân tài giỏi và trung tín. Hãy vào chung hưởng phúc lạc với chủ nhân” (Mt 25, 21). Thánh Giuse được Giáo Hội ca ngợi là người trung tín và khôn ngoan. Cuộc sống của thánh nhân là cả một cuộc đời âm thầm, khiêm nhượng. Thánh Giuse đã tận tụy gìn giữ gia đình Nagiarét mà Chúa trao phó cho Ngài coi sóc, trông nom. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao với tất cả lòng tin, sự hiền lành và khiêm nhượng.
THÁNH GIUSE LÀ AI?
Tin Mừng thánh Matthêu đã vỏn vẹn viết về thánh Giuse như sau: “Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Đây là một câu mà thánh Matthêu đã nói về vai trò của thánh Giuse khi thánh Giuse đã đính hôn với Maria mà Ngài phát hiện ra Maria đang mang thai. Thánh Giuse quả thực đã trằn trọc, lo âu, sao xuyến vì Chúa chưa khai mở tâm trí cho Ngài. Thánh Giuse quả thực là người công chính vì Ngài được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, hơn thế nữa, Thiên Chúa cho Ngài tham dự vào sự thánh thiện của Chúa. Kinh Thánh đã đưa nhân loại đi từ sự ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác vì thánh Giuse có đầy đủ những tính cách của một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, hoàn toàn được Chúa thương yêu. Thánh Giuse vì là con người thánh nên đã luôn làm theo ý Chúa dù rằng định tâm bỏ Maria, nhưng khi biết được ý Chúa, Ngài đã nhiệt tình nhận Maria về nhà, săn sóc, thương yêu mẹ Maria. Khi được triệu báo của Thiên Thần, thánh Giuse đã đưa Chúa Hài Đồng Giêsu và mẹ Maria trốn qua Ai Cập và được triệu báo, thánh Giuse lại đưa Mẹ Maria và Chúa Giêsu trở về quê hương và sống ở Nagiarét cho tới khi lìa đời. Tại Nagiarét, thánh Giuse đã sống xứng đáng là một gia chủ khôn ngoan, Ngài đã ân cần nuôi dưỡng mẹ Maria và Chúa Giêsu bằng nghề lao động: thợ mộc của mình. Thánh Giuse đã sống một cuộc đời thật thầm lặng ở Nagiarét, Ngài đã không nói một lời nào đặc biệt.
Kinh Thánh không hề ghi lại một lời nào của thánh Giuse dẫu rằng trong biến cố tìm gặp con trong đền thờ Giêrusalem, thánh Giuse có thể nói và cần nói nhiều với Chúa Giêsu. Nhưng Ngài vẫn hoàn toàn im lặng. Cuộc sống của thánh Giuse làm nhiều hơn nói, và đây là đặc tính nổi bật của Ngài. Thiên Chúa đã dùng thánh Giuse như cột trụ của gia đình Nagiarét, nhưng con người của thánh Giuse luôn khiêm nhượng, âm thầm, trầm lắng. Đức tính trầm lắng nói lên sự chín chắn, khôn ngoan, trung tín của thánh Giuse. những đức tính này nói lên sự thánh thiện tuyệt đối của thánh Giuse khiến Thiên Chúa hết lòng yêu mến Ngài.
MỘT CON NGƯỜI HOÀN TOÀN KHIÊM NHƯỢNG VÀ PHÓ THÁC
Đọc lại Tin Mừng và qua những kinh nguyện khẩn cầu thánh Giuse, chúng ta nghiệm ra rằng, thánh Giuse là một con người luôn khiêm tốn. Sự từ tâm, lòng quảng đại, bao dung của thánh Giuse đã giúp Ngài luôn thuộc trọn về Chúa. Qua thánh ý của Thiên Chúa, thánh Giuse đã hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, tin tưởng tuyệt đối vào Chúa vì rằng Thiên Chúa đã sắp xếp để thánh Giuse kết bạn với Đức trinh nữ Maria để mẹ Maria luôn bảo vệ được sự trinh khiết của mình, để mẹ Maria sinh con sẽ hợp pháp và không bị nghi ngờ gì về tội ngoại tình và không bị ném đá. Chính vì ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, thánh Giuse đã bảo vệ Đức Mẹ và làm cho nhân loại thấy sự lạ lùng Thiên Chúa đã làm nơi mẹ qua Chúa Thánh Thần.
Thánh Giuse khiêm hạ và phó thác vì Ngài đã dưỡng nuôi Chúa Giêsu và bảo vệ, yêu thương săn sóc mẹ Maria trong suốt quãng đường sống bậc vợ chồng. Thánh Giuse hoàn toàn tín thác nơi Chúa vì rằng thánh gia là gia đình thánh, gia đình gương mẫu cho mọi gia đình khác. Thánh Giuse quả thực là con người nắm giữ vai cột trụ của gia đình, Ngài trở thành mẫu gương cần cù lao động, góp phần vào việc cứu độ nhân loại.
Ngay trong ca nhập lễ ngày lễ thánh Giuse, Giáo Hội đã viết: “Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giêsu, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu”.
Thánh Giuse quả thực là một con người hết sức lạ lùng vì trong ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, Ngài đã sống hết sức khiêm nhượng, nhưng là hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa như con của Ngài: Đức Giêsu: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này, đừng theo như ý con mà là theo ý của Cha”. Thánh Giuse đã làm theo ý Thiên Chúa và đã xứng đáng là người công chính vì được Chúa đặt làm quản lý gia đình của Chúa… Sau cuộc sống trần gian, thánh Giuse đã ra đi bình an, trở về với Chúa. Giáo Hội chọn ngày 19/3 kính trọng thể thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Maria và ngày 01/5 kính thánh Giuse lao động.
Lạy thánh Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu. Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.
Và như thánh Têrêsa Avila đã viết: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.
33.Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
“THÁNH GIUSE GIÚP TA TRONG MỌI TRƯỜNG HỢP” (Thánh Têrêsa Avila)
Đọc lại câu nói của thánh Têrêsa Avila về thánh cả Giuse sau đây chúng ta không khỏi khâm phục và ngạc nhiên: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các Thánh giúp ta việc này việc nọ nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”. Hội Thánh qua bao thế kỷ đã dành cho thánh Giuse một chỗ đứng cao vời trong Phụng Vụ thánh. Theo truyền thống Kitô giáo, lòng đạo đức bình dân của các Kitô hữu trên thế giới lúc nào thánh Giuse cũng được mọi người tôn kính như một Đấng đầy uy quyền. Giáo Hội đã trao tặng cho thánh Giuse rất nhiều tước hiệu cao quí, danh xưng nào cũng đẹp, tên nào cũng tuyệt vời chẳng hạn như: Thánh Giuse, Cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse thợ, Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria vv… Hội thánh hàng năm vẫn dành cả tháng 3 để tôn vinh thánh Giuse mà cao điểm là lễ ngày 19/3, Giáo Hội truyền mừng lễ này cách rất trọng thể.
THÁNH GIUSE, ANAWIM, NGƯỜI NGHÈO CỦA THIÊN CHÚA: Thiên Chúa đã chọn thánh Giuse giữa muôn người nghèo vì trước mặt Người, thánh Giuse chỉ là người khiêm nhu, nhỏ bé, một người nghèo của Thiên Chúa Giavê, một Anawim như Đức Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse cũng chờ đợi Đấng Cứu Thế như muôn dân hằng trông đợi, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên Đavít của mình. Thánh Giuse luôn đặt sinh mạng của mình trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, phó thác và tin tưởng hoàn toàn nơi Ngài. Vì đặt tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa duy nhất là Đấng có uy quyền và làm được tất cả mọi sự. Do đó, khi được sứ thần Gabrien cho biết ý định cứu rỗi của Thiên Chúa ngang qua cái thai mà Maria, bạn của Người vừa mới đính hôn đang cưu mang trong cung lòng trinh khiết, thánh Giuse đã bỏ mọi ý định riêng tư của mình để sống kế hoạch chung, kế hoạch yêu thương và mầu nhiệm của Thiên Chúa. Như Mẹ Maria, thánh Giuse có thể nói với sứ thần: “Xin hãy thành sự cho tôi như lời sứ thần loan báo”. Thánh Giuse đã thực hiện hoàn hảo như lời sứ thần truyền: “Đem Maria về nhà để nuôi dưỡng và giúp đỡ”. Thánh Giuse chỉ là một người thường dân như mọi người dân khác trong xã hội Do thái lúc đó dù rằng Ngài thuộc hoàng tộc vua Đavít. Do đó, thánh Giuse chẳng được đặc ân, đặc lợi như hàng tư tế, Lêvi, biệt phái, Pharisiêu vv…
2. VAI TRÒ CỦA THÁNH GIUSE: Trước mặt Mẹ Maria và Chúa Giêsu quả thực thánh Giuse hầu như đứng trong bóng tối. Nhưng đó là vai trò của Ngài, Ngài âm thầm, kiên nhẫn, khiêm nhượng nuôi dưỡng Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng cái nghề thợ mộc khiêm tốn của mình. Tuy nhiên không phải vì thế mà vai trò của Ngài bị lu mờ, bị che khuất dẫu Tin Mừng hầu như không ghi lại một câu nói của Ngài. Có lẽ đó là bí mật và mầu nhiệm của Tin Mừng. Nhưng, đã có ai gần gũi Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng thánh cả Giuse? Có ai nuôi dưỡng Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng thánh cả Giuse? Hội Thánh luôn tôn vinh thánh Giuse và chiêm ngưỡng con người khiêm nhu nhưng lại rất thánh thiện và cao vời của Ngài. Thánh Giuse luôn nắm vai trò quan trọng nhất trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa ngang qua gia đình Nagiarét, một gia đình đã cưu mang và nuôi dưỡng Con Thiên Chúa: “Đức Giêsu làm người”. Chúng ta không sợ nói quá lời, nếu không có thánh Giuse chắc lịch sử cứu độ đã xoay khác.
3. THÁNH GIUSE TRUYỀN LỆNH HƠN LÀ VAN XIN: Vì giữ vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ, thánh Giuse được Thiên Chúa yêu thương, sủng mộ, Ngài rất đắc sủng trước mặt Thiên Chúa. Chính vì thế, Thiên Chúa đã ban cho Ngài muôn vàn đặc ân cao quí mà có lẽ chỉ có Đức Mẹ và thánh Giuse mới có được, mới nhận được. Chúng ta chỉ cần điểm qua vài biến cố trong cuộc đời của thánh Giuse, chúng ta sẽ hiểu thế nào là ơn Thiên Chúa ban cho Ngài để Ngài bảo vệ và củng cố lòng tin cho gia đình Nagiarét, chẳng hạn: “Thánh Giuse đem Chúa Giêsu và Mẹ Ngài trốn qua Ai Cập để tránh Hêrôđê tìm giết Con Trẻ, đưa Chúa Giêsu và Mẹ Ngài trở về Nagiarét. Cả hai biến cố ấy luôn cần ơn can đảm, khôn ngoan và hiểu biết, thánh Giuse đã được Thiên Chúa ban cho những ơn ấy để Ngài hướng dẫn và săn sóc gia đình Thánh Gia tốt đẹp trước mọi biến cố của cuộc đời. Việc lạc mất Chúa Giêsu lúc Chúa lên 12 tuổi. Chắc chắn thánh Giuse đã được Chúa ban đức tin mãnh liệt để Ngài củng cố niềm cậy trông cho Mẹ Maria, Bạn trăm năm của Người.
Thánh Giuse quả thực được sủng ái nơi Thiên Chúa vì thế Ngài có quyền lớn lao trên Nước Trời. Thiên Chúa đã ban cho thánh Giuse toàn quyền can thiệp vào lịch sử nhân loại. Do đó, chạy đến với thánh Giuse chắc chắn con người sẽ chẳng bị thất vọng.
Chúng ta hãy cùng nhau đọc kinh khấn thánh Giuse: “Lạy thánh Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu. Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên Trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.
Lạy Cha hiền, xin cầu bầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con. Khi ở thế gian này. Cha đã từng là Cha nuôi và là vị bảo hộ trung thành của Chúa Con Chí Thánh, nay xin Cha bào chữa cho chúng con bên tòa Chúa. Chúng con trao phó nơi Cha vụ khó khăn này (…) Xin Cha giải gỡ giúp chúng con, để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẵn có của Cha.
Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng. Vâng, chúng con tin tưởng Cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực ưu sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy. Cha không bỏ qua điều gì giúp cho những người sầu khổ kêu cầu Cha. Chúng con sấp mình dưới chân Cha, tha thiết nài xin Cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin Cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con và chúc lành cho chúng con. Amen.
34.Thánh Giuse, vị thánh tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Tháng thánh Giuse năm nay nằm trong mùa chay. Thực vui và hạnh phúc vì lúc nào trong đời sống của tôi cũng có thánh Giuse đồng hành. Suy nghĩ về thánh Giuse, một con người thinh lặng, trầm lắng, một con người hết mực làm theo ý Thiên Chúa. Điều ấy giúp tôi hiểu rõ hơn và mộ mến một Đấng Thánh cao cả, tuyệt vời, một vị thánh hay làm phép lạ và một vị thánh đã để lại mẫu gương khiêm nhượng và hiền lành.
Vâng, đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta thấy các thánh sử rất ít đề cập tới Ngài. Nếu không suy nghĩ và thiếu lòng tin, chúng ta sẽ khó hiểu về một Đấng Thánh cao cả, đã được Thiên Chúa chọn lựa làm bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria và là Cha nuôi của Chúa Giêsu.
Tôi luôn yêu mến, tôn kính thánh cả Giuse vì Người là Đấng có uy quyền, thần thế trước mặt Đức Giêsu Kitô và triều thần thánh trên trời. Tôi còn nhớ rất rõ lời của thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila viết: “…Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng Thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bàu của Vị Thánh vinh phúc này”. Thánh Têrêsa Avila viết tiếp: “Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Người với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Người, mà nhận mọi lời Người cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm”.
Thánh nữ Têrêsa Avila, một vị thánh có lòng sùng kính đặc biệt thánh cả Giuse. Thánh nữ cũng như thánh Bênađô, Bà đã nhìn thấy trong một thị kiến. Thánh Têrêsa Avila viết: “Ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, tôi được xuất thần…Tôi được mặc một chiếc áo thật trắng và chói sáng. Thoạt đầu tôi không biết ai đã mặc cho tôi. Nhưng rồi, tôi thấy Đức Mẹ ở bên hữu và Cha tôi, Thánh Giuse, ở bên tả đã mặc cho tôi. Và tôi được nghe: từ đây tôi được rửa sạch mọi tội lỗi của tôi. Sau việc mặc áo, tôi cảm thấy đầy hạnh phúc và sung sướng, và tôi thấy Đức Mẹ cầm tay tôi và nói: “Mẹ rất vui thích khi thấy Con tôn sùng Thánh Cả Giuse vinh hiển,. Tôi có thể tin rằng ý định lập dòng của tôi sẽ thành tựu. Chúa Kitô và Hai Đấng sẽ được tôn vinh”.
Riêng tôi, khi sống với người Dân tộc Kơho đã lâu, tôi luôn cảm nghiệm tình thương và sự can thiệp của Thánh Giuse. Sống với người Dân tộc là một niềm vui và hạnh phúc bởi vì theo tôi: “người Dân tộc rất chân thành, đơn sơ và chất phác, nói một cách dân dã hơn là người Dân tộc còn chân chất núi rừng dù rằng cuộc sống hôm nay với đà văn minh tiến bộ, họ đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, tấm lòng của họ vẫn luôn tốt đẹp. Họ đã theo Chúa thì tôn kính Chúa và nhiệt tâm với đạo. Tôi vẫn nói với họ về vai trò của Thánh Giuse và Đức Mẹ. Nhiều người Dân tộc có lòng sùng kính Hai Đấng một cách rất đặc biệt. Tôi luôn khuyên nhủ họ chạy đến với Thánh Giuse, xin Ngài an ủi, đỡ nâng trong mọi hoàn cảnh thuận cũng như nghịch. Người Dân tộc đã được rất nhiều ơn lạ và họ cũng như tôi luôn tin tưởng cậy trông Hai Đấng: Mẹ Maria và Thánh Giuse. Mùa nào, tháng nào kính Mẹ và kính Thánh Giuse, chúng tôi đều có những giờ, những giây phút cầu nguyện và lòng tôn kính đặc biệt”.
Tôi còn nhớ, một hôm tôi đang ngồi đọc Kinh Nhật Tụng trong phòng, nhìn ra cửa sổ, tôi thấy một chị Dân tộc vai đeo một đứa con nhỏ và tay dắt một đứa khác đang đứng ngoài sân Nhà xứ, tôi làm dấu, gấp sách lại và ra gặp chị, tôi chào và hỏi chị:
- Chị ở đâu tới đó?
Chị chào tôi: ( Niam să Bap – chào Cha ).
Tôi chào chị và nói:
- Chị đi đâu đấy?
- Con xin rửa tội cho con của con ( An dăn Bap rào tis oh ăn dê ).
- Sao chị sinh hai đứa gần nhau thế?
- Chúa, Mẹ và Thánh Giuse cho.
Tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi chị nói tới cả Thánh Giuse và thán phục về đức tin của chị.
Tôi thầm cám ơn Chúa vì Ngài đã cho những người nhỏ bé, những người ít học, ít chữ biết Thánh Giuse. Tôi mời chị vào nhà thờ, rồi tôi rửa tội cho đứa con trai bé của chị mới sinh được hơn một tháng.
Trước ảnh Đức Mẹ Ban Ơn và Thánh Giuse, tôi đã tạ ơn hai Đấng và nói với chị cám ơn Mẹ và Thánh Giuse. Chị đã cúi đầu rất sốt sắng cầu nguyện tạ ơn Đức Mẹ và Thánh Giuse. Chị đã trao, đã dâng đứa con trai bé nhỏ cho Thánh Giuse. Tôi rất cảm động về thái độ, cử chỉ cung kính của chị dân tộc Kơho đối với Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse.
Tháng thánh Giuse, người Dân tộc thường có thói quen hái bông rừng dâng kính Thánh Giuse. Hôm nay, tháng 3 đã đi được một nửa, mùa chay đã về, ngồi đây, tôi nghĩ lại những tháng ngày ở vùng truyền giáo Dân tộc Kơho. Tập tục, nhân sinh quan, vũ trụ quan của họ như: Ù dùl kơnắc (đất một cục). Rắc dùl nơm rơsòn (chim một tổ). Tê kăc kòe (tay suốt lúa). Yơng lot gùng (chân để đi) bơr rắc Yàng, dơschờ (miệng để cầu nguyện, để hát) vv…giúp tôi càng hiểu người Dân tộc hơn.
Trong niềm vui mừng kính Thánh Giuse, một Đấng Thánh tuyệt vời, một Đấng Thánh hay làm phép lạ, luôn truyền lệnh hơn là van xin (lời Thánh Tẹrêsa Avila). Tôi và anh chị em dân tộc Kơho đang sống hạnh phúc bên núi rừng, bên bản làng Cao nguyên để chuẩn bị mừng kính Thánh Cả Giuse ngày 19/3.
Xin Thánh Cả Giuse, giúp mọi người chúng con biết khiêm nhường, hiền hậu như Thánh nhân để chúng con luôn noi gương bắt chước Ngài làm theo Lời Chúa. Amen.
35.Thánh Giuse từng có ý định bỏ Đức Mẹ, tại sao?--Lm Nguyễn Thể Hiện
Xảy ra là Đức Maria, sau khi đã đính hôn nhưng trước khi về chung sống với Thánh Giuse, đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. ”Ông Giuse, chồng bà [Maria], là người công chính và không muốn tiết lộ điều xảy ra với bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Không có bất cứ lý do gì để nghi ngờ rằng Thánh Giuse đã không biết việc Đức Maria mang thai là do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Trái lại, nếu đọc bản văn một cách thanh thản, không thiên kiến, người ta thấy hình như tác giả gợi ý rằng Thánh Giuse biết điều đó. Đàng khác, tình yêu lành thánh giữa Đức Maria và Thánh Giuse càng cho phép chúng ta tin rằng chắc chắn Đức Maria chẳng hề giấu giếm Thánh Giuse một điều quan trọng như thế.
Và khi đã biết sự thực, Thánh Giuse liền định tâm kín đáo lìa bỏ Đức Maria!
Tác giả Mt kể ra hai lý do khiến Thánh Giuse đi đến quyết định như vậy.
Lý do thứ nhất: vì Thánh Giuse “là người công chính”.
Phải hiểu thế nào?
Chắc chắn đây không phải là sự công chính theo nghĩa pháp lý, tức là theo nghĩa vâng phục lề luật. Bởi lẽ lề luật chẳng buộc người ta phải rẫy bỏ vị hôn thê phạm tội ngoại tình, nhất là lại rẫy bỏ “một cách kín đáo” (vì hành động kín đáo như thế này là không có giá trị pháp lý). Đàng khác, nếu Thánh Giuse nghĩ rằng Đức Maria vô tội, thì ông còn có nghĩa vụ phải bảo vệ vị hôn thê vô tội của mình.
Vì thế, cách hiểu hợp lý nhất là phải coi đây là sự công chính tôn giáo.
Là người công chính theo nghĩa tôn giáo, Thánh Giuse kính trọng công việc Thiên Chúa đang thực hiện nơi Đức Maria và không dám nhận về mình những công trạng do hành động của Thiên Chúa mà có. Nói cách khác, là người công chính, Thánh Giuse không dám đưa về làm vợ mình một người đã được Thiên Chúa dành riêng cho Ngài, vì như thế là thánh nhân tự chiếm lấy một vai trò không do Thiên Chúa trao phó.
Lý do thứ hai: vì Thánh Giuse không muốn tiết lộ điều đã xảy ra với Đức Maria, tức là thánh nhân kính trọng mầu nhiệm thần linh nơi Đức Maria.
Nhiều người cho rằng Thánh Giuse không muốn tố giác Đức Maria. Thực ra, nghĩ như thế không chính xác. Tác giả Mt sử dụng động từ deigmatisai (nghĩa là tiết lộ, vén mở). Nếu muốn nói là “trừng phạt để làm gương” hay “làm cho mất danh giá”, có lẽ ông đã dùng động từ paradeigmatisai. Đàng khác, trong tiếng Việt, động từ “tố giác” có nghĩa là “báo cho nhà cầm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó”, và như thế, tiền giả định là người tố giác cho rằng rằng người bị tố giác (hay hành động bị tố giác) là phạm pháp. Khi dùng động từ “tố giác” này, người ta đã đồng ý với tiền giả định theo đó, Thánh Giuse đã cho rằng Đức Maria phạm tội ngoại tình. Nhưng bản văn lại chẳng cho phép chúng ta hiểu như thế. Do đó, hiểu rằng Thánh Giuse không muốn tố giác Đức Maria là không chính xác, nếu không muốn nói đó là một sự hiểu sai rất tai hại.
Thực chất, lý do thứ hai khiến Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Đức Maria một cách kín đáo là vì ngài không muốn tiết lộ mầu nhiệm đang bao trùm Đức Maria. Đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, một người công chính không thể tự tiện nói ra cho mọi người biết được.
“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thực người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21).
“Sứ thần Chúa” là một kiểu nói diễn tả sự can thiệp của chính Thiên Chúa, chứ không có nghĩa là một trong các thiên thần. Vậy đã xảy đến cho Thánh Giuse một sự can thiệp huyền nhiệm của Thiên Chúa, khẳng định với ngài là em bé sắp được sinh ra thật có nguồn gốc thần linh, nhưng ngài có nhiệm vụ phải đón Đức Maria và em bé sắp sinh ấy về và phải đặt tên cho em bé.
Nói cách khác, Thánh Giuse được Thiên Chúa can thiệp cho biết rằng ông phải duy trì mối tương quan với Đức Maria và nhìn nhận về pháp lý rằng con trẻ do Đức Maria sinh ra chính là con của ông.
Thánh Giuse được mời gọi đảm nhận vai trò làm cha của hài nhi sắp sinh về phương diện luật pháp. Nhờ đó, Đức Giêsu được tháp nhập một cách hợp pháp vào dòng dõi của ông Giuse “con cháu Đavít”.
36.Thánh Giuse, người không thích “nổ”--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu
Hàng năm cứ đến tháng Ba, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm dung mạo Thánh Giuse, cha nuôi Đức Giêsu và là bạn trăm năm của Mẹ Maria.
Khi chiêm ngắm thánh Giuse, ngoài những nhân đức nổi bật đã được Giáo hội đúc kết thành Kinh Cầu tôn kính Ngài…, ta còn thấy ở Ngài một nhân đức nổi bật khác nữa, đó là đức tính âm thầm, khiêm nhường không muốn thể hiện mình hay nói theo ngôn ngữ ngày nay Ngài là người không thích nổ.
Cụ thể như việc Mẹ Maria mang thai Đức Giêsu…, thánh Giuse có thể tố cáo…, nhưng Ngài lại chọn giải pháp âm thầm rút lui. Chính vì âm thầm, không thích nổ mà Thiên Chúa đã chọn gọi và đặt Ngài lên địa vị cao sang là làm cha nuôi Đức Giêsu và là bạn trăm năm của Mẹ Maria: “Này Giuse, con cháu Đavít đừng ngần ngại đón Maria về nhà làm bạn mình vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu…”
Thánh Giuse không chỉ âm thầm khiêm nhường trước Thiên Chúa mà Ngài còn âm thầm tự xoá mình đi trước Đức Giêsu và Mẹ Maria. Chẳng hạn như biến cố Đức Giêsu tự ý ở lại đền thờ vào dịp hành hương Giêrusalem, thánh Giuse có thể la rày hay sửa phạt Đức Giêsu để thể hiện uy quyền của người cha, nhưng Ngài đã nhường cho Mẹ Maria, để Mẹ Maria chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở: “Con ơi, sao con lại làm cho cha mẹ phải cực nhọc tìm con!”
Tóm lại thánh Giuse âm thầm và xoá mình đi như thế là để cho chương trình và thánh ý Thiên Chúa được thực hiện, Đức Giêsu và Mẹ Maria được lớn lên. Còn chúng ta là con cái của người thì sao?
Thực lòng mà nói, ta luôn muốn thể hiện mình chứ không muốn xoá mình đi, ta luôn thích nổ để chứng tỏ quyền uy của mình chứ không thích âm thầm bé nhỏ:
Trong gia đình, chồng muốn chứng tỏ uy quyền của mình trên người vợ, vợ muốn thể hiện vai trò của mình đối với chồng, chẳng ai chịu nhường nhịn ai … và thế là xảy ra cảnh gia đình bất hoà bất thuận, cơm chẳng lành canh chẳng ngọt.
Ngoài xã hội, ta thấy ai cũng muốn thể hiện mình, ai cũng cho mình là nhất… Kiêu ngạo gặp kiêu ngạo…, thế là xảy ra cảnh cãi vã, đánh lộn khắp nơi.
Muốn cho gia đình êm ấm và xã hội hài hoà, mỗi người chúng ta phải biết sống âm thầm khiêm nhường, xoá mình đi trước người khác như thánh Giuse đã sống.
Lạy thánh Giuse, xin dạy con biết sống âm thầm, khiêm nhường, xoá mình đi để Chúa và tha nhân được lớn lên, gia đình được êm ấm và xã hội được hài hoà. Amen.
37.Sự công chính của Thánh Giuse--Lm Giuse Nguyễn An Khang
Chúa nhật IV Mùa Vọng Năm A--Mátthêu 1, 18-25
Chúa nhật hôm nay, trước lễ giáng sinh, Giáo hội đề nghị chúng ta nghe “loan báo việc sinh Đức Giêsu cho Giuse”.
Mátthêu viết: “Mẹ Người là bà Maria đã đính hôn với Giuse” Đính hôn hay thành hôn có nghĩa là “đến với, phối hợp với một người nào đó,” chỉ việc chung sống vợ chồng. Cô thiếu nữ Dothái được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi. Theo phong tục và hôn nhân của người Dothái, đính hôn đã là thành vợ chồng trước pháp luật, nhưng việc rước dâu thường cách xa lễ đính hôn, có khi cả năm trời. Thường thì hai người không chung sống trước khi rước dâu, nhưng giả thiết có con với nhau trong giai đoạn này, đứa con vẫn là con hợp pháp.
Maria đã đính hôn với Giuse, nghĩa là cả hai như các cặp hôn nhân khác, có dự tính thành vợ chồng. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Người ta đặt câu hỏi: Ông Giuse có biết việc Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, trước khi Thiên thần báo tin không? Sự công chính của Giuse ở chỗ nào?
Theo nhiều nhà chú giải, Giuse công chính không theo nghĩa vâng lời lề luật. Vì chẳng có luật nào buộc phải ly dị người mới đính hôn (Đnl 22,13-21; 23-27), luật chỉ dạy ly dị khi hôn nhân đã hoàn hợp (Đnl 24,1). Đàng khác âm thầm ly dị, Giuse lại càng bất tuân lề luật. Vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý, khi mang tính cách chính thức công khai. Vả lại, ly dị âm thầm như thế không thể giữ bí mật được lâu, trong một ngôi làng nhỏ bé như Nadarét. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, ta không thể hiểu được tại sao ông lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép. Xét như là hôn phu, ông có bổn phận bảo vệ hôn thê vô tội, chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác.
Hơn nữa, trong Tin mừng của Mátthêu, chỉ duy nhất Giuse được gọi là công chính, tựa như Abel người công chính. Abel công chính không phải theo luật, vì lề luật chỉ được công bố với Maisen, nhưng vì kính sợ Thiên Chúa. Vì thế, không thể cắt nghĩa đức công chính của Giuse “ theo luật” được, nhưng công chính vì kính sợ Thiên Chúa.
Nhiều nhà chú giải cho rằng: Trước khi Thiên sứ loan báo, Giuse đã biết Maria có thai bởi quyền năng Thánh Thần, có thể do chính Maria tiết lộ, tâm sự với người mình đính hôn, hay đúng hơn mẹ của Maria, theo tập quán Đông phương. Vì thế, điều làm cho Giuse băn khoăn, không phải vì tiết hạnh của Maria, song là sự thụ thai huyền nhiệm của nàng. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse nghĩ: Ông không có quyền đem về nhà một kẻ, Đức Giavê đã dành riêng cho Người, ông không có quyền làm cha đứa con không phải là của ông. Ông nhận ra quyền làm Cha của Trẻ này là chính Thiên Chúa, còn ông, không được coi như cha của đứa con đó.
Thật thiêng thánh! Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui và cẩn thận không muốn tiết lộ mầu nhiệm thiên linh ấy nơi Maria (Theo Origène và Eusèbe, từ “deigmatisai” = tiết lộ, không bao hàm ý nghĩa xấu: tố giác, bêu nhục như từ Paradeigmatisai; Touon cũng dịch là tiết lộ, bầy tỏ). Giuse phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Kinh thánh, trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Maisen cởi giầy trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm trước việc xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh (Is 6,3-4), như Êlisabét hỏi tại sao mình được Mẹ Thiên Chúa đến thăm (Lc 1,39-45), như Phêrô cúi mình thưa: “Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi. “ Tuy nhiên, “đang khi Giuse toan tính lìa bỏ Maria, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về. “ Giuse kính sợ Thiên Chúa, không phải vì lề luật.
38.Thánh Giuse Bạn Hiền Trinh Nữ, Cha Nuôi Hài Đồng Giêsu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa: “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.
Bạn hiền Trinh Nữ
Tin Mừng ghi lại: “Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn: cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22); “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14); “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20); cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như thánh Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả: Đức Maria nói ”Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con!” Nhưng Ngài đáp lại: “Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao?” (Lc 2, 48 – 49). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “làm cha” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
Xin thánh Giuse phù hộ cho các người cha
Trong buổi Yết Kiến Chung (28/1/2015), Đức Thánh Cha Phanxicô đã than phiền: “Thật buồn là trong xã hội hiện nay, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha”. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh của người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha”. Ngài cho biết: “Thiếu vắng hình bóng người cha, người trẻ thường cảm thấy ‘mồ côi’, bị bỏ trôi dạt lênh đênh vào thời điểm then chốt trong sự trưởng thành và phát triển của chúng”. Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như mẫu gương và người hướng dẫn cho con cái của chúng ta trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong xã hội hiện đại, vai trò người chồng, người cha trong gia đình được thể hiện đa dạng và có nhiều thử thách khắc nghiệt hơn. Thật khó để chu toàn hai nhiệm vụ cách song song được. Có người nói rằng là người chồng tốt, đương nhiên phải là người cha tốt. Tuy nhiên, một người cha tốt chưa chắc đã là người chồng tốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho các người làm cha trong gia đình, để họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình. Amen.
39.Thánh Giuse là người chồng, người cha mẫu mực-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính Thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa: “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo hoàng Piô IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08. 12. 1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.
1. Bạn đời của Đức Nữ Trinh
Tin Mừng ghi lại: “ Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kính đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Mẹ Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ Bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời Thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn: cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22); “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ); “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ); cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật là vị hôn phu của Ðức Maria.
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
2. Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, Đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (Lc 2, 27. 41).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả: Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! “ Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? “ (Lc 2 , 48 – 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha “ của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
3. Gưỡng mẫu cho người trưởng gia
Trong buổi Yết Kiến Chung (28/1/2015), Đức Thánh Cha Phanxicô đã than phiền: “Thật buồn là trong các xã hội hiện nay của chúng ta, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha”. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh của người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha. “ Đức Thánh Cha cho biết: “Thiếu vắng hình bóng người cha, người trẻ thường cảm thấy ‘mồ côi’, bị bỏ trôi dạt lênh đênh vào thời điểm then chốt trong sự trưởng thành và phát triển của chúng. “ Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như những mẫu gương và những người hướng dẫn cho con cái của chúng ta trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Thật vậy, với bao trách nhiệm gia đình phải gánh vác, nhiều người không biết làm ông, làm bố thế nào cho phải cho nên. Xem ra họ phải chấp nhận mọi hy sinh vì điều thiện hảo cho gia đình của họ. Họ mong ước được người vợ và con cái chia sẻ tình thương để bù lại cho những mệt nhọc phải chịu. Thì thánh Giuse là mẫu gương sống động cho chính họ học đòi bắt chước, trong vai trò làm chồng cách quảng đại, làm cha gương mẫu và làm chủ gia đình cách tận tụy sáng suốt.
Kính xin Thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho tất cả các người cha và bảo vệ những người làm cha trong gia đình. Ước chi mỗi người trong họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa trong khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình.
Nguyện xin Thánh Giuse và Mẹ Maria rất thánh, Nữ Vương các gia đình và là Mẹ của Giáo Hội, (nguyện xin hai Ðấng) cầu cùng Chúa cho chúng con được hồng ân chúng con xin. Amen.
40.Noi Gương Thánh Giuse Sống Lòng Thương Xót--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(2 Sm 7, 4-5a. 12-14. 16; Rm 4, 13. 16-18. 22; Mt 1, 16. 18-21. 24a)
Thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính dễ mến, dễ thương, là gương tốt lành cho giới gia trưởng, được Giáo hội đề cao như là mẫu gương cho người thế noi gương, bắt chước, học đòi về sự công chính và lòng từ bi thương xót.
Tin mừng gọi là người công chính. Công chính trước hết có nghĩa là tuân giữ luật Chúa (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu, (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Thánh Giuse là người có lòng thương xót, đính hôn với Maria như bao thanh nam nữ tú khác. Theo phong tục Do thái, khi hai người nam nữ đính hôn đã thành vợ chồng, dù chưa chung sống với nhau. Muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.
Thế mà Maria đã có thai trước khi về chung sống. Giuse thật khó xử. Tin mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Vì nhân hậu và thương xót, Giuse không tố cáo, làm nhục Maria, người mà ông rất tin tưởng, mến yêu và quí trọng; càng không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi. Vì công chính, hành động theo ý Chúa, nên Giuse sau lời giải thích của Thiên thần, đã tín thác hoàn toàn, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Vốn là người vâng nghe ý Chúa, Giuse đã sống ơn gọi làm chồng cách trung thành. Vì thế, thánh nhân trở nên người chồng mẫu mực của Đức Maria, người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Nếu như Đức Thánh Cha Phanxicô nói, thế giới hôm nay rất cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, các gia đình chúng ta hôm nay đang rất cần có những người chồng, người cha công chính và có lòng thương xót như thánh cả Giuse biết bao. Đó là lý do chúng ta mừng kính để xin người cầu thay nguyện giúp cho các người cha.
“Hãy cứu lấy các gia đình hỡi những người cha” là lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđitô, ngài tiếp: “các gia trưởng sẽ bớt bài bạc, bớt những chén rượu, bớt đi những cuộc vui vô bổ, để làm gương sáng cho vợ con về lòng tin; siêng năng cầu nguyện và đến với Chúa …”. Thánh Giuse đã làm điều đó, đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, dẫn về thành Nagiarét, lên Đền thờ dự lễ và vui sống bình an.
Thật là đẹp khi ta thấy người chồng một tay dắt vợ, với nách ôm con đến nhà thờ dự lễ. Kết hôn, người nam sẽ bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ mình, hai người nên một, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe. Logo Năm Thánh Lòng Thương Xót, họa sỹ vẽ Chúa Giêsu vác Ađam lên vai, hai mắt nhìn vào nhau 2 con người với 3 con mắt. Không phải ngài vẽ thiếu, nhưng chủ đích muốn nói chính tình yêu và Lòng Thương Xót hòa quyện giữa Thiên Chúa và con người với nhau, để Ađam hướng nhìn vào Thiên Chúa thì khám phá ra lòng Chúa xót thương. Và Chúa Giêsu nhìn chúng ta với con mắt của Ađam để thấy được những lỗi lầm thiếu xót, những đau khổ gian nan mà con người phải chịu do tội lỗi, để ôm ấp, yêu thương và chữa lành. Từ đó, ta nhìn anh em với con mắt của chính Chúa Giêsu, để sống lòng thương xót của Thiên Chúa với tha nhân.
Nếu người chồng mà nhìn vợ bằng con mắt của vợ, mang lấy tâm tư, vui buồn, sướng khổ của người vợ, và người vợ nhìn chồng bằng con mắt của người chồng, mang lấy ý muốn, tâm tư, cố gắng thực hiện ước mơ của người chồng thì thật hạnh phúc.
“Tình yêu là sứ mạng của chúng ta” là chủ đề của ĐHGĐTG tại Philadelphia vừa qua. Tình yêu là cốt lõi làm nên ý nghĩa cho đời sống gia đình. Nếu Thiên Chúa không yêu thương thì không tạo dựng gia đình, không có mầu nhiệm nhập thể, và không có chết trên Thánh giá. Cũng vậy, không có tình yêu, chẳng ai dại gì mà kết hôn với nhau cho nó nặng nề. Có tình yêu, người ta mới sống với nhau trong tình nghĩa vợ chồng, hy sinh, quên mình để sống cho người khác. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Thiên Chúa gieo mầm tình yêu đó nơi mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đến để tỏ lộ lòng thương xót của Chúa Cha và trao cho chúng ta sống và biểu lộ tình yêu ấy cho đồng loại. Tình yêu là sứ mạng thì chúng ta phải sống, và nhóm lên ngọn lửa để gieo niềm tin và hy vọng trong đời sống gia đình.
Nhìn vào Logo Năm Thánh thấy Chúa Giêsu vác con người tội lỗi trên vai, cụ thể hơn, nhìn thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, hai cha con nhìn nhau làm tôi nhớ tới anh Đinh Văn Mạnh cõng vợ là Lương Thị Hà bị mất chân sau một vụ tai nạn “đi khắp thế gian” (phát sóng ngày 9/5 trên VTV3). Hay là ông Lê Xuân Hồng cõng con là Lê Xuân Bách (xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, Phú Thọ) suốt 20 năm trời đến trường, theo đuổi giấc mơ đỗ Đại học, phát sóng trong chương trình Điều ước thứ 7 ngày 24/10 thật là cảm động. Dĩ nhiên là có mẹ em động viên, an ủi. Ba con người, ba trái tim giàu tình yêu thương, họ sống bên nhau, nương tựa vào nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Chưa hết, ngày con nhập trường cũng là ngày ông cùng con lên trường xin làm bảo vệ để tiếp tục cõng con. Người vợ nói rằng, ông Hồng là người đàn ông tuyệt nhất thế gian.
Vợ chồng, hay bố mẹ cõng nhau xem ra bình thường, nhưng Báo Dân Trí có đăng em Nguễn Văn Phong cõng bạn là Lê Xuân Tú (cùng sinh năm 1998, chung lớp 11C5) đến trường suốt 5 năm trời vì thương bạn quá. Tình bạn không vơi, Tốt nghiệp THCS, Tú và Phong lại thi đậu vào trường THPT Nguyễn Đức Mậu (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) và được xếp vào cùng một lớp.
Đó không phải là thực hành sứ mạng tình yêu và lòng thương xót trong gia đình noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse như Chúa dạy đó hay sao.
Kính xin thánh Giuse từ Trời cao trợ giúp các gia đình chúng ta, đặc biệt là những người cha. Amen.
41.Thánh Giuse, Mẫu Gương Cho Các Người Cha-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày 19 tháng 3, toàn thể Hội Thánh hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính dễ mến, dễ thương, là gương tốt lành cho các bậc làm cha làm chủ trong gia đình.
Trong khung cảnh của Mùa Chay Thánh, nổi bật lên khuôn mặt của Thánh Giuse – vị thánh vĩ đại được Giáo hội đề cao như là mẫu gương cho người thế noi gương, bắt chước, học đòi. Ngài là mẫu mực sáng láng về cách ăn nết ở trong nhà, là vị gia trưởng thánh thiện, vâng phục, khiêm cung trong gia đình Nagiarét.
Tin mừng gọi thánh Giuse là người công chính. Công chính trước hết có nghĩa là tuân giữ luật Chúa (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là nhân hậu, và trắc ẩn (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Đức công chính của thánh Giuse xem ra nổi bật hơn cả. Chẳng thế, Giuse đính hôn với Maria như bao thanh nam nữ tú thời bấy giờ. Theo phong tục Do thái, khi hai người nam nữ đính hôn, trước luật pháp đã thành vợ chồng, nhưng chưa chung sống; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về sống chung. Thời gian đính hôn, muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.
Thế mà Maria đã có thai trước khi về chung sống. Giuse thật khó xử. Tin mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Vì công chính, Giuse không tố cáo Maria, hay làm nhục người mà ông thương mến yêu; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi. Vì công chính, nên Giuse hành động theo ý Chúa, sau lời giải thích của Thiên thần, Giuse tín thác hoàn toàn, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Vốn là người vâng nghe ý Chúa, Giuse đã sống ơn gọi làm chồng cách trung thành. Vì thế, thánh nhân trở nên người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Nếu như Đức Thánh Cha Phanxicô nói, gia đình nhân loại hôm nay cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa biết bao. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, các gia đình hôm nay đang rất cần có những người chồng, người cha công chính và có lòng bác ái như thánh cả Giuse.
“Hãy cứu lấy các gia đình hỡi những người cha” là lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđitô, ngài tiếp: ”Các gia trưởng sẽ bớt bài bạc, bớt những chén rượu, bớt đi những cuộc vui vô bổ, để làm gương sáng cho con cái về lòng tin; để con cái siêng năng cầu nguyện và đến với Chúa khi nhìn vào cha mẹ của mình. . . “. Thánh Giuse đã làm điều đó, đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, dẫn về thành Nagiaréth vui sống bình an.
“Tình yêu là sứ mạng của chúng ta” là chủ đề của ĐHGĐTG tại Philadelphia năm 2015. Tình yêu là cốt lõi làm nên ý nghĩa cho đời sống gia đình. Nếu Thiên Chúa không yêu thương thì không tạo dựng gia đình, không có mầu nhiệm nhập thể, và không có chết trên Thánh giá. Cũng vậy, không có tình yêu, chẳng ai dại gì mà kết hôn với nhau cho nó nặng nề. Có tình yêu, người ta mới sống với nhau trong tình nghĩa vợ chồng, hy sinh, quên mình để sống cho người khác. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Thiên Chúa gieo mầm tình yêu đó nơi mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đến để trao cho chúng ta sống và biểu lộ tình yêu ấy cho đồng loại.
Yêu là luôn nghĩ tốt, nỗ lực làm tốt, nói tốt, muốn điều tốt nhất cho người mình yêu. Tình yêu là sứ mạng, thì các gia đình Công Giáo phải thay đổi cách nhìn về gia đình, vì hôm nay ly dị quá nhiều, gia đình bị tan nát, gia đình hai người nam, hoặc nữ kết hôn với nhau. Một bức tranh tăm tối, ảm đạm phủ trên gia đình. Giáo hội phải có sứ mạng tình yêu đó, nhóm lên một ngọn lửa nhỏ để gieo niềm và hy vọng trong đời sống gia đình.
Thánh Giuse là người biết nhìn lên, luôn cố gắng đáp lại kế hoạch của Thiên Chúa. Thánh Giuse cũng là người biết nhìn xuống Đức Maria và Chúa Giêsu, đồng thời cố gắng giải thích những hành động của họ cách thiện ý nhất. Nhìn thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, hai cha con nhìn nhau làm chúng ta nhớ tới anh Đinh Văn Manh cõng vợ là Lương Thị Hà “đi khắp thế gian” (phát sóng ngày 9/5 trên VTV3, Đài truyền hình Việt Nam). Hay là ông Lê Xuân Hồng cõng con là Lê Xuân Bách (xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, Phú Thọ) suốt 20 năm trời đến trường, theo đuổi giấc mơ đỗ Đại học phát sóng trong chương trình Điều ước thứ 7 ngày 24/10 thật là cảm động. Sau những thành công mà hai cha con vất vả đạt được luôn có hình bóng người mẹ động viên, an ủi. 3 con người, ba trái tim giàu tình yêu thương, họ sống bên nhau, nương tựa vào nhau trong khó khăn, hoạn nạn nhưng lại chưa bao giờ kể cho nhau nghe những tâm tình từ đáy lòng. Chưa hết, ngày con nhập trường cũng là ngày ông cùng con lên trường xin làm bảo vệ để tiếp tục cõng con. Người vợ nói rằng, ông Hồng là người đàn ông tuyệt nhất thế gian.
Vợ chồng, hay bố mẹ cõng nhau xem ra ruột thịt, nhưng Báo Dân Trí có đăng em Nguyễn Văn Phong cõng bạn là Lê Xuân Tú (cùng sinh năm 1998, chung lớp 11C5) đến trường suốt 5 năm trời vì thương bạn quá. Tình bạn không vơi, Tốt nghiệp THCS, Tú và Phong lại may mắn thi đậu vào trường THPT Nguyễn Đức Mậu (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) và được xếp vào học cùng một lớp.
Đó không phải là thực hành sứ mạng tình yêu và lòng bác ái trong gia đình noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse như Chúa dạy đó hay sao.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao trợ giúp các gia đình chúng ta, đặc biệt là những người cha. Amen.
42.Thánh Giuse, người Cha tuyệt vời- Logos năm C
Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau:
Trong gia đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh. v. v…
Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.
Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía cô.
Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm này.
Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là cô thoát nạn!
Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.
Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse.
Mặc dù chỉ là người cha nuôi của Chúa Giêsu, nhưng vai trò làm cha của thánh Giuse thật đặc biệt. “Sứ mạng làm cha” của thánh Giuse xuất phát từ Thiên Chúa, Người Cha đích thực của Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã trao cho thánh Giuse sứ mạng cao cả ấy như một vinh dự lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Từ đó, thánh Giuse trở thành “Người Quản Lý trung tín và khôn ngoan” được đặt lên để coi sóc gia đình Chúa.
Thánh Giuse, người cha thánh thiện
Phúc Âm thuật lại Mẹ Maria kết hôn với thánh Giuse. Trước khi về chung sống với nhau, Mẹ Maria có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse, là Người công chính, không muốn tố cáo Mẹ Maria, nên định tâm lìa bỏ Mẹ một cách âm thầm. Đang khi ấy, sứ thần báo mộng cho thánh Giuse biết Mẹ Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần và con trẻ Giêsu chính là Vị Cứu Thế. Khi thức giấc, thánh Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy và đón Mẹ Maria về nhà.
Thánh Giuse được gọi là Người công chính vì đã biết thực thi ý Thiên Chúa. Nếu Mẹ Maria đã thưa lời “xin vâng” với Thiên Chúa, thì Thánh Giuse cũng thưa lời “xin vâng” giống như vậy. Nhưng Người thưa “xin vâng” không bằng lời nói mà bằng việc làm trong suốt cuộc đời. Lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa chính là sự thánh thiện nơi thánh Giuse.
Thánh Giuse đã trở thành dòng suối ơn lành của Thiên Chúa tuôn chảy tràn lan cho nhân loại. Nhưng để có giòng suối ấy, phải có muôn ngàn mạch nước nhỏ góp thành. Cuộc đời thánh Giuse được chan chứa ân sủng phát xuất từ nguồn mạch bất tận là Thiên Chúa chí thánh.
Thánh Giuse, người cha siêng năng cần mẫn
Dù Chúa Giêsu là “Con Nuôi” và Mẹ Maria là “Người Vợ Trinh Khiết”, nhưng đã được thánh Giuse tận tình chăm sóc, bảo vệ bằng tất cả khả năng và sức lực của mình với sự tận tụy và trung thành.
Đối diện với những thử thách và gian nan, thánh Giuse đã dùng đôi tay đầy nghị lực của người cha, người chồng gương mẫu mà dẫn dắt Thánh Gia vượt qua.
Để bảo vệ Thánh Gia, giữa đêm khuya, Người đưa Chúa và Mẹ trốn sang Ai cập, rồi cũng đang đêm Người lại đưa Chúa và Mẹ về Nazareth.
Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc. Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là Mái Ấm Tình Yêu.
Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền Hình Bình Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất Tiếng Hát”. Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận An.
Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn tay lại thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia đình.
Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.
Không phải chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo dựng một mái ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành “mái nhà” đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.
Hôm nay, mừng lễ thánh Giuse, bổn mạng của Hội Thánh toàn cầu, bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam, bổn mạng của giáo phận Xuân Lộc. Chúng ta hãy xin thánh Giuse luôn phù trợ và dẫn dắt chúng ta can đảm bước đi trên cuộc hành trình đức tin và nhiệt tâm lên đường loan báo Tin Mừng.
Thánh Giuse cũng là quan thầy của các gia trưởng, bổn mạng của các người cha, bổn mạng của các người chồng. Chúng ta cầu nguyện cho các gia trưởng luôn noi gương thánh Giuse trung tín và khôn ngoan trong vai trò người cha, người chồng trong gia đình, luôn biết trở thành người thuyền trưởng đầy tinh thần trách nhiệm trên con thuyền gia đình, biết lèo lái con thuyền vượt qua phong ba bão táp đến bến bờ bình yên và hạnh phúc.
43.Thánh Giuse Lao Động, Người Cha tuyệt hảo--WHĐ
Khi tôn vinh Thánh Giuse như vị đại thánh và thân thương gọi Ngài là Thánh Cả, Hội Thánh đã dành ngày 19-3, ngày 1-5, và trọn cả tháng Ba để kính Ngài. Ngài được chọn là Đấng Bảo Trợ của Hội Thánh hoàn vũ, của Giáo hội Việt Nam và của các người làm cha trong gia đình. Tất cả là để mời gọi chúng ta – đặc biệt là mời gọi những người cha trong gia đình – cầu khẩn, chiêm ngắm và bắt chước các nhân đức của Ngài.
Thánh Giuse là hình ảnh sự thánh thiện của Chúa Cha
Chúa Cha là Đấng thánh thiện vô cùng, mà Thánh Giuse được chọn làm hình ảnh của Chúa Cha, nên Thánh cả cũng là gương mẫu của sự thánh thiện. Phúc Âm nói về sự thánh thiện của Ngài như sau: “Ông Giuse là người công chính” (Mt 1,19). Sự công chính là điều mà mọi Kitô hữu cần phải vươn tới.
Thánh Giuse là hình ảnh tình yêu của Chúa Cha
Được chọn làm Cha của Chúa Giêsu, chắc chắn Thánh Giuse cũng cảm nhận về Chúa Giêsu như Chúa Cha: “Con là con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha vô cùng!” (Mt 3,17). Thật vậy, chỉ có Thánh Giuse mới được bồng ẵm và yêu thương Chúa Giêsu như người con rất yêu quý của mình. Dường như chính Chúa Cha sống trong Thánh Giuse để yêu thương và bảo vệ Chúa Con. Sứ mạng này cao cả biết bao!
Thánh Giuse là hình ảnh lòng thương xót của Chúa Cha
Thánh Giuse được Chúa Cha chọn làm Cha của Chúa Giêsu, nên chắc chắn Chúa Cha cũng đã muốn tỏ lộ mình là người Cha đầy lòng thương xót qua cuộc sống của Thánh Giuse. Khi xưa, Thánh Giuse đã thể hiện lòng nhân từ xót thương này khi đón nhận Đức Maria và chăm sóc Hài nhi Giêsu bé bỏng qua mọi gian nan đầy thử thách. Ngày nay, Thánh Giuse cũng thương xót và chăm sóc chúng ta như đã chăm sóc Chúa Giêsu vì chúng ta là em Chúa Giêsu. Thật an ủi cho chúng ta, vì Thánh cả có thần thế trước mặt Chúa, sẽ luôn bầu cử hữu hiệu cho chúng ta.
Người Cha Mẫu Mực
Thánh Giuse luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha: Nhận Đức Maria về làm vợ, lo tìm chỗ hạ sinh cho Đấng Cứu Thế, dẫn Chúa Giêsu và Mẹ Người trốn sai Ai Cập, lao động cực nhọc để chăm sóc Thánh Gia Thất, đem Chúa Con lên Đền thờ dự lễ, và dưỡng dục Chúa Con suốt 30 năm tại Nadaret.
Noi gương Thánh Giuse, các gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Mẫu Mực.
Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.
“Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’. Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”
Người con đã có được tình thương đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý giá nhất.
Mẫu Mực về lòng Hiếu Thảo. Người cha dạy con hiếu thảo bằng hành động, không dạy theo khuôn sáo. Chẳng hạn, thay vì bắt con phải nhớ câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” thì sai con đem tô canh sang biếu ông bà nội ăn cho mát ruột. Dặn con khi đến nhà ông bà phải chào hỏi tử tế; khi về phải khoanh tay, cúi đầu lễ phép.
Mẫu Mực về tính Ngay Thẳng. Người cha không nói dối, nhất là trước mặt con cái. Kinh Thánh viết: “Có thì nói có, không thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37). Mahatma Gandhi, khi còn nhỏ, đã nói dối mẹ một lần. Bà bỏ ăn ba ngày. Quá đau lòng, cậu Gandhi đã lấy một cục than đang cháy đỏ, đặt vào lòng bàn tay và thưa: “Con thề với mẹ, từ nay con không bao giờ nói dối nữa”. Bà mẹ mỉm cười và nói: “Có như thế, mẹ mới có thể sống với con”. Sau này, ông đã trở thành Thủ tướng Ấn Độ, những gì ông đã hứa thì kể như đã thành hiện thực.
Mẫu Mực về tình Bác Ái. Người cha nêu gương cho con về lòng yêu người bằng cách giúp đỡ kẻ nghèo hèn, túng thiếu. Đưa tiền cho con bỏ giỏ nhà thờ, quyên góp lũ lụt thiên tai. Dẫn con đi ủy lạo trại dưỡng lão, viện mồ côi, trường khuyết tật… Ông cha ta đã dạy: “Thấy ai đói rách thì thương Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn”.
Mẫu Mực về tính Chung Thủy: Dân gian có câu: “Con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ” để nói về luật nhân quả giữa cha mẹ và con cái: “Cha nào con nấy” hay “Hổ phụ sinh hổ tử”. Nếu muốn cho con cái biết chung thuỷ giống như mình, người cha phải hằng cảnh giác với chính bản thân của mình. Mẩu đối thoại giữa hai chị hàng xóm khá ý nhị và thâm thúy dưới đây nhắc nhở các người cha về điều ấy:
– Ông giám đốc có nhà không chị?
– Hình như nhà tôi đi họp.
– Chị phải kiểm tra ông xã xem, họp hành gì giờ này?
– Ôi dào! Ông ngoại rồi chứ có phải trẻ con nữa đâu!
– Chị ngây thơ quá! Ông giời còn giở chứng nữa là ông ngoại!
Người Cha Yêu Thương
Thánh Giuse rất mực yêu thương Chúa Giêsu. Vì yêu thương, thánh nhân đã phải long đong tìm chỗ hạ sinh cho Hài Nhi Giêsu, đem Con trốn khỏi tay bạo Chúa độc ác Hêrôđê, vất vả dạy con làm nghề thợ mộc, “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” suốt 30 năm tại làng quê Nadaret để chăm sóc, dưỡng nuôi và giáo dục Chúa Giêsu.
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không, yêu con mà kết quả lại hại con, như câu chuyện dưới đây:
“Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp. Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.
Ông mắng đứa con gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.
Người cha giật thót tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!
Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp”.
Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân thành như thế!
Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8). Vì thế, người cha sẽ bày tỏ Tình yêu của Thiên Chúa qua trách nhiệm làm cha của mình. Chính qua tình thương của người cha mà con cái hiểu và cảm nhận được Tình yêu của Thiên Chúa. Đứa con cảm nhận được tình thương của cha sẽ trở nên dễ thương và dễ dạy. Đừng nổi nóng hay quát nạt, hãy nói những lời yêu thương, an ủi và động viên.
Muốn dạy con cái nên người, chúng ta cần phải dỗ. Không dỗ không dạy được. Dỗ là biểu lộ tình thương ngọt ngào, ân cần và mềm dẻo. Thay vì nói: “Học bài đi, không học là bố đánh đòn!”, thì nói thật ngọt ngào: “Học bài đi con, nghe cô giáo khen con học giỏi, bố hãnh diện về con lắm!”. Cha ông ta có câu “Giáo đa thành oán”: dạy nhiều, nói nhiều, răn đe nhiều, mà không khéo léo dỗ dành, con cái sẽ khó chịu, không thèm nghe nữa.
Người cha thường xuyên nói chuyện với con cái thì cha con mới hiểu nhau, thông cảm nhau và có tình thân với nhau. Người cha Yêu Thương là biết dành thời gian chơi chung với con, nhờ đó hiểu tính khí và ước mơ của con. Người cha Yêu Thương là tìm thời gian thích hợp để dạy giới tính cho con. Như thế, mới thật là người cha tuyệt hảo!
Người Cha Nhân Hậu
Thánh Giuse đích thực là người cha Nhân Hậu: Trong biến cố lạc mất Chúa Giêsu trong Đền thờ, Thánh Giuse rất đau khổ và lo lắng. Nhưng khi tìm được rồi, thánh nhân không một lời trách móc. Ngài chỉ im lặng để lắng nghe Thánh ý Chúa và thực thi Thánh ý Người.
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”
“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!…”
Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên”.
Người cha Nhân Hậu là người trở nên bạn của con như Chúa Giêsu với các môn đệ: “Thầy gọi anh em là bạn hữu”. Khi con cái xem ta là bạn, chúng mới bày tỏ ý nghĩ trong đầu, không giấu giếm sự gì. Lúc đó, ta mới dạy dỗ chúng được.
Người cha Nhân Hậu là người hiểu được nỗi lòng của con để an ủi, động viên hay nâng đỡ, khích lệ. Người cha Nhân Hậu là người không dán nhãn cho con, vì một lần dán nhãn, thì chín lần gỡ ra không được. Người cha Nhân Hậu là người không so sánh con với trẻ khác, vì so sánh khiến con trẻ thiếu tự tin và bị tủi hổ. Người cha Nhân Hậu là người không ra lệnh một chiều, không áp đặt, độc đoán; trái lại, luôn thăm dò ý con và hướng dẫn con đúng thời, đúng buổi.
Lời kết
Thánh Phaolô dạy: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6, 4). Trong Tông huấn gởi các gia đình, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Phúc Âm tình yêu là nguồn mạch bất tận nuôi dưỡng các gia đình Công giáo”. Vì thế, các bậc gia trưởng gương mẫu bao giờ cũng sẵn sàng bẻ đời mình ra và trao ban cho con cái bằng cách trở nên người cha: Mẫu Mực, Yêu Thương và Nhân Hậu.
Con cái ngoan hiền là triều thiên của cha mẹ. Phần thưởng lớn lao trong lúc tuổi già, sẽ dành cho những cha mẹ nào biết quan tâm giáo dục con cái:
“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau”.
Lạy Thánh Giuse, xin giúp các gia trưởng chúng con nên giống thánh nhân, luôn chu toàn bổn phận làm cha, là trở nên một người cha Mẫu Mực, Yêu Thương và Nhân Hậu, như Chúa Cha là Đấng giàu lòng thương xót. Amen.
44.Thánh Giuse, người chồng tốt, người cha hiền--Logos năm B
Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ về sự trợ giúp của thánh Cả Giuse như sau:
Tại một giáo xứ miền quê, vào một đêm kia, có ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh nhân là một người đàn ông trong làng.
Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục nhanh chóng đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì không có ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn lo cho người bệnh đang hấp hối.
Không kịp tìm hiểu, vị linh mục ban những bí tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người đàn ông ra đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.
Khi xong xuôi mọi việc, vị linh mục đi tìm ông cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ ra một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy khốn. Con tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con trong cơn nguy tử”.
Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình và nhớ lại: ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!
Câu chuyện trên là một lời minh chứng hùng hồn cho thấy: Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho những ai chạy đến với Người. Tất cả những ai đến với thánh Giuse, đều được Người ra tay cứu vớt, phù hộ.
Để phác họa dung mạo và sứ mệnh của thánh Giuse trong đời sống Chúa Kitô và Giáo Hội, ngày 15/8/1989 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành Tông huấn ”Đấng Gìn Giữ Chúa Cứu Thế” (Redemptoris Custos). Đức Giáo Hoàng muốn khẳng định rằng: thánh Giuse là ”Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế”, thì cũng gìn giữ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội và tất cả chúng ta.
Hôm nay, mừng lễ thánh Giuse, để tìm hiểu thế nào là “Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế và Giáo Hội”, chúng ta cùng chiêm ngưỡng hai khía cạnh nổi bật trong dung mạo của Người:
Thánh Giuse, người chồng tốt lành
Bài Tin Mừng theo thánh Matthêu kể lại: sau khi đính hôn với Đức Maria, thánh Giuse khám phá thấy Đức Maria đã mang thai. Vì là người công chính, không muốn tố cáo Đức Maria, thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo. Thế nhưng, sau khi được mộng báo về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Giuse đã đón nhận Maria về nhà làm vợ mình.
Qua trình thuật Tin Mừng, chúng ta thấy được nét đẹp trong mối duyên phu phụ của thánh Giuse: chính Thiên Chúa đã kêu gọi thánh Giuse bước vào mối duyên tình yêu đó. Chính Thiên Chúa đã trao cho thánh Giuse sứ mệnh trở thành phu quân của Đức Trinh Nữ. Vì thế, vai trò làm chồng của thánh Giuse xuất phát từ Thiên Chúa.
Là một người chồng vừa thánh thiện vừa trinh khiết, thánh Giuse luôn đồng hành với Đức Trinh Nữ Maria trên đường đời, làm chứng cho sự đồng trinh của Đức Mẹ và trở thành người bảo vệ danh dự và phẩm hạnh cho Đức Mẹ.
Là một người chồng có tinh thần trách nhiệm, thánh Giuse luôn nâng đỡ, bảo vệ Đức Mẹ từ hang đá Bêlem cho đến cuộc chạy trốn sang Ai Cập và trở về Nagiarét. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thánh Giuse cũng luôn chứng tỏ là một người chồng gương mẫu. Thánh Giuse luôn trở thành mẫu gương sống động cho mọi người chồng qua muôn thế hệ.
Thánh Giuse, người cha nhân hiền
Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố Đức Mẹ và thánh Giuse lạc mất Chúa Giêsu tại Giêrusalem. Sau khi tìm lại được Chúa Giêsu, Đức Mẹ đã kêu lên: ”Cha con và Mẹ đây đã đau khổ tìm con” (Lc 2, 41-51a). Đoạn Tin Mừng thật cảm động: qua lời xác nhận của Đức Mẹ, thánh Giuse chính là một người cha. Nhưng không phải người cha bình thường, mà là người cha giàu lòng phụ tử: đã bôn ba, vất vả bất kể ngày đêm, đi tìm kiếm người con đi lạc.
Một trong những nét nổi bật của thánh Giuse mà các sách Tin Mừng thuật lại là tình phụ tử cao vời của người. Dù chỉ là cha nuôi, thánh Giuse đã tận tình chăm sóc, bảo vệ Chúa Giêsu bằng tất cả khả năng và sức lực của một người cha. Với lòng dũng cảm và hy sinh, thánh Giuse đã dẫn dắt Chúa Giêsu và Mẹ Maria vượt qua biết bao thử thách gian nan. Chính trong những gian truân vất vả, vai trò làm cha của thánh Giuse mới được thể hiện một cách trọn vẹn nhất. Với đôi tay cần mẫn siêng năng, đôi tay đã từng chai sạn vì lao động vất vả trong xưởng mộc Nagiarét, thánh Giuse đã nuôi dưỡng Chúa Giêsu và Mẹ Maria với tất cả tình yêu trong trái tim của người chồng tốt, người cha hiền. Thánh Giuse xứng đáng là người cha gương mẫu cho mọi thế hệ và thời đại.
Chúng ta có thể tìm thấy một hình ảnh đẹp đẽ nơi thánh Giuse với tư cách là người chồng tốt lành và người cha nhân hiền. Đó là thánh Giuse luôn có một đôi vai thật rộng, thật vững vàng. Đôi vai ấy gánh vác tất cả trách nhiệm đối với Thánh Gia Thất. Trên đôi vai ấy, một bên là “Con Thiên Chúa”, một bên là “Mẹ Thiên Chúa”, đã không làm cho thánh Giuse quỵ ngã trên đường đời. Trái lại, như người đầy tớ trung tín và khôn ngoan, thánh Giuse đã chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó một cách tốt đẹp.
Hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho các gia trưởng luôn có một đôi vai cứng cáp như đôi vai của thánh Giuse, luôn can đảm và trung thành mang vác những gánh nặng của gia đình với tư cách là người chồng và người cha tốt lành.
Khi đứng trước một cơn bão đang đến gần, chim đại bàng thường có một thái độ rất đặc biệt: nó không chạy trốn đến một vùng trời thanh bình, yên ổn. Trái lại, theo bản năng, nó sẽ bay lên một đỉnh cao quen thuộc trên núi và chờ cho gió ào ào thổi đến.
Khi cơn bão đến, chim đại bàng giang rộng đôi cánh, buông mình vào gió bão. Nó xòe đôi cánh để cho gió nâng nó lên và đưa nó vượt lên trên cơn bão. Khi cơn bão hoành hành ở dưới, thì đại bàng bình yên ngay ở phía trên. Nó sử dụng năng lượng của cơn bão để bay thật cao, thật xa.
Thánh Giuse không chạy trốn trước những thử thách và gian truân, nhưng người đã buông mình vào tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa để vươn lên cao. Chúng ta hãy noi theo gương mẫu của thánh Giuse để luôn vươn lên từ những khó khăn và vất vả đời thường, trung thành đi theo Chúa trên cuộc hành trình đức tin của người kitô hữu hôm nay.
45.Thánh Giuse, người Cha tuyệt vời--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy chỉ nhắc đến tên và một số đặc tính của thánh Giuse, chứ tuyệt nhiên không hề có chỗ nào ghi lại lời nói của ngài. Tuy nhiên, chỉ nhắc tới ngài thôi, thì cũng đủ để cho chúng ta thấy được vai trò ưu tuyển của ngài trong lịch sử cứu độ và nơi truyền thống của Giáo Hội.
Thật vậy, từ lâu, Giáo Hội đã tuyên xưng ngài là ”đấng công chính”; “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”; là ”bạn trăm năm của Đức Nữ Trinh”; là ”đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội”; là ”mẫu gương sống động cho những người cha nơi các gia đình”.
Vậy do đâu và tại sao ngài lại được ân thưởng những đặc ân cao quý như vậy?
Thánh Giuse là đấng công chính
Có lẽ xét về góc độ bề ngoài, thánh Giuse không có gì trổi vượt, thậm chí là một người bình thường như mọi người đàn ông nông dân khác thời bấy giờ. Nhưng xét về góc độ niềm tin, chúng ta dễ dàng nhận ra ngài là một anh hùng vì can đảm và tín trung.
Khi gọi ngài là “đấng công chính”, Giáo Hội muốn nói với con cái mình rằng: thánh Giuse là người thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn, vì đã gắn bó và trung thành tuân giữ lời của Thiên Chúa cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh.
Lần giở lại Kinh Thánh, chúng ta thấy việc Thiên Chúa sai sứ thần mộng báo cho thánh Giuse luôn mang tính đột ngột. Nhưng thái độ đáp ứng của thánh nhân cũng mau mắn đến độ đột ngột không kém.
Trong lần báo mộng đầu tiên, ý Thiên Chúa muốn thánh Giuse đón nhận Mẹ Maria về chung sống, để Con Thiên Chúa có một mái ấm gia đình bình thường như mọi gia đình khác trên trần gian. Nhưng đặt mình trong hoàn cảnh của thánh nhân lúc bấy giờ, thì việc đón nhận thánh ý Thiên Chúa thật không dễ, vì thai nhi Giêsu đang lớn dần trong cung lòng Mẹ Maria không phải của ngài, mà do quyền năng Chúa Thánh Thần. Xét theo góc độ con người thì việc đón nhận này không dễ. Tuy nhiên, thánh nhân đã không ngần ngại khi được giả thích, nên sẵn lòng đón Đức Mẹ về sống chung để cùng nhau xây dựng một gia đình thánh.
Tiếp theo là lần báo mộng thứ hai, ý Thiên Chúa mặc khải cho biết bạo chúa Hêrôđê đang tìm cách giết Con Trẻ, vì thế phải trốn sang Aicập ngay trong đêm; thánh nhân cũng mau mắn thi hành cách vội vã vì sự an toàn của tính mạng Con Thiên Chúa.
Lần cuối cùng, thánh nhân được báo mộng là đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lại Nazareth, vì hòa bình đã lập lại; thánh Giuse không ngần ngại đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lạ quê hương xứ sở của mình cách an toàn.
Thêm vào đó, sau khi đi lễ đền thờ, lúc trở về, ngài phát hiện được Hài Nhi Giêsu không về chung với mọi người thân thuộc, nên đã cùng với Đức Maria tức tốc trở lại đền thờ để tìm con.
Và, mặc dù không nói, nhưng chắc chắn rằng: suốt cuộc đời sống âm thầm nơi làng quê Nazareth… thánh Giuse luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa qua mọi biến cố thăng trần của cuộc sống được thể hiện qua vai trò người chồng và người cha trong gia đình. Thật vậy, thánh nhân là người rất nhạy bén với thánh ý của Thiên Chúa và mau mắn thi hành. Chính sự cộng tác cách tuyệt đối này của thánh Giuse mà lịch sử cứu độ chuyển sang trang sử mới.
Bởi vậy, thánh Giuse xứng đáng được gọi là ”đấng công chính” và là ”cha nuôi Con Đức Chúa Trời”.
Khi trở thành dưỡng phụ của Đức Giêsu, lẽ đương nhiên, ngài trở thành ”bạn trăm năm của Đức Maria”. Ngài là người chồng chung thủy và hết lòng yêu mến Mẹ Maria.
2. Thánh Giuse là đấng bầu chữa cho Giáo Hội
Thánh Giuse còn được gọi là đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội:
Thật thế, trải qua dòng lịch sử, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự bầu chữa của thánh nhân. Ngài luôn nâng đỡ những người nghèo khổ, kém may măn trong cuộc đời và nơi cuộc sống. Hình ảnh thánh Giuse hay làm phép lạ được truyền tai nhau khắp nơi. Đến nỗi người ta có thể nói rằng: ngài không quên ai chạy đến để cầu cứu ngài.
Thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila đã viết: ”Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh vinh phúc này”; thánh Têrêsa Avila viết tiếp: ”Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Ngài với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Ngài, mà nhận mọi lời Ngài cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm”.
Ý thức được tầm quan trọng của thánh nhân trong đời sống đức tin của Giáo Hội, và hết lòng tôn kính Ngài, vì thế, ngày 01. 01. 2013, Giáo Hội không ngần ngại khi đưa tên của thánh nhân vào trong Kinh Nguyện Thánh Thể với sắc lệnh số 215/11/L của Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Các Bí Tích. Vì thế, các Kinh Nguyện Thánh Thể đã nhắc tới danh xưng ”Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ” như một niềm tôn vinh và cũng như một lòng trông cậy.
Như vậy, thánh nhân thật xứng đáng trở nên Vị Bảo Trợ cho cả và Giáo Hội. Bên cạnh đó, ngài còn là mẫu gương các gia trưởng nơi các gia đình. Bởi vì, ngài là người chồng, người cha mẫu mực khôn ngoan.
3. Bài học rút ra từ cuộc đời thánh Giuse
Mừng lễ thánh Giuse, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng nhìn lên thánh nhân như một mẫu gương về lòng trung tín với Thiên Chúa, chung thủy với Đức Maria, luôn chu toàn trách vụ của người cha trong gia đình.
Thật vậy, thánh nhân là một con người thinh lặng, trầm tư, cầu nguyện… nên ngài dễ dàng nhận ra Thiên Ý và sẵn sàng mau mắn thi hành ý của Thiên Chúa trong cuộc đời. Sự thinh lặng của thánh nhân đã biến cuộc đời của ngài trở nên cuộc đời sống vì yêu. Yêu Chúa để thi hành mệnh lệnh. Yêu Mẹ Maria để sống chung thủy. Yêu mến Đức Giêsu để hết mực chăm lo. Yêu mến Giáo Hội để luôn bầu cử, trợ giúp… điều này thật đúng với tác giả Philippon, OP. đã nhận định về sự thinh lặng: ”Ai yêu mến sự thinh lặng, sẽ được dẫn tới sự thinh lặng của mến yêu”.
Đối với Giáo Hội Việt Nam, giáo dân đất Việt có lòng yêu mến ngài đặc biệt. Nhiều gia đình, dòng tu, chủng viện, học viện đã tôn nhận ngài là Đấng Bảo Trợ. Nhiều nhà thờ lấy tước hiệu của ngài. Nhiều đền đài được dựng lên tỏ lòng tôn kính. Nhiều cụ ông, và anh em đã chọn ngài làm bổn mạng. Khi gặp bất trắc gì trong cuộc sống, chúng ta đều chạy đến với Ngài.
Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng chưa tôn kính ngài cho đủ, và cũng nhiều khi chúng ta chưa noi gương ngài thực sự. Vì thế, mừng lễ thánh Giuse, nhất là năm nay, là năm ”Phúc Âm hóa đời sống gia đình”, chúng ta hãy xin thánh nhân bầu cử cho các gia đình chúng ta, luôn giữ được lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội như ngài; mặt khác, khi Giáo Hội dành trọn tháng 3 để tôn kính thánh nhân, mà theo niên lịch phụng vụ thì thường rơi vào Mùa Chay, mà Mùa Chay là mùa sám hối, vì thế, cách này, cáh khác, Giáo Hội muốn mời gọi mỗi chúng ta hãy trở về với sự thinh lặng, để gắn bó với Chúa, nhận ra thánh ý Chúa trên cuộc đời và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Chúa như thánh Giuse.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con mẫu gương tuyệt vời là thánh Giuse. Xin Chúa đón nhận lời bầu cử của thánh nhân mà ban cho chúng con được can đảm, trung thành và yêu mến luật Chúa; đồng thời đem ra thi hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.
46.Trở nên công chính nhờ biết thực thi Ý Chúa--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
(2Sm 7,4-5. 12-14. 16; Rm 4,13. 16-18. 22; Mt 1,16. 18-21. 24)
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ thánh Giuse, ngài là Đấng Công Chính, là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, là Cha Nuôi Đấng Cứu Thế.
Tuy nhiên, thánh Giuse được biết đến là một con người thinh lặng, âm thầm tuyệt đối, nhưng lại có một cuộc đời hoạt động không ngừng nghỉ cho công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa.
Chính vì điều đó mà thánh nhân được mệnh danh là người có một đời sống đức tin sâu xa, lòng trông cậy vững vàng và đức mến thiết tha.
Có được điều đó là vì thánh Giuse luôn tìm thánh ý Thiên Chúa thay cho ý riêng của mình. Ngài cũng sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, đau thương để thánh ý Chúa được nên trọn.
1. Từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa
Thánh Giuse là con cháu Vua Đavít, ngài thuộc dòng dõi hoàng tộc. Khi xuất thân từ con dòng cháu giống như vậy, thân thế của thánh Giuse rất sáng giá. Từ đó, ta có thể suy tư và nhận biết rằng: thánh Giuse là một con người gương mẫu về việc trung thành với luật lệ của tiền nhân. Có lẽ ngài cũng giống như những người đạo đức của Dothái thời bấy giờ, đó là:
Luôn coi luật lệ Cựu Ước là khuôn vàng thước ngọc, là ánh sáng, là con đường để dẫn đưa mình tới hạnh phúc.
Tuy nhiên, thánh Giuse lại được Thiên Chúa ghé mắt nhìn và muốn sử dụng ngài trở thành người phục vụ cho công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là người chu toàn lề luật thuần túy. Vì thế, Thiên Chúa đã làm cho thánh Giuse từ một người công chính của thời Cựu Ước trong việc chu toàn lề luật cũ, trở thành người công chính của thời Tân Ước trong chương trình của Thiên Chúa.
Sự công chính mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho thánh Giuse được khởi đi từ biến cố ngài được báo mộng để đón nhận Đức Maria về làm vợ của mình trong khi Mẹ Maria đang mang thai.
Khi đón Mẹ Maria về chung sống như vậy, thánh Giuse thực sự trở thành người bảo vệ Đức Maria khỏi dị nghị và cái chết, bởi vì việc Mẹ Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, vì thế, một người phụ nữ mang thai mà không có chồng, chắc chắn, chiếu theo luật, Mẹ sẽ bị ném đá. Việc đón nhận Đức Maria trong lúc nước sôi lửa bỏng như vậy đồng nghĩa với việc cứu sống Đức Maria cách nhãn tiền. Đây là một việc làm can đảm và mang tính quan trọng, quyết định.
Khi chấp nhận như vậy, thánh Giuse đã làm tan biến cái ”tôi” của mình để sống và phục vụ cho chương trình của Thiên Chúa.
Như vậy, nếu sự công chính thời Cựu Ước là chu toàn lề luật theo mặt chữ, thì công chính giờ đây, với thánh Giuse là: lắng nghe Lời Chúa, yêu mến, trung thành và thực thi trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa.
2. Vâng theo ý Chúa là chấp nhận một cuộc thử thách cam go!
Khi chấp nhận đi vào đường lối của Thiên Chúa, thánh Giuse đã bước đi trên con đường chẳng mấy ai đi, bởi vì nó không mấy êm ả!
Nhưng với ngài, không một lời than van, oán trách, ngược lại, ngài đi trên con ấy bằng một tình yêu vô vị lợi và với tinh thần trách nhiệm cao.
Bí quyết mà thánh Giuse có được, đó là: ngài luôn gieo vào từng suy nghĩ, hành động của mình bằng một thứ tình yêu độ lượng, bao dung, từ đó, mọi chuyện dù có vất vả, khó khăn…, cũng không thể làm chùn ý chí của ngài.
Điều này được chứng minh ngay sau một thời gian khi đón nhận Mẹ Maria về làm vợ, thánh Giuse đã phải lặn lội đưa Mẹ Maria trở về quê quán để khai tên tuổi. Biến cố này đối với thánh Giuse là một sự kiện rất đáng ghi dấu, bởi vì chuyến đi này đầy ắp tình yêu của ngài với Mẹ Maria, nhưng lại là chuyến đi xa của đôi vợ chồng nghèo!
Chính vì điều này, mà khi đến nơi, không tiền, không bạc, nên không thuê được nhà trọ, vì thế, xót xa lắm khi phải đưa người vợ đầy yêu thương đang bụng mang dạ chửa sắp sinh con tiến ra cánh đồng, nơi dành cho bò lừa để tá túc qua đêm.
Rồi không gì khổ tâm cho bằng chứng kiến cảnh Con Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng nên đất trời, mà lại phải sinh trong máng cỏ của bò lừa, tanh hôi và lạnh giá!
Sự khó khăn không chỉ dừng lại ở đấy, nhưng chỉ mới được có vài ngày sau khi sinh, Gia Đình Thánh đã phải trốn chạy cảnh bạo chúa Hêrôđê ra tay tương tàn sát hại những con trẻ ở Belem.
Không phải chạy gần, mà chạy tới Aicập ngay trong đêm. Hơn nữa, sau khi nghe tin vua Hêrôđê băng hà, Giuse lại quyết định đưa vợ và con của mình hồi hương.
Rồi trong suốt thời gian Đức Giêsu sống ẩn dật, Kinh Thánh chỉ nhắc tới thánh Giuse có một lần. Tuy nhiên, lần nhắc đến này lại là lần ngài và Mẹ Maria tất tưởi đi tìm Đức Giêsu vì bị lạc mất Ngài.
Lược qua những biến cố trong cuộc đời của thánh Giuse như vậy, để cho chúng ta hiểu rằng: chấp nhận đi theo đường lối của Thiên Chúa, ấy là chúng ta chấp nhận lội ngược dòng của cuộc đời. Tuy nhiên, như thánh Giuse, ngài đã không hề than trách, không hề ngại khó ngại khổ, mà ngược lại, thánh Giuse đã làm cho tình yêu của ngài với Thiên Chúa qua Mẹ Maria và Đức Giêsu ngày càng lớn mạnh.
Còn chúng ta thì sao?
3. Sứ điệp Lời Chúa
Trong cuộc sống của con người hiện nay, có lẽ khi nói đến sự công chính của thánh Giuse và mời gọi noi gương ngài để sống sự công chính ấy trong cuộc sống, chắc có nhiều người cho là hão huyền! Bởi vì ngày nay, người ta nhìn mọi biến cố dưới nhãn quan khoa học, ít quan tâm đến hiện tượng lạ xảy ra trong cuộc đời. Bên cạnh đó, chủ nghĩa thực dụng, vô thần và những trào lưu tục hóa đang ngày càng xâm lấn tư tưởng của con người, đã làm cho con người rơi vào tình trạng luôn tìm cách giải nghi huyền nhiệm theo hướng thực dụng!
Người Kitô hữu cũng không ngoại lệ bởi những diễn biến trên!
Chính vì vậy, nên người ta ít nhạy bén trước lời mời gọi của Thiên Chúa qua các dấu chỉ. Việc từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa là điều mà nhiều người không muốn nghĩ tới. Hơn nữa, quan niệm hưởng thụ lại là tiêu chí chủ đạo trong cuộc sống hôm nay, vì thế, khi nói đến hy sinh, chịu khổ vì người khác là điều mà nhiều người không thích!
Sứ điệp ngày lễ thánh Giuse hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm để từ bỏ ý riêng, nhằm phục vụ cho thánh ý và chương trình của Thiên Chúa. Chỉ khi ý riêng của chúng ta được hòa vào thánh ý Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta mới thực sự được tự do hoàn toàn và đời sống mới có giá trị đích thực.
Luôn loại bỏ tư tưởng rằng: tin và theo Chúa là tránh được những đau khổ, vất vả…. Không phải vậy! Nhưng cần điều chỉnh lại suy nghĩ và hướng tới tinh thần như thánh Giuse, đó là: chấp nhận tin và theo Chúa là sẵn sàng đi vào con đường hy sinh, đau khổ, từ bỏ. Hơn nữa, điều quan trọng nhất, đó là biết đón nhận đau khổ, hy sinh, từ bỏ với tình yêu vô vị lợi và luôn hướng tới người khác. Chỉ có như vậy, chúng ta mới biến đau khổ thành phương thế để được cứu chuộc mình và tha nhân.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải có một đức tin sống động, đức mến nồng nàn và niềm phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Có thế, chúng ta mới hy vọng có đủ độ nhạy bén như thánh Giuse để biết được đâu là thánh ý Thiên Chúa và đâu là ý loài người.
Nguyện xin thánh Giuse luôn bầu cử cho mỗi chúng ta có được trái tim yêu thương, xả thân hết mình vì Chúa và tha nhân như ngài. Xin thánh Giuse nâng đỡ đời sống đức tin, lòng mến và niềm cậy trông nơi chúng ta. Ước gì nhờ lời chuyển cầu của ngài, chúng ta can đảm và an vui dấn bước theo Chúa để được cứu độ. Amen.
47.Âm thầm nhưng sáng ngời nhân đức-- Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
(2 Sm 7, 4-5a. 12-14. 16; Rm 4, 13. 16-18. 22; Mt 1, 16. 18-21. 24a)
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ thánh Giuse, bạn trăm năm Mẹ Maria và là Cha Nuôi Đức Giêsu. Riêng tại Việt Nam, chúng ta mừng lễ cách đặc biệt hơn, bởi vì ngài còn là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam.
Nhân dịp này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu cuộc đời và gương sáng của thánh Giuse, để qua đó, mỗi người biết noi gương bắt chước thánh nhân để sống xứng đáng là người con của Chúa.
1. Âm thầm để thi hành ý Chúa
Nếu mới chỉ nghe đọc qua bậc lễ trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, chúng ta thấy lễ của ngài được nâng lên bậc I. Vì thế, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến sự cao trọng của thánh nhân trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều làm cho nhiều người không khỏi ngạc nhiên, đó là sự âm thầm nơi một con người vĩ đại này!
Đọc Kinh Thánh, chúng ta nhận ra đời sống của thánh nhân rất đỗi âm thầm. Âm thầm đến độ trong toàn bộ Kinh Thánh, không có một chỗ nào kể việc phát ngôn của thánh Giuse!
Nhưng nơi thánh Giuse, chúng ta khám phá ra ngài là một con người của hành động trong khiêm tốn và âm thầm.
Thật vậy, ngài âm thầm đón nhận lời sứ thần truyền tin trong mộng. Âm thầm thi hành cách triệt để. Làm gia trưởng một gia đình nghèo khó. Nghề nghiệp chẳng có gì nổi nang. Xuất hiện trên trần gian chẳng ai nói tới. Ngày ngài chết cũng chẳng được sử sách lưu truyền!
Tuy mang trong mình dòng máu hoàng tộc Đavít, nhưng thời đại huy hoàng của đế vương không còn. Phải chăng, giờ đây, người ta chỉ còn biết đến giòng dõi chứ ít còn ai nghĩ đến vẻ uy nghi của thời hoàng kim… Vì thế, Giuse bây giờ hoàn toàn là người bình dân với cái nghề rất đỗi bình thường để kiếm miếng cơm manh áo cho mình và gia đình của ngài.
Như đã chia sẻ, tuy toàn bộ Tin Mừng, chúng ta không thấy thánh Giuse có một lời nói nào để lại cho hậu thế, nhưng cả cuộc đời, không một lúc nào, ngài rời xa gia đình cũng như vơi cạn tình yêu thương với Mẹ Maria và Đức Giêsu. Bí quyết của thánh Giuse trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình chính là niềm tin và lòng mến của ngài đặt để nơi Thiên Chúa thật tuyệt đối sắt son. Điều này đã làm cho ngài trở nên phi thường ngay trong thân phận bình thường là một bác thợ mộc làng quê Nazareth.
2. Tầm thường trở nên phi thường nhờ lòng mến
Quả thật, đức tin của thánh Giuse phải liệt vào hạng sáng ngời: theo lẽ thường, ít ai có thể tin nổi một chuyện lớn lao liên quan đến cả cuộc đời của bản thân và gia đình mà lại diễn ra trong một giấc mơ? Ấy vậy mà Giuse, ngài đã tin! Chính vì niềm tin tuyệt đối này mà thánh nhân đã trở nên vĩ đại khi sẵn sàng để cho Thánh ý Thiên Chúa được thể hiện nơi mình.
Biến cố đón nhận Đức Maria về nhà của ngài và sự kiện chạy trốn sang Aicập cũng như từ Aicập trở về cho ta thấy rõ đặc tính tuyệt vời này của thánh Giuse.
Đức tính thứ hai cũng rất cao thượng, đó là: đức ái tuyệt hảo nơi ngài. Khi nghe biết Mẹ Maria mang thai, thánh Giuse rất trăn trở và áy náy??? Không biết thai nhi mà người vợ mình hết mực yêu thương, tin tưởng này là của ai, vì cả hai người chưa về chung sống với nhau???. Như vậy, xét theo con mắt người đời, Đức Maria đã ngoại tình. Chiếu theo luật Môsê, khi người phụ nữ bị phạm tội ngoại tình và bị tố cáo, người phụ nữ ấy chắc chắn bị ném đá cho tới chết. Nhưng thánh Giuse đã không nỡ để cho một phụ nữ liễu yếu đào tơ bị chết cách đau đớn, thê thảm. Vì thế, ngài đã lựa chọn giải pháp êm xuôi để cho Đức Mẹ được có cơ hội sống. Phương án mà thánh nhân dự định, đó là sẽ bỏ đi cách âm thầm, không oán trách, không than van… Tuy nhiên, ý định của thánh Giuse đã được Thiên Chúa can thiệp khi mạc khải cho biết việc Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, và ngài sẽ được chọn để trở thành cha nuôi Con Thiên Chúa về mặt pháp lý nhằm phục vụ chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trên nhân loại. Chính khi nghe được lời trấn an cũng như kế hoạch của Thiên Chúa, thánh Giuse đã sẵn sàng thể hiện đức ái trọn hảo với Đức Maria qua việc sẵn sàng đón nhận ngài về để chăm sóc.
Sau này, khi Mẹ Maria sinh hạ Đức Giêsu, rồi suốt thời gian làm gia trưởng của gia đình, thánh Giuse đã âm thầm và rất lo lắng, quan tâm đến Mẹ Maria và trẻ nhỏ Giêsu trong lòng mến.
Đây chính là điểm sáng thứ hai xây dựng nên nhân cách tuyệt vời của thánh Giuse.
Như vậy, thánh Giuse là một con người bình thường, âm thầm, kín đáo, khiêm nhường, nhưng nơi ngài đã toát lên những đức tính anh hùng sáng ngời, xứng đáng để cho mọi người noi theo, đó là đức tin son sắt và đức mến nồng nàn.
3. Bài học cho mỗi chúng ta
Mỗi khi mừng lễ thánh Giuse, chúng ta hãy ngước nhìn lên ngài và khám phá ra những nhân đức quý giá nơi thánh nhân, để như một bài học sống động cho đời sống đạo của chúng ta.
Bài học đầu tiên chúng ta cần có, đó là: đừng bao giờ thất vọng vì mình sinh ra, lớn lên hay lãnh đạo một gia đình nghèo nàn khốn khó. Cũng đừng bao giờ bi quan vì nghề nghiệp của mình chẳng bằng ai. Lẽ tất nhiên là ta phải cố gắng nhằm có cơ hội tốt hơn đẻ lo cho gia đình và cuộc sống hôm nay. Nhưng điều muốn nói ở đây, đó là hãy đón nhận những gì mình đang có như một hồng ân của Chúa, để từ đó biết dâng lời cảm tạ và tri ân ngài. Bên cạnh đó, hãy làm những công việc bình thường một cách phi thường bằng lòng mến. Mặt khác, đừng bao giờ có thái độ kỳ thị hay khinh bỉ những người bình dân, nghèo khó. Có thể về mặt kinh tế, người ta không bằng ai, nhưng về đời sống đạo đức, họ lại là con người tốt lành thánh thiện hơn nhiều người.
Bài học thứ hai, đó là tấm gương cho các gia trưởng trong gia đình: thánh Giuse dù nghèo khó, vất vả làm việc để nuôi sống gia đình. Tuy nhiên, ngài không than van kêu trách, lớn tiếng nạt nộ… Ngược lại, ngài rất ân thầm và chu toàn bổn phận của một người cha, người chồng trong gia đình. Sẵn sàng đón nhận cuộc sống hiện tại và tìm cách làm cho tốt hơn một cách trong sáng, lành mạnh.
Vì thế, mỗi người chúng ta là những người cha, người chồng trong gia đình, những lúc khó khăn hay không được như ý muốn, chúng ta hãy noi gương thánh Giuse, đó là âm thầm dâng cho Chúa và thi hành đúng bổn phận của mình cách chu đáo. Luôn nhận phần khó khăn về mình, và làm mọi việc vì lòng mến.
Bài học cuối cùng, chính là bài học về sự tin tưởng, phó thác tuyệt đới nơi Thiên Chúa: nếu cuộc đời của thánh Giuse đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, và mau mắn thi hành những gì đã tin, thì đến lượt chúng ta, hãy nhạy bén với ơn Chúa và các dấu chỉ thời đại, nhằm khám phá và tìm ra thánh ý Thiên Chúa để thi hành trong đức ái cũng như lòng mến theo gương thánh Giuse.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một mẫu gương âm thầm là thánh Giuse. Ngài là mẫu gương tuyệt vời cho các bậc gia trưởng trong gia đình cũng như cho mỗi người chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương bắt chước công đức của ngài và thi hành, để mai ngày chúng con được hạnh phúc chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa muôn đời trên Thiên Quốc. Amen.
48.Thánh Giuse, con người mạnh mẽ với trái tim yêu nồng nàn--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Nghệ thuật hội họa và điêu khắc hay phác họa thánh Giuse với hình hài già nua, râu dài, tóc ngả màu. Đặc biệt các tác phẩm vào những thế kỷ XV – XIX, các hoạ sỹ thường vẽ lên chân dung thánh nhân là một ông già. Nhưng sau này, hình ảnh thánh nhân dần dần trẻ hơn.
Để giải quyết vấn đề đồng trinh sạch sẽ của Đức Maria mà người ta đã vẽ nên một Giuse già nua bên cạnh một Maria trẻ trung xinh đẹp. Nhưng càng chiêm ngắm Thánh Giuse, người ta càng nhận ra nơi ngài một khuôn mặt trẻ trung đầy nghị lực, một tâm hồn yêu thương mạnh mẽ.
Khoa tâm lý chiều sâu cho thấy: người mạnh là người có khả năng cảm thấy bình tĩnh trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Bình thản trước mọi thay đổi đột ngột. Lúc nào cũng tỉnh táo và điềm tĩnh đưa ra những lựa chọn tốt nhất.
Thánh Giuse là người đã giữ thinh lặng trong mọi biến cố của cuộc đời mà Kinh Thánh đã nhắc tới: Nhận thấy Maria có thai mà không phải của mình, ngày Maria sinh con mà phải trú ngụ nơi hang đá, trẻ Giêsu mới chào đời mà phải chạy chốn sang Ai cập,… Để giữ được thái độ ấy, thánh nhân phải là người mạnh mẽ phi thường. Đứng trước những nghịch cảnh như vậy mà Ngài vẫn bình thản được. Lạy thánh Giuse, chúng con thật cảm phục Ngài.
Sự giằng co giữa thánh ý Thiên Chúa và ý muốn của con người thật dữ dội. Khi đối chọi với sự lựa chọn ấy ta mới thấy khủng khiếp là dường nào. Quả thực, ơn gọi là một cuộc hành trình đi trong đêm tối của đức tin. Bỏ ý con người và chấp nhận thánh ý Thiên Chúa là bước vào con đường phiêu lưu cùng đức tin.
Thánh Giuse đã phải đối chọi với sự lựa chọn ấy và Ngài đã chọn thánh ý Thiên Chúa. Những lần Kinh thánh nhắc đến sự lựa chọn của Ngài thường là: trong giấc mộng. Ngài đã bước đi trong tối tăm mịt mù, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, từ khi chấp nhận đi theo con đường của Thiên Chúa trong biến cố truyền tin. Biến cố trong đền thờ không là “trong giấc mộng” nhưng lại vượt cả sức tưởng tượng giữa cái Ngài thấy nơi Giêsu tại đền thờ và khung cảnh sống điền viên nơi làng quê Nazaret.
Tình yêu thực thụ, tình yêu tinh tuyền và trong sáng luôn sẵn sàng cho đi, sẵn sàng hy sinh tất cả vì người mình yêu. Tình yêu ấy chỉ mong muốn cho người mình yêu được hạnh phúc, được triển nở, được tươi trẻ mỗi ngày một hơn và được tự do đi trên con đường của người mình yêu. Nó khác hẳn với một tình yêu ích kỷ chỉ mong chiếm đoạt cho mình, bắt người yêu thoả mãn những đòi hỏi của mình, lôi người yêu vào trong cuộc đời của mình, biến người yêu thành một phần của mình, nô lệ mình. Đức Giêsu đã sống tình yêu đích thực ấy, không phải với một người nhưng là với mỗi người và mọi người. Vì yêu mà Thiên Chúa đã để cho con người được tự do.
Đừng quên, Giuse đã đính hôn với Maria trước khi có biến cố truyền tin. Chắc chắn Giuse đã yêu Maria nhiều lắm. Những cách hành xử của Giuse cho ta thấy Giuse đã yêu Maria với tình yêu thực thụ, một tình yêu chỉ muốn tốt cho người mình yêu, chỉ muốn phục vụ, chỉ muốn người mình yêu được triển nở hạnh phúc. Giuse đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho người mình yêu là Maria. Bởi thế mà dù ăn cùng mâm, ngủ cùng nhà, Ngài vẫn là một Giuse công chính và Maria trọn đời đồng trinh. Để có được như vậy, Giuse phải là một con người có một tình yêu nồng nàn và một tâm lý vững vàng mãnh liệt lắm.
Dẫu sao Giuse cũng là người phàm. Chính yếu tố thứ ba đã giúp Giuse kiên trung với một tình yêu trong sáng đến trọn đời. Thủa ban đầu, Adam và Eva đã chung sống hạnh phúc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong giây phút mà Adam và Eva phạm tội, ta không thấy sự hiện diện của Chúa, nhưng sự hiện diện của ma quỷ thì thật rõ nét. Giuse và Maria đã cùng chung bước trong sự hiện diện của Giêsu, Con Thiên Chúa làm người và ở giữa hai người. Ta không thấy bóng dáng của ma quỷ can thiệp được vào cuộc đời của Giuse, nhưng sự chỉ dẫn của Chúa với ông rất rõ nét. Tâm hồn Giuse luôn hướng về Chúa và để Chúa hướng dẫn nên ông đã đi đến suối nguồn Tình Yêu.
Quả thật, Giuse không thể là một ông già yếu đuối hay một bác thợ mộc tầm thường. Nhưng bên cạnh Maria và Hài Nhi Giêsu, Giuse là một con người trẻ trung, mạnh mẽ và ngập tràn tình yêu trong sáng. Thánh nhân luôn an nhiên đón nhận thánh ý Chúa và vững vàng tiến bước trước mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Lạy Thánh cả Giuse, xin chỉ dạy con, giúp con tôi luyện con người mình để trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống con luôn vững vàng. Xin hướng lòng con luôn hướng về thánh ý Chúa để con được trung tín đến cùng trong ơn gọi đời con.
49.Thánh Giuse 19-3—Lm. Phêrô Mai Quốc Anh sss
Hàng năm, Giáo hội dành riêng tháng ba để kính nhớ thánh cả Giuse và mừng kính ngài cách đặc biệt vào ngày 19/3 hằng năm. Khi suy niệm về các nhân đức của thánh cả Giuse, chúng ta học được nhiều điều nơi ngài, mặc dù trong cả bốn Tin mừng, chẳng thấy chỗ nào có tiếng nói của Ngài, một câu nói cũng không thấy. Thánh nhân không nói, nhưng lại nói rất nhiều. Trong thinh lặng, trong khiêm nhường, Ngài đã để lại cho chúng ta cả một kho nhân đức. Và, kho nhân đức ấy không những chẳng bao giờ lỗi thời, mà còn trở nên bài học quý giá cho chúng ta, cách riêng cho các gia trưởng: là những người đang là chồng, là cha, là ông.
Hôm nay, tôi không đề cập hết các nhân đức của thánh Giuse, mà chỉ xin chia sẻ chút tâm tình về chân dung của ngài: chân dung về một thánh Giuse thinh lặng, một sự thinh lặng nội tâm, đầy tín thác trước huyền nhiệm lớn lao của Thiên Chúa; được thể hiện rõ nét qua đoạn tin mừng cộng đoàn chúng ta vừa nghe.
Vào dịp giáng sinh, trên những tấm thiệp, chúng ta thường thấy vẽ cảnh thánh Giuse đưa Đức Mẹ và Hài Nhi Giêsu trên lưng lừa đi trốn kẽ thù. Bầu trời đen thẫm, có vài tia chớp loé lên ở cuối chân trời, vừa đủ sáng để soi đường. Hơn nữa, đọc tin mừng những chỗ có đề cập đến thánh Giuse, chúng ta cũng nhận ra một điều là: những điều xẩy ra trong cuộc đời của ngài đều diễn ra vào ban đêm: Sứ thần 3 lần hiện ra với ngài vào ban đêm; Đưa Mẹ con hài nhi lẩn trốn Hêrôđê cũng vào ban đêm; đưa Đức Maria tìm chỗ sinh con, cũng vào ban đêm. Có thể nói suốt cuộc đời thánh Giuse là đêm tối. Nhưng đây là đêm tối của những người được Chúa tuyển chọn và yêu thương. Mà ta gọi là đêm tối đức tin.
Cuộc sống trong gia đình quê Nadarét, đối với thánh Giuse là cả một huyền nhiệm. Huyền nhiệm bởi chính Ngài cũng không hiểu mình là ai trong huyền nhiệm lớn lao đó, thế mà ngài vẫn dấn bước, vẫn chấp nhận, chấp nhận vai trò làm ‘cha’ để cho huyền nhiệm đó được tiếp diễn trong thế gian này. Có nhiều người ví ngài như là người đồng hành với chiếc kiệu, mà không biết người trong kiệu là ai, thường dân hay thánh nhân. Không biết nhưng vẫn đồng hành hết cuộc đời. Điều này chúng ta thấy rõ nơi thánh cả Giuse: suốt cuộc đời âm thầm, thinh lặng, đồng hành, che chở cho Đức Maria và CGS. Âm thầm, thinh lặng đến độ mà khi Chúa Giêsu cuộc đời công khai, thì Thánh Giuse hầu như hoàn toàn không còn được nhắc đến, thậm chí, ngài chết bao giờ, chết như thế nào, chết ở đâu thì cũng chẳng ai biết, và cũng chẳng được đề cập đến trong TM.
Trong khi Đức Maria đối diện với huyền nhiệm của Thiên Chúa, Mẹ đã ‘hằng ghi nhớ mọi điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19), thì bên cạnh đó, Thánh Giuse, một người bạn đời trung tín, bước đi trong sự thinh lặng, âm thầm. Ngài thinh lặng trong cái thinh lặng của TC. Và chính TC dường như cũng không buồn ngỏ lời với ngài, ngoại trừ vài lần trong lúc mơ ngủ. Tất cả diễn ra trong mơ hồ, khó hiểu và đêm tối. Đến nỗi có lần thánh nhân gần như bị quật ngã bởi không tìm thấy lối đi cho mình. Phải đối diện với những nghi ngờ, và cuối cùng đã phải ‘định tâm lìa bỏ Đức Maria cách kín đáo’.
Thánh Giuse chỉ đóng vai phụ trong màn kịch lớn, chỉ là cái bóng trong đêm tối. Thế nhưng, Thiên Chúa cần đến vai phụ đó, cần đến cái bóng đó cho chương trình cứu độ của Ngài. “Này Giuse, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. “
Nơi thánh Giuse, tôi muốn giới thiệu cho cộng đoàn, cách riêng cho quý ông gia trưởng bài học về sự thinh lặng, một sự thinh lặng nội tâm, phó thác và sẵn sàng nhận ra “sự hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa”.
Sở dĩ chúng ta học nơi thánh Giuse sự thinh lặng vì lẽ sự ồn ào ngày nay đã lan nhiễm khắp nơi. Sự ồn ào không chỉ ở bên ngoài xã hội, mà đã len lỏi vào trong đời sống gia đình, khiến tâm hồn con người ta không ngừng khắc khoải và bất an. Chính những lúc đối diện với một thế giới quá ồn ào đó, thì hình ảnh của thánh Giuse lại rất cần thiết cho mỗi người chúng ta, ngài như chiếc neo kìm giữ con thuyền gia đình chúng ta, không bị mất hướng, không bị cuốn trôi và tan theo những con sóng vô hình và vô tình. Hơn nữa, để chống lại sự lây nhiễm của một thế giới quá ồn ào, đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã chỉ cho chúng ta ‘liều thuốc bổ’ mang tên Giuse, khi Ngài nói: ‘Chúng ta hãy để mình bị tiêm nhiễm bởi sự thinh lặng của thánh Giuse. Chúng ta rất cần sự thinh lặng ấy, vì trong thế giới nhiều lúc quá ồn ào, khiến chúng ta khó suy gẫm và lắng nghe tiếng Chúa… chúng ta cần nuôi dưỡng sự suy gẫm nội tâm, để có thế tiếp nhận và canh giữ CGS trong cuộc sống chúng ta’.
Thánh Giu-se đã chiến đấu với bản thân mình, với bóng đêm để làm loé lên trong đời mình ánh sáng hi vọng. Làm được như thế là vì Ngài mang trong mình ngọn lửa của tình mến, ngọn lửa tín thác và cậy trông. Đêm đen cuộc đời tuy dài, nhưng xa xăm vẫn còn ánh sáng soi đường. Dẫu rằng lắm khi rất mờ mờ ảo ảo, thánh nhân vẫn yêu mến, vẫn gắn bó và vẫn tiến bước với Chúa và trong Chúa.
Trong đêm tối của sự thinh lặng, thánh Giuse đốt lên trong tâm hồn mình ngọn đèn thao thức và tín thác, khiến sự thinh lặng đêm tối, biến thành niềm hi vọng sáng ngời. Niềm hi vọng ấy như dây đàn, rất bén nhạy, mỏng mảnh để sẵn sàng rung lên tiếng ngân trước lời mời gọi như gió thoảng của Thiên Chúa. “Này Giuse, đừng ngại đón Maria về; Này Giuse hãy trỗi dậy, đưa Mẹ con Hài Nhi trốn sang Ai cập, Ngày Giuse, hãy đưa Mẹ con hài nhi trở về…. . Niềm hy vọng và sự tín thác đó tạo nên sức mạnh giúp thánh Giuse lèo lái gia đình Nadarét vượt qua những khó khăn, nguy hiểm.
Quý gia trưởng kính mến!!! Nhìn vào thánh Giuse, chúng ta tin tưởng vào lời Chúa, học tinh thần phó thác cho Chúa, để Chúa dẫn ta qua đêm tối. Để rồi cuối đoạn đường chúng ta có thể hát vang lên rằng: Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
50.Thánh Giuse, người công chính sống bởi đức tin--Lm Giuse Đinh Quang Thịnh
Chỉ riêng Tin Mừng Matthêu dùng từ “công chính” gắn liền với tên của hai vị: ông Giuse (x Mt 1,19) và ông Abel (x Mt 23,35), là người đầu tiên trong nhân loại giết chiên làm lễ vật dâng lên Chúa, được Ngài chấp nhận, vì Ngài không nhận của lễ rau quả do ông Cain dâng (x St 4).Như thế ông Giuse được đồng hóa với ông Abel, mà ông Abel là tiền trưng Đức Giêsu. Thế thì ông Giuse công chính cũng là tiền trưng Con Thiên Chúa cứu độ loài người. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể được Chúa Cha ra lệnh đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu (x Mt 1,21: Tin Mừng), để trong thân phận làm người, Đức Giêsu diễn tả ba chức năng:Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế. Bởi đó đời sống của ông Giuse cũng đã diễn tả trước ba chức năng này .
I- ÔNG GIUSE THI HÀNH CHỨC TƯ TẾ
Của lễ ông Giuse dâng lên Chúa chính là Maria, người ông rất yêu dấu mà ông đã đính hôn (x Mt 1,16: Tin Mừng), khác nào ông Abel sát tế con chiên quý nhất trong ràn để dâng lên Thiên Chúa (x St 4,4).
Thực vậy, ngôn sứ Nathan gọi người vợ là “con chiên” của người nghèo, mà ông quan giàu có lại bắt làm thịt đãi khách chứ không bắt chiên của mình. Vua Đavid nghe ngôn sứ Nathan báo tin này, vua nổi nóng ra lệnh trừng phạt đích đáng tên quan gian ác ấy. Lúc đó, ngôn sứ Nathan mới chỉ vào vua mà nói: “Tên quan đó chính là Ngài”, vua tái mặt và giật bắn người lên vì chuyện vua cướp vợ của tướng Uria đã bị lộ, từ đó ông thật lòng ăn năn sám hối (x 2Sm 12).
Thế thì ông Abel dâng con chiên quý nhất của mình lên Thiên Chúa đã bị người anh là ông Cain đập chết! Sự cố này đã trở nên hai dấu chỉ:
1- Báo trước ông Giuse dâng người yêu là Maria để tùy Thiên Chúa dùng thực hiện chương trình riêng của Ngài. Đó là lý do Hội Thánh đặt lễ Kính Thánh Giuse đính hôn với Đức Maria trước sáu ngày lễ Truyền Tin cho Maria (ngày 25-3). Ngày Truyền Tin đối với thánh Giuse là ngày rất đau đớn, vì xem ra Chúa đoạt vợ ông, để Maria cộng tác với Con Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ loài người vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh , khởi sự từ Chúa Nhật Lễ Lá; còn ông Giuse thì Chúa đổi sứ mệnh: thay vì sống đời vợ chồng như con cái đời này, thì Chúa muốn ông nêu giá trị con cái thời cánh chung: “Có vợ mà kể như không có” (x 1Cr 7,29; Lc 20,34-38).
2- Báo trước Hy Lễ của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã giới thiệu cho mọi người được biết Người là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội trần gian (x Ga 1,29). Thực vậy, khi Đức Giêsu bị lên án tử vào lúc 12 giờ trưa (Do Thái là giờ thứ 6), thì chính giờ đó ở đền thờ Giêrusalem người ta giết chiên tế lễ cho Thiên Chúa (x Ga 19,14-16). Vì Đức Giêsu mới thực là Của Lễ được Chúa Cha ưng nhận, để từ đó lễ dâng con chiên cho Thiên Chúa của người Do Thái theo Luật Môsê đã đến ngày cáo chung.
Vậy ta tôn kính thánh Giuse thì cũng phải bắt chước ngài dâng lên Chúa những gì quý giá nhất trong đời của ta: Tình yêu, tiền của, thời giờ, tất cả phải dùng trong ý thức làm nên một của lễ nhờ, với, trong Chúa Giêsu. Sống như thế mà gặp đau khổ ta mới giống Chúa Giêsu, vì Người mời gọi chúng ta cộng tác với Người theo mẫu gương ông Phaolô “chịu đau khổ vì Tin Mừng để bù vào những gì còn thiếu trong các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu vì thân mình Ngài là Hội Thánh” (x Cl 1,24).
Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood, tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm nay mẹ Dolores đã 73 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.
Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21,đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã hết lòng yêu Dolores. Ông Donald là một trong những người thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phơi một cách dễ dàng không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu! Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!
Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ công ích.
Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa: một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.
II- ÔNG GIUSE THI HÀNH CHỨC NGÔN SỨ.
Cả trong bốn Tin Mừng, không có tác giả nào ghi lại một lời thánh Giuse nói, chỉ riêng có ông Matthêu ghi ba lần ông Giuse giữa đêm khuya mau mắn chỗi dậy làm theo ý Chúa:
Lần I: Giữa đêm ông Giuse được Thiên thần báo mộng: “Hãy chỗi dậy đón Maria về, vì Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần”, nghe được ông Giuse thực hành tức khắc (x Mt 1,24: Tin Mừng).
Lần II: Giữa đêm ông Giuse được Thiên thần báo mộng: “Hãy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê sắp lùng bắt Hài Nhi để giết”, ông Giuse cũng mau mắn làm theo lời sứ thần thúc giục (x Mt 2,13-14).
Lần III: Giữa đêm ông Giuse lại được Thiên thần báo mộng: “Hãy chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel vì những kẻ tìm hại tính mạng Hài Nhi đã chết rồi” (Mt 2,20). Ông cũng mau mắn thi hành lệnh Chúa như những lần trước
Như vậy, ba lần ông Giuse chỗi dậy mau mắn làm theo ý Chúa để Maria và Con Thiên Chúa không rơi vào tay kẻ ác. Quả là ba lần ông mau mắn thực hành ý Chúa trong đêm tối, đã báo trước sau ba ngày Đức Giêsu cũng từ trong bóng đêm tội lỗi giam Ngài trong sự chết, Ngài đã chỗi dậy làm cho tất cả những ai tin vào Ngài không rơi vào tay ác thần (động từ chỗi dậy hay phục sinh tiếng Hy Lạp là Egero). Và khi Đức Giêsu chỗi dậy, Ngài trao cho Hội Thánh tiếp tục sứ mệnh ngôn sứ của Ngài, mà Ngài đã được thánh Giuse cha Ngài giáo dục rất xuất sắc, đến nỗi mới 12 tuổi Ngài đã trở thành bậc thầy dạy giáo lý cho các bậc tấn sĩ ở Giêrusalem (x Lc 2,41t).
Ta không biết thánh Giuse chết vào thời điểm nào, ta chỉ thấy thánh Giuse tới lúc ngài gặp Con mình tại Đền Thờ đang giảng dạy Giáo Lý cho các bậc tấn sĩ, nên ta có quyền kết luận rằng: thánh Giuse đã khuất đi trong bình an khi ông đã hoàn tất sứ mệnh giáo dục Con thành một giáo lý viên xuất sắc. Không biết những người làm cha mẹ khi ra khỏi thế gian này, có được về với Chúa trong bình an như thánh Giuse hay không? Nếu không chu toàn sứ mệnh giáo dục con cái về đức tin cách chu đáo! (xem trệt cuối số 11 trong Hiến Chế Hội Thánh của CĐ.Vat.II).
Sách Huấn ca chương 30, câu 4 nói: “Người cha (mẹ) dù có tắt thở, họ cũng chưa chết, vì đã để lại đứa con giống hệt mình”.
Vậy ông Giuse không thi hành sứ mệnh ngôn sứ qua miệng lưỡi – ông là ngôn sứ im lặng - nhưng ông thi hành qua bàn tay phục vụ tận tình và hết sức mau mắn, mà việc làm thì quan trọng hơn lời nói. Người đời hay nói: “Mỹ nói là làm; Nhật không nói vẫn làm; Việt Nam nói một đàng làm một nẻo”
III- ÔNG GIUSE THI HÀNH SỨ MỆNH VƯƠNG ĐẾ.
Sở dĩ ông Giuse lúng túng khi biết bạn mình có thai: đón bạn về thì không được trao phó, mà âm thầm trốn đi là cách kết án Maria ngoại tình! Nhưng khi được sứ thần loan báo ý định của Thiên Chúa: “Ông phải đón Maria về, vì Hài Nhi được sinh ra là do quyền năng của Chúa Thánh Thần”. Điều này Chúa muốn ông làm ứng nghiệm lời ngôn sứ tiên báo: “Từ dòng dõi vua Đavid sẽ xuất hiện vị thủ lãnh, chính nó sẽ xây nhà cho danh Chúa, và Ta sẽ cho vương quyền của nó kiên vững muôn đời” (x 2Sm 7,4-16: Bài đọc I). Vì ông Giuse thuộc dòng vua Đavid (x Mt 1,20: Tin Mừng).
Ông Giuse nghe Lời Chúa từ trong đêm tối và mau mắn thực hành. Ta biết bóng tối là sự ác, là tội lỗi; Lời Chúa là Ánh Sáng chiến thắng bóng tối, nghĩa là biến dữ ra lành, biến tội ra ơn, biến chết ra sống. Thực vậy, nhờ ông Giuse mau mắn thi hành lệnh Chúa ngay trong đêm để Maria không bị ném đá; Hài Nhi Giêsu không bị vua Hêrôđê giết! Để rồi từ trong bóng tối đang bao phủ miền Ai Cập, ông Giuse lại chỗi dậy đem “Ngôi Lời đã làm người” về quê hương để giải phóng loài người khỏi tay tử thần, mà chính các đầu mục Do Thái là thủ phạm!
Vậy khi ông Giuse thực hiện lệnh Chúa trong mộng báo, ông đã trở thành đấng bảo trợ Maria và Hài Nhi. Ông Giuse là hiện thân của ông Marđôkê đã nuôi Esther, là vợ của vua Assurius. Khi dân Do Thái bị nhà vua ra lệnh tiêu diệt, trong thân phận những người nô lệ vô phương chống lại lệnh vua, nhưng nhờ ông Marđôkê đã tiết lộ lệnh ác độc đó cho Esther, Esther đã cầu nguyện rồi khéo léo làm tiệc đãi vua, nhờ thế vua đã hứa với Esther “xin gì trẫm cũng cho, dù nửa nước”, Esther đã xin với vua: “Xin vua đừng nuôi ong trong tay áo”, vua hỏi lại: “Ai?” Esther chỉ vào Aman, người đã bầy mưu để vua ra án tru diệt dân Israel. Thế là vua cho lệnh treo cổ Aman lên trụ cao do chính hắn dựng lên nhằm treo cổ Marđôkê, cậu của Esther. Thế là toàn dân Do Thái được thêm sức mạnh, họ kết hợp từng nhóm tiêu diệt hết những tay sai của Aman, dân được thoát án tử sống bình an! (x sách Esther)
Cũng thế, nhờ ông Giuse lao động có của nuôi Đức Maria và Đức Giêsu. Hai đấng thực hiện cuộc giải phóng loài người thoát án tử vì tội. Do đó thánh Giuse là đấng Bảo Trợ Hội Thánh, để những kẻ thuộc về Hội Thánh thoát khỏi án tru diệt vì tội lỗi gây nên.
Vậy nếu ta noi gương thánh Giuse sống ba chức năng tư tế, ngôn sứ, vương đế khởi đi từ lúc lãnh Bí tích Thánh Tẩy, là ta đã nối dài Đức Tin của tổ phụ Abraham, người đã được Chúa đặt làm cha nhiều dân tộc do bởi lòng tin, để nhờ Đức Tin của ông mà ta có Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không ra có (x Rm 4,13.16-18.22: Bài đọc II). Nhất là khi ta hiệp dâng Thánh Lễ với Chúa Giêsu, Con ông Giuse, là ta được phúc sống trong nhà Chúa với ông Giuse, để cùng cất lời tạ ơn: “Lạy Chúa, phúc thay người ở trong Thánh Điện, họ luôn luôn được hát mừng Ngài” (Tv 84/83,5: Tung Hô Tin Mừng). Và như thế ta đã làm cho ơn Chúa được “THÊM LÊN” đúng với tên của ông Giuse bởi động từ “Yasaph” trong tiếng Hy Lạp. Để “dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ” (Tv 89/88, 37: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Người cha (mẹ) dù có tắt thở, họ cũng chưa chết, vì đã để lại đứa con giống hệt mình (Hc 30,4).
51.Tín thác, cậy trông, yêu mến như thánh Giuse--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Đại, SVD
Trong số những người thân cận với Đức Giêsu nhất, có lẽ thánh Giuse ít được mô tả cách chi tiết nhất. Ngài chỉ được diễn tả rất sơ sài và có ít những bản văn Kinh Thánh lưu tâm đến, có chăng chỉ là những chương đầu của Tin Mừng Mátthêu và Luca. Tin Mừng chỉ thuật lại những giấc mộng của thánh nhân hoặc giới thiệu sơ qua về ngài trong gia phả của Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ các bản văn kinh Thánh, chúng ta nhận thấy rằng thánh nhân không chỉ là con người của thinh lặng, ẩn dật mà còn là con người đặt niềm Tin, Cậy, Mến nơi Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống thường ngày.
Một niềm tín thác không nghi ngờ
Qua bài Tin Mừng, chúng ta thấy rằng thánh Giuse có một niềm tin sắt đá, vì trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, ngài vẫn phó thác mọi sự cho Thiên Chúa, và vững tin những điều người đang làm là do bàn tay Thiên Chúa chỉ định và hướng dẫn. Tuy Thiên Chúa không thông báo cho ngài một cách minh nhiên, chỉ qua những giấc mơ, nhưng với sự tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, ngài đã đáp trả lại tiếng gọi được biểu lộ sâu xa trong những giấc mơ ấy. Nhờ lòng tin vào Thiên Chúa của thánh Giuse mà Đức Maria và Chúa Giêsu đã ra đi và trở về bình an như một phép lạ vậy. Dù biết rằng, để thực hiện những gì đã nghe thấy trong những giấc mơ là một việc không dễ dàng chút nào nhưng nhờ một đức tin vững vàng vào Thiên Chúa nên thánh nhân đã thực thi mọi việc như điều Thiên Chúa muốn.
Trong những thử thách như vậy, thánh nhân có thể bị cám dỗ hoài nghi về vai trò là Đấng Cứu Thế của Đức Giêsu. Nhưng nhờ sự tín thác, ngài vẫn đứng vững, vì ngài vững tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã hứa (x.Rm 4,21). Đức tin giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa có thể làm những điều vượt hơn tất cả những gì chúng ta cầu xin hay nghĩ tới (x.Ep 3,20), vì đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể (x. Mc 10,27; Lc 1,37). Có lẽ thánh Giuse luôn tin rằng Thiên Chúa mãi trung tín đối với những ai tin tưởng nơi Ngài. Qua bài đọc I trích sách Samuen quyển thứ hai và trong thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đã hứa ban cho ông Ápraham và vua Đavít một dòng dõi mà vương quyền tồn tại đến muôn đời. Giờ đây, lời hứa ấy đang trở thành hiện thực khi Con Thiên Chúa đang được thánh Giuse cưu mang và nuôi dưỡng. Dù niềm tin ấy chỉ được thể hiện trong những giấc mơ của mình, nhưng ngài vẫn tín thác và cậy trông nơi Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống.
Một lòng cậy trông trên hết mọi sự
Qua những mô tả của các tác giả Tin Mừng, chúng ta thấy rằng thánh nhân chỉ âm thầm với những việc làm của mình. Ở nơi đền thánh, duy chỉ mình Đức Maria lên tiếng thầm trách yêu Chúa Giêsu vì đã để hai ngài lo lắng, còn thánh Giuse vẫn im lặng. Sự im lặng của thánh nhân để nói lên rằng, ngài luôn lắng nghe lời Chúa phán. Dù chỉ qua những giấc mơ, thánh nhân vẫn mau mắn thi hành. Nhờ lòng cậy trông nơi Thiên Chúa, thánh nhân đã nhận Ðức Maria làm vợ. Nhờ lòng trông cậy, thánh nhân đã giữ cho Thánh Gia kiên vững trong những biến cố khó khăn: khi sự truy sát của Hêrôđê bắt đầu, ngài đã phải đem gia đình trốn sang Ai Cập; đến khi vua Hêrôđê băng hà, ngài lại âm thầm đem hai người thân yêu nhất trở về nguyên quán là làng Nadarét. Qua những biến cố trên, chúng ta thấy thánh Giuse là một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc. Tâm hồn và thân xác của ngài luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành. Quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse mà kế hoạch Nhập Thể của Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp như chương trình Thiên Chúa muốn. Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho ngài.Như vậy, nhờ đức cậy, thánh Giuse có thể chấp nhận mọi thử thách với lòng trung tín sắt son. Ngài có thể vượt qua những cơn bão tố dữ dội nhất của cuộc đời để mang tới niềm vui cho gia đình Nadarét.
Một lòng yêu mến thiết tha
Lòng tận tụy chăm sóc cho Đức Maria và sự tận tình nuôi nấng Đức Giêsu đã nói lên một tình yêu bao la trời biển của thánh Giuse dành cho Thánh Gia. Hàng ngày, ngài vẫn miệt mài lao động để duy trì cuộc sống gia đình. Ngài đã chăm sóc chu đáo và hết lòng dạy bảo Chúa Giêsu khôn lớn như Tin Mừng Luca đã đề cập: “Trẻ Giêsu càng lớn càng thêm khôn ngoan và nhân đức, đẹp lòng Thiên Chúa và mọi người” (x.Lc 2,51-52). Sở dĩ Chúa Giêsu cũng cần được nuôi nấng và giáo dục như bao trẻ nhỏ khác vì Ngài cũng là con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Sự âm thầm hy sinh của thánh Cả Giuse để che chở cho Đức Maria và nuôi dạy Đức Giêsu nên người không chỉ cho thấy niềm tin sâu xa, mà còn thể hiện một tình yêu vô bờ bến của ngài đối với những người thân yêu.
Noi gương thánh nhân chúng ta cũng hãy học đòi bắt chước thánh Giuse với một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, một lòng cậy trông sâu xa dù đi trong đêm tối của cuộc đời và một tình yêu vô điều kiện đối với những người được trao phó cho mình.
Nguyện xin thánh cả Giuse luôn cầu bầu cùng Chúa cho Giáo Hội Việt Nam và những người nhận ngài làm bổn mạng; xin cho họ luôn có một đức tin vững vàng để biết trông cậy nơi Chúa. Xin cho mọi người biết hy sinh nhiều hơn nữa cho tha nhân cũng như làm chứng cho Chúa trong xã hội tục hóa hôm nay.
52.Thánh Giuse: tận tâm với Chúa và là người Cha tận tụy với gia đình--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong hầu hết các quốc gia, người mẹ trong gia đình được so sánh như là ánh sáng, là vườn hoa, là gió mát cho ngôi nhà, thì người cha được ví như trụ cột, giữ vai trò chính yếu chống đỡ cho cả ngôi gia gia đình. Dù cột trụ là quan trọng, nhưng sự hiện diện của người cha nhiều khi rất âm thầm, đến độ bị bỏ quên trong gia đình. Cho dù không được nhắc đến, nhưng các người cha vẫn đêm ngày chỉ biết tận tâm, tận tuỵ với gia đình với vợ con.
Thánh Giuse cũng là một người chồng, người cha tận tuỵ trong gia đình Nazareth, chèo chống gia đình vượt qua bao sóng gó thử thách. Vậy mà thánh Giuse vẫn giữ sự âm thầm thinh lặng, đến độ dường như mọi người bỏ quên sự hiện diện của Ngài. Hôm nay, cùng với Giáo Hội mừng kính Thánh Giuse, bạn trăm năm của Mẹ Maria và là cha nuôi Chúa Giêsu, chúng ta chiêm ngắm và suy gẫm về cuộc đời thánh Giuse: một con người tận tâm với Chúa và là một người cha tận tuỵ với gia đình.
Trong Giáo Hội, để phân biệt, mỗi khi nhắc đến thánh Giuse, thường luôn kèm theo vai trò của Ngài với Đức Maria hoặc với Chúa Giêsu. Ví dụ gọi Ngài là Thánh Giuse - bạn trăm năm Đức Maria; hoặc Giuse - cha nuôi Đấng Cứu Thế. Chi tiết đó thôi cũng đủ để cho ta suy ra rằng: Thánh Giuse không giữ riêng điều gì cho mình, cũng không có gì nổi bật ngoài việc hoàn toàn gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế như là Chúa của mình và với Đức Maria như gia đình của mình.
Giuse quả là một người tận tâm với Chúa
Ngay từ chương đầu Tin Mừng Matthew, khi giới thiệu về hoàn cảnh giáng sinh của Đức Giêsu, đã nhắc đến Đức Maria đính hôn với một người tên là Giuse thuộc chi họ Đavit. Mặc dù được nhắc đến như một nhân vật phụ, nhưng Tin Mừng cũng cũng phải công nhận: “Ông Giuse là một người công chính.” Người công chính có nghĩa là một con người đạo đức, kiên trì trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa. Người công chính thì khác với người Biệt phái: Người Biệt phái giữ giới răn lề luật theo hình thức phô trương bên ngoài mà không thật lòng yêu mến. Còn người công chính là người giữ giới răn lề luật của cách tận tâm, tận tình, hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Chúa, khiêm tốn chờ đợi lời hứa cứu độ của Chúa.
Đứng trước một mầu nhiệm quá lớn lao: “Maria có thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần”, Giuse đã không biết phải ứng xử thế nào cho phù hợp. Một đàng ông tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa và sự trong trắng của Đức Maria, người yêu của ông; đàng khác ông không thể hiểu, cũng không thể giải thích sự việc Maria có thai. Giuse đã chọn giải pháp âm thầm rút lui, thay vì tố cáo người bạn của mình. Giuse định âm thầm rút lui vì cung kính trước một mầu nhiệm lớn lao và vì thấy mình quá bất xứng. Nhưng Thiên Chúa đã có cách của Ngài, Ngài muốn Giuse cộng tác cách tận tâm, tận tình vào chương trình của Ngài qua việc đón nhận Maria và Hài Nhi về làm vợ và làm con của mình. Chỉ qua một giấc chiêm bao, Giuse đã nhận ra ý Chúa và đã mau mắn thi hành: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã làm như sứ thần Chúa truyền dạy.”
Với thái độ tận tâm, tận tình với Thiên Chúa, Giuse được Chúa chọn để đứng vào gia phả của Đấng Cứu Thế, đã chu toàn cách vuông tròn sự tín nhiệm của Thiên Chúa. Mặc dù không sinh ra Đấng Cứu Thế theo máu huyết, nhưng qua việc kết hôn với Đức Maria, đón nhận Hài Nhi Giêsu, thì đồng thời Giuse cũng sẵn sàng dâng tặng cho trẻ Giêsu dòng dõi vua Đavit của mình. Quyết định này của Giuse đã làm trọn lời Chúa đã hứa và các ngôn sứ tiên báo: “Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đavit.” Lời hứa này đã trở thành niềm hy vọng cho dân Israel, giúp họ vượt qua biết bao thăng trầm của lịch sử.
Giuse một người cha tận tâm với Gia đình
Kể từ khi đón nhận Đức Maria và Hài Nhi về nhà mình, Giuse trở nên một người chồng, người cha tận tuỵ với gia đình. Giuse vẫn âm thầm chu toàn trách nhiệm của mình theo thánh ý Thiên Chúa mà không một lời than thở. Ông chu toàn trách nhiệm trong gia đình với lòng đạo đức và đời sống công chính. Ngay khi đón Maria về nhà không được bao lâu, thì lệnh đăng ký hộ tịch của hoàng đế Augustô đã gây ra bao khó khăn cho gia đình mới này: Cuộc sống của hai người có lẽ chưa ổn định; công việc thất thường, vì nghề thợ mộc của Giuse cũng chỉ là bác thợ trong làng; kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn; người vợ trẻ lại đang mang thai sắp đến thời kỳ sinh nở. Vậy mà, Giuse không thắc mắc, ông nhận ra lệnh hồi hương về Bêlem như là lệnh của Chúa. Cũng vì nhận ra ý Chúa và hoàn toàn vâng phục, trở về thành Bêlem, Giuse đã góp phần làm ứng nghiệm lời các ngôn sứ tiên báo: Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại Bêlem, quê hương của vua Đavit.
Trở về quê hương, nhưng có lẽ cũng không còn người ruột thịt, Giuse một mình phải xoay sở để làm lại từ đầu, ổn định cuộc sống, chu cấp những nhu cầu cần thiết cho Maria và Hài Nhi Giêsu. Cuộc sống của gia đình trẻ này chắc chắn không phải là cuộc sống thoải mái dư dật. Việc chu cấp cho gia đình có cuộc sống tạm ổn có lẽ cũng đã là công việc khá vất vả cho người cha. Nhưng Giuse cũng không hề lên tiếng, ông chỉ âm thầm tận tuỵ làm việc và giữ vai trò như trụ cột trong gia đình. Cuộc sống bình lặng không kéo dài bao lâu, thì sứ thần lại báo tin cho Giuse trong giấc mộng: “Phải đưa Maria và Hài Nhi trốn qua Aicập để tránh sự truy sát của vua Hêrôđê.” Một lần nữa, trong sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa, Giuse đem trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai Cập. Cuộc sống tại quê hương đã khó khăn, thì cuộc sống nơi đất khách quê người càng khó khăn hơn nữa. Với vai trò là người chồng và với trái tim của người cha, Giuse vẫn tận tuỵ âm thầm phục vụ Maria và Hài Nhi Giêsu tại Ai Cập cho đến khi Thiên Chúa lại báo mộng, gọi ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trở về. Một lần nữa với sự vâng phục hoàn toàn, Giuse đã đưa Maria và trẻ Giêsu trở về Giuđa, để làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Ta gọi con ta từ Ai cập trở về.”
Trong hoàn cảnh cuộc sống khó khăn, công việc không ổn định, nhưng Giuse không chỉ lo cho đời sống vật chất của gia đình, mà còn tận tuỵ chu toàn cách tốt đẹp bổn phận đạo đức của gia đình. Mặc dù vất vả, nhưng Giuse đã tạo nên cho gia đình một nếp sống đạo đức qua việc chu toàn bổn phận luật Môsê quy định. Giuse đã đưa Maria lên Đền Thờ để được thanh tẩy, đem con dâng cho Chúa sau bốn mươi ngày sinh và cũng chuẩn bị một của lễ nhỏ là đôi chim bồ câu con. Thánh Luca còn ghi lại: “Hàng năm cha mẹ Đức Giêsu có thói quen lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua.” Điều đó cho thấy, đối với Giuse, việc chăm lo đời sống đạo đức của gia đình và giáo dục đức tin cho con cái trở thành ưu tiên trong cuộc sống. Để hình thành nên thói quen đạo đức tốt lành, chắc chắn gia đình của Giuse đã phải hy sinh rất nhiều công sức. Tin Mừng còn cho thấy khi Giuse Maria trở lại Giêrusalem tìm trẻ Giêsu sau ba ngày, thì thấy trẻ Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ nghe và hỏi họ. Chi tiết này cho thấy, chắc chắn khi ở với Giuse và Maria, trẻ Giêsu đã được cha mẹ dạy cho đọc Kinh Thánh, nghe, học hỏi các sách luật và ngôn sứ. Vì thế, trẻ Giêsu mới có thể ngồi giữa các bậc tiến sĩ để trò chuyện với họ.
Thưa quý OBACE, mỗi lần suy gẫm về cuộc đời thánh Giuse, người ta thấy dường như không có gì để nói về con người âm thầm thinh lặng này. Thế như khi chiêm ngắm chân dung và cuộc đời thánh Giuse trong những đoạn hiếm hoi của Tin Mừng nhắc đến Ngài, chúng ta có thể khám phá ra rất nhiều điều để học nơi gương sống của Giuse. Trên hết, Giuse vẫn là người tín hữu tận tâm tận tình với Chúa và là một người chồng, người cha tận tuỵ làm việc vì gia đình, vì vợ con.
Ngày nay, nhiều người đã đánh mất sự cân bằng giữa việc tận tâm với Chúa và sự tận tuỵ hết mình với gia đình. Nhiều người lấy lý do cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhiều lo toan, để bỏ qua bổn phận đối với Chúa. Nhiều gia đình đánh mất sự tín trung trong việc thờ phượng Thiên Chúa, coi việc đến với Chúa như một gánh nặng. Nhiều người khác còn coi Thiên Chúa như sự cản trở công việc làm ăn và sự thăng tiến xã hội, vì thế họ sẵn sàng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi gia đình, công việc. Khi đánh mất sự cân bằng này, gia đình sẽ gặp bất an, bất hoà và bất hạnh.
Xin cho mỗi gia đình, cho các bậc làm cha mẹ biết học nơi gương của thánh Giuse và gia đình Nazareth, biết dành ưu tiên và tận tậm tận tình với Chúa, đồng thời cũng tận tuỵ với bổn phận của mình trong gia đình theo gương thánh Giuse. Xin thánh nhân cũng ra tay nâng đỡ che chở các gia đình mỗi khi gặp khó khăn thử thách. Amen.
53.Người Công Chính--‘Lẽ Sống’ – R. Veritas
"Ông Giuse, bạn bà là kẻ công chính và không muốn làm ố danh bà, nên đã định bỏ bà cách kín đáo".
Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của vị thánh mà Giáo hội mừng kính hôm nay: Thánh Giuse, bạn Ðức Trinh Nữ Maria, bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
Ðược Tân Ước gọi là "công chính", Thánh Giuse không những là người đã giữ đức công bình và trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng và một người cha.
Ðược gọi là "công chính", theo ý nghĩa của Kinh Thánh, là được Thiên Chúa công chính hóa, được Thiên Chúa cho tham dự vào sự công chính, sự thánh thiện của Người. Vì thế, người được công chính hóa xứng đáng để Thiên Chúa yêu thương, thương yêu thật sự vì Thiên Chúa không bao giờ đóng kịch, giả vờ như người nào đó đáng được thương yêu nhưng trong thực tế không phải thế.
Trong chiều hướng tư tưởng này, gọi thánh Giuse là kẻ công chính, Kinh Thánh muốn nói là: Ngài được Thiên Chúa công chính hóa và được Thiên Chúa yêu thương vì thật sự Ngài xứng đáng. Lần giở lại những trang Tân Ước có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay những đặc tính làm cho Ngài xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.
Trước tiên, là đặc tính hoàn toàn vâng phục Thánh ý Chúa. Trong trường hợp cuộc đời Thánh Giuse, Tân Ước diễn tả Thiên Thần là người thông báo cho Ngài biết ý Chúa. Vì thế, nghe lời Thiên Thần truyền, Thánh Giuse đã bỏ ý định ly dị Ðức Maria cách kín đáo. Ngược lại, Giuse đã trỗi dậy ngay trong đêm khuya để đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập cũng như đem Con Trẻ và Mẹ Người về nước Israel, đến sinh sống tại thành Nagiaréth và âm thầm nhưng ân cần lấy sức lao động nuôi sống gia đình trải qua những tháng năm dài sau đó.
Tiếp đến Tân Ước nhắc đến Thánh Giuse trong biến cố thất lạc và tìm gặp Ðức Giêsu trong đền thánh. Qua đó chúng ta khám phá ra một đặc tính khác của Ngài hay nói đúng hơn một đặc tính mà các thánh ký viết Phúc Âm chú ý nhấn mạnh nơi Thánh Giuse: Không một lời nói nào của Ngài được ghi lại trong Tân Ước. Nhưng Thánh Giuse đã hùng hồn nói trong hành động, những hành động xem ra vô lý và đầy nguy hiểm, nhưng Ngài đã khiêm tốn, can đảm và kiên trì làm để thực hiện hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa.
Qua đó, Thánh Giuse xứng đáng là chủ gia đình của Nagiaréth, một gia đình thánh thiện, vì gồm ba tâm hồn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành những gì Thiên Chúa muốn. Và cũng qua đó, Thánh Giuse trở nên công chính, được Thiên Chúa thực sự yêu thương.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa đã trao tặng Thánh Giuse cho gia đình Nagiaréth và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam. Nhờ lời cầu bàu cho Thánh cả Giuse, xin Chúa chúc lành cho những người chồng, cho những người cha, giúp họ can đảm và kiên tâm chu toàn bổn phận trong gia đình. Xin Chúa cũng chúc lành cho mọi gia đình và Giáo Hội Việt Nam, giúp mọi người sống xứng đáng với ơn gọi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa.
54.Trung Thành Với Thánh Ý Thiên Chúa
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần trong các sách Tin Mừng. Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn vinh Người trong vai trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria.
Thánh Giuse là mẫu người thầm lặng ít nói. Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của Người, ngay cả lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria là người lên tiếng nói với Chúa Giêsu. Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú lắng nghe các lệnh truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền ấy có vẻ ngang trái bất ngờ. Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình; khi đem gia đình trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth, thánh Giuse luôn luôn trung thành với thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Hễ Thiên Chúa gọi thì Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời. Thánh Giuse đúng là một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn và thân xác Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành. Và quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp. Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.
Lạy Thánh Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa. Xin thánh nhân dạy con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống đức tin bằng hành động. Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha. Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa lòng dân tộc.
55.Khủng hoảng gia đình
Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến vai trò của gia đình trong cuộc sống của mọi người chúng ta. Theo Công đồng, thì gia đình chính là trường học đầu tiên dạy chúng ta những bài học làm người. Thực vậy, mỗi khi nghĩ về gia đình tôi thường cảm thấy một cái gì thật êm đẹp và ấm cúng, những điều mà bà mẹ dạy cho con khi nó còn ngồi trên gối, những bài học mà người cha đã chỉ bảo cũng như những kỷ niệm, những mẫu gương của đời sống gia đình. Tất cả những cái đó sẽ không bao giờ tàn phai trong cõi lòng chúng ta. Một khi cá nhân đã được canh tân, thì xã hội và Giáo Hội cũng được mang lấy một bộ mặt mới. Chính vì vậy gia đình đã góp một phần rất lớn vào công cuộc xây dựng một Giáo Hội thánh thiện và một xã hội lành mạnh. Gia đình là viên gạch, là nền tảng cho xã hội, gia đình là một tế bào sống của Giáo Hội hay nói một cách khác, gia đình chính là một Giáo Hội được thu nhỏ lại.
Thế nhưng hơn bao giờ hết, hiện nay gia đình lại rơi vào một tình trạng khủng hoảng trầm trọng và bị lung lay đến tận gốc rễ. Nào là tình yêu bị đe doạ với những bộ luật cho phép được ly dị, xoá bỏ những hôn nhân trong đời. Nào là những thai nhi không được bảo đảm với những phương thuốc ngừa thai và phá thai. Bên Âu châu, vợ chồng thay đổi nhau như thay đổi áo. Có những cô đào đã trải qua bảy tám đời chồng mà vẫn chưa tìm thấy một nơi để dừng lại. Cha mẹ thì đau khổ vì con cái, nhưng con cái lại cảm thấy bực bội trước những cấm đoán của cha mẹ. Giữa cha mẹ và con cái có một vực thẳm ngăn cách mà không có lấy một nhịp cầu thông cảm. Con cái nhiều lúc cảm thấy ngột ngạt trong bầu khí gia đình vì những sự la hét, chửi bới của cha mẹ, để rồi thoát ly gia đình, đi bụi đời, sống một cuộc sống lang thang, để rồi giết hại đời minh trong những vui thú tệ hại như cần sa, như ma tuý. Nếu chịu khó ngồi xuống và trong yên lặng hãy suy nghĩ về thực trạng đó, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều lý do tạo nên. Nhưng trong giây phút này tôi chỉ muốn nêu lên một lý do chính yếu đó là thiếu sự nhường nhịn.
Thực vậy, bá nhân bá tánh, mọi người đều có một tính tình riêng, và hơn thế nữa nhân vô thập toàn, mọi người đều có những sai lỗi của mình. Nơi đó trong một nếp sống chung, không thể nào tránh khỏi những bực bội, những buồn phiền, những sai lỗi của người khác. Ngay như đến Thánh gia cũng không thoát khỏi cái định luật chung ấy: Bấy giờ Giuse nhận thấy Maria mang thai không bởi hành động của mình. Sự kiện này đã làm cho Giuse đau khổ không ít, chắc hẳn Giuse cũng đã trải qua những đêm không ngủ để tìm hiểu, để đặt ra những câu hỏi và tìm lấy những câu trả lời, Giuse đã âm thầm chịu đựng. Nếu như chúng ta, thì sẽ phải làm cho ra lẽ. Và trong sự ghen tương, chúng ta sẽ đánh đập người vợ ấy một trận nên thân, rồi đuổi người vợ ấy về với cha mẹ, hay lôi người vợ ấy ra toà để ly thân, ly dị, vì chúng ta không thể chấp nhận được một sự chia sẻ tình yêu như vậy, và chắc hẳn gia đình chúng ta sẽ tan rã. Chính trong sự yên lặng và nhường nhịn, Giuse đã tìm ra chân lý, Giuse đã hiểu được sự thật, Giuse đã vượt qua cơn sóng gió, để rồi chấp nhận và yêu thương Maria như người bạn trăm năm của mình.
Kinh nghiệm bản thân cũng cho ta thấy, một sự nhịn là chín sự lành: Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào khê. Chính sự nhường nhịn ấy sẽ tạo nên tình yêu và một bầu khí ấm cúng trong gia đình. Làm sao mà người chồng có thể còn bực tức trước một cử chỉ yêu thương như thế: chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười hớn hở thưa anh giận gì. Chúng ta hãy học cùng thánh Giuse để biết yêu thương nhường nhịn lẫn nhau, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái. Đồng thời chúng ta hãy xin Thánh Giuse sửa đổi những sai lỗi trong gia đình chúng ta.
Có một người vợ trẻ âm thầm chịu đựng những đau khổ do một ông chồng chơi bời trác táng gây nên ông ta bỏ nhà ra đi không kể ngày và đêm. Người vợ trẻ ấy chỉ còn biết tìm an ủi trong việc tíao dục đứa con duy nhất và xin thánh Giuse hoán cải người chồng của mình. Một buổi tối ông ta trở về nhà nghe thấy có tiếng nói chuyện. Ông ta nhìn qua khe cửa và thấy được một cảnh tượng cảm động: Người vợ đang dạy đứa con cầu nguyện: Con hãy cầu xin cho ba con, người mà má hằng yêu thương và con cũng sẽ yêu thương, con hãy xin thánh Giuse hướng dẫn ba con. Ông ta vô cùng xúc động trước cảnh tượng đó và đã dứt khoát trở về với mái ấm gia đình. Chúng ta cũng hãy xin thánh Giuse phù trợ cho gia đình chúng ta.
56.Suy Niệm về Thánh Giuse—PM Cao Huy Hoàng
Tháng 3 về, chúng ta cùng tạ ơn Thánh Giuse là Đấng bảo trợ mỗi gia trưởng chúng ta trong thời gian qua, và còn sẽ bảo trợ chúng ta trong suốt cuộc đời làm chồng, làm cha, làm ông nội, ông ngoại.
Tỏ lòng tri ân ấy, Chúa không muốn chúng ta chỉ nói lên bằng lời, mà còn phải nói lên bằng cuộc sống gia trưởng theo mẫu gương gia trưởng nhân đức của Ngài. Vì thế, suy niệm về những ngày đời thánh thiện của Thánh Giuse, làm bài học quí giá cho mỗi gia trưởng là thật cần thiết.
Đón nhận nhau trong đức tin
Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse cộng tác vào chương trình cứu chuộc, chương trình mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại, nên có thể nói, người được Thiên Chúa chọn hẳn phải là một người đủ phẩm cách đẹp lòng Thiên Chúa. Và điều đẹp lòng Chúa nhất là Tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Quả thật, nếu đức tin của Mẹ Maria được thể hiện bằng sự khiêm tốn và vâng phục để Thiên Chúa thực hiện mầu nhiệm nhập thể: “Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như Lời sứ thần truyền. Xin hãy thành sự trong tôi, như Lời Ngài đã phán”, thì Thánh Giuse âm thầm không nói gì, không trả lời gì, mà Ngài chỉ làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà: ‘Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần’. Điều Thánh Giuse đã làm là một câu trả lời “vâng phục” bằng “đức tin” hùng hồn nhất (x. Rm 1,5; 16,26; 2Cr 10,5-6).
Thế thì, Lời chúc của Elizabet dành cho Mẹ Maria “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45) cũng chính là lời mà mọi miệng lưỡi phải chúc tụng Thánh Giuse như vậy.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã đón nhận và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa là đón nhận nhau, và cả hai cùng đón nhận Phôi Thai Đấng Cứu Thế bằng một đức tin. Từ đó, làm thành một cộng đoàn mới của Thiên Chúa, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse đón Đức Maria về làm vợ trong lúc Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, quả là một gương đức tin hùng hồn vào Thiên Chúa quyền năng: Thiên Chúa chọn cho Giuse một người vợ. Thiên Chúa chọn cho Maria một người chồng. Thiên Chúa chọn cho Đấng Cứu Thế những người làm Cha Mẹ. Vì quả thực, nếu để tự Giuse chọn, có lẽ Giuse không chọn Maria, vì ngại những tiếng đời dị nghị. Nhưng việc ấy không xảy ra theo ý của Giuse, mà đã xảy ra ngược lại theo ý của Thiên Chúa.
Còn chúng ta, có tin rằng Thiên Chúa đã tham gia vào việc chọn lựa của mình không? Có nhiều người đã sống với nhau bao nhiêu năm rồi, mới ngộ ra là có bàn tay Thiên Chúa định liệu cho việc của Chúa nơi gia đình mình. Có nhiều người cho là chuyện ông trời xe định, nồi nào vung nấy. Nhưng thiết tưởng đức tin công giáo đòi hỏi chúng ta phải xác tín ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân rằng Thiên Chúa tham dự vào việc tuyển chọn cho mình một người bạn đời theo ý Chúa. Và từ ấy, cuộc sống của vợ chồng trải ra trong sự quan phòng của Thiên Chúa, để tiếp tục công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa và tiếp tục thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Chỉ trong đức tin, cuộc sống của hôn nhân mới có đủ nghị lực để vượt qua những thử thách và bền vững cho đến cùng.
Như vậy, việc đón nhận nhau trong đức tin là bài học trước tiên của đời sống gia đình công giáo. Đón nhận một người bạn đời về chung sống với nhau nên nghĩa vợ chồng, đón nhận con cái Chúa ban trong ánh sáng đức tin, có thể nói là đón nhận tình yêu Thiên Chúa, hồng ân của Thiên Chúa nhằm đến việc thực hiện chương trình mạc khải của Thiên Chúa nơi gia đình là: Tình yêu và cứu độ.
Nhìn lại đời sống gia đình chúng ta, mỗi người có thể suy xét lại và trả lời trước mặt Chúa, rằng ngày ấy con yêu nàng, con cưới nàng làm vợ, có phải vì Đức Tin là để có một gia đình nhằm thực hiện chương trình của Chúa, hay có một gia đình thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta đã đón nhận nhau vì Chúa hay vì ta? để sống cho Thiên Chúa hay cho chúng ta?
Thánh thiện trong đức cậy
Mẹ Maria đã tin tưởng và ký thác toàn thân mình cho Thiên Chúa để Ngài thực hiện ơn cứu độ, thì thánh Giuse cũng cậy trông hoàn toàn vào sức mạnh của Thiên Chúa để vượt thắng những nguy cơ làm mất đi vẻ đẹp tinh tuyền thánh thiện của gia đình Con Thiên Chúa. Việc giữ đức khiết tịnh cho mình và cho người bạn đời, thiết tưởng phải việc ưu tiên hơn cả. Bởi vì thánh ý của Thiên Chúa đã khởi đầu bằng việc Con Thiên Chúa làm người trong lòng một trinh nữ. Và trinh nữ ấy đã khấn nguyện giữ mình đồng trinh đến trọn đời. Như thế, đời sống gia đình của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Con Thiên Chúa phải là một đời sống tinh tuyền tuyệt đối nơi cả ba con người.
Với loài người, thì không thể, nhưng với Thiên Chúa thì việc gì cũng có thể. Và chúng ta tin rằng, đức cậy trông nơi Thánh Giuse phải là tuyệt hảo. Chính vì đức trông cậy và nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa, mà Thánh Giuse vượt thắng những yếu hèn của đời người, gìn giữ được đức công chính, vẻ đẹp nguyên tuyền của mình trong trắng thanh cao như nhành huệ, đồng thời bảo bọc được sự đồng trinh trọn đời của người bạn đời chí thiết.
Hình ảnh người con mà đức tin cho biết là “Con Thiên Chúa” trong gia đình, có thể nói là yếu tố quan trọng vào bậc nhất trong việc hình thành đức cậy trông nơi Thánh Giuse. Người “con làm việc của Cha trên trời” và “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan” là hoa trái của đức cậy trông mà Thánh Giuse đã miệt mài ký thác.
Gia đình chúng ta hôm nay quên nhắm đến hạnh phúc do sự công chính, thánh thiện mang lại, mà chỉ nhắm đến hạnh phúc do những giá trị trần thế ban phát cho. Thật đáng trách cho mỗi gia trưởng chúng ta, khi không hướng gia đình đến đời sống thánh thiện thuần khiết, lại còn vướng vào những trào lưu tục hóa làm mất đi vẻ thánh thiện nguyên tuyền của hôn nhân công giáo. Thêm vào đó, lại không hướng niềm cậy trông vào Chúa mà lại đặt hy vọng nơi những thực tại hão huyền.
Chu toàn trách nhiệm trong đức mến
Hoa trái của Đức tin là đức mến. Đức Mến thôi thúc thánh Giuse chu toàn vai trò làm chồng làm cha trong gia đình. Từ việc đưa vợ về làm sổ bộ, lo cho vợ sinh nở, đưa vợ con trốn sang Ai cập, hồi cư, cắt bì và đặt tên cho con, dâng con vào đền thờ, tìm con khi lạc mất, cùng vợ con kiếm có cái ăn cái mặc… tất cả đều được thể hiện với tình yêu mến.
Chúa Giêsu lớn lên và trưởng thành mặt nhân tính trong cung lòng Mẹ Maria, thực ra trong trái tim yêu thương của Mẹ Maria và trong tấm lòng từ ái của Cha Thánh Giuse. Cả hai đầy tình yêu thương và tính trách nhiệm.
Tình thương đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa, và cụ thể nơi vợ chồng Maria, Giuse: Tình thương đó là hy sinh cho người mình yêu được hạnh phúc. Sự hy sinh ấy bao gồm cả tự do, ý chí, sự sống, thời gian và tất cả những gì tưởng như mình phải được, cũng bằng lòng mất đi. Sự hy sinh ấy được thể hiện với lòng khiêm cung, lịch sự, khoan dung, nhẫn nại. Và sự hy sinh ấy chính là nét họa bản tính của Thiên Chúa trong tâm hồn mỗi con người có lòng yêu mến Ngài.
Cả Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đều đã thắm đẫm tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu nhau bằng tình yêu của Thiên Chúa, nên việc chu toàn trách nhiệm với đứa con được sinh ra cũng chính là chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa giao phó trong nhiệm cuộc của Ngài.
Tình mến không vị kỷ. Tình mến không huênh hoang. Tình mến không nóng nảy…. là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến chứa chan sự công chính thánh thiện, tràn đầy niềm hân hoan, vẻ dịu dàng, nét khiêm tốn là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến ấy phải là tình mến chuẩn mực cho các gia trưởng hôm nay.
Nghĩ về mình, có thể có đôi người trong chúng ta đang được niềm vui mừng vì đã theo gương nhân đức của Thánh Giuse trong đời sống gia đình, nhưng thiết tưởng, đa số trong chúng ta chưa chọn lấy tình mến chuẩn mực của Ngài làm tiêu chí sống đời vợ chồng gia đình. Thật đáng tiếc.
Tháng 3 lại về, tháng kính Thánh Giuse, cho chúng ta một cơ hội nhìn vào gương sống của thánh quan thầy các gia trưởng mà suy nghĩ về:
* Mầu nhiệm gia đình, trước tiên, phải xác tín gia đình là một mầu nhiệm trong nhiệm cuộc sáng tạo và cứu rỗi nhân loại.
* Đức tin của chúng ta, Đức tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng, đã chọn lựa và chỉ định cho chúng ta người bạn đời, để sống với nhau mà thực hiện thánh ý Chúa.
* Đức trông cậy của chúng ta, đức trông cậy duy nhất nơi sức mạnh của Thiên Chúa mới giúp chúng ta sống công chính thánh thiện và bình an hạnh phúc.
* Đức mến của chúng ta, đức mến phải được mặc lấy lòng khoan dung từ bi nhân hậu của Thiên Chúa mà chu toàn bổn phận Chúa giao phó trong sứ mệnh sáng tạo và cứu rỗi ngay trong chính gia đình mình.
Nguyện xin Thánh Giuse cầu thay nguyện giúp cho mỗi gia trưởng chúng con biết noi gương nhân đức Ngài, mà thăng hoa cuộc lữ hành trần thế của chúng con trên đường công chính.
57.Yên lặng, làm việc và vâng phục
Cuộc đời thánh cả Giuse có thể được tóm kết trong ba nhân đức, đó là yên lặng, làm việc và vâng phục.
Trước hết thánh cả Giuse là một con người yên lặng.
Phúc Âm đã không để lại một lời nói nào của thánh cả. Phải chăng đó cũng là một sự kiện đặc biệt đáng cho chúng ta suy nghĩ. Thực vậy, thế giới hôm nay là một thế giới của âm thanh, của ồn ào. Con người thời nay thường nhìn sự vật theo những lời quảng cáo và đánh giá kẻ khác theo những lời tuyên bố nóng bỏng. Nhất là nhìn vào đời sống, chúng ta thấy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói. Đúng thế, với lời nói, chúng ta có thể vấp phạm bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu, bất kỳ với ai và bất kỳ về vấn đề nào. Bởi đó, có người đã đưa ra một so sánh thật buồn cười: nếu mỗi lần chúng ta nói hành nói xấu người khác, mà Chúa khiến chúng ta phải hắt hơi, thì chắc hẳn tiếng hắt hơi của chúng ta đã át cả tiếng ồn ào của xe cộ, của thác nước, của sóng biển. Chúng ta thường nói nhiều và đã nói nhiều thì cũng thường nói bậy và nói sai, như người xưa đã bảo: đa ngôn thì đa quá. Hơn thế nữa, nói nhiều thì cũng thường hay nói dai và nói ẩu khiến cho người khác phải buồn phiền, tình yêu thương bị sứt mẻ và sự cảm thông không còn nữa. Ném một nắm lông vịt vào trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra, bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp. Bởi đó, hay thận trọng trong lời nói, bởi vì:
– Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Và nhất là chúng ta hãy học cùng thánh cả Giuse bài học yên lặng. Hãy biết yên lặng trong những giây phút căng thẳng và sóng gió, bởi vì nếu biết yên lặng đúng lúc, thì có thể chặn đứng được 90% những đổ vỡ đáng tiếc, vì yên lặng là vàng, là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là phương thuốc chữa lành những tội lỗi xấu xa.
Tiếp đến thánh cả Giuse là một con người cần cù lao động.
Phúc Âm cũng không để lại cho chúng ta nhiều chi tiết về vấn đề này. Nhưng chắc chắn ngài là một người thợ siêng năng và nổi tiếng. Thực vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai, những người cùng quê với Ngài đã ngạc nhiên trước sự khôn ngoan của Ngài và họ đã bàn tán: Bởi đâu Ngài được như thế? Ngài chẳng phải là con bác thợ mộc đó ư? Tại Nagiarét, thánh cả Giuse đã làm việc bằng đôi tay của mình để phục vụ Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Với chúng ta cũng vậy. Lao động và sản xuất đó là những ngôn từ được nghe nói đến rất nhiều và chúng thực sự có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc sống hôm nay. Con người sinh ra để làm việc, như cánh chim sinh ra để tung bay. Nhờ làm việc, con người biến đổi bộ mặt trái đất và đem lại cho cuộc đời một ý nghĩa. Nó là như một thứ muối mặn làm tăng thêm hương vị cho cuộc sống.
Nhưng cụ thể hơn, đó là nhờ làm việc chúng ta mới có được chén cơm manh áo, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Ai không làm thì không đáng ăn.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn về nàng ve và chị kiến: Nàng ve chỉ biết ca hát suốt cả mùa hè, đến khi mùa đông tới thì liền bị chết đói và chết rét. Trong khi đó, chị kiến cần cù tích trữ từng hột gạo, thì dù gió bấc có thổi cũng không lo sợ bị túng thiếu.
Sự nghèo túng gõ cửa nhà người làm việc, nhưng không bao giờ dám bước vào. Hay như ca dao cũng bảo:
– Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ mang phần đến cho.
– Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
Với xã hội, thì lao động là một cách thức chúng ta trả nợ cho đời, đồng thời cũng là một cách thức chúng ta góp phần xây dựng quê hương đất nước. Thực vậy, sống trong xã hội, chúng ta liên hệ mật thiết với nhau và nương tựa vào nhau nhiều lắm. Chẳng hạn hằng ngày chúng ta hưởng dùng đường sữa, xăng dầu…do công lao của người khác, thì bây giờ đến lượt chúng ta phải đóng góp bằng những sản phẩm do công sức lao động của chúng ta đem lại.
Còn đối với Thiên Chúa, thì lao động chính là một cách thức chúng ta cộng tác với Ngài trong cộng cuộc sáng tạo như lời Ngài đã phán: Hãy làm chủ cá biển, chim trời và mọi loài trong vũ trụ.
Sau cùng, thánh cả Giuse là một con người luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Phúc Âm đã kể lại ba lần thiên thần hiện ra trong giấc mộng để báo cho thánh cả biết ý định của Thiên Chúa và lần nào thánh cả cũng đã cúi đầu xin vâng mà không hề phản đối. Lần thứ nhất thánh cả đã xin vâng, đón nhận Maria về nhà làm bạn mình, dù đang phân vân và nghi ngờ. Lần thứ hai thánh cả đã xin vâng đưa Mẹ Maria và Hài nhi Giêsu lên đường trốn sang Ai Cập. Và lần thứ ba thánh cả đã xin vâng trở về Palestine, định cư tại Nagiarét. Cả ba lần, thánh cả đều vâng lời mau mắn, không đặt vấn đề, không hỏi tại sao.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến Chúa, vì chúng ta cho rằng Chúa bất công và vâng lời chỉ là một hành động hèn nhát, mất tự do và chôn vùi nhân phẩm. Vì thế, hãy sống yên lặng, làm việc và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên là những tôi tớ trung thành và khôn ngoan như thánh cả Giuse ngày xưa.
58.Người gia trưởng gương mẫu
Truyện Thánh Giuse theo Phúc Âm thì ngắn gọn lắm: Thánh Giuse là chồng của Đức Mẹ, Mẹ của Chúa Cứu Thế. Khi Mẹ Maria đã đính hôn với Thánh Giuse thì một hôm, Thiên Thần của Thiên Chúa có tên là Gabriel hiện đến và loan tin rằng Mẹ sẽ thụ thai và hạ sinh Chúa Cứu Thế, Con Thiên Chúa. Chín tháng sau, những điều loan báo đây được thực hiện đầy đủ. Khi Chúa Giêsu sinh ra thì Thánh Giuse trở thành Cha Nuôi, Đấng Bảo Vệ và Thày Dạy của Ngài. Thánh Giuse giữ vai trò là Quản Gia, là Gia Trưởng trong thánh gia thất Nazareth.
Tình yêu và sự trung tín của Ngài đối với gia đình thì mọi người đều biết. Ngài đã sống với bà vợ trẻ. Ngài chấp nhận sự đầu thai và hạ sinh nhiệm lạ. Để bảo vệ Mẹ Maria và Hài Nhi, Ngài đã vội vã và can đảm trốn sang Ai Cập ngay lúc ban đêm. Khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, Ngài dẫn Mẹ Con lên đền thánh. Lúc trở về đã mất liên lạc với Chúa Giêsu và Thánh Cả đã phải vất vả lo lắng tìm kiếm 3 ngày trời. Thời đó không có cảnh sát, không có Internet, không có các phương thế truyền thông như ngày nay… tất cả phải dùng sức lực mà tìm mà kiếm.
Có hai chi tiết trong đời Thánh Cả chúng ta muốn nhắc lại ở đây: Việc mang Con đi trốn và việc đi tìm Con.
Đem Con đi trốn
Thánh Giuse biết được người Con siêu việt này là Con Thiên Chúa nhưng thực tế Ngài lại tỏ ra rất yếu đuối, bất lực. Khi người ta đe doạ sẽ giết chết thì đã không tự động trốn thoát, hay tấn công lại kẻ thù của mình. Trái lại đã cậy dựa vào sự che chở của Thánh Giuse. Lý do để trốn cũng đã đòi hỏi nơi Thánh nhân một niềm tin tuyệt đối vào Lời của Chúa. Dù trước mặt Ngài Chúa Giêsu chỉ là một em nhỏ sơ sinh rất yếu đuối, nhưng Ngài tin tưởng không chút hồ nghi: Đây là Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng mà các tiên tri đã loan báo và là Đấng giải thoát Dân Chúa khỏi nô lệ.
Ra đi trong đêm tối: mù mịt không biết tương lai như thế nào. Người Con thần thánh này mới sinh ra đã chạy rồi thì còn cứu ai được? Đi về Ai Cập như là một chuyến đi đày biệt xứ, những gì sẽ xảy ra ở đó, sinh sống làm sao, ở chỗ nào, đâu có thân nhân gì bên đó… Một đêm đen dày đặc trước mặt và Giuse đã can đảm với đức tin như đèn sáng soi, Ngài đã băng mình vào bóng đêm như người con nhỏ sà vào lòng mẹ với trọn niềm tin tưởng.
Những người con Chúa ban cho mỗi gia đình là hồng ân của Chúa. Thông thường chúng ta ghi nhận điều đó vì Chúa phú bẩm vào trái tim chúng ta tình yêu tự nhiên đối với con cái. Nhưng cũng có những lần, những lúc, những trường hợp chúng ta khó nhìn nhận những người con là hồng ân của Thiên Chúa, là phúc lành của Ngài ban cho gia đình. Nhưng các em trở nên gánh nặng cho gia đình và trở nên đối tượng cho những cuộc bắt bớ của tệ đoan xã hội. Có lẽ các bậc phụ huynh còn gặp những cảnh khó khăn hơn mang con trốn trong đêm tối. Nhưng niềm tin mà Thánh Giuse phải nắm giữ chắc chắn lớn hơn vì người Con yếu đuối trước mặt Ngài là Chúa Trời Đất, Chúa của cả bạo chúa Herod. Ngài nêu gương cho ta và khích lệ ta nên vững tin dù trước những hoàn cảnh coi như phải chết đi để giữ vững niềm tin.
Tìm Con đi lạc
Một biến cố cuối cùng mà Thánh Kinh nói đến việc làm của Thánh Cả Giuse đó là việc Ngài, với tư cách là gia trưởng, hướng dẫn Đức Mẹ và Thiếu Niên Giêsu đi lên Đền Thánh dự lễ hội trong dịp Lễ Vượt Qua. Người Con mới lớn được dẫn đi lễ chầu tại trung tâm tôn giáo của Dân Chúa, không biết vì lý do gì đã không đi chung với Cha Mẹ. Trên chuyến đi trở về Nazareth, sau khi đi được một ngày đường Cha Mẹ mới khám phá ra Chúa Giêsu không đi với ai nên Ông Bà đã phải tất tưởi trở lại Thành Thánh để tìm người Con mà Thiên Chúa đã trao phó cho Ông Bà.
Không biết ai sẽ chịu trách nhiệm về việc đi lạc này nhưng chắc chắn Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải đau khổ rất nhiều khi lạc mất người Con quí trọng này. Mặc dù tin nhận Con mình là Thiên Chúa nhưng Thánh Giuse và Đức Mẹ đã dồn hết nỗ lực để đi tìm, đi kiếm… Sau ba ngày mới thấy con. Trong những ngày sầu khổ đó chắc hẳn đức tin của Thánh Giuse bị thử thách rất nhiều.
Trong câu truyện này chúng ta thấy một sự rất gần gũi giữa hoàn cảnh của Thánh Gia và của các gia đình chúng ta ngày nay. Vấn đề con cái đã là vấn đề lớn chi phối các gia đình. Chúng ta nên làm gì? Hãy bắt chước Thánh Giuse: Đi tìm. Tìm con trong mọi góc xó, mọi nẻo đường, mọi cơ hội. Tìm để gặp con trong lối suy tư, trong ý định tuổi trẻ của chúng. Tìm gặp con nơi học đường, trong chúng bạn, trong các sinh hoạt hàng ngày hay trong những biến cố ngoại thường. Có lẽ nhiều cha mẹ đã lạc con ngay trong học đường, không biết con học gì, nhà trường ra sao, các thầy cô như thế nào, chương trình học có gì trở ngại cho con em không? Hay nhiều cha mẹ đã lạc con trong lũ bạn bè vô danh vì cha mẹ chẳng biết con chơi với ai, chơi ở đâu, lúc nào.
Muốn đi tìm thì phải hy sinh, phải quên mình, bỏ ăn, bỏ ngủ như Thánh Giuse và Đức Mẹ. Kiên nhẫn và không đầu hàng. Các Ngài lạc mất một ngày mà phải tìm đến ba ngày. Chúng ta tìm con để gặp được các em có lẽ không phải ba ngày nhưng là một cuộc tìm kiếm trường kỳ. Sau cùng chắc chắn những cha mẹ tìm con cái sẽ gặp.
Cha Mẹ không biết việc của con sao? Làm sao Cha Mẹ biết được. Con là một Mầu Nhiệm đối với Cha Mẹ. Cả đời Cha Mẹ là một cuộc tìm kiếm không ngừng đề gặp Con. Chúng ta cũng có thể nói được như vậy đối với những người con mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Nguyện xin Thánh Cả Giuse giúp chúng ta theo gương Ngài thực hiện việc phục vụ trong gia đình, cố gắng để mang con đi trốn, và nhất là đi tìm con.
59.Thánh Giuse, người sống theo lời Chúa
(Nguồn: tgp saigon)
Không biết từ bao giờ, người Công giáo chúng ta vẫn thường gọi thánh Giuse là “Thánh Cả”. Khi gọi thánh Giuse với danh xưng như thế, phải chăng chúng ta muốn nói đến sự cao trọng, lớn lao của ngài. Thế nhưng, đọc suốt Thánh Kinh, chúng ta không bắt gặp một lời nào của thánh Giuse. Thánh Kinh chỉ ghi lại những việc làm của thánh Giuse như: đón Đức Maria về nhà, đưa Mẹ Maria về Bêlem đăng ký sổ bộ, đưa Thánh Gia trốn sang Ai Cập rồi trở về định cư tại Nazareth, cùng với Đức Maria dâng Con lên Đền thờ và cuộc hành hương lên Giêrusalem khi Hài Nhi Giêsu lên 12 tuổi. Những việc làm này nhìn qua thật đơn giản nhưng lại có một điểm chung, đó là tất cả đều làm theo lời dạy của Thiên Chúa. Và phải chăng, đây là điều làm cho thánh nhân trở nên cao trọng.
Thật vậy, chúng ta chỉ có thể trở nên cao trọng khi sống theo lời Chúa. Vì lúc đó, chúng ta không chỉ là thắng một trận chiến, hay thắng một người nào khác từ bên ngoài, nhưng là chiến thắng chính mình. Và đây mới thực sự là cuộc chiến thắng vinh quang nhất. Kinh nghiệm cuộc sống cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ khi chúng ta làm chủ được mình, chúng ta mới thật sự là người trưởng thành như lời cha ông chúng ta vẫn thường nói: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. “Bình thiên hạ” nhìn bên ngoài là một việc lớn, nhưng để làm việc này, thì trước đó cần phải chu toàn một việc quan trọng và nền tảng hơn, đó là “tu thân”, nghĩa là phải tập làm chủ mình, hay nói theo cái nhìn đức tin là vượt thắng bản thân, để sống theo lời Chúa.
Luôn cố gắng sống theo lời Chúa cũng là một đặc điểm của vua Đavít. Vua Đavít mặc dù là một vị đế vương, nhưng vẫn luôn cố gắng sống theo Lời Chúa mà câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài đọc một là một ví dụ cụ thể. Lúc đó, sau khi đã bình ổn được đất nước, chấm dứt thù trong, giặc ngoài, và đã xây dựng cho mình một dinh thự nguy nga, vua Đavít đã muốn xây một Đền Thờ cho Thiên Chúa. Ông đã bàn bạc việc này với ngôn sứ Nathan. Nhưng thánh ý Thiên Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa đã cho nhà vua biết rằng: không phải vua xây nhà cho Chúa, nhưng chính Chúa sẽ xây nhà cho vua, nghĩa là làm cho ngôi báu, cho triều đại của nhà vua được vững bền như lời Chúa phán: “Ta sẽ là Cha của ngươi, và ngươi sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
Lời hứa này trước mắt là nói đến vua Salomon, con của Đavít, một vị vua nổi tiếng vì sự khôn ngoan. Chính vua Salomon đã xây đền thờ Giêrusalem và xây dựng một triều đại huy hoàng. Nhưng theo truyền thống từ xa xưa, dân Chúa vẫn coi đây là lời hứa tiên báo về triều đại của Đấng Messia. Như thế, nhờ luôn lắng nghe và sống theo lời Chúa, vua Đavít đã nhận được lời hứa trở nên tổ phụ của Đấng Cứu Thế. Lời hứa đó, hôm nay đã trở nên hiện thực với lời sứ thần của Thiên Chúa báo mộng cho thánh Giuse: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình,…bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu”. Với việc giao cho thánh Giuse, một người thuộc dòng dõi vua Đavít đặt tên cho Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của mình với vua Đavít.
Tin Mừng thuật tiếp: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”. Thánh Giuse đã làm như lời thiên thần truyền mà không một lời thắc mắc hỏi han. Điều này cho thấy một đức tin vững chắc vào Thiên Chúa của thánh Giuse. Thánh nhân đã dám làm những điều mà theo suy nghĩ tự nhiên là không thể, đó là nhận lãnh sứ mạng làm cha của Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của mình. Đây không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là một đức tin của người tin rằng Thiên Chúa có thể làm những điều mà con người không thể. Và chỉ có đức tin đó mới có thể làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô nói về tổ phụ Abraham: “Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế”. Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính”.
Tin tưởng, lắng nghe và thực hành tất cả những điều Thiên Chúa dạy là những điều mà thánh Giuse đã làm trong suốt cuộc sống của mình. Chính vì thế, thánh nhân được gọi là “Thánh Cả”, hay nói theo cách nói của Thánh Kinh, thánh nhân còn được gọi là: “Người Công Chính” và được giao một nhiệm vụ quan trọng là trở thành thầy dạy đầu tiên và là “người gìn giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ” như chúng ta vừa nghe trong lời nguyện Nhập lễ.
Tóm lại, chính nhờ đức tin mà thánh Giuse có thể sống phó thác hoàn toàn cuộc đời của mình trong bàn tay Thiên Chúa, sẵn sàng làm mọi điều Chúa dạy. Và nếu chúng ta cũng luôn sống theo lời Chúa như thế, chúng ta sẽ có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa.
Mừng lễ thánh Giuse hôm nay trong tư cách là một người Gia trưởng như tên gọi của ngày lễ đã diễn tả: THÁNH GIUSE BẠN ĐỨC TRINH NỮ MARIA, gợi lên cho từng người chúng ta nhiều bài học.
Trước hết, theo nghĩa rộng, tôi thiết nghĩ đây là ngày lễ của tất cả từng người chúng ta đây, không trừ một ai. Bởi vì nếu gia trưởng là người đứng đầu và chịu trách nhiệm cho một tập thể, thì phải chăng, từng người chúng ta cũng đang là một gia trưởng cho chính con người của chúng ta với một tập thể có rất nhiều các bộ phận khác nhau: từ khối óc cho đến con tim; từ con mắt cho tới tay chân, miệng lưỡi… Do đó, chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về những suy nghĩ, tình cảm, lời nói và hành động của chúng ta. Vì thế, bài học đầu tiên, chúng ta học được nơi thánh Giuse là hãy đặt trọn vẹn con người của chúng ta dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, như lời của thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi” (Ga 2, 20). Cụ thể, trước mỗi lời nói, hành động, chúng ta hãy suy nghĩ, Chúa có muốn tôi nói và làm điều đó không?
Kế đến, đó là ngày lễ của tất cả những người chịu trách nhiệm về một cộng đoàn: cộng đoàn đó có thể là một gia đình, nhưng cũng còn là một giáo xứ, một dòng tu, một đoàn thể, một giới, hay đơn giản hơn: một lớp giáo lý. Trong tư cách là người chịu trách nhiệm trên những người khác, chúng ta hãy nói gương thánh Giuse, sẵn sàng bỏ ý riêng để thực hiện ý Chúa. Khi gặp những điều trái ý, chúng ta không vội vàng, không nóng nảy, nhưng bình tĩnh tìm hiểu thánh ý của Thiên Chúa, rồi giải quyết mọi sự theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Giờ đây, nhờ lời bầu cử của Thánh Cả Giuse, xin cho từng người, từng gia đình chúng ta luôn siêng năng học hỏi và sống lời Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Nhờ đó, gia đình và cộng đoàn của chúng ta sẽ luôn sống trong bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
60.Tìm hiểu về lễ Thánh Giuse 19/3 “Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria”-- Lm. Phan Tấn Thành, O.P
Lần đầu tiên tên Thánh Giuse được nhắc đến vào ngày 19/3 là một cuốn “Tử đạo thư” (martyrologium: nêu danh tánh của các thánh nhân dịp kỷ niệm ngày qua đời của các đấng) thế kỷ VIII của một đan viện Biển-đức ở Rheinau (thuộc tổng Zurigô, Thụy sĩ). Vào thế kỷ IX, một đan viện khác cũng thuộc dòng Biển-đức ở Reichenau (miền nam nước Đức) tưởng nhớ người vào ngày 19/3, và cũng có thể là nơi xuất phát phong trào phổ biến lòng tôn kính thánh nhân. “Tử đạo thư” thế kỷ X của Fulda đã đặt tiêu đề ngày 19/3 là: “Tại Bêlem, Thánh Giuse, Đấng dưỡng nuôi Chúa” (In Bethleem, sancti Joseph, nutritoris Domini).
Thanh Giuse
Giáo Hội nhìn nhận tầm quan trọng của Thánh Giuse không chỉ qua những tuyên ngôn, những văn kiện, nhưng nhất là qua những việc tôn kính đạo đức. Trong chương hai, chúng tôi đã nói qua sự phát triển của lòng sùng kính Thánh Giuse trải qua các thế kỷ. Trong mục này, chúng ta hãy tìm hiểu lịch sử và ý nghĩa của vài hình thức cụ thể, được xếp vào hai loại chính:
Những hình thức phụng vụ, theo lịch phổ quát và địa phương: lễ kính Thánh Giuse ngày 19/3 (bài lễ; kinh tiền tụng và phụng vụ giờ kinh); lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse; lễ Thánh gia; lễ Thánh Giuse lao động; lễ kính cuộc kết hôn; lễ kính Thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh; tưởng nhớ việc trốn sang Ai-cập.
Những việc đạo đức dân gian:
a) các kinh nguyện: kinh cầu Thánh Giuse; bảy sự vui buồn;
b) các thời điểm: thứ Tư hàng tuần, tháng 3 dương lịch.
Ngày lễ chính: 19 tháng Ba
Như đã nói trong chương 2, bên Đông phương, nghi điển Byzantin kính nhớ Thánh Giuse chung với các thánh tổ phụ vào mùa Giáng Sinh; riêng nghi điển Coptô (bên Ai cập) mừng vào ngày 26 tháng Abib. Bên Tây phương ngày lễ chính được cử hành vào ngày 19 tháng ba, với một tiến trình lịch sử kéo dài nhiều thế kỷ.
Lần đầu tiên tên Thánh Giuse được nhắc đến vào ngày 19/3 là một cuốn “Tử đạo thư” (martyrologium: nêu danh tánh của các thánh nhân dịp kỷ niệm ngày qua đời của các đấng) thế kỷ VIII của một đan viện Biển-đức ở Rheinau (thuộc tổng Zurigô, Thụy sĩ). Vào thế kỷ IX, một đan viện khác cũng thuộc dòng Biển-đức ở Reichenau (miền nam nước Đức) tưởng nhớ người vào ngày 19/3, và cũng có thể là nơi xuất phát phong trào phổ biến lòng tôn kính thánh nhân. “Tử đạo thư” thế kỷ X của Fulda đã đặt tiêu đề ngày 19/3 là: “Tại Bêlem, Thánh Giuse, Đấng dưỡng nuôi Chúa” (In Bethleem, sancti Joseph, nutritoris Domini).
Người ta không rõ nguồn gốc mối liên hệ giữa ngày 19/3 với Thánh Giuse. Một giả thuyết cho rằng trước kia đã có lễ Thánh Giuse Antiokia vào ngày 20/3 trong nhiều “tử đạo thư”. Có thể do sự trùng tên cho nên lịch đã ghi Thánh Giuse hôn phu của Đức Maria vào cùng ngày hoặc vào ngày hôm trước. Một giả thuyết nữa cho rằng thời xưa tại Rôma, ngày 19/3 là lễ của các người thợ tôn kính nữ thần Minerva; vì thế nó được thay thế bằng lễ kính Thánh Giuse là một người thợ xem ra dễ hiểu. Tiếc rằng chưa có đủ bằng chứng lịch sử về lễ kính Thánh Giuse thợ vào các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Dù nguồn gốc như thế nào đi nữa, việc mừng lễ Thánh Giuse vào ngày 19/3 đã được thành hình từ đầu thiên niên kỷ thứ hai.
Vào khoảng năm 1030, một đan viện dòng Biển-đức tại Winchester đã cử hành lễ Thánh Giuse. Cũng trong thế kỷ này, dòng Cát-minh từ thánh địa trở về châu Âu đã góp phần vào việc quảng bá lòng sùng kính.
Vào năm 1129 các đan sĩ Biển-đức thuộc đan viện Thánh Hêlena đã cất một nhà thờ dâng kính Thánh Giuse ở Borgo Galliera (thành phố Bologna, Italia). Có thể nói được đây là trung tâm phổ biến lòng sùng kính thánh nhân sang các nơi khác. Cũng tại nơi đây, tên Thánh Giuse, vốn đã trở thành quen thuộc bên Đông phương, bắt đầu được đặt cho các trẻ em khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Có lẽ lòng đạo đức sơ khởi kính Thánh Giuse trong dòng Phan-sinh bắt nguồn do ảnh hưởng của cuộc tiếp xúc với Bologna.
Sang thế kỷ XIII, chúng ta tìm thấy những bản văn được soạn để mừng lễ. Tại Liège có môït lời nguyện riêng cho Thánh Giuse. Đan viện Biển-đức Thánh Lorensô tại thành phố đó đã có toàn bộ kinh nguyện, với cung hát, để tôn kính người. Đan viện Thánh Florianô ở nước Áo có một quyển sách lễ với một bài lễ kính Thánh Giuse, và một bài lễ khác kêu cầu những công nghiệp của người “chống lại sự phỉ báng của phường tội lỗi”.
Trong thế kỷ XIII, các tu sĩ dòng Phan-sinh đã tự động mừng lễ Thánh Giuse, và một “tử đạo thư” đã xếp ngày 19/3 như là ngày lễ duplex maior trong khi một quyển trước đó chỉ mừng với cấp duplex minor. Tại Pháp, nhà thờ Phan-sinh ở Toulouse có một nhà nguyện tôn kính Thánh Giuse từ năm 1222, và vào ngày 7/7/1275 một nhà thờ kế cận tu viện Phan-sinh ở Bourbonnais miền Champagne đã được cung hiến long trọng với thánh hiệu này.
Những cuộc thập tự chinh cũng là cơ hội để mang những di tích thánh từ thánh địa về châu Âu, ví dụ như cây gậy của Thánh Giuse, và chiếc nhẫn đính hôn người trao tặng Đức Maria.Vào năm 1254, một nhà nguyện được xây cất trong nhà thờ Thánh Lôrensô ở Joinville-sur-Marne (Pháp) để tôn kính dây thắt lưng và nơi đây đã trở thành trung tâm hành hương. Có lẽ tại những nhà nguyện được cất lên để tôn kính Thánh Giuse, lễ mừng kính người được cử hành vào tháng ba.
Vào ngày 1/5/1324, dòng Tôi Tớ Đức Mẹ trở thành dòng tiên khởi tuyên bố tại tổng hội rằng các thành viên của dòng phải cử hành trong tất cả nhà thờ của họ lễ Thánh Giuse được ấn định mừng vào ngày 15/3. Các tu sĩ dòng Tôi Tớ Đức Mẹ đã làm chủ nhà thờ Thánh Giuse ở Bologna kể từ năm 1301, và họ đã phổ biến việc cử hành lễ này. Tổng hội dòng Phan sinh vào năm 1399 cũng đã thiết lập lễ Thánh Giuse với chín bài đọc trong giờ kinh phụng vụ và một Thánh lễ sử dụng phần chung của các thánh “hiển tu” (Commune confessorum), đồng thời quyết định rằng lễ này phải được cử hành vĩnh viễn trong toàn Dòng. Tuy nhiên, không rõ các quyết nghị này có ảnh hưởng đến đâu.
Tại Agrigento (nam Italia), nơi có các tu viện của dòng Phan-sinh, Đa-minh, Cát-minh, vào thế kỷ XIV đã lưu hành “Kinh nguyện kính thánh cả Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Officium Santissimi Joseph nutricii et patris adoptivi Domini nostri Jesu Christi). Trong phần điệp ca của kinh Magnificat, người được gọi là “dòng dõi ưu tuyển của Bêlem, được giải thoát khỏi mọi vết nhơ tội lỗi” (O proles almifica de Bethleem electa, gemma nimis ardua, ab omni labe erepta).
Những chi tiết vừa rồi nhằm trình bày nguồn gốc của việc mừng kính lễ trong tháng Ba cùng với việc phát triển ở phương Tây. Sang thế kỷ XV, ngày lễ mới bắt đầu được phổ biến hơn. Tại công đồng Constance (1414-1418) các nghị phụ đã nghe Cha Jean Gerson thuyết minh về lời bầu cử đầy quyền năng của Thánh Giuse, Đấng đã sai khiến hài nhi Giêsu và Đấng có thể được kêu cầu cách hiệu nghiệm để chấm dứt nạn ly giáo đang gây đau khổ cho Hội Thánh. Cha Gerson đã xin công đồng xem xét và phong ban cho Thánh Giuse một danh dự lớn lao hơn. Tuy nhiên, xem ra ảnh hưởng của dòng Phan-sinh trong thế kỷ này mới thực là nhân tố chính cho việc bành trướng ngày lễ.
Các tu sĩ dòng Phan-sinh như Thánh Bernardinô Siena (+1414) không chỉ giảng về Thánh Giuse mà còn phân phát lược đồ các bài giảng nữa. Tu sĩ Bernardinô Feltre đã thiết lập ở khắp nước Ý những quỹ tín dụng (cho vay không lãi) mang tên là “những ngọn núi đạo đức” (Monte di pietà) đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse. Năm 1461 ở Salamanca, tổng hội dòng Phan-sinh (nhánh nhiệm nhặt) đã ấn định ngày lễ vào 19/3. Năm 1471, một người bạn của Cha Bernardinô Feltre và là nguyên Bề trên tồng quyền của dòng Phan sinh đắc cử giáo hoàng, đó là đức Sixtô IV. Vào tháng mười một năm 1480, người cho phép dòng Phan-sinh được cử hành mừng lễ bậc duplex maior ngang hàng với các lễ Hiển Linh, Truyền Tin, và Phục Sinh. Mặc dầu là đặc ân được ban cấp cho một dòng tu, nhưng sự phê chuẩn công khai của đức thánh cha đã mở đường cho việc bành trướng lễ rộng rãi hơn. Nhiều ấn bản của Sách lễ Roma và Sách nguyện, chẳng hạn như những quyển do tu sĩ Philipphê Rotingo ở Venise xuất bản năm 1481, đã sắp xếp ngày lễ với bậc duplex maior với bài đọc riêng. Người ta cho rằng đức Sixtô IV đã mở rộng lễ này ra khắp Hội Thánh với cấp simplex, mặc dầu chưa có tính cách bó buộc. Một ấn bản Sách lễ Roma tại Venise do Giovanni Sessa in vào năm 1497 đăng lịch của dòng Phan-sinh với ngày lễ này và những bản văn riêng mà Sách Lễ của đức Piô V sẽ sử dụng.
Qua thế kỷ XVI, người ta thấy sự bành trướng của việc cử hành lễ 19/3 trong các giáo phận và các dòng tu, với việc ghi tên trong các lịch phụng vụ cùng với việc xuất bản những bản văn dùng trong các Sách lễ và Sách nguyện. Việc cải tổ Phụng vụ sau công đồng Trentô đã thiết lập sự thống nhất các sách phụng vụ trong toàn thể nghi lễ Latinh. Khi đức Piô V cho xuất bản Sách nguyện (năm 1568) và Sách lễ Roma (năm 1570), ngày 19/3 được dành kính “Thánh Giuse hiển tu” ở bậc duplex. Nói chung, những lời nguyện được trích từ bài lễ của các vị thánh khác (Thánh Matthêu và Thánh Tôma). Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nhiều thánh thi và lời nguyện được sáng tác và sử dụng trong các lịch riêng, kể cả sau cuộc canh tân của đức Piô V.
Theo lời yêu cầu của nhiều quốc gia và đoàn thể , đức Grêgôriô XV tuyên bố lễ Thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Giáo Hội (ngày 8/5/1621). Ngày 6/12/1670, đức Clêmentê X nâng lên bậc duplex secundae classis, và soạn ba bài thánh thi cho giờ kinh phụng vụ (kinh Chiều: Te Ioseph celebrent; kinh Sách: Caelitum, Ioseph, decus; kinh Sáng: Iste, quem laeti).
Ngày 4/2/1714, đức Clêmentê XI phê chuẩn những bản văn riêng cho ngày lễ 19/3, bao gồm những thánh thi đã được đức Clêmentê X chứng nhận. Ngày 8/12/1870 đức Piô IX công bố Thánh Giuse là bảo trợ của Hội Thánh và nâng lễ Thánh Giuse lên bậc duplex primae classsis.
Trong thông điệp Quamquam Pluries năm 1889, đức Lêô XIII ước muốn rằng tại những nơi nào mà ngày 19/3 không phải là lễ buộc thì cũng nên được tuân giữ với lòng đạo đức và lòng nhiệt thành như ngày lễ buộc.
Năm 1911 đức Piô X dời ngày lễ vào Chúa nhật sau ngày 18/3 như để giảm bớt số lượng ngày lễ buộc trong tuần. Tuy nhiên, chỉ sau ba tuần lễ, do những cuộc tranh luận về phụng vụ mùa Chay, lễ Thánh Giuse được mừng trở lại vào ngày 19/3 ở bậc duplex primae classsis, nhưng không phải là lễ buộc, với tiêu đề mới “Lễ Trọng Kính Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria, Hiển Tu” (Commemoratio Sollemnis S.Ioseph, Sponsi B.M.V. Confessoris). Với việc cải tổ phụng vụ năm 1913, ngày lễ được giảm xuống bậc duplex secundae classis.
Khi đức Bênêđitô XV ban hành bộ Giáo luật năm 1917, điều khoản 1247 một lần nữa ấn định lễ Thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Hội Thánh. Hậu quả là vài tháng sau, lễ phụng vụ được nâng lên bậc duplex primae classsis. Trong bộ Giáo luật 1983, lễ Thánh Giuse là một trong mười ngày lễ buộc của Hội Thánh hoàn vũ, tuy hội đồng giám mục địa phương có thể xin loại bỏ các ngày đó.
Năm 1956 một quyết định quan trọng theo sau việc thiết lập lễ Thánh Giuse Lao Động là huỷ bỏ lễ Thánh Giuse Bảo Trợ được cử hành vào ngày thứ Tư trong tuần thứ ba sau lễ Phục Sinh. Sắc lệnh này đã nối kết tiêu đề của lễ trọng này: “Bảo trợ Hội Thánh hoàn vũ” vào ngày lễ chính của Thánh Giuse 19/3.
Năm 1969 trong lịch phụng vụ canh tân do đức Phaolô VI ban hành, ngày 19/3 được xếp vào hàng lễ trọng và mang tiêu đề “Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria” (S.Ioseph, Sponsi B.M.V.). Với sự thay đổi này, không chỉ ngày lễ mà cả tiêu đề “bảo trợ Hội Thánh hoàn vũ” cũng bị loại bỏ.
Bản văn Thánh lễ ngày 19/3
Sách Bài đọc ban hành năm 1969 ấn định ba bài đọc như sau: 2 Sm 7,4.12-14a.16 (đức Mêsia dòng dõi vua Đavit); Rm 4,13.16-18.22 (gương mẫu đức tin); Mt 1,16,18-21.24 hay Lc 2,41-51a.
Sách lễ Roma ban hành năm 1970 có những lời nguyện mới về Thánh Giuse trong thánh lễ, đề cao vai trò của người trong nhiệm cục cứu độ và về niềm vui của Hội Thánh có Thánh Giuse là mẫu gương và đấng bầu cử. Những bản văn hiện tại chú trọng đến Thánh Giuse trong tương quan với Đức Kitô và với Hội Thánh:
đối với Đức Kitô, Thánh Giuse “đã hết lòng phục vụ Đức Kitô, Con Một Chúa”. “Chúa đã giao phó Con Một Chúa chăm sóc giữ gìn như người cha lo cho con cái”.
đối với Hội Thánh, Thánh Giuse là vị bảo trợ “được thánh nhân phù trợ ở dưới thế gian này thì cũng được cầu thay nguyện giúp trước toà Chúa”; đồng thời người cũng là mẫu gương cho Hội Thánh trong việc “cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu”, biết “phục vụ hy sinh suốt đời như người tôi trung”.
Kinh Tiền Tụng duy trì bản văn được đức Bênêđitô XV châu phê ngày 9/4/1919, tóm tắt những điều chính yếu của Tin Mừng về vai trò thánh Giuse “người công chính, kết bạn với Đức trinh nữ Mẹ Chúa Trời ... tôi tớ trung tín và khôn ngoan được trao phó coi sóc Thánh gia”, để thay quyền Chúa Cha “gìn giữ Đức Giêsu Kitô, Con Một Chúa Nhập Thể bởi quyền năng Thánh Thần”.
Phụng vụ các giờ kinh
Khi bàn về lịch sử lễ kính Thánh Giuse, chúng ta đã đề cập đến sự phát triển của Sách nguyện về lễ này. Vào thế kỷ XIII, một đan viện dòng Biển-đức ở Liège đã có một bài nguyện riêng, và vào năm 1399, các tu sĩ dòng Phan-sinh đã đọc các giờ kinh với chín bài đọc. Đức Sixtô IV (1471-1484) thuộc dòng Phan-sinh đã đưa các bản văn này vào Sách nguyện Roma. Nhiều sách nguyện khác có kinh phụng vụ kính Thánh Giuse vào thế kỷ XVI. Sau công đồng Trentô, những bản văn được thống nhất dưới thời đức Piô V (1566-1572) nhưng bản văn đầy đủ hơn được đức Clêmentê XI công bố ngày 4/2/1714 mà người ta nói do chính người soạn ra. Những bản văn này không thay đổi trong hai thế kỷ rưỡi, cho đến khi duyệt lại sách phụng vụ giờ kinh năm 1971 bao gồm những bản văn mới cho ngày lễ 19/3, lễ Thánh Gia, lễ Thánh Giuse Lao Động.
Lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse
Lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XIII, và được đưa vào nhiều Sách lễ xuất bản vào thế kỷ XVI như ở Orleans, Paris, Strasbourg, Salzburg, Chalon va Reims.
Sắc lệnh năm 1883 cho phép các công nghị giáo phận và các cộng đoàn tu trì sáng tác các kinh nguyện ngoại lịch và ấn định những lễ ngoại lịch vào các ngày khác nhau trong tuần, riêng ngày thứ Tư là: “Thánh Giuse, bạn của đức Trinh Nữ Maria, bảo trợ của Hội Thánh Công giáo”. Tiêu đề này xuất hiện ở phần “Lễ nhớ ngoại lịch quanh năm” trong Sách lễ Roma được xuất bản dưới thời đức Lêô XIII, nhưng trong ấn bản của đức Bênêđitô XV, tiêu đề chỉ còn giữ lại “Lễ Thánh Giuse” mặc dầu các bản văn không thay đổi. Thỉnh thoảng giáo quyền ban phép cho một vài hội dòng được cử hành lễ nhớ ngoại lịch vào những dịp không bị ngăn trở bởi lịch phụng vụ.
Trong Sách lễ Roma năm 1970, các thánh lễ ngoại lịch không còn gắn với ngày nào đặc biệt trong tuần nữa, nhưng được xếp theo thứ tự hệ thống cấp bậc: bắt đầu với lễ Chúa Ba Ngôi, Đức Maria ở vị trí thứ tám, các thiên thần ở vị thế thứ chín, Thánh Giuse được xếp vào hàng thứ mười, trước các tông đồ.
Ca nhập lễ trích từ Lc 12,42 và ca hiệp lễ lấy từ Mt 25,21 nhằm trình bày Thánh Giuse như mẫu người đầy tớ trung tín mà Đức Kitô nói đến. Lời tổng nguyện của bản văn cũ vẫn duy trì, trong khi lời nguyện trên lễ vật và lời nguyện hiệp lễ là những bản văn mới, xin vì mẫu gương và lời chuyển cầu của Thánh Giuse, người công chính và vâng phục cùng là thừa tác của các mầu nhiệm cứu độ giúp chúng ta sống thánh thiện và công chính trong tác vụ của mình.
(Trích: Sứ Mạng Thánh Giuse Trong Cuộc Đời Chúa Kitô & Hội Thánh)
61.Ngày 19 Tháng 3: Thánh Giuse-- NguoiTinHuu.com
Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người "công chính". Ý nghĩa của chữ "công chính" rất sâu xa.
Khi Phúc Âm nói Thiên Chúa "công chính hóa" người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và "chính trực", biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến.
Khi nói Thánh Giuse "công chính", Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa.
Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân.
Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này "cách âm thầm" vì ngài là "một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ" (Mátthêu 1:19).
Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa - khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm.
Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.
Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.
Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội.
Lời Bàn
Phúc Âm không nói gì nhiều về Thánh Giuse trong những năm sau khi trở về Nagiarét, ngoại trừ biến cố tìm thấy Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (xem Luca 2:41-51). Ðiều này có thể hiểu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rằng thánh gia cũng giống như mọi gia đình khác, những biến cố xảy ra cho thánh gia cũng xảy ra cho bất cứ gia đình nào, bởi đó khi bản tính bí ẩn của Ðức Giêsu bắt đầu lộ diện thì mọi người đều không tin là Ngài có thể xuất thân từ gia đình đó: "Ông ấy không phải là con bác thợ mộc hay sao? Mẹ của ông ấy không phải là bà Maria sao...?" (Mt 13:55a). Và "Có gì hay ho xuất phát từ Nagiarét?" (Gioan 1:46b).
Lời Trích
"Thánh Giuse được Cha trên trời chọn để làm người bảo vệ đáng tin cậy, che chở những kho báu của Ngài, đó là Chúa Con và Ðức Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse. Người đã thi hành nhiệm vụ này với sự trung tín cho đến khi Thiên Chúa gọi người, và nói: 'Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng niềm vui của Thiên Chúa ngươi'" (Thánh Bernadine ở Siena viết về Thánh Giuse).
62.Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Maria
Chỉ có Phúc Âm Mátthêu và luca mới nói về thánh Giuse. Theo hai thánh sử, Giuse thuộc chi tộc Đavít: người được xem như dây liên hệ giữa dòng dõi Đavít với Đấng Mêsia.
Những chặng đường đời của thánh Giuse cũng được thấy rõ: thánh nhân là con người của niềm tin và phó thác, một người được chia sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Thánh nhân là người sống thinh lặng, được Thiên Chúa chọn làm Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Người cũng được trao phó việc chăm sóc con Thiên Chúa, như một người cha.
Thánh nhân sống bao lâu, chúng ta không rõ. Lần cuối cùng chúng ta thấy người xuất hiện tại Giêrusalem là khi trẻ Giêsu lên 12 tuổi.
Giáo Hội Phương Tây chính thức tôn kính thánh Giuse vào thế kỷ XIV, XV. Thánh lễ hôm nay chỉ gặp được trong phụng vụ Rôma vào năm 1621. Đức Thánh Cha Piô XI công bố: Thánh Giuse là quan thầy của Hội Thánh.
Xin Chúa vì công nghiệp và lời cầu bầu của thánh Giuse, ban cho chúng con ơn khiêm nhường và lòng tin tưởng vào tình thương và quyền năng Chúa trong cuộc đời của mỗi người chúng con.
Suy niệm 1: ĐỨC VÂNG PHỤC CỦA THÁNH CẢ GIUSE
Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa truyền dạy. (Mt 1,24a)
Suy niệm: Thánh Giuse khong được các thánh sử cho “phát biểu” một câu nào trong cả bốn Tin Mừng, chỉ thấy Ngài làm theo những gì được truyền: nào là bỏ ý định toan tính trốn; nào là dắt Đức Maria và Hài Nhi Giêsu đi “tị nạn” bên Ai-cập… nhất nhất cái gì cũng làm theo lời chỉ dạy của Thiên Chúa. Sự vâng phục của thánh Giuse không phải là thứ vâng lời tối mặt, mù quáng. Để thực hiện sứ mạng, ngài không được Chúa ban cho sự can thiệp đặc biệt nào ngoài những lời báo tin của thiên thần. Thế nên phải thật khôn ngoan mưu lược, thánh Giuse mới hoàn thành sứ mạng đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài thoát khỏi vòng vây trùng điệp của binh lính Hêrôđê để sang tới Ai Cập. Sự khôn ngoan của thánh Giuse càng thể hiện rõ khi hồi hương từ Ai Cập, ngài đã đưa thánh gia về Nadarét thay vì Bêlem. Thánh Giuse vâng phục thánh ý Chúa cách tuyệt đối, không máy móc mà đầy khôn ngoan và sáng tạo.
Mời Bạn: Thánh Giuse được Thiên Chúa tuyển chọn làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng cũng vẫn phải trải qua những long đong của cuộc sống thường nhật. Ngài không “nói” lời nào nhưng luôn lắng nghe và vâng phục thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa.
Sống Lời Chúa: Bạn đọc lại câu Phúc Âm trên đây cách chậm rãi và suy niệm về việc vâng phục ý Chúa từ những kinh nghiệm sống của mình.
Cầu nguyện: Lạy thánh Giuse, Ngài đã lang nghe và thực hành lời Chúa trong sự khiêm nhường tột bậc. Xin giúp chúng con cũng biết lắng nghe và vâng phục ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống hằng ngày. Amen.
Suy niệm 2: THÁNH GIUSE NGƯỜI GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH
Để đảm bảo hạnh phúc gia đình, hơn lúc nào hết các đôi vợ chồng ngày hôm nay cần phải ý thức và can đảm sống nhân đức trung thành theo mẫu gương của Thánh Giuse.
1. Thánh Giuse trung thành bảo trợ gia đình
Sau khi nhận được thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để bảo trợ Thánh gia.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử.
Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê. Để bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu, thánh Giuse phải vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Ngoài việc bảo vệ sự sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ cho Đức Maria và Hài Nhi Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vả tại xưởng mộc bé nhỏ tại làng Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để nuôi sống gia đình.
Cuộc đời thánh Giuse quả không phải sung sướng, an nhàn, trái lại ngài phải trãi qua trăm chiều thử thách và đau khổ. Ý Chúa quan phòng để ngài nêu gương cho ta khi gặp gian lao, thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để bảo vệ sự sống, mạng sống và tạo điều kiện cho gia đình mình được sống an bình.
Là người cha phải hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi tay kẻ dữ, khỏi bầu khí hận thù và bất công. Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.
Hằng ngày có biết bao hài nhi bị hủy diệt trong bào thai. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến không ít những hài nhi vừa cất tiếng khóc chào đời lại bị chính cha mẹ chúng bỏ rơi, thật đau lòng!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là chúng ta phải biết tỉnh thức để nghe tiếng Chúa nói trong lương tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ, ngài vẫn thức tỉnh nhận ra tiếng Chúa nói trong giấc mộng.
2. Thánh Giuse trung thành trong nhiệm vụ giáo dục con cái
Tin mừng thánh Luca đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu: “Hài nhi lớn lên càng mạnh khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và người ta” (Lc 2,40-52). Chỉ một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn tả hầu như trọn vẹn cách thế giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con mình. Các ngài đã để ý và giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí dục, đức dục …
- Thể dục: Trẻ Giêsu càng lớn lên càng mạnh mẻ, đầy sức lực nhờ vào lao động nơi xưởng mộc Nazarét mà thánh Giuse đã dày công tạo dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã đi bộ suốt bốn năm ngày đàng lên Giêrusalem dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh nói trẻ Giêsu mệt mỏi. Sau này giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc, thành phố và cả những vùng lân cận nữa.
- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn khi mới 12 tuổi, cậu bé Giêsu của làng Nazarét quê mùa, vô danh, ở tít vùng sâu, vùng xa đã đàng hoàng vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem, ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp khôn ngoan của cậu. Nếu gia đình Thánh Giuse không quan tâm đến việc hướng dẫn con mình học hỏi và trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự hiểu biết như thế?
Mỗi ngày Sabát là dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật Chúa. Như trở thành thói quen mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa Giêsu thường xuyên vào Hội Đường đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ nhờ việc quan tâm đến giáo dục tri thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc lòng các khoản Luật và Lời Chúa.
- Đức dục: Ngoài đức công chính gắn liền với tên tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn nhận thấy một nhân đức khác nổi bậc nơi ngài nữa đó là đức vâng lời. Vâng lời thánh ý Thiên Chúa, ngài đã bỏ ý riêng mình để đón nhận Đức Maria về nhà mình. Vâng lời Thiên Chúa, ngài đã mau mắn đem Đức Maria và Hài Nhi trốn sang Aicập.
Chính nhờ ảnh hưởng của một nền đạo đức như vậy mà Đức Giêsu trở nên người con hằng “đẹp lòng Chúa Cha”. Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai chữ “xin vâng” theo thánh ý Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:
Vâng lời Chúa Cha từ trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên người phàm, từ Đấng Thánh Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang lại trở nên nghèo khó…; và Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế nên Người hằng xác quyết: “lương thực của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Ngoài việc vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn vâng lời thánh Giuse và Đức Maria: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Vậy những bậc cha mẹ cũng hãy noi gương thánh Giuse, quan tâm giáo dục con mình phát triển toàn diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con chúng ta trở nên tốt.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta cũng đang sống trong tâm tình của mùa chay thánh. Nếu mùa chay Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về, thì trước hết, chúng ta hãy bắt đầu trở về với chính mình, với những bổn phận của người chồng-vợ, người cha-mẹ, người gia trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương thánh Giuse trung thành trong vai trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách nhiệm làm cha-mẹ và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình trở thành người và thành người con Chúa.
Vì sự sống và hạnh phúc gia đình, xin cho các gia trưởng-hiền mẫu quyết sống với HAI CHỮ TRUNG THÀNH theo gương thánh Giuse Bổn mạng gia trưởng. Amen.
Suy niệm 3: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG CỦA THINH LẶNG
Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận ra con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù hợp với ý Chúa hơn.
Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm, thinh lặng.
Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu quý đời sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh lặng”.
Chia sẻ
Có truyện kể về 3 pho tượng: Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau. Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.
Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.
Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do. Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng.
Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.
Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình”.
Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không nên giao chiến”.
Trong các sách Tin Mừng dù có nhắc tên Thánh Giuse đôi lần, nhưng không hề thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse. Có lẽ không phải vì vô tình mà Thánh Kinh không ghi nhận một lời nào của Thánh Giuse, nhưng muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng.
Thinh lặng giúp ta cảm nhận được vẽ đẹp.
“…Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu…”
Trong bài thơ “Đà Lạt Trăng Mờ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử kêu mời ta hãy lắng đọng tâm hồn trong cỏi riêng tư để cảm nhận sâu xa vẻ đẹp thiên nhiên mà Thượng Đế yêu thương ban tặng cho. Chỉ có thinh lặng, ta mới chìm sâu vào tận đáy lòng mình để nhận ra đáy nước hồ reo, nghe thấy nhịp rung của liễu tơ và nhận ra tình yêu của đất trời.
Chính đời sống thinh lặng, Thánh Giuse mới có khả năng nhìn thấu được phía bên kia của những biến động làm xáo trộn cuộc sống của ngài. Chính trong thinh lặng ngài mới thấu suốt và tin tưởng vào những vẽ đẹp của ơn Chúa ban trước những biến cố đầy sóng gió xảy đến cho gia đình mình.
Thinh lặng là chọn cho mình lối sống khôn ngoan
Người đời thường nói: “Lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Thinh lặng hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng, là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc. Như thế thinh lặng được ví như một chuẩn mực của đạo đức, một tiêu chí của khôn ngoan thông thái.
Ông bà ta vẫn nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” (Người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như mình, người biết thì lại không nói vì nghĩ rằng mọi người đều biết”.).
Trong thinh lặng đầy khôn ngoan, Thánh Giuse đã âm thầm bảo vệ che chở Đức Maria và nuôi dưỡng Hài Nhi Giêsu trong bầu khí ấm êm của một gia đình hợp pháp. Cho nên Heidegger mới khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ hoà quyện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới.
Thinh lặng giúp ta nhận ra giới hạn của mình
Thinh lặng để thấu đạt được cái vô thường, cái bất biến, cái trường cửu của đất trời. Thinh lặng để thấu triệt được nội quan cũng như ngoại giới. Thinh lặng đễ thấy ta là nhỏ bé, là mong manh, là hạn hữu trong mênh mông, bao la, vô hạn giới của đất trời, của vũ trụ thường hằng và vô biên. Thinh lặng để chuyển tải nhiều hơn, thinh lặng để nói nhiều hơn, để nghe nhiều hơn, để thấu đạt nhiều hơn, có lẽ cũng đáng giá lắm thay sự thinh lặng ấy!
Trong chính sự thinh lặng của đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Vì thế ngài được gọi là “người công chính”: làm theo ý Chúa.
Giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, ta phải chọn lựa như thế nào? Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, ta biết đâu là đúng, đâu là sai? Có lẽ ta hãy học thinh lặng như thánh Giuse, để lắng đọng tâm hồn, bình tĩnh lắng nghe tiếng Chúa nói. Khi nghe được tiếng Chúa, ta phải cương quyết chọn lấy cho mình con đường. Đó là sống cho nền văn minh tình thương và văn hoá của sự sống theo gương Thánh Giuse.
(trích từ trang Lamhong.org)
63.Thánh Giuse 19-3--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết
Bài suy niệm 1:
“Khi tỉnh dậy Giuse đã thực hiện như lời Sứ thần truyền, ông tiếp nhận bạn mình nhưng không ăn ở cho đến khi bà sinh con trai đầu lòng thì ông đặt tên con trẻ là Giêsu”
1/ Đính hôn hay thành hôn? Đây là Đính Hôn nhưng theo luật Do Thái trong thời gian chờ đợi rước dâu 6 tháng hay hơn nữa hai người có quyền “ăn ở” với nhau nếu có thai thì đứa con được pháp luật công nhận. Cho nên Đính Hôn của Do Thái kể như Thành Hôn của Việt Nam nhưng chưa về chung sống với nhau ngay.
2/ Ông Giuse là người công chính. Công chính theo truyền thống Do Thái là tuân thủ lề luật. Ông Giuse có quyền “kêu oan” và Đức Maria sẽ bị kết án nhưng Giuse được chọn làm Cha Nuôi Chúa Cứu Thế nên đã giữ Đức Công Bình và Bác Ái của Tân Ước hơn là công bình của Cựu Ước: Không tố cáo vu vơ không bằng chứng, không làm thiệt hại cho ai, luôn tôn trọng mạng sống người vô tội… nên đã chọn giải pháp “im lặng” cứ để Đức Maria ở bên ngoại…
3/ Chúa đã ra tay giải quyết… và Giuse đã tuyệt đối vâng lời như Đức Mẹ đã “xin vâng”.
4/ Giêsu chính là tên sứ thần đã báo trước cho Đức Maria… Thánh Giuse đặt tên con trẻ là chính thức nhận con mình.
Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa Cứu Độ, tức là Chúa Cứu Thế.
5/ Thánh Matthêu trích dẫn bản 70 đoạn Is 7, 14 có ý chứng minh Đức Mẹ Đồng Trinh…
6/ Hai kiểu nói cần hiểu chính xác:
– Sinh con Đầu Lòng… không có nghĩa là còn con khác nữa… mà nhắc tới luật trong sách Xuất Hành: Con Trai Đầu Lòng thì thuộc về Thiên Chúa.
– Không ăn ở “cho đến khi bà sinh con” kiểu nói xác định khoảng thời gian đó, không được quả quyết gì sau đó. Cho tới khi bà sinh con, không đương nhiên là sau đó thì ông bà ăn ở với nhau.
Trường hợp bà Michal vợ vua Đavit, bị Chúa phạt: “không có con cho đến chết”… không có nghĩa là sau khi chết bà sẽ sinh con (2Sm 6, 23).
***********
Xin cho chúng con học gương công chính và vâng lời của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Amen.
“Xin vâng, Mẹ dậy con hai tiếng xin vâng, hôm qua hôm nay và ngày mai…” (Mi Trầm).
Bài suy niệm 2:
“Sau 3 ngày ông bà mới tìm thấy con trong Đền thờ…”
1/ Công trình cứu chuộc của Thiên Chúa được chuẩn bị từ rất xa… Các tiên tri trong Cựu Ước đã dọn đường bằng cách báo trước những biến cố xẩy ra trong chương trình cứu chuộc mà Đức Kitô thực hiện… từ nơi Chúa sinh ra: Belem… tới nơi Chúa chịu chết: Giêrusalem. Tất cả đều khớp với nhau, không sai một ly. Các thánh kí dùng kiểu nói: “để ứng nghiệm lời tiên tri đã báo…”.
2/ Sự việc Đức Mẹ và thánh Giuse lạc mất Chúa 3 ngày tại Giêrusalem, trùng khớp và báo trước cái chết và mai táng Chúa 3 ngày trong mồ tại Giêrusalem:
– Cũng dịp lễ Vượt Qua.
– Cũng tại Giêrusalem.
– Cũng 3 ngày không thấy Chúa.
– Cũng những khổ đau, lo lắng, sầu não… của người mẹ mất con.
3/ Chúa muốn cho Đức Mẹ và Thánh Giuse trải nghiệm trước cuộc khổ nạn của Chúa. Các ngài là những người cộng tác mật thiết vào công trình cứu chuộc của Chúa.
Nguyện xin Thánh cả Giuse quyền cao sang, rầy đang no đầy ơn phúc trên Thiên đàng, cứu giúp chúng con thế trần lầm than, ngày đêm mong về nơi yên vui phúc nhàn.
64.Thánh Giuse đón nhận mầu nhiệm--Minh An, http://danvienphuocly.com/
(Mt 1,16.18-21.24)
Kitô giáo thường hay nói đến các mầu nhiệm như: Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể, mầu nhiệm Đức Trinh Nữ sinh con mà vẫn đồng trinh... Mầu nhiệm là điều gì đó cao siêu, khó hiểu, là điều kín đáo chưa được nói cho biết, và nhiều khi nói ra thì ngay cả điều đó cũng vượt tầm hiểu biết của con người, khiến con người không thể nắm bắt được một cách rõ ràng và tường tận.
Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta mừng kính trọng thể thánh cả Giuse, người có tước hiệu “Đấng công chính”. Thánh Giuse đã trở nên công chính vì biết vâng phục ý Chúa và biết sống theo lời dạy của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Cho dù, những sự kiện xảy ra trong cuộc sống đầy oái ăm, bí nhiệm nhưng thánh Giuse vẫn vâng theo ý Chúa, để chương trình cứu độ của Ngài được thành tòan.
Thật vậy, bài Tin Mừng ngày mừng lễ thánh Giuse được trích từ Phúc âm thánh Matthêu (Mt 1,16.18-21.24), đã minh chứng cho chúng ta biết rõ về sự công chính của thánh Giuse trong việc vâng phục Thiên Chúa, qua mầu nhiệm mà ông rất khó hiểu, mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể đúng là vượt tầm hiểu biết của con người như thánh nhân, nhưng Giuse vẫn đáp tiếng xin vâng để đón nhận.
Đúng thế, điều khó hiểu trước tiên cho Giuse có lẽ là việc Maria mang thai. Maria được xem là „người vợ“ dịu hiền, đầy nhân đức thánh thiện như thế, nhưng tại sao lại mang thai khi mà Giuse “chưa ăn ở” với cô? Suy đi, nghĩ lại và có khi cảm thấy đớn đau trong lòng, nhưng vẫn chưa có lời đáp cho thỏa đáng…nên Giuse quyết tâm “bỏ của chạy lấy người” một cách kín đáo, âm thầm để không bị ảnh hưởng đến đời sống của cả hai người. Đó có thể là suy tính mang yếu tố rất con người nơi thánh Giuse: “…ông Giuse chồng bà Maria là người công chính và ông không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thực ra, một số nhà chú giải không cho rằng, Giuse “bỏ của chạy lấy người”, nhưng ông thấy mầu nhiệm quá cao siêu nên không dám đón nhận, không dám cạnh tranh với Thiên Chúa của ông.
Băn khoăn, lo lắng… là dấu chỉ của một con người đầy bất an. Giuse không an lòng lắm với “mầu nhiệm” cực kỳ khó hiểu này! Nhưng Giuse là người công chính, không muốn tố giác sự việc này, nên đành âm thầm “đào tẩu”. Có lẽ trong trái tim của Giuse lúc này đã trào tràn tình yêu vô hạn, nhưng cũng chứa chan mùi vị đắng cay, khổ đau. Ông yêu thương Maria mà không cần đến luật pháp can dự; nếu ông tố giác Maria về tội “ngoại tình” thì luật pháp sẽ xử cô cho đến chết (bị ném đá cho đến chết). Đúng là chỉ có tình yêu mới can dự vào ý muốn của Giuse, ông thà chịu đựng trong âm thầm hơn là nhìn thấy cảnh tượng người vợ của mình bị ném đá cho đến chết. Ông đã đưa ra quyết định “đào tẩu” khỏi Maria một cách rất kín đáo, để cô được an toàn.
Thánh ý của Thiên Chúa thật nhiệm mầu, khi đã làm cho Đức Maria thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, thì cũng phải làm cho Giuse khai thông về mầu nhiệm khó hiểu này nữa. Người đã hiểu thấu tâm trạng “khó xử” của Giuse và đã khai lòng mở trí qua giấc mộng cho ông, để ông tạm hiểu và chấp nhận “mầu nhiệm khó hiểu” đó: “Này Giuse, con cháu Đavit, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà đang cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21).
Khi Giuse đã được “khai thông bế tắc” mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng của vợ mình, ông đã đón nhận với tâm tình tôn kính, vâng phục Thiên Chúa: „Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy” (Mt 1,24a). Như thế, nhờ sự vâng phục, Giuse đã cho nhân loại thấy được giá trị Thiên Chúa “cứu” qua con người nhỏ bé Giêsu mà chính ông là người hướng dẫn, nuôi nấng và bảo vệ trong gia đình Nazareth.
Quả thật, vâng phục là thái độ mau mắn đáp lời của Thiên Chúa. Giuse đã vâng phục Thiên Chúa, nên ý định của Thiên Chúa được thành toàn và Giuse đã đóng góp phần mình rất lớn vào chương trình cứu độ này. Nếu chúng ta gọi Đức Maria với tước hiệu “Mẹ Đấng cứu chuộc”, chúng ta cũng có thể gọi thánh Giuse là “cha nuôi của Đấng cứu chuộc” thì chẳng có gì là sai trái cả. Ngài đáng được đón nhận tước hiệu như thế, vì ngài cũng đã tham gia vào sứ vụ cứu chuộc của Con Thiên Chúa.
Vâng phục một cách đơn sơ và mau mắn là thái độ của Giuse, để mầu nhiệm Nhập Thể được thành toàn. Nếu hôm nay, Chúa nói với chúng ta những sứ điệp Người mong muốn qua giấc mộng, qua bao con đường khác, rất riêng tư, mà chỉ mình ta cảm nhận được… nếu chúng ta cũng mau mắn đáp tiếng “xin vâng” như Giuse, chắc chắn chúng ta cũng sẽ đóng góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc cứu độ của Thiên Chúa đối với thế giới này.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng cõi lòng, để chúng con đón nhận mầu nhiệm Chúa Nhập Thể mỗi ngày qua Bí Tích Thánh Thể như chính thánh Giuse xưa đã đáp tiếng “xin vâng” để đón nhận Thiên Chúa nhập thể vào thế giới. Amen.
- Chi tiết
- Viết bởi Ga 8, 1-11
- Lượt xem: 0
Ta không kết tội. Hãy đi, đừng phạm tội nữa.
Thứ Hai tuần 5 mùa Chay.
"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".
Lời Chúa: Ga 8, 1-11
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất.
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất.
Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó.
Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đừng phạm tội nữa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ.
Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình
thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù,
bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Ðền Thờ Giêrusalem,
Ðức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông.
Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa.
Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình.
Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có
để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.
“Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này.
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.
Ðức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê,
và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình.
Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất.
Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào
hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột.
Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.
“Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi.”
Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất.
Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng,
bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình.
Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình.
Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình.
Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội.
Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước.
Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ.
Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo.
Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.
Ðấng duy nhất có thể ném đá lại nói:
“Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi,
từ nay đừng phạm tội nữa.”
Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu,
nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.
Ðức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người,
Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã,
nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt
còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa sự sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sự chết rình rập tiêu diệt con người. Con người tự nộp mình vào chỗ chết khi phạm tội. Con người tiêu diệt lẫn nhau bằng những âm mưu hiểm độc gian dối. Nếu không có Chúa ta không có hi vọng được cứu sống.
Chúa cứu sống bà Su-za-na bằng cuộc phân xử công minh. Phơi bầy sự thật. Vạch trần gian dối. Người công chính được minh oan. Kẻ gian ác bị trừng phạt. Chúa đảo ngược thế cờ. Không để cho sự dữ hoành hành. Không để cho kẻ ác thống trị. Người lành được bình an. Thế giới được hạnh phúc. Công minh tuyệt đối. Đó là Cựu ước. Nhưng đến thời Tân ước có những bước tiến mới hơn công minh.
Chúa cứu người phụ nữ ngoại tình bằng một cuộc phân xử khác. Công minh và nhân hậu.
Công minh khi Chúa hỏi những người tố cáo: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Thực vậy nếu phải ném đá có lẽ phải ném chính bản thân. Vì trước mặt Chúa nào có ai vô tội? Đã không kết án mình đâu còn dám kết án người khác.
Nhân hậu khi Chúa nói với người phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!”. Và lòng nhân hậu lên đến tuyệt đỉnh khi Chúa nói: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Không kết án. Không giết chết. Nhưng còn hơn thế nữa, mở cho ta con đường sự sống. Không đóng đinh con người vào quá khứ. Nhưng mở cho con người một tương lai. Không nghi ngờ con người yếu đuối. Nhưng tin tưởng thiện chí và khả năng đổi mới.
Không chỉ cứu mạng sống thân xác chóng qua. Nhưng cứu sự sống của linh hồn bất tử. Không chỉ cứu một người phụ nữ. Nhưng cứu tất cả mọi người. Những người có mặt hôm ấy khi về nhà phải duyệt xét lương tâm. Biết mình có tội. Biết sám hối. Mọi người sẽ được sự sống.
Quả thực Chúa là vị thẩm phán công minh và nhân hậu. Xử án không phải để kết án nhưng để tha thứ. Không phải để giết chết nhưng để cứu sống. Vì Chúa là Thiên Chúa sự sống.
Suy Niệm 3: Khả năng chinh phục
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Đức cha Bossuet là một văn hào và một nhà hùng biện Pháp đã tuyên bố: “Ai muốn tranh luận giáo lý, hãy đến với tôi, tôi sẽ làm cho họ thua lý”. Còn Đức cha Salêsiô thì lại chinh phục những người lạc giáo bằng cách đón tiếp, lắng nghe, tìm hiểu và giải quyết những thắc mắc của họ.
Khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cho thấy Ngài có khả năng chinh phục lạ thường. Không ai có uy quyền như Ngài để làm những việc kỳ diệu, để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến; những lời Ngài nói có sức hấp dẫn đến độ dân chúng nghe Ngài đã nhận xét: “Không ai ăn nói được như Ngài”. Tuy nhiên, quyền năng chinh phục của Ngài không hủy diệt sự tự do của con người. Trước thái độ không tin và bắt bẻ của người Biệt phái, Ngài đã dùng ngôn ngữ của con người để mặc khải sự thật cao cả của Thiên Chúa, sự thật có sức cứu rỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta xét lại thái độ sống đức tin của chúng ta: biết bao lần Chúa Giêsu đã thực hiện những dấu lạ trong đời sống cá nhân chúng ta cũng như trong sinh hoạt cộng đoàn để nhắc nhở chúng ta rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, là Ánh Sáng, là Chân lý, nhưng chúng ta đã nhìn nhận ánh sáng và chân lý Ngài đem đến với tất cả chân thành và khiêm tốn chưa? Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã viết:
“Đối với người kitô hữu tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương. Chúa không phải là Đấng bắt con kính mến, nhưng đúng hơn Ngài là Đấng con phải để cho Ngài yêu thương. Nhân loại cảm thấy mình làm được mọi sự, nhưng không biết tại sao mình sống, mình đi về đâu, tương lại thế nào. Nhân loại đang trải qua cơn khủng hoảng hy vọng, nhưng có thể chính cá nhân chúng ta cũng đang gặp cơn khủng hoảng đó, vì chúng ta không có đức tin trọn vẹn, không chấp nhận sự thật mà Chúa mạc khải… Ta là Ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống. Đó là bí quyết của niềm hy vọng”.
Xin Chúa gia tăng đức tin và hướng dẫn chúng ta theo ánh sáng chân lý để cuộc đời chúng ta trổ sinh hoa trái làm vinh danh Chúa và phục vụ anh em.
Suy Niệm 4: Tôi không kết án chị.
Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ để chị ta đứng giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”. (Ga. 8, 2-5)
Nếu chúng ta còn hồ nghi lòng thương xót của Thiên Chúa, thì hãy Suy Niệm cảnh chưa từng nghe về người phụ nữ ngoại tình này trong Tin mừng thánh Gio-an để trừ khử mọi nỗi lo sợ của chúng ta.
Một phiên tòa tiểu hình diễn tả năm màn, đối kháng giữa lòng bao dung đại lượng của Đức Giêsu và sự bỉ ổi hẹp hòi của loài người.
Cảnh một: Màn tố cáo – Một phụ nữ bị chộp quả tang phạm tội ngoại tình bị điệu đến trước mặt Đức Kitô, giữa chốn công cộng. “Thưa Ngài Giêsu, Ngài nghĩ sao? Cần phải làm gì đối với trọng tội này? Theo luật Mô-sê tất nhiên phải ném đá. Còn Ngài thì sao …”.
Cảnh hai: Màn cúi xuống đất – Đức Kitô, Vị quan tòa lặng thinh, thong thả vẽ những hình nguệch ngoạc nực cười, không nói một tiếng.
Cảnh ba: Những kẻ tố cáo bắt đầu khó chịu, bực bội, đứng trước vị ngôn sứ im lìm nặng nề – Đức Kitô đã biết rõ mục đích của họ đã sốt sắng nại đến việc giữ luật Mô-sê để thúc giục Người mắc vào cạm bẫy này: Nếu Người chống lại luật ném đá, họ tố cáo Người phá luật Mô-sê. Nếu Người ra lệnh ném đá, Người mất hết danh tiếng tốt lành và nhân từ thương xót. Đức Kitô ngước mắt nhìn hạng người mưu mô đáng ghét đó luôn luôn bới lông tìm vết bắt bẻ Người. Người nhìn họ với lòng thương hại, nhưng bình tĩnh trả lời họ: “Ai trong các ông không có tội, hãy ném đá chị này trước”.
Cảnh bốn: Màn bối rối và kinh ngạc, bất lực trả lời trước lời đề nghị của vị quan tòa đang xét xử các ông - Các ông rất lúng túng, từng người bỏ đi, bắt đầu từ người già nhất, chứng tỏ họ quá khôn, lo tự vệ mình trước hay đúng hơn có thể họ lại bị kết án đồng phạm với chị.
Cảnh năm: Đức Giêsu còn lại một mình, thanh thản, trong sáng, trước người nữ bị hạ nhục, mắng nhiếc, bôi nhọ trước công chúng.
Không một lời than trách, không một cử chỉ khinh chê, không một vẻ làm cao hay thương hại. Nhã nhặn, lịch lãm biết bao, Giêsu ơi! Đối nghịch lại với lối cư xử của chúng ta quen làm đến tàn nhẫn, chôn vùi lương tâm mình để buộc người khác phải xưng thú những sai lỗi nhỏ mọn đến từng chi tiết.
Còn Đức Giêsu, Người chỉ tuyên bố một câu ngắn gọn: “Không ai kết án chị ư? Tôi cũng thế, Tôi không kết án chị”. Đó là câu đầy tình thương yêu.
G.M
Suy Niệm 5: Tôi không kết án chị
(Ngọc Biển SSP)
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay diễn ra trong khung cảnh Lễ Lều. Khi nói đến Lễ Lều, là nhắc lại cho dân về hành trình trong Samạc suốt bốn mươi năm trường. Đây cũng gọi là lễ tạ ơn sau mùa gặt. Lễ này được dành cho mọi người không phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị trong xã hội. Vì thế, không ai bị loại trừ, cho nên người ta gọi lễ này là lễ của Vui Mừng.
Vì là lễ hội vui mừng nhất của người Dothái, nên người ta hứng khởi và vui tươi khi về dự lễ. Vì vậy, nó cũng cuốn hút lượng người có lẽ là đông nhất trong các dịp lễ của năm. Đây cũng là cơ hội để họ hẹn hò, tâm sự, chia sẻ...
Nhân có hội này, các Kinh Sư và Pharisêu cố tìm ra cho được một lời tố cáo Đức Giêsu nhằm hạ uy tín của Ngài, bởi vì đây là dịp đông người, hơn nữa, nếu thắng thế, họ có đủ lý do thuận tiện để giết Ngài.
Và cơ hội ngàn năm một thủa đã đến khi họ bắt được quả tang một người phụ nữ đang ngoại tình, và họ dẫn nàng đến với Đức Giêsu.
Họ dẫn đến để xin Ngài xét xử. Họ nói: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môisê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?".
Tuy nhiên, vì biết rõ lòng họ độc, nên Đức Giêsu phản ứng bằng việc bình tĩnh lấy tay viết trên đất! Hành động này của Đức Giêsu khiến cho họ sinh thêm bực bội và nóng lòng sốt ruột.
Họ sốt ruột là vì cái bẫy đã giăng, chỉ chờ Đức Giêsu mắc phải là ra tay đối với Ngài! Thật thế, nếu Đức Giêsu tuyên bố tha thì Ngài rơi vào bẫy chống luật Môsê, còn nếu tuyên án tử cho chị phụ nữ thì sẽ bị mất uy tín và đi ngược lại đường lối của Thiên Chúa cũng như những lời rao giảng của Ngài.
Sự thinh lặng và viết trên đất là cách thế Đức Giêsu thức tỉnh lương tâm những người Pharisêu khi chuyển phiên tòa dành cho chị phụ nữ, rồi đến Đức Giêsu, giờ đây sang phiên tòa lương tâm của chính họ khi nói: "Ai trong các ông không có tội, hãy ném đá chị này trước". Bị bại lộ ý đồ và xấu hổ vì thấy mình tội lỗi, nên họ đã dần dần bỏ đi.
Cuối cùng, Đức Giêsu lên tiếng với chị phụ nữ: "Không ai lên án chị sao?"; “tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!".
Ngày nay cũng không thiếu gì những con người có lòng bỉ ổi, hẹp hòi, tàn nhẫn, nên đã đẩy anh chị em mình vào chỗ chết như vậy.
Điều đau buồn hơn cả là nhiều khi lại nhân danh Thiên Chúa để hạ uy tín anh chị em mình. Không phải vì tình yêu, cũng chẳng phải lòng tốt, càng không phải vì sự công chính hay phẫn nộ tội lỗi, mà là do ghen tỵ mà tìm dịp thuận tiện để gài bẫy và đẩy đưa anh chị em chúng ta đến chỗ chết. Những người này thuộc hạng: “Miệng tụng lời nam mô nhưng bụng chứa đầy bồ dao găm”.
Lạy Chúa Giêsu, cách hành xử của Chúa thật tuyệt vời, đáng làm cho chúng con suy nghĩ về những cung cách mà chúng con đã gây ra cho anh chị em chúng con. Xin Chúa tha thứ và ban cho chúng con biết can đảm thay đổi nếp sống không tốt để đáng được Chúa ban ơn cứu độ. Amen.
Suy Niệm 6: Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nếu ta sám hối
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Trước mặt Thiên Chúa, mọi người chúng ta đều là tội nhân. Nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả, nếu chúng ta thật lòng thống hối ăn năn.
Cầu nguyện: Đứng trước người đàn bà ngoại tình và đối diện với chính Chúa, người ta đã rút lui, từ người nhiều tuổi nhất. Lạy Chúa, tuổi đời càng nhiều, tội lỗi con càng chồng chất. Nhưng tội lỗi càng nhiều, con càng được Chúa thương hơn. Lòng nhân hậu Chúa luôn mở rộng đón nhận con trở về. Chúa sẽ nhận tất cả con người con, kể cả tội lỗi, để từ đó, Chúa sẽ thánh hóa, dẫn con đi vào con đường thánh thiện.
Nguyện xin Chúa giúp con sáng suốt nhận ra tấm lòng bao dung quảng đại của Chúa. Chúa yêu thương tất cả mọi nguời, đặc biệt các tội nhân. Hơn ai hết, người đàn bà ngoại tình hiểu được sức mạnh giải phóng của lời tha thứ. Chắc chắn chị trở về và nỗ lực sống tốt đẹp hơn, vì Chúa đã khích lệ chị: “Ta không kết án con. Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Lạy Chúa, lời tha thứ của Chúa luôn kèm theo một đòi hỏi: đừng phạm tội nữa. Vâng, con hiểu điều đó. Lời mời gọi hoán cải vẫn còn vang dội vào tai con mỗi ngày, bởi vì việc hoán cải không bao giờ có kết thúc, và đối với Chúa, thái độ hoán cải không bao giờ là muộn màng. Xin Chúa giúp con biết cương quyết từ bỏ tật xấu và thực hiện việc lành. Đặc biệt trong thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, xin Chúa giúp con chân thành duyệt xét lại cuộc đời và canh tân đời sống. Xin Chúa giúp con chỗi dậy, thật lòng sám hối đổi đời và trung thành với điều dốc quyết. Amen.
Ghi nhớ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”.
Suy Niệm 7: Tình thương tha thứ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt tám ngày sống ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xẩy ra câu chuyện trong bài Tin Mừng.
Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.
Tình cờ người ta đem đến cùng Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Những người luật sĩ và biệt phái lợi dụng cơ hội này để thử thách Đức Giêsu.
2. Hôm nay, các luật sĩ và biệt phái sử dụng “nguyên lý triệt tam” để tung ra một đòn quyết định, đặt Đức Giêsu và một tình thế tiến thoái lưỡng nan, mà nếu Ngài ngả theo phía nào thì họ cũng có cái cớ để tố cáo Ngài.
Họ đưa đến trước mặt Đức Giêsu một người phụ nữ phạm tội ngoại tình, rồi hỏi Ngài sẽ xử lý thế nào khi luật Maisen dạy phải ném đá chết. Cái bẫy của họ gài vào là nếu Đức Giêsu nói không thì họ kết án Chúa lỗi luật Maisen, còn nếu Ngài nói có thì họ sẽ có cớ phản bác trái với luật yêu thương mà Ngài giảng dạy.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp với họ, nhưng với một lời nói của Ngài đã đặt các luật sĩ và biệt phái vào một sự chất vấn của lương tâm và phơi bầy lòng dạ khi đối diện với Đấng thấu suốt mọi sự: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy lấy đá mà ném trước đi”. Cuối cùng họ lặng lẽ rút êm, bắt đầu từ người lớn tuổi nhất.
3. Rõ ràng có một sự khác biệt rất lớn giữa cách hành xử của những người luật sĩ, biệt phái với Đức Giêsu. Nhóm biệt phái thì muốn kết tội, còn Đức Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy, nhóm biệt phái chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ còn cảm thấy rất thích thú khi được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi quyền lực được sử dụng để kết án. Còn Đức Giêsu, thì Ngài không muốn làm như vậy. Ngài không cảm thấy vui khi quyền lực được dùng để kết tội. Ngài muốn dùng quyền hành để tha thứ.
4. Qua sự kiện này, chúng ta thấy có một nghịch lý đáng buồn và cũng đáng trách: một đàng Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng lại đầy lòng thương xót và khoan dung đối với người tội lỗi... Còn con người thì ai cũng mắc tội không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ lại hay xét đoán, phê bình chỉ trích và lên án người khác nhất là những kẻ tội lỗi. Do đó, nhiều khi đã vô tình xô đẩy thêm kẻ có tội vào vũng lầy không lối thoát.
5. Qua câu trả lời của Đức Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người phụ nữ này đi”, chúng ta tìm ra được nguyên tắc của Đức Giêsu là chỉ người vô tội mới được đoán xét những lỗi lầm của người khác.
Hôm nay, Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án, còn chúng ta là những người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân.
Còn về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hòa với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.
6. Truyện: Cần lòng thương xót.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ:
- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời:
- Nhưng hắn ta không đáng được xót thương.
Bà mẹ nói:
- Tâu bệ hạ, nếu nó xứng đáng thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp:
- Thôi được. Ta rủ lòng thương xót nó.
Suy Niệm 8: Ta không kết tội, và từ nay đừng phạm tội
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (hạt giống...)
1. Bài đọc 1: thuật lại chuyện bà Susanna bị hai kỳ lão vu khống là phạm tội ngoại tình nên kết án xử tử. May có cậu bé Đaniel khôn ngoan cứu thoát bà.
2. Bài Phúc Âm: cũng tường thuật chuyện một phụ nữ sắp bị kết án tử. So sánh hai chuyện ta thấy được vài điểm đáng chú ý sau:
- Bà Susanna vô tội, còn người phụ nữ này phạm tội bị bắt quả tang.
- Đaniel cứu người vô tội, còn Chúa Giêsu cứu người có tội.
- Những người muốn xử tử hai người này đều là những bậc “đạo đức” mẫu mực.
- Câu chuyện trong bài Phúc Âm này kết thúc bằng câu nói rất hiền từ của Chúa Giêsu “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
B- Suy gẫm (..nẩy mầm)
1. Những bậc “đạo đức” trong hai câu chuyện trên đều muốn giết người. Những người trong bài đọc Cựu Ước muốn giết người vì lòng họ gian ác rõ ràng: chính họ là kẻ có tội nhưng họ lên án kẻ khác để che dấu tội lỗi của mình. Còn những người trong bài trích Phúc Âm này muốn giết người để tỏ ra mình nghiêm chỉnh tuân thủ lề luật. Những người này còn lợi dụng mạng sống của nạn nhân để gài bẫy Chúa Giêsu. Thì ra, người ta có thể tô vẽ bộ mặt đạo đức của mình bằng chính những mưu toan tội lỗi.
2. Chúa Giêsu buồn vì những người đạo đức giả dối đó. Ngài nhắc họ “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Tôi có đang hay sắp ném đá ai không ? Hãy trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu.
3. “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa không kết án ta, ta hãy cảm mến lòng khoan dung của Ngài. Nhưng không nên lơi dụng lòng khoan dung ấy “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Cảm mến tình Chúa thì đừng làm Chúa buồn nữa.
4. Chú giải đoạn trích Phúc Âm này, một nhà nghiên cứu Thánh Kinh viết: “Luôn có rủi ro khi ta tha thứ”, nghĩa là nhiều khi người được tha lại đi phạm tội nữa. Chính vì muốn bảo đảm, tránh rủi ro đó mà nhiều người không tha thứ. Nhưng Chúa Giêsu dám chấp nhận rủi ro. Phần tôi thì sao ?
5. Đọc chuyện này dưới góc cạnh tâm lý, ta còn thấy thêm rằng xét đoán người khác là một cám dỗ thường xuyên và kết án người khác nhiều khi cũng là một thứ khoái lạc. Bởi đó nhiều người rất thích xét đoán và kết án.
6. Thánh vịnh 32 có thể giúp chúng ta hiểu được tâm trạng của người phụ nữ ngoại tình, và của chính chúng ta: “Phúc cho ai có tội mà được tha, có lỗi lầm mà được khỏa lấp” (Tv 32,1).
7. Một Mục Sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông rất cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.
- Sao, con mơ thấy gì ?
- Con mơ thấy một chiếc thang lên tới tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn, và mỗi người phải lấy phấn viết hết tất cả các tội của mình ở trên đó thì mới lên được.
- Hay thật! Rồi con thấy gì nữa ?
- Con thấy con leo lên, nhưng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.
- Ai vậy ?
- Ba chứ ai!
- Ba ? Thế ba leo xuống để làm gì ?
- Ba lấy thêm phấn! (Winnder, London)
Suy Niệm 9: Thiên Chúa yêu thương và tha thứ
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Rõ ràng là có một sự khác biệt rất lớn giữa cách hành xử của những người Pharisêu và của Chúa Giêsu. Nhóm Pharisêu thì muốn kết tội, còn Chúa Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy, nhóm Pharisêu chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ còn cảm thấy rất thích thú khi được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi quyền lực được sử dụng để kết án. Còn Chúa Giêsu, thì Ngài không muốn làm như vậy. Ngài không cảm thấy vui khi quyền hành được dùng để kết tội. Ngài muốn quyền hành là để tha thứ.
Khi Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: “Hãy đi, đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11) thì ít nhất Chúa đã muốn cho mọi người thấy: Chúa tin vào con người. Phương pháp của Chúa không phải là vạch trần những điều xấu xa và làm cho người có tội phải cúi sát đầu của mình xuống đất, chấp nhận mình là tội nhân khốn nạn, nhưng là ban cho tội nhân một cơ hội để họ tự khám phá ra một điều mà trước đó họ chưa hề nghĩ tới, đó là họ có một khả năng tiềm ẩn có thể giúp họ làm lại cuộc đời và trở thành những thánh nhân. Chúng ta còn nhớ thật rõ câu chuyện của Lêvi-Matthêô, của Maria Mađalena, của Augustinô v.v.
Victor Grignard vì được bố mẹ nuông chiều, không thích học, chỉ biết ham chơi. Lớn lên, Grignard trở thành một anh chàng tuấn tú, cuộc sống xa hoa, đi khắp nơi tán tỉnh các cô gái, trở thành kẻ chơi bời trác táng ai ai cũng biết.
Trong một buổi dạ hội, Grignard nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, đoan trang. Anh hí hửng đi tới trước mặt cô gái và mời cô khiêu vũ. Thật không ngờ, cô gái ấy lại trách mắng anh: “Tôi không bao giờ khiêu vũ với những kẻ chơi bời trác táng, vô công rồi nghề, hãy tránh xa tôi ra”. Câu nói ấy chẳng khác nào gáo nước lạnh dội vào đầu. Anh cảm thấy vô cùng xấu hổ. Một người bạn thân đã bước lại, nói với Grignard: “Cô gái này chính là nữ bá tước đến từ Paris”. Grignard xin lỗi nữ bá tước.
Thế là Grignard quyết định bỏ nhà ra đi, thay đổi môi trường sống.
Grignard đến Lyon, dùng thời gian hai năm để học lại những bài học mà mình bỏ lỡ, sau đó theo học trường đại học Lyon. Dưới sự dẫn dắt của giáo sư, Grignard bắt đầu học tập và nghiên cứu.
Năm 1901, Grignard phát hiện thuốc thử Grignard. Năm 1912, ông được trao giải Nobel Hóa học. Về sau Grignard nhận được một bức thư. Bức thư chỉ có một câu: “Tôi mãi mãi yêu kính ngài”. Người viết bức thư ấy chính là nữ bá tước năm xưa.
2. Rồi nếu đọc chuyện trên dưới góc cạnh tâm lý, chúng ta còn thấy thêm rằng, xét đoán người khác là một cám dỗ thường xuyên và kết án người khác nhiều khi cũng là một thứ khoái lạc. Bởi đó, có rất nhiều người thích xét đoán và kết án người khác.
Chúa Giêsu thì không như thế. Có lần Chúa đã dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán lại như vậy” (Mt 7,1-2). Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37).
Chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa nói với người đàn bà có tội “Tôi không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Vào thời Vua Henry VII của Anh, ở Luân Đôn nạn trộm cắp thật nhiều. Quan Chưởng ấn Thomas More nhận thấy vị thẩm phán già hay khiển trách những người đến khiếu nại vì bị móc túi ngoài đường, ông quan tòa già quả quyết rằng nếu mấy nạn nhân đó cẩn thận giữ túi tiền của mình thì làm sao mà mất được.
Nhân một cuộc họp các thẩm phán, Thomas More bí mật cho gọi một tên móc túi chuyên nghiệp đang ở tù và dặn rằng:
- Ta sẽ thưởng cho nhà ngươi, nếu ngươi móc được túi tiền của ông quan tòa già kia.
Tên móc túi xin phép được tới nói chuyện với vị quan tòa già và đưa tay khéo léo móc được túi tiền của ông ta rồi hiên ngang về chỗ ngồi .
Thomas More bấy giờ mới lên tiếng xin các vị thẩm phán làm phúc bố thí cho một người nghèo ở đó. Vị nào cũng rờ túi tiền của mình. Vị quan tòa già kia giật mình vì không thấy túi tiền mình đâu nên la lớn:
- Bớ ăn cắp! Có tên nào ăn cắp túi tiền của tôi rồi!
Thomas nói:
- Sao ? Ông nói chúng tôi ở đây đã ăn cắp túi tiền của ông sao ?
Ông quan tòa mặt đỏ bừng vì giận. Bấy giờ Thomas More mới gọi tên lưu manh kia và bảo trả lại túi tiền cho đương sự. Thomas nói với vị thẩm phán già:
- Tôi khuyên ông hãy bớt nghiêm khắc với những người đã bị móc túi ngoài đường phố, vì chính ông cũng đã để cho người ta cuỗm mất túi tiền ngay giữa đại hội như thế!
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa có quyền xét đoán; xin Chúa hãy đoán xét con đời này, để tha xét đoán con trong ngày công phán. Amen.
Suy Niệm 10: Ai cũng là tội nhân
(Lm Micae Võ Thành Nhân)
Sáng sớm, Chúa vào đền thờ, là vì: “Hừng đông chưa xuất hiện, con đã kêu xin, con hằng cậy trông ở lời Chúa. Canh khuya chưa tàn, này mắt con đã mở, để suy niệm lời hứa của Ngài” (Tv 118, 147 – 148). Lúc này, dân chúng đến với Chúa thật đông và Chúa đã thương dạy dỗ họ. Trong khi dạy dỗ, các biệt phái, luật sỹ dẫn đến cho Chúa một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, một tội quá nặng nề mà theo luật bây giờ là phải chết (Ga 8, 4). Phải chết (Ném đá)không những vì luật pháp qui định mà còn bị người khác thấy hết con người lõa lồ nữa, cho nên quá xấu hố, không còn mặt mũi nào để mà sống trần trần gian này với mọi người (Ga 8, 5).
Buổi sáng sớm của ngày hôm nay, không gian vũ trụ quanh đây đã tĩnh mịch, không một chút tạp âm, nhưng đây là trong đền thờ của Chúa, là nơi thờ phượng Chúa, cho nên không gian lại càng tĩnh mịch hơn. Lúc này chỉ có tiếng rì rào của gió len mình qua những ngọn cỏ xanh, cùng với âm thanh trong trẻo vút cao của những lời Chúa rao giảng Tin Mừng, lòng người thì qua một đêm ngủ an lành, tâm trạng thỏa mái của khởi đầu ngày mới cho nên chắc chắn lời Chúa giảng sẽ rất dịu êm đi vào tâm hồn của họ rất hiệu quả.
Khi Chúa giảng dạy như thế, luồng mạch giáo huấn của Chúa đang tuôn chảy đến với lòng người cách suông sẻ thì bỗng dưng Chúa phải ngưng lại. Những người biệt phái, luật sỹ hỏi Chúa: “Còn Thầy, Thầy dạy sao? Họ nói thế có ý gài bẫy Chúa để có thể tố cáo Chúa” (Ga 8, 6). Thật quá thâm độc, mưu mô, xảo quyệt của họ. Nếu Chúa nói là ném đá cho chị chết đi thì những lời rao giảng về lòng nhân từ, sự tha thứ, tình thương nhau của Chúa với con người chúng ta sẽ ra vô hiệu, Chúa mất uy tín, người đời sẽ không còn nghe theo Chúa nữa. Còn nếu Chúa nói tha cho chị, thì Chúa sẽ bị ném đá chết giống như chị vì Chúa vi phạm lề luật. Đàng nào Chúa cũng rơi vào cạm bẫy họ bày ra. Nhưng mà sau đó, họ bắt đầu rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi hơn, vì họ thấy Chúa không trực tiếp trả lời câu hỏi của họ mà Chúa cúi xuống đất, viết trên đất về lòng nhân từ, về sự tha thứ của Chúa và tội lỗi của chúng ta (Ga 8, 8). Họ nhìn thấy như thế, họ xấu hổ về tội lỗi của họ trước lòng nhân từ quá lớn của Chúa mà Chúa bỏ qua cho mà bây giờ họ chẳng biết ơn Chúa sống cho tốt mà lại đi kết án tử cho anh chị em của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7).
Sau khi mọi người đã rút lui, chỉ còn mình Chúa và chị nữ ngoại tình, Chúa nói: “Hỡi thiếu phụ, những người tố cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết tội ư? Chị đáp: Thưa Thầy, không có ai. Chúa bảo chị: Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 10 – 11). Qua đó chúng ta thấy, chị không còn cơ hội để sống trên trần gian sau khi phạm tội, chị mất hết hy vọng và phó mặc cho dòng đời, nhưng Chúa đã tha thứ và cứu sống chị. Chị biết ơn Chúa vô cùng và chắc chắn chị sẽ làm theo lời Chúa dạy,
Lạy Chúa, đối với Chúa, không ai trong chúng con là phải chết, phải hư mất vĩnh viễn không thể cứu chữa được (Chỉ trừ tội xúc phạm Chúa Thánh Thần). Chúa thương chúng con, Chúa tha thứ khi chúng con ăn năn sám hối và Chúa ban cho chúng con được sống với Chúa. Xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con, đừng quên chúng con trong chương trình cứu độ thế giới chúng con sống đây. Amen.
- Chi tiết
- Viết bởi Ga 12, 20-33
- Lượt xem: 1
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY năm B.
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Lời Chúa: Ga 12, 20-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh.
Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.
Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha".
Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
MỤC LỤC
1. Hạt lúa trơ trọi--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
2. Giờ được tôn vinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
3. Hạt lúa mục nát--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Hạt lúa mì rơi xuống đất mà thối đi --TGM Giuse Nguyễn Năng
5. “Huyền nhiệm sự sống”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Xin tôn vinh danh Cha--GM. Phêrô Kiều Công Tùng
7. Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
8. Vinh quang nơi Thập Giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
9. Cố gắng thi hành tình yêu Đức Kitô--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
10. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
11. Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
12. Đã đến giờ Con Người được tôn vinh--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNI--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
13. Từ bỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
14. Vượt qua sự chết để vào cõi sống--Lm. Đan Vinh
15. Giao Ước Mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
16. Bài học vâng phục--Anmai, CSsR
17. Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
18. Hạt lúa mì mục nát--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
19. Quy luật sự sống--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
20. Trao ban là nhận lãnh--Lm. Ignatiô Trần Ngà
21. Hạt lúa gieo vào lòng đất--‘Cùng Đọc Tin Mừng”--Lm. Ignatiô Trần Ngà
22. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
23. Chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu--Lm. Quốc Toản, CRM
24. Hành trình tự hủy--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
25. Sống đẹp giữa đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
26. Hạt lúa chết đi--AM Trần Bình An
27. Hạt giống vô sinh hay hữu sinh?--AM Trần Bình An
28. Hạt lúa mì gieo vào lòng đất--Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
29. Giờ đã điểm--Lm. Vũ Đình Tường
30. Con người--Lm. Vũ Đình Tường
31. Nếu hạt giống chết đi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
32. Mùa gặt tươi tốt--Lm. Hồng Phúc
33. Giao Ước và những ràng buộc--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
34. Hạt lúa mì mục nát, trổ sinh hoa trái--Lm. Trần Bình Trọng
35. Hạt lúa mì mục nát đi, mới trổ sinh bông trái--Lm. Trần Bình Trọng
36. Thuốc bất tử--Lm. Trịnh Ngọc Danh
37. Hạt lúa mì--Lm. Phạm Quốc Hưng
38. Theo Chúa trở nên hạt lúa--MINH HỌA LỜI CHÚA--HN sưu tầm--thanhlinh.net
39. Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt--Lm. Vũ Thái Hoà
40. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
41. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
42. Dẫu là Con Thiên Chúa--Lm. Xuân Hy Vọng
43. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
44. Chết để sống--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
45. Giao Ước vĩnh cửu được ký kết trong thập giá Đức Kitô--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
46. Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu--Lm. Lâm Thái Sơn
47. Hạt lúa mì gieo xuống đất--Lm Nguyễn Minh Hùng
48. Sự sống--Lm. Thu Băng
49. Giá trị của đau khổ--Lm. Minh Vận
50. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
51. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Hữu An
52. Khát khao gặp Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
53. Con đường hạt lúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
54. Chính khi hiến thân là khi nhận lãnh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
55. Giao ước tình thương--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
56. Chết là khởi đầu đời sống mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
57. Mục nát đi để trổ sinh dồi dào bông hạt--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
58. Xin tôn vinh Danh Cha--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
59. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
60. Học Yêu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
61. Chuyện tình có hậu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
62. Bước đường theo Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
63. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”--Gs. Phạm Văn Lưỡng
64. Lẽ sống chết--Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
65. Nếu hạt lúa chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác--Lm. Trầm Phúc
66. Thề hứa--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
67. Chuyện sống – chết--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
68. Hạt lúa chết đi--Lm Mark Link, SJ
69. Suy niệm của JKN
70. Để được ơn nghĩa Chúa, cần chết đi con người tội lỗi--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
71. Ánh sáng của Thập Giá--Lm. FX. Vũ Phan Long
72. Giờ của Chúa Giêsu (12,20-36)--Alain Marchabour
73. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Noel Quesson
74. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Fiches Dominicales
75. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
76. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--William Barclay
77. Sự yếu đuối của con người--Flor Mc Carthy
78. Tôi sẽ lôi kéo mọi người--Yvon Daigneaut
79. Chúng ta đang sống ở giờ nào?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
80. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu--Noel Quesson
81. Phục vụ tha nhân, như Chúa Giêsu phục vụ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
82. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
83. Yêu thương là cho đi
84. Giờ của Chúa
85. Giờ Chúa đến
86. Chúa Nhật 5 Mùa Chay
87. Chúa Nhật 5 Mùa Chay
88. Hạt giống nảy mầm
89. Hạt giống sinh hoa kết quả
90. Hạt lúa
91. Chết đi
92. Chết để sống
93. Ta là sự sống lại và là sự sống
94. Hy sinh
95. Từ bỏ
96. Tổn thương
97. Con đường Thập Giá mà Chúa Giêsu đã đi qua
98. Mất và được
99. Mất và được
100. Nghịch lý mất được
101. Giờ phút cao quí
102. Chúa Nhật 5 Mùa Chay
103. Hạt giống vâng phục--Huệ Minh
104. Mầu nhiệm tự hủy--Lm. Micae Võ Thành Nhân
1.Hạt lúa trơ trọi--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi
thì nó vẫn trơ trọi một mình.
Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ,
nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống?
Chết để sinh nhiều bông hạt ư?
Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ?
Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.
Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn.
Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau,
nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả,
vì mất ý nghĩa của cuộc sống.
Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng:
chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến.
Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ
ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ,
tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt
khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình,
ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình,
để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi:
"Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ,
đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu,
những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng?
Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. “(c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại,
đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi.
Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện,
tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát.
Sau nhiều lần dám liều mất tất cả
để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều,
tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt
như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài,
kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
2.Giờ được tôn vinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
Trong Tin Mừng Gioan, khi cuộc Khổ nạn gần kề,
Đức Giêsu nói về bình an như quà tặng cho các môn đệ.
“Thầy để lại bình an cho các con,
Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27; 16,33).
Khi phục sinh và hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa,
Chúa Giêsu cũng ba lần chúc họ bình an (Ga 20,19.21.26).
Bình an thì ngược với xao xuyến,
nên Đức Giêsu cũng hay dặn các môn đệ:
“Lòng anh em đừng xao xuyến hay sợ hãi!” (Ga 14,1.27).
Những lời trấn an trên đây của Đức Giêsu
dễ khiến ta tưởng Ngài suốt đời chẳng một lần xao xuyến.
Thật ra, Tin Mừng Gioan kể Đức Giêsu xao xuyến ba lần.
Ngài xao xuyến trước cái chết của Ladarô (Ga,11,33).
Ngài xao xuyến khi nói về sự phản bội của Giuđa (Ga 13,21).
Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng xao xuyến
trước cái chết sắp đến của chính mình (Ga 12,27).
Ngài biết Giờ của Ngài đã đến (Ga 12,23).
Giờ Ngài được Cha tôn vinh
cũng là giờ Ngài được giương cao trên thập giá.
Đức Giêsu linh cảm về cái chết sắp đến của mình (Ga 12,33).
Điều đó khiến Ngài xao xuyến, đến nỗi không biết phải nói gì.
Nhưng Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan có sự khác biệt.
Ngài không xin Cha cất chén đắng để tránh cho mình cái chết.
Ngài tự đặt câu hỏi và tự trả lời:
“Con mà xin Cha cứu con khỏi Giờ này ư? Không đâu!
Bởi lẽ vì mục đích này mà Con đến với Giờ này” (Ga 12,27).
Đức Giêsu đã nhiều lần nói Giờ chưa đến (Ga 2,4; 7,30; 8,20).
Ngài mong Giờ ấy đến, và nay Giờ đã đến.
Xao xuyến và sợ hãi không làm Ngài thoái lui,
vì Ngài biết Cha là chủ của Giờ này.
Không để cái chết làm mình suy sụp, không để xao xuyến lấn át,
Đức Giêsu nhìn cuộc Khổ Nạn với cái nhìn lạc quan hy vọng.
Ngài ví mình như hạt lúa, rơi vào trong đất.
Cái chết của một hạt lúa là điều kiện để tạo ra muôn hạt khác.
Ngài chấp nhận cái chết và từ khước giữ sự toàn vẹn cho mình.
Hạt lúa giống sẽ biến đi để nhiều hạt khác xuất hiện.
Thật ra, cái chết không làm Ngài bị biến đi hay mất đi.
Trái lại, đó là cách Ngài giữ được mạng sống (Ga 12,24-25).
Ai coi thường mạng sống ở đời này, sẽ giữ được nó cho đời sau.
Đức Giêsu không coi cái chết là dấu chấm hết hay chấm than.
Ngài coi đó là cửa mở vào sự sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu biết mình là Ánh sáng đến trong thế gian.
Khi Giờ đến, có lúc Ánh sáng ấy như mất đi (Ga 12,35-36; 9,4-5).
Satan thủ lãnh thế gian và bóng tối có vẻ thắng thế,
kỳ thực nó “không làm gì được Thầy” (Ga 14,30).
Hơn nữa, đã đến lúc nó “sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12,31).
Cái chết nhục nhã trên thập giá là sự giương cao lên khỏi đất.
Cái chết này có sức hút mãnh liệt vì là cái chết của Ngôi Lời.
Cái chết của Con Một Thiên Chúa có sức nâng kỳ diệu,
kéo mọi người lên với Ngài chẳng trừ ai (Ga 12,32),
vì Ngài muốn những ai theo Ngài được ở bên Ngài mãi mãi.
“Thầy ở đâu, họ cũng ở đó” (Ga 12,26).
Cái chết của Đức Giêsu cho ta được ở bên Ngài trong nhà Cha.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi những cái chết,
chết mỗi ngày như hạt lúa mục nát, nằm sâu trong đất.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi bị xao xuyến,
khi đứng trước thế lực của bóng tối, của bạo quyền.
Nhưng Đức Giêsu cho chúng ta sự kiên định, bất khuất,
để luôn hy vọng và không bao giờ bỏ cuộc vì sợ hãi.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê su,
Trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã yêu mến con.
Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa,
Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa,
Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi Chúa đòi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
chỉ vì hạnh phúc vĩnh cửu của con thôi.
Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
3.Hạt lúa mục nát--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
4.Hạt lúa mì rơi xuống đất mà thối đi --TGM Giuse Nguyễn Năng
Suy niệm: Ðức Giêsu dù biết chắc sứ mệnh Thiên Chúa Cha muốn Ngài thực hiện là đi con đường Thập Giá, con đường đau khổ. Nhưng vì sống kiếp con người mỏng dòn, bản tính yếu đuối. Ðức Giêsu vẫn cảm thấy xao xuyến, bối rối khi chén đắng gần kề. Trong những giây phút đó, Ðức Giêsu đã không ngừng hướng nhìn lên Cha, cầu khẩn, phó thác mọi sự trong tay Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, phải chăng cuộc đời chỉ có ý nghĩa, chỉ có giá trị khi con người biết sống quên mình, biết nghĩ đến tha nhân?
Vâng, nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không thối đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nó thối đi, sẽ sinh nhiều bông hoa. Ước gì cuộc đời chúng con là hạt lúa được chôn vùi - chôn vùi chính mình, để nẩy sinh nhiều bông hạt yêu thương cho Chúa, cho tha nhân. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”.
5.“Huyền nhiệm sự sống”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Sự sống quanh ta thật huyền nhiệm. Từ con người đến muôn vật cỏ cây, mỗi loài mỗi kiểu, hết thảy đều mang trong mình sự sống. Nhờ sự sống mà muôn loài tăng trưởng và hoạt động. Tuy vậy, một điều xem ra là nghịch lý, đó là sự sống không dừng lại khi ta chết, nhưng lúc chết đi lại là lúc khởi đầu sự sống mới. Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.
Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là thời điểm giúp chúng ta suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu. Chúng ta tôn vinh thập giá là phương tiện qua đó Đức Giêsu giới thiệu tình thương yêu vô bờ bến của Chúa Cha. Đức Giêsu đã hiến chính bản thân mình làm của lễ dâng lên Đức Chúa Cha, xin ơn tha tội cho loài người. Sự sống và hạnh phúc của con người được phát sinh và tuôn chảy từ cây thập giá, tức là từ sự chết của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ dồi dào như mạch suối trào tuôn từ chính vết thương ở cạnh sườn của Người. Chính từ vết thương này phát sinh Giáo Hội và các Bí tích. Hai ngàn năm nay, Đấng chịu khổ hình trên thập giá đã lôi kéo biết bao người ra khỏi tối tăm để đến với ánh sáng, ra khỏi tội lỗi để đạt tới sự thánh thiện, ra khỏi hận thù để thực thi đức yêu thương.
Khi nói về hạt lúa mục nát, Chúa Giêsu muốn nói về cái chết của chính mình. Người không bị tiêu diệt do sự chết. Trái lại, như hạt lúa chấp nhận mục nát rồi nảy mầm kết trái, Người cũng sẽ trỗi dạy từ nấm mồ để ban sự sống cho con người. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: sự chết của Chúa Giêsu mang ơn cứu độ cho loài người. Người đã chết để chúng ta được sống. Người đã trở nên nô lệ để chúng ta được tự do. Người đã dùng cây thập giá để cứu độ trần gian, xóa bỏ bản án nguyên tội. Thập giá vừa nói với ta về tình yêu Thiên Chúa, vừa dạy ta biết sống vì người khác để đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Như thế, triết lý “hạt lúa mục nát” được đề nghị cho tất cả những ai muốn cất bước theo Đức Giêsu. Sự hy sinh này, nhìn theo lăng kính trần gian, lại là những nghịch lý:
– Sẵn sàng hy sinh mạng sống thì sẽ giữ được nó mãi mãi
– Khư khư giữ lấy nó, sẽ bị mất muôn đời.
– Vào giờ phút Chúa chịu khổ nạn và chết trên thập giá, cũng là lúc Người được tôn vinh.
– Khi thủ lãnh thế gian tưởng chừng như chiến thắng, chính là lúc nó bị đánh bại.
– Con Người bị treo trên thập giá, cô đơn đau khổ, lại có thể quy tụ muôn dân.
Nếu hạt lúa vẫn nằm yên bất động sau khi được gieo xuống thì niềm trông đợi của bác nông phu sẽ trở nên vô vọng. Nếu thân xác Đức Giêsu vẫn cứ tồn tại trong nấm mồ, thì nhân vật Giêsu sẽ chẳng còn gì để nói với chúng ta. Chính từ hạt lúa mục nát mà ta thấy sự sống mới; chính nhờ ngôi mộ trống mà chúng ta thấy niềm hy vọng.
Hạt-Lúa-Giêsu đã mục nát để phục sinh và đâm bông kết trái. Hạt lúa ấy đã trở nên bánh ăn để nuôi dưỡng chúng ta.
Hình ảnh hạt lúa mì cũng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về định mệnh con người. Thiên Chúa dựng nên con người để cho họ được sống và được hạnh phúc, chứ không phải để chấm dứt với nấm mộ cô đơn lạnh lẽo nơi đồng hoang. Dưới nhãn quan của người Kitô hữu, sự chết là một cửa ngõ để họ bước vào đời sau. Đó là lý do tại sao người Kitô hữu đặt cây thập giá trên mỗi nấm mồ của người thân. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ dành cho người công chính, tức là những ai mến Chúa yêu người.
Không phải đợi đến khi chết mới được hưởng hạnh phúc Chúa ban. Lời Chúa hôm nay như một lời hứa phục hồi ngay ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại. Ý tưởng này được diễn tả trong bài đọc trích sách ngôn sứ Giêrêmia: “Mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”. Đây là những lời an ủi của Chúa đối với dân Do Thái trong bối cảnh gian nan và tuyệt vọng. Chúa hứa với họ sẽ giúp họ hồi sinh. Mặc dù trong bối cảnh tăm tối, Chúa sẽ ban cho họ một tương lai sán lạn huy hoàng.
Thời đại huy hoàng mà Chúa đã hứa qua lời ngôn sứ Giêrêmia đã được thực hiện khi Chúa giải phóng dân Người khỏi cảnh lưu đày. Nhưng đặc biệt hơn nữa, thời đại huy hoàng ấy, Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, qua cái chết và sự phục sinh của Người. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người” (Bài đọc II).
Huyền nhiệm sự sống mời gọi chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Huyền nhiệm ấy cũng nhắc nhớ chúng ta, hãy biến đổi mỗi ngày trong hành trình phụng sự Chúa, để sự sống siêu nhiên lớn dần trong cuộc đời trần gian. Để được như thế, con người cũ phải chấp nhận chết đi. Đó chính là thông điệp của giáo huấn qua hình ảnh hạt lúa mì.
6.Xin tôn vinh danh Cha--GM. Phêrô Kiều Công Tùng
Trước khi bước vào Tuần Thánh, Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay Giáo Hội lập lại nguyện ước của những người Hy Lạp ngày xưa: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” để nhắc nhở chúng ta đâu là đích đến của chặng đường Mùa Chay mà chúng ta đang trải qua.
Những người Hy Lạp tìm gặp Đức Giêsu chắc không phải chỉ để chiêm ngưỡng Người mà thôi, vì như thế họ đâu cần đến Philípphê làm người môi giới. Rõ ràng là họ còn muốn đi xa hơn việc nhìn ngắm, họ muốn được gặp gỡ và trò chuyện với Chúa. Có thể nói, họ đang ở trên một hành trình Đức Tin. Diễn từ của Đức Giêsu ngay sau đó về “cái mất” và “cái được” như muốn dẫn họ đi xa hơn trong cuộc hành trình: “Hạt lúa gieo vào lòng đất... nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25). Chân lý xem ra nghịch lý ấy đã được minh chứng bằng chính cuộc đời Đức Giêsu, Hạt Giống đem lại Mùa Cứu Độ.
Trong những câu kế tiếp, thánh Gioan như muốn đặt các yếu tố của cả hai sự kiện Chúa hấp hối và Chúa Hiển Dung của Phúc Âm Nhất Lãm trong cùng một trình thuật. Những lời của Chúa Giêsu “Bây giờ, linh hồn Thầy xao xuyến... Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12, 27) như đang làm vang lên những lời Người nói với môn đệ và cầu xin cùng Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu. Tiếng vọng từ trời “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa” (Ga 12, 28) không còn là lời giới thiệu của Chúa Cha trên đỉnh Ta-bo mà đã trở thành lời chuẩn nhận cho sự dâng hiến tuyệt vời của Người Con, lời tôn vinh “Hạt Lúa” đã chấp nhận chết đi. Ở giữa những yếu tố đó, Thánh Gioan còn khéo léo xen vào một lời nguyện với tâm tình phó thác: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
Tác giả A. Marchadour nhận xét: những lời ấy vang lên như “một bản tóm lược Kinh Lạy Cha” vậy. Lời kinh được dâng lên với một thái độ vâng phục hoàn toàn, thái độ đã làm nên ý nghĩa cho cái chết của Đức Giêsu, như lời thư gửi tín hữu Do Thái: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 8–9).
Rõ ràng tiến trình từ khi “hạt giống” được gieo xuống cho đến khi đem lại mùa màng, hay từ khi là “hạt bụi” cho đến lúc trở thành “cát bụi tuyệt vời” phải trải qua rất nhiều hy sinh, từ bỏ và cả chết đi nữa. Chính Đức Giêsu khi ở trong hoàn cảnh ấy đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy xao xuyến!” Và Người cũng chỉ cho chúng ta rằng tỉnh thức và kiên trì cầu nguyện lúc này thật cần thiết. Việc kết hợp cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện sẽ đem lại cho người ta một sức mạnh phi thường lướt thắng những nỗi sợ bị thua thiệt mất mát. Kinh Lạy Cha mà Đức Giêsu dạy chính là bảo bối cho người Kitô hữu, là nhịp cầu giữa “mất” và “được”, giữa “xao xuyến” và “tôn vinh”.
Qua bài diễn từ, Chúa Giêsu như muốn nói với những người Hy Lạp và với cả chúng ta hôm nay rằng muốn gặp Người, ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng được tôn vinh khi đã chấp nhận chết đi. Điều này có nghĩa là mọi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ra với Lời Chúa và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng vị kỷ muốn giữ lại tất cả cho bản thân, mà người ta mới có thể tiến đến gần Thiên Chúa, sau khi đã nỗ lực để Danh Cha được tôn vinh bằng một cuộc sống hoàn toàn vâng phục theo Thánh Ý Cha.
Dù muốn hay không thì cuộc sống một đời người luôn gặp những điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh. Có người đã nhìn khá bi quan về cuộc sống ấy như là “chốn bể dâu” hay “nơi khổ ải”. Còn Thánh Phaolô lại tuyên bố: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6, 2). Phải chăng ông đã học được cái nhìn lạc quan từ lời kinh của Đức Giêsu: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Chớ gì mỗi Kitô hữu chúng ta, những môn đệ đang lần bước đi theo Thầy Giêsu trên hành trình Đức Tin cũng có những lời “Kinh Lạy Cha biến cách” cho riêng mình.
7.Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu là một người hoàn toàn như tất cả mọi người. Trong cuộc sống trần thế, Ngài cũng sợ hãi, bồi hồi xao xuyến, khóc lóc cầu xin Thiên Chúa giải phóng Ngài khỏi chết. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa; nơi Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
I. Tâm hồn Ta bồi hồi xao xuyến
Đức Giêsu biết những gì đang chờ đợi Ngài. Cái chết đang đến gần khi Ngài quyết định lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua. Là người Do Thái, theo luật phải lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua; nhưng nếu lên, chắc sẽ chết vì những người lãnh đạo tôn giáo đang ghét, nên sẽ giết Ngài. Đức Giêsu phải chọn lựa. Các tông đồ cũng ý thức điều này. Theo các ông thì không nên lên Yêrusalem dịp này: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (Ga. 11,8). Nhưng nếu Thầy quyết định đi, thì các tông đồ cư xử làm sao? Thomas khuyến khích các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga. 11,16). Có những người trong chúng ta có kinh nghiệm chọn lựa trong những tình huống tương tự, và đã chọn điều phải chọn cho dù nguy hiểm đến cả tính mạng.
Một vài người Hylạp gốc Do Thái về dự lễ muốn gặp Đức Giêsu. Họ cậy nhờ Philíp để được gặp Đức Giêsu. Philíp đã nói với Anrê; và cả hai đã đến nói với Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ cứ dẫn họ đến gặp Đức Giêsu, tuy nhiên trong hoàn cảnh này, hai môn đệ ý thức cần phải hỏi ý kiến Đức Giêsu, vì có thể có những hậu quả xấu không lường được. “Giờ đã đến”. Giờ mà làm Đức Giêsu lo sợ, bối rối xao xuyến. Đồng ý cho họ gặp, là dường như “chọn chấp nhận cái chết”. Có nên xuất hiện như Đấng người ta chờ đợi không? Có nên cho họ gặp không? Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga. 12, 24). Ngài chọn điều sinh lợi cho nhiều người, cho dù phải chết.
Ông già Aleazar không muốn giả bộ ăn thịt heo để khỏi chết, vì nếu sống mà làm gương xấu thì sống làm gì (2Mac. 6, 18-31)? Yoan Tẩy Giả phản đối Hêrôđê khi ông lấy vợ của anh; dĩ nhiên khi phản đối những người có quyền hành như vậy, ông biết điều gì có thể xảy tới cho mình; tuy vậy, ông đã phản đối Hêrôđê. Yoan Tẩy Giả đã chọn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Hôm nay Đức Giêsu cũng đã chọn lựa điều tương tự. Đứng trước chọn lựa này, Đức Giêsu bồi hồi xao xuyến như bao người khác.
II. Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
Đức Giêsu là người như mọi người. Ngài đã làm nghề để kiếm sống, nuôi mình và nuôi mẹ. Ngài cũng bị cái đói hành hạ như bất cứ ai bị đói (Mt. 21, 18). Ngài bị đói khủng khiếp đến độ muốn biến đá thành bánh. Chỉ khi bị đói cùng cực, người ta mới bị cám dỗ mơ tưởng như vậy. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ “nổi tiếng”, vì vậy cám dỗ nhẩy từ trên đỉnh đền thờ đã đến trong đầu Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ có quyền hành để bắt mọi sự phải theo ý mình. Chỉ satan mới có cách hành xử không tôn trọng tự do của con người; còn Thiên Chúa, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người, ngay cả khi con người dùng tự do để chống đối Ngài.
Đức Giêsu đã phải chọn lựa liên lỉ trong cuộc sống. Ngài đã chống lại cám dỗ, trong hoang địa (Mt. 4, 1-11) và trong cuộc sống thường ngày, cả qua những người theo Ngài (Mt.16, 22-23; Ga.11, 8). Ngài cũng sợ toát mồ hôi, và sợ đến độ toát mồ hôi máu: “Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc. 22,44). Thư gởi tín hữu Do Thái nói Đức Giêsu không chỉ sợ toát mồ hôi máu, mà còn khóc lóc rơi lệ cầu xin Thiên Chúa cứu Ngài khỏi chết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết” (Dt. 5,7).
Đức Giêsu thật sự là người như mỗi người chúng ta. Không có cám dỗ nào con người bị mà Ngài không bị. Không có ai bị cám dỗ mãnh liệt như Ngài. Ngài cũng học vâng phục, và chấp nhận vâng phục ngay cả phải chết. Ngài bị cám dỗ cả về đức tin: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc. 15,34). Khi bị cám dỗ về đức tin, Ngài đã phó thác cho Thiên Chúa tương lai và vận mạng của Ngài. Đức Giêsu gần và giống mỗi người hơn người ta tưởng.
III. Ta viết luật của Ta trong tim chúng
Thiên Chúa đã ký giao ước với con người, để bảo vệ con người. Qua dấu chỉ cầu vồng, Thiên Chúa giao ước với Noe và tất cả tạo vật, để không bao giờ dùng lụt hồng thủy tiêu diệt con người nữa; qua thập giới tại núi Sinai, Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, để làm dân Do Thái thành dân tư tế, thành dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa loan báo qua tiên tri Giêrêmia, Ngài sẽ ký kết với dân một giao ước mới, và Ngài sẽ khắc ghi luật Ngài trong tim con người, để không ai phải dạy ai về Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu chính là giao ước mới: “Rồi cùng một thể thức ấy, Ngài cầm lấy chén đầy rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: tất cả các con cầm lấy mà uống, này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giao ước ở với và yêu thương con người mãi mãi. Đức Giêsu vừa là dấu chỉ giao ước, vừa là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vừa là bảo đảm Thánh Thần hiện diện nơi con người. “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cor.3, 16)? Thánh Thần Tình Yêu đang ngự trong tâm hồn, trong tim mỗi người.
Nhờ Đức Giêsu và Thánh Thần, con người nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Con người được gọi để sống yêu thương. Chính khi yêu thương, con người trở nên giống Thiên Chúa, và được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, cho dù người đó ở bất cứ đâu. Chính khi yêu thương, con người gặp gỡ Thiên Chúa, và cảm nghiệm hạnh phúc. Đây là điều có vẻ mâu thuẫn, nhưng đó là sự thật, và được biểu lộ qua cái chết của các anh hùng tử đạo và cái chết của Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, Đức Giêsu giống bạn ở điểm nào, và khác bạn ở điểm nào?
2. Bạn có cảm nghiệm Thiên Chúa ở với bạn không? Nếu được xin chia sẻ.
8.Vinh quang nơi Thập Giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Con người có nhu cầu cần phải yêu và được yêu, chỉ trừ khi chết mới hết yêu. Sống mà được yêu thương là hạnh phúc. Con người mà được Thiên Chúa yêu thương thì còn hạnh phúc nào bằng. Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và loài người là một giao ước tình yêu, nhưng nhiều lần loài người đã phá vỡ giao ước ấy, nghĩa là chối bỏ, không chấp nhận tình yêu ấy nữa. Nhưng Thiên Chúa vẫn không nản lòng, Ngài đã nhờ các tiên tri loan báo cho loài người biết là Ngài sẽ ký kết một giao ước mới và vĩnh cửu. Và để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn giao ước được ký trong máu Con của Ngài đổ ra trên thập giá. Chính Đức Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của kẻ chết vì người mình yêu”. Ngài đã chết cho chúng ta. Giờ khổ nạn của Chúa là giờ của tình yêu mà Ngài đã loan báo trước, đồng thời cũng là giờ Ngài được tôn vinh.
Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta phải thi hành giao ước tình yêu mà Chúa đã ký kết với chúng ta trong máu Con của Ngài trên thập giá. Đáp lại tình yêu cao vời ấy, chúng ta hãy đón nhận “giờ” của Chúa là giờ của ta chúng ta, nghĩa là chúng ta sẵn sàng đón nhận những gian nan thử thách, thi hành thánh ý Chúa, chu toàn giữ lề luật Chúa như lời Chúa nói qua miệng tiên tri:”Ta sẽ đặt lề luật Ta trong lòng chúng, Ta sẽ ghi khắc luật đó vào trái tim chúng”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 31,31-34.
Khi dân Do thái thoát ách nô lệ của Ai cập, Thiên Chúa đã ký kết với dân một Giao ước ở chân núi Sinai, qua trung gian ông Maisen. Theo đó, Thiên Chúa sẽ là Chúa của họ và bảo vệ họ, còn họ là dân riêng của Ngài, họ phải trung thành phụng sự Ngài là Chúa tể duy nhất. Giao ước đó đã được khắc lên hai bia đá.
Nhưng qua thời gian, dân Chúa đã phản bội Ngài, phá bỏ Giao ước đã ký kết, và kết quả là họ bị quân địch đến tàn phá đất nước, dân chúng phải đi lưu đầy ở Babylon.
Tuy thế, Tiên tri Giêrêmia loan báo cho họ biết Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới với dân Ngài. Giao ước đó sẽ không còn ghi trên bia đá nữa, mà khắc ghi ngay trong lòng họ. Giao ước này là giao ước tình yêu. Để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn cho giao ước này được ký kết trong máu của Con Ngài đổ ra trên thập giá. Giao ước mới và vĩnh cửu này nói lên tình thương lớn lao và sự tha thứ không bờ bến của Ngài:”Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lầm lỗi của chúng nữa”(Gr 31,34).
+ Bài đọc 2: Dt 5,7-9.
Đức Giêsu Kitô với thân phận làm người đã hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha, Ngài đã sẵn lòng chịu đau khổ đến mức tận cùng để cứu chuộc loài người bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá. Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là “căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
+ Bài Tin mừng: Ga 12,20-33.
Nhân cơ hội có sự hiện diện của mấy người ngoại giáo gốc Hy lạp muốn gặp Đức Giêsu để tìm hiểu về Ngài, hoặc muốn trình bầy điều gì đó, nhân dịp này Ngài nói với họ về“Giờ của Ngài”. Giờ của Ngài tức là lúc Ngài bị treo trên thập giá, giờ mà Ngài được tôn vinh.
Nói theo ngôn ngữ người đời thì đó là một điều nghịch lý, nhưng với cái nhìn đức tin, thì đó lại là một niềm vinh dự vì qua cái nhục trong một thời gian vắn, một cái nhục vô lý, Đức Giêsu sẽ chiến thắng vẻ vang nhờ cuộc phục sinh của Ngài, cũng như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi mới sinh được nhiều hạt khác:”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,33).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Vinh quang trong khổ nhục
I. ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC TÔN VINH.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”(Ga 12,22). Ngài được tôn vinh như thế nào? Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng sự giầu sang, danh vọng, quyền thế, vinh quang thế gian, Ngài được tôn vinh chính lúc bị treo trên thập giá vì Ngài đã vâng theo thánh ý Cha Ngài, Ngài chiến thắng vẻ vang trong khổ nhục.
1. Giờ của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Cha:”Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến”. Giờ này là giờ nào? Phải chăng là lúc ký giao ước mới trong máu của Ngài đổ ra trên thập giá? Đúng như vậy!
Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại, ta thấy có nhiều giao ước đã được thay đổi: Từ giao ước Adong (St 3,15), với Noe (St 9,1-17), với Abraham (St 17,1-27) đến lời hứa giao ước mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia loan báo (Gr 31,31-34): tất cả những lời giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong GIỜ của Đức Giêsu. Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ (St 315) đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Những lần khác, Đức Giêsu nhắc đến “Giờ chưa đến”(Ga 2,4; 7,30; 8,20), nhưng ở đây Ngài lại nói đến “Giờ đã đến”. Vậy “Giờ” ở đây không phải là giờ vinh quang cho bằng là “Giờ hiến tế” đem lại vinh quang cho Ngài: Giờ vinh quang của Con Người là giờ tử nạn và phục sinh của Ngài.
2. Sự vâng phục của Đức Giêsu.
Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt cuộc sống của Ngài. Sự tự hủy này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của Đức Giêsu trước thánh ý của Chúa Cha. Tâm tình tuân phục đó của Đức Giêsu cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha”
Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngần ngại. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là “một điều điên rồ đối với dân ngoại, là cớ vấp phạm cho người Do thái”(1 Cr 1,23). Vì thế, khi biết rằng sắp đến “giờ” của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên:”Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Lắng nghe lời tâm sự tha thiết tự đáy lòng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng: sống vâng phục không phải là một điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giêsu một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố vui buồn Thiên Chúa gửi đến từng ngày trong cuộc sống; hay nói cách khác, Đức Giêsu cũng đã phải học để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do thái viết:”Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài (Đức Giêsu) đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu”. Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Đức Giêsu khi hoàn tất”Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
3. Đức Giêsu chấp nhận thập giá.
Với tư cách là con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng cảm thấy sợ hãi trước đau khổ. Trong vuờn Cây Dầu Ngài cũng đã xao xuyến (x. Mt 26,38) và phải kêu xin cùng Cha:”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”(Mt 26.39). Theo tính tự nhiên, Đức Giêsu muốn trốn tránh sự đau khổ, nhưng Ngài lại muốn tuân theo thánh ý Cha để cho Cha định liệu. Và ý của Chúa Cha là muốn cho Con Ngài chịu chết trên thập gia để cứu chuộc nhân loại.
Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy rõ quan niệm của Chúa đối với đau khổ, đối với mọi thánh giá trên đời.
Đức Giêsu dùng cây thánh giá như bậc thang tới vinh quang “Per Crucem ad lucem”. Quan niệm đó mới nhìn qua là một nghịch lý, song Ngài đã giải thích bằng một dụ ngôn vắn tắt và đầy ý nghĩa: dụ ngôn hạt giống:”Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất, mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất và ai ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,24).
Cây thánh giá còn là phương tiện chinh phục. Ngài cho biết, Ngài được giương lên cao thì cũng sẽ có nhiều người cùng được lên cao với Ngài:”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,32). Lịch sử đã chứng minh cho lời Chúa. Biết bao người đã tin theo Ngài vì cái chết đau thương đầy tình thương xót của Ngài. Biết bao người đã bỏ tất cả và cảm mến tấm lòng thương xót của Ngài. Thập giá Chúa đã in sâu vào trong lòng người ta.
Truyện: Ông đóng khố cởi trần.
Người ta kể rằng: Tin mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật bản từ hồi thế kỷ 16 do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ. Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật bản đã bị xoá sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa:”Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá”!
II. CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC TÔN VINH.
Những người theo Đức Kitô sẽ được tôn vinh, nhưng muốn được tôn vinh thì cũng phải có điều kiện, phải nói được như thánh Phaolô: vinh quang của ta là thánh giá Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được vinh quang trong sự tự hủy, trong việc cho đi và chấp nhận thánh giá trong đời.
1. Sống theo con đường tự hủy.
Thánh Phaolô đã vinh tụng Đức Giêsu trong bài thánh ca:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chất trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã tự chọn lấy cái chết để chiếm lấy sự sống. Mới nghe thì ai cũng cho là phi lý vì chết và sống trái ngược nhau, làm sao có thể dung hòa được, nhưng chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống có thể sống được là nhờ sự chết. Ta có thể đưa ra vài ví dụ:
- Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới trở thành chất bổ dưỡng cho cây.
- Nơi sinh vật: các thức ăn phải “tiêu” mới “hoá” thành lương thực.
- Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa mầu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
- Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
(Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 165)
Theo như Flor McCarthy thì “Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
- mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
- mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
- mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi.
- mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh.
Nói một cách cụ thể để áp dụng vào cuộc sống, chúng ta thử đưa ra vài trường hợp cho việc tự hủy, tức là bỏ ý riêng của mình đi để theo ý Chúa:
- Giả sử cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp ở bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy “bắt ý riêng chết đi” có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
- Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế “chết cho ý riêng”có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
- Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy. Thì “Chết cho ý riêng mình” có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cử xử với y. Không ai nói rằng: Chết cho ý riêng mình là điều dễ dàng.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 97
2. Sống là phải biết cho đi.
Với con đường tự hủy, Đức Giêsu đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý:”Cho là nhận” và “Chết là con đường đưa tới sự sống”. Thật vậy, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta không có thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn và cô đơn.
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hoá khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giầu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có là phải cho ra hay cho đi.
Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu, thánh Phanxicô Assisi, trong lời kinh Hoà bình, đã ca lên:”Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Truyện: Thánh Maximilien Kolbe.
Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dẫy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:
- Anh muốn gì?
- Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đo chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982.
3. Chấp nhận thánh giá trong đời.
Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau. Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Và Ngài cho biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh. Hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh:”Thầy bảo thật anh em, nếu hạt giống gieo xuống đất... “Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác:”Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của một cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có thể chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Do đó, chết là điều kiện tất yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Người ta nói không sai:
Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai bỗng đem phần chia cho.
(Ca dao)
Trong Kinh thánh có rất nhiều câu nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó có vài câu chúng ta thường nghe như:
“Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng,
Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6).
hoặc:
“Nếu ta cùng chết với Ngài, nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
Truyện: Thập giá chỉ đường.
Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.
Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉûnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tầu cập bến an toàn.
“Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng con khó hiểu, và đứng trước mầu nhiệm này, tình cảm chúng con hoảng sợ và khước từ. Xin Chúa ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con nghị lực chấp nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa, ngõ hầu Nước Cha trị đến trong chúng con và khắp trần gian đến muôn thuở muôn đời”. Amen.
9.Cố gắng thi hành tình yêu Đức Kitô--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Một đêm giông bão gió thổi mọi hướng, mưa rơi như thác đổ. Một người đàn ông đứng tuổi, cùng bà vợ ghé tới một bàn giấy một khách sạn nhỏ ở Philadephia. Như biện hộ cho mình, ông ta hỏi: “Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng? Mọi khách sạn lớn đều hết phòng rồi”.
- Thưa ông tất cả các phòng đã có người thuê. Người thư ký trả lời – Nhưng tôi không nỡ để ông bà đi mưa vào lúc một giờ sáng.
- Anh nói chi?
- Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi .
- Nhưng anh ngủ ở đâu? Ông khách hỏi.
- Ôi, tôi sẽ tìm được - Người thư ký trả lời, đứng lo lắng về tôi.
Sáng hôm sau khi ông khách trả tiền phòng, ông nói với người thanh niên đã dành phòng cho ông khách: “Anh là một người quản lý có khả năng làm chủ một khách sạn lớn nhất Hoa Kỳ. Có thể một ngày nào đó tôi sẽ xây một cái cho anh.
Hai năm sau, người thư ký trẻ nhận được một bức thư có kèm một vé khứ hồi đi Newyork và một danh thiếp của người khách trong đêm giông bão khi xưa, mời người thư ký đến gặp ông tại thành phố lớn Newyork. Người khách năm xưa dẫn người thư ký đến góc phố giữa đại lộ số 5 và đường phố số 34. Chỉ ngôi nhà lầu cao, mới, ông nói: “Đây là khách sạn tôi đã xây để anh quan lý”. Không nói nên lời, người thanh niên Gheorge C. Boldt, ấp úng câu cám ơn. Mạnh thường quân của anh là ông William Waldorf Astoria. Khách sạn này là khách sạn chu đáo nhất thời đó, mang tên Waldorf Astoria.
Đây là một bằng chứng cảm động về điều mà Đức Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “... Hạt giống chết đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái”. Gheorge Boldt chôn vùi tiện nghi, ấm cúng bằng cách nhường căn phòng của anh. Sự hy sinh đó đã nẩy mầm và đem lại phần thưởng. Gheorge Boldt được quản lý một khách sạn nổi tiếng nhất thế giới.
Một hạt giống phải chết trước khi có thể sinh hoa trái, điều đó cũng đúng trên bình diện thiêng liêng. Chúng ta, những người tin theo Chúa Giêsu biết rằng: mọi cố gắng hy sinh, thống hối, từ bỏ tiện nghi sẽ sinh hoa trái, nhất là khi những cố gắng ấy được thi hành vì tình yêu đức Kitô vì tình yêu bác ái đối với đồng loại như trường hợp trong câu chuyện hôm nay.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị những kẻ tin theo Ngài bằng lễ hy sinh tối cao. Người n để thân mình bị nát tan trong khổ nạn và chết trên thập giá, bị chôn vùi trong mồ. Để rồi đem lại vinh quang và hoa trái phục sinh. Sự chết, sự mai táng và sự phục sinh ấy chúng ta lập lại trên bàn thờ đây, trong giờ này.
Mùa chay còn lại hai tuần nữa, chưa quá muộn để chúng ta tự “chôn vùi” mình, từ bỏ vì đức Kitô và vì anh chị em trong đức Kitô.
Bạn hãy khám phá lời của đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay rõ ràng, xác thực cho bạn: “Hạt giống của sự hy sinh đem lại kết quả quí giá. Cùng với Chúa trong hy sinh của Người, bạn sẽ ỡ cùng với Người khi Người đemlại niềm vui và chiến thắng trong mùa Phục sinh.
Xin Chúa chúc lành bạn.
10.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Ý thức trước về ý nghĩa và giá trị của việc Đức Giêsu chịu nạn
I. Dẫn vào Thánh lễ
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay, tuần sau sẽ là Tuần Thánh. Để giúp chúng ta vào Tuần Thánh một cách sốt sắng, hôm nay Phụng vụ Lời Chúa giúp chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị việc chịu nạn sắp tới của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chính vì tội lỗi chúng ta mà Đức Giêsu đã phải chịu chết cách đau đớn và nhục nhã trên Thánh Giá.
Đức Giêsu đã lấy chính máu mình để thiết lập Giao ước mới giữa Thiên Chúa với loài người. Thế mà chúng ta thường xuyên vi phạm Giao ước ấy.
Đức Giêsu đã dùng Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thế mà chúng ta không yêu mến những thánh giá hằng ngày của chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Gr 31,31-34
Ngày xưa ở Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel, theo đó Ngài hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu quả là họ phải bị mất nước và bị lưu đày.
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới: Giao ước mới này không ghi trên đá mà ghi tận đáy lòng con người; tinh thần của Giao ước này là tình thương và tha thứ: "Mọi người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta" và "Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".
Đức Giêsu là Đấng thực hiện lời tiên báo đó.
2. Đáp ca: Tv 50
Trong tâm tình chân thành sám hối, tác giả Tv 50 nài xin Chúa một mặt tẩy sạch các tội lỗi của mình, và mặt khác tạo cho mình một quả tim mới.
Một quả tim mới để khắc ghi Giao ước mới. Đó cũng là tâm tình hợp với lời tiên báo của Giêrêmia.
3. Tin Mừng: Ga 12,20-33
Đức Giêsu đang nghĩ tới việc Ngài sẽ chịu nạn chịu chết để cứu độ loài người. Việc một số người Hy Lạp - tức là người ngoại - xin gặp Ngài khiến Ngài ý thức rằng giờ cứu độ ấy đã điểm. vì thế mặc dù tâm hồn Ngài xao xuyến nhưng Ngài cũng hân hoan tuyên bố "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Nghĩa là Đức Giêsu coi cái chết của Ngài là vinh quang cho Ngài và nguồn cứu độ cho mọi người.
4. Bài đọc II: Dt 5,7-9
Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là "căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài".
IV. Gợi ý giảng
* 1. Biện chứng giữa chết và sống
Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Vài thí dụ:
Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ dưỡng cho cây.
Nơi sinh vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.
Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa màu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói: hạt lúa có thối đi thì cây lúa mới nẩy mầm.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
* 2. "Đã đến Giờ Con Người được tôn vinh"
"Giờ" này không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ trong dòng thời gian, không đo bằng đồng hồ, không tính theo toán học gồm 60 phút, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng đánh dấu bắt đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Đó là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Chính vì thế, Đức Giêsu nói "Đã đến giờ con người được tôn vinh". "Con người" đây vừa là Đức Giêsu mà cũng vừa là loài người, vì mọi người đều là "con người". Chẳng những Đức Giêsu được tôn vinh mà mọi người cũng được tôn vinh nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
* 3. Các vai trong vỡ tuồng thập giá
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta thấy rõ những người có liên hệ trong cái chết của Đức Giêsu.
Hai vai chính là Chúa Cha và Đức Giêsu: Đức Giêsu thưa "Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha"; và tiếng từ trời vọng xuống "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Cuộc đối thoại bằng những lời lẽ cao siêu này vượt quá tầm hiểu biết của những người có mặt ở đấy hôm đó. Vì thế có người cho là tiếng sấm và có người cho là tiếng thiên thần. Cái chết của Đức Giêsu là kết quả của một sự đối thoại và thỏa thuận giữa Chúa Cha và Đức Giêsu để thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người.
Nhưng loài người cũng có liên quan: Đức Giêsu nói "Tiếng đó phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi" -- Cuộc đối thoại trên là một mặc khải cho loài người: Tuy họ không hiểu tại sao Đức Giêsu chết, cũng chẳng hiểu tại sao chết mà là tôn vinh, nhưng họ được nói cho biết cái chết ấy là vì họ và cho họ.
Do đó, đương nhiên mỗi người cũng có liên hệ: "Hãy theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó" à Thập giá là con đường dẫn đến tôn vinh. Mỗi người chúng ta có đi theo Đức Giêsu trên con đường thập giá thì mới đến được chỗ Đức Giêsu ở và mới được tôn vinh như Ngài.
* 4. Hạt lúa mì mục nát.
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
*
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
*
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Chết đang khi sống
Nhiều người coi sống và chết là hai sự việc nối tiếp nhau: khi không còn sống nữa thì chết. Nghĩ như thế là vì người ta chỉ biết có mỗi một sự sống, là sự sống của thể xác, và cũng chỉ biết có mỗi một sự chết, cũng là sự chết của thể xác.
Thực ra, sống và chết là hai việc đi song song với nhau trong cùng một đời người. Bởi vì có tới hai sự sống và hai sự chết: sự sống chết của con người thể xác và sự sống chết của con người đích thực. Câu nói của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này hàm chứa hai sự sống chết đó: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời". Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: ai cố bám víu vào sự sống của con người thể xác thì sẽ đánh mất sự sống của con người đích thực; còn ai dám để cho sự sống của con người thể xác chết đi thì đồng thời bồi dưỡng cho sự sống của con người đích thực.
Bởi đó, có người dám nói: "Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn". Thực vậy,
mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung bạo chết đi.
mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh. (Viết theo Flor McCarthy)
* 6. Tâm sự của Đức Giêsu
Tôi cảm động vì lời Đức Giêsu thổ lộ tâm sự: "Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến".
Đức Giêsu đã tâm sự rất thật thà. Ngài nói thật với các môn đệ rằng Ngài xao xuyến trước cái chết sắp tới. Không phải vì Ngài đã từng khuyến khích họ mạnh dạn hy sinh mà nay Ngài phải che dấu cảm xúc xao xuyến của mình. Ngài cũng không muốn làm bộ anh hùng bất khuất. Cảm thấy thế nào, Ngài nói thế đó.
Tôi cũng muốn tìm hiểu xem vì sao mà Ngài xao xuyến.
Chắc hẳn Ngài xao xuyến vì không cam tâm chịu chết. Một con người mới 30 tuổi đang tràn đầy sức sống mà phải chết ư?
Ngài còn xao xuyến hơn vì phải chết cách đau đớn. Chết đóng đinh trên thập giá là khổ hình tàn bạo nhất trong các hình thức xử tử.
Nhưng Ngài xao xuyến sâu xa hơn nữa là vì sự nhục nhã khi phải chịu xử tử như thế. Gần giống như một võ sĩ vô địch mà phải nhận chỉ thị phải thua một võ sĩ hạng thấp hơn mình, không chỉ phải thua bằng tính điểm mà còn phải thua bằng "knock out" nhục nhã. Ngài chết như thế thì những kẻ thù ghét Ngài sẽ hả hê như thế nào? Và những môn đệ thân yêu của Ngài sẽ hoang mang như thế nào?
Bởi vậy, Đức Giêsu đã thốt lên lời van xin: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này". Tuy thế, Ngài mau mắn thưa tiếp: "Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha".
Đức Giêsu thật tội nghiệp! mà cũng rất đáng phục!
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trước ngưỡng cửa cuộc tử nạn và tôn vinh của Đức Giêsu, Hội thánh muốn giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã trở nên như hạt lúa mì bị chết đi để sinh nhiều hạt khác. Chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu sau đây:
1. Đức Giêsu đã dạy: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình / Chúng ta cầu xin Chúa cho Hội thánh trong lòng thế giới / không khép kín để tự vệ / nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người.
2. Đức Giêsu đã dạy: "Khi Tôi được treo lên, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi". Chúng ta cầu xin Chúa cho các thủ lãnh trên thế giới đừng ai từ chối hoặc chống lại công trình cứu độ do tình thương của Chúa.
3. Đức Giêsu đã dạy: "Hạt lúa có chết đi, thì mới sinh được nhiều hạt khác" / Chúng ta cầu xin Chúa cho những người tàn tật ốm đau, già yếu, bị tù đày / biết dùng đau khổ mình đang chịu để sinh ích lợi cho nhiều người khác.
4. Đức Giêsu đã dạy: "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ được ở đó" / Chúng ta cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta biết noi gương phục vụ của Chúa / để luôn quan tâm chu toàn mọi trách nhiệm của mình trong gia đình, trong họ đạo và trong xã hội.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống để chúng con được sống thật. Xin Chúa đánh tan thói ích kỷ, sợ khó, và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con, để chúng con trở thành môn đệ thực sự của Chúa, biết sẵn sàng hy sinh phục vụ mọi người chung quanh chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh Lạy Cha, chúng ta sắp cầu xin cho "Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện". Nước Thiên Chúa đến nhờ thập giá Đức Giêsu; Ý Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn nhất nơi Đức Giêsu và khi Ngài chịu chết trên thập giá. Chúng ta hãy hợp một lòng một ý với Đức Giêsu trên Thập giá để dâng lên Chúa Cha những lời cầu xin trên.
Chúc bình an: Đức Giêsu đã chịu chết để hòa giải con người với nhau. Vậy lẽ nào chúng ta vẫn giữ mãi hận thù? Qua việc chúc bình an, anh chị em hãy thực lòng làm hòa với nhau.
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay Đức Giêsu đã dạy "Ai phụng sự Ta hãy theo Ta, và Ta ở đâu kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó". Tuần này, anh chị em hãy phụng sự Chúa, hãy đi theo Chúa, để có thể ở nơi Chúa ở.
11.Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Lời Chúa chúng ta vừa nghe mở ra cho chúng ta những viễn tượng hết sức mới mẻ về ý nghĩa và giá trị có liên quan đến việc chịu nạn chịu chết của Chúa Giêsu sắp tới và về những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.
1. Có thể nói khi Chúa bộc lộ những lời rất chân thành còn được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang hướng về cái chết sắp tới mà Ngài phải chịu.
Ngài sẽ phải chết nhưng cái chết của Ngài sẽ đem lại cái gì cho nhân loại?
Thông thường chúng ta thấy chết là chấm hết mọi sự.
Còn đối với Chúa cái chết không những không chấm dứt mà còn đưa cuộc đời của Ngài lên một tầm cao mới. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12,23).
“Giờ” ở đây không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ ràng trong dòng thời gian, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng. Nó đánh dấu sự khởi đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Giờ ở đây chính là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa sẽ được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa sẽ được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Như vậy chết đối với Chúa chính là lúc được tôn vinh và Chúa còn cho cả con người được tôn vinh với Chúa “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12,32).
Chúng ta tìm được bài học nào ở đây?
Tôi tưởng bài học quí giá nhất mà chúng ta học được từ Chúa ở trong hoàn cảnh này là biết nhìn ra những giá trị nơi những cái mà người đời cho là tầm thường. Khi đối diện với cây Thập Giá, người đời cho đó là một hình phạt đáng nguyền rủa nhưng Chúa Giêsu đã nhìn nó như một phương tiện mang lại ơn cứu rỗi.
Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ Judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học judo với một võ sư Nhật. Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyện mà thầy chỉ dạy cho mình mỗi một thế võ duy nhất.
Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:
- Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học được các thế võ khác sao?
Ông trả lời:
- Đây là thế võ duy nhất thầy dạy con, và đây cũng chính là thế võ duy nhất mà con cần phải học.
Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.
Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đến tham dự một cuộc thi Judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thể võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.
Lần này đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hoàn toàn bị đối phương áp đảo. Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:
- Cứ để cậu bé tiếp tục. - Võ sư yêu cầu.
Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thể võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đoạt chức vô địch.
Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra điều ám ảnh trong đầu mình bấy lâu nay:
- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thế võ như thế?
- Con chiến thắng vì hai lý do. - Người thầy trả lời - Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con phá được thể võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại - mà con lại không có tay trái.
Trong cuộc sống đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Chúa Giêsu đã biết biến thất bại của cây Thập Giá thành chiến thắng vinh quang. Ngài đã nhìn thấy ở nơi cây Thập Giá ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha và Ngài đã đón nhận cây Thập Giá với tất cả tấm lòng của người con thảo để từ đó Ngài mở ra cho Thiên Chúa Cha một dân tộc mới, dân tộc được cứu rỗi.
2. Những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.
Đây là Lời của Chúa: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25-26).
Người ta kể lại rằng Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến...Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn. Làm sao mình có thể cho búp non xoè lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ... Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Vâng có được sự sống đời đời những người môn đệ của Chúa cũng phải bước vào một quá trình thay hình đổi dạng để có thể trở nên giống Chúa Giêsu.
Như hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt thì những ai muốn được ở một nơi với Chúa cũng phải làm như thế.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen “ (Manna 85).
12.Đã đến giờ Con Người được tôn vinh--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNI--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Đức Giêsu được tôn vinh như thế nào?
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).
Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh vọng, quyền thế vinh quang trần gian.
Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”. Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân ái cao cả đó thôi.
Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến”. Giờ này là gì? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).
Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong gấp rút dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến” như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).
Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy, thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26 tháng 02 năm 1991).
Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.
Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.
Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống? Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm lề luật Ngài.
Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch, đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái tôn vinh danh Cha.
13.Từ bỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần Thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: "Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời". Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì "là Chúa" và "của Chúa" để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: "Bụt nhà không thiêng".
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu", thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Ki-tô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Ki-tô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác... khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là "sống". Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác...
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Ki-tô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.
14.Vượt qua sự chết để vào cõi sống--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giêsu được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là vào trong vinh quang qua khổ nạn thap giá, giống như hạt lúa phải chết đi thì mới phát sinh ra nhiều hạt khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ phá hủy bức tường ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại để ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, và đến ngày tận thế thủ lãnh sự tối tăm là Xa-tan sẽ bị ném vào hỏa ngục đời đời.
CHÚ THÍCH:
- C 20-22: + Mấy Người Hy lạp:Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Ho lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giêsu, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giêsu: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giêsu điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
- C 23-25: + Đã đến Giờ:Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giêsu bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giêsu phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giêsu cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này...: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35; Mt 16,25; Lc 9,24).
- C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giêsu cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ nay, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giêsu cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giêsu thực hiện. Từ đây, Thien Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giêsu khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy tại Giê-ru-sa-lem.
- C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”... “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giêsu mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gi? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giêsu. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập.
- C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất:Đức Giêsu sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giêsu sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải bỏ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng như Người đã uống (x. Mt 20,23).
CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và mot số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giêsu được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giêsu nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giêsu xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giêsu đã cầu xin với Chúa Cha thế nào để nêu gương vâng phục ý Cha cho chúng ta? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa Giêsu cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sẵn sàng chịu chết để bạn tù được sống
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh muc đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.
2) Giá đắt phải trả cho thái độ vô cảm:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu têncầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đậptàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại,nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gan đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình...Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!".Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cômà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy."Điều bất ngờ là các hành kháchtrước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, một tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!
3. SUY NIỆM:
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường.Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tơi thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnhkia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dầnvà không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúavới hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người.Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trămhạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ơ đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
2) Con đườnghạt lúa của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra một con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Phải qua đau khổ để vào vinh quang”.
Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm hạt lúa Giêsu qua ba giai đoạn như sau:
+ Mầu nhiệm Nhập Thể giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất: "Đức Giêsu Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế"(Pl 2,6-7).
+ Mầu nhiệm Tử Nạn giống như hạt lúa phải trải qua giai đoạn bị mục nát: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự"(Pl 2,8).
+ Mầu nhiệm Phục Sinh giống như hạt lúa đã được biến đổi gia tăng gấp bội:"Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Ki-tô là Chúa" (Pl 2,9-11).
Tin Mừng Mát-thêu cũng trình bày mầu nhiệm hạt lúa của Đức Giêsu như sau: "Từ lúc đó, Đức Giêsu Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, các môn đệ không muốn chấp nhận. "Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).
3) Con đường hạt lúa của các môn đệ.
Đức Giêsu đã mời gọi mọi người đi con đường thập giá của Người: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận đi theo con đường hạt lúa của Đức Giêsu. Phao-lô Tông Đồ dân ngoại đã bày tỏ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: "Giờ đây,bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi" (Cv20,22-23).
Sau các Tông đồ, đến lượt các Ki-tô hữu cũng đã chọn đi con đường của hạt lúa là chấp nhận bị mục nát, chịu chết vì danh Chúa để từ đó Hội Thánh không ngừng được phát triển như lời ông Téc-tu-a-nô đã nói: "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu".
4) Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.
Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng cầu nguyện ket hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:
- Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi mình.
- Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.
- Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.
- Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.
- Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói năng hách dịch làm thất nhân tâm.
- Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn bớt thù”. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở mang Nước Chúa.
4. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giêsu, giống như Cha Kôn-bê xưa đã làm, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương?
5. LỜI CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mơi sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết trên thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh cũng noi gương Chúa để chấp nhận bị đế quốc Rô-ma bách hại suốt 300 năm, và cuối cùng đã được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả Đế quốc tin theo Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.
- Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con sẵn sàng đón nhận những đau khổ thập giá với thái độ tin yêu và hy vọng, noi gương Chúa xưa. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường duy nhất để nhờ đó chúng con xứng đáng nên hoàn thiện noi gương Chúa, và ngày sau còn được Chúa tôn vinh lên Quê Trời hưởng hạnh phúc đời đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
15.Giao Ước Mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Cựu Ước và Tân Ước
Sách Kinh Thánh của chúng ta có hai phần: Cựu Ước và Tân Ước, nghĩa là Giao Ước Cũ và Giao Ước mới. Tuy nhiên, bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mia, là sách thuộc phần Cựu Ước, đã loan báo Giao Ước mới rồi:
Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới.
(Gr 31, 31)
Và lời loan báo Giao Ước mới, theo vị ngôn sứ, là lời của chính Đức Chúa. Vậy đâu là đặc điểm chính yếu của Giao Ước mới so với Giao Ước cũ? Như chính Đức Chúa đã nói, đặc điểm của Giao Ước mới là Đức Chúa cam kết sẽ ghi khắc Luật của Ngài vào trong tim của con người. Như thế, Luật của Chúa, nghĩa là tất cả các giới răn có mục đích gìn giữ chúng ta ở trong Giao Ước, không còn được viết trên giấy hay khắc trên đá nữa, nghĩa là ở bên ngoài con người, nhưng là trong tim con người, nghĩa là trong chốn sâu thẳm nhất của con người. Nói cách khác, Luật của Chúa không còn là Chữ Viết nữa, nhưng sẽ trở thành Thần Khí hay Lời Nói sống động cư ngụ trong lòng chúng ta và trở nên một với chúng ta, để nuôi dưỡng và làm cho chúng ta sống. Như thế, Giao Ước mới có thể được gọi là Giao Ước tình yêu, bởi vì chỉ có tình yêu mới làm cho luật trở thành lời cư ngụ trong lòng chúng ta mà thôi. Như Đức Giêsu, hiện thân của Giao Ước mới nói: “Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4).
Nhưng tại sao Đức Chúa lại mời gọi Dân sống với Ngài bằng Giao Ước mới? Bởi vì, để giữ Giao Ước cũ, người ta phải có kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa và phải yêu mến Thiên Chúa. Và điều này cũng đúng trong mọi tương quan dựa trên lề luật của con người: để giữ luật trong gia đình, trong nhà trường, trong xã hội, trong Giáo Hội, trong đời tu, người ta phải có kinh nghiệm và dựa trên tương quan ơn huệ và tình thương. Tuy nhiên, con người đã không nhận ra tình yêu Thiên Chúa, ngang những kì công của Ngài thực hiện trong sáng tạo và trong lịch sử; vì thế, Ngài sẽ bày tỏ tình yêu đến cùng của Ngài dành cho con người nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của Ngài, để xây dựng tương quan với con người dựa trên Giao Ước mới, Giao Ước tình yêu. Như vậy, Đức Chúa ước ao kí kết một Giao Ước mới với Dân của Ngài, đó là bởi vì Giao Ước đầu tiên không sinh hoa trái như Ngài mong đợi.
Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi nhận ra rằng, ước ao Giao Ước mới cũng có ở nơi mọi tương quan của con người dưới hình thức này hay hình thức khác. Chẳng hạn, các bậc cha mẹ luôn ước ao những giáo huấn, những lời dạy bảo của mình không ở ngoài tai con cái, nhưng đi vào tâm trí của con cái ; và chắc chắn ước ao này cũng có nơi các nhà giáo, các nhà huấn luyện đối với người trẻ trong thời gian thụ huấn ; và ở một mức độ nào đó, cũng như thế, trong tương quan bạn bè và tương quan tình yêu nam nữ và tình yêu vợ chồng: người này ước ao lời của mình lưu lại mãi mãi trong tim của người kia. Khởi đi từ những kinh nghiệm nhân bản như thế, chúng ta xác tín rằng, ước ao Giao Ước mới cũng đến từ năng động tự nhiên của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài không thể không ước ao Giao Ước mới, là Giao Ước tình yêu.
2. Giao Ước Mới trong Đức Giê-su Ki-tô
Nhưng Thiên Chúa sẽ làm gì và làm như thế nào, để dẫn con người vào Giao Ước mới? Trước hết, Ngài bày tỏ ngôi vị của mình một cách trực tiếp cho con người:
Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
(Gr 31, 34)
Và lời hứa này sẽ được thực hiện một cách tròn đầy nơi ngôi vị của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, bởi vì “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Ngang qua các Tin Mừng, vốn là điểm tới của lịch sử cứu độ được kể lại trong Kinh Thánh, được đọc, được suy niệm, được cầu nguyện và nhất là được công bố và giải thích trong Thánh Lễ, Thiên Chúa tiếp tục bày tỏ chính mình cho mỗi người chúng ta nơi Đức Ki-tô. Sự hiểu biết mới về Thiên Chúa, được mặc khải bởi Đức Ki-tô, là tuyệt đối cần thiết để yêu mến Thiên Chúa, đón nhận và sống Giao Ước mới.
Tuy nhiên, càng hiểu biết Thiên Chúa, càng nhận ra tình yêu của Ngài, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, chúng ta càng cảm thấy mình vô ơn và bất xứng. Chính vì thế, để dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Thiên Chúa còn bày tỏ mình là Đấng giàu lòng thương xót:
Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng
và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
(Gr 31, 34)
Và lời hứa tha thứ cũng sẽ được thực hiện một cách quảng đại trong máu của Đức Giê-su, nghĩa là trong cái chết của Ngài trên Thập Giá, như chính Ngài đã nói và vẫn nói lại hằng ngày trong Thánh Lễ:
Anh em hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thấy, máu Giao Ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ cho anh em và nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
3. Con đường của hạt lúa mì
Thật là kỳ lạ, để tha tội cho loài người và từng người chúng ta, tại sao Đức Ki-tô lại phải đi con đường “đổ máu”? Con đường mà chính Ngài cũng cảm thấy xao xuyến:
Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.
(Ga 12, 27)
Sự “xao xuyến” của Đức Giê-su còn lớn hơn nữa, theo lời kể của các Tin Mừng nhất lãm: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14, 34 ; x. Mt 26, 38 và Lc 22, 44), và theo thư Do thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5, 7)
Người xao xuyến, đó là vì với thân xác mỏng manh của Con Thiên Chúa nhập thể, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha, một khuôn mặt đã bị hiểu lệch lạc, bị bóp méo, ngay từ nguồn gốc sự sống (x. St 3, 1-7), nhưng không phải bằng những kì công lớn lao, hay những phép lạ cả thể; bởi vì lịch sử Dân Do Thái và cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy rằng, những kì công lớn lao và những phép lạ cả thể không những không mang lại lòng tin, nhưng còn khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, ngoài ra còn bị Sự Dữ xen vào khơi dậy những cách hiểu và hành động lệch lạc[1].
Vì thế, theo ý Cha, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha theo một cách khác, “một cách điên rồ”, nhưng là sự điên rồ của tình yêu và khôn ngoan thần linh, qua việc:
* nhận hết vào mình thân phận của loài người chúng ta,
* đảm nhận mọi số phận đầy tai họa của con người,
* gánh lấy mọi tội lỗi của loài người,
* và đối diện với chính Sự Dữ biểu dương ở mức độ tuyệt đối.
Như thế, không phải một cách trực tiếp tội của mỗi người chúng ta làm cho Chúa bị bắt, bị kết án và chịu khổ hình, đó là Sự Dữ hành động nơi những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, nhưng Chúa tự nguyện chịu khổ hình để vừa chữa lành chúng ta khỏi Sự Dữ và vừa bày tỏ cho mỗi người chúng ta tình yêu đến cùng của Chúa dành cho chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở trong tình trạng nào. Chúng ta được mời gọi nhận ra nơi những gì Đức Giê-su mang lấy trong cuộc Thương Khó, có chính bản thân chúng ta, như chúng ta là: nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; mỗi người chúng ta hiện diện cách trọn vẹn, được đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn vẹn trên đôi vai của Đức Giê-su, trong ánh mắt của Đức Giê-su, trong trái tim của Đức Giê-su.
***
Để tái sinh chúng ta và dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa, phải cho đi sự sống của mình. Điều này thật khó hiểu và thật khó chấp nhận, đối với người Do thái, với các môn đệ, với loài người và với từng người chúng ta. Con đường Thập Giá không chỉ khó hiểu, mà còn là sỉ nhục và điên rồ. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.
* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác.
* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.
Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì:
Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
(Ga 12, 24)
Và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào. Thiên Chúa muốn dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Giao Ước tình yêu trong Đức Giê-su Ki-tô, nhưng ai trong chúng ta cũng cảm thấy, một đàng sự khao khát, nhưng đàng khác lại bất lực. Vậy chúng ta hãy nhận lời nguyện Thánh Vịnh 51 (50) làm của mình:
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một trái tim mới.
(Tv 51, 12)
-------------------------
[1] Lòng tin chỉ dựa vào phép lạ: (1) Thiên Chúa chỉ ở trong những điều lạ thường, còn những điều bình thường, là phần lớn cuộc đời chúng ta, thì sao? Thân phận con người rốt cuộc có là ơn huệ TC không? Có là đường đi dẫn đến Thiên Chúa hay không? (2) Không chấp nhận thân phận con người và không liên đới với thận phận của người khác. (3) Ma quỉ sẽ lợi dụng để khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, như đã làm trong Sáng Tạo (St 3) và trong Lịch Sử Cứu Độ (Ds 21, 4-9): có điều lạ thì tin, không có thì trách móc nghi ngờ; ngoài ra, còn có những người đã ngụy tạo ra điều lạ để lừa dối mình và lừa dối nhau.
16.Bài học vâng phục--Anmai, CSsR
Mỗi một con người, đều mang trong mình một suy nghĩ riêng, một cái nhìn riêng, một lập trường riêng để nói lên sự cá biệt hay nói đúng hơn là sự khác biệt của con người. Mỗi một con người có một nhân vị. Mỗi một con người là cả một thế giới riêng biệt. Và vì vậy, đó mới là điểm lý thú của con người. Nếu ai cũng như ai thì thế giới này thật là buồn tẻ, thật là nhàm chán vì khi ấy chẳng còn gì để mà bàn nữa. Thế nhưng, từ cái cá tính, cá vị của con người đã gây nên không biết bao nhiêu xáo trộn trong cuộc đời này.
Nhìn vào đời sống thường nhật chúng ta thấy rõ điều này. Hai vợ chồng trẻ mới cưới, vì còn nồng nàn cái thuở ban đầu, cái ngày đầu của đời sống hôn nhân nên tràn đầy hạnnh phúc. Khi ấy, anh nói em nghe, em nói anh nghe nhưng rồi một thời gian qua đi khi đời sống hôn nhân có thời gian, có bề dày một chút thì cái kiểu mà anh nói em nghe em nói anh nghe không còn nữa và rồi nó gây ra xáo trộn trong gia đình. Khi ấy chồng không phục tùng vợ nữa và vợ cũng chẳng còn phục tùng chồng nữa. Nếu nhường nhịn nhau thì gia đình sẽ ấm êm còn nếu không nhường nhịn nhau thì sẽ đổ vỡ, sẽ chia ly. Nếu ai nào sống trong cái bầu khí bất phục tùng sẽ cảm thấy cực kỳ nhàm chán vì lẽ nó bất an làm sao đó. Khi đó, muốn giải quyết mọi xung đột, muốn mang bình an lại trong gia đình thì vợ và chồng phải nghe nhau, phải nhường nhịn nhau, phải tuân phục nhau.
Khi có con cũng thế, nếu như đứa con trong gia đình dễ dạy, dễ nghe, dễ vâng phục thì gia đình rất bình an và hạnh phúc. Nếu gia đình nào có đứa con ngỗ nghịch hay cãi lại cha mẹ thì ắt hẳn gia đình đó bất an. Ông bà ta vẫn thường nói "Cá không ăn muối cá ươn - con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư!" để diễn tả lối hành xử giữa cha và con qua hình ảnh của con cá. Điều chắc chắn và ai ai cũng biết đó là con cá, nếu không ướp muối, để ngoài gió lát sau nó sẽ ươn, nó sẽ tanh và hôi vô cùng. Với con cái cũng vậy, khi chúng cưỡng lại lời dạy dỗ của cha mẹ thì chắc chắn nó sẽ dẫn đến con đường của hư vong thôi.
Rộng hơn một chút, trong một gia đình, trong một cộng đoàn chắc chắn phải có người trên, kẻ dưới. Kẻ dưới dĩ nhiên phải vâng phục người cầm đầu của gia đình, của cộng đoàn. Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy rất rõ, gia đình, cộng đoàn nào mà bề dưới, con cái không vâng phục thì cha mẹ, bề trên của gia đình, của cộng đoàn ấy khổ sở vô cùng. Cha mẹ, bề trên lúc nào cũng muốn con cái mình tốt nên có những luật này lệ kia. Con cái và bế dưới thì khác, chúng muốn sống trong tự do để rồi không còn biết vâng phục cha mẹ, bề trên là gì cả.
Bài học vâng phục ngày hôm nay, chúng ta được xem lại một cách hết sức rõ ràng, thực tế trong đoạn sách ngắn ngủi mà Giêrêmia để lại cho chúng ta. Giêrêmia được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ, người phát ngôn của Chúa, người đại diện cho Chúa, người thay mặt Chúa nói với dân Chúa những lệnh truyền của Chúa. Thiên Chúa, Ngài vốn dĩ mang trong mình dòng máu của tình yêu thương bao dung và tha thứ. Con người bao nhiêu lần bất tuân lệnh truyền, lẽ ra huỷ bỏ giao ước đã thiết lập nhưng không. Thiên Chúa mãi yêu con người, tạo mọi cơ hội, mọi điều kiện để con người bỏ đường gian ác mà quay về đường ngay nẻo chính.
Dân Israel đã huỷ bỏ giao ước. Hôm nay, qua miệng của Giêrêmia, Thiên Chúa lập giao ước mới với dân: "Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi (Gr 31, 31-35)
Với Giao Ước Mới, Thiên Chúa hứa là sẽ không nhớ đến lỗi lầm của Israel nữa và Ngài còn hứa Israel sẽ tồn tại mãi mãi.
Thế nhưng, tiếp tục nhìn vào lịch sử Israel, mối tình giữa Israel và Thiên Chúa nó làm sao ấy. Thiên Chúa mãi mãi yêu thương còn dân thì lại cứ bất tuân luật Chúa, không vâng phục lời của Ngài. Dân Chúa ương ngạnh, không vâng phục cho đến nỗi Ngài phải sai chính Con Một của mình đến để dạy do dân bài học vâng phục. Không đơn giản để học bài học vâng phục. Chúng ta thử đặt trường hợp của chúng ta vào Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấu được nỗi âu lo, sao xuyến, căng thẳng của một người sắp bước ra pháp trường.
Chúa Giêsu mang trong mình sự giằng co của một con người tự do và một con người vâng phục. Ngài hoàn toàn tự do để lựa chọn sự sống hay cái chết của Ngài. Suy nghĩ lắm chứ! Đắn đo lắm chứ! Buồn và đau đớn để rồi Ngài mới thỏ thẻ với Cha mình: "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến (Ga 12, 27)
"Chính vì giờ này con đã đến"! Phải! Chính vì cái giờ đau thương, giờ quyết liệt này mà Chúa Giêsu phải đến.
Tác giả thư Do Thái đã nói với chúng ta điều ấy:
"Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Dt 5,7-9).
Để vâng phục không đơn giản, để vượt qua những trở ngại của vâng phục phải trải qua biết bao nhiêu đau khổ nhưng khi vượt qua đau khổ đấy sẽ được đến vinh quang. Thánh Phaolô, trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip xác tín với chúng ta về thái độ, về hành động vâng phục của Chúa Giêsu:
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngườivà tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. (Pl 2, 6-9)
Vì sao Thánh Phaolô nhắc tín hữu Philip gương của Chúa Giêsu. Chắc có lẽ trong cộng đoàn Philip lúc bấy giờ có sự đụng chạm, có sự cãi vả nhau nên Thánh Phaolô phải nêu gương vâng phục của Chúa: "Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. (Pl 2, 1-5).
Thái độ, hành động vâng phục tuyệt vời của Chúa Giêsu ngày hôm nay quả là bài học quý giá cho mỗi người chúng ta. Hôm nay, chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình. Là linh mục, là tu sĩ, là ông, là bà, là cha, là mẹ, là con, là cháu trong gia đình, chúng ta nhìn lại xem chúng ta có vâng phục giám mục địa phận, bề trên giám tỉnh, bề trên cộng đoàn, ông, bà, cha mẹ của chúng ta hay không? Nếu chúng ta thật sự vâng phục bề trên, ông bà cha mẹ thì gia đình chúng ta sẽ ấm êm, hạnh phúc.
Các đấng các bậc làm bề trên và làm cha làm mẹ ắt hẳn có kinh nghiệm thực tế về chuyện vâng lời vâng phục của bề dưới, của con cái. Đành biết con người có cá tính, có lý lẽ riêng của mình nhưng vì hạnh phúc chung, vì lợi ích chung của gia đình, của cộng đoàn ta phải cố gắng bỏ đi cái ý riêng, cái lẽ riêng của ta để gia đình, để cộng đoàn được hạnh phúc hơn.
Nhìn lại như vậy để rồi chúng ta cầu nguyện cho nhau để ngày mỗi ngày chúng ta cân chỉnh cuộc đời của chúng ta sống sao vâng phục người trên của chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu là thầy dạy vâng phục ban thêm ơn cho chúng ta để chúng ta sống bài học vâng phục như Chúa đã từng vâng phục Cha.
17.Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.
Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)
Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”
Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?
Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
18.Hạt lúa mì mục nát--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
***
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
***
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen.
19.Quy luật sự sống--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.
20.Trao ban là nhận lãnh--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người đời thường nghĩ rằng: cho đi là mất. Họ tưởng rằng cho người khác một số tiền, một tài sản nào đó… thì họ sẽ bị mất mát, thiệt thòi. Thế nên lắm kẻ chủ trương rằng tốt nhất là đừng dại dột đem cho mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.
Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giêsu dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.
Cho đi thì còn, giữ lại là mất; chính lúc trao ban là lúc nhận lãnh.
Để làm rõ sự thật nầy, Chúa Giêsu dạy: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Quả vậy. Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì hạt lúa đó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác.
Từ đó, Chúa Giêsu dạy rằng cuộc sống của con người ở đời nầy cũng như thế: “Ai yêu quý mạng sống mình (tự bảo toàn mình như hạt lúa trong kho) thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (sống xả thân như hạt lúa chịu phân huỷ trong lòng đất) thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Khi nói: “coi thường mạng sống mình ở đời nầy”, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta coi rẻ mạng sống, nhưng là mời gọi chúng ta sẵn lòng chấp nhận xả thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Làm như thế không phải là thiệt thòi mất mát nhưng là cách để triển nở dồi dào phong phú.
Minh hoạ sau đây chứng tỏ sự thật nầy:
Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.
Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.
Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.
Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số không!
Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.
Nhờ tự huỷ mình đi như hạt lúa, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Cuộc đời của Đức Giêsu là một minh chứng cho chân lý nầy. Người là Một Hạt Lúa chấp nhận tự huỷ đi. Dù là Thiên Chúa thật đồng hàng với Chúa Cha nhưng Người đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Người đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Người được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).
Thánh Phao-lô tóm lược cuộc đời tự huỷ của Chúa Giêsu như sau: Vì chấp nhận tự huỷ như thế, “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Ki-tô là Chúa". (Phi-líp-phê 2, 9-11)
Đón nhận bài học của Chúa Giêsu
Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một máy bay phải tiêu hao nhiên liệu mới có thể cất cánh. Một vệ tinh, một tàu vũ trụ phải tiêu hao một số năng lượng khổng lồ mới có thể được phóng lên không gian...
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hi sinh, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp.
21.Hạt lúa gieo vào lòng đất--‘Cùng Đọc Tin Mừng”--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nếu chúng ta có một lượng vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được bằng những phương cách hợp pháp.
Giá như có bí thuật nào làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giêsu tặng không cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế.
"Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn nạn nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống như hạt lúa đơn độc trên vệ đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt cuộc phải tiêu vong. Ngài muốn chúng ta bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta hãy nên như hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì hạnh phúc người khác; hãy cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá hằng ngày với Chúa Giêsu, chấp nhận cống hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục vụ muôn người.
Nhưng sự việc đâu có giản đơn. Xác thịt con người vẫn nặng nề và không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có rất nhiều can đảm mới có thể đáp lời Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức cho con!
22.Cho đi thì còn, giữ lại thì mất--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. “(Ga 12,25)
Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.
Người đời cho rằng muốn bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giêsu thì chủ trương ngược lại: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!" (Ga 12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý nầy?
Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.
Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.
Người đời cho rằng: "mạng sống hơn đống vàng" nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: "ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.
Làm sao hiểu cho được những nghịch lý nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.
Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển sống.
Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giêsu đánh mất tất cả và thất bại hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.
Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa Giêsu gọi đó là giờ Người được tôn vinh: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh, để trở thành "biển sống Galilê" và không bao giờ là "biển chết".
23.Chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu--Lm. Quốc Toản, CRM
Trong cuộc sống có nhiều điều quan trọng mà ta không thể trông thấy như gió, tư tưởng, lòng can đảm, tình yêu và ơn thánh Chúa. Tuy nhiên, ta có thể biết chúng hiện hữu qua hiệu quả hay tác dụng của chúng. Thí dụ khi thấy cây ngả nghiêng - ta biết có gió.
Trong Tin Mừng hôm nay, một số người Hy-lạp (Dân ngoại) muốn gặp Chúa Giêsu. Tại sao họ muốn gặp Chúa? Họ là mối lo cho người Do-thái hơn cả quân Rôma. Đối với họ, cách sống của người Do-thái thật là bất thường. Tuy nhiên, họ lại muốn gặp Chúa. Phải có một điều gì làm cho họ muốn gặp Chúa? Có lẽ họ đã nghe các tông đồ và dân chúng nói nhiều về Chúa. Cũng có thể họ muốn gặp Chúa là vì họ đã chứng kiến sự biến đổi nơi cuộc sống của các tông đồ và những người đã theo Chúa Giêsu.
Như những người Dân ngoại xưa, nhiều người ngày nay cũng muốn gặp Chúa Giêsu; một Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc sống của những người đã theo Ngài, một Chúa Giêsu làm cho người ta muốn dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, một Chúa Giêsu thấu hiểu tâm hồn và biết con người phải chiến đấu khó khăn thế nào để thi hành một việc tốt, và một Chúa Giêsu luôn sẵn sàng thí mạng sống vì phần rỗi nhân loại.
Những sự việc này sẽ không bao giờ trở thành sự thật nếu chúng ta không thấy những hậu quả hay tác dụng của sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống của những người theo Chúa Kitô. Ta đọc hoặc nghe về những vị thánh, những người có cuộc sống đã chiếu giãi sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa như Phanxicô, Têrêxa, Mẹ Têrêxa Calcutta... Ta cũng biết những người có cuộc sống thánh thiện như Tu sĩ Văn, Cha Minh Đăng, Cha Bửu Diệp... Hoặc chúng ta biết những người thân yêu, bạn bè đang đau khổ không kém Ông Gióp trong Cựu Ước, nhưng họ vẫn vững niềm tin cậy trông nơi Chúa cho dù đôi lúc họ cũng muốn buông xuôi.
Việt Nam ta có câu, "Có qua có lại, mới toại lòng nhau. “Đúng thế! Không chỉ có chúng ta muốn gặp Chúa Kitô, nhưng còn rất nhiều người khác cũng muốn gặp Chúa Giêsu. Do đó, ta không thể chỉ ngồi để hưởng gương lành hoặc ân sủng nhờ niềm tin của người khác. Ta cần trở nên dấu chỉ cho tha nhân nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống. Ta có thể bắt đầu bằng việc đồng hành và giúp những người chưa nhận biết Chúa qua cử chỉ bác ái yêu thương và nâng đỡ; trung thành trong đời sống cầu nguyện; giúp đỡ tha nhân không vì để được khen, nhưng là vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa; đồng hành và cảm thông với những người đau khổ không phải bằng lời nói nhưng bằng sự hiện diện.
Như những người Hy-lạp trong Tin Mừng, ngày nay cũng có rất nhiều người muốn gặp Chúa Giêsu. Nhưng, ngày nay Chúa không hiện diện cụ thể để cho họ gặp Ngài diện đối diện như thời xưa. Cách duy nhất để họ nhận ra Chúa là qua chính những hậu quả và tác dụng của lời Chúa nơi hành động của chúng ta là những môn đệ của Ngài. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể canh tân đức tin nơi mỗi người và giúp ta biết chia sẻ đức tin đó cho mọi người qua lời nói và đời sống trào tràn tình yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy tìm Chúa Giêsu nơi tha nhân và để tha nhân nhận gặp Chúa nơi chúng ta.
24.Hành trình tự hủy--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng. “Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định luật của hạt lúa được gieo vào đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản sinh nhiều bông hạt khác.
‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.
Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, ‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp: “Giờ đã đến”. Đó là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ: “Đã đến ‘Giờ’ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.
Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).
Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’. Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết trong hành trình tự hủy cách liên tục.
Cuộc chiến nội tâm.
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích, đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).
Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.
Kết luận
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.
25.Sống đẹp giữa đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa thường đề cao lối sống của người quân tử. Người quân tử thấy chuyện bất bình thường ra tay cứu giúp. Người quân tử luôn sống hào hiệp, sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản thân. Thế nhưng, con người ngày nay lại an phận thủ thường. Người ta ngại hy sinh cho người khác. Người ta sợ "mang hoạ vào thân". Người ta tìm an nhàn cho bản thân nên chẳng dại gì "ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Xem ra lối sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ chỉ còn trên trang giấy học trò. Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại hôm nay.
Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn "vui vẻ" với cô. Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường...
"Này ông kia, ông xuống xe đi!" cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
"Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?"
Cô gái nhăn mặt nói: "Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy."
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Thậm chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:
"Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?"
Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn". Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!
Quả thực, con người ngày xưa khi thấy chuyện bất bình, người ta thường lăn xả để hoà giải cho nhau, nhưng xem ra hôm nay, ít ai dám can thiệp vào chuyện người khác. Ít ai dám xông pha để bảo vệ kẻ yếu đang bị ức hiếp. Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người khác. Xem ra con người ngày nay thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình nhiều hơn là cho đồng loại. Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy sinh".
Thế mà, hôm nay Chúa Giêsu lại bảo: "kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại". Đó là chân lý, là định luật tất yếu của cuộc đời. Nếu thế giới này không có những con người dám quên đi bản thân thì làm sao có những phát minh khoa học, làm sao có những kỳ quan để lại cho đời sau? Có lẽ thế giới hôm nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có những người dám quên đi sự an nhàn cá nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá nhân để sống vỉ lợi ích tha nhân! Thế giới này đang mắc nợ những con người đã tận tuỵ làm việc quên mình để xây dựng thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Thế giới hôm nay rất cần những con người quân tử để cuộc đời được phong phú và yên vui hơn.
Chính Chúa Giêsu, Ngài đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu. Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha "chân lấm tay bùn" đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.
26.Hạt lúa chết đi--AM Trần Bình An
Vài hôm trước ngày bị hạ sát, Tổng Giám Mục Oscar Romero phát biểu với một phóng viên nhà báo: "Ông có thể nói với dân chúng rằng, nếu họ thành công trong việc ám hại tôi, tôi sẽ tha thứ và ban phép lành cho những ai làm điều ấy. Hy vọng họ sẽ nhận ra rằng họ đã phí uổng thời giờ. Một vị Giám mục sẽ chết, nhưng Giáo Hội của Thiên Chúa, tức là Giáo Hội của dân chúng sẽ chẳng hề bị hủy diệt."
Vào lúc 6 giờ 25 chiều ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của Bệnh Viện Chúa Quan Phòng, một bệnh viện dành cho bệnh nhân ung thư, Tổng Giám Mục Romero cử hành Thánh Lễ cầu hồn cho thân mẫu của một ký giả bạn thân, vừa mới qua đời. Đức Cha Romero đọc đoạn Phúc Âm Thánh Gioan: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. “(Gioan 12, 23-24) Đức Cha triển khai chủ đề ấy trong bài giảng ngay sau đó, áp dụng nó vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt.
Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: "Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh, mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta... Kẻ nào né tránh sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình. Nhưng bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài. “Ngài còn nói: "Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong dân Salvador của tôi."
Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị bánh và rượu để dâng hy lễ Chiên Thiên Chúa, thì tiếng súng nổ, một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện bay vèo lên. Tổng Giám Mục Romero trúng đạn, máu chảy lai láng. Người ta vội đưa ngài đi cấp cứu, nhưng ngài đã tắt thở.
Giết chết Tổng Giám mục Oscar Romero, thế lực quân phiệt, tài phiệt bạo ngược chưa thỏa lòng. Họ còn cho binh lính mai phục trên nóc nhà thờ, đặt chất nổ và xả súng bắn vào đoàn người đang dự lễ an táng Đức Cha, ngay trước tiền đường nhà thờ chánh toà, khiến thêm 37 người nữa bị tử nạn và hàng trăm người bị thương. Nhưng ai là thủ phạm các vụ tàn sát trên thì "chỉ có Chúa biết". (Theo Romero: A life của James A. Brockman)
Trong Thánh lễ cuối cùng trước khi được Chúa thương gọi về, Đức TGM Oscar Romero đã công bố bài Tin Mừng hôm nay. Đồng thời ngài áp dụng trung thành Lời Chúa Giêsu phán dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. “(Ga 12, 25). Trong tiểu sử Đức TGM Oscar Romero, không nhắc đến tâm hồn ngài cảm thấy thế nào trước nguy hiểm đe dọa, có lẽ tác giả muốn bỏ qua sự yếu đuối của thân xác. Còn Thánh sử Gioan không hề che đậy, cặn kẽ mô tả Đức Giêsu khủng hoảng trước cuộc tử nạn.
Khủng hoảng
"Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” Tâm hồn Đức Giêsu bất an, nôn nao, lo lắng, khiếp hãi, khủng hoảng vô cùng trước mối đe dọa sống còn. Cuộc chiến giữa bản năng sinh tồn và ý chí dấn thân vâng phục vô cùng khủng khiếp, nghiệt ngã, khiến Đức Giêsu phải đổ mồ hôi hột giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. (Lc 22, 44)
Dẫu vậy, Đức Giêsu luôn xác tín linh hồn quan trọng và thiết yếu hơn thể xác, vốn yếu đuối, hèn mọn, mỏng dòn và mau hư nát. Há tiếc chi cái xác phù du, sợ chi cái chết đe dọa, kẻ thủ ác bạo tàn? Đáng sợ là mất cả chì lẫn chài trong hỏa ngục do Thiên Chúa phán xét công minh vào ngày chung thẩm: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. “(Mt 10, 28)
Thư gửi Do Thái, thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thật vậy, nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào đền tội được nữa, mà chỉ còn sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng tiêu hủy các đối tượng của Thiên Chúa. “(Dt 10, 26-27)
“Chúng ta phải học lấy bài học của Chúa Kitô: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình. “(Lc 9, 23) Đúng thế hãy từ bỏ chính mình, từ bỏ những dễ dãi, từ bỏ những quan điểm cá nhân, và hãy chỉ theo tư tưởng của Chúa Kitô, Đấng có thể dẫn chúng ta tới cái chết, nhưng chắc chắn cũng sẽ dẫn chúng ta tới sự phục sinh. “(ĐTGM Oscar Romero, 19.6.1977, L’Amour Vainqueur)
“Đừng nhát sợ! Hãy xem Công vụ các Thánh Tông Đồ: đói khát, rách rưới, trộm cướp, roi đòn, đắm tầu, vu vạ, tù ngục, chết chóc,... Nếu con sợ, đừng làm Tông đồ. “(Đường Hy Vọng, số 167)
Cầu nguyện
Trong cơn gian nguy cùng cực, chỉ có duy nhất Thiên Chúa là Đấng ra tay cứu độ. Đức Giêsu đã hốt hoảng van nài trông cậy: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. “(Ga 12, 27) Vừa xin cứu giúp, vừa xác tín vâng phục sứ vụ, Đức Giêsu trở nên gương mẫu tuyệt đỉnh về cầu nguyện cho tín hữu. Tin cậy mến hoàn toàn, không chút vấn vương hoài nghi, bởi chưng “ không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. “(Ga 15, 5)
Cầu nguyện luôn là cầu nối mật thiết và quan trọng với Thiên Chúa, hiệp nhất với Ngài trong tư tưởng, lời nói đến hành động. Qua lời cầu nguyện, Ngài sẽ thông ban ơn phù trợ, sức mạnh, ơn bền vững trước cơn thử thách, trước cuộc khổ nạn. “Cầu nguyện là một dạng năng lực mạnh nhất mà chúng ta có thể khơi lên. “(Bác sĩ Alexis Carrel)
Đức Giêsu luôn tha thiết mời gọi các môn đệ, các tín hữu luôn sốt sắng tỉnh thức và cầu nguyện, để chống trả cám dỗ và sự dữ, hầu được hưởng cứu độ. “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. “(Lc 21, 36)
“Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu, quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thiết như người trộm lành, khiêm tốn như người thu thuế. “(Đường Hy Vọng, số 135)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mình, hy sinh, hiến thân cho Chúa, phục vụ tha nhân. Xin Chúa cho chúng con luôn tỉnh thức, nhận biết và chế ngự những cám dỗ xác thịt, thế gian và ma quỷ. Xin Chúa ban hồng ân Chúa Thánh thần cho chúng con sức mạnh chiến đấu với sự dữ và trung thành với Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ đã trải qua Bảy Sự Thương Khó đau đớn, kính xin Mẹ che chở, phù hộ chúng con trước phong ba bão táp cuộc đời và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
27.Hạt giống vô sinh hay hữu sinh?--AM Trần Bình An
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu chết đi nó mới sinh nhiều hạt khác. “(Ga, 12, 24)
Nhưng hỡi ơi, hiện nay, đã xuất hiện loại hạt giống biến đổi gien chỉ sống duy nhất trọn một chu kỳ. Sau khi trồng tỉa, thì sản phẩm thu hoạch được, gọi là hạt thương phẩm, chỉ dùng chế biến tiêu thụ, chứ không thể làm giống được nữa. Vì Công ty phát minh đã cấy vào hạt giống gien vô sinh, có tác dụng hủy diệt mầm sống sau khi đã ra hạt (Terminator Seed). Thậm chí phấn của nó bay qua phối hợp với giống khác, thì giống đó cũng sẽ mang gien vô sinh.
Hơn nữa, hạt giống còn được cấy ghép DNA của một loại vi khuẩn chịu được sức nóng và độc chất của thuốc diệt cỏ cực mạnh. Nhờ dĩ dộc trị dộc mà cây giống lai tạo ấy hoàn toàn kháng được độc dược ấy.
Rồi Cty đăng ký chủ quyền các loại gống do họ biến đổi gien, và chủ quyền hợp pháp với tất cả vật gì, cây gì có mang DNA của họ, nếu nó di truyền tới đâu, họ cũng có chủ quyền đến đó.
Chẳng thế, mà Cty đó mới công khai hãnh diện: “Ai làm chủ hạt giống sẽ làm chủ thực phẩm, ai làm chủ được thực phẩm sẽ làm chủ thế giới!”
Vừa thâu tóm lợi nhuận kếch xù, vừa có quyền lực chi phối nhu cầu sinh tồn của toàn thiên hạ, thì câu tuyên bố xanh rờn, đầy tham vọng đó chẳng có gì quá đáng. Chỉ đáng buồn cho cả nhân loại đang bị êm ái đầu độc, đẩy vào hố sâu diệt vong vì từ hạt giống vô sinh ấy.
Trở lại huấn dụ của Chúa Giêsu, hạt lúa gống này phải thuần chủng, chắc mẩy, để gieo giống nào thì sẽ gặt giống nấy. Thực vật chịu mục nát để tái sinh mầm giống mới. Nhân thân mỗi người cũng phải lột xác biết bao nhiêu lần, mới trở nên con người trưởng thành hữu dụng. Tâm hồn cũng thế, vượt qua biết bao hoang mạc đầy cám dỗ, mới trong sáng, hướng thượng.
“Ai yêu quý mạng sống của mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12, 25)
Bước đâu tiên, Chúa Giêsu nâng nhận thức con người lên một tầm cao mới: Sự sống vĩnh cửu, hay tương lai mịt mờ đen tối sau phút lâm chung. Nhãn tiền, đó chính là những thành quả hiện nay từ những giọt máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã minh chứng hùng hồn, không thể nào phủ nhận.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và thầy ở đâu, thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy. “(Ga 12, 26)
Bước kế tiếp, Chúa Giêsu cụ thể hóa yêu cầu theo Ơn Gọi của Người, cùng phần thưởng dành cho kẻ tuân thủ. Hãy tuân theo giáo lý tình yêu của Người ở bất cứ nơi nào, với bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, bới chưng nơi nào Người chẳng hiện diện, người nào chẳng phải hình bóng Người, và môi trường nào dù khắc nghiệt mấy đi nữa cũng chẳng thiếu Người can dự.
Lạy Chúa Giêsu xin mở nhãn quan cho con luôn biết thân phận yếu đuối, biết chết đi những ham muốn, những ý riêng nhỏ nhen, đừng trở nên hạt giống vô sinh, mà là hạt giống tốt, nảy chồi đâm lộc đến sự sống vĩnh cửu.
Lạy Mẹ dấu yêu, xin giúp con can đảm dập nát hạt giống tội lỗi, để mầm giống Lời Chúa nảy nở, đơm hoa kết trái trong con. Amen.
28.Hạt lúa mì gieo vào lòng đất--Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
“Hạt lúa mì gieo vào lòng đất, nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác” (Ga 12,24)
Có mấy người Hi-lạp đến gặp Philiphe để xin gặp Chúa Giesu, vì họ muốn đi gặp để biết thật sự Chúa Giesu là ai, theo như những lời đồn đại của người ta. Có lẽ họ mong đợi sẽ được gặp một người vĩ đại, một nhà triết gia khôn ngoan, có thể chia sẻ với họ về những tư tưởng lớn lao. Nhưng ngược lại, họ lại tìm thấy một người Giesu đang đau khổ, bối rối và sợ hãi: “Bây giờ tâm hồn thầy xao xuyến, thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27). Chúng ta cũng là những người đang đi tìm Thiên Chúa, đi tìm chân lý và ý nghĩa cho cuộc đời mình, liệu rằng chúng ta có bị bất ngờ và thất vọng không, khi Thiên Chúa mà chúng ta muốn tìm kiếm, không phải là một nhân vật vĩ đại, nổi tiếng, hay một nhà triết học, một nhà tư tưởng lừng danh, hay là một người giàu có, danh giá, mà Ngài lại ẩn mình trong những người bé nhỏ và nghèo hèn nhất của xã hội, những người bệnh tật, những người bị bỏ rơi, … và có thể đã có những lúc chính chúng ta không thèm nhìn, không tiếp nhận và thậm chí xua đuổi Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta.
Nhưng có lẽ chúng ta lại bất ngờ và thất vọng hơn nữa, khi chúng ta nhận được câu trả lời từ chính Chúa Giêsu cho các người hilap khi xưa và cũng là cho chúng ta hôm nay: “nếu các ngươi muốn hiểu Thầy, hãy nhìn hạt lúa mì kia, nếu các ngươi muốn nhìn thấy Thầy, hãy chiêm ngắm thập giá”. Ngài nói với mỗi người chúng ta: “Các con muốn hạnh phúc ư, hãy vác thập giá như Thầy đã vác”. Con đường mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta, cũng chính là con đường thập giá mà chính Ngài đã đi trọn vẹn, dường như đối với chúng ta trong thế kỷ này, hơi bị mâu thuẫn và khó chấp nhận được. Vì sao vậy? thưa là bởi vì, thế giới mà chúng ta hay thường gọi là “thế gian” đang giới thiệu và hứa hẹn với chúng ta một con đường “kiếm hạnh phúc” khác hẳn. Đó là một con đường “tự do tuyệt đối” do con người làm chủ nhân độc quyền, một “khoa học kỹ thuật đỉnh cao” có khả năng chinh phục và điều khiểnvũ trụ, một “tiến bộ vượt bậc của ngành y học và sinh học”, một cuộc sống “hưởng thụ mọi nhu cầu”, … thế gian đang chào mời và hấp dẫn chúng ta bằng cách tạo ra nhiều “nhu cầu” và bảo đảm với chúng ta rằng, chúng ta sẽ hạnh phúc khi được thỏa mãn các nhu cầu đó. Và chúng ta ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự hấp dẫn của nó, và nhiều người trong chính gia đình chúng ta, trong giáo xứ chúng ta đang đi theo “lý thuyết” này. Nhưng tiếc thay cho đến bây giờ, lý thuyết này đang mất dần đi hiệu lực và sức mạnh của nó, vì những sự dữ đang hoành hành thế giới với sức phá hoại không tưởng nổi.
Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào một con đường hoàn toàn khác hẳn, có vẻ đi ngược lại các xu hướng tự nhiên của con người. Nhà thần học gia nổi tiếng Karl Rahner có nói: “để biết được Thiên Chúa là ai, chỉ bằng cách là tôi phải qui gối xuống chân thánh giá”. Chính Chúa Giêsu đã đi vào trong con đường này, và Ngài mời gọi mỗi người chúng ta, nếu muốn hạnh phúc, hãy đi theo Ngài vào đó. Chúa Giesu là một hạt lúa mì, chết đi và sinh nhiều hạt mới, bước vào con đường thập giá và đã phục sinh, Ngài đã dùng cái chết của Ngài để tiêu diệt sự chết và tôn vinh Tình Yêu bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người.
Không có con đường rộng nào dẫn đến thiên đàng đâu, mà chỉ có con đường hẹp mới dẫn đên Nước Trời thôi. Vấn đề là chúng ta có dám đi vào con đường hẹp không, để được hạnh phúc với sự giúp sức và đảm bảo sẽ chiến thắng của chính Chúa Giesu và Giáo hội của Ngài. Con đường này chính là con đường “tình yêu” đích thật, không phải thứ tình yêu “tôn thờ cảm xúc” như một bộ phận lớn giới trẻ đang quan niệm và tìm kiếm. Một tình yêu dẫn dắt chúng ta đến tìm gặp Đấng là Nguồn Mạch của Tình yêu, để rồi tìm gặp được chính chúng ta trong mầu nhiệm tình yêu đó, với tư cách là “con Thiên Chúa” và chúng ta sung sướng gọi Thiên Chúa “Abba, Cha ơi, Bố ơi”. Một tình yêu đưa chúng ta đến gặp một Thiên Chúa Tha Thứ, một người Cha nhân hậu không bao giờ trách tội con mình, nhưng là tha thứ luôn luôn và quên hết mọi lỗi lầm của chúng ta.Một tình yêu mang chúng ta đi vào một Thiên Chúa của giao ước và trung thành cho đến cùng, Ngài đã yêu chúng ta và Ngài đã yêu chúng ta đến cùng, đó là chết thay, trả cái nợ mà đáng lẽ chúng ta phải trả: “đó là sự chết”.
Chỉ có “Tình Yêu” này mới có thể làm chúng ta thỏa mãn cơn khát vô tận của con tim chúng ta, và cũng chỉ có con đường “thập giá” này mới đưa chúng ta vào trong sự “hạnh phúc” đích thật. Ước gì trong tuần cực thánh sắp tới, chúng ta xin ơn được trở về với Thiên Chúa, trở về với chính chúng ta, để xin Người tha thứ và ơn can đảm đứng lên, bước theo Chúa vào trong con đường thập giá mỗi ngày, với sự đồng hành và giúp sức của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Xin cho mỗi người chúng ta dám can đảm chết đi con người cũ, chết đi cho Chúa và cho anh em, để chúng ta có khả năng trổ sinh bông hạt dồi dào.
29.Giờ đã điểm--Lm. Vũ Đình Tường
Người ta thường ví von: sống kể ngày, chết kể năm. Khi nói đến cái chết người ta không nói đến ngày, tháng năm mà lại nói đến giờ chết. Nói đến giờ chết vì nó xảy ra trong khoảng khắc, trong giờ phút nào đó. Một khi giờ đã điểm không ai có thể chống cự, có cố gắng cũng chỉ dùng máy trợ tim, giúp tim đập với hy vọng bập bùng theo từng nhịp tâm đập. Hy vọng bởi vì không thể dự đoán biến chứng nào sắp xảy đến, phản ứng nào đang rình rập và giờ phút nào là giờ phút giờ đã điểm.
Điều chắc chắn giúp các Kitô hữu vững tin vào Chúa là giờ chết của ta không phải là bị huỷ diệt, tắt ngủm hơi thở là hết, là chết. Theo mạch văn của Kinh Thánh, giờ con người thế gian sợ hãi lại là giờ người Kitô hữu vững tin vào Chúa, làm Vinh Danh Thiên Chúa. Không niềm tin chết là hết, vinh quang tàn lụi. Có niềm tin chết là bắt đầu cuộc sống mới, vinh danh bắt đầu sáng chói. Phải chăng đây chính là giờ mà Chúa Nhật đầu mùa chay nhắc đến trên núi thánh. Áo trắng như tuyết, mặt mày sáng rực như ánh hào quang. Cái chết của người không có niềm tin chính là danh vọng đang có biến mất, chấm dứt. Cuộc đời đổi trắng ra đen. Cái chết của người Kitô hữu trái lại biến đổi đời mình đang từ không danh vọng lại được ban cho danh vọng. Rõ là đang đen ra trắng. Trắng như tuyết, chói lọi như ánh sáng hừng đông vì họ chết trong ánh sáng Đức Kitô, Người là sự sáng đến trong thế gian để ban ánh sáng chói lọi cho những ai tin vào Ngài. Ánh sáng chói lọi này bắt đầu toả sáng khi giờ người đó điểm cũng chính là lúc họ kết hợp, nên một với Đức Kitô để Ngài sống lại vinh hiển thế nào thì chúng ta những người tin theo cũng được sống lại với Người như vậy.
Nói như thế không có nghĩa người Kitô hữu không buồn sầu khi nghe tin người thân qua đời, hay chính mình mang bệnh nan y. Không phải thế, người Kitô hữu không vô cảm đến phũ phàng, vô tình như thế. Đứng trước cái chết dù là của người thân hay cái chết thương tâm của một người chúng ta không khỏi tiếc thương bởi vì đó là dấu hiệu của chia lìa, ngăn cách. Dù là ngăn cách một thời gian cũng là ngăn cách. Chúng ta khóc thương vì gắn bó tình cảm con người bị chia sẻ, vì cảm thấy mất mát dù là mất tạm bợ. Chúng ta khóc thương, đau buồn xúc động vì đó là phản ứng tự nhiên của cảm xúc con người. Cảm xúc đó cần được bộc lộ, diễn tả thể hiện tình yêu chân thành. Bản tính thự nhiên là như thế. Điểm khác biệt là Kitô hữu khóc, thương và nhớ nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Trái lại Kitô hữu luôn sống trong hi vọng, hi vọng ngày gặp lại người thân, ngày tái đoàn tụ trên thiên quốc. Ngày mà Đức Kitô diễn tả như hạt lúa mì chết đi để biến thành cây lúa mới với bông lúa vàng trĩu hạt, mỗi hạt vàng ươm, đầy hạt gạo thơm, của mùa thu hoạch tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.
Nước không thể bốc hơi nếu nhiệt độ không biến thể lỏng thành thể khí. Gió không lay động cành cây nếu không khí không chuyển động. Chúng ta không tiến vào vinh quang Thiên Chúa nếu không có cảnh chia li giữa ta và trái đất. Giờ phút chia li đó mang lại niềm đau nhưng cần thiết giúp ta trở về với Đấng Sáng Tạo nên ta.
30.Con người--Lm. Vũ Đình Tường
Chúng ta có cha có mẹ và cha mẹ yêu thương chúng ta, chăm sóc, bảo vệ. Sau này khôn lớn chúng ta lại tiếp tục coi sóc con của chính mình, bảo vệ và yêu thương chúng. Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô không có í nói đến mối liên hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái. Đức Kitô ngụ í nói về sứ mạng của Ngài. Sứ mạng đó là Ngài đến để phục vụ mọi người. Con Người đến để phục vụ mọi người.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô muốn nói đến bản tính nhân loại của Đức Kitô. ‘Con Người’ đến dậy cho người ta biết khác biệt giữa sống làm người và sống nên người. ‘Con Người’ đến mang lại ơn an bình, mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân, xoa dịu vết thương, chữa lành bệnh tật, an ủi kẻ yếu đau và kết thân cùng kẻ cô đơn cùng khổ. Biết cảm thông với nỗi khổ của mọi người, kẻ khốn cùng, chia sẻ thống khổ của đồng loại. Sống như thế là sống nên người. Sống như thế là hiện thân của tình yêu Chúa cho tha nhân. Tình yêu Chúa biến đổi cuộc sống chúng ta. Tình yêu Chúa biến đổi cách nhìn, cách suy nghĩ và hướng chúng ta đến điều tốt lành. Sống theo í Thiên Chúa không nhằm mục đích thành công nhưng nhằm mục đích thành nhân, thành người có tư cách, có nhân, có nghĩa.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ như mọi người điều này ngụ í nói Đức Kitô còn một bản tính khác nữa đó chính là bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Ngài vừa là Thiên Chúa thật vừa là ‘con Người thật’. Tương tự như thế chúng ta là con người nhân loại và khi tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa chúng ta thực sự trở thành con Thiên Chúa.
Thánh danh ‘Con Người’ có nguồn gốc từ tiên tri Daniel 7,13-14 khi tiên tri nói về hình ảnh con người có quyền trên toàn vũ trụ. Con người đó được ban cho quyền năng trên khắp bầu trời và quyền năng trên tất cả các loài thụ tạo dưới đất. Quyền năng đó vô cùng tận và nước cúa Ngài tồn tại muôn đời, không thế lực nào phá nổi. Mọi ngôn ngữ đều qui phục Ngài. Điều tiên tri này thể hiện nơi con người Giêsu Kitô, sau khi Ngài sống lại từ cõi chết. Điều này xác định bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Khi Đức Kitô tự xưng là ‘Con Người’. Dân Do Thái lúc đó hiểu Ngài muốn nói cho họ biết Ngài là Đấng Thiên Sai.
Ngài dùng hai hình ảnh diễn tả mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô. Cả hai hình ảnh đều diễn tả một cách nhiệm mầu ơn cứu chuộc và ơn tái sinh. Đức Kitô hay ‘Con Người’ nhân danh nhân loại hoàn thành sứ mạng qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển. Chết để tái sinh. Hình ảnh đầu là hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất nó thối đi, rồi nên mầm, trổ sinh bông trái gấp trăm. Hình ảnh thứ hai là hình ảnh treo lên cây, hình ảnh của thập tự để kéo nhân loại lên cùng Ngài. Cả hai hình ảnh đều diễn tả sự chết và cả hai hình ảnh đều diễn tả sau chết không phải là thối nát, hư mất mà là thay hình, đổi dạng tiến vào cuộc sống vinh quang. Kitô hữu đi con đường chính ‘Con Người’ đã đi, cuối đường cũng thay hình đổi dạng tiến vào cuộc sống trường sinh, vui sống cạnh ‘Con Người’ vinh quang.
31.Nếu hạt giống chết đi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ và cái chết. Đó là một cản trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn năng và thương yêu con người, tại sao người lành phải đau khổ? Bởi đó niềm tin Thiên Chúa cũng gặp bế tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai thông nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đem lại cho đau khổ và cái chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi đát của con người. Thân phận con người cũng như hạt giống phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một mùa màng lớn lao tức là ơn cứu độ muôn dân. Người chính là hạt giống Thiên Chúa gieo xuống trần gian. Cát bụi trần gian đã vùi lấp con người nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ trỗi dậy, vươn cao như bầu trời, đem niềm hi vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12:23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hi lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26). Thầy leo lên khổ giá, môn đệ không thể đứng dưới nhìn lên như khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá, Thầy sẽ trở thành một sức mạnh thu hút tất cả môn đệ lên theo. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Nghĩa là “Người sẽ kéo các tín hữu đi theo Người lên thập giá bằng cách để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu bách hại như Người” (Thánh Kinh Tân Ước 1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống trần gian cho môn đệ. Nếu muốn tiếp tục làm môn đệ Thày, họ không thể không biết đến thang giá trị giữa sự sống trần gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ: “Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Tại sao phải hi sinh tới mức đó? Hi sinh như thế có thực tế không? Theo Thầy làm gì cho khổ? Phục vụ Thày có được lợi gì đâu?
Nhưng Đức Giêsu nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy” (Ga 12,26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, tức là bước vào vinh quang, sẽ chiếm được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Đó là điều quả quyết: “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy” (Ga 12,26). Còn gì giá trị hơn tình yêu của Chúa Cha? Đó là nguồn suối duy nhất phát sinh mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc. Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Đức Giêsu đã nhận được tất cả sức mạnh để xông vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh đến nỗi “giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12,31).
Dù sao, trong tình thế hiện tại, Đức Giêsu cũng vẫn là con người. Đứng trước cái chết, Thầy cũng cảm thấy luống cuống. “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12,27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối thoát. Thày thấy chóng mặt, quay cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một tia sáng bừng lên dẫn theo một tiếng nổ long trời (Ga 12,29). “Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’ (Ga 12,28). Đó là tiếng Chúa Cha trả lời tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28), một sự vâng phục dẫn Đức Giêsu vào màn đêm tăm tối của đau khổ. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 8-9). Nhưng chính lúc đất trời nối liền, quyền lực âm phủ tiêu tan. “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này” (Ga 12,31), một cuộc phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của ác thần. Thật là khủng khiếp!
Đối với những ai vâng phục như Đức Giêsu, không hề có phán xét. Trái lại một giao ước mới, giao ước tình thương sẽ được thiết lập (Gr 31,31). Họ sẽ nghe những lời âu yếm: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,33). Như thế một tương quan mới đã được thiết lập. “Chính nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của Đức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân Chúa đã bước vào một tương quan mới” (Disciples in Mission 1999:22) với Thiên Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Đức Giêsu quả thật như “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới thực tế đau buồn, Đức Giêsu đã trỗi dậy, “đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ và cái chết, vì qua đó, Người đã đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Disciples in Mission 1999:23). Đó là một chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn hứng khởi cho nhân loại. Đức Giêsu là một hạt giống đã chết đi, sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24) là cộng đoàn các Kitô hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người, Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới cả một mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác, “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Thầy chính là năng lực, là ý nghĩa sau cùng của mọi nỗ lực thắng vượt đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau khổ vô nghĩa. Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa vì đó là một phương tiện để Đức Giêsu chứng tỏ tình yêu của Người với Chúa Cha và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều môn đệ Chúa Kitô biết lợi dụng những đau khổ như là con đường đi tới vinh quang. Dù phải vào tù hay có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một lòng xả thân cho đồng loại. Họ là những người đang chiến đấu cho quyền làm người, đang âm thầm hi sinh cho những người nghèo, chăm sóc những người già, bệnh tật, những trẻ em mồ côi. Không có những gương hi sinh như thế, không biết nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó đang nỗ lực thiết lập nền tảng giao ước mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng “cơ hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật với Thiên Chúa” (xc. Gr 29,11; 32,38-40) (Life Application Study Bible 1991:1345). Họ đang học vâng lời như Đức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo hay trưởng thành như Đức Kitô. Nói khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền tảng trên Đức Kitô (Dt 8,6). Vâng lời như thế, họ sẽ thấy phải “từ bỏ luật lệ khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình làm trung tâm” (Life Application Study Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời phải là Thiên Chúa, Đấng giải thoát con người khỏi những ràng buộc của cái tôi cồng kềnh. Rời xa trung tâm đó, con người chìm vào những tham vọng ngông cuồng của văn hoá sự chết, “phủ nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng sự sống. Khi kinh tế thống trị, người ta đổ xô đi tìmnhững giải pháp dễ dãi như phá thai, chết êm dịu. “(Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03) Tự do không có nghĩa là buông thả. Trái lại, “tự do xây trên chân lý là nền tảng duy nhất bảo đảm xã hội dân chủ tự do. “Chân lý đó là Đức Kitô. Khi xây dựng trên nền tảng đó, “cộng đoàn và gia đình Công giáo chiếu sáng như những mẫu mực của cộng đoàn sự sống và tình yêu để canh tân nền văn hoá hiện đại. “(Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03)
32.Mùa gặt tươi tốt--Lm. Hồng Phúc
Với Phụng vụ hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời ca thán của tiên tri Giêremia, những lời não nuột thống thiết khi đạo quân Babylone bao vây Giêrusalem, dân Chúa lâm cảnh lưu đày. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa tình thương, giữa đêm tối vẫn lóe lên ánh sáng, giữa bao đổ vỡ thất vọng vẫn tái xuất niềm hy vọng. “Đây tới ngày Ta ký kết với dân Ta Giao ước mới, Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta… Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa. “Những lời ấy sẽ thực hiện nơi Chúa Giêsu khi Ngài đến cứu độ chúng ta, sẽ cho “chúng ta uống vào chén tân ước vĩnh cửu, chén máu của Ngài sẽ đổ ra cho chúng ta và nhiều người được tha tội.”
Trong Thư gửi Giáo đoàn Hebrô, niềm hy vọng ấy lại được nhắc lại cho nhóm giáo dân tiên khởi, cũng đang hoang mang run sợ khi nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Từng đoàn người bị phát lưu đi cùng đế quốc, sau biến cố năm 70 thành Giêrusalem bị bình địa, đền thờ bị phá hủy, “không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào. “Chúa Giêsu, Phaolô viết, “Mặc dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu và khi hoàn tất Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho những kẻ tùng phục Ngài. “Chúa đã đi qua con đường sự chết để vào chốn vinh quang và trở nên nguồn gốc ơn cứu độ cho chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu là câu hỏi ngàn đời, cho người Do thái, người ngoại bang cũng như cho chúng ta ngày nay hết thảy.
Hôm nay, Gioan cho biết có một nhóm người Hy lạp đến Giêrusalem trong dịp lễ Vượt qua, tìm cách được gặp Chúa. Họ là những người ngoại bang, nhưng lại có cảm tình với Do thái giáo. Họ đến nhờ hai vị Tông đồ Anrê và Philiphê, hai Tông đồ biết chút ít ngôn ngữ, giới thiệu để được gặp Chúa Giêsu. Gặp đây không phải là chỉ nhìn thấy, nhưng theo từ ngữ của Gioan muốn nói, là được thấu hiểu phần nào con người bí ẩn của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không đáp ứng trực tiếp điều họ mong muốn. Nhưng Ngài lại cho họ thấy giờ vinh quang của Ngài, giờ mà Ngài đi vào cuộc tử nạn, mọi người đều thấy. Và để giải thích, Ngài tự ví như hạt lúa gieo vào trong lòng đất, phải được mục nát đi, rồi mới vươn lên, sinh hoa kết quả. Thì xác thánh của Ngài cũng bị chôn vào mồ, rồi mới phục sinh sống lại trong vinh quang.
Theo từ ngữ Thánh Kinh, giờ là cuối điểm của một sứ mạng. “Giờ của người đàn bà” (Gio. 16,21) là giờ sinh đẻ, “Giờ của Chúa Giêsu” là giờ tử nạn vì là giờ Ngài hoàn tất sứ mạng cứu chuộc. Hình ảnh hạt lúa vùi xuống đất, bừng lên đầy nhựa sống là hình ảnh mầu nhiệm phục sinh thì mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng phục sinh. Chúng ta trong đời, có phải là hạt giống hứa hẹn một mùa gặt tươi tốt cho chính mình và cho kẻ khác không?
Gioan không tường thuật cuộc hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani, mồ hôi chan hoà lẫn máu. Nhưng đã nhìn thấy cuộc ấy diễn ra trong sân đền thờ. Chúa phán: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này? Nhưng chính vì thế mà con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha. “Và câu trả lời của Chúa Cha đã vang vọng như trong khi Ngài vừa chịu phép rửa và khi Ngài biến hình. Dân chúng xao xuyến. Nhưng Chúa giải thích: “Bây giờ là lúc thế gian bị xét xử… Còn Ta khi bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta.”
Cây Thánh giá sẽ được tôn vinh, sẽ làm dụng cụ cứu rỗi nhân loại.
Thánh Phanxicô Xaviê khi rao giảng cho dân chúng luôn luôn cầm trong tay một cây Thánh giá lớn. Một hôm đang giảng cho dân từng từng lớp lớp đứng trên bãi biển, mệt quá cây Thập giá rời khỏi tay và rơi tỏm xuống biển. Ngài buồn rầu cầu nguyện. Thì bỗng nhưng có một con cua từ dưới biển bò lên, hai càng gậm cây Thánh giá. Ngài vui mừng cám tạ ơn Chúa. Vị Thánh Quan Thầy xứ truyền giáo ấy đã rửa tội gần một triệu người.
“Tôi mong đợi Chúa, vì Chúa giàu ơn cứu độ
Và giải thoát Israel khỏi mọi gian ác” (Tv. 129 – Đáp ca)
33.Giao Ước và những ràng buộc--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Ai phụng sự ta phải theo ta” (Ga 12,26)
Giao ước khác với hợp đồng. Khi ký hợp đồng, bản ký kết mang tính pháp lý, trói buộc đôi bên vào những nghĩa vụ và quyền lợi. Nếu hợp đồng xuôi thuận, cả hai bên đều có lợi. Nhưng sự cam kết này không mang tính cá nhân riêng lẻ, vì đã được luật pháp công khai bảo hộ. Tôi đã từng ký hợp đồng vay tiền mua xe mà không hề gặp mặt trực tiếp nhân viên ngân hàng. Tôi cũng ký nhiều hợp đồng khác để thuê nhà, nhưng chưa hề giáp mặt với ông chủ của những ngôi nhà đó. Người ta không cần có mặt để ký hợp đồng, vì đã có luật lệ ràng buộc. Nhưng ký giao ước thì hoàn toàn khác, chuyện đó rất riêng tư. Nó chỉ dựa trên sự quen biết hay mối tương giao thân hữu mà thôi.
Khi Đức Chúa Giavê ký giao ước với dân Israel trên núi Sinai, dường như có vẻ rất riêng tư và thân tình. Môise đã lấy máu con vật sát tế để rảy trên dân chúng như một động thái của việc ký kết giao ước, và máu đó thanh tẩy dân chúng. Nhiều người trong dân đã hiểu việc đó, và lề luật được ban bố sẽ gắn kết đời sống họ với Đức Chúa Giavê (Tv 119).
Nhưng khi đọc lại sách các vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai, chúng ta thấy các thế hệ về sau, nhiều người trong Israel và cả các lãnh đạo tôn giáo đã dần quên giao ước ngày xưa và họ cũng chẳng bao giờ nhắc đến. Giao ước trên núi Sinai đã không còn hiệu lực để trói cột họ với Thiên Chúa nữa.
Đó là nội dung bài đọc thứ nhất trong phụng vụ hôm nay. Giêrêmia loan báo trước về một giao ước mới, hoàn toàn mới,sẽ được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Ngài, thay cho giao ước cũ. “Không giống như giao ước Ta đã ký kết với cha ông các ngươi, khi Ta cầm tay đưa dẫn họ thoát khỏi đất Ai Cập. Vì cha ông các ngươi đã xé bỏ giao ước, mặc dầu Ta là Chúa tể của họ”. Đức Chúa phán như thế. Còn giao ước mới thì khác. Thiên Chúa công bố “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của ta. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta”.
Giao ước mới này đi vào nội tâm một cách sâu xa hơn. Thiên Chúa khắc ghi giao ước vào tâm hồn, vào con tim của họ, và dân chúng sẽ nhận biết Chúa. Ezekiel và Isaia (Ez 16,59; 36,25; Is 55,3; 59,21; 61,8) cũng nói về giao ước mới, một giao ước diễn bày sự thông hiệp với Chúa, và Thần khí Chúa sẽ khơi dậy nguồn sáng mới trong tâm tư của dân Ngài.
Thánh Phaolô (xem 2Cor 3.5) và tác giả thơ Do Thái (xem 8,8) đều quy chiếu vào Đức Giêsu như là Đấng hiện thực tròn đầy lời hứa của giao ước mới này. Bài giảng trên núi của Đức Giêsu phản ánh lời mời gọi biến đổi nội tâm cách sâu xa, khác với giao ước cũ thời xưa. Khi Đức Giêsu công bố một cách chính thức bản giao ước mới trong bữa tiệc ly, chúng ta sẽ thấy rõ hơn chiều sâu và tính cách nội tâm hóa của giao ước mới. Lời tiên báo năm xưa về giao ước mới, phải rất lâu về sau mới trở thành hiện thực, xuyên qua Đức Giêsu, và cách thái thể hiện giao ước sẽ ngập tràn vinh quang ngời sáng vượt sức tưởng tượng của chúng ta.
Đối với các Kitô hữu, giao ước mới này vừa khai sáng vừa gợi mở ra những thách đố. Đức Giêsu và giao ước mới biểu thị cho lời công bố chung cuộc của Thiên Chúa và ơn cứu độ trường cửu. Sự thách đố này được gợi lên trong tâm khảm và cõi lòng chúng ta, vì giao ước được viết bằng chính máu cứu độ của Đấng Cứu thế. Tôi nhớ lại trong cuốn phim “Người chết đi lang thang” (The Dead Walking), có một mẩu đối thoại rất hay giữa hai nhân vật chính: Nữ tu Helen Prejean và tên tử tội Matthew Poncelet. Poncelet là một con người ngạo mạn, cố chấp không chịu sám hối và luôn tỏ ra hung tợn. Anh ta cũng biết mình là một tín hữu, đã gây nên tội ác, nhưng hắn đã nói với nữ tu Helene là hắn không sợ chết. Anh ta nói: “Giữa tôi và Thiên Chúa không có gì phải ầm ĩ. Tôi biết ông Giêsu đã chết trên Thập giá cho chúng tôi, và nếu tôi có phải ra trước tòa phán xét, thì ông Giêsu cũng sẽ ở đó để cứu tôi. Tôi chẳng cần sám hối làm gì. “Nữ tu Helene trả lời: “Anh Mattheu, không phải thế đâu. Ơn cứu độ không phải là một tấm vé phát không, tặng ban cho cả những ai không muốn đón nhận. Không phải vậy, Đức Giêsu đã phải trả giá rất đắt để đem ơn cứu độ cho chúng ta. Anh phải cộng tác, phải mở lòng ra để cộng tác và đón nhận, thì ơn cứu độ mới phát sinh hiệu quả cho anh. Đó là việc anh phải làm.”
Câu trả lời đó hướng chúng ta đến ý nghĩa của bài Tin mừng hôm nay. Khi gợi nhắc về mầu nhiệm Thập giá và chân tính đích thực của người môn đệ, Đức Giêsu nói với chúng ta “Qủa thật, nếu hạt lúa mỳ rơi xuống đất không chết đi, nó sẽ vẫn chỉ là hạt lúa. Nhưng nếu nó chết đi, nó thối đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác. Ai yêu sự sống mình sẽ mất nó. Ai phụng sự ta phải theo ta”.
Bản giao ước mới này phải đi vào cuộc sống chúng ta, trở nên một phần trong ta và biến đổi tâm hồn của ta. Đối với các Kitô hữu, chúng ta phải tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường Thập giá, để có thể bội thu trong mùa gặt, ngay trong cuộc sống hôm nay và cả trong cuộc sống mai sau. Ở đây, chúng ta thấy có một nghịch lý tương phản và đối xứng nhau: Bản giao ước mới là một quà tặng vô giá được trao ban một cách nhưng không, nhưng nó cũng đòi hỏi chúng ta phải trả giá, bằng việc chúng ta phải trao dâng tất cả, từ bỏ tất cả, như hạt giống mục thối trong lòng đất, để có thể chiếm hữu được món quà cao quý này.
34.Hạt lúa mì mục nát, trổ sinh hoa trái--Lm. Trần Bình Trọng
"Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12:24). Thoạt nghe, ta có thể cho rằng đó là lời phát biểu tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Chúa Giêsu không chỉ nói đến cái tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Cái luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm hôm nay ghi lại, Chúa cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến, xin cho được thoát khỏi chén đắng nghĩa là được thoát khỏi án tử hình. Tuy nhiên Người cũng cầu nguyện xin cho được vâng theo thánh ý Chúa Cha, tức là chấp nhận cái chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế cái giao ước cũ trên núi Si-nai, cái giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá, cũng không phải bằng máu chiên cừu, mà Môi-sen đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế đọc trong thánh lễ: "Đây là máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Theo thơ gửi tín hữu Do Thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của cái giao ước mới. Cái sứ điệp mà Đức Kitô đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Chúa Giêsu với tư cách là Thiên Chúa, không thể chịu đau khổ vá chịu chết. Chúa chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong cái thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Chúa cũng sống lại trong cái thân xác loài người của Ngưòi. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Để chia sẻ sự sống mới với Chúa Kitô, ta phải sẵn sàng chết đi với Người. Đó là trường hợp các vị tử đạo đã làm, nghĩa là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly là chết cho mình một nửa".
Theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả cái giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ vơi Chúa, cũng là chet đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, người ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2:11).
Theo cái định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Theo cái định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì cái liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luât kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
35.Hạt lúa mì mục nát đi, mới trổ sinh bông trái--Lm. Trần Bình Trọng
Danh tiếng Đức Giêsu lúc này đã phải vang dội như sóng bạc đầu, nhất là việc Người vừa làm cho ông Ladarô đã chết bốn ngày sống lại ở Bêtania cách Giêrusalem có hai dậm. Vì thế mà một số người hành huơng Hy lạp xin ông Phi-líp-phê, có tên Hy-lạp cho yết kiến Đức Giêsu, có lẽ với hi vọng được sự thông cảm của người cũng có tên Hy lạp. Ông Phi-líp-phê lại hỏi ý kiến ông An-rê cũng mang tên Hy-lạp. Nhóm người Hy lạp đây không phải là người Do thái nói tiếng Hy lạp, nhưng là người Hy lạp sống ở Do thái, đã phải nghe đồn thổi về việc Ladarô được Đức Giêsu cho sống lại (Ga 12,17). Trước khi đế quốc La mã thống trị Do thái, thì đế quốc Hy lạp đã đặt chân ở đây. Người Hy lạp được tiếng là chuộng triết học, kiến trúc và nghệ thuật. Có lẽ vì những lí do đó mà họ đến viếng thăm Đền thờ Giêrusalem với kiến trúc đồ sộ nguy nga và xin được gặp Đức Giêsu.
Dịp này các thượng tế và nhóm người Pharisêu đang tìm cách hạ sát Đức Giêsu vì họ sợ ảnh hưởng của Người. Phúc âm ghi lại, họ sợ thiên hạ theo ông ấy hết (Ga 12,19). Còn Đức Giêsu thì gián tiếp trả lời nhóm người Hy lạp khi bảo các môn đệ rằng: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24). Thoạt nghe, người ta cho rằng đó là lời phát biểu có tính cách tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Đức Giêsu không chỉ nói đến tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm còn ghi lại, Đức Giêsu cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến: Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha (Ga 12,27-28). Khi Giuđa phản đối việc bà Maria xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Đức Giêsu, Người cũng đã ám chỉ về cái chết của Người khi bảo cứ để bà yên, hầu giữ lại dầu thơm cho ngày mai táng Người (Ga 12,7). Đức Giêsu còn ám chỉ Người sẽ phải chết cách bị treo lên khỏi mặt đất (Ga 12,32), nghĩa là trên thánh giá.
Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế giao ước cũ trên núi Sinai, giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá và không phải bằng máu chiên cừu, mà Môsê đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế tuyên xưng trong thánh lễ: Đây là máu Tân Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Theo thư gửi tín hữu Do thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của giao ước mới (Dt 5,8-9).
Sứ điệp mà Đức Giêsu đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Và vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Xét theo bản tính Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết. Người chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Đức Giêsu cũng sống lại trong thân xác loài người của Người. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Theo định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Còn theo định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì mối liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luật kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
Để chia sẻ sự sống mới với Đức Kitô, ta phải đi theo tiến trình của kiếp sống con người: sinh lão bệnh tử. Trường hợp các vị tử đạo đã làm, là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Tuy nhiên rất ít người được phúc tử vì đạo. Đa số loài người trải qua cái chết tự nhiên. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly là chết cho mình một nửa" để nói lên sự mất mát về tình cảm và tinh thần.
Như vậy theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ với Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2,11).
Lời cầu nguyện xin cho được chết đi cho tội lỗi:
Lậy Chúa Giêsu! Chúng xin cảm tạ Chúa
đã đến thế gian, chấp nhận hi sinh thánh giá
để cứu chuộc tội lỗi loài người, gồm tội riêng con.
Xin cho con được sẵn sàng chết đi cho tội lỗi
và các thứ tính mê nết xấu
để con được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
36.Thuốc bất tử--Lm. Trịnh Ngọc Danh
Thời Chiến quốc, có một người đem dâng cho vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, đi ngang qua một viên quan canh cửa. Viên quan này hỏi:
- Vị thuốc này có ăn được không?
Người kia đáp:
- Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện đến tai vua. Vua truyền bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu:
- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc là có ăn được không. Người ấy bảo: “ăn được”, nên thần mới dám ăn. Như thế là thần vô tội mà lỗi là ở người dâng thuốc. Hơn nữa, người đem dâng thuốc nói là thuốc “ bất tử”, nghĩa là thuốc ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải chết; vậy là thuốc “tử” chứ đâu phải thuốc “bất tử”? Nhà vua giết thần, thực là oan uổng cho một người vô tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha chết cho viên quan.
Một khát vọng
Chẳng ai muốn chết, và ai cũng muốn sống lâu, sống trường thọ; nhưng oái ăm thay! chết lại là số kiếp của con người, ai cũng phải một lần đi qua kết cuộc ấy.
Sống được trên trăm tuổi đã là tuổi hiếm thấy trên thế gian; vì thế người ta mới ghi vào sổ kỷ lục những ai sống trên trăm tuổi: cụ già sống được 110 tuổi một tháng, đạt kỷ lục trường thọ hơn cụ già sống 110 tuổi 20 ngày! Càng về cuối đời, người ta không tính sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng nhưng tính hơn nhau từng ngày. Sống lâu trường thọ đến thế là một điều khâm phục, một niềm tự hào. Thọ là một trong ba nguyện ước con người thường cầu chúc cho nhau: Phúc- Lộc- Thọ.
Những mỹ phẩm mà người ta rao bán: làm trẻ mãi không già, thực ra chỉ có thể che lấp đi được những nếp nhăn nheo cằn cỗi trên thân xác, nhưng không thể níu kéo hay xoá đi tuổi già của thời gian. Và giả như ai đó phát minh ra được một thứ thuốc kéo dài tuổi thọ đến 100 hay 200 năm, chắc chắn người ấy sẽ trở thành nhà tỷ tỷ phú, và nếu chế được một thứ thuốc trường sinh bất tử thì chắc người ấy sẽ là người giàu nhất thế giới.
Thế mới biết: làm sao cho được “trẻ mãi không già”, được “sống lâu, bất tử” là khát vọng, nhưng đồng thời cũng là tuyệt vọng của con người.
Muốn sống, phải chết
Người đời bảo: chết là hết; thế mà có một người dám quả quyết: muốn sống, phải chết đi để được sống mà không phải sống trường thọ 2,3 trăm năm mà sống bất tử, sống đời đời: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. Người ấy là Chúa Giêsu.
Nhưng chết bằng cách nào? Là tự tử? Là hủy hại thân thể? Không. Chết là “thối đi”, là “ghét sự sống ở đời này”; đó là cái chết cho những tiêu cực nơi tâm hồn.
Như thế, chết là hãm mình trước những cám dỗ của dục vọng, của ý riêng, là vượt thắng 7 mối tội đầu, là hy sinh vì 10 điều răn Chúa dạy, là từ bỏ những gì không thuộc ý muốn của Thiên Chúa; vì “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái nghịch với Thần Khí; còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái nghịch với xác thịt… Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ; đó là dâm bôn, ô uế, phóng đảng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những việc khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ”. (Gl 5, 17.19-20.22-23)
Chết là canh tân đổi mới, là cải thiện tâm hồn, là thay đổi não trạng, thay đổi cách suy nghĩ sao cho hợp với thánh ý của Thiên Chúa: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng các đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm. 12,2)
Chết là chấp nhận hy sinh, chịu “thối đi” nơi con người thể xác để cho hạt giống đức tin và Tin Mừng có điều kiện nẩy sinh và mang lại nhiều hoa trái cho người và cho đời.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ờ đời này”, là người gạt bỏ sự siêu nhiên ra khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không còn tìm thánh ý Chúa, không còn hành động cho sáng danh Chúa; là cho rằng hy sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp lý, có lợi cho bản thân.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ở đời này” là người chỉ xem hạnh phúc trần thế là cứu cánh của cuộc sống; là người vẫn dự lễ, đọc kinh tối sáng, vẫn làm những công việc bác ái, nhưng cuộc sống của họ lại xa lạ với Tin Mừng. Trọng tâm của cuộc đời của họ là quyền hành, lạc thú, tiền của. Bạn hữu của họ là những người giàu sang quyền thế, ngay cả những kẻ bóc lột, tham nhũng… Họ không nghĩ đến đời sau, bình thản như thể họ sẽ sống muôn đời trên cõi đời này và thiên đàng đối với họ là trần gian.
Đó là những hạt giống không chịu “thối đi”, không chịu mục nát, những hạt giống “sống trơ trọi một mình”, nên không “sinh nhiều bông trái” cho đời, cho người, không manh ích lợi gì cho ai và như thế, cuộc sống của họ “sẽ mất”.
Thuốc bất tử
Phương thuốc bất tử mà Chúa Giêsu muốn mang đến cho con người là: sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Trước tiên, phải sám hối, chịu “thối đi”, chịu “mất mạng sống mình” mới chỉ là những thứ chúng ta phải kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm mình như người mắc bệnh tiểu đường phải kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng ăn mặn.
Kế tiếp, là tin vào Tin Mừng như lời Chúa đã phán: “Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ cõi chết mà qua cõi sống”. (Ga. 5,24); hay “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời”. (Ga. 6,55)
Tóm lại, bài thuốc bất tử mà Chúa muốn ban cho chúng ta là Thập gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại được nhìn lên Ngài và được sống.
Hạt lúa phải chịu nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc tư nạn đau thương để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ, đồng thời trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thập giá đã trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống đời đời cho chúng ta.
Cách thức để đi đến chiến thắng vinh quang lại là cách thức đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian.
Đáp lời kêu gọi của Thầy Chí Thánh: “Hãy đến mà xem”, “Hãy theo Ta”, chúng ta đã “đến mà xem”, đã “theo Thầy”, nhưng còn một điều kiện nữa để được sống bất tử là “vác thánh gía mình mà theo Thầy”, không biết chúng ta đã thực hiện điều kiện ấy chưa! đã chịu “thối đi”, đã “ghét mạng sống mình” được bao nhiêu!
37.Hạt lúa mì--Lm. Phạm Quốc Hưng
Thập giá là hình ảnh được dùng nhiều hơn cả để nhắc chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu và tình yêu hy sinh tận tuyệt của Người, cũng như tinh thần mỗi Kitô hữu phải có trong đời sống của mình. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh khác, dù rất đơn sơ bé nhỏ gần gũi nhưng lại giàu ý nghĩa, để diễn tả tâm tư và lối sống của Người. Chúa Giêsu còn chỉ ra đó tất cả một bí quyết hay một quy luật căn bản mà mỗi Kitô hữu phải theo để trở nên giống Người, để đạt đến ơn cứu độ và vinh quang đích thực.
Đó là hình ảnh hạt lúa mì.
Người nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25). Chúa Giêsu nói những lời này khi Người sắp bước vào Cuộc Thương Khó. Thật thích hợp khi Giáo Hội cho chúng ta được nghe những lời này một tuần trước Chúa Nhật Thương Khó.
Thánh Sử Gioan chia Tin Mừng của người thành hai phần: sách các dấu chỉ và sách vinh quang. Phần sách các dấu chỉ thuật lại các phép lạ của Chúa Giêsu, và phần sách vinh quang thuật về Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thánh nhân muốn cho mọi người nhận biết rất rõ rằng: với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu, vinh quang đích thực được thể hiện nơi tình yêu hy sinh phục vụ, tình yêu xả kỷ vị tha, tình yêu thí mạng vì người mình yêu. Và chỉ có tình yêu này mới đem lại sự sống thật, sự sống thần linh, sự sống đời đời.
Đây là một quan niệm khác hẳn lối suy tư tự nhiên của con người. Thật vậy, con người tự nhiên bao giờ cũng sống theo bản năng sinh tồn của mình. Với ảnh hưởng của tội tổ, con người nhiều khi sống theo bản năng rừng rú của mình, sống theo luật rừng: mạnh được yếu thua, mạnh dùng sức yếu dùng mưu, miễn sao đem lại ích lợi cho bản thân mình, miễn sao làm cho mình được sống sung sướng, giàu sang, quyền lực, bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp thiệt thòi của người khác.
Đây cũng là một quan niệm đi ngược với sự trông mong của người Do thái về “Con Người”, về Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia. Họ nghĩ Đấng Mêsia phải là một lãnh tụ chính trị đầy tài năng và quyền uy, và dùng tài năng và quyền uy của mình để đánh đuổi ngoại bang, chinh phục các dân tộc lân bang, đem lại vẻ vang cho dân tộc được tuyển chọn.
Trong Tin Mừng Gioan, mầu nhiệm nhập thể được đặt làm nền tảng cho toàn bộ công cuộc cứu độ. Sự hiệp nhất giữa thần tính và nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể được diễn tả cách tuyệt vời: Cuộc Khổ Nạn với bao đau thương nhục nhã của Thập Giá bao giờ cũng gắn liền với Cuộc Phục Sinh đầy ánh sáng vinh quang. Vì vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, thì cũng là lúc Người bắt đầu bước vào Vinh Quang hay bắt đầu bày tỏ vinh quang đích thực của Người.
Với Chúa Giêsu, giờ của Chúa là giờ của Cuộc Thương Khó, giây phút vinh quang là giây phút chịu khổ nạn trên thập giá. Với thế gian, thập giá là hình cụ ghê sợ và nhục nhã nhất để trừng phạt những người tử tội. Chúa Giêsu đã biến thập giá thành Thánh Giá, và Thập Giá của Chúa Giêsu chính là Ngôi Báu của Người. Điều này đã được xác định khi Chúa Quan Phòng định cho Philatô ghi trên thập giá hàng chữ: “Giêsu Nazareth-Vua Dân Do Thái”. Giây phút Chúa Giêsu được treo trên thập giá là giây phút Người bước lên Ngôi Báu của Người.
Không phải Chúa Giêsu chỉ chịu đau khổ vì yêu thương khi bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, nhưng đó luôn là đặc nét chính trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tác giả Thư gửi tín hữu Do thái trong bài đọc hai đã xác định điều này trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay: “Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người đã chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai vâng phục Người” (Dt 5:7-9).
Thánh Anphong Liguori thuật rằng có một nữ tu đau đớn bệnh tật rất nhiều năm. Một hôm đau đớn quá, Chị kêu trách Chúa Giêsu: “Xưa Chúa chỉ phải vác thánh giá và hấp hối mấy giờ trên thánh giá, nay sao Chúa để con đau đớn lâu năm thế?” Chúa Giêsu liền hiện ra quở trách Chị: “Con nói sao? Cha chỉ có đau khổ ít giờ mà thôi ư? Cha đã bắt đầu đau khổ từ giây phút nhập thể!” Thánh nhân nói rằng vì có linh hồn hoàn bị, Chúa Giêsu từ giây phút nhập thể đã nhìn thấy và cảm nhận trước nơi linh hồn Người những đau khổ Người sẽ phải chịu trên thân xác sau này.
Vì vậy, Đức Cha Fulton J Sheen hay nói mọi người sinh ra trên đời để sống, nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa và là Sự Sống Đời Đời sinh ra trên trần gian để chịu đau khổ và chịu chết để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Vì vậy, cả đời Chúa Giêsu đều hướng về Đồi Canvê, đều hướng về Thánh Giá. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Đức Cha còn xác quyết rằng bài giảng nào càng hướng về Thập Giá bài giảng ấy càng có tính thần thiêng.
Liền sau khi nói về quy luật chết để sống, mất để được, Chúa Giêsu liền nói về thân phận của những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Người: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga 12,26). Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy các môn đệ đích thực của Người, những ai thực sự phụng sự Người, phải là những người cùng bước theo Người trên con đường thập giá, là con đường chính Người đã đi trước. Và chỉ có những người này, những người cùng ở trên thập giá với Người, mới được cùng ở với Người trên Nước Trời để chia sẻ vinh quang đích thực vì cùng được Chúa Cha tôn vinh.
Chính Thánh Thể nơi Bánh Thánh và Rượu Thánh-trung tâm đời sống Công giáo cũng không ngừng nhắc chúng ta về quy luật thần thiêng này. Để trở nên tấm bánh, những hạt lúa mì phải chấp nhận chịu nghiền tán và hòa trộn với nước rồi chịu nướng trong lò lửa. Để hóa thành rượu nho, những trái nho chín phải chịu vắt trong bồn đạp nho và trải qua thời lên men. Vì vậy, cùng với cầu nguyện, việc hy sinh hãm mình là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống Kitô hữu. Một trong những lý do chính đem lại sự suy đồi trong đời sống đức tin của nhiều tín hữu ngày nay là sự khước từ sự khôn ngoan của thập giá, sự chối bỏ tinh thần hy sinh hãm mình và vâng phục.
Bài thánh ca “Thân Lúa Miến” của Mi Trầm được dùng trong phần tiến lễ có giá trị tuyệt vời vì nhắc nhớ chúng ta về lý tưởng hy sinh bác ái, xả kỷ vị tha của đời người Công giáo đích thực.
Thánh Giuse-Maria Escriva đã giúp chúng ta sống Tin Mừng hôm nay với những lời sau: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó không sinh hoa trái. Bạn có muốn trở thành hạt lúa miến phải chết đi bằng những hy sinh hãm mình, để đem lại một mùa lúa phong phú không? Xin Chúa Giêsu chúc lành cho ruộng lúa của bạn”.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, trở nên như hạt lúa mì, chết đi cho ý riêng và những đam mê trần thế, để sống cho Chúa và tha nhân qua việc quảng đại hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ. Amen.
38.Theo Chúa trở nên hạt lúa--MINH HỌA LỜI CHÚA--HN sưu tầm--thanhlinh.net
1. Cái chết được nối dài
Ngày 30 tháng 4 năm 1938, một chuyến xe lửa chạy từ miền bắc xuống miền nam Columbia bất ngờ bị trật đường rầy, làm nhiều người chết và bị thương.
Trong số những người quằn quại nằm đó, có Cha Phênisê thuộc dòng Thánh Gioan. Ngài bị thương nặng, một phần ruột lòi ra ngoài.
Nhận ra Cha, các y tá đã ân cần chăm sóc. Nhưng Ngài ra hiệu cứ đi lo cứu giúp các nạn nhân khác. Rồi lấy hết sức bình sinh, ngài nhét ruột bào, dùng khăn buộc ại và đi tìm những hành khách Công giáo đang bị thương nặng để giải tội cho họ. Được một lúc ngài té xuống. Các y tá chạy lại. Ngài thều thào nói trong đau đớn:
“Cám ơn Chúa đã cho tôi có thời giờ làm những điều cần thiết cho anh em. Bây giờ các cô có thể mang xác tôi đi”.
Chiếc xe cứu thương vội chở cha tới bệnh viện gần đó, nhưng chỉ vài giờ sau Ngài đã trút hơi thở cuối cùng, khi tuổi đời mới ba mươi sáu.
***
Tình yêu và cái chết của Cha Phênisê là một trong muôn vàn tấm gương sáng chói của tình yêu cao cả mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng con người.
Cái chết ấy chỉ là nối dài hay đúng hơn là một thể hiện của một cái chết đã trở thành linh hồn của Kitô giáo. Đó là cái chết của Đức Kitô, Đấng đã tự nguyện chết thay cho nhân loại, để nhờ đó nhân loại được cứu sống…
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai quý mạng sống mình thì sẽ mất: còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga,12,24-25).
Đó là ý nghĩa đặc biệt và cũng là chương trình hành động của người Kitô hữu trong mùa chay. (Trích “Như lòng Chúa khoan dung”).
2. Đau khổ sinh ích cho tôi
Thi sĩ người Anh tên Francis Thompson đã viết:
“Không có gì bắt đầu và kết thúc mà không phải trả giá bằng đau khổ. Vì chúng ta được sinh ra trong đau khổ của kẻ khác và chết trong đau khổ của mình”.
Nhiều người kêu trách Thiên Chúa vì đã để cho đau khổ xảy ra trên trái đất. Tuy nhiên theo Kinh thánh, đau khổ bắt đầu từ tội lỗi đầu tiên của ông bà nguyên tổ. Chính đau khổ do tội lỗi này, Chúa Giêsu đã chấp nhận chết trên thánh giá, để cứu rỗi nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm.8,28).
Đau khổ nào sinh ích cho tôi cuộc sống? (Trích “Viễn tượng 2000”)
“Chúa Giêsu không đến để khử trừ đau khổ, nhưng để đổ đầy nó bằng sự hiện diện của Người” (Paul Claudel).
3. Hạt lúa có chết đi
Mấy năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết bài báo nhan đề: “Khi chúng ta dám tin vào Thiên Chúa”. Trong đó bà thuật lại lúc bà bị bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng, nằm liệt giường suốt 6 tháng trời, không ăn uống gì được. Bà chạy thầy chữa thuốc hết cách và nhờ nhiều người cầu nguyện, mà bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Giữa lúc đó, có người tặng bà tập sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo mắc một chứng bệnh suốt 8 năm trường. Ngày ngày ngoài ra việc chữa trị, chị cầu xin Chúa cho chị khỏe lại để giúp việc Chúa. Một hôm chị khóc với Chúa: “Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi. Nhưng nếu Chúa muốn con tàn phế, con xin vâng theo thánh ý Chúa…” Vài tuần sau chị đượng bình phục.
Bà Catherine từ đó noi gương chị nữ tu, hằng ngày cầu nguyện: “Lạy Chúa, con mệt mỏi quá rồi! Nhưng con xin vâng theo thánh ý Chúa…” Và sức khỏe bà bắt đầu hồi phục.
***
Câu chuyện của nữ tu truyền giáo và của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu Lời Chúa trong Tim mừng Chúa nhật hôm nay: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó chẳng đem lại hoa trái nào”. Nếu chúng ta không chết cho ý riêng mình, chúng ta cũng chẳng sinh được bông trái…”
Câu chuyện đó cũng nhắc chúng ta nhớ câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu khi Người cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc.22,42), nhờ đó mà chúng ta được cứu rỗi, được sống muôn đời…
Nếu muốn sống và trổ sinh bông trái, chúng ta phải bắt ý riêng chết đi như hạt lúa để sinh được bông trái là hạnh phúc phần xác và cuộc sống vĩnh cửu phần hồn.
Phải chăng đó là điều Chúa mời gọi chúng ta thực hiện trong Mùa Chay. (Theo “Sunday Homilies”).
4. Hạt giống gieo vào lòng đất
Bà và cô cháu gái dang phân loại hạt giống, chuẩn bị cho vụ mùa tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt giống trong tay:
- Những mong đợi nhỏ bé và mong manh phải không bà? Có phải mỗi hạt là một niềm hy vọng không?
- Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có những điều kiện để đi tới thành đạt.
***
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi đau khổ, được sức mạnh khi thử thách, được ánh sáng cho những ngày đen tối. Nhưng chúng ta phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới mưa nắng, thì khả năng tốt đẹp của nó mới thành hiện thực. (Trích “Minh họa Lời Chúa)
Hạt giống gieo xuống đất phải thúi đi mới sinh nhiều bông hạt.
Apraham tin Chúa đem sát tế con một, được Chúa cứu sống con ông và được ban phát tràn đầy, cho dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển.
Chúa Giêsu chịu sát tế trên Thập giá, bao nhiêu người được cứu độ.
Mùa Chay là mùa chết cho tội lỗi, để được sống lại nên người mới, người hoàn hảo hơn, xứng đáng làm người con Chúa hơn.
5. Ai là hạt lúa?
Sau khi lật đổ đươc nhà độc tài là tổng thống Marcos nước Phi-luật-Tân, dân chúng lũ lượt kéo nhau đi xem dinh tổng thống, nơi mà hai ông bà Marcos đã sống đế vương hơn 20 năm. Mọi người đã dở khóc dở cười sau khi tận mắt nhìn thấy cảnh giàu sang sung sướng của cặp vợ chồng bạo chúa. Nhiều người bưng mặt khóc sướt mướt khi đứng trước cuộc sống xa xỉ của ông bà Marcos, trong khi biết bao người phải đói khát,, không cửa không nhà, không đủ cơm ăn áo mặc!...
***
Giàu sang tự nó không phải là một tội. Nhưng làm giàu trên xương máu của người khác đúng là một tội ác tầy trời. Thay vì mình phải hy sinh làm hạt lúa thúi đi để trổ sinh nhiều bông hạt nuôi sống tha nhân, thì lại bắt đồng bào mình phải làm hạt lúa chết đi để bản thân mình được sống giàu sang xa xỉ.
Muốn trở nên Bánh Sự Sống cho nhân loại, Chúa Giêsu đã phải nghiền nát. Chúng ta ăn bánh sự sống đó mà không biết hy sinh cho anh chị em chúng ta sao? Chúng ta đã nhận lãnh Bánh Tình yêu, nhưng lại không muốn chia sẻ tình yêu với anh chị em chúng ta sao?
Mùa Chay, Chúa mời gọi chúng ta noi gương Chúa trở nên hạt giống thúi đi, để đem lại bông trái cho anh chị em chúng ta được hưởng.
(Theo “Tất cả là hồng ân”).
1) SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ BẠN TÙ ĐƯỢC SỐNG
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.
2) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ VÔ CẢM:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình... Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!". Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy. “Điều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
39.Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt--Lm. Vũ Thái Hoà
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!" (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho "được gặp ông Giêsu".
Chúa Giêsu trả lời họ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" Giờ vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức Giêsu không màng tới mấy người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người muốn trả lời với họ một cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là qua cuộc Thương Khó của Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân tộc trên thế giới "được gặp Đức Giêsu", được lãnh ơn cứu độ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. “Đức Giêsu chính là hạt lúa gieo xuống đất: nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn thể nhân loại được cứu độ. Đức Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng quan trọng hơn nữa, chính qua sự chết, Người ban sự sống: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Nếu trước đó tội lỗi và sự chết lôi kéo con người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi kéo mọi người lên và ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở thành như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt. Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của chúng ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán... Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của Đức Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).
Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót Người: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy". Theo Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay cả đến việc hy sinh mạng sống của mình vì Đức Kitô.
Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa: biết hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái hơn với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.
40.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người được bắt đầu từ lúc nào?
Tại sao Chúa Giêsu không trả lời?
Nếu các bài Phúc Âm ba Chúa Nhật Mùa Chay trước Chúa Nhật Thương Khó hay Chúa Nhật Lễ Lá, như đã nhận định ở hai bài suy niệm Chúa Nhật 3 và 4 trước đây, có một ý nghĩa đặc biệt liên hệ với nhau, chẳng những ở từng chu kỳ mà còn ở cả ba chu kỳ với nhau nữa. Riêng chu kỳ Năm B này, chúng ta thấy các bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan được Giáo Hội chọn rất hợp với những gì Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua bao gồm ba phần khổ nạn, tử giá và phục sinh (x Mk 8:31, 9:31, nhất là 10:34). Trước hết, về phần khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đã xác nhận ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 3, khi Người thách dân Do Thái “hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”. Qua câu tiên báo này, dĩ nhiên Chúa Giêsu cố ý nói đến cuộc Vượt Qua của Người nói chung, thế nhưng, nếu so sánh với những gì Người sẽ tỏ cho biết thêm ở hai bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 và 5, Người cũng có ý nói đến riêng việc thân xác Người sẽ bị hành hạ bởi đòn vọt, nhục nhã v.v. Sau nữa, về phần tử giá, Chúa Giêsu báo trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 4, khi Người cho Nicôđêmô biết rằng Người sẽ bị đóng đanh vào thập tự giá: “Moisen treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy”. Sau hết, về phần phục sinh, Chúa Giêsu cũng bóng bẩy nói đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 5 tuần này, khi Người nói với các môn đệ của Người về hình ảnh hạt lúc miến mục nát đi để sinh muôn vàn hoa trái, ở chỗ, Người chiến thắng quyền lực của tên vương chủ thế gian và làm cho con người tin tưởng nhận biết Người, như Người cho biết ở đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm.
Thế nhưng, để làm cho nhân loại nhận biết Người, tức để làm cho cuộc Vượt Qua của Người như hạt lúa miến mục nát đi trổ sinh hoa trái, Người cần đến những chứng nhân, thành phần sẽ được Người ban cho Thánh Linh và sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật tới tận cùng trái đất (x Jn 20:22; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã liên kết số phận của thành phần môn đệ chứng nhân của Người với chính thân phận hy sinh và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Đúng thế, nếu bài Phúc Âm tuần thứ 3 Chúa Giêsu nói với chung dân Do Thái (thành phần sau này vu oan cho Người để Hội Đồng Do Thái viện cớ sát hại Người – Mt 26:61) về việc khổ nạn của Người, và nếu bài Phúc Âm tuần thứ 4 Người nói với Nicôđêmô (nhân vật sau này sẽ giúp vào việc táng liệm Người trong mồ đá – Jn 19:39) về việc tử giá của Người, thì bài Phúc Âm tuần thứ 5 tuần này Người nói với các môn đệ (thành phần được kêu gọi làm chứng nhân cho Người – Jn 15:27) về việc phục sinh sau khi Người trải qua khổ nạn và tử giá. Chúa Giêsu quả thực đã liên kết thân phận của các môn đệ với thân phận của Người trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ, ngay sau khi nói đến thân phận của Người như hạt lúa miến là thân xác của Người được gieo xuống và mục nát đi ở mảnh đất Do Thái, Người liền nói ngay đến nguyên tắc chung để có thể theo Người, theo một Đấng Vượt Qua, đó là: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình trên thế gian này thì giữ được nó cho sự sống trường sinh”. Sau đó, Người áp dụng nguyên tắc hay Đường Lối Vượt Qua này vào trường hợp môn đệ của Người, vì bấy giờ Người đang nói với các vị: “Ai phụng sự Thày thì hãy theo Thày, để Thày ở đâu, thì tôi tớ của Thày cũng ở đó”. Vấn đề “ở đâu” của Chúa Giêsu và “ở đó” của những ai theo Người, phục vụ Người đây, theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, thì còn chỗ nào khác ngoài trên cây thập giá và trong mồ đá: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4); “Tôi tớ không hơn chủ của mình. Họ sẽ bắt bớ các con như đã bắt bớ Thày” (Jn 15:20). Tuy nhiên, chính nhờ thân phận trò hoàn toàn giống Thày như thế mà thế gian mới nhận biết Thày nơi họ, nơi chứng từ đẫm máu của họ.
Phải chăng đó là lý do, khi các môn đệ (Philip và Anrê) đến trình với Chúa Giêsu về điều các người Hy Lạp muốn xin được gặp Người, Người đã không trả lời với họ qua hai môn đệ này dứt khoát là Người có muốn gặp những người dân ngoại ấy hay không, mà lại lợi dụng dịp ấy để nói với các môn đệ về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua sẽ được thành phần môn đệ của Người, thành phần tôi tớ phục vụ Người, tham dự (x Jn 13:8;13:36;14:3), điển hình nhất là trường hợp của tông đồ Phêrô như được Người cho biết trước bên bờ hồ Tibêria (x Jn 21:18). Qua thái độ và lời lẽ của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cảm thấy hình như Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ là Người thực sự và hết sức muốn gặp gỡ thành phần dân ngoại, thành phần chưa hề biết Người, nhưng Người sẽ không trực tiếp gặp họ, như Người vốn trực tiếp gặp gỡ dân Do Thái của Người với tư cách là một Đức Kitô Thiên Sai theo như những gì đã được Thánh Kinh của dân tộc này nói tới, mà là gián tiếp qua các môn đệ, thành phần chứng nhân của Người, thành phần có khả năng dẫn loài người đến với Người, đến gặp Người bằng đức tin của họ. Và, nếu cuộc tử nạn của Chúa Giêsu như hạt lúa miến mục nát đi sinh nhiều hoa trái thế nào, thành phần môn đệ chứng nhân của Người cũng thế, cũng trổ sinh hoa trái nơi việc tái sinh các linh hồn như vậy. “Ai phục vụ Thày sẽ được Cha tôn vinh” là ở chỗ này, như lời Chúa Giêsu nói tới trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi Người nói đến việc Thày trò cùng ở một nơi, chịu chung số phận Vượt Qua.
Tuy nhiên, tại sao ngay sau khi nói câu ấy, tức sau khi nói về thân phận Vượt Qua của cả Thày lẫn trò, Chúa Giêsu liền thảm não than lên: “Giờ đây linh hồn Thày bối rối chẳng biết phải nói sao – Chẳng lẽ Cha ơi, xin hãy cứu Con khỏi giờ này? Thế nhưng, cũng chính vì giờ này mà Con đã đến. Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha!”. Phải chăng, như trong Vườn Cây Dầu Người đã đau buồn đến nỗi chết được, đến nỗi xuất mồ hôi máu vì nghĩ đến thành phần hư đi thế nào, thì ở đây, vào lúc ấy, Chúa Giêsu nghĩ đến một tông đồ Giuđa vô cùng đáng thương sẽ bị hư đi (x Jn 17:12), vì người tông đồ này chẳng những ra tay phản nộp Người mà còn tuyệt vọng tử tử (x Mt 27:5) bởi không tin tưởng vào lòng thương xót tha thứ vô biên bất tận của Người như tông đồ Phêrô (x Mt 26:75). Cái đau khổ tận cùng của Vị Thiên Chúa Làm Người ở đây đó là bị loài người phủ nhận tình yêu thương toàn thiện, nhưng không, tận tuyệt và vô đối của Người, ở chỗ, họ không tin rằng Người có thể yêu thương họ đến như thế, một tình yêu Người giành cho từng người một, và tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc duy nhất để mang về đàn của Người (x Lk 15:1-7). Thế nhưng, cũng như trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã chấp nhận uống cạn chén đắng vô cùng đau xót ấy.
Câu trả lời của Chúa Kitô là…
Như thế, nếu nỗi đớn đau vô cùng nhức nhối này cũng là những gì thuộc về cuộc Khổ Nạn hay Tử Giá của Con Thiên Chúa Làm Người, thì không phải cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người chỉ được bắt đầu từ khi Người bị bắt trong Vườn Cây Dầu (x Jn 18:12), mà là được bắt đầu ngay từ khi Lời Nhập Thể, ngay từ khi Thiên Chúa Làm Người để Người có thể, qua nhân tính của nhân loại, cảm thấy cái xót xa của mình bằng con tim nhân loại, khi bộ óc của Người nghĩ đến tương lai của thành phần hư đi, và bộc lộ cái chua xót của mình nơi môi miệng loài người “bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26; x Jn 12:27; Mk 14:36). Nói một cách chính xác và thực tế hơn nữa thì cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô được bắt đầu từ lần đầu tiên khi Người tiết lộ cho các môn đệ biết về Cuộc Vượt Qua của Người (x Mk 8:31), và được bắt đầu từ chính tâm hồn của Người, một tâm hồn đã bị quằn quại bởi những giây phút “buồn rầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), những giây phút “linh hồn Thày hiện nay bối rối chẳng biết phải nói làm sao”, như Người đã thú thực trong bài Phúc Âm hôm nay. Và Cuộc Vượt Qua đã xẩy ra trước tiên ngay trong tâm hồn của Người, khi Người mong cho ý Đấng đã sai Người được nên trọn, như Người đã ngoan ngoãn thân thưa với Cha Người trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha”, một thái độ Vượt Qua của Người Con đẹp lòng Cha đến nỗi, khi nghe thấy như vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, “bấy giờ từ trời có tiếng phán: ‘Cha đã tôn vinh danh Cha rồi và sẽ còn tôn vinh danh Cha nữa’”.
Thiên Chúa “tôn vinh danh” của Ngài đây nghĩa là gì và ra sao, nếu không phải Người muốn tỏ cho riêng dân Do Thái và chung loài người (mà đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có cả dân Do Thái và những người Hy Lạp dân ngoại) biết Ngài thực sự là gì và như thế nào, như Ngài đã mạc khải tên của Ngài cho Moisen biết ở bụi cây bốc lửa song không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), một danh xưng Ngài đã tỏ cho dân Do Thái biết tỏ tường qua cuộc vượt qua của họ, từ tình trạng họ bị làm tôi người Ai Cập cho tới khi vào Đất Hứa. Nếu danh Thiên Chúa là tất cả những gì diễn tả bản tính vô cùng chân thiện của Ngài, như Ngài đã từ từ tỏ ra cho dân Do Thái biết theo giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ cho đến khi Lời Nhập Thể là “hiện thân của bản thể Cha” (Heb 1:2) xuất hiện, thì việc Thiên Chúa tôn vinh danh Ngài đây, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, cũng chính là việc Ngài tôn vinh Con Ngài, như Con Ngài đã thân thưa với Ngài khi mở đầu Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: “Lạy Cha, giờ đã đến rồi! Xin Cha hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha được tôn vinh Cha” (Jn 17:1). Vậy nếu Thiên Chúa tôn vinh danh mình là tôn vinh Con Ngài như thế thì “Cha đã tôn vinh danh Cha rồi”, như trong bài Phúc Âm nói đên đây là lúc nào, nếu không phải là hai lần điển hình được các Phúc Âm Nhất Lãm kể lại, lần thứ nhất ở sông Dược Đăng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối bởi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (x Mk 1:11), và lần thứ hai ở trên núi biến hình (x Mk 9:7). Và “Cha sẽ còn tôn vinh nữa” đây sẽ là lúc nào và ra sao, nếu không phải lúc Cha làm cho Con sống lại từ trong kẻ chết (x Acts 2:24), làm cho Con trở thành “hoa trái đầu mùa của kẻ chết để Con được toàn quyền trong hết mọi sự” (Col 1:18; x Mt 28:18).
Vấn đề ở đây là tại sao Thiên Chúa cần phải tôn vinh danh Ngài? Theo bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cho biết đó là để cho con người biết: “Tiếng phán đó không phải vì Tôi mà là vì quí vị”. Bởi vì, có nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, qua Mạc Khải Thần Linh của Ngài nơi Cựu Ước cũng như Tân Ước, con người mới được sự sống trường sinh, mới được hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nhưng, để con người có thể nhận biết danh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này, Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cần phải “tỏ Cha ra” (Jn 1:18). Ở chỗ nào, nếu không phải bằng việc Người đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38), tức là “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), “để trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho những ai tín phục Người” như được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay xác tín (Heb 5:9), cũng là những gì chính Người đã khẳng định tiên báo ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”. “Tất cả mọi người” được Chúa Kitô Tử Giá “kéo lên” đây nghĩa là gì, nếu không phải là tất cả mọi người, dù là kẻ dữ, thành phần hư đi đời đời, đặc biệt trong ngày chung thẩm, đều nhìn nhận chân lý đã được Chúa Giêsu mạc khải cho Nicôđêmô trong bài Phúc Âm tuần trước, một chân lý cũng đã được Người chứng thực hùng hồn nhất và sống động nhất trên Thập Giá: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Con sẽ không bị chết song được sự sống đời đời. Thiên Chúa không sai Con Ngài đến để thế để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Con mà được cứu độ”.
41.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B được cấu trúc theo cùng một nét chung: ở giữa những nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy hy vọng.
Gr 31: 31-34
Khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và Đền Thờ bị thiêu hủy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: “Này sẽ đến ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại diễn ngữ nầy khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).
Dt 5: 7-9
Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cái chết của Ngài, “Đức Giê-su trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu” cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
Ga 12: 20-33
Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tỉnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)
Chúng ta thường nghĩ rằng thuật ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn: “Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn ngữ nầy vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, thuật ngữ nầy được gặp thấy rồi trong Cựu Ước. Thuật ngữ nầy xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một “Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn.
Kinh nghiệm nầy được hình thành qua hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời kỳ hưng phấn: cuộc cải cách của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách nầy, là triều đại của vua Mơ-na-se, vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.
1. Thời kỳ hạnh phúc:
Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta tìm thấy “sách Luật”. Có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn cốt yếu của sách này. Sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).
Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo triệt để: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ hội bộc phát trở lại. Chính vào thời điểm nầy mà những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự, nghi lễ, nhưng đã không thể biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không quên bài học nầy.
2. Thời kỳ bi thương:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa, không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề. Vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm nầy đã được ứng nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu sang Ba-by-lon; Đền Thờ bị thiêu hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ hai.
Qua tấn thảm kịch này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định của Thiên Chúa: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, thành thánh hoang tàn đổ nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá. Đây không phải là những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao? Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị thiêu hủy, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả khi diễn tả niềm hy vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Nầy sẽ đến những ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới”. Đây không còn là Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trong cuốn sách luật như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng “Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta”.
Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau nầy được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta nữa” (32: 39-40).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ người nhỏ đến người lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo nhau.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày tại Ba-by-lon cũng thoáng thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36: 26-27).
Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một cuộc sống trong Thần Khí rồi. Với tư cách là một người đạo hạnh thường hằng đối thoại với Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a xứng đáng được gọi là “cha của kinh nguyện”. Chính từ môi miệng của ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được loan báo.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)
“Thư gởi tín hữu Do thái” thật ra không là một “bức thư”, vì tác giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan đề: “thư gởi tín hữu Do thái”, xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).
Bức thư nầy được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt vời, vị Thượng Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu thượng tế.
Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu những cuộc bách hại và mang nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên biểu, bức thư nầy chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng tự Đền Thờ như đang hiện hành cách sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố nầy, vì biến cố này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.
Đoạn trích ngắn nầy diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch tính.
1. Kiếp sống phàm nhân (5: 7):
Qua những lời này: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (5: 7), chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện thống thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu của Ngài lên cùng Cha Ngài trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27: 46). Dù thế nào, tác giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận cùng những yếu đuối của chúng ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời Ngài” (5: 7), nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước. Để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.
2. Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9):
Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.
“Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (5: 8). Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư tưởng này vào Đức Ki-tô: “khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ” (5: 9). Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà Ngài tự nguyện chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tuyệt mức đem lại ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người anh em của nhân loại vừa Con Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái” nầy.
TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).
Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc lễ Vượt Qua sắp đến gần.
Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốn được gặp” Đức Giê-su (12: 21). Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp của niềm tin rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người Hy lạp nầy đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ.
Câu chuyện nầy thật cảm động. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm cho Ngài xao xuyến. Dù thánh Gioan không ghi lại nỗi xao xuyến của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi xao xuyến nầy.
1. Niềm tin của những người Hy-lạp:
Những người Hy-lạp nầy lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.
Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài. Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu độ phổ quát đã điểm.
2. Giờ của Đức Giê-su:
Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương dân, nay Ngài biết rằng giờ của họ đã đến, Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn nầy” (Ga 10: 15-16). Những chiên khác không thuộc ràn nầy, chính là những lương dân này, họ cầu xin được gặp Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (12: 23).
Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước hiệu nầy quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn nầy cho phép Đức Giê-su diễn tả tính siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm con người Ngài.
Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Sọ. Thật ra, việc tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và cuộc Thăng Thiên ngự bên hữu Chúa Cha, mà bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa được hiện thực. Chúa Giê-su diễn tả chân lý nầy bằng một sự so sánh rất giản dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12: 24).
3. Lời mời gọi theo Ngài:
Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9: 22-23). Chính đó là câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Hy-lạp mong ước được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12: 26). Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con đường với Ngài.
Viễn cảnh con đường đau khổ nầy làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút nầy, Đức Giê-su không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại ngay: “Chính giờ này mà con đã đến!” (12: 27). Thêm nữa, một tiếng phán từ trời đem lại nguồn an ủi cho Ngài.
4. Tiếng phán từ trời:
Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời (x. Ga 1: 31-34). Đoạn văn nầy là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (12: 28). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã tôn vinh Ngài qua bảy dấu lạ mà Đức Giê-su đã thực hiện, nay Chúa Cha sẽ còn tôn vinh Ngài hơn nữa qua dấu lạ cuối cùng vĩ đại nhất, đó là Thập Giá. Điều đó nói lên sự hiệp nhất vinh quang giữa Chúa Cha và Chúa Con trong công trình cứu độ loài người.
Đây là dấu lạ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là dấu lạ mà người Biệt Phái đã đòi hỏi nhưng bị từ chối (x. Mt 16: 1-4)? Đức Giê-su chỉ ban dấu lạ nầy vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định rồi.
5. Cuộc chiến thắng trên Xa-tan:
Ngay khi tâm hồn xao xuyến, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc ban đầu. Quả thật, ơn cứu độ mà Ngài đạt đến cho thế gian ở nơi Thập Giá sẽ đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ thoát khỏi quyền thống trị của sự Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng nầy: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Động từ “giương cao lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được nâng lên cao” vừa “được tôn vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được siêu thăng bên cạnh Chúa Cha. Theo cùng một cách thức như vậy, Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14-15) và với những lãnh đạo Do thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8: 28).
42.Dẫu là Con Thiên Chúa--Lm. Xuân Hy Vọng
Đối với xã hội con người, đặc biệt trong Nho giáo, vai trò và thứ bậc quan hệ: quân - sư - phụ (vua - thầy - cha [ba, bố]) được nhấn mạnh, thậm chí được truyền tụng đến tận ngày nay. Một điều theo lẽ thường tình, rằng: vua, con vua (hoàng tử) và hoàng tộc chẳng phải làm những gì thường dân làm, nhất là: vua chẳng đời nào cúi xuống ‘rửa chân’ cho người dân, và chưa bao giờ gọi dân thường là ‘bạn hữu’!
Thế nhưng, chuyện ấy lại xảy ra đối với Đức Giê-su Ki-tô đầy lòng thương xót của chúng ta. Tuy Ngài là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng “đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (x. Pl 2, 7). Chưa hết, Ngài “lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 8). Nếu theo quan điểm cấp bậc trong xã hội, hoặc tư tưởng con người, Ngài đã làm những chuyện đáng lẽ không nên làm! Đúng vậy, nhưng nếu chúng ta nhớ lại lời Ngài phán dạy: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45); hơn nữa, “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (x. Is 55, 8), thì ắt hẳn chúng ta hiểu phần nào hành động của Đức Giê-su. Chính vì vậy, Ngài vâng theo thánh ý, chương trình, tư tưởng của Chúa Cha, và thực hiện chúng, hơn là bước theo lối riêng mình hoặc cách thức, quan điểm, quan niệm, tư tưởng của con người. Mặc khác, Ngài sống đúng mực, nhất quán với những gì Ngài giảng dạy. Ngài không hề thương thuyết, hay thương thảo, hoặc tìm con đường trung lập dễ giải, hầu làm hài lòng mọi người. Đúng hơn, Ngài dành toàn tâm toàn ý sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha, “dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5, 8; x. Pl 2, 8). Noi gương Ngài, chúng ta biết vui tươi hoàn thành trách vụ, phận vụ của mình, dù mức độ đòi hỏi, yêu cầu khác nhau, nhưng ở bậc sống nào đi chăng nữa, chúng ta cũng được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, Đấng mà chúng ta tín thác, tôn thờ, và cậy trông.
Dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng khi còn sống kiếp phàm nhân, với bản tính con người, Ngài “đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết…” (x. Dt 5, 7). Là con người, ai mà không sợ hãi khi đối diện với cái chết, với bức tường vô hình sau cùng của đời dương thế! Đức Giê-su cũng vậy, Ngài lo sợ, đến nỗi lớn tiếng kêu van khóc lóc, khẩn nguyện với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu trước khi chịu cuộc thương khó, tử nạn (x. Mt 26, 37-45). Tuy nhiên, Ngài vẫn một lòng vâng phục, không hề quên thực thi thánh ý Chúa Cha “…xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39). Chúng ta cùng nhớ lại lời tiên tri Giê-rê-mi-a tuyên sấm trong bài đọc I hôm nay: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 33; 24, 7; 32, 39-40; x. 2Cr 3, 3; Dt 10, 16). Như thế, với bản tính con người, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Is-ra-el và với chúng ta. Ngài thực hiện cách hoàn mỹ ý định, chương trình của Thiên Chúa Cha nơi dương gian. Từ đó, soi chiếu bản thân mình, chúng ta nhận ra vô số thiếu sót, vì biết bao lần, chúng ta không thực hiện hoặc chưa sống giao ước, giới răn mà Thiên Chúa đã ghi tạc vào tâm khảm, vào lương tâm chúng ta, cũng như qua lời giảng dạy của Giáo hội, qua lời nhắn nhủ, nhắc nhở của thừa tác viên có chức Thánh!
Ngoài ra, tuy là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su Ki-tô đã trở nên hạt lúa miến, chịu gieo vào lòng đất, chịu thối đi, hầu trổ bông, sinh hoa, kết trái, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, cho chúng ta, cho những ai “hy sinh mạng sống mình ở đời này để được sự sống đời đời” (x. Ga 12, 25), và cho tất cả mọi người phụng sự Ngài (x. Ga 12, 26) như lời tác giả thư gửi cho tín hữu Do Thái đã xác tín: “…và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (x. Dt 5, 9). Quả vậy, là những người mang danh Ki-tô hữu, những người thuộc về Đức Ki-tô, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ‘hạt lúa miến gieo vào lòng đất, chịu mục nát’, chết đi với biết bao tội lỗi, thói hư tật xấu, bỏ đàng ngỗ nghịch, vô luân, bất tuân phục Thiên Chúa, v.v…, để rồi được trổ sinh kết trái là những ơn lành, sự sống mới, ân thiêng, sức mạnh, nhiệt thành thực hiện sứ mệnh loan truyền tình Chúa, và làm chứng tá cho Ngài trong cuộc sống thường nhật.
Giờ đây, chúng ta cùng hướng nhìn lên Thánh giá Chúa chịu treo, và thầm thì nguyện cầu:
Dẫu là Thiên Chúa cao sang
Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm thế nhân.
Chịu cuộc thương khó, hiến thân
Hy sinh tử nạn, thánh ân tuôn tràn.
Xin cho con bước hiên ngang
Một đời theo Chúa, bình an cõi lòng.
Vai mang thập tự, cậy trông
Trung thành, tín thác, khát mong tâm hồn.
Chúa phục sinh, Đấng chí tôn
Ân ban trìu mến, thiên môn mở đường. Amen!
43.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
Trong cuộc sống, mỗi khi chúng ta muốn trao tặng cho những người mà mình thương mến, quý trọng thì chúng ta trao ban cái gì, điều gì và diễn tả tình yêu thương quý mến của chúng ta ra sao? Chắc hẳn, ai trong chúng ta cũng đã và đang có những cung cách, thái độ riêng biệt của chính mình. Vì yêu thương chúng ta, nên Thiên Chúa trong một cách thế rất đặc biệt, Ngài đã biểu lộ và diễn tả tình thương của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Ngài trao ban chính tình thương của Ngài cho chúng ta, ngay khi chúng ta là những người con tội lỗi, ngỗ nghịch, bất xứng với chính Thiên Chúa là Người Cha của mình. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn tả cho chúng ta cách mà Thiên Chúa yêu thương và bày tỏ, chứng minh tình yêu của Ngài cho chúng ta.
Trong bài đọc một, Tiên tri Giêrêmia đã diễn tả cho chúng ta biết Thiên Chúa đã yêu thương dân của Ngài ra làm sao. Khi suy niệm về lời minh chứng này của Giêrêmia, làm tôi nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Mỗi lần tôi có lỗi phạm gì, thường thì ba mẹ tôi kêu về, bắt quỳ xuống hỏi tội; sau khi nhận ra tội của mình, mẹ tôi thường hỏi, với tội nặng như thế này thì đáng phạt bao nhiêu roi? Tôi thường hay trả giá, dẫu biết rằng tội mình đáng phải bị phạt nhiều roi, nhưng chỉ nói khoảng cỡ 5-7 roi thôi. Mỗi lần như vậy, Mẹ không bao giờ đánh hết những roi mà tôi muốn phạt, nên thường để dành lại 2-3 roi và nói: Tội thì tạm tha, nhưng lỗi thì để dành, xem có biết ăn năn hối lỗi hay không thì sẽ đánh tiếp. Và thế là khi giờ ăn đến, vì còn mắc nợ mẹ mấy roi, nên tôi ngồi vào bàn ăn mà mắt không dám ngước lên nhìn mẹ và tỏ vẻ như không dám ăn. Một lần mẹ tôi bảo: Tại sao không gắp đồ ăn mà ăn đi, hôm nay mẹ nấu cho món ngon đó, ăn đi rồi cố gắng mà sống cho tốt. Qua chút kinh nghiệm được tha thứ và yêu thương của bản thân; phần nào hiểu được, Thiên Chúa thể hiện tình yêu thương của Ngài còn kỳ diệu, lạ lùng khiến tôi chỉ biết cảm tạ tri ân. Tại sao lại như vậy? Vì Thiên Chúa yêu thương và bày tỏ tình thương cho chúng ta ngay cả khi chúng ta thất tín, bất trung, quay ngược lại phản bội Chúa. Cách diễn tả của Chúa rất đặc biệt đó chính là: Ngài ký kết giao ước với chúng ta, ban lề luật và huấn lệnh cho chúng ta, để qua chính giao ước này, Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm hồn, lòng trí của chúng ta rằng: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”. Thật vậy, vì tình yêu thương, Thiên Chúa chỉ còn biết bao dung, tha thứ, cứu sống, không còn nhớ đến tội lỗi của chúng ta, đồng thời ban ơn để giúp chúng ta sống tốt hơn, sống đúng với phẩm giá của con người của chúng ta mà Ngài đã tạo dựng và Chúa chỉ mong muốn rằng, chúng ta hãy khiêm tốn để tin và chấp nhận tình thương này của Chúa dành riêng cho chúng ta.
Thưa ACE, một khi chúng ta thấu hiểu và cảm nếm được tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng ta thể ấy, thì khi đó chúng ta mới có thể tái khám phá và vững tin hơn vào điều mà trong thư gởi tín hữu Do Thái nhắn gởi chúng ta. Thiên Chúa yêu thương mãi mãi và yêu cho đến cùng, cách thế cuối cùng duy nhất, độc đáo nhất còn lại để diễn tả tình yêu thương và sự tha thứ đó là: sai Con Một rất yêu dấu của Ngài đến để chịu chết mà cứu độ chúng ta. Qua Đức Kitô, mẫu gương tuyệt vời của sự vâng phục, qua cuộc khổ hình và tử nạn của Ngài trên Thánh Giá, Thiên Chúa lại ký kết với nhân loại một giao ước tình yêu mới bằng giá máu châu báu của Con Ngài. Đây chính là cách mà Thiên Chúa dùng để diễn tả tình thương và ơn cứu độ cho chúng ta, cho tất cả những ai tin, chấp nhận Chúa và chấp nhận công cuộc cứu chuộc của Ngài.
Thánh Gioan trong Tin mừng cũng đã minh chứng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Việc Chúa Giêsu dùng hình ảnh của hạt lúa mì rơi xuống đất, mục nát, tiêu tan, để đem lại sự sống mới, sự sống được phát triển và sinh nhiều bông hạt. Dẫu Đức Kitô cũng đã ý thức rằng, một khi vâng theo thánh ý của Chúa Cha, nghĩa là phải chấp nhận những đau khổ, cực hình và một trong những điều tủi nhục, đau đớn nhất đó chính là bị con cái loài người khinh chê, từ chối, khước từ và không muốn chấp nhận không muốn tin vào tình thương và cách diễn tả tình thương của Chúa. Cho dù con người vẫn còn chối bỏ, không tin hay chưa tin, nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, vẫn luôn tạo mọi hoàn cảnh tốt nhất để ban ơn cứu độ theo như cách tuyệt hảo của Chúa.
Thưa ACE, tình yêu thương và cách diễn tả, minh chứng tình yêu của Chúa là như thế đó. Vậy còn tùy thuộc vào nơi cách đáp trả của chúng ta, ai chấp nhận, tin, sống và làm theo những gì mà Đức Ki tô đã giao ước với chúng ta thì sẽ được hưởng ơn thánh cứu độ. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Thật vậy, tin vào Chúa và những gì Ngài thực hiện cho chúng ta đã là khó, còn làm theo những gì mà Chúa đã nêu gương lại càng khó gấp bội. Do đó, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta có con tim khiêm tốn, mở rộng, để chúng ta luôn cảm nếm được tình thương tha thứ cứu độ của Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể mạnh dạn dấn thân để sống tha thứ và yêu thương anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng ta. Amen.
44.Chết để sống--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
húa Nhật V Mùa chay năm B, chúng ta được nghe một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất của Thầy Chí Thánh Giê-su: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ được nó cho cuộc sống đời đời”. (Ga 12, 24-25).
Đọc những lời lẽ này của Chúa, tôi cảm thấy dường như Ngài đang muốn thức tỉnh nhân loại. Nhân loại chúng ta đang ngủ mê trong một cuộc sống hời hợt bên ngoài. Chúng ta tưởng mình sống mà thực ra không phải. Chúa muốn giúp ta nhận ra đâu là cuộc sống đích thực, đâu là cuộc sống giả tạo. Hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Sau một thời gian, nó mục nát đi rồi nảy mầm thành một cây lúa trổ sinh nhiều bông hạt. Nếu nó không mục nát đi thì nó chỉ trơ trọi và rồi cũng tan biến đi. Đó là quy luật tất yếu của tự nhiên. Còn con người chúng ta thì sao?
Đôi khi tôi băn khoăn và tự hỏi: Tôi đang sống hay tôi đang chết? Chúa bảo tôi phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Vậy đâu là những gì tôi phải chết? Và đây là một vài điều.
Trước hết, tôi phải chết đi cho con người nhỏ nhen ích kỷ. Là con người, tôi thường có tâm lý cạnh tranh hơn thua. Thấy người khác hơn mình một chút, nhiều khi tôi không chịu đựng được. Tôi muốn được giàu có, được tài giỏi, được nhiều người biết đến và nhìn mình bằng một ánh mắt nể trọng. Tôi muốn và luôn luôn muốn một cái gì đó. Đôi khi những điều tôi muốn chỉ nhằm thỏa mãn cái tôi huênh hoang và hống hách của bản thân mình. Tôi muốn triệt hạ đối thủ để được nổi lên. Và Chúa bảo tôi phải giết chết đi con người đó nếu tôi muốn sống thật.
Thứ đến, tôi phải chết đi cho những suy nghĩ của mình. Con người tôi lúc nào cũng suy nghĩ miên man. Suy nghĩ giống như con ngựa bất kham luôn làm tôi căng thẳng. Tôi không sao ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình. Suy nghĩ về bản thân, về người khác, về quá khứ, về tương lai, về cơm áo gạo tiền, về gia đình, quê hương, dân tộc, thế giới…. thôi thì đủ loại. Ôi suy nghĩ và suy nghĩ! Dường như con người luôn ở trong dòng suy nghĩ miên man vô tận. Chúa bảo tôi phải ngưng dứt được cái dòng suy nghĩ miên man vô tận đó thì mới có thể tiến vào miền thinh lặng vĩnh cửu. Chỉ khi tôi ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình, tôi mới thực sự kết nối được với nguồn sống đích thực đang tràn trào trong tôi. Chỉ khi dòng suy nghĩ miên man dừng lại, tôi mới có cuộc sống đích thực.
Sau cùng, tôi phải chết đi cho những khái niệm ảo tưởng về thời gian. Thời gian chỉ như một tấm biển chỉ đường. Nó không có quyền gì chi phối tôi cả. Thế nhưng, nhiều lúc tôi bị vướng vào cái vòng luẩn quẩn của thời gian. Nhiều người bị ám ảnh về quá khứ. Quá khứ như một bóng ma lúc nào cũng đè nặng trên cuộc đời của nhiều người. Có những người triền miên đau khổ về quá khứ của mình. Không bao giờ họ tìm được cho mình một giây phút bình yên. Tôi tha thiết cầu xin những người nào đang ôm ấp và ngụp lặn trong đau khổ của quá khứ, hãy buông bỏ và tha thứ cho bản thân mình đi. Còn tương lai thì sao? Bao người ngày hôm nay quá ưu tư về tương lai. Tôi sẽ làm gì sau khi ra trường? Làm thế nào để kiếm tiền nhanh nhất? Tôi sẽ sống ra sao nếu…? Tất cả những điều đó không phải là điều chính yếu của cuộc sống. Hãy chặt đứt tất cả những ảo tưởng phù phiếm của thời gian đó đi. Hãy tiến vào và sống giây phút hiện tại này. Hãy luôn sống trong trạng thái ý thức của hiện tại. Cuộc sống bao la vô tận sẽ mở ra trước mắt chúng ta. Hiện tại và chỉ có hiện tại thôi mới là vĩnh cửu.
Lạy Chúa, Chúa dạy con phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Xin cho con biết chết đi cho tất cả những ảo tưởng mà con hay quơ góp. Và chính khi con chết đi là khi con được vui sống muôn đời. Amen.
45.Giao Ước vĩnh cửu được ký kết trong thập giá Đức Kitô--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Lịch sử cứu độ được dệt bằng những giao ước giữa Thiên Chúa và dân. Khi chứng kiến muôn vàn giao ước, người ta tự hỏi lý do tại sao lại nhiều như vậy? Câu trả lời rút ra từ kinh nghiệm sống của dân :
Thiên Chúa trung thành trong lời hứa và thánh thiện giữ lời giao ước đến muôn đời. Về phía dân, bất nghĩa và bất tín trung, luôn vi phạm lời cam kết giao ước, nên phá hỏng giao ước đã thiết lập.
Lập lại giao ước mới là bằng chứng của lòng thương xót và hay tha thứ của Cha trên trời, không muốn con người phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.
Đếm số lượng giao ước là cách tuyên xưng tình yêu thủy chung, vững bền Thiên Chúa “Tình yêu và sự sống” ban tặng, để thế gian được sống và sống dồi dào.
Không có giao ước nào mà không nhằm ban tặng và phong nhiêu sự sống.
Khởi đầu lịch sử cứu độ, Chúa giao ước với Abraham, khi ban cho ông đất làm phần gia nghiệp, ban con cháu đông như sao trời cát biển và nhất là được Chúa ở cùng, với điều kiện ông phải vâng giữ lời Chúa. Khi vâng phục thánh ý Chúa, Abraham được kể là người công chính, được hưởng mọi phúc lành.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày một giao ước chung cục, “giao ước mới” được thực hiện trong thập giá, kí kết bằng : “Máu giao ước vĩnh cửu”, để nhiều người được cứu độ.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Gê-rê-mi-a, phác họa một viễn tượng về thời đại Đấng cứu thế, sẽ thực hiện một giao ước mới mẻ hoàn toàn, không giống như những giao ước cũ. Những giao ước cũ này luôn luôn bị vi phạm, bị hủy bỏ, vì cớ tội lỗi của dân.
Giao ước mới được thực hiện trong Chúa Giê-su, là Thiên Chúa thật và là người thật, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Cái mới mẻ của giao ước Giê-su là sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha : “vâng lời và vâng lời cho đến chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa siêu tôn Người, và ban danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu” (Phl 2, 4 – 8).
Đấng thực hiện giao ước mới sẽ khắc ghi luật Chúa vào lòng dạ, vào tâm khảm con người, sẽ đặt thần khí mới vào lòng họ, để thay thế con tim chai đá, nhờ đó họ mau mắn nhận biết Chúa, được Người tha thứ mọi tội lỗi của chúng.
Lời sấm của Giê-rê-mi-a ứng nghiệm trọn vẹn nơi Chúa Giê-su, vị Thiên Chúa/Người, được đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Bài Phúc Âm diễn tả cách thức Giê-su thực hiện giao ước : tự hiến trong vâng phục. Hy tế thập giá không còn là hình phạt, mà trở thành bàn thờ tôn vinh Thiên Chúa.
Sự tôn vinh nơi thập giá đảm bảo hai chiều kích :
Giê-su tôn vinh Cha bằng sự vâng phục cho đến chết. Cái chết trong tư cách con người của Giê-su làm chứng : con người có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và dám chết cho Thiên Chúa. Hành động tôn vinh, trong tình yêu vâng phục, là tuyệt đối đẹp lòng Cha hơn cả.
Chúa Cha tôn vinh Giê-su bằng cách đón nhận lễ hy sinh, cho Ngài sống lại từ trong cõi chết, đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, để Giê-su ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Đó chính là “Giờ tôn vinh” Giê-su tuyên bố trong Tin Mừng.
Giao ước thập giá trổi vượt trên tất cả, mới mẻ, trường cửu và ban chiến thắng “chung cục” : hận thù được hòa giải, tội lỗi được tẩy sạch, thủ lãnh thế gian bị xét sử, sự chết bị đập tan. Nhờ thập giá, mọi phúc lành thiêng liêng trên trời được ban tặng như suối nguồn tuôn đổ ngập lút thế gian.
Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, nhấn mạnh chiều kích vâng phục và tự hạ của Đức Giê-su, là nền tảng của ơn cứu độ. Khi còn sống kiếp phàm nhân, Giê-su dãi dầu học cho biết vâng phục qua những đau khổ xẩy đến, đã đạt tới mức thập toàn và nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Vâng phục trong mọi sự, đạt mức thập toàn nhất thiết phải xảy ra nơi thập giá, vì chỉ trong thập giá, trong sự chết, mới chứng tỏ sự vâng phục đến cùng.
Nội dung của bài đọc II là lời tuyên xưng giao ước mới, vĩnh viễn và rộng khắp, ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Tác giả đoạn thư Do Thái giúp củng cố đức tin vào biến cố thập giá, không phải hổ thẹn vì cớ Đấng chịu đóng đinh, nhưng hãy luôn tự hào, vì đó là sự khôn ngoan, là ân phúc cứu độ trần gian.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy luôn vững lòng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa, Đấng giầu lòng xót thương, nhẫn nại đến kinh ngạc trong việc giáo hóa con người. Giao ước là bằng chứng Chúa dùng mọi phương thế để giữ gìn sự sống trần gian.
Chiều dài giao ước là sự sửa soạn tâm lòng con người đón nhận Đức Kitô, Đấng thực hiện giao ước vĩnh cửu trong sự chết và sự phục sinh, bằng hình thức trao đổi diệu kỳ : Chúa chấp nhận đau khổ, để chúng ta được chữa lành, chấp nhận tù tội, để chúng ta được giải phóng, chấp nhận bị kết án, để chúng ta được giải án tuyên công, chấp nhận cái chết thập giá, để chúng ta được phục sinh vinh hiển.
Vậy chúng ta hãy đón nhận giáo huấn và đem ra thực hành bằng một đời sống đượm tình mến thương, mới thực sự bước đi trong ánh sáng của mùa cứu độ.
Nhiệt tâm làm việc thiện, chu toàn bổn phận trong vui vẻ là sống đức tin bằng việc làm. Chỉ những ai thực hành như vậy mới được kể là người khôn ngoan, đáng được Chúa chúc lành, cho gia nhập đoàn dân thánh hưởng tình yêu và sự sống thật, sự sống muôn đời. Amen.
46.Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu--Lm. Lâm Thái Sơn
Theo như Phúc Âm hôm nay, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp “muốn được gặp Chúa Giêsu”. Họ đến từ một đất nước phát sinh những suy luận, triết thuyết, nghệ thuật và thần thánh đa dạng, dĩ nhiên họ muốn gặp Chúa Giêsu không vì tính hiếu kỳ, nhưng có lẽ vì không thỏa mãn trong việc tìm kiếm “chân thiện mỹ“ dựa vào triết lý, hay vì các tín ngưỡng không giúp họ đạt đến sự tuyệt đối thỏa đáng.
Họ đến thờ phượng Thiên Chúa trong dịp đại lễ của người Do Thái. Tuy nhiên kỳ đại lễ này đã bị khuấy rối bởi nhiều tin đồn đáng ngại cộng thêm cuộc biểu tình của dân chúng: gần đây tin đồn Đức Giêsu đã cải tử hoàn sinh ông Ladarô gây hoang mang cho các bậc Thượng tế trong Đền Thờ và làm cho nhiều người bỏ họ mà chạy theo Đức Giêsu; thêm vào đó, Ngài còn được toàn dân ủng hộ đón rước như một vị Vua với những lời tung hô “vạn tuế Vua dân Do Thái, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!”. Các sự việc này gây phẫn nộ và tạo cơ hội cho đám người Pha-ri-sêu thực hiện chương trình mưu sát kẻ xách động quần chúng. Đến lúc phải chọn lựa: đối với đoàn kỳ mục, các thượng tế và kinh sư thì vụ án này được chấp thuận; còn dân chúng thì lập trường hay thay đổi (nay ủng hộ, mai đả đảo); và ngay cả trong giới lãnh đạo Do Thái cũng có một số người đã tin vào Đức Giêsu, nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pharisêu khai trừ khỏi Hội Đường, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa (Ga 12,43).
Chính trong bối cảnh này mà có mấy người Hy Lạp đề nghị ông Philípphê và Anrê dẫn họ đi gặp Chúa Giêsu. Đức Giêsu là ai? Vị ngôn sứ này là người thế nào (?) mà có biết bao lời đồn đãi xấu có tốt có làm phấn khởi giới hạ lưu và làm run chuyển giới lãnh đạo buộc những người này phải ra tay đối phó. Cho dù tình trạng có sôi động cũng không ngăn cản đuợc ý định của những nhà thám hiểm điều vô tận: họ muốn được nhìn tận mắt, nghe tận tai, thấu hiểu sứ điệp cũng như những công trình và dấu chỉ xác thực kể cả bản thân của vị ngôn sứ đó! Họ đến thật đúng lúc, vì đã đến giờ kết thúc sứ mệnh: đấy là giờ của sự thật, giờ mà tội lỗi của trần gian dẫn đưa Đức Giêsu đến thập giá, và cũng là giờ mà thập giá đó lại trở thành bệ ngai của vinh quang.“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh“. Tuy Phúc Âm không nói đến phản ứng của những người Hy Lạp này, nhưng luận thuyết của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời mới về sự sống vĩnh cửu: “hạt lúa gieo vào lòng đất sẽ mang lại nhiều hạt khác“ và “khi Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất thì Ngài sẽ kéo mọi người lên với Ngài“.
Qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu tột độ, vì “không có tình yêu nào cao trọng bằng dâng hiến mạng sống cho người mình yêu“. Luật chủ yếu của Thiên Chúa là luật của hạt lúa: “nếu hạt được gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác“. Chúng ta không cần suy nghĩ viễn vông mà chỉ cần đặt mình trước Thập giá và nhìn ngắm, lúc đó ta sẽ hiểu thế nào là yêu thương thật sự, thế nào là chết đi để phát sinh sự sống; cũng như ta cứ gieo hạt vào lòng đất và chờ đợi nó mọc lên cây thì sẽ hiểu thế nào là đau thương trong gieo vãi và gặt hái trong hân hoan; cũng như các Thánh nhân hoặc những anh hùng: họ hy sinh vì chân lý, tranh đấu cho chính nghĩa, tuy chết đi nhưng vẫn sống mãi trong lòng Giáo Hội và Dân Tộc, ngàn đời Lịch Sử vẫn truyền tụng họ. Vì thế, cái chết thật sự không phải là cái chết thể chất mà chính là từ chối yêu thương, không biết hy sinh chỉ sống lẻ loi ích kỷ “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời“
Muốn thật sự đứng về phía sự “sống”, ta nên hành động như những người Hy Lạp kia luôn khát khao tìm kiếm chân thiện mỹ, tức nhiên “phải tìm gặp Đức Giêsu”. Cần tận dụng tất cả trí khôn tâm sức để hiểu biết, yêu thương và phục vụ, sống không vì lề luật tỉ mỉ hình thức, nhưng vì một Người, Đấng đang kêu gọi và sai đi, đang đối thoại và sống hiệp thông. Phải thành tín và đam mê, ta mới thiết lập được với Thiên Chúa một giây liên đới tâm đầu ý hiệp, như lời Thánh Vịnh hôm nay: “xin Chúa dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan... xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy”
Chúng ta có phải thuộc về nhóm người muốn đi gặp Đức Giêsu? Tuy nhiên, ai đã tìm gặp Ngài cũng vẫn còn phải tự chất vấn, bởi vì: giới Pha-ri-sêu đã thấy và nghe nhưng không tin theo Ngài; bậc kỳ mục đã tin nhưng không dám nhìn nhận Ngài; dân chúng đã tin và theo Ngài nhưng không đi đến cùng.
“Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Ta nên thường xuyên đến gặp gở Ngài qua các Bí Tích, qua việc học hỏi Phúc Âm để khám phá điều mới lạ và chấp nhận dấn thân trong một thế giới và thực tại mà Ngài muốn cho ta khám phá. Bước theo Ngài là chấp nhận những nguy cơ mà chính Ngài đã đảm lấy, từ sự hiểu lầm của những tín đồ đến sự chống đối và lên án của giới hữu trách. Dấn thân theo Ngài là chết cho những tham vọng ích kỷ, tư lợi vật chất, dự tính phàm trần, chết cho những gì gọi là ưu tiên của riêng mình nhưng lại quá xa cách những hệ trọng cấp bách Phúc Âm. Ta phải chọn hoặc thủ lãnh thế gian hoặc Đấng đã bị đóng đinh. Chắc hẳn đến một lúc nào đó, sẽ có người đến hỏi chúng ta, như những người Hy Lạp đến hỏi Philípphê và Anrê “chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Vậy chúng ta sẽ có đề nghị gì cho những người đó?
47.Hạt lúa mì gieo xuống đất--Lm Nguyễn Minh Hùng
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sinh nhiều bông hạt". Lời Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới các thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để hạt giống đức tin sinh nhiều hoa trái. Giáo Hội Việt Nam, chỉ là một Giáo Hội còn non trẻ, đã hiến dâng bao nhiêu người con suốt ba thế kỷ bắt đạo, cho đến nay, con số ấy vẫn không ai biết chính xác. Bất cứ ở đâu trên mảnh đất châu Á này, nếu Đức tin được rao giảng, thì ở đó lại thấm đẫm dòng máu các anh hùng Tử đạo. Con số các thánh Tử đạo càng tăng lên theo cấp số nhân nếu ta quay nhìn cả Giáo Hội hoàng vũ qua mấy ngàn năm nay. Hình như không có thời buổi nào, không có thế kỷ nào, không có Giáo Hội địa phương nào mà không bắt đầu được sinh ra từ máu Tử đạo. Những năm gần đây, Đức Thánh Cha đã phong khá nhiều vị thánh, hầu hết các vị thánh ấy là các thánh Tử đạo của thời đại mới. Máu các thánh Tử đạo cứ tiếp tục đổ xuống, càng đổ bao nhiêu, đức tin càng lớn, sức sống của Giáo Hội Chúa Kitô càng căng tràn và mạnh mẽ bấy nhiêu. Chúa Kitô, Hạt Lúa Mì Anh Trưởng đã rơi xuống đất, làm nảy sinh vô vàng hạt lúa, và những hạt lúa từ thời đại này sang thời đại khác cứ tiếp tục trổ sinh bông hạt. Bởi thế có một nguyên tắc rất kỳ diệu, rất nhiệm mầu, nhưng đã trở nên rất bình thường: Giáo Hội càng bị bắt bớ khốc liệt, người Công Giáo càng bị giết hại đẫm máu, thì Giáo Hội càng sống mãnh liệt và mau chóng lan rộng, đức tin của người Công Giáo càng được tôi luyện và trưởng thành bấy nhiêu.
Trong xã hội cũng có bao nhiêu vị anh hùng hiến dâng mạng sống vì công lý, vì hòa bình. Năm 1968, cả thế giới chấn động khi nghe tin Mục sư Martin Luther Kinh, người đã đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng của người da đen bị sát hại. Năm 1995, cả thế giới sững sờ thương tiếc thủ tướng Israel, ông Y Rabin, bị người Dothái quá khích giết. Họ không chấp nhận đường lối ôn hòa của ông đối với người Palestin.
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn xúc động nhớ lại cái chết của ông Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc An, đã từng bị một thanh niên An giáo quá khích sát hại. Anh ta không chấp nhận việc ngài đã tha thứ và dạy hãy tha thứ cho người Hồi giáo. Và còn biết bao nhiêu người vì tình yêu con người, tình yêu đồng loại đã hiến dâng mạng sống như thế. Họ đã chết nhưng tên tuổi, sự nghiệp của họ vẫn sống muôn đời.
Các thánh tử đạo và những tâm hồn xây dựng hòa bình ấy chính là hình ảnh của hạt lúa mì được gieo trong lòng thế giới. Hoa quả của đức tin, hoa quả của hòa bình đang tươi nỡ khắp nơi trong Giáo Hội và trên thế giới.
Ngày nay có biết bao anh chị em nhìn vào tấm gương của các ngài mà dấn thân xây dựng, gìn giữ, bảo vệ đức tin và kiến tạo hòa bình, làm nảy sinh tình yêu khắp nơi, quên cả sức lực, quên cả bản thân để danh Chúa rạng ngờ, Nước Chúa trị đến, cuộc sống bình an, thịnh vượng hơn. Những năm gần đây, đa số những vị được phong thánh là các vị tử đạo của thời đại mới. Hóa ra, những hạt lúc mì cứ rơi xuống, rồi lại sinh hoa kết quả, hết lớp này đến lớp khác. Ngày nào đức tin còn bị bắt bớ, thế giới vẫn tồn tại bất công, sự sống bị chà đạp, ngày ấy vẫn còn những hạt lúa mì rơi xuống và vô vàn bông lúa mì trỗ sinh.
Chúa Kitô, Đấng đã sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, và sống lại vì tình yêu, luôn là mãnh lực cuốn hút muôn người hiến dâng mạng sống, và lưu danh ngàn đời. Chúa Kitô, hạt Lúa Mì cao cả làm trổ sinh vô vàn bông hạt tươi tốt...
48.Sự sống--Lm. Thu Băng
Lời Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu nói đến Mầm sống lúa mới chỉ được trổ sinh khi hạt húa thực sự bị hủy đi, khiến tôi nhớ đến một tư tưởng chi phối khá mạnh nơi con người ngày nay là sự sống của các thai nhi mà Công đồng Vaticanô II đã phải dùng một Thông Điệp để nói về sự sống. Vậy sự sống là gì?
Romain Rolland viết: "Sự sống là cái mà không thể dùng trí khôn và con mắt mà nhận thức hay diễn tả. Sự sống là cái làm cho thụ tạo trở nên sống động". Nhìn một ngọn cây rung động, ta thấy nó chứa một sức sống mơn mởn vươn lên. Nhìn con vật đùa dỡn trước sân cỏ, ta thấy có một sức đánh động nó ngó ngoáy, ve vẩy. Nhìn con người ta lại thấy nó có một sức linh hoạt hơn nữa, khác với loài cây cỏ, khác với loài động vật hay xác chết.
Các nhà bác học chỉ có thể giải thích được sự cấu tạo của vật thể, chỉ có thể biết con người gồm có tim, óc, phèo, phổi.... Nhưng đến sự sống thì con người bất khả thuyết minh.
Trong một cuộc triển lãn nghệ thuật, điêu khắc gia Michel Angelos đã mất ngủ để suy nghĩ về câu nói của một nhà phê bình trứ danh, khi ông ngắm nhìn pho tượng đá Môsê: "Pho tượng tuyệt tác, linh động, sắc sảo như người, nhưng thiếu một điều.....". Ba đêm trời suy nghĩ không ra, Michel Angelos xin đến gặp nhà phê bình để hỏi cho ra lẽ. Nhà phê bình cười rồi bảo: "Bức tượng đá đẹp, nhưng tiếc một điều là nếu nó có thêm chút sự sống nữa thì toàn vẹn". Angelos nghe xong lời ấy có vẻ bất mãn, liền nói lên cách tự nhiên: "Sự sống ai mà tạo nên được".
Ngày nay trong các phòng triển lãm đặc biệt tại Kansas City, tôi đi tham quan, đến một gian hàng người ta chơi cái trò suy đoán "Thực hư": Trong gian phòng người ta trình bày 4 người đang ngồi đọc báo và mời các khách tham quan nhận ra trong 4 người áy ai là thật ai lả giả. Nhiều người đoán cô gái tóc đen là người thật, lại hóa ra cô là người giả. Nhiều người đoán cậu thanh niên có đôi mắt xanh, tay có từng cái lông tơ là người giả, lại hóa ra chàng trai thật 100%. Nhờ kỹ thuật vượt mức, người ta đã làm nên những vật không khác gì vật thật, nhiều cái còn đẹp và tinh vi hơn cả vật thật nữa. Tôi trồng một vườn hoa vào cuối mùa đông, có cắm xen lẫn một số bông hoa giả, nhiều người đã khen tôi mát tay, khéo trồng hoa, đến mùa Đông rồi mà hoa còn nở tươi thật là tươi. Có người phải rờ tay vào xem mới biết là hoa giả.
Sự sống thật là quí hóa, không ai tạo được, ngoại trừ Thiên Chúa. Bác Sĩ, Lương Y không dám rút ngắn cơn hấp hối của bệnh nhân. Hình phạt lớn nhất của tội nhân là tình phạt "tử hình", cắt đứt sự sống của tội nhân. Liều thuốc trường sinh vốn là liều thuốc tiên, là ước mơ của nhân loại. Vị Hoàng Đế khét tiếng của Trung Quốc dạo chơi trên bờ Vạn Lý Trường Thành cùng bày mỹ nữ và các quân thần, để ngắm nhìn công trình vĩ đại mình thực hiện, nhìn ngắm sự hưng thịnh của đất nước được mình bảo vệ. Bỗng chốc ông òa lên khóc nức nở. Các quan vấn an và hỏi căn do tại sao Hoàng Đế nhỏ châu lệ? Hoàng đế trả lời: "Đất nước ta hưng thịnh, trù phú thế này, quê hương ta đẹp đẽ biết bao! và dân ta hiền hòa thanh lịch.... Thế mà tuổi ta đã về chiều. Tiếc rằng ta không còn sống được bao lâu để cai dân trị nước". Một vì Đại Thần đứng phía sau cười nắc nẻ, khiến vua bực tức hạch tội: "Tại sao ngươi cười ta?" Vị Đại Thần tâu: "Nếu các vị Tiên Đế trước cứ sống lâu trên ngai, thì bây giờ đã đến phiên bệ hạ trị nước chưa?".
Được ngồi trên ngai mà ham ước sống đã đành, mà cả những người nghèo khổ đói rách cũng ham sống nữa. Một trong những chuyện hay của Lã Phụng Tiên có kể: Ngày đó một gã tiều phu già luống tuổi, đang ngồi nghỉ mệt bên lề đường. Ông than cho kiếp con người ông bạc phước, đày đọa kiếp thân tàn, làm ăn cực nhọc cả đời. Ông muốn chết cho xong kiếp sống lầm than. Bỗng thần chết xuất hiện giúp ông thực hiện ý muốn. Vừa trông thấy thần chết cầm hái từ thần, ông nhanh trí đánh trống lảng: "Xin nhờ Thần đưa giúp tôi bó củi lên vai, nghỉ lâu quá rồi". Bước đi mau chân ông lão không dám ngoái cổ lại nhìn sự thật đàng sau.
Sự sống ai cũng nhận thức là quí, nhưng không hiểu được.
Sự sống không thuộc về trần gian, người trần gian không ai có thể làm nên được. Cũng không ai phát sinh từ cục đá mà ra, nhưng từ ý muốn của Đấng tạo thành. Chúa nặn con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi sinh khí vào, bỗng nó trở nên sống động. Thân xác Lazarô chết 4 ngày đã lên mùi hôi thối, nhưng với quyền năng của Chúa, Ngài đã cho nó trở lại trạng thái bình thường và cho sống lại. Vật sống chính là sinh khí của Thiên Chúa, phát sinh từ Thiên Chúa. Ta nghe tiếng "Chết" đầu tiên khi Chúa phán cùng Adam, Evà: "Khi nào các ngươi ăn trái Ta cấm, các ngươi sẽ chết", thế nhưng Adam, Evà ăn vô thể xác vẫn sống. Ông bà Tổ Tông không chết theo cách ta hiểu là hết thở. Ông bà vẫn sống, vẫn hoạt động, nhưng cái chết Chúa tuyên án đây là: Mất sự tương giao với Thiên Chúa, là bẻ gẫy, là cách xa Thiên Chúa. Con người phạm tội đã chết trong một hình thức sống.
Tai điếc là tai chết, mặc dù tai vẫn còn, âm thanh vẫn còn, nhưng không còn tác dụng với tai nữa, không còn liên lạc giữa tai và âm thanh nữa. Tai điếc là tai đã chết. Người mù cặp mắt vẫn còn, màu sắc, ánh sáng vẫn có, nhưng ánh sáng và màu sắc không còn tác dụng với mắt. Mắt đã chết. Cũng thế, con người là loài sinh linh hiện hữu, con người vẫn sống đầy mặt đất, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa hằng hữu, Ngài vẫn hiện hữu trên chúng ta, nhưng con người và Thiên Chúa không còn liên lạc, không còn tác dụng với nhau nữa, vì sự tội đã phá vỡ sự tương quan đó. Con người chết. Nhưng lòng thương Chúa không bỏ con người, Ngài ban Con Một Ngài xuống trần làm nhịp cầu nối lại tình liên đới cha con. Đó là ý nghĩa đích thực khi Ngài phán: "Ta là sự sống". Do đó kẻ tin và đón nhận thì dù có chết cũng được sống. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đã chết trong cái xác sinh động còn sống thôi. Cái chết theo chúng ta hiểu là một sự thay đổi hình thức. Chết là cánh cửa đóng lại với bên này và mở ra cho đời sau. Chết là con đò chở người từ bến đời này qua bến đời sau. Nếu ta phạm tội đời này thì con đò cũng chở chúng ta về bến xa Chúa là địa ngục. Nếu chúng ta được ân nghĩa với Chúa ở đời này, thì cửa mở ra cho đời sau là cửa ân nghĩa thiên đàng.
Con người vốn thiết tha với cõi đời này là vì nó thực tế, nó hiển nhiên. Con người sợ đời sau vì nó mập mờ, không biết đến bến nào. Nhưng nếu ta chỉ sống có cái xác trên trần gian thôi, thì chưa phải là sống thực. Vậy phải ráng có sự sống thực, có Chúa Kitô là sự sống, có lề luật là thành lũy tránh sự dữ, có yêu thương nhau làm bảo đảm sự sống ở đời này và bảo đảm sự sống vui của đời sau. Ước gì chúng ta luôn sống trong thể xác linh động này, sống trong bình an của tâm hồn, sống trong ân phúc liên đới mật thiết với Chúa, để khi dù thân xác ta chết, ta vẫn được sống đời đời. (Jn. 12:20-33) 3-2003
49.Giá trị của đau khổ--Lm. Minh Vận
Vào một đêm giông bão, gió thổi mịt mù, mưa rơi như trút, một ông già với bà vợ chạy vào văn phòng của một khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Ông già tỏ dấu khiêm tốn nhã nhặn hỏi viên thư ký: "Anh có thể cho chúng tôi một phòng nhỏ không? Vì tất cả các khách sạn lớn đều đã chật rồi". Viên thư ký trả lời: "Thưa ông, tất cả các phòng đều đã có người mướn, nhưng tôi không thể để cho những người dễ thương và đáng kính như ông bà phải ra đi trong mưa gió vào lúc một giờ sáng như thế này được. Ông bà có thể ngủ trong phòng của tôi". Ông khách vội hỏi lại: "Thế thì cậu ngủ ở đâu?" Viên thư ký đáp: "Thưa, ông đừng lo, tôi sẽ tự liệu mà". Vừa nói, viên thư ký trẻ vừa dẫn hai ông bà khách lên phòng của mình. Sáng hôm sau, khi xuống trả tiền phòng, ông khách nói với viên thư ký đã nhường phòng cho mình: "Cậu là viên thư ký quảng đại, đáng làm quản lý một khách sạn lớn nhất của Hoa Kỳ. Có lẽ mai ngày, tôi sẽ xây khách sạn đó cho cậu".
Hai năm sau, viên thư ký trẻ này nhận được một bức thư, kèm theo một vé máy bay khứ hồi đi New York, với lời ghi chú của ông khách trong một đêm mưa gió nọ tại Philadelphia, muốn gặp chàng tại New York. Khi chàng tới gặp ông khách cũ, ông dẫn chàng tới một góc đại lộ số 5 đường 34, chỉ vào ngôi khách sạn mới xây nguy nga đồ sộ và nói với chàng: "Đây là ngôi khách sạn tôi đã xây cho cậu làm quản lý". Nghẹn ngào vì cảm động, chàng thư ký trẻ tuổi tên là George C. Boldt đó, chỉ biết lắp bắp lời: "Xin hết lòng cảm ơn ông". Ông khách già chủ ngôi khách sạn đó là William Walford Astoria. Và ngôi khách sạn sang nhất trong thời bấy giờ là Walford Astoria.
I. NGƯỜI CÓ CÔNG MỚI ĐÁNG THƯỞNG
Một sinh viên đại học, muốn vượt qua được các kỳ thi tuyển, muốn đoạt được mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư, luật sư, muốn được thành công trong bất cứ nghề nghiệp nào, một chức vụ nào trong xã hội, đều cần phải chuyên chăm học hành, phải chịu khó, hy sinh, vất vả, phải thức khuya dậy sớm.
Một quân nhân, muốn được trọng thưởng, cần phải tham dự các cuộc chiến thắng vẻ vang nơi các trận địa, và khải hoàn trở về với danh nghĩa một vị anh hùng dân tộc, được dân chúng ca ngợi. Một sĩ quan quân đội, muốn chiếm được những tấm huy chương vàng bắc đẩu bội tinh, với tấm bằng tưởng thưởng; hoặc muốn được thăng quan tiến chức, cũng cần phải lập được nhiều thành tích vẻ vang, nhiều chiến công oanh liệt.
Không khi nào người ta lại trọng thưởng cho những kẻ lười biếng, những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ chơi bời lêu lổng. Trái lại, những ai càng biết chịu khó, vất vả, hy sinh, chịu tủi nhục, càng lập được nhiều thành tích, càng đáng được trọng thưởng, được tôn trọng, được tán dương. Vì công trạng bao giờ cũng tương xứng với huân nghiệp đã lập.
II. ĐỂ ĐƯỢC PHỤC SINH VINH QUANG
Chúa Kitô, trong bài Tin Mừng hôm nay đã quả quyết: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt". Cũng chỉ vì muốn cho chúng ta được sự sống đời đời, mà Chúa đã phải quả quyết với chúng ta rằng: "Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời".
Đây là một bài học rất thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mần sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một cánh đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt. Trái lại, nếu hạt giống gieo xuống đất mà cứ trơ trơ, không đời nào có thể phát sinh bông hạt, khiến cho nhà nông phải thất vọng.
Chính Chúa Kitô, "Khi còn sống ở trần gian này, Người cũng đã phải lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết" và "Dầu là Con Thiên Chúa, Người cũng đã phải chịu muôn vàn thống khổ, phải chịu chết tất tưởi để khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả chúng ta" (xem Heb 5:7-9). Như thế, Người đã phải chịu chết, Người mới đem lại cho chúng ta sự sống, sự sống siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu của Người.
Để được phục sinh vinh hiển, Chúa Kitô đã phải trải qua sự chết. Nếu chúng ta muốn được phục sinh vinh hiển với Chúa, được Chúa cho tham dự sự sống thật của Người. Để được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa, đồng chung đau khổ, hy sinh, tủi nhục với Người. Không có hy sinh đau khổ thập giá, không thể có danh dự vinh quang được. Vì: "Per Crucem ad Lucem"-"Từ Thập Giá tới Nguồn Sáng".
III. ĐỂ ĐAU KHỔ CÓ GIÁ TRỊ CỨU RỖI
Với cái nhìn có vẻ bi quan, người ta gọi trần gian là nơi khổ ải, là thung lũng nước mắt; nhưng với cái nhìn lạc quan phấn khởi thì, trần gian lại là nơi lập công, là trường tập đức. Theo Thánh Phaolô thì thời gian sống trên trần gian, còn được mệnh danh là: "Thời cơ thuận tiện, là ngày cứu độ". Nhưng dù theo quan niệm nào đi nữa, thì chắc chắn: Trần gian chưa phải là nơi an hưởng hạnh phúc, cũng chưa phải là nhà vĩnh cửu; mà mới chỉ là nơi tạm trú, là đàng dẫn tới quê hương chân thật và vĩnh cửu là Thiên Quốc. Chúng ta sống trên trần gian chỉ là những lữ khách đang trên đường tiến về quê hương bất diệt, là nơi chúng ta sẽ được đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, sung mãn tràn đầy với Chúa là Cha đầy yêu đương của chúng ta.
Dù muốn hay không thì khi còn sống trên trần gian, chúng ta còn gặp muôn vàn điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh; nhưng nếu chúng ta biết vui lòng lãnh nhận, vui tươi chịu đựng vì lòng yêu mến Chúa, hợp với Giá Máu Cứu Chuộc của Chúa Kitô, thì những đau khổ đó sẽ giúp chúng ta đạt được Ơn Cứu Độ, có giá trị đền tội và lập công, thánh hóa mình và thánh hóa tha nhân. Trái lại, nếu miễn cưỡng, cực chẳng đã phải chịu, thì đau khổ sẽ chẳng đem lại ích gì cho chúng ta, lại còn làm cho chúng ta phải ngã quỵ.
Kết Luận
Tấm lòng hào hiệp và quảng đại hy sinh của một viên thư ký, trong một khách sạn nhỏ dành cho ông bà khách, giữa đêm khuya bão tố trong câu truyện chúng ta vừa nghe, đã khiến ông bà khách cảm phục và đã ban cho cậu một phần thưởng trọng hậu đến thế; thì những hy sinh đau khổ chúng ta vui lòng lãnh nhận vì lòng kính mến Chúa, còn đáng được Chúa trọng thưởng chúng ta gấp trăm ngàn lần hơn nữa. Vả nữa, phần thưởng đời này chỉ có cùng có hạn, nhưng phần thưởng Chúa ban cho chúng ta đời sau sẽ vô cùng vô tận.
Lạy Mẹ, Mẹ đã can đảm và quảng đại lãnh nhận mọi đau thương thống khổ của sứ mạng Đồng Công để hiệp thông với Chúa Cứu Thế Con Mẹ, lập nên Giá Cứu Độ cho chúng con; xin Mẹ cho chúng con cũng được can đảm theo gương Mẹ, chấp nhận tất cả mọi nỗi gian truân Chúa gởi đến, để chúng con cũng được thông phần với Chúa và Mẹ, hầu cứu độ tha nhân như sứ mạng Chúa đã ủy thác cho chúng con.
50.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Hãy tìm kiếm thiên thần trong sa mạc tâm hồn của bạn
Vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta đã nghe giao ước Noê diễn tả mối tương quan đặc biệt của Thiên Chúa với mọi loài sinh vật. Hôm nay, khi gần đến cuối Mùa Chay, chúng ta nghe trình bày một giao ước mật thiết hơn trong sách ngôn sứ Giêrêmia, đó chính là giao ước được ghi khắc trong tâm hồn. Bài đọc thứ nhất nhắc đến bản chất riêng tư trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, một ý tưởng cũng được nhắc lại trong bài Tin mừng ngày Chúa nhật này.
Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Giêrêmia nói về một mối tương quan mới sẽ được thiết lập giữa Thiên Chúa với dân Israel và Giuđa. Bối cảnh câu chuyện là cuộc xâm lược và hủy diệt Giuđa cùng những cuộc phát lưu trong thời kỳ lưu đày ở Babylon. Trong khi nhiều người chịu đau khổ thì Giêrêmia lại viết về niềm hi vọng vào tương lai. Ông thừa nhận những thất bại trong quá khứ, khi tổ tiên đã không triệt để giữ lời cam kết trong mối tương quan của họ với Thiên Chúa. Giêrêmia mô tả việc Thiên Chúa khắc ghi lề luật vào tâm hồn mỗi người bằng một hình ảnh ấn tượng: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm hồn chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.” Trong tiếng Do Thái, từ “trái tim” (leb) không chỉ dùng cho một cơ phận thân thể mà còn dùng để chỉ tâm trí. Trái tim được coi là nơi của tư duy lý trí và ý thức, tương tự như cách chúng ta nghĩ về bộ não. Khi Thiên Chúa khắc ghi luật nơi trái tim mỗi người, Ngài làm cho những đòi hỏi được thấm nhuần nơi sâu kín ở bên trong trung tâm của trí hiểu để con người có thể hiểu cách đầy đủ hơn ý định của lề luật, để bồi dưỡng mối tương quan tốt đẹp của con người với Thiên Chúa và gữa con người với nhau.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu gặp lại một số môn đệ của mình, chuẩn bị cho họ về cái chết sắp xảy đến với Ngài. Đầu tiên, chúng ta nghe nói về việc mấy người Hy Lạp mong muốn được gặp Chúa Giêsu, có lẽ điều này cho thấy sức hấp dẫn rộng lớn của Chúa Giêsu và hoạt động Kitô giáo trong tương lai đối với dân ngoại. Khi các môn đệ trình với Chúa Giêsu về cuộc gặp gỡ tiềm năng này, Ngài đáp lại bằng cách ám chỉ đến cái chết sắp xảy đến với Ngài. Tương tự bài đọc thứ nhất, Chúa Giêsu nói về sự đau khổ và niềm hy vọng tương lai. Chúa Giêsu báo trước việc Ngài và các môn đệ sẽ phải chịu đau khổ, nhưng Ngài nhắc nhở họ rằng để liên kết với Cha trên trời, họ phải phục vụ và đi theo Ngài.
Trong lúc tiếp tục trò chuyện với các môn đệ, Chúa Giêsu mặc khải mối liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha và lý do cái chết của Ngài. Chúng ta nghe thấy những lo lắng hết sức con người của Chúa Giêsu về cái chết, về nỗi kinh hoàng trước đau khổ mà Ngài phải gánh chịu và lời quả quyết, “bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến” (dịch sát nghĩa “tâm hồn Thầy bị khuấy động”). Khác với các sách Tin mừng Nhất lãm, Thánh Gioan không tường thuật về cơn hấp hối trong vườn Ghếtsêmani, nơi đó Chúa Giêsu cầu nguyện xin khỏi phải uống chén, tức là cho khỏi sự đau khổ và cái chết mà Ngài sắp chịu (xem Mt 26,39;Mc 14,36; Lc 22,42). Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan miêu tả nỗi lo lắng của Chúa Giêsu về cái chết, mặc dù Ngài nhanh chóng nhắc nhở bản thân rằng Ngài không thể thoát khỏi nhiệm vụ này.
Chúa Giêsu thưa chuyện với Cha trên trời, và dân chúng không thể hiểu hết được điều đó, giải thích tiếng nói đó như là tiếng sấm hoặc tiếng một thiên thần. Thay vào đó, Chúa Giêsu khẳng định rằng tiếng nói từ trời đó là Chúa Cha, Đấng đang nói trực tiếp với những ai đi theo Ngài và khẳng định rằng Ngài tôn vinh Chúa Cha qua cái chết của mình. Hơn nữa, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cái chết, sự phục sinh và lên trời của mình “kéo mọi người lên với Ngài”.
Khi bước vào những tuần cuối cùng của Mùa Chay, các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta chú tâm suy ngẫm về mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, kêu gọi chúng ta cầu nguyện, nhìn lại nội tâm và cảm tạ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia mời gọi chúng ta nhận ra mối liên hệ gần gũi cũng như sự quan tâm của Thiên Chúa đối với tất cả chúng ta, và thánh Gioan thôi thúc chúng ta để kết hiệp với Thiên Chúa qua mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô.
51.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Hữu An
GIỚI THIỆU CHÚA
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới thiệu sản phẩm, cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu:
- Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp Ta mọi đàng”. (Mt 4, 17).
- Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha”. (Ga 14, 9)
- Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian... Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi... Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần”. (x. Ga 1, 29-34).
Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđê đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 12, 20-33), Thánh Gioan Tông Đồ đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hy Lạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do Thái Giáo “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua”. Việc họ tìm đến với Chúa Giêsu mang tính biểu tượng: dấu chỉ báo trước sự lên đường đến với Đức Kitô của muôn dân; dấu chỉ loan báo giờ Ơn Cứu Độ đã đến.
Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không phải chỉ để trông thấy mà thôi, nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường Đức Tin.
Họ đến gần Philípphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu. Philípphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.
Hôm nay, trong Giáo Xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng vào Giáo Hội. Đây là nhừng người lương dân thiện chí muốn trở nên người Kitô hữu. Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu của Người. Sau sáu tháng học tập về Giáo Lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em
Dự Tòng, trở thành một Kitô hữu không chỉ là gia nhập một cộng đoàn Giáo Xứ, chấp nhận Giáo Lý của Chúa và Giáo Hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô tận của Người trong chính cuộc đời mỗi người.
Thật ra, mỗi người Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Người hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Người. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Người mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang đối diện với Người, gặp gỡ Người.
Một cuộc gặp gỡ, một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng. Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần. Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Người với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Người anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.
Kính thưa cộng đoàn, hôm nay Giáo Xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống Đức Tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các Hội Đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống Đức Tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin vào Người là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta. Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay Giáo Xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ Ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo Hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban. Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3, 16) và tình yêu thương ấy là: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
52.Khát khao gặp Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa nhật hôm nay (Ga 12,20-22), Thánh Gioan đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hylạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do thái giáo “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua“. Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không chỉ để trông thấy mà thôi, mà còn muốn gặp để chuyện trò đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường đức tin.
Họ đến gần Philipphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu. Philipphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.
Những người Hy lạp năn nỉ Tông đồ Philípphê: Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. Người Hy lạp ái mộ “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hy lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Người. (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực).
Chúng ta có ao ước gặp Chúa Giêsu không?
Để trả lời, trước hết nên tự hỏi lòng mình: tôi có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu thực sự tôi yêu mến Chúa, tôi rất ước muốn, khao khát gặp gỡ Người, và tôi sẽ tìm mọi cách để gặp Người cho bằng được. Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng, không giống như khi Chúa Giêsu còn tại thế, lúc mà những ai ao ước trông thấy Người, có thể thấy bằng mắt phàm; còn bây giờ tôi chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt đức tin, gặp Chúa bằng đức tin. Và nếu tôi ao ước thấy Chúa, gặp gỡ Chúa bằng đức tin, thì tôi sẽ toại nguyện, vì Chúa đã dạy rõ ràng : ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
Thứ đến, Chúa luôn hiện diện cho chúng ta gặp Người, đặc biệt là trong Thánh lễ. Gặp gỡ Chúa khi dâng lễ mới là quan trọng. Chính vì thế mà khi Anrê và Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu ước nguyện của mấy người Hy lạp, thì Chúa lại hướng các môn đệ đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh của Người. Chúa bảo, đã đến giờ Con Người được Tôn vinh, rồi Người lại nói đến hạt lúa mì gieo xuống đất phải chết đi mới sinh nhiều hạt khác. Và bấy giờ Người mới mời gọi ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó!. Như vậy là Ý của Chúa Giêsu đã rõ. Người hướng tất cả những ai muốn gặp Người, trong số đó có chúng ta, đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh. Nơi đó, lúc đó chúng ta sẽ gặp được Chúa. Điều đó không có nghĩa là phải đợi đến ngày lễ Phục Sinh, chúng ta mới gặp được Chúa. Chúng ta cùng nhau gặp Chúa ngay bây giờ khi cùng nhau cử hành Thánh lễ, và đón Chúa đến với chúng ta trong lòng Giáo Hội. Với đức tin, chúng ta gặp được Chúa trong mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh.
Chúa Giêsu đến trong Thánh lễ là Đấng đã chịu đóng đinh và chịu chết vì chúng ta, đã mặc lấy thân phận loài người như chúng ta, đã trải qua nhiều đau khổ, đã xin Thiên Chúa Cha cứu mình khỏi chết như lời thư gởi tín hữu Do Thái. Nhưng cuối cùng Người đã vâng phục Chúa Cha, sẵn sàng chịu chết. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người, cho Người sống lại từ cõi chết.Đó là mầu nhiệm Giáo Hội tuyên xưng và cử hành trong mỗi thánh lễ, là bí tích Giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với nhân loại nhờ Máu của Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, làm cho chúng ta thành Dân riêng của Thiên Chúa. Thánh lễ là bí tích của sự gặp gỡ, là bí tích của tình bằng hữu giữa Thiên Chúa và chúng ta nhờ Chúa Giêsu. Mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, hãy nhớ câu nói của mấy người Hylạp: Chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Philípphê và Anrê là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Chúa (1,35-46). Bổn phận người môn đệ phải chu toàn trong đời sống là làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp gỡ Chúa Giêsu.Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Chúa Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Chúa Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Chúa Giêsu và việc “gặp” Người còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Chúa nữa. Chỉ khi đó họ mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh.
Hôm nay, Giáo xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng gia nhập vào Giáo hội. Đây là những lương dân thiện chí muốn trở nên Kitô hữu.Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu của Người. Sau những ngày tháng học hỏi về giáo lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em Dự Tòng.
Trở thành Kitô hữu không chỉ là gia nhập vào cộng đoàn giáo xứ,chấp nhận giáo lý của Chúa Giêsu và Giáo hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô bờ bến của Ngài trong chính cuộc đời mỗi người.
Thật ra, mỗi Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Ngài hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Ngài. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực sự Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Ngài mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang gặp gỡ Ngài.
Một cuộc gặp gỡ,một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần.Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Ngài với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Ngài anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.
Kính thưa cộng đoàn.
Hôm nay giáo xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống đức tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các hội đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống đức tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin và gặp gỡ Ngài là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta.
Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay giáo xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban.Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu.Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương, ao ước và gặp gỡ Thiên Chúa tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn ” Đây là Chiên Thiên Chúa.Đây Đấng xoá tội trần gian“. (Ga 1,29). Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay.Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
53.Con đường hạt lúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
1. Con đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế". Như hạt lúa bị mục nát: "Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự". Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,6-11).
Phúc Âm Marcô viết: "Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại" (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. "Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: "Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem...Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại" (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.
2. Con đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta" (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: "Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa" (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là "đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết" (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu". Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
3. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự sống là: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
4. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Nếu "Hạt lúa âm thầm mọc lên" (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì "Hạt lúa phải mục nát đi" (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
54.Chính khi hiến thân là khi nhận lãnh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay Thánh (Chúa nhật IV) với lời mời gọi “Mừng Vui Lên“, và tiến bước sang chặng thứ hai, Giáo hội khuyến khích con cái mình tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này gia tăng niềm vui cho chúng ta khi tiến gần tới đích.
Bước vào Chúa nhật thứ V Mùa Chay, Giáo hội trình bày cho chúng ta đoạn Tin Mừng (Ga 12, 22-30), giúp chúng ta chuẩn bị bước vào Tuần Thánh tốt hơn và sống một cách sâu xa những mầu nhiệm quan trọng trong đời sống người Kitô hữu. Đàng Thánh Giá đối với người tín hữu là con đường phải qua, chết là để sống lại và hơn nữa để sống trọn vẹn đời sống người Kitô hữu, chúng ta phải chết.
Một phần đầu của đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24). Trong hình ảnh này chúng ta tìm thấy một khía cạnh khác nữa của Thập Giá Chúa Kitô. Thật vậy, cái chết của Chúa Giêsu là một nguồn suối vô tận của sự sống mới, bởi vì nó mang theo trong chính nó sức mạnh tái sinh của tình yêu thương của Thiên Chúa. Ðược dìm mình trong tình yêu đó qua bí tích Rửa Tội, kitô hữu có thể trở thành “các hạt lúa” và đem lại nhiều bông hạt, nếu họ “liều mất sự sống mình” vì yêu thương Thiên Chúa và các anh chị em khác như Chúa Giêsu (Ga 12, 25).
Khi chú giải đoạn Tin Mừng này thánh Augustinô đã giải thích như sau: “Chúa Giêsu tự ví mình là “hạt lúa mì” được gieo vào lòng đất chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt; Người được Chúa Cha sai xuống trần gian phải được hiến tế vì sự bất trung của người Do thái ngõ hầu đức tin của cả nhân loại được triển nở”. Bánh Thánh, được làm nên bởi muôn hạt lúa miến, được nhân lên và bẻ ra để trở nên tấm bánh cho mọi người. Của chết của các vị tử đạo luôn làm nảy sinh những người tín hữu; vì thế mới có cái ngược đời là, “ai yêu mạng sống mình” thì sẽ mất. Chúa Kitô chết để trao ban thịt máu mình cho chúng ta: phần chúng ta, chúng ta cũng phải bắt chước Chúa trao ban chính mình để được sống lại với Chúa và cùng với Chúa, trao ban quả phúc. Có biết bao người sống trong thinh lặng để mưu cầu lợi ích cho anh em? Từ sự thinh lặng và khiêm nhường ấy chúng ta học được bài học trở nên hạt lúa mì mục nát đi để lấy lại sự sống.
Phần kết của đoạn Tin Mừng hôm nay là một lời khuyên chúng ta tiến bước trong ánh sáng của Con Thiên Chúa trên toàn cõi địa cầu: “ … phần Ta, khi nào Ta chịu đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12, 32). Chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa là Cha nhân lành xua tan bóng tối ra khỏi lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói: “Ðã đến giờ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23). Chúng ta tự hỏi: Giờ đó là giờ nào? Thưa, đây là giờ của Thập Giá! Ðó cũng là giờ bại trận của Satan, ông hoàng của sự dữ, giờ chiến thắng vĩnh viễn của tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa. Chúa Kitô tuyên bố rằng “Người sẽ được nâng cao khỏi đất” (Ga 12, 32), đây là một kiểu diễn tả có hai nghĩa: “được nâng cao” bởi vì bị đóng đinh, và “được nâng cao” bởi vì được Thiên Chúa Cha tán dương trong việc Sống Lại, để lôi kéo tất cả mọi người đến với Người và hòa giải con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Giờ của Thập Giá, giờ đen tối nhất lịch sử, cũng là suối nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Người. Đây là giờ của Thiên Chúa, giờ phút được trao ban cho chúng ta, chúng ta đừng bỏ qua! “Các con còn ngủ ư?” chúng ta không thể thôi là ánh sáng thế gian này. Khi mặt trăng phản chiếu ánh sáng mặt trời, chúng ta phải phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa.
Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài. Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.
Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào trong Vương Quốc trên trời. Amen.
55.Giao ước tình thương--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lời Chúa trong bài đọc I hôm nay đề cập đến giao ước. Vậy, giao ước là gì? Giao ước là do sự thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải giữ, chẳng hạn như: giao ước hôn nhân, khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước sẽ không còn hiệu lực nữa.
Phản bội giao ước
Nếu xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân Israel, theo đó Thiên Chúa hứa Ngài là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá. Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng (x. Xh 32), dẫn đến hậu quả là nước mất, nhà tan, dân chúng lâm cảnh lưu đày.
Thiên Chúa không đành rút lại lời hứa, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu là lý do Chúa lại trao ban cho dân một giao ước mới, giao ước của tình thương. Giêrêmia là người duy nhất nói về “giao ước mới”, ông tuyên sấm: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng”. Họ đã bất trung, lỗi lời giao ước, chạy theo các thần ngoại mà thờ, không tuân giữ các điều Chúa truyền dạy, sống bất công và vô luân. Chúa là Thiên Chúa tình thương, vấn vương khi tạo dựng, lòng thành tín của Chúa trải muôn ngàn đời, không hề lỗi lời giao ước. Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập”.
Giao ước tình thương
Nội dung của giao ước mới là: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa,” vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi” (Gr 31,31-34).
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa trao ban Luật cho dân với một cách thức và công thức mới là ghi tạc vào lòng con cái Israel (x. Gr 31, 33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân với Chúa (x. Gr 31, 34) không qua trung gian: “Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em ” (Gr 31, 34). Theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông với Chúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: “Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 34), đây là nét đặc trưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước “khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân” (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong “giai đoạn” vượt qua.
Đức Kitô kiện toàn giao ước
Đêm Vọng Phục Sinh, có nghi thức làm phép nước rảy trên dân chúng, nếu có dự tòng thì sẽ rửa tội họ bằng nước phép này. Phép Rửa tội, bí tích khai tâm, cửa ngõ đức tin và là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Nước dùng để rửa tội là nước lã như mọi thứ nước, nhưng được làm phép để rửa tội nên nước ấy mang một ý nghĩa đặc biệt vì trong đó có giao ước giữa con người với Thiên Chúa.
Nếu trong Cựu Ước, phép cắt được coi là “dấu chỉ giữa Thiên Chúa và người dân của Ngài” (St 17,10-14). Thì đến thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến và ban dấu chỉ cứu rỗi (x. Cl 2,11); (1Pr 3,11).
Ðể chứng minh giao ước này là giao ước đời đời không hề thay đổi, Đức Giêsu đã trao ban bánh và rượu trong Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thịt và máu của Người, làm dấu chỉ giao ước hữu hình ở lại luôn mãi với loài người chúng ta (x. Ga 6,53-56, Mt 26,17-28). Như vậy, bằng lời hứa bất biến Thiên Chúa đã liên kết với chúng ta, nên Kinh Thánh gọi chúng ta là con của lời hứa: “Hỡi anh em, như Isaac, anh em là con cái của lời hứa” (Gal 4,28).
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta nhận lời hứa và phúc lành đặc biệt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ lời giao ước với Thiên Chúa và không vâng phục lời Chúa, chúng ta sẽ đánh mất phúc lành ấy.
Giao ước Thiên Chúa đã ký kết dân Israel qua trung gian Môise, cứu họ khỏi ách nô lệ Ai-cập, đưa vào đất Canaan, là xứ của lời hứa. Lúc ấy, Thiên Chúa không đưa họ tiến thẳng vào xứ Canaan ngay lập tức mà lại dẫn họ 40 năm trường trong sa mạc, ban cho họ các giới răn xem họ có vâng phục không (x. Đnl 8,2-16). Tuy nhiên, họ đã không tuân giữ, phần lớn trong số họ phải chết (x. Ed 20,10-13). Chỉ có hai người là Calép và Giôsuê vâng lời Thiên Chúa, và những người sinh ra trong sa mạc mới được đi vào xứ của lời hứa (x. Ds 14,6-38).
Hành trình vào Đất Hứa của dân Israel báo trước hành trình của người kitô hữu chúng ta về Nước Trời. Thật là bài học quí giá. Chúng ta cũng sẽ không thể vào được nếu chúng ta bất tín (x. Dt 3,18-19, 1Cr 10,1-11). Chúng ta hãy cỗ gắng tuân giữ luật Chúa và vâng theo lời Chúa để được vào Thiên Đàng. Amen.
56.Chết là khởi đầu đời sống mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Hạt lúa mang mầm sự sống, nhưng có chết đi mới sinh nhiều bông hạt, nếu không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Đó là quy luật của mọi mầm sống hướng tới ngày sinh hoa kết trái. Nhưng trước cái qui luật ấy, ai cũng sợ hãi, kể cả Đức Giê-su, vị Thiên Chúa làm người: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Tuy xao xuyến, sợ hãi trước ‘Giờ chết’, nhưng Đức Giê-su đã ý thức rằng: Chính lúc chết đi là thời khắc “Con Người được tôn vinh”. Nên Ngài đã sẵn sàng thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến” trong trần gian.
Quả thật, Đức Giê-su đã can đảm, tự nguyện chấp nhận chết treo trên cây thập giá và bị chôn vùi trong lòng đất, rồi ngày thứ ba mới sống lại vinh quang. Hơn nữa, Đức Giê-su có chấp nhận chết đi và chết một cách nhục nhã như thế, thì Hội thánh mới được sinh ra và mọi người mới được kéo lên cùng Thiên Chúa.
“Chết đi để được bước vào đời sống mới” là quy luật của sự sống tự nhiên cũng như sự sống siêu nhiên. Thế nhưng con người, nhất là người thời nay, kể cả các Ki-tô hữu thường chỉ áp dụng quy luật này trong việc tìm kiếm vinh quang trần thế và hạnh phúc đời này, còn sự sống và hạnh phúc đời sau thì chẳng thấy mấy ai. Cụ thể:
Có người sẵn sàng thức khuya dạy sớm, lao tâm khổ tứ để làm giàu, nhưng lại ngại khó ngại khổ trong đời sống đạo.
Có người học đủ mọi thứ, đọc đủ mọi chuyện, nhưng lại không chịu học giáo lý, không chịu đọc Tin Mừng.
Có người tham gia mọi cuộc chơi, không cuộc vui nào vắng mặt, nhưng lại ngại ngùng không tham gia hoạt động tông đồ.
Có người đi đủ mọi nơi mọi chỗ, nhưng nhà thờ, nhà xứ, lễ lạy không thấy đi bao giờ.
Có người tôn thờ, sùng bái mọi thứ, nhưng lại không chịu tôn thờ Chúa.
Có người sẵn sàng đầu tư tiền của, sức khoẻ, thời gian, tâm huyết cho công việc thế trần, nhưng lại chểnh mạng coi nhẹ việc đầu tư cho Nước Trời mai sau.
Có người cẩn thận tuân theo ngày tháng và ‘tứ thời bát tiết’ trong trời đất, để điều chỉnh cuộc sống và thu xếp công việc làm ăn, nhưng lại chẳng tuân theo ngày tháng và Mùa trong năm Phụng vụ mà điều chỉnh cuộc sống và thu xếp việc linh hồn
Có người tận tâm phục vụ mọi đối tượng đến nỗi bán rẻ cả nhân phẩm và coi thường mạng sống của mình, nhưng lại ngại ngùng phục vụ Đức Ki-tô và Vương quốc của Ngài.
Sống như thế là chỉ lo giữ mạng sống mình và tìm kiếm những sự đời này. Đức Giê-su dạy rằng: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời sau. Ai tin theo và phục vụ Thày, thì Thày ở đâu, kẻ tin theo và phục vụ Thày cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thày, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy”.
Lạy Chúa Giê-su, Ngài là hạt lúa mì của Thiên Chúa Cha gieo xuống cánh đồng trần gian đã vui lòng chết đi trên cây thập giá và phục sinh vinh hiển, để khai mở cho nhân loại một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Xin cho con cũng biết đóng đanh tính xác thịt, thế gian và tội lỗi cùng với Chúa, để được cùng với Ngài trỗi dậy trong vinh quang vĩnh cửu. Amen.
57.Mục nát đi để trổ sinh dồi dào bông hạt--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
(Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33)
Theo quy luật tự nhiên, chúng ta thấy cỏ cây ngoài đồng được mọc lên là nhờ vào những hạt giống đã chấp nhận bị chôn vùi, mục nát, để trổ sinh những cây non khác.
Theo quy luật sinh tồn của loài người cũng vậy! Cuộc sống của người này phụ thuộc vào người kia, nhất là sự sống của con cái phụ thuộc và sự sống và hy sinh của cha mẹ.
Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, con người có được sự sống thần linh, ấy là nhờ vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Ngài đã chấp nhận trở nên như hạt giống gieo vào lòng đất, để mục nát, để sinh ra và để nuôi sống chúng ta.
Như vậy, nếu hành trình của Đức Giêsu trên trần gian là hành trình mục nát của hạt lúa gieo vào lòng đất, thì với các môn đệ cũng như với tất cả chúng ta, những người mang danh của Ngài, chắc chắn không còn con đường nào khác để được hạnh phúc và sự sống đời đời mà không đi qua con đường của hạt lúa!
1. Con đường tự hủy của Đức Giêsu
Thiên Chúa yêu thương nhân loại vô bờ, nên đã cống hiến “hạt giống Giêsu” cho loài người. Vì muốn làm đẹp lòng Chúa Cha, nên ngay từ giây phút đầu tiên trong thân phận hạt lúa, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn vai trò của mình, khi “… không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”. Và: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 6-8).
Thật vậy, con đường của Đức Giêsu đi là con đường tự hủy dẫn đến cái chết tức tưởi trên thập giá. Vì thế, việc hạ mình của Ngài đã làm cho rất nhiều người không thể hiểu được, nên đôi khi lại trở thành trò cười cho thiên hạ, thành sự thất vọng cho các môn đệ.
Chính vì Đức Giêsu lội ngược dòng như vậy, nên Phêrô đã không thể chấp nhận thầy của mình phải chịu như thế, nên khi được nghe loan báo về cuộc khổ nạn qua con đường khổ giá, ông đã mạnh mẽ lên tiếng can ngăn để Thầy khỏi bị những điều đó! (x. Mt 16, 22).
Nhưng Đức Giêsu đã nhất quyết vâng phục Thiên Chúa Cha để đi trọn vẹn con đường của hạt lúa trong thân phận tự hủy mà Cha của Ngài đã muốn Ngài phải đi. Chính vì điều đó, nên đến “Giờ” của Ngài: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11).
2. Con đường tiếp bước của các môn đệ
Cùng một con đường như Thầy đã đi, các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trên con đường ấy. Vì thế, nơi các ông không thể có một con đường nào khác để thay thế con đường tự hủy trong thân phận hạt giống mục nát.
Quả thật, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34).
Như vậy, đi theo Chúa là đi trên con đường khổ giá, con đường của hy sinh, con đường dẫn đến cái chết. Tất cả những điều đó đang rộng mở để đón chờ người môn đệ của Thầy Giêsu bước tới. Điều này đã được thánh Phaolô cảm nghiệm và chia sẻ, ngài nói: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24).
Quả đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ” (Mt 10, 24). Vì thế, người môn đệ chân chính chắc chắn phải là người phác họa lại hình ảnh, lối sống và hành vi của Thầy mình cách rõ nét hơn bao giờ hết! Thế nên, với người môn sinh, không có gì vinh dự và hãnh diện cho bằng: “Được thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11).
Khi nắm được quy luật tất yếu: “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26), các môn đệ đã trung thành đi đến cùng con đường khổ giá bằng việc lấy chính mạng sống của mình để làm chứng cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, không chỉ riêng các môn đệ, mà trải qua suốt dòng lịch sử, thời điểm nào cũng vẫn có người tiếp bước trên con đường tự hủy của hạt lúa mì, đó là chấp nhận từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục và chấp nhận cái chết để đổi lấy sự sống đời đời.
3. Con đường dấn thân của mỗi chúng ta
Người ta vẫn thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, tức là chúng ta mang trong mình đặc tính, hình ảnh của Đức Giêsu và thuộc về Ngài hoàn toàn.
Nếu Đức Giêsu đã đi qua con đường vâng phục, đón nhận khổ giá và chấp nhận cái chết để cứu chuộc con người. Thì đến lượt chúng ta, có lẽ không con đường nào có thể đem lại cho mình sự sống đời đời ngoài con đường khổ giá và hy sinh. Vì thế, cùng một lời mời gọi cho các môn đệ khi xưa, hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34).
Lời mời gọi này đã đưa chúng ta vào con đường của Đức Giêsu đã đi. Vì thế, chúng ta sẵn sàng mục nát đi cho ý riêng, để thay vào đó là hoa trái của đức vâng phục. Mục nát đi tính tự kiêu, tự phụ, khoe khoang, thích được ăn trên ngồi trước, được mọi người trọng vọng, để thay vào đó là hoa trái của lòng khiêm nhường. Mục nát đi sự dửng dưng, vô cảm để thay vào đó là sự liên đới, tình huynh đệ. Mục nát đi tính ích kỷ, óc bè phái để thay vào đó là hoa trái của lòng bao dung, quảng đại, yêu thương, thứ tha và hiệp nhất. Mục nát đi sự giả dối, gian tham, lọc lừa, để thay vào đó là hoa trái của sự thật thà, liêm chính. Mục nát đi thái độ được phục vụ, để thay vào đó là tinh thần hiến thân phục vụ mọi người. Mục nát đi những trào lưu tục hóa, dục vọng, để thay vào đó là hoa trái của sự thánh thiện. Và, mục nát đi những “chân lý nửa vời”, những hành vi tôn thờ ngẫu tượng, để thay vào đó là lòng khát khao đi tìm chân lý trọn vẹn là chính Chúa và tin tưởng tuyệt đối ở nơi Ngài….
Như vậy, khi chúng ta chấp nhận đi trên con đường của Đức Giêsu trong thân phận của hạt lúa, chắc chắn cuối con đường ấy, chúng ta sẽ gặp được niềm vui, bình an và hạnh phúc, nhất là được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn giúp sức cho chúng con, để chúng con can đảm, trung thành đi đến cùng con đường mà chính Chúa đã đi khi xưa, ngõ hầu chúng con được hạnh phúc bất diệt trong ngày mùa sau hết. Amen.
58.Xin tôn vinh Danh Cha--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Giờ của Chúa Giêsu lần đầu tiên được loan báo đã đến (12,23; x. 8,20). Bước sang chương 13 giờ của Người về với Chúa Cha bắt đầu được thực hiện dần. Bố cục của chương 12: – Xức dầu (cc. 1-8), – Vào Giêrusalem (cc. 9-19), – Loan báo sự chết và vinh quang (cc. 20-36), – Kết luận về sứ vụ của Người (cc. 37-50). Có thể chia 12,20-33 làm hai phần: đoạn 12,20-28 với dẫn nhập (cc. 20-22) và đoạn 12,28b-33 với kết luận (c. 33). Ngoài dẫn nhập và kết luận là lời của thánh sử, phần còn lại của đoạn tin mừng nầy được kể là lời của Chúa Giêsu. Có hai lưu ý: 1- Người nói theo cách trực tiếp, ở ngôi thứ nhất; 2- Có những chỉ dẫn về thời gian như “giờ” (cc.23.27[2x]), “bây giờ” (c.27.31[2x]) liên quan đến sự chết và sống lại của Người.
Người Hy lạp tìm đến và muốn gặp Chúa Giêsu (cc.20-22). Điều nầy ám chỉ ơn cứu độ của Người đã đến lúc mở ra cho mọi người; chỉ được bắt đầu từ “giờ” của Người. Đoạn 12,23-28 được đóng khung bởi câu 23 và 28, nói đến “giờ” và “sự tôn vinh” của Chúa Giêsu; đoạn nầy có thể chia thành hai: cc. 23-26 và cc 27-28. Trong cc. 23-26 Chúa Giêsu đưa ra ba quy luật về sự chết và sự sống: – Nếu không chết đi không thể sống lại (c. 24; x. 1 Côr 15,36); – Nếu từ bỏ sự sống đời nầy đi sẽ tìm thấy sự sống lại ngay trong đó (c. 25); – Nếu theo Chúa sự sống lại sẽ được bảo đảm (c. 26; x. 14,3; 17,24).
Chúa Giêsu áp dụng các quy luật nầy cho chính mình trước tiên. Thánh Gioan không thuật lại cảnh Người trong vườn Giệtsêmani, mà chỉ có các câu 12,27-28a. “Giờ” mà Người xin Chúa Cha cứu khỏi là giờ chết. Giờ nầy chính là “chén” mà Người xin khỏi uống (x. Mc 14,36). Tuy nhiên, Người đã xin Chúa Cha tôn vinh chính danh của Người, nghĩa là thực hiện ý định cứu chuộc nhân loại bằng sự chết của Người (c. 28a; x. 18,11).
Đoạn 12,28b-33 ghi lại lời của Chúa Cha và kết quả sự chết của Chúa Giêsu. Chỉ trong phúc âm Gioan mới có tiếng Chúa Cha đáp lại Chúa Giêsu trong cơn hấp hối. Động từ “tôn vinh” được dùng hai lần, ở thể chủ động, và ở thì quá khứ và tương lai. Chúa Cha chuẩn nhận lời cầu xin của Chúa Giêsu, và xác nhận là Người đã tôn vinh danh của Người qua những việc Chúa Giêsu đã làm và sẽ còn làm vinh danh Người nữa trong sự chết và sống lại của Con của Người. Như thế, trong phúc âm nhất lãm, sự im lặng của Chúa Cha trước lời cầu xin của Chúa Giêsu hàm ý là Người muốn Chúa Giêsu phải chết để tôn vinh danh Người.
Việc Chúa Giêsu chết có hai kết quả đối nghịch nhau: kéo những người tin đến với Người (cc. 30.32), và loại ra ngoài những ai không tin (cc. 31-31). Xét theo thời gian, việc Chúa Cha tôn vinh danh Người (c. 28), việc phán xét thế gian (c. 31), việc mọi người được hưởng ơn cứu độ (c. 32) diễn ra cùng lúc khi Chúa Giêsu bị treo cao trên thánh giá, chết và được tôn vinh (c.23.32).
Vì yêu thương và muốn cứu thế gian mà Thiên Chúa đã ban Người Con. Đừng để Người Con ấy phán xét vì đã không tin vào tình yêu của Cha Người.
59.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Để mô tả một sứ mệnh, người đời thường nêu lên những chương trình, kế hoạch to lớn mà họ sẽ thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên chẳng có ai nói về cái chết của họ như phần cốt yếu trong sứ mệnh cả! Đối với Chúa Giêsu, cuộc Thương khó và cái chết của Người mới là tột đỉnh của sứ mệnh. Cái chết của Người cần thiết để chu toàn sứ mệnh, sứ mệnh của “Con Một” được Chúa Cha ban cho nhân loại để minh chứng sự thật “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian” như thế nào. Bài Tin Mừng tuần trước cho ta hình ảnh cái chết cứu độ của Chúa Giêsu: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Chúa Nhật hôm nay, bài Tin Mừng lại đề cập đến cái chết cứu độ của Chúa Giêsu qua một hình ảnh sống động và quen thuộc: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
a) Cái chết đem lại sự sống
Qua hai hình ảnh, con rắn đồng treo cao trong sa mạc và hạt lúa gieo vào lòng đất, Chúa Giêsu đều muốn nói lên ý nghĩa và hiệu quả cái chết của Người, là cứu sống và ban sự sống. So sánh giữa con rắn đồng trong sa mạc với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Gôn-gô-tha thật vô cùng ý nghĩa. Rắn lửa sa mạc đã làm cho nhiều người Ít-ra-en phải chết. Cũng thế, trong vườn địa đàng con rắn Xa-tan quỷ quyệt đã cắn nguyên tổ loài người và gieo nọc độc là tội lỗi và sự chết cho nhân loại. Thiên Chúa thực hành nguyên tắc dĩ độc trị độc, đã dùng hình ảnh con rắn đồng để cứu sống dân Ít-ra-en. Giờ đây, Người lấy chính cái chết của Con Một Người trên thập giá để đánh bại cái chết và tội lỗi, đem lại sự sống cho nhân loại.
Hình ảnh hạt lúa gieo xuống lòng đất cũng hết sức linh hoạt. Hạt lúa muốn trở thành một cây lúa và sinh bông hạt cần phải trải qua một tiến trình kỳ lạ. Trước hết nó phải nằm trong bàn tay người gieo hạt. Ông ta vung nó xuống đất. Nằm trong lòng đất, nó phải chờ đợi những yếu tố cần thiết để bắt đầu một cuộc biến đổi: một khoảng đất màu mỡ, hơi ẩm của đất, ánh nắng mặt trời... Tất cả sẽ ảnh hưởng tới lớp vỏ bên ngoài, làm cho nó vỡ ra và mục nát. Lúc vỏ trấu vỡ ra là lúc hạt lúa thấy mình sắp sửa không còn là hạt lúa nữa! Rồi mầm sống dấu ẩn bên trong được đánh thức dậy, nảy nở, biến thành một mầm xanh, thoát ra khỏi lớp vỏ đã vỡ và từ từ chui lên khỏi lòng đất để đón lấy ánh mặt trời. Biến thành cây lúa, nó không còn là hạt lúa nữa. Nhưng chính nó sẽ đem lại nhiều hạt lúa khác.
Nếu đem so sánh hình ảnh trên với cuộc đời Chúa Giêsu, ta sẽ thấy một tiến trình y hệt. Chúa Cha đã gieo hạt lúa Giêsu xuống trần gian, đặt trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Người đã sinh ra, lớn lên và sống ẩn dật tại Na-da-rét. Người đã lên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Sau hết, qua cái chết cứu chuộc, Người đã cứu mọi người khỏi tội lỗi, phục hồi cho nhân loại sự sống đời đời mà ma quỷ đã cướp đi khi nguyên tổ không tuân phục Thiên Chúa. Đặc biệt, cuộc Thương khó, cái chết trên thập giá, an táng trong mồ và sự Phục sinh của Chúa Giêsu quả thực là những diễn tiến y hệt như tiến trình biến đổi của hạt lúa. Như hạt lúa phải chết đi để đem lại sự sống cho những hạt lúa khác thì Chúa Giêsu cũng phải chết đi để chia sẻ sự sống đời đời cho toàn thể nhân loại.
b) Những bài học về hạt lúa
Không phải Chúa Giêsu chỉ nói về sứ vụ của Người là chết để loài người được sống, nhưng Người còn đưa ra những bài học vô cùng ý nghĩa về cái chết của hạt lúa.
Bài học đầu tiên là về sự ưu tiên của sự sống đời đời, được trình bày qua nghịch lý sống và chết, tạm bợ và vĩnh cửu. Sống ở đời này, nếu ta chỉ lo lắng hưởng thụ mà không lấy cuộc sống để phục vụ, ta sẽ mất cuộc sống vĩnh cửu mai sau, tức là chết muôn đời. Nếu ta lấy cuộc sống đời này như một cơ hội để phục vụ, làm điều lành mặc dù phải chịu thiệt thòi, thì ta sẽ được sự sống muôn đời.
Bài học thứ hai về gương phục vụ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phục vụ mọi người vì Người nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi người khác. Phục vụ người khác là phục vụ chính Thiên Chúa ở trong họ. Giờ đây, Chúa Giêsu đã đồng hóa Người với anh chị em. Người khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ta là môn đệ Chúa Giêsu nên là người phục vụ Chúa trong anh chị em. Sống đời phục vụ, ta sẽ được Thiên Chúa Cha “quý trọng” như Người đã quý trọng Con Một Người.
Bài học thứ ba là biết xử sự sao cho đúng khi ta cảm thấy xao xuyến vì phải chấp nhận hy sinh. Chúa Giêsu biểu lộ hoàn toàn những tâm tình hãi sợ, xao xuyến khi thấy cái chết tủi nhục đến gần. Cảm giác “biết nói gì đây?” đã cho ta thấy Người như bị tê liệt, hoảng hốt. Nhưng đó cũng chính là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn sự tín thác của Người nơi bàn tay quan phòng của Chúa Cha. Người chỉ còn nhìn thấy một điều ưu tiên phải làm, tức là làm cho Danh Cha được tỏ rạng. Tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa Giêsu ở trần gian này là để tôn vinh Danh Cha. Cái chết của Người sẽ là hành vi cuối cùng làm cho Danh Cha được chiếu sáng tột đỉnh. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha đã biểu lộ sự tuân phục tuyệt đối. Lập tức Chúa Cha nhìn nhận việc tôn vinh Chúa Giêsu đã làm cho Người và đáp lại với lời hứa chính Người sẽ tôn vinh Chúa Giêsu qua cuộc Phục Sinh vinh hiển.
c) Cuộc phán xét thế gian này đang diễn ra
Nói đến cái chết của Người, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hướng đến một trời mới đất mới: quyền lực ma quỷ và thế gian sắp bị đánh bại. Cái chết của Người sẽ dứt khoát làm cho “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Sau chiến thắng ở vườn Địa đàng, thế gian này đã biến thành lãnh thổ của Xa-tan rồi. Nó tha hồ tung hoành và khống chế con người. Nhưng sau chiến thắng của Chúa Giêsu nhờ cái chết, Xa-tan không còn đất đứng nữa. Con đường đi đến với Thiên Chúa đã được nối lại để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Tuy nhiên ta nên hiểu cuộc phán xét thế gian, hoặc chiến thắng của Chúa Giêsu là điều đang tiếp tục xảy ra và sẽ kết thúc vào ngày thế mạt khi Người trở lại để phán xét muôn loài. Do đó, ngay bây giờ và tại thế gian này, Chúa Giêsu mời gọi ta tham dự vào cuộc chiến thắng ấy bằng cách để cho Người “kéo ta lên với Người”. Đừng chống cự, nhưng ta cứ theo Người, để cho Người kéo ta vào trong mối thâm giao với Người và ngày sau được chung hưởng vinh phúc với Người. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy để cho Người kéo ta lên với Người trên thập giá, bắt chước Người cam chịu mọi gian nan thử thách, nhưng vẫn luôn trung thành và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu không? Tôi đã cầu nguyện về cái chết của Người như thế nào? Cái chết ấy ảnh hưởng gì đến đời sống đức tin của tôi?
Bài học nào về hạt lúa Chúa dạy làm cho tôi phải suy nghĩ nhất? Tại sao? Tôi sẽ thực hành như thế nào?
Điều gì ngăn cản tôi, không để cho Chúa Giêsu kéo tôi lên với Người? Tôi sẽ nghe Chúa nói gì về tình trạng này?
Cầu nguyện
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
- Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
60.Học Yêu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).
Một trong những khao khát đượm tình hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.
Quy luật của tình yêu đã được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chắc hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Đã là quy luật thì có tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết thế nào là yêu thương.
Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy người điếc được nghe… Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.
Yêu thương cách đích thực là cho đi những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống, để sống kiếp “không chỗ tựa đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau xót đến tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.
Mất những tất cả gì mình có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.
Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.
61.Chuyện tình có hậu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Hàng năm theo niên lịch phụng vụ, để chuẩn bị cho đại lễ Giáng Sinh, Hội Thánh không chỉ dành quãng thời gian mùa Vọng mà còn dành một tuần đặc biệt từ 17-24/12 như thời gian chuẫn bị gần. Tuần đặc biệt này có các bài đọc riêng để giúp tín hữu y thức hơn. Để đón mừng đại lễ Phục Sinh, đón mừng mầu nhiệm Khổ Nạn - Phục Sinh của Đức Kitô thì có những ngày mùa chay thánh và tuần lễ chuẩn bị gần khởi từ chủ nhật thứ V mùa chay. Xin chia sẻ đôi nét suy nghĩ được gợi ý từ hai bài đọc của ngày thứ hai tuần đặc biệt này: bài trích sách tiên tri Đaniel kể về chuyện bà Suzana và bài trích tin mừng thánh Gioan về chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang.
Thưở còn "làm chú" trong Tiểu Chủng Viện dù phải nghe một bài đọc rất dài, bài trích sách tiên tri Daniel nhưng không ai trong chúng tôi cảm thấy oải vì chuyện kể về bà Suzana vừa hấp dẫn vừa lôi cuốn trí tò mò của các chú thiếu niên đang độ tuổi nhổ giò. Hơn nữa, ai cũng hể hả như vừa theo dõi một cuốn phim hay, một câu chuyện đậm tính bi hài mà lại kết thúc có hậu: kẻ gian ác phải chết còn người vô tội thì được cứu sống. Câu chuyện bà Suzana còn trên môi miệng những chú tinh nghịch trong các giờ chơi những ngày sau đó: nè,cho tao biết cây chò hay cây sồi? Sự tinh nghịch của chúng tôi cũng có phần do thích thú trước trí thông minh của cậu bé Đanien biết phân biệt điểm khác nhau giữa sự thật và điều dối trá. Sự thật vì chỉ có một nên phải tương đồng còn điều dối trá thì dễ khác biệt. Đây là một trong những chìa khoá giúp các nhà điều tra tìm ra sự thật hoặc phát giác sự giả dối. Hai người gian dối nếu không quá lanh mưu hay lưu manh thì rất dễ lộ tẩy do những khác biệt trong lời khai về một vấn đề hay một sự kiện. Đanien đã khôn ngoan tách hai ông lão dù tóc đã bạc nhưng tuổi mãi ở tầm 35 riêng ra để tra xét. Và thế là sự dối trá đã lộ ra nơi chính lời khai của hai ông. Người thì nói bà Suzana phạm tội dưới gốc cây sồi ông kia lại bảo dưới gốc cây chò. Thú thật khi chọc ghẹo nhau, lũ mới lớn chúng tôi đã tự thú nhận trí tò mò của mình về những chuyện " rồi ai cũng sẽ biết". Tuy nhiên phải nhìn nhận điều này rằng tính có hậu của câu chuyện làm ai ai cũng hể hả. Kẻ gian ác, dù là vị vọng hay quyền cao chức trọng cũng phải chết, phải bị nghiêm trị còn người vô tội cần được cứu sống, người thấp cổ bé miệng và người bị bóc lột, bị áp bức cần được giải phóng. Chúa đã thực thi điều ấy và chúng ta đương nhiên phải làm như vậy. Phải có công bình và cần giữ công lý nghiêm minh.
Trên núi cây dầu, trời vừa tảng sáng, một đoàn người trai gái, già trẻ, lớn chức, bé quyền đủ cả, mặt hí hửng dẫn một chị phụ nữ ngoại tình đến gặp Chúa Giêsu: " Thưa thầy hạng phụ nữ này theo luật Môsê thì phải ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy thế nào?". Thánh Gioan nhận ra đây chính là một mũi tên nhắm hai mục đích mà mục đích chính là Chúa Giêsu. Những tưởng rằng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, Chúa Giêsu thế nào cũng bị sập bẫy, một cái bẫy tinh quái, hiểm độc do các luật sĩ và biệt phái giăng ra để thực hiện âm mưu thâm độc của mình. Các ông này không ngần ngại thức trắng đêm để bắt tại trận tội yếu đuối, bất trung của người phụ nữ để làm mồi nhử, hãm hại Chúa Giêsu. Nếu tội của người phụ nữ là một thì tội các ông này phải đáng mười vì đâu phải do yếu đuối như chị phụ nữ kia mà là do lòng nham hiểm ác độc, một sự ác độc nham hiểm tột độ đến nỗi không chừa một thủ đoạn bỉ ổi nào.
Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất và khi bị gặn hỏi nhiều lần Ngài đã đứng lên rồi ôn tồn: "Ai trong các ngươi xét mình vô tội hãy ném đá chị này trước đi'. Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục lấy ngón tay viết lên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng chắc chắn khó có ai đọc ra vì trời vừa tảng sáng và khoảng cách giữa Ngài với đám đông chắc không thể gần vì có sự ngăn cách của người phụ nữ, nhất là đám đông đứng đối diện thật khó mà đọc được những gì Ngài viết. Xét theo công lý như cảm nghĩ của con người thì những người có mặt sáng hôm ấy (trừ Chúa Giêsu), tất thảy đều phải chết, nhất là những kẻ lòng dạ nham hiểm, ác độc.
Tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của ta và đường lối của ta vượt cao hơn tư tưởng và đường lối các ngươi bấy nhiêu. Mạc khải của Thiên Chúa dần hé mở qua lời của tiên tri Isaia. Mạc khải ấy nay hiện thực và nên hoàn hảo nơi chính Đức Giêsu: kẻ có tội, người gian ác không phải chết. Đám đông hung dữ hôm ấy lẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đã được cứu sống bằng lòng nhân hậu của Chúa Giêsu. "Ta cũng không kết tội chị hãy về và đừng phạm tội nữa". Chúa Giêsu không chỉ khoan dung với chị phụ nữ mà còn tế nhị đánh thức lương tri của đám đông hiểm độc bấy giờ. Thánh Gioan đã tường thuật rằng sau khi ngẩng lên nói: "Ai trong các ngươi...... “thì Ngài lại cúi xuống viết dưới đất. Giả như lúc bấy giờ sau khi nói, Chúa Giêsu vẫn ngước mắt nhìn chằm chằm vào đám đông thì thử hỏi có được mấy ai tự nguyện rút lui, nhất là người rút lui đầu tiên. Hình như Chúa Giêsu không muốn nhìn, Ngài tế nhị tạo cơ hội cho những người hôm ấy nhìn nhận tôi lỗi mình và rút lui trong danh dự. " Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tôi lỗi của loài người, để họ còn ăn năn hối cải' (Kn 11,23).Kẻ gian ác đã được cứu sống đúng như lời Chúa đã phán: "Ta lấy mạng sống ta mà thề: Ta đâu muốn cho kẻ dữ phải diệt vong, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống". (x.Ed 18,23).
Lẽ công minh theo cảm nghĩ của con người, một kết cục có hậu mà thường ai cũng thích khi xem phim hay đọc tiểu thuyết đó là kẻ gian ác phải chết và người công chính được cứu sống. Tuy nhiên đây chỉ là lẽ công minh hay là sở thích của đám đông dân thường. Với các hiền triết, các nhà đạo đức thì dường như có cao hơn một bậc. Nên khoan dung với người có tội, cần lượng thứ cho người gian ác để giúp họ hoán cải, ăn năn. "Buông đao thành Phật. Quay đầu là bờ". Những lời giáo huấn trong Phật giáo cho ta hay chân lý này. Các quốc gia tiến bộ đã và dần bỏ án tử hình. Án hình giam giữ cũng là một trong những cách thế giúp tội nhân có cơ hội ăn năn và sửa đổi. Kẻ gian ác không bị diệt trừ ngay nhưng cần được giáo huấn để đổi thay.
Tuy nhiên để thực hiện điều này thì một người công chính, duy nhất xứng là công chính đã không được cứu sống. "Người này đích thực là người công chính" (Lc 23,47). Để kẻ gian ác được cứu sống thì Giêsu Kitô, người công chính đích thực đã phải chết. Chuyện thật nghịch lý nhưng rất đượm tình. Chết cho người công chính thì xưa nay vốn hiếm, ở đây Thiên Chúa lại tự nguỵên hy sinh vì chúng ta là những tội nhân. Tình yêu thật khó lý giải vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Có nhiều người dễ biện minh rằng nếu ta hành xử như thế thì có thể làm cho nhiều người lạm dụng tình yêu và không chịu đổi thay hay vươn lên. Cũng có thể lắm nhưng ngược với khôn ngoan loài người như Tào Tháo đã quan niệm: thà ta phụ người chứ không để người phụ ta hay thà giết lầm hơn bỏ sót thì với tình yêu đích thật phải chăng phải là thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Dẫu có lầm thì cái lầm trong tình yêu cũng thật đáng yêu vậy.
62.Bước đường theo Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Ga 12: 20-33: Quả thật "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác».
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Hạt lúa mì được geo xuống lòng đất. Nó nằm sâu trong lòng đất, nóng nực, bức bối. Rồi nó lại phải thối đi. Thối đi qua việc hút nước ẩm trong lòng đất. Rồi phải xé rách vỏ hạt. Đau đớn lắm chứ! nhưng nhờ đó, nó mới có thể cắm rễ vào lòng đất rồi nẩy mầm. Sau đó tiếp tục phát triển để có thể sinh sản nhiều hoa trái khác.
Con người cũng vậy. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Do đó, chết là điều kiện thiết yếu của sống, và đau khổ là điều kiện thiết yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác?
Theo như Flor McCarthy thì “chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
- mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi,
- mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi,
- mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi,
- mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Quả thật "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo: vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo tựa đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa".
Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh lao phổi. Mặc dù được điều trị bằng rất nhiều thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện nhưng bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời.
Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!". Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên nhưng bà không thể quên được câu chuyện ấy. Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con mỏi mệt lắm rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật, con cũng xin vâng!". Về sau, Catherine kể lại rằng, chính vào lúc đó, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết đi với ý riêng của mình, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Nếu chị nữ tu không chết đi với ý riêng của mình để nói lên câu: "Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!" thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết đi với ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái. Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: "Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn", thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh tật. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà đã được lành bệnh và kết sinh hoa trái.
Cả hai câu chuyện về chị nữ tu và Catherine Marshall đều dạy chúng ta cùng một bài học. Chúng ta phải biết sẵn lòng làm chết đi ý riêng của mình nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Thật thế, qua kinh nghiệm trên, mỗi người chúng ta khám phá ra rằng: nếu lúc nào chúng ta cũng nghĩ đến sự an toàn bản thân thì chỉ tạo ra sự sợ sệt, lo lắng và mất bình an.
Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến.
Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đây. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết.
Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả thật là một điều cần thiết cho những ai đang bước theo Chúa trên con đường khổ giá: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác». Amen.
63.“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”--Gs. Phạm Văn Lưỡng
I. BỐI CẢNH BÀI TIN MỪNG
Trình thuật Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh người Do Thái lũ lượt tiến về Giêrusalem để mừng đại lễ Vượt Qua theo luật dạy. Khi “nghe tin Đức Giêsu cũng tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12, 12-13). Họ đâu ngờ rằng, trong đại lễ này, chính Đức Kitô, là Chiên Vượt Qua Mới, sẽ biến thành lễ Vượt Qua Mới để cứu chuộc nhân loại.
Ngay đầu trình thuật (câu 20), tác giả Gioan kể rằng, không chỉ có người Do Thái lên Giêsusalem thờ phượng Thiên Chúa mà còn có mấy người Hy Lạp là những người ngoại giáo cũng đến đền thờ để tỏ lòng tôn kính thờ phượng Người. Câu 21-22, tác giả Gioan kể tiếp, những người Hy Lạp này đã qua trung gian các môn đệ Philipphê và Anrê mà xin được gặp Đức Giêsu. Từ "gặp" trong Kinh Thánh có nghĩa là "tin". Những người ngoại giáo này đã tin vào Người, Sự kiện này cho thấy chương trình Cứu Độ là phổ quát, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc chứ không chỉ hạn hẹp trong dân Do Thái. Đức Giêsu trả lời khi hai môn đệ hỏi Người:
"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23) hàm ý Ơn Cứu Độ phổ quát ấy giờ đây bắt đầu được thực hiện. Từ câu 23, tác giả Gioan không còn nói gì đến những người ngoại giáo này nữa, cũng chẳng cho biết lời yêu cầu của họ có được toại nguyện hay không, nhưng để tập trung bài trần thuật của mình vào Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh nhờ mầu nhiệm khổ nạn, thập giá mà Người sẽ phải Vượt Qua để vào vinh quang Phục Sinh.
II. GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH:
1. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Từ "giờ" được sử dụng hai mươi sáu lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, "giờ" này còn chưa đến. Chúng ta lấy một ví dụ: Thân mẫu của Đức Giêsu, trong khi muốn cậy nhờ đến Con mình ở tiệc cưới Ca-na, được nghe trả lời rằng: "Giờ của con chưa đến" (Ga 2, 4)... Mãi đến đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu mới mặc khải "giờ" của Người đã đến.
2. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ, vừa là sự chết, vừa là sự tôn vinh. Giờ, vừa là Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là Chúa Nhật Phục Sinh. Để diễn tả sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Đức Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Đây là một bài học thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mầm sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt (trích bài suy niệm của Lm. Minh Văn CMC). Cũng như hạt giống, Đức Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái là ơn cứu độ cho mọi người, kể cả lương dân.
3. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Cái chết của Đức Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang phục sinh, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội.
Cái chết của Đức Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì "Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12, 26). Quả vậy, các câu 25 – 26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Đức Giêsu:
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thướng mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời (Ga 12, 25)... Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy" (Ga 12, 26)... Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, yêu thích thế gian này và sự vinh quang riêng mình.
Ở đây vẫn còn là vấn đề Đức Tin, dù nó không rõ ràng như trong Tin Mừng Nhất Lãm nhằm nhấn mạnh mối tương quan với Đức Giêsu: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8, 35). Tương quan với Đức Giêsu còn được nêu rõ qua câu: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy". Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Đức Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vào vinh quang phục sinh. Trong trường hợp này, Đức Giêsu đã nói: "Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
4. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ khổ nạn và thập giá gần kề, tâm hồn Đức Giêsu xao xuyến! Người đã cầu nguyện với Cha. Chúng ta cùng lắng nghe hai lời cầu nguyện của Người: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" và "Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha". Đức Giêsu đã chọn lời cầu nguyện thứ hai. Nghĩa là Người đã chu toàn cách tuyệt hảo sứ mệnh Chúa Cha giao phó: thí mạng sống mình để cứu rỗi toàn thế giới. Trốn tránh giờ đó là hủy bỏ mọi giá trị của nó đã từng được gói ghém trong mầu nhiệm nhập thể. Còn chấp nhận giờ đó là làm vinh danh Chúa Cha. Vì vậy, nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu mà chương trình cứu độ phổ quát của Người được thực hiện.
5. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Sự chết của Đức Giêsu sẽ mang lại nhiều bông hạt. Người ta thấy dân chúng tuốn đến với Người: Ban đầu là dân Do Thái (Ga 12, 9.12.17.18.34), rồi đến dân ngoại làm nên hoa trái đầu mùa (Ga 12, 20 – 22). Đó cũng là điều được nói lên ở câu 32: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Khởi đầu của việc Đức Giêsu được giương cao là khi Người chịu đóng đinh trên thập giá.
6. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23)
Giờ Con Người được tôn vinh cũng là giờ thế gian bị xét xử. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt để bắt đầu cuộc sáng tạo mới. Số phận mọi người tùy thuộc giờ Đức Giêsu là giờ phán xét, giờ phân chia: giờ này ai từ chối Đức Giêsu thì bị xếp vào phe của Sa-tan, thủ lãnh thế gian, đối thủ lợi hại của Đức Giêsu, và bị luận phạt như nó.
III. KẾT LUẬN:
Bản văn Tin Mừng hôm nay với những gợi ý nêu trên, nhằm gửi đến mỗi người chúng ta tín thư sau:
Giờ của Đức Giêsu là trung tâm điểm của lịch sử ơn cứu độ. Giờ này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu chuộc nhân loại. Cả cuộc sống của Đức Kitô đều qui hướng về Giờ đó. Từ Giờ đó mà có sự phán xét nhân loại, có sự phân chia những kẻ tin hay không tin mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh vinh quang. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống; còn ai từ chối thì bị luận phạt và phải chết.
Để tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu và mừng Đại Lễ Phục Sinh của Người trong những ngày sắp tới, mỗi chúng ta hãy sẵn sàng mở toang cánh cửa lòng mình ra với tình yêu chân thật và sâu thẳm để đón nhận Đức Kitô, Đấng đã chết khổ hình thập giá và phục sinh vinh hiển, nguồn Ơn Đức Độ của chúng ta.
Xin được đưa ra một vài gợi ý áp dụng vào thực tế cuộc sống Kitô hữu:
1. Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Bạn và tôi, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
2. Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn và tôi có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
3. Đức Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát để trở nên Thánh Thể – bánh trường sinh cho nhân loại, cho bạn và cho tôi. Nếu lãnh nhận thứ bánh ấy mà không có sự đồng cảm với Đức Kitô thì có nghĩa gì đâu? Cánh cửa nguồn ơn cứu độ đã mở rộng từ lâu lắm rồi... phải chăng bạn và tôi vẫn đi vào mà lại không nhận ra là mình đi đâu?
64.Lẽ sống chết--Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:25).
Từ một câu chuyện có thật:
Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên, được nghe biết về Chúa Giêsu, anh đã xin rửa tội theo Kitô giáo, sau đó tình nguyện ở lại Ấn độ làm thừa sai, chứng tá cho niềm tin của mình.
Một chiều kia, Sundar cùng với một tu sĩ Phật giáo phải băng qua vùng núi Himalaya để đi đến một tu viện. Trời lạnh buốt và màn đêm như sắp bao phủ không gian. Sundar và nhà tu kia được báo cho biết họ sẽ bị lạnh và có thể mất mạng nếu không kịp về đến tu viện trước khi trời tối.
Đang lúc đi vào một đoạn đường hiểm trở, với những vách đá cheo leo, thì chợt, họ nghe có tiếng cầu cứu. Một người đàn ông đã trợt chân rơi xuống khe núi từ khi nào. Chân anh ta bị gãy, không thể nào leo lên được, và đang nằm chờ chết.
Người tu sĩ kia lên tiếng nhắc nhở Sundar:
- Chớ dừng lại. Ý trời đã định cho hắn như vậy rồi, ta không nên can dự vào làm chi. Phần chúng ta, phải đi gấp lên nếu như không muốn bỏ mình nơi này.
Sundar đáp lại:
- Theo tôi, ý Trời đã định cho ta đi ngang qua đây để cứu giúp kẻ không may này đấy. Tôi không thể bỏ rơi anh ta.
Nói xong Sundar tìm cách trèo xuống khe núi. Vị tu sĩ kia vội vã tiếp tục cuộc hành trình.
Nơi khe núi, nhìn đôi chân bị gãy, biết nạn nhân không thể tự bước đi được, Sundar phải dùng tấm mền bó anh lại, cõng lên lưng, nặng nhọc lần mò trèo khỏi khe núi, tìm trở lại con đường lúc nãy.
Sau mấy tiếng đồng hồ vất vả, Sundar và nạn nhân đến được lối mòn dẫn về tu viện. Lúc này tuyết rơi mỗi lúc một dày. Trời tối. Cóng lạnh. Sức lực hầu như khô cạn. Đang lúc tưởng chừng không còn bước thêm được nữa thì Sundar chợt thấy có ánh lửa phát ra từ một cánh cửa sổ của tu viện.
Mừng quá! Sinh khí dường như được phục hồi. Sundar hăng hái dấn bước về phía có ánh lửa. Chợt anh vấp té, bổ nhào trên tuyết lạnh.
Không phải anh đuối sức. Nhưng vì vấp phải một vật gì đó nằm chắn ngang đường đi. Sundar quì xuống, lấy tay gạt lớp tuyết phủ bên trên thì nhận ra đấy là xác của người tu sĩ đã cùng đi với mình ban chiều. Thương cho người bạn đồng hành xấu số, Sundar âm thầm dâng lên Chúa một lời nguyện…. Và rồi từ thẳm sâu của tâm hồn, anh chợt nghe vang vọng một câu Phúc Âm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời. “(Theo lời kể của William Bausch)
“Sự sống thoát thai từ nỗi chết,” một linh mục đã nói như thế. Mà đúng lắm, trong thực tế của đời người, để sự sống tiếp diễn, sự chết đã phải xảy ra không ngừng. Khi chấp nhận nỗi đau thương mất mát trong cái chết, mầm sống mới được phát sinh ra và triển nở. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” là vậy.
Khi chỉ biết lo cho sự sinh tồn của mình mà làm ngơ trước nỗi khổ đau của kẻ khác, khi chỉ chú trọng đến lợi ích riêng tư hơn là nhu cầu của tha nhân, tôi đã tự đóng khung trong chiếc vỏ trấu để rồi cứ trơ trọi giữa giòng đời. Nhưng nếu biết chết đi con người vị kỷ, tôi sẽ có được một mầm sống mới làm phát sinh bao niềm hy vọng của một mùa gặt thành công.
Thói ích kỷ trong tôi càng chết đi, hình ảnh Thiên Chúa càng rạng sáng. Càng cương quyết chiến đấu với chính mình, dung nhan Thiên Chúa càng được hiện tỏ.
Thánh Kinh có kể lại: Trong một cuộc hành hương thánh địa nhân dịp lễ Vượt qua, có sự hiện diện của một số người Hilạp. Họ là những người ngoại, có lẽ đang khao khát tìm ra Lẽ Sống của cuộc đời. Khi nhìn vào Do thái giáo, họ thấy thấp thoáng bóng hình của Lẽ Sống mà họ đang kiếm tìm. Thế rồi trong dịp hành hương đền thờ Giêrusalem lần này, họ nghe nói về một con người có tên Giêsu, nơi Ngài biết bao nhiêu tâm hồn đã tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống-từ những cô gái điếm cho đến các kẻ thu thuế tội lỗi, từ những người khốn khổ bần cùng đến các quan lính của ngoại bang…
Thế rồi những người Hilạp đã tìm hỏi và xin được “trông thấy” Đức Giêsu. Đây không phải là một sự trông nhìn thuần tuý, vì đứng đâu mà lại không thấy được Ngài. Song, họ muốn gặp gỡ, trao đổi, hiểu biết, và nhất là muốn bước vào một tương quan thân thiết với Đức Giêsu.
Trong ngôn ngữ thần học của Thánh sử Gioan, sự “trông thấy” đó luôn đi kèm với “niềm tin”. Như sau này, khi vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh, Gioan “đã thấy và tin” (Ga 20,8).
Thế nhưng trước khao khát chân thành của người Hilạp, Đức Giêsu lại trả lời với các môn đệ, những trung gian của niềm tin: “Giờ đã đến!”
Ngài đã chẳng trả lời “cho gặp” hay “không cho gặp”, Ngài chẳng bảo “đang bận” hay “đợi lúc khác. “Song Ngài tuyên bố: Giờ đã đến!” Mà đây là giờ gì nếu không phải là giờ tử nạn.
Thế ra để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời con người, để tăng thêm sức sống cho các tâm hồn đang khát khao tìm kiếm Lẽ Sống, để trả lời cho tất cả mọi câu hỏi của nhân loại, Chúa Giêsu lại nói đến giờ chết. Phải chăng đó chính là giờ cao điểm của cuộc sống Ngài: bước vào sự chết để diễn tả tột cùng hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương con người-yêu thương đến độ chấp nhận cái chết “hầu thế gian được sống,” để nhân loại “thấy” được Lẽ Sống đích thật của cuộc đời.
Nhưng chính trong cái chết của Chúa Giêsu lại mang mầm một cuộc phục sinh vinh quang. Bởi vì đây là cái chết diễn tả tình yêu. Mà tình yêu thì chẳng bao giờ chết. Tình yêu sẽ bất diệt. Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng những giá trị của yêu thương lắm khi không thể đo lường hay lý giải được. “Con tim có những tiếng nói mà lý trí không hiểu thấu” là vậy.
Thế nhưng, ai có dám chết cho yêu thương-yêu thương Thiên Chúa và bao người đang sống bên mình-họ sẽ dần dần khám phá ra chân dung của sự không-thể-hiểu-thấu kia. Chính khi biết tự hủy những đam mê, ích kỷ, tự mãn, tự kiêu, tự ái…, con người sẽ cảm nhận sâu xa tại sao.
“Chính lúc trao ban lại là khi nhận lãnh,
Chính lúc quên là lúc gặp lại bản thân,
Chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muốn đời.”
Và niềm vui sống này chỉ được trao ban cho những ai biết quên mình vì Yêu Thương.
65.Nếu hạt lúa chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác--Lm. Trầm Phúc
Vào dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Đền thờ mừng lễ. Dân chúng rước Ngài long trọng và tung hô Ngài là Đấng Mêsia. Có mấy người Hy Lạp tòng giáo cũng đi dự lễ, họ ngỏ ý muốn gặp Ngài. Họ nói với Philipphê. Ông này bối rối không biết nghĩ sao, đến nói với Anrê. Cả hai cùng đến với Chúa và trình bày cho Ngài biết ý định của mấy người Hy Lạp.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng nói lên những lời mang nhiều ẩn ý. Vừa như độc thoại vừa nói với các môn đệ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. “Đến giờ” là giờ nào?
Trong Tin Mừng Gioan từ giờ được nói đi nói lại nhiều lần. Từ này chỉ có nghĩa chung chung, là lúc chương trình của Chúa Cha được thực hiện. Chúa Giêsu không bao giờ làm gì theo ý Ngài, chính Ngài cũng đã xác nhận như thế. Ngài đến trong trần gian là thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha vì “ý Cha là muốn cứu rỗi mọi người”. Giờ của Ngài chính là giai đoạn mà Chúa Cha đã ấn định. Chỉ một lần, Ngài đi trước ý Cha khi Ngài chấp nhận theo yêu cầu của Mẹ Ngài trong tiệc cưới Cana. Vâng lời Mẹ cũng như vâng lời Cha, vì Mẹ cũng có quyền.
Nhiều lần người Do Thái muốn bắt Ngài, nhưng vẫn không thể được vì “giờ Ngài chưa đến”. Giờ của Ngài cũng là lúc chấp nhận chịu treo trên thập giá và cũng là lúc phục sinh vinh hiển.
Trong giây phút này, lúc những người Hy Lạp đến xin gặp Ngài, Chúa lại tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Có liên hệ gì với những người Hy Lạp này?
Được tôn vinh có nghĩa là được những dân tộc khác biết đến. Tôn vinh không thể hiểu theo nghĩa trần thế mà theo viễn tượng của Thiên Chúa. Những người ngoại được hưởng ơn cứu độ như người Do Thái. Họ đang khao khát và họ được no đầy. Họ muốn gặp Ngài và gặp Ngài là gặp Đấng cứu độ. Tôn vinh chính là hồng ân cứu độ được lan tràn cho mọi người, kể cả những người ở xa.
Nhưng Chúa Giêsu đi xa hơn khi nói đến hạt lúa mì chết đi để sinh bông hạt. Ngài chính là hạt lúa mì được gieo vào luống cày đẫm máu của nhân loại. Tôn vinh chính là chết đi để sống lại, để sinh nhiều bông hạt. Tôn vinh chính là chấp nhận theo ý Cha đến tận cùng, là tình yêu đã nên trọn vẹn. Ngài chấp nhận chết đi cho mọi người, đó là cách Ngài tôn vinh Cha Ngài, là cho mọi người biết Chúa Cha đã yêu thương trần gian như thế nào.
Và đây chính là định luật của tình yêu. Mọi người đều được mời gọi đi vào tình yêu hiến dâng đó: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được nó cho sự sống đời đời”. Chúng ta xem sự chết như một mất mát lớn, vì chúng ta bám vào sự sống như một sở hữu vô giá. Chúa Giêsu ngược lại, Ngài xem cái chết như một hiến tế, như một cử chỉ yêu thương tột đỉnh. Còn chúng ta lại ngại nói đến cái chết, chúng ta sợ chết. Chúa Giêsu không coi trần gian này như một tài nguyên quí giá mà là dụng cụ của tình yêu. Ngài xem mình như hạt lúa thôi, được gieo vào trần gian, lệ thuộc vào trần gian, vào những mùa màng của nhân loại, của các nền văn minh và chờ ngày lúa chín. Ngài chấp nhận những mùa đông của lịch sử và đợi mùa xuân để phục sinh.
Ngài mời gọi chúng ta đi vào lối bước của Ngài: “Ai phục vụ Thầy, hãy theo Thầy”. Theo Thầy, mục nát với Thầy để cùng Thầy mang lại hoa trái.
Ngài chấp nhận tất cả và biết rõ tất cả. Nhưng làm sao khỏi xao xuyến khi Ngài mang lấy xác thịt như chúng ta: “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Một lời thật não nuột! Tiếng kêu thương của một con người yếu đuối đứng trước gánh nặng của vâng phục, nhưng đầy yêu: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”. Tiếng than thở như một lời cầu cứu. Một ngày nào đây, Ngài cũng nói lại như thế: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này”. Nhưng sau cùng vẫn là vâng phục: “Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. ““Nhưng không theo ý con mà theo ý Cha”. Tất cả tình yêu của Chúa Con được chứa đựng trong một vài câu ngắn ngủi này. Và hơn nữa: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Tôn vinh Danh Cha bằng sự vâng phục trọn vẹn của con. Tôn vinh Danh Cha bằng cách chịu giương cao lên khỏi mặt đất. Vì lúc ấy, con sẽ kéo mọi người lên với con”. Đó là ý muốn của Cha. Đó là tình yêu của Cha đối với trần gian, đã ban người Con Một.
Trong giờ phút ấy, cái chết ô nhục đã hiện rõ trong tâm trí của Ngài. Mọi sự đã được quyết định và sự vâng phục đã trở nên như một dấu hiệu tình yêu không phai tàn. Chính trong cái chết ô nhục mà “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Đây chính là cuộc chiến thắng vẻ vang làm vinh danh Chúa Cha. Chính Cha đã xác nhận bằng một tiếng nói bởi trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” Thập giá ô nhục kia trở thành vinh quang vì sự vâng phục đầy yêu thương của Chúa Con.
Chúng ta cũng phải đi vào con đường thập giá mới chiến thắng sự dữ và tội lỗi. Thập giá mới là vũ khí hữu hiệu nhất để diệt trừ thủ lãnh thế gian. Tự nhiên chúng ta không thể dễ dàng chấp nhận thập giá. Chúng ta bám ghì vào thế gian, vào cuộc sống nhàn hạ dễ dàng. Chúng ta muốn hưởng thụ hơn là hy sinh.
Chúng ta có muốn gặp Chúa như những người Hy Lạp kia không? Hay chúng ta lại tránh né, sợ Ngài đòi hỏi chúng ta hy sinh? Hay chúng ta đã quá quen với Ngài rồi, Ngài không còn hấp dẫn nữa? Thế gian với những sự sung sướng của nó hấp dẫn hơn?
Chúng ta đã tin Ngài rồi, đã được gần gũi với Ngài nhiều rồi, cây thập giá của Ngài không còn gây sự chú ý nữa. Mấy người đã nhìn đó như dấu hiệu tình yêu tuyệt hảo, tình yêu dám liều mạng vì bạn hữu? Mấy người dám tôn vinh Ngài như Ngài đã tôn vinh Chúa Cha bằng chính sự vâng phục tuyệt đối của Ngài?
Chúng ta sắp bước vào Tuần thánh là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu mà cũng là cực kỳ quan trọng đối với chúng ta là những người đã nhìn lên Đấng được giương cao, vì nơi Ngài, chúng ta được cứu chuộc, được chữa lành, được trở thành con của Chúa Cha. Hãy nghe tiếng mời gọi của Ngài, hãy theo Ngài đến nơi Ngài chịu giương cao, cùng với Mẹ Maria thông phần vào đau khổ của Ngài để được sống lại với Ngài vinh quang. Chỉ khi nào chúng ta chịu theo Ngài, chúng ta mới được ở với Ngài, vì Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy.
Theo Ngài, chúng ta phải mang lấy thân phận hạt lúa mì, thối đi, bị dìm trong lòng đất nhân loại, nhưng cây lúa sẽ mọc lên và sinh nhiều bông hạt. “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Dù chúng ta bị chôn vùi nhưng hy vọng vẫn không bao giờ hao hụt vì chúng ta tin vào Đấng là sự sống và là sự sống lại. Ngài được giương cao không phải chỉ là chết mà sống lại vinh hiển. Và chúng ta cùng chết với Ngài sẽ được sống lại với Ngài. Đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta, những kẻ tin vào Ngài, phục vụ Ngài và Ngài ở đâu chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài, trong tình yêu của Cha muôn thuở.
Và khi chúng ta chấp nhận chết với Ngài thì chính Ngài sẽ đến với chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta bằng thịt máu Ngài, để ngay hôm nay, chúng ta đã được ở cùng Ngài trên thiên đàng. Thiên đàng đó chính là Ngài, hôm nay và mãi mãi.
66.Thề hứa--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Trong cuộc sống có nhiều dạng thề hứa. Thế hứa là giao ước thực hiện điều gì đó. Những người sống đời sống hôn nhân có lời hứa chung thủy phu thê, nhưng người sống đời sống tu trì có lời hứa mà chúng ta gọi là lời khấn – ít nhất là ba lời khấn: Vâng lời, nghèo khó, khiết tịnh. Lời thề hứa nào cũng rất cần chữ TÍN.
Giữa các quốc gia có các hiệp ước, các công ty có hợp đồng, giữa các cá nhân cũng có giao kèo. Trẻ em cũng thường ngoéo tay nhau mỗi khi thề hứa với nhau. Trong nhạc phẩm “Ngoéo Tay Nhau Thề”, tác giả Vinh Sử và Cô Phượng mô tả: “Ngoéo tay nhau thề lòng không dối lòng, ngoéo tay nhau thề tình nghĩa mênh mông…”. Chính tình yêu cũng có lời nguyện ước giữa hai người yêu nhau.
Tuy nhiên, hứa thì dễ, giữ mới khó. Lời hứa cũng nhiêu khê. Sử gia Thomas Fuller (1608-1661) nói: “Lời thề trong giông bão bị lãng quên lúc bình yên”. Triết gia Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) nhận định: “Những người chậm chạp khi đưa ra lời hứa là những người trung thành với việc thực hiện nó nhất”.
Chuyện kể rằng…
Một anh chàng giật mình khi nghe một giọng nói khàn khàn, run run. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
– Ăn hộ tôi mớ rau…!
Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người để tới chỗ làm sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh:
– Dạ, con không ăn, bà ạ!
Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi gã quên rất nhanh cái cảm giác ấy. “Mình thương người thì ai thương mình?” – ý nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.
– Ăn hộ tôi mớ rau, cô ơi! – Tiếng bà cụ yếu ớt.
– Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn! – Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.
Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày, đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:
– Rau này bà bán bao nhiêu?
– Hai nghìn một mớ – Bà cụ mừng rỡ.
Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.
– Sao chú mua nhiều thế?
– Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!
Rồi gã nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy lòng mình vui vui...
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, và gã nghĩ đến bà cụ…
– Nghỉ ngơi thế đủ rồi đấy!
Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.
Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ rồi.
Chiều Chúa Nhật, gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy, có lẽ gã thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang “buôn chuyện”.
Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:
– Bà bán rau chết rồi.
– Bà cụ hay đi qua đây hả chị? – chị bán nước khẽ hỏi.
– Tội nghiệp bà cụ! Cách đây mấy tuần, bà cụ giở chứng, cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng bà nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh mà... chết!
Câu chuyện khiến lòng chúng ta chùng xuống, nỗi bâng khuâng rất lạ, rất khó tả. Bà cụ là người chân thật, trọng chữ tín. Mấy mớ rau chẳng đáng gì, nhưng với bà cụ, lời hứa rất đáng giá. Lời hứa nào cũng vô giá – dù lớn hay nhỏ, và phải được thực hiện bằng mọi giá!
Giữa Thiên Chúa và con người cũng có những lời thề hứa, chúng ta gọi là giao ước. Thời Cựu Ước, Đức Chúa đã tuyên phán: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31:31-33). Thiên Chúa đã hứa gì thì chắc chắn được làm, làm đến nơi đến chốn.
Chúng ta chỉ là tội nhân, chẳng đáng gì để được Ngài hứa, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài dành cho chúng ta những giao ước kỳ diệu và vô giá: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31:34). Quả thật, tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3).
Thiên Chúa không đòi buộc gì nhiều, Ngài chỉ cần chúng ta thành tâm sám hối. Thế thôi, mọi thứ sẽ ô-kê ngay! Thế nhưng chúng ta là phàm nhân, không chỉ có máu Pharisêu mà còn có máu Cuội. Quá quắt lắm, vừa giả hình vừa hứa lèo. Mùa Chay về, dịp thuận tiện để chúng ta nghiêm túc xét lại chính mình, và rồi hãy sám hối: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).
Chút tro rắc trên đầu (hoặc vẽ trên trán) cũng chỉ vô ích nếu chúng ta không “xức tro” tâm hồn và “xé lòng” vì tự cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chắc chắn Ngài xót thương mà bỏ qua hết nếu chúng ta thành tâm đấm ngực chính mình, đấm vào chỗ sâu thẳm nhất của con tim, chứ đừng đấm ngực người khác. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải cầu xin Thiên Chúa biến đổi chúng ta bằng cách “đại tu” linh hồn chúng ta: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:12-15). Lời cầu nguyện chân thành như thế này là lời cầu nguyện có màu tím nhưng lại lung linh sắc hồng. Đẹp biết bao!
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Cái khổ nhiều hơn cái sướng, cái buồn nhiều hơn cái vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười. Đời phàm nhân là thế. Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng phải chịu trăm cay ngàn đắng. Cay đến xé lòng, đắng đến cứng miệng. Còn con đường nào đau thương hơn Đường Thập Giá?
Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7-9). Đức vâng lời rất cần thiết, cần thiết hơn cả lễ tế, thế nhưng lại là bài học khó học và khó áp dụng nhất.
Một hôm, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin được gặp Chúa Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Ngài không trả lời thẳng vấn đề mà lại nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:23-26).
Đó là “giao ước” mà nghe lại như không là giao ước: Nếu thế này thì sẽ thế kia, nếu thế kia thì sẽ thế nọ. Rất bình thường mà lại rất lạ. Cũng với tinh thần đó, Thánh Phanxicô Assisi đã xác định: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình). Quả thật, vô cùng kỳ diệu! Người ta phải tìm hiểu thấu đáo, rồi phải can đảm sống, nhờ đó mới có kinh nghiệm, có kinh nghiệm rồi thì mới cảm nghiệm được dạng giao ước “ngược đời” như vậy.
Thiên Chúa đã giao ước với nhân loại sau khi Ông Bà Nguyên Tổ sa ngã. Ngài đã hứa chắc chắn: “Một khi đã thề với danh nghĩa là Đấng Thánh, thì cùng Đa-vít, Ta chẳng thất tín đâu” (Tv 89:36). Ngài hứa ban Con Một làm Đấng Cứu Độ, và Ngài thực hiện đến cùng. Chúa Cha cương quyết đến mức Chúa Giêsu, theo nhân tính, còn tưởng Ngài bị Chúa Cha bỏ rơi trong nỗi đau khổ tột cùng và thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34).
Vâng, lời hứa phải được thực hiện, Ý Cha phải được thể hiện. Nhưng với nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy lo sợ nên Ngài đã tâm sự với các môn đệ: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27a). Và rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:27b-28). Dù sợ nhưng Ngài vẫn chỉ mong Ý Cha nên trọn mà thôi. Ngay lúc đó có tiếng xác nhận từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:29). Dân chúng đứng ở đó nghe vậy, người thì bảo đó là tiếng sấm, người thì bảo đó là tiếng của một thiên thần. Người trần mắt thịt làm sao hiểu nổi! Và rồi Đức Giêsu nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:30-31).
Giờ G đã điểm. Sự giằng co rất gay go. Thời đại chúng ta đang sống cũng là thời điểm “tranh tối, tranh sáng”, Thánh Phaolô đã có lần thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Nhưng dù thế nào, Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện trọn đức tuân phục, và dù đau khổ tột cùng, Ngài vẫn hứa với chúng ta: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Ngài nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào: Chết treo trên Thập Giá. Chúa Giêsu chịu chết để hoàn tất lời hứa của Chúa Cha.
Chúng ta được Thiên Chúa giao ước, chúng ta cũng phải thề hứa với Ngài và tha nhân, nhưng phải thực hiện đúng. Bằng cách nào? Đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu qua những điều trái ý mình hằng ngày. Mùa Chay, Mùa Thương Khó, chúng ta hãy noi gương Thánh nữ Faustina cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con” (Nhật Ký, số 343).
Ý nguyện thật là cao đẹp vì hoàn toàn muốn tuân phục Ý Chúa, nhưng để thực hiện thì chúng ta phải cố gắng lắm mới có thể hoàn tất lời ước nguyện, lờ thề hứa. Thật không dễ dàng chút nào! Nhưng với ơn Chúa, người yếu đuối nhất cũng khả dĩ thực hiện.
Hành trình giao ước rất gian khổ, đầy máu đỏ tươi và nước mắt mặn chát, hành trình lời thề hứa là Hành Trình Thập Giá, phải qua Đường Thập Giá mới tới được Miền Ánh Sáng – Per Crucem ad Lucem.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, xin giúp chúng con can đảm thực hiện mọi lời thề hứa với Ngài và với tha nhân. Đã biết bao lần chúng con lỗi lời thề với Ngài, xin Ngài thương tha thứ; đã bao lần chúng con sai lời hứa với nhau, nhưng chúng con không cho đó là tội phạm tới tha nhân, chúng con thành tâm sám hối và quyết tâm chấn chỉnh, xin Ngài đại lượng thương xót. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
67.Chuyện sống – chết--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Tục ngữ Việt Nam nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó cái “tiếng” cũng có thể tốt hoặc xấu. Người Công giáo gọi là chết lành hoặc chết dữ. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.
Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:21), và ông nói về “Người Ấy”: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl 2:8).
SỐNG LÀ YÊU
Sống là yêu, và yêu là sống. Sấm ngôn của Chúa nói qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31:31-32). Giao-ước-mới này khác giao ước đã ký kết với cha ông. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ít-ra-en, chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31:34a). Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31:34b). Là tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống thì phải biết yêu!
Giao-ước-mới đó gọi là Tân ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35). Khó quá! Vâng, không dễ chút nào. Nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua, nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối.
Được tha rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch, thế nên chúng ta phải xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51:12-13). Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:14-15).
CHẾT LÀ YÊU
Sống là yêu, sống để yêu, sống vì yêu, đó là chuyện dễ hiểu. Chết cũng là yêu, để yêu và vì yêu lại là điều khó hiểu, thậm chí nghe chừng nghịch lý. Nhưng đó là sự thật hiển nhiên.
Muốn gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi”? Chính Đức Giêsu, khi còn sống kiếp phàm nhân, đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát chết” là được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức Kitô là để củng cố đức tin cho chúng ta.
Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Vậy đó, cái gì cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông, không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, văn thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng ngày mới có thể nấu ăn ngon,… Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm. Lười biếng thì chỉ có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).
(Ga 12:20-33) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12:21). Một ước muốn tuyệt vời. Người Pháp nói: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12:23).
Rồi Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trút lòng ra: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).
Theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên tâm sự với các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27). Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:28a). Ngài cảm thấy sợ, nhưng Ngài biết trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà thôi. Và rồi có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:28b).
Nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó nghe vậy có người cứ tưởng là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người” (Ga 12:30). Giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Thế nhưng chính “giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà chiến thắng!
Chúa Giêsu bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12:32). Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử – dù thân tín nhất – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là lời-hứa-kỳ-diệu!
Có lẽ chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để chia tay. Nói để từ giã. Nói để trăng trối. Nói như không còn dịp để nói. Nhưng Ngài muốn nói nhiều để mọi người biết yêu thương nhau, yêu cả lúc sống và khi chết.
Lạy Chúa Giêsu, xin tái tạo trái tim chúng con nên giống Ngài hơn, để chúng con có thể kính mến Chúa và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của cuộc sống. Xin giúp chúng con dám chết với Ngài để xứng đáng cùng Ngài phục sinh. Ngài hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
68.Hạt lúa chết đi--Lm Mark Link, SJ
Chủ đề: "Nếu muốn sống và phát sinh hoa trái,
chúng ta cũng phải bắt ý riêng mình chết đi tựa như hạt lúa mì bé nhỏ."
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo:
Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa". Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng. Mặc dù được điều trị bằng vô số thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện cho, bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời. Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!". Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên. Câu chuyện kỳ lạ ấy khiến bà bối rối. Bà nói: "Dẫu sao tôi vẫn không quên được câu chuyện ấy!". Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con đã mỏi mệt quá rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật đi!". Về sau, Catherine kể lại rằng, vào lúc ấy, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Ý nghĩa của câu chuyện giúp hiểu bài tin mừng hôm nay
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết ý riêng của mình đi, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa được. Nếu chị nữ tu không chết ý riêng của mình đi để nói lên câu: "Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!" thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái.
Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: "Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn", thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh hoạn. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà cũng được lành bệnh và kết sinh hoa trái.
Câu chuyện của chị nữ tu và của bà Catherine Marshall khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani. Trong cơn hấp hối tại đó, Ngài đã thốt lên cùng Thiên Chúa: "lạy Cha…. không phải ý con… nhưng xin theo ý Cha" (Lc 22: 42). Giả như Chúa Giêsu không bắt ý riêng Ngài phải chết đi trong mảnh vườn ấy, thì anh chị em cũng như tôi sẽ không được cứu khỏi tội lỗi mình.
Tất cả những câu chuyện về chị nữ tu, về Catherine Marshall và về Đức Giêsu đều dạy cho chúng ta cùng một bài học. Chúa dạy ta biết sẵn lòng làm chết ý riêng mình đi nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Những câu chuyện có ý nghĩa gì đối với ta? Nói một cách cụ thể, tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với cuộc sống thường nhật của anh chị em và tôi?
Chúng ta hãy xem xét vài sự kiện có khả năng xảy ra:
Giả như cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy "bắt ý riêng chết đi" có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế chết cho ý riêng có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy, thì "Chết cho ý riêng mình" có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cư xử với y.
Chết cho ý riêng mình là điều không dễ
Chị nữ tu đã không cảm thấy dễ dàng khi nói với Chúa rằng chị chấp nhận làm một kẻ tàn phế nếu ý Ngài muốn như thế. Catherine Marshall đã không cảm thấy dễ dàng khi thưa với Chúa bà sẽ chấp nhận bất cứ số mệnh nào ngài quyết định cho bà. Đức Giêsu đã không cảm thấy dễ dàng trong việc ưng thuận thi hành bất cứ điều gì Cha Ngài muốn. Nhưng cả ba người - chị nữ tu, Marshall và Đức Giêsu đã tin Thiên Chúa và phó mình trong tay Ngài. Họ đã chết "cho chính mình’ và từ đó đem lại kết quả là sinh nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Kết luận:
Tin Mừng trong các bài đọc hôm nay là. chúng ta có thể làm được như thế. Chúng ta có thể noi gương vị nữ tu, bà Catherine Marshall và Đức Giêsu. Và chúng ta cũng có thể đem lại nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Có thể chúng ta phải chiến đấu giống như vị nữ tu và Catherine đã làm, hoặc có thể chúng ta phải hấp hối như Đức Giêsu, nhưng nếu chúng ta làm như họ, chúng ta cũng sẽ mang hoa trái về cho Thiên Chúa và được sống vĩnh cửu.
Điều quan trọng là biết đặt cuộc sống chúng ta vào tay Thiên Chúa trong niềm tín thác trọn vẹn
Điều quan trọng là cứ để cho Thiên Chúa thực hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với cuộc đời của chúng ta. Và đó chính là Tin Mừng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước hạt lúa mì và biết "chết cho chính mình", chúng ta cũng sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước gương chị nữ tu, bà Catherine Marshall, và gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ mang lại hoa trái cho Thiên Chúa và đạt được sự sống đời đời.
Chúng ta hãy cầu nguyện để kết thúc. Xin anh chị em cùng im lặng cầu nguyện với tôi.
Lạy Thiên Chúa là cha chúng con. Trong khi chúng con chuẩn bị cùng bẻ bánh với nhau, xin hãy giúp chúng con nhận ra rằng.
Nếu những hạt lúa mì không bị xay thành bột và nếu những trái nho riêng lẻ không bị ép thành rượu, chúng con sẽ không thể chia sẻ với nhau tiệc thánh này.
Xin giúp chúng con bắt chước hạt lúa và chùm nho, biết dâng chính đời sống chúng con cho Ngài để tuỳ Ngài định đoạt theo thánh ý Ngài.
69.Suy niệm của JKN
Đức Giêsu loan báo
Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong việc buon bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?
2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào không?
3. Lời Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra, muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, ma theo kiểu hình “sin” hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v. v... Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” Và Ngài cho ta biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của nhưng chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nay, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà không muon trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, ben dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp...).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như: “Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6). “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”, tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an! Thế rồi những khó khăn xảy đến... trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (...) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòng” (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cung nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hang và bền vững, khác với thứ bình an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.
70.Để được ơn nghĩa Chúa, cần chết đi con người tội lỗi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi "Hãy Vui Lên" tuần trước khuyến khích chúng ta tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này xảy đến trong Mùa Chay lúc mà sự mệt nhọc không làm giảm bớt, nhưng đúng hơn gia tăng niềm vui được đến gần mục đích.
Giao ước mới được ký kết
Kể từ khi dân Israel quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng(x. Xh32), giao ước giữa Thiên Chúa vớidân Ngài bị nhiều lần gián đoạn, do dân lỗi lời giao ước. Vì thế Chúa đã dùng miệng các tiên tri để phán dạy và trao ban một điều căn bản mới.
Trong Cựu Ước, Giêrêmia là người duy nhất nói về "giao ước mới", nên lời của ông rất quan trọng, tại sao vậy? Vì lời ấy trình bày một sự thay đổi căn bản trong tương quan giữa Thiên Chúa với con cái Israel.
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa ban hành Luật với một cách thức và công thức mới. Thiên Chúa sẽ ghi tạc vào lòng con cái Israel (Gr 31,33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân vớiChúa (Gr 31,34)không qua trung gian: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em" (Gr 31,34) theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông vớiChúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: "Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta" (Gr 31,34), đây là nét đặctrưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước "khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân" (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong "giai đoạn" vượt qua.
Hoán cải tận con tim
Điều cần thiết hơn cả để đi vào trong giao ước là hoán cải, hoán cải để được Chúa thứ tha và làm mới lại giao ước. Tác giả Thánh Vịnh khơi dậy lòng thương xót của Thiên Chúa khi thứ tha tội lỗi cho dân. Trong Kinh Thánh có nhiều hình ảnh về sự tha thứ như:Thiên Chúa xóa, rửa và tẩy sạch, nên cũng có nhiều cách thế diễn tả sự đổi thay nơi con người được tha thứ. Nhưng sâu xa hơn cả là sự tái sinh: “Xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con” (Tv 50, 12-13). Quả tim trong Kinh Thánh không chỉ là nơi chứa đựng cảm xúc nhưng còn là nơi chất chứa sự thông minh và đưa ra những quyết đoán nữa. Người có lòng trong sạch thì luôn hướng trọn về Chúa. Thần khí (trong tiếng Do Thái) là hơi thở, sự sống và nguyên lý sáng tạo. Tác giả Thánh Vịnh thưa với Chúa khi nói về các vật sống: "Người rút lại hơi khí của chúng, chúng liền tắt thở, chúng sẽ trở về với đất bụi! Người sai khí của Người, chúng được tạo thành và Người đổi mới mặt đất" (Tv 103, 29-30). Giống như các tội nhân được tha thứ, từ tội nhân, họ có thể trở thành chứng nhân của lòng thương xót Chúa.
Hãy là hạt lúa mì rơi xuống đất
Khi những người Hy Lạp đến xin được gặp Chúa Giêsu tại Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua, họ nói với ông Philipphê rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu" (Ga 12, 24). Ước muốn nơi những người Hy Lạp mong gặp Chúa Giêsu và lắng nghe Lời Người đã nhận được câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu như sau: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23). Thử hỏi Chúa Giêsu muốn nhắc đến "giờ" nào đây? Khung cảnh lúc đó giúp chúng ta biết rõ rằng: Đây là "Giờ" Mầu nhiệm và long trọng về cái chết và sống lại của Chúa.
Bằng một ẩn dụ về hạt lúa mì, Chúa Giêsu dùng với hình ảnh giầu biểu cảm về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm của sự biến đổi từ cõi chết qua cõi sống, tự nhiên nói lên tất cả. Chúng ta ghi nhận sự đảo ngược ý nghĩa của lễ Phục Sinh: mất sự sống mình, để lấy lại. Đây là hình ảnh dễ hiểu, phát xuất từ kinh nghiệm tự nhiên. Chắc chắn, "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình" (Ga12, 24). Để sinh tồn nói phải mục nát. Tiếp theo là sự so sánh ít thuyết phục của Chúa Giêsu khi chúng ta chưa có kính nghiệm về chính mình: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời" (Ga12, 25). Nhưng nếu chúng ta suy tư về cái chết của người khácthì sẽ thấy không ai mang được điều gì mình đã chiếm hữu hay yêu thích khi còn sống. Sự mất mát này còn lớn hơn đối với những người đã đặt đời mình vào mọi sự ở trần gian.
Không giống như các Phúc Âm Nhất Lãm, nơi Tin Mừng Gioan không có cảnh Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Giệtsimani. Nhưng cảnh này cách nào đó: ở đây Chúa Giêsu nói "xao xuyến" và nói đến "giờ" của mình. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? (Ga12, 27) Người xin Chúa Cha "cứu khỏi giờ này?" (Ga12, 27) Người không trối giờ này, khi xin Cha tôn vinh "danh Cha", thể hiện vinh quang Cha, nghĩa là sự sống và quyến năng thần linh của Cha nơi Đức Giêsu. Một dấu chỉ trao ban được Chúa Cha chấp nhận. Bản văn kết thúc với một "lời tien tri" của Chúa Giêsu tuyên bố Người phải chết cách nào. Lời này đã có từ câu đầu của Tin Mừng: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23).
Mong gặp Thấy Chúa Giêsu giống như nhóm người Hy Lạp xưa kia. Chúng ta đã nhìn thấy Chúa qua đôi mắt đức tin, nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, đã chịu đóng đinh chết và đã sống lại. Vậy chúng ta hãy để cho Chúa chiếm lấy và đã trở thành môn đệ Người.
"Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" (Ga12, 32). Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài. Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.
Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào trong Vương Quốc trên trời. Amen.
71.Ánh sáng của Thập Giá--Lm. FX. Vũ Phan Long
Đã đến “giờ”. “Giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện.
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng đã tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu “vinh quang” Người đang theo đuổi. Chỉ sau kinh nghiệm này các môn đệ mới nắm được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và tranh luận với nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài. Nỗi lo sợ của người Pharisêu là thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay đến nhận định của thượng tế Caipha: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã nói tiên tri mà không biết: trong tư cách là thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức Giêsu phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác (11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh cao trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch cứu độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả những điều đó chứng tỏ rõ ràng là giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ đưa tới vinh quang.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về thân phận của Người và của các môn đệ ([“Đã đến giờ”], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 12,31-33).
3.- Vài điểm chú giải
- mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở c. 19 được ứng nghiệm tức khắc. Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại (diaspora; x. Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong các vùng dân ngoại, nhưng là những người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng người “kính sợ Thiên Chúa” (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch mà là để hành hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với Philípphê bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên Hy Lạp), và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là người ngoại.
- Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu (21): dịch sát là “muốn được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với Người, để biết Người, khám phá ra chân tính của Người.
- Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh, để Con Người được tôn vinh. “Giờ” đây là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng là lúc kết án “thế gian” này với thủ lãnh của nó.
- tôn vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự tỏa rạng sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút, của Hữu thể thần linh. Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính khiêm hạ của mầu nhiệm Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang này, cho dù các lời nói và các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu tiên của vinh quang này (x. 2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của Ngôi Lời để làm cho nhân tính nay sống lại và lên trời.
- nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24): Câu này được vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen thuộc tác giả đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức Giêsu mới có thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25): Câu này trở đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt 16,25; Mt 10,39 so sánh với Lc 17,33). Các TMNL ap dụng câu này cho những đau khổ và mất mát của đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những đau khổ của cộng đoàn của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26): Sự đồng nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ cáo biệt (x. 13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo biệt (14,23; 16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
- Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27): Tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a). “Tâm hồn” (psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
- Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28): x. Lc 11,2. Câu này diễn tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được Chúa Cha tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
- có tiếng từ trời (28): Dân chung không thể “nghe” được lời Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên thần. Giống như trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm gương cho họ.
- Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28): Hành vi “tôn vinh” đầu quy về những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai quy về cái chết và cuộc tôn vinh Đức Giêsu.
- mà vì các người (30): Như thế, tác giả đã biến truyền thống về “cơn hấp hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ công khai công việc phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31): Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống “thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian” không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- một khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32): Các truyền thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là việc Người được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ tể của Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh – được giương cao” của tác giả được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người Tôi Tớ của Đưc Chúa được “vươn cao”, và “được suy tôn”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ để nhìn thấy Người, nhưng là để biết Người, khám phá ra “căn cước” của Người. Câu 20 dường như cho hiểu rằng những người ngoại quốc kia đang thực hiện một hành trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần “gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem không phải như du khách, mà là để cầu nguyện, để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu, đã đến với Người và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta thấy được bổn phận họ phải chu toàn trong đời sống: làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta không biết là sau đó chuyện gì đã xảy ra, những người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà mà vẫn chưa được gặp Người. Bản văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ còn ít ngày nữa trước khi Người chịu chết và bởi vì những người này đã đến với Người, Người xác định tầm quan trọng và hiệu năng của cái chết của Người trên thập giá và gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc người ngoại đi tìm một trung gian dường như có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức Giêsu và việc “gặp” Đức Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lơi rao giảng của các tông đồ, còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của Người (c. 23). Chỉ khi đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè phái mới đổ hết. Cũng chỉ khi đó mới bat đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga 20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những người ngoại vô tình lại là một cử chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp của người Do Thái khi Người vào Giêrusalem. Nhưng trước hết, Người phải điều chỉnh ý tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có về vinh quang và cuộc khải hoàn của Người (x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến như thế giống như một bài học biểu tượng, bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả lời gián tiếp cho nguyện vọng được những người ngoại ấy diễn tả ra: chính là nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho họ gặp được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và của các môn đệ (“đã đến giờ”, 23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM IV chẳng còn nói gì đến những người ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả mãn hay không nữa. Ta gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến một lúc nào đó, bài tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời nói của Đức Giêsu và những suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những người ngoại giáo và thỉnh nguyện của họ khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà TM IV cho thấy đang đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ của “Con Người”, giờ Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá, giờ Người được “ton vinh” (x. 3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn bạo của loài người và cũng không phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. “Giờ” của Người đã được Chúa Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh bằng chính cái chết của Người. Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và thuyết phục rằng Con Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng phục dù phải trải qua thử thách nao và rằng Người hiến mình cho chúng ta không dè giữ. Cái chết của Người cho thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người tùy thuộc cái chết của Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như chính Người đã hành động. Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên nhiên không sản sinh ra gì cả nếu trước đó không có một cai chết nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị hủy đi, nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là vì Người đã chịu cái chết và đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh Người một đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi, Người không biến mất khỏi loài người, nhưng lại trở thành trung tâm của một cộng đoàn mênh mông. Người không ra sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống trần thế đối với Người không phải là một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi giá. Chỉ những ai liên kết với Người khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục tiêu và mới có phần phúc khi được Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong các TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Vườn Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác, ngài giải thích hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng sống mà người ta phải “ghét” và chịu mất để cứu được; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các điểm theo cách riêng. Câu hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy là Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan là xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ này” hay là: “xin tôn vinh Danh Cha”. Và Người chọn tức khắc cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu luôn “năng động [tích cực]” trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm chủ tình hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai trò Người đảm nhận, Người hoàn tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh mạng sống để cứu độ toàn thể thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không thể tưởng tượng ra một lời cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được Thiên Chúa sai đến, ngoài lời này: “Xin tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn “giờ” này (hiểu là “những gì sẽ xảy ra vào lúc ấy”)[1], giờ mà Người hết sức mong mỏi và cuối cùng nay đã tới, hẳn sẽ là phá hủy tất cả tầm mức gồm tóm trong mầu nhiệm Nhập Thể: khi đó Chúa Con đã nhận lấy nơi mình cuộc sống trần thế vơi tất cả chiều sâu của nó và đặc tính bi thảm của nó, để sống trọn cuộc sống này cho tới chết, không phải cho bản thân Người mà là cho những người khác. Khi Đức Giêsu chấp nhận “giờ” này, Người đã tôn vinh Chúa Cha, bởi vì như thế, dự phóng cứu độ toàn thế giới cuối cùng được bày tỏ trọn vẹn, và dự định đó, cuộc Thương Khó, cái Chết và cuộc Phục Sinh của Con Cha sẽ thực hiện.
Cũng như trong tất cả các Tin Mừng, ở đây cũng vậy, khi đứng trước cái chết, Đức Giêsu quay ra cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mc 14,32-42). Người ý thức về ý nghĩa của cái chết của Người, nhưng không vì thế mà Người đi đến đó hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người, chính Người cũng sợ hãi tránh né cái chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải chết của mình. Vì Người có sự nhạy cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin Chúa Cha cất cho Người bước đường này. Nhưng Người không chịu thua ước muốn của riêng mình, Người muốn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (c. 28). Như thế Người đồng ý về ý nghĩa của định mệnh của Người, như Thiên Chúa đã thiết định, nên Người lấy điều này làm mục tiêu của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức Giêsu cho thấy rõ những gì nằm ở trong tên “Cha” và cho thấy Chúa Cha đã nghiêng quá mức thế nào về phía con người, nên mới ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không thua Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở nên hiển nhiên, cho dù Người biết rằng điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống Người.
* Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá cũng là chiến thắng vĩnh viễn của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị tống ra ngoài, và không còn có một vị trí quyền lực nào nữa. Công việc ma quỷ làm là nhắm chia lìa con người khỏi Thiên Chúa, làm mờ tối cái nhìn của họ khiến họ không thấy được Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu lại là mạc khải cao độ nhất về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người va về dây vâng phục nối kết bất khả phân ly Đức Giêsu với Thiên Chúa. Như thế, ý đồ của ma quỷ hoàn toàn thất bại. Với cái chết của Người, Đức Giêsu cũng khởi sự hoạt động phổ quát của Người, liên hệ tới toàn thể nhân loại. Được giương cao trên thập giá như là biểu tượng của tình yêu của Thiên Chúa (x. 3,14-17) và được nâng lên đến Chúa Cha trong quyền lực thiên đình của Người, Đức Giêsu tới với cả nhân loại, đón nhận họ vào trong tình yêu huy hoàng của Người. Như thế, Người cũng được giương cao cho người Hy Lạp nữa, là những người muốn gặp Người.
+ Kết luận
Trong bản văn này, tác giả nêu bật điểm chú ý là “giờ” của Đức Giêsu, cả trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Theo quan điểm Kitô học, “giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện. Sứ mạng này tiêu biểu cho trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống của Người hướng về đó. Khi đó sẽ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại. Khi đó sẽ xảy ra giữa loài người một cuộc “tách biệt” (krima) do người ta tin hay không tin vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chon lựa này đảm bảo cho một số người được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi kéo án phạt và cái chết đến cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như Philípphê và Anrê, chúng ta cũng có nhiệm vụ làm trung gian giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng muốn thế, chính chúng ta đã phải gặp Đức Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi. Chúng ta cũng ghi nhận những tương quan giữa các môn đệ để giúp người ta gặp Đức Giêsu: người Hy Lạp đến gặp Philípphê, có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng Philípphê lại cần có Anrê để có thể mạnh dạn đi gặp Đức Giêsu...
2. Những người Hy Lạp đây đại diện cho tất cả những người ngoại ước muốn biết Đức Giêsu. Không ai có the trở thành Kitô hữu mà lại không có một môn đệ của Đức Kitô nói cho biết về Người, và giới thiệu với Người về họ.
3. Vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu, tuy vẫn là một ân ban nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự cộng tác của chúng ta. Chỉ những ai đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành bước theo Người hôm nay, sau này chúng ta mới mong được thông phần gia nghiệp với Người.
4. Đức Giêsu đã đến thế gian như là ánh sáng cho mọi người (1,9). Khi Người đã được giương cao trên thập giá, từ nơi Người sẽ phát ra ánh sáng chói chang huy hoàng nhất, cho thấy mọi sự trong tính chân thật nhất: Thiên Chúa trong tình yêu vô biên của Ngài; Con Người trong việc hiến mình không dè giữ và trong hoạt động bao trùm toàn nhân loại; ma quỷ bị thua trong quyền lực của nó. Trong ánh sáng này, chúng ta phải chọn lựa cuộc sống chúng ta như là con đường bước theo Đức Kitô.
5. Tất cả những ai muốn đưa lại ơn ích cho người khác, cũng phải chấp nhận thân phận “hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi”. Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu: trước tiên, người Kitô hữu không thể tránh giết chết trong mình những gì chống lại sự sống đích thực (= sự từ bỏ chính mình); đồng thời phải sống một mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh và hân hoan (= niềm vui thiêng liêng).
----------------------------------------------
[1] Phép métonymie: gọi một điều bằng một từ khác.
72.Giờ của Chúa Giêsu (12,20-36)--Alain Marchabour
Đoạn này kéo dài điều đã được nói về Chúa Giêsu từ chương 11. Giờ tôn vinh của Chúa Con được loan báo trong 11, 4 đang trở thành hiện thực. Trong 11,51-52 Gioan tuyên bố rằng cái chết của Chúa Giêsu sẽ dẫn tới việc mở rộng sứ vụ của Chúa đến với mọi người. Đó là ý nghĩa sự kiện mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu.
Phần dẫn: Những Người Hy Lạp (12, 20-22)
Những người Hy Lạp ở đây không phải là những người Do Thái sinh sống ở Hy Lạp hay nói tiếng Hy Lạp. Từ ngữ này chỉ những người ngoại giáo mới theo đạo (những người thiện cảm với đạo Do Thái nhưng không muốn chịu phép rửa). Lần đầu tiên những người không phải Do Thái này tiếp cận Chúa Giêsu được khéo léo sắp xếp như là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Những người xuất thân từ đa thần giáo này trước hết đã chọn Thiên Chúa của Israel. Họ chuẩn bị cho một bước chuyển tiếp mà theo thánh sử là đi từ Do Thái giáo đến Chúa Giêsu là đích điểm. Họ muốn “gặp” Chúa Giêsu, chắc chắn theo nghĩa mạnh của việc “tin vào Người” (12,45; 14,9). Ông Philipphê, một môn đệ thường được Gioan nhắc đến (12 lần), làm người trung gian (như trong 1,45; 6,5). Sự môi giới của ông có liên quan gì đến tên Hy Lạp của ông không? Xuất thân từ một miền đất đa phần còn ngoại giáo, ông có khả năng nói tiếng Hy Lạp. Việc ông đi nói với ông Anrê (người cùng làng Betsaiđa với ông) càng tăng thêm tầm quan trọng của sự môi giới để đến gặp Chúa Giêsu.
Theo thói quen của mình, Gioan tăng nhiều chi tiết kể chuyện ở phần đầu bài trần thuật, như là để níu chân độc giả. Sau đó tất cả đều dừng lại: còn kết quả việc mấy người Hy Lạp gặp Chúa Giêsu như thế nào, chúng ta không biết gì hết. Từ nay thánh sử tập trung bài trần thuật của mình vào Chúa Giêsu.
Giờ (12, 23-26)
Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến. Việc anh Ladarô sống lại biểu hiện trước giờ này: việc mấy người Hy Lạp tìm đến tỏ rõ giờ được thực hiện. Các người Hy Lạp không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp. Người nói với các môn đệ và điều Người nói bao gồm trước hết các môn đệ được gọi sau này nên truyền đạt cho người ngoại giáo hiểu rằng trong cái chết của Chúa Giêsu, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người.
Sự mặc khải được long trọng nhấn mạnh bằng hai lần: “Thật, Thầy bảo thật anh em”. Giờ, vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả từ sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Chúa Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Sự tương phản mà Chúa Giêsu đưa ra, ở giữa chết hoặc sống ít hơn là ở giữa chết hay mang lại nhiều hoa trái. Cũng như hạt giống, Chúa Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái cho mọi người.
Cái chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội. Cái chết của Chúa Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12,26). Quả vậy các câu 25-26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Chúa Giêsu. Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, thế gian này, sự vinh quang riêng mình.
Ở đây nữa vẫn là vấn đề đức tin, dù nó không rõ ràng như trong Nhất Lãm, ở đó nhấn mạnh mối tương quan với Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Tương quan với Chúa Giêsu được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Chúa Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vinh quang. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã nói: “Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
*****
GIỜ
Từ “giờ” được sử dụng 26 lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, giờ này còn chưa đến. Thân mẫu của Chúa Giêsu, khi muốn cậy nhờ đến con mình, được nghe trả lời rằng “Giờ của con chưa đến” (2,4). Việc tìm bắt Chúa Giêsu không thực hiện được cũng vì lý do đó (7,30; 8,20). Nhiều lần Chúa Giêsu tiên báo tình trạng sắp xảy ra vào một giờ mà từ đó mọi sự sẽ trở nên rõ ràng hơn (16,25). Việc thờ phượng sẽ ở trong Thần Khí (4,21-23), sự sống sẽ chiến thắng sự chết (5,25).
Sự hồi hộp được khéo léo khơi dậy khi, đối diện với những người ngoại giáo muốn gặp Người. Chúa Giêsu loan báo rằng cuối cùng giờ đã đến (12,23). Bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cuối cùng giờ tôn vinh đã đến (13,1; 17,1). Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 14,35.41). chỉ có mình Gioan đã gieo vãi xuyên suốt Tin Mừng của mình những quy chiếu vào một biến cố của lịch sử. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá. Thời điểm này không thuộc vào niên đại kỷ. Một lần xảy ra, nó luôn luôn hiện thực và kéo dài hiệu quả nhằm lợi ích của tất cả những ai gắn bó với Lời.
*****
Tâm trạng xao xuyến, tiếng từ trời và lời mặc khải (12, 27-36)
Giờ đang xảy đến cùng với sự chôn vùi trong cái chết, tất phải có sự kinh qua đau thương mà nỗi xao xuyến và sầu não không thể không có. Trong khi trình thuật cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, Gioan loại bỏ những gì quá chú ý của Người, như cơn hấp hối. Thế nhưng ông lưu giữ lại một vài yếu tố và phân tán chúng đây đó trong Tin Mừng của mình. Ở đây ông trích dẫn những từ ngữ và những dụng ngữ như nhắc lại sự xao xuyến của Chúa Giêsu, hoặc lời Người nói về Giờ: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”, cần xuất phát từ đó (ta có thể so sánh đoạn này với Mc 14,33-36). Việc Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha được đặc biệt nhấn mạnh và lời Người: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” vang dội như lời tóm tắt “kinh Lạy Cha” (không có trong Gioan). Chúa Giêsu là người đầu tiên, từ bỏ mình để lắng nghe Chúa Cha.
“Có tiếng từ trời vang xuống” (c. 28). Lần đầu tiên trong Gioan (trái với hai lần trong Nhất Lãm, vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa và biến hình, x. Lc 9,28-36), Chúa Cha lên tiếng nói cùng Chúa Con. Hơn nữa đoạn của Gioan không có liên quan gì đến biến cố biến hình ở đó sự biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu đi kèm với cuộc đối thoại về cuộc Xuất hành của Chúa Giêsu (nghĩa là cái chết của Người). Luca cũng nghĩ đến sự tiếp gần cơn hấp hối khi “một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Trong cả hai trường hợp, có thể có những điểm giống nhau giữa hai truyền thống Tin Mừng. Thế nhưng Gioan hành xử cách sáng tạo, tuyển chọn và tái tạo các dữ kiện của truyền thống cho mục tiêu thần học của mình.
Do đặc tính duy nhất và vị trí ở vào cuối năm phần thứ nhất của Tin Mừng, sự can thiệp này của Chúa Cha xuất hiện như sự long trọng chứng thực của Chúa Cha về Chúa Giêsu như là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Đó là cách phê chuẩn đầy vinh quang, được ban cho một phần ngay từ lúc này đây còn một phần nữa được hứa trong tương lai. Cuộc Thương Khó đối với Người quả là một thử thách đầy vinh quang.
73.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Noel Quesson
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”.
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. "Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết. Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!". Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người "Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin "gặp" Đức Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người "Hy Lạp" này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! "nó mang lại nhiều hoa trái"; "Nó lôi cuốn mọi người". Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh".
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: "Này đây, giờ đã đến" (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ "ưu việt" đó chính là giờ thập giá: Giờ "tôn vinh" Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ "xét xử và cứu độ" thế gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp" đến xin "gặp" Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: "Đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh"; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: "Và đây xuất hiện thập giá". Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, "hình tướng" về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ "chết” của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài.
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói nữa.
74.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Fiches Dominicales
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP…
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề "những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề "Giờ của Chúa" (tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, "có mấy người Hy lạp" muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên Chúa dịp lễ Vượt Qua? Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô sau này, là dấu chỉ loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm.
Họ tìm "gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ "lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể giúp làm môi giới cho họ được.
"Ông Philipphê đi nói với ông Anrê" cùng sinh trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
”Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1, 35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức Giêsu sẽ mở ra cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo thật anh em" cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau "trơ trọi một mình" và "sinh được nhiều hạt". Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra, nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
X. Léon-Dufour quảng giải thêm: "Cuộc sống có thể được coi như là "của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại, thì này đây sự "chết" ấy không có gì khác là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời đời". Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy" (Lecture de l'evangile selon Jean", quyển II, Seuil, trang 464).
3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ choán hết. Thế nên lời "Thầy xao xuyến" cũng như lời nguyện cùng Cha "Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này" được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: "Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: vùng lên như một bản tóm lược "kinh Lạy Cha" vậy (kinh này không có trong Tin Mừng Gioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha" (O.C. trang 169).
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở đây ngài nhắc đến "có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng "đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: "Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha Người long trọng xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy" (idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người rằng: "Giờ Con chưa đến", thế mà Người cũng "đã tỏ vinh quang" Người cho các môn đệ. Giờ đây, "Giờ đã đến" lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. "Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ "đã tin vào Người? Từ nay khi được “giương cao lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật, Người sẽ phải chết cách nào và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ "kéo mọi người lên theo với Người" và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
X. Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi của những người Hy lạp muốn "gặp" Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống". Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) "Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản"
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội hiện nay. Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
"Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà: chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những "người đề nghị" đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mủng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5, 16).
2) Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, người Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người, không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo và người bị loại trừ được coi như "bí tích của Đức Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên nếp sống của con người.
- Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo dục và từ thiện nữa.
3) Sức năng động của lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm.
Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người. Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người, ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số 3).
75.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU LOAN BÁO NGƯỜI SẼ
ĐƯỢC TÔN VINH NHỜ CÁI CHẾT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này": Có lẽ phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt 6,24; Lc 16,13; 14,26).
"Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa": Chữ “tôn vinh" thứ nhất ở đây quy về các "dấu chỉ" Chúa Giêsu đã thực hiện để làm chứng cho Chúa Cha. Chữ "tôn vinh" thứ hai ám chỉ đến cái chết và việc giương cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).
“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm": Khó mà hiểu được tại sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã không hiểu nó cũng như không biết ai đã nói ra nó ("tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi"). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ chẳng hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng nói trên.
"Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này": Giờ của Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ chối Chúa Giêsu vào "giờ” này thì bị liệt vào phe của "đầu mục thế gian", đối thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).
"Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài": Chúa Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế. Nhiều bản văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho Satan tước hiệu "đầu mục thế gian này". Các giáo sĩ cũng gọi nó là "sar ha olam”
Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự "thế gian" (Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy nhiên hãy biết rằng trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái của nó (Ga 8,34.44; Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công lý của Ngài (Mt 5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma quỷ rất khéo léo trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. "Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất": Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và St 40,19 về chữ "nâng đầu lên": đầu của viên chánh chước tửu sẽ "được nâng lên cao" và ông sẽ được ân xá; còn đầu của viên chánh ngự thiện cũng "được nâng lên cao" nhưng ông ta sẽ bị treo cổ. Trong Is 52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan "được nhắc cao" và "được tôn dương". Có lẽ đây là nguồn gốc chữ "được tôn vinh" và “được giương cao" trong Gioan.
KẾT LUẬN
Trong đoạn này, chính “giờ" của Chúa Giêsu là trọng tâm xét trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học, "giờ" này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải và cứu chuộc thế gian. Nó đặc trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ xảy ra cuộc "phán xét" (krisis) nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống, còn ai từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết muôn đời.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến "giờ" của Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc, tức là Chết và Phục sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý nghĩa khi tôn dương và làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu thánh vừa là Chúa nhật phục sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi Kitô hữu là con người vừa chịu đựng đinh vừa được sống lại.
2) Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến gặp để nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp" này là những kẻ có cảm tình với đạo Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân Abraham. Chúa Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới họ. Liên hệ như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì chết đi trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là Người. Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả "lương dân" sẽ trở thành tín hữu.
3) Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu. Cần lưu ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ "vinh quang" và "sự chết" rất gần nhau và hầu như được liên kết với nhau. Điều này cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì chống lại với sự sống đích thực. Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ không thể ở trên Thầy của họ. Họ phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng phải vượt qua bằng một cái chết thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ chính mình. Nhưng phải chăng vì thế mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực? Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người của từ bỏ, phải đồng thời là người của sự vui mừng thiêng liêng.
4) Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi thế giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu, qua việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị em mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.
5) Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn để trở nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến bàn tiệc rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người biến đổi ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: "Không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi".
76.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--William Barclay
Người Hy Lạp tìm Chúa (Ga 12,20-22)
Chỉ có Phúc Âm Thứ Tư mới kể lại sự kiện này, đó là điều thích hợp hết sức tự nhiên. Chúng ta vẫn nhớ Gioan viết sách này nhằm trình bày chân lý cho người Hy Lạp, để họ hiểu và tiếp nhận được. Mục tiêu như thế, thì phải có chỗ cho những người Hy Lạp đầu tiên đến với Chúa Giêsu.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người Hy Lạp tại Giêrusalem trong ngày lễ Vượt Qua. Đây không hẳn là họ đã nhận đạo Do Thái. Dân Hy Lạp vốn là những kẻ thích đi lang thang đây đó, họ bị thúc đẩy bởi đam mê muốn đi tìm cái hay, cái lạ, cái mới mẻ. Một người xưa đã nói: “Dân Athène (thủ đô Hy Lạp) các ông chẳng bao giờ chịu nghỉ ngơi, cũng chẳng chịu để ai nghỉ ngơi cả”. Một người khác thì bảo: “Dân Hy Lạp các ông giống như trẻ con, lúc nào tâm hồn các ông cũng trẻ trung cả”. Năm trăm năm trước đó, Herociotus đã đi du lịch thế giới, theo lời của ông là tìm cho ra mọi sự việc. Tận trên thượng nguồn sông Nile còn sừng sững một bức tượng cổ của người Ai Cập, trên đó một du khách Hy Lạp đã khắc tên mình, như các du khách ngày nay vẫn làm. Dĩ nhiên có người Hy Lạp du hành để giao thương buôn bán, nhưng trong thế giới thời cổ, dân Hy Lạp là những người đầu tiên thích đi đây đi đó, chỉ để phiêu lưu cho thỏa chí mà thôi. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy một phái đoàn người Hy Lạp tại Giêrusalem.
Hơn thế nữa, đặc điểm của người Hy Lạp là chuyên đi tìm chân lý. Chẳng có gì bất thường, khi chúng ta thấy một người Hy Lạp hết theo triết thuyết này lại chạy theo triết lý khác, hết theo đạo này lại theo đạo khác, tôn thờ hết giáo sư này đến thầy khác, để tìm chân lý. Dân Hy Lạp là những con người có đầu óc khao khát tìm tòi.
Những người này được nghe về Chúa Giêsu và để ý đến Ngài như thế nào? J. H. Bernard đã đưa ra một gợi ý thú vị. Chúa Giêsu đã dọn sạch Đền Thờ, xô bàn ghế của những kẻ đổi bạc và bán bồ câu trong sân Đền thờ. Gian hàng của những người mua bán đổi chác đó vốn nằm trong sân dành cho người ngoại là sân đầu tiên trong Đền Thờ. Người ngoại chỉ được phép vào trong sân ấy chứ không được phép vượt qua khỏi đó. Vì thế, nếu số người Hy Lạp ấy đến Giêrusalem, tất nhiên họ phải đến viếng Đền Thờ, và đứng tại sân dành cho người ngoại. Có lẽ họ được chứng kiến cảnh phi thường lúc Chúa Giêsu đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi sân Đền Thờ, và họ muốn biết thêm về con người đã làm những việc như thế.
Dù thế nào đi nữa, đây cũng là một trong những giờ phút trọng đại trong câu chuyện, vì đây là tín hiệu đầu tiên về việc Phúc Âm sẽ lan tràn khắp thế giới.
Những người Hy Lạp đã đến đặt vấn đề với Philipphê. Tại sao lại chọn Philipphê? Không ai có thể nói chắc chắn cả, nhưng có thể vì Philipphê là tên Hy Lạp, họ nghĩ rằng một người có tên Hy Lạp hẳn sẽ có thiện cảm với họ. Nhưng Philipphê không biết làm gì nên đến với Anrê. Anrê chẳng cần nghĩ ngợi gì cả, ông đưa ngay họ đến với Chúa Giêsu.
Anrê khám phá được một điều là, chẳng hề có ai đến với Chúa Giêsu mà làm cho Ngài cảm thấy phiền hà. Ông biết Chúa Giêsu chẳng bao giờ xua đuổi bất cứ ai muốn tìm kiếm Ngài.
Điều nghịch lý lạ lùng (Ga 12,23-26)
Không có đoạn Kinh Thánh nào làm cho người nghe lần đầu tiên ngạc nhiên bằng đoạn Kinh Thánh này. Nó bắt đầu bằng một câu mà ai cũng mong được nghe. Nhưng lại kết thúc bằng một loạt những câu mà chẳng ai muốn nghe cả.
Chúa Giêsu bắt đầu: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Rõ ràng, mọi sự được xây dựng đưa dẫn đến điểm quyết liệt, và bây giờ, thời điểm quyết liệt ấy đã đến. Nhưng ý của Chúa Giêsu về giờ phút này quyết liệt này khác hẳn với ý nghĩ của bất cứ ai. Khi Ngài nói đến “Con Người”, Ngài không nói theo nghĩa người khác này, chúng ta phải biết người Do Thái hiểu thế nào khi nghe đến chữ: “Con Người”. Chữ này bắt nguồn từ Đaniel 7,13. Trong đó nói rằng: “Này, có một người giống như Con Người đến với những đám mây trên trời; người đến Đấng Lão Thành và được dẫn đến trước mặt Ngài. Người được ban cho quyền thế, vinh hiển và các nước, hầu cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng đều phụng sự Người”.
Đaniel 7,1-8 mô tả các cường quốc cầm quyền trên thế giới, đó là các dân Syri, Babylon, Mêđi và Ba Tư. Họ vốn hung ác, bạo tàn, thích gây đau khổ cho kẻ khác, nên chỉ có thể mô tả bằng hình ảnh của những dã thú, như sư tử có cánh, chim ưng, con gấu và ba xương sườn giữa các hàm răng, con heo có bốn cánh và bốn đầu, con thú hung dữ có răng bằng sắt và mười sừng… đó là biểu tượng của các cường quốc từng cai trị từ trước đến giờ. Thế nhưng trong giấc mơ, vị ngôn sứ còn thấy một thế lực mới sẽ đến thế gian, thế lực ấy hiền dịu, nhân hậu, được mô tả bằng biểu tượng “con người” chứ không phải con thú. Trong cả đoạn đã ngụ ý thời kỳ đã mãn sẽ qua đi, thời kỳ đầy nhân đạo sắp đến.
Và đó là giấc mơ của dân Do Thái. Họ mơ ước thời đại hoàng kim, bấy giờ cuộc sống sẽ tươi đẹp ngọt ngào, và họ sẽ làm bá chủ thế giới. Nhưng thời đại đó sẽ đến như thế nào? Càng ngày, càng thấy rõ quốc gia của họ quá nhỏ bé, thế lực họ quá yếu kém, hoàng kim thời đại sẽ chẳng bao giờ đến do các phương tiện, quyền lực của loài người. Nó phải đến do sự can thiệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ sai người vô địch đó là Con Người? Câu nói đó trước kia vốn chỉ là biểu tượng, bấy giờ trở thành một câu mô tả. Trong khoảng thời gian giữa Cựu Ước và Tân Ước, có hàng loạt sách đề cập đến hoàng kim thời đại, việc đó sẽ đến như thế nào. Giữa hoạn nạn và đau khổ, trong lúc phải sống dưới ách nô lệ và đô hộ, người Do Thái chẳng bao giờ quên đi, hoặc từ bỏ giấc mơ của họ. Một trong những quyển sách gây ảnh hưởng đặc biệt là sách của Hênóc, cứ nhắc đi, nhắc lại về Con Người ấy. Trong sách Hênóc, Con Người, một nhân vật phi thường bị Thiên Chúa cầm giữ. Nhưng đến ngày Thiên Chúa buông Con Người ấy ra, Ngài sẽ đến với quyền năng siêu phàm mà chẳng ai có thể chống lại, và chẳng có một vương quốc nào có thể đứng nổi, và dọn đường cho người Do Thái làm bá chủ thế giới.
Với người Do Thái, thì Con Người là chữ tiêu biểu cho Đấng chinh phục vô địch bởi Thiên Chúa sai đến. Cho nên, khi Chúa Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” thì tất cả những người nghe Ngài đều hiểu. Họ tin tiếng kèn kêu gọi của cõi đời đã vang lên, sức mạnh của các tầng trời đang chuyển động, và chiến dịch toàn thắng đang bắt đầu. Nhưng chữ “được tôn vinh” Chúa Giêsu nói ở đây không có ý nghĩa như họ hiểu, là các vương quốc trên đất này sẽ bị chà đạp dưới chân Đấng chinh phục. Khi nói “được tôn vinh”, Chúa Giêsu ngụ ý rằng Ngài sẽ bị đóng đinh. Khi nói đến Con Người, dân Do Thái nghĩ ngay đến các đạo quân chiến thắng của Thiên Chúa, còn Chúa Giêsu nghĩ đến quyền năng chinh phục của thập giá.
Vì thế, câu đầu tiên Chúa Giêsu nói đã làm náo nức những kẻ nghe, nhưng tiếp theo là một loạt những câu khiến họ ngỡ ngàng, choáng váng, kinh ngạc, khó tin nổi, vì không phải là những câu đề cập chiến thắng, mà chỉ nói về sự hy sinh và sự chết. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu Chúa Giêsu, và thái độ của dân Do Thái đối với Ngài, nếu chưa hiểu Ngài đã làm đảo lộn các ý niệm của họ như thế nào, Ngài đã lật ngược giấc mơ chiến thắng của họ thành mặc khải về thập giá. Do đó chúng ta không ngạc nhiên khi thấy họ đã không hiểu nổi Ngài, thảm kịch ở đây là họ từ chối không chịu tìm hiểu Chúa.
Vậy, phần nghịch lý lạ lùng mà Chúa Giêsu dạy ở đây là gì? Chúa nói đến ba điều, là ba mặt của cùng một chân lý, tất cả đều là trung tâm của đức tin và sinh hoạt Kitô giáo.
1) Ngài dạy chỉ do sự chết mới có sự sống. Bao lâu hạt lúa mì được gìn giữ an toàn thì nó không thể kết quả được. Chỉ khi nào nó được gieo xuống đất lạnh, bị chôn vùi như bị nằm trong mồ mả, nó mới có thể sinh hạt. Chính nhờ sự chết của các thánh tử đạo mà Hội Thánh đã tăng trưởng “Máu của các vị tử đạo là hạt giống của Hội Thánh”.
Nhờ những người sẵn sàng chịu chết mà những việc làm cao cả, vĩ đại mới sống. Nhưng sự kiện trên còn có tính cách cá nhân nhiều hơn nữa. Khi một người chịu chôn vùi những mục đích, những tham vọng cá nhân, thì người ấy bắt đầu hữu dụng cho Chúa. Comos Lang, Tổng Giám Mục Canterbury, có một thời, ông mang nhiều tham vọng rất lớn của trần gian. Ảnh hưởng của một người bạn tin Chúa đã khiến ông từ bỏ các tham vọng đời này, gia nhập Kitô giáo. Lúc đang theo học tại Cuddesdon để chuẩn bị cho chức vụ, một hôm đang con người trong nhà nguyện, ông nghe rõ có tiếng phán với mình: “Ta cần ngươi”. Chính lúc đó ông bằng lòng chôn vùi tham vọng cá nhân, và ông đã trở nên người có ích cho Chúa và cho các linh hồn.
Do cái chết mà có sự sống. Bởi lòng tận trung cho đến chết mà nhân loại có được, và còn giữ được những di sản quý báu hơn hết. Nhờ làm chết các tham muốn và dục vọng cá nhân mà người ta trở thành tôi tớ của Thiên Chúa.
2) Ngài dạy chỉ bằng cách sử dụng sự sống, chúng ta mới giữ được sự sống. Người tham sống bị hai điều tác động, một là vị kỷ, hai là ước muốn được yên thân. Không chỉ một hai lần nhưng nhiều lần, Chúa Giêsu nhấn mạnh kẻ nào giữ mạng sống thì cuối cùng sẽ mất, còn ai chịu từ bỏ nó cuối cùng sẽ được lại. Có một nhà truyền giáo nổi tiếng tên là Christmas Evans luôn luôn xông xáo rao giảng về Chúa Kitô. bạn bè khuyên ông nên sống thư thả, ông luôn luôn đáp: “Thà làm việc kiệt sức còn hơn là để gỉ sét ăn mòn”. Lúc Jeanne d’Arc cảm thấy kẻ thù quá mạnh, thì giờ còn lại quá ít, cô đã cầu nguyện với Chúa: “con chỉ còn sống được một năm nữa thôi, vậy Chúa có thể dùng con được bao nhiêu, xin Chúa cứ dùng”. Chúa Giêsu đã nêu định luật ấy nhiều lần (Mc 8,35; Mt 10,39; 16,25; Lc 19,24; 17,33).
Thế giới này sẽ thiệt biết bao, nếu không có người đã quên đi an toàn, yên vui vị kỷ, những lợi lộc, thăng tiến cá nhân. Thế giới này đang mắc nợ, chịu ơn những người đã tận lực làm việc, quên mình, hiến thân cho Chúa và cho người khác. Dĩ nhiên, chúng ta có thể kéo dài đời mình lâu hơn nếu tìm lối sống thoải mái, dễ dàng, trốn tránh mọi căng thẳng, nếu cứ ngồi bên bếp lửa gia đình, làm chồng, làm vợ, nếu chúng ta chỉ lo chăm sóc sức khỏe của mình như một kẻ mắc bệnh u uất, có lẽ chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn, nhưng sẽ chẳng bao giờ chúng ta thật sự sống cả.
3) Ngài dạy chỉ do con đường phục vụ chúng ta mới trở thành vĩ đại. Những nhân vật mà loài người giữ kỷ niệm trìu mến là những người đã phục vụ tha nhân. Bà Berwick hoạt động tích cực trong Cứu Thế Quân ở Liverpool. Bà về hưu ở London. Khi chiến tranh xảy ra, bị máy bay ném bom, dân chúng xảy ra ý nghĩ kỳ dị là đến núp ở nhà bà Berwick thì sẽ được an toàn. Bà đã già quá rồi, nhưng bà nghĩ mình cũng phải làm một cái gì giúp đỡ mọi người. Bà bèn gom góp những dụng cụ cứu thương, bỏ vào một hộp cấp cứu, rồi để nơi cửa sổ một hàng chữ: “Ai cần giúp đỡ, cứ gõ cửa”. Đó là thái độ yêu thương đối với đồng bào mình.
Sự thật đáng buồn là trong thế giới này, ý niệm phục vụ đang gặp nguy cơ bị tiêu diệt. Ngày nay, có quá nhiều người chỉ lăn vào đời sống, vào việc làm ăn với mục đích duy nhất là khai thác, rút tỉa lợi lộc. Rất có thể họ sẽ trở nên giàu có, nhưng chắc chắn họ chẳng bao giờ được ai yêu thương cả, mà được yêu thương trìu mến mới là sự giàu có đích thực ở đời.
Chúa Giêsu đã đến với dân Do Thái bằng một quan điểm mới mẻ về đời sống. Họ cho rằng được danh, lợi, quyền là vẻ vang, vinh hiển. Nhưng Ngài xem thập giá là vinh quang. Ngài dạy họ, chỉ từ sự chết mới có sự sống, chỉ bằng cách hy sinh mạng sống, chúng ta mới giữ được sự sống, chỉ nhờ phục vụ, người ta mới trở thành vĩ đại. Điều lạ lùng khi chúng ta suy gẫm những điều đó, điểm nghịch lý của Chúa Kitô không gì khác hơn là chân lý của lương tri ở đời.
Từ căng thẳng đến chắc chắn (Ga 12,27-34)
Trong đoạn này, Gioan ghi lại tình trạng căng thẳng lẫn chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu, và ông cho chúng ta thấy điều gì đã biến tâm trạng căng thẳng thành chiến thắng.
1) Gioan không kể giờ phút đau đớn tại vườn Giệtsimani. Chính tại đây, ông ghi rõ cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu với phần nhân tính trong Ngài muốn tránh né thập giá. Chẳng ai muốn chết cả, chẳng ai muốn chết ở tuổi ba mươi ba, mà cũng không ai muốn chết trên thập giá. Nếu sự việc xảy ra dễ dàng, chẳng phải trả giá gì cả, thì sự vâng phục Thiên Chúa của Chúa Giêsu đã không có giá trị gì. Can đảm đích thực không có nghĩa là không sợ hãi gì cả. Can đảm đích thực nghĩa là có sợ hãi khủng khiếp, nhưng vẫn làm điều đáng phải làm. Đó là can đảm của Chúa Giêsu. Bengel đã nói: “Ở đây sự chết và nhiệt tâm muốn vâng phục đã gặp nhau”. Tại đây, chúng ta thấy cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu nhằm vâng phục ý Thiên Chúa. Ý Chúa muốn Ngài chấp nhận thập giá, và Chúa Giêsu tự buộc mình chấp nhận điều đó.
2) Nhưng kết cuộc của câu chuyện không phải là tình trạng căng thẳng, mà là chiến thắng khải hoàn và chắc chắn. Chúa Giêsu biết chắc, nếu Ngài tiến tới thì việc xảy ra sẽ đập tan quyền lực của điều ác. Nếu Ngài vâng phục cho đến chết trên thập giá thì Satan, kẻ cầm quyền trên thế gian tội lỗi, sẽ bị một đòn trí mạng. Chính trận đánh cuối cùng, khi Ngài bị treo lên khỏi mặt đất, mọi người sẽ chạy đến với Ngài. Chúa Giêsu cũng muốn chinh phục con người. Ngài biết phương pháp duy nhất để thu phục vĩnh viễn trái tim con người, là bày tỏ chính mình cho họ thấy trên thập giá. Ngài đã bắt đầu với căng thẳng, nhưng kết thúc bằng chiến thắng khải hoàn.
3) Vậy, giữa tình trạng căng thẳng và chiến tranh đã có gì xảy ra? Điều gì đã biến căng thẳng thành chiến thắng? Có tiếng nói của Chúa. Đằng sau tiếng nói của Chúa là một điều trọng đại và sâu nhiệm.
Đã có một thời dân Do Thái hoàn toàn tin Thiên Chúa trực tiếp phán dạy loài người. Chúa đã trực tiếp phán dạy cậu bé Samuen (1Sm 3,1-14). Chúa đã trực tiếp phán dạy Elia lúc ông chạy trốn vì Giêsabên trả thù (1V 19,1-18). Elipha người Thêman từng tuyên bố mình đã trực tiếp nghe tiếng phán từ Thiên Chúa (G 4,16). Nhưng vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái không còn tin Thiên Chúa trực tiếp phán dạy con người nữa. Những ngày tốt đẹp đã qua rồi, bây giờ Thiên Chúa ở quá xa, tiếng nói từng phán dạy các ngôn sứ giờ đây im lặng. Từ nay trở đi, họ chỉ còn tin vào điều họ gọi là Bath qol. Bath qol có nghĩa là một câu trích dẫn kinh điển. Đó không phải là tiếng phán trực tiếp của Chúa, mà chỉ có thể là tiếng vang, tiếng dội của lời, một tiếng nói xa vời, mơ hồ, thì thầm, chứ không phải một lệnh truyền trực tiếp, sống động của Chúa.
Nhưng ở đây với Chúa Giêsu thì khác. Tiếng Ngài nghe không phải là tiếng dội lại của lời Chúa, đó chính là lời của Thiên Chúa. Tại đây có một chân lý quan trọng. Với Chúa Giêsu, lời của Thiên Chúa đến với loài người khôngphải là một lời thì thầm xa xôi, không phải là vài tiếng vang, tiếng dội yếu ớt nào từ trời vọng xuống, nhưng là lời của Thiên Chúa trực tiếp đến với loài người, bằng một giọng không thể lầm lẫn được.
Hơn nữa, điều đáng chú ý là lời của Thiên Chúa đến với Chúa Giêsu vào đúng những giây phút quan trọng trong đời Ngài. Tiếng ấy đã đến với Ngài khi Ngài chịu phép rửa, chuẩn bị cho công tác Thiên Chúa Cha muốn Ngài thực hiện (Mc 1,11). Tiếng phán ấy đã đến với Ngài trên Núi Cao, khi Ngài quyết định đi Giêrusalem để lên thập giá (Mc 9,7). Giờ đây tiếng đó lại đến với Ngài, khi thịt và máu Ngài cần được trợ giúp, củng cố, tăng cường, để nhận chịu thử thách đau đớn trên thập giá. Điều Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu, Ngài cũng làm cho tất cả mọi người. Khi Chúa sai chúng ta lên đường, Ngài không sai chúng ta đi mà không chỉ bảo và hướng dẫn. Khi Chúa giao cho chúng ta một công tác, Ngài không bỏ mặc chúng ta đơn độc với sự yếu đuối và sức riêng của chúng ta. Chúa không hề im lặng. Mỗi khi có căng thẳng của đời sống lên cao quá sức mình, sự cố gắng đi theo con đường Ngài vượt quá các nguồn năng lực của loài người, nếu chịu lắng tai, chúng ta sẽ luôn nghe được lời của Ngài, chúng ta sẽ tiến lên với sức mạnh của ngài nảy sinh trong ta. Vấn đề trở ngại khó khăn của chúng ta, không phải là Chúa không phán dạy, không nói chi, nhưng là chúng ta không chịu chú ý lắng tai, để có thể nghe được tiếng Ngài.
Từ căng thẳng đến chắc chắn (Ga 12,27-34)
Chúa Giêsu tuyên bố khi Ngài được giương lên cao, Ngài sẽ kéo mọi người đến với Ngài. Có người cho câu này ám chỉ thăng thiên, và nghĩ rằng khi Chúa Giêsu được tôn lên cao do quyền năng Phục Sinh, Ngài sẽ kéo mọi người lên với Ngài. Thế nhưng sự thật không phải vậy. Chúa đang nói về cây thập giá của Ngài. Dân chúng cũng biết như vậy, và một lần nữa, họ lại vô cùng kinh ngạc, sửng sốt. Làm sao có thể liên kết Con Người với thập giá được, Con Người há không phải là vị lãnh tụ bách chiến bách thắng cầm đầu tất cả các đội thiên binh hay sao? Quyền thế Người là quyền thế đời đời, chẳng qua đi, và nước Người sẽ không bao giờ hủy phá (Đn 7,14). Không có lời nói về Nhà Vua của thời đại hoàng kim rằng: “Tôi tớ Ta là Đa vít sẽ làm vua chúng nó mãi mãi” (Ed 37,25) sao? Isaia há đã không nói về vị Vua cai trị thế giới mới rằng: “quyền cai trị và bình an Ngài sẽ thêm mãi không thôi” (9,6) hay sao? Tác giả Thánh vịnh đã ca ngợi vương quốc vô cùng, vô tận đó rằng: “Ta sẽ lập dòng dõi ngươi đến đời đời” (89,4) sao? Người Do Thái kết hợp Con Người với một vương quốc tồn tại vĩnh viễn, thế mà ở đây, Ngài tự xưng là Con Người, nhưng lại nói về việc mình sẽ bị treo trên thập giá. Thế thì Con Người này là ai mà vương quốc Người lại chấm dứt trước khi bắt đầu?
Nhưng bài học lịch sử đã cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã nói đúng. Chúa Giêsu đã gắn những hy vọng của Ngài vào quyền lực sẽ tiêu tan, còn tình yêu sẽ tồn tại mãi. Thành Tia, Siđôn chỉ còn lại cái tên, nhưng Chúa Giêsu Kitô vẫn sống. Một tuyệt tác của Shelley nói về Ozymandias, vị vua của các vua: những gì ông còn để lại là một bức tượng tả tơi của ông nằm giữa sa mạc. Các cường quốc được dựng lên bằng bạo lực đều đã tiêu tan, chỉ còn lại trong ký ức con người, và năm tháng qua đi, ký ức ấy ngày càng lu mờ. Nhưng vương quốc của Chúa Giêsu xây dựng trên thập giá ngày càng mở rộng thêm mãi. Sự chết của Ngài trên thập giá đã đưa Ngài vào lòng mọi người mãi mãi.
Trong vở kịch của Shaw, khi Jeanne d’Arc biết mình bị các lãnh tụ dân mình phản bội, nàng quay lại nói với họ: “bây giờ tôi sẽ đi đến với người dân, để được tình thương trong mắt họ yên ủi, thay cho thù hằn trong mắt các ông. Các người sẽ hài lòng khi thấy tôi bị thiêu sống, nhưng nếu tôi đi qua lửa của các người, tôi sẽ đi thẳng vào lòng dân chúng mãi mãi”. Đó là ví dụ về những gì đã xảy ra cho Chúa Giêsu. Đấng Mêsia chinh phục thế giới mà dân Do Thái mong chờ, chỉ là một nhân vật mà các học giả đã dùng để viết sách, nhưng vị Vua yêu thương trên thập giá đã đặt ngai của Ngài vĩnh viễn trong lòng người. Nền tảng duy nhất bảo đảm cho bất cứ vương quốc nào phải là tình yêu hy sinh.
77.Sự yếu đuối của con người--Flor Mc Carthy
Người ta quan niệm rằng: Người hùng là người cứng rắn không bao giờ tỏ ra sự yếu đuối của mình, hay tỏ ra bất lực, nghi ngờ về một vấn đề quan trọng. Họ luôn tự tin trong mọi công việc cũng như tỏ ra không bao giờ sợ hãy. Vì họ quan niệm rằng: anh hùng thì phải mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh và dũng cảm, không hề nao núng. Nhưng thật ra anh hùng không phải như thế.
Chuyện kể rằng Martin Luther King là một nhà lãnh đạo trong cuộc nội chiến Mỹ. Vì chính nghĩa nên ông ta đã gặp nhiều khó khăn, đến nỗi nhiều lần ông lưỡng lự và không còn tự tin để quyết định. Vì ông ta biết rằng, nếu ông tiếp tục tranh đấu có thể ông ta sẽ bị tù tội, lăng nhục và có thể đe doạ đến tính mạng. Đúng như ông dự đoán, người ta đã ám sát ông.
Trong suốt thời gian tranh đấu. Nhiều lúc, ông cảm thấy xuống tinh thần tinh thần và chán nãn vì nhà thì bị ném bom, gia đình phải ly tan. Bản thân ông hoàn toàn sụp đổ. Ông chán nãn và lòng tự trọng bị tổn thương. Trong tình trạng kiệt sức và thất vọng, ông ta đã quỳ gối trước mặt Chúa và cầu nguyện: "Lạy Chúa, con đang tranh đấu cho những gì con tin là đúng. Nhưng giờ đây con cảm thấy sợ. Mọi người nhìn con với tư cách như là một nhà lãnh đạo. Nếu con hiện diện trước mặt họ với một tâm thế yếu đuối và sợ hãi thì họ sẽ loại trừ con. Nhưng giờ đây con đã kiệt sức. Con không thể bước thêm được nữa và không thể đối mặt với bất cứ điều gì. Ông ta nói rằng: "Giây phút lắng động mà ông đã trãi qua trước mặt Chúa đã khiến ông nói lên nnhững lời mà ông chưa bao giờ nói được.". Nhờ đó mà ông đứng vững và tiếp tục chiến đấu.
Martin Luter King, quả thật không kém một anh hùng. Vì ông ta đã tỏ ra mình không phải được dựng nên bằng đá. Anh hùng, người mà không bao giờ tỏ ra mình yếu đuối và nao núng thì không đáng tin.Và họ cũng không dáng kể ta chiêm ngưỡng, và nhận như một tấm gương để sống. Vì chúng ta không nhận ra sự thật về con người họ mà ta bắt chước. Trái lại, khi chúng ta gặp một người nào mà họ luôn lo lắng trước những định mệnh, và nhận ra nơi họ sự sợ hãi, chúng ta cảm thấy những người như vậy là đáng tin hơn. Các vị thánh cũng như các vị anh hùng tử đạo, họ chưa bao giờ cảm thấy mình có khả năng như vậy. Chúng ta yêu mến và thích nhìn ngắm những con người đằng sau sự anh hùng của họ.
Chính Chúa Giêsu đã không đi đến cái chết với sự tự tin và hoàn toàn quả quyết. Có những lúc tinh thần của Người xuống đến tột đĩnh như trong vườn Giêtsêmani khi linh hồn của người chìm sâu vào những nỗi khắc khoải khiến Ngài phải thốt lên: "Linh hồn Thầy xao xuyến". Thánh Gioan đã không tường thuật sự đau đớn của Chúa Giêsu trong vườn Giếtsêmani trong Tin Mừng của Ngài. Nhưng chúng ta bắt gặp một âm thanh vang dội trong Tin mừng ngày hôm nay khi Chúa Giêsu nói: "Linh hồn Thầy xao xuyến."
Đây quả thật là một sự an ủi và khích lệ chúng ta. Vì nó cho thấy Đức Giêsu cũng là một con người thật nên Ngài cũng có những lúc yếu đuối và sợ hãi như chúng ta. những nỗi sợ hãi ập đến làm cho Ngài vô cùng buồn bả đến nỗi mồ hôi đã đỗ ra như những giọt máu. Ngài không nhìn cuộc thương khó và cái chết với một con tim gỗ đá. Vì Ngài cũng khiếp sợ. Nhưng bởi sức mạnh nào đã làm cho Ngài phải đương đầu, chấp nhận và chiến thắng nó. Phải chăng Ngài đã nhận sức mạnh từ những phút giây cầu nguyện và từ Thiên Chúa? Người ta quan niệm: " Can đảm là sợ hãi được nói lên trong khi cầu nguyện."
Chúng ta không phải là người nếu chúng ta không cảm thấy sợ khi bị đe doạ trước những gì nguy hiểm. Can đảm không phải là không bao giờ cảm thấy sợ hãi. Nhưng chính khi cảm thấy sợ hãi nhưng tiếp tục vượt qua mới là can đãm thật. "Một người không biết sợ thì không phải là anh hùng, nhưng anh hùng là người biết vượt qua nỗi sợ". (Solzhenitsyn)
Sự đau đớn của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu đã cho chúng ta một lời an ủi và một niềm hy vọng trong khi chúng ta đương đầu với những khó khăn. Chúng ta không cần phải giả vờ là chúng ta được dựng nên bằng đá. Chúng ta cũng không cần phải dấu những yếu đuối và sợ hãi của mình. Như Chúa Giêsu, chúng ta hãy hướng về Thiên Chúa bằng những lời cầu nguyện chân thành. Và phải nhìn nhận rằng: chúng ta cũng cần có người để an ủi. Như Chúa Giêsu đã choọn Phêrô, Giacôbê và Gioan để họ cùng đi cầu nguyện với Người.
78.Tôi sẽ lôi kéo mọi người--Yvon Daigneaut
Mở đầu.
Trong khi bài Tin Mừng được tuyên bố, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói một lời khó hiểu: “Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi”. Lời này ám chỉ hai điều: việc Ngài sắp bị đóng đinh thập giá và tầm ảnh hưởng vô biên từ cái chết của Ngài trên thập giá. Vì không có thói quen nhắc đến những nguyên nhân trừu tượng và những ý niệm tổng quát không thể kiểm chứng được, Chúa Giêsu mời chúng ta lưu ý đến một biến cố sắp xảy ra liên quan đến Ngài cách tuyệt đối –bởi Ngài là người độc nhất bị nâng lên khỏi mặt đất- và sẽ liên quan đến chúng ta một cách cũng tuyệt đối như thế bởi vì hết thảy mọi người sẽ được lôi cuốn bởi biến cố này và sẽ dấn thân vào đó.
Biến cố thập giá.
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao ước đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa Con dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận nó vì chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất tuân của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó là công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của chúng ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó thuộc về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và tin tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Thập giá là nguồn mạch sự sống.
Sự cứu độ của chúng ta, với tư cách là cộng đồng nhân loại và với tư cách cá nhân, chỉ nằm trong việc trở về với Thiên Chúa, trong ý muốn vâng phục của con cái, hoa quả của một Giao Ước Mới. Và chúng ta không thể thực hiện được điều này bằng sức riêng mình, vì việc từ chối ban đầu chống lại tình yêu Thiên Chúa tiếp tục đè nặng trên chúng ta và áp đặt cho chúng ta một gánh nặng ngày càng khiến chúng ta tê liệt.
Trái lại, nếu Ai Đó có thể giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa, vì Ngài và vì chúng ta hết thảy, bằng việc đón nhận trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, dù là trong một biến cố đầy thử thách như biến cố thập giá, lúc đó ta sẽ tìm lại được tình thân hữu với Thiên Chúa. Lòng chúng ta sẽ có khả năng thương yêu và giao hòa, có khả năng vui vẻ đón nhận ơn sự sống. Sự sống sẽ tuôn trào từ thập giá cách tràn trề đến nỗi làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Nhờ chấp nhận thập giá của loài người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống mà Chúa Cha đổ tràn trên Ngài trong cuộc Phục Sinh: thông ban Thánh Thần; ân sủng; sự hiệp thông đời đời với Thiên Chúa; qui tụ loài người thành một cộng đoàn mới; hoàn tất việc tạo dựng trong công chính, bình an và tự do.
Kết luận.
Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ lôi cuốn hết thảy mọi người!”. Ảnh hưởng của thập giá luôn luôn lan rộng. Không nỗi đau khổ nào của loài người được tách rời ra khỏi thập giá, không niềm hy vọng nào nảy sinh trong lòng lại bị chối bỏ. Thập giá của Chúa Giêsu làm cho thế giới này được sống. Như từ một nguồn suối, sự sống đang tuôn trào từ thập giá, đang thấm nhuần và biến đổi thế giới này.
79.Chúng ta đang sống ở giờ nào?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Trong Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giêsu thường hay nói đến “giờ” của Người. Giờ của Người đây, tức là lúc Người đạt tới đỉnh sự mệnh Cứu thế của Người, nghĩa là cuộc Khổ nạn và sự Sống lại của Người. Không nên tách rời hai việc đó. Cái chết là sự vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, như sự Phục Sinh đem lại cho nó một ý nghĩa bằng cách đề cao và tăng thêm sự sống. Giờ của Chúa Giêsu vừa là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là ngày Chúa Nhật Phục Sinh và giờ đó, ngày nay vẫn tiếp trong mỗi người Kitô hữu là một kẻ cũng bị đóng đinh và Phục Sinh. Ở đây, Chúa Giêsu dùng dịp mấy người ngoại giáo đến gặp Người để nói về Giờ của Người. Những người ngoại giáo này là những người “Hy lạp” có cảm tình với đạo Do Thái. Họ đến Giêrusalem để hành hương, mặc dầu họ chưa thuộc về dân của Abraham. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nói đến Giờ của Người, tức là sự Cứu chuộc, cũng dành cho người này. Tại sao vậy? Người nói đến sự Cứu chuộc bằng cách đem so sánh với hạt lúa gieo xuống đất chết đi trổ lên thành bông khác. Hạt giống chết đi, chính là Người, Đức Giêsu. Những hạt lúa được tăng gấp lên trong bông lúa là tất cả các dân tộc, hết thảy mọi người, tất cả những người “ngoại giáo” sẽ trở thành tín hữu.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta nêu lên ba đề tài suy tư:
1) Hết thảy mọi Kitô hữu được kêu gọi sống “Giờ của Chúa Giêsu”. Chúng ta phải lưu ý điểm này là trong Phúc Âm của thánh Gioan, hai tiếng Vinh quang, và Chết rất gần nhau, hầu như nhập làm một. Điều này gợi lên cho chúng ta hai ý: thứ nhất, người Kitô hữu không được miễn trừ việc khai tử nơi mình, những gì chống lại sự sống thật. Phép rửa tội đã dấn thân họ trong một mầu nhiệm của sự chết. Họ không hơn Thày họ. Họ phải chết về thể xác, song họ cũng phải qua một cái chết tinh thần nào đó. Cái chết tinh thần được mệnh danh là sự từ bỏ chính mình. Thứ hai, họ có được phép vì thế, mà phải tỏ ra vẻ khắc khổ và buồn sầu không? Trái lại là khác, họ cũng đồng thời phải sống mầu nhiệm Phục Sinh-Vinh quang và hoan lạc. Sự từ bỏ của người Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự hiệp nhất với cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, trong việc bắt chước Chúa Giêsu. Đức Giêsu Kitô đã liên kết trong “Giờ” của Người cái thực tại bất khả phân của sự đau khổ và sự tôn vinh của Người. Người Kitô hữu, người của sự từ bỏ cũng vậy, họ cùng lúc phải là người của sự hoan lạc tinh thần. Phải chăng “Giờ” của Chúa Giêsu là đánh dấu mỗi giờ trong cuộc đời chúng ta?
2) Mỗi người Kitô hữu đều được kêu gọi trở thành hạt giống gieo xuống đất. Điều này làm nên phần riêng của tình trạng việc cứu rỗi thế giới. Dầu bên ngoài có được kêu gọi hay không, mỗi người Kitô hữu do sự kết hiệp với Đức Kitô cũng có được mời gọi tham gia vào việc cứu rỗi hết mọi người anh em mình. Nếu họ không thể hành động được, người đó hãy nuôi dưỡng ý chí tán dương mà của lễ thầm kín của sự cầu nguyện, đau khổ và cái chết của người đó kết hiệp cùng Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa, để cứu rỗi nhiều anh em mình. Nếu họ có sứ mệnh hoạt động thì họ phải nhớ rằng sự hiệu nghiệm của các hoạt động mình tùy thuộc trước hết và trên hết sự hiệp thông của mình với lời cầu nguyện và cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
3) Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống mình thì mất nó, còn ai ghét sự sống mình đời này thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!” Điều quan trọng là phải hiểu Đức Kitô muốn nói gì. Đây không phải là chuyện tương phản giữa yêu và ghét. Chúa Giêsu nói bằng ngôn ngữ đó, sự tương phản nhiều khi chỉ là 1 cách so sánh. Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống đời này hơn số phận vĩnh cửu của mình sẽ mất hết.
Vậy để được sống đời đời, phải biết từ bỏ ít nhiều thỏa mãn thế tục. Như vậy người ta gặp lại ở đây đề tài: phải biết chết cho mình, để đạt tới đời sống đích thật. Người Kitô hữu theo Chúa Giêsu trong sự đau khổ và trong cái chết của Người, nghĩa là trong lễ tế của Người, và cũng theo sát Người trong cuộc Phục Sinh và Vinh quang Người, trong lúc chờ đợi thực hiện cho mình lời hứa của Thày Chí Thánh: Ta ở đâu, môn đệ Ta cũng sẽ ở đấy (Gio 14,3).
80.Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu--Noel Quesson
“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.
81.Phục vụ tha nhân, như Chúa Giêsu phục vụ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2015, Đức Thánh Cha Phaxico nói rằng: “Mùa Chay là thời gian thuận tiện chúng ta để cho Chúa Kitô phục vụ mình - nhờ đó chúng ta trở nên giống Ngài hơn, mỗi khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Nơi đó chúng ta trở thành điều mà chúng ta lãnh nhận: trở nên Thân Mình Chúa Kitô. Trong thân mình này, không có chỗ cho thói vô cảm rất thường chiếm lĩnh tâm hồn chúng ta. Vì ai thuộc về Chúa Kitô thì cũng thuộc về một thân mình duy nhất và trong Chúa chúng ta không được dửng dưng đối với nhau. “Vì nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau; và nếu một chi thể được vinh dự thì mọi chi thể đều được chia sẻ niềm vui ấy” (1 Cr 12,26) (số 1). Vì thế Ngài kêu gọi Giáo Hội, giáo xứ, cộng đoàn và từng cá nhân hãy gạt bó thói vô cảm dững dưng với tha nhân đặc biệt là những người nghèo khổ nhất trong xã hội hôm nay thay vào đó phải sẵn sàng phục vụ, yêu thương và chăm sóc họ vì họ là thân mình Chúa Kitô.
Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay nói rõ: Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. “(Ga 12, 26). Chúa Giêsu coi việc phục vụ là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống với Thiên Chúa và tha nhân. Qủa thế, Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa: Mạc khải Thiên Chúa cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua việc phục vụ rửa chân cho các môn đệ, chịu nạn, chịu chết đau thương trên thập giá (Mt 16,21). Là Kitô hữu, chúng ta trước hết rập theo Chúa Giêsu: chuyên tâm cầu nguyện, phục vụ Lời Thiên Chúa (Cv 6,4), rồi lo việc tế tự và rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16) với “tất cả lòng khiêm nhường dù có gặp nhiều gian nan thử thách” (Cv 20,19). Điều đáng lưu ý rằng chúng ta phục vụ Thiên Chúa như con cái của Ngài, chứ không phải người nô lệ (Gl 4,4-7) vì chúng ta phục vụ trong sự mới mẻ của Thần Khí chứ không phải trong sự cũ kỹ của chữ viết (Rm 7,6), ngõ hầu chúng ta được Chúa Cha chúc phúc và mời đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho chúng ta từ thuở tạo thiên lập địa (Mt 25,34).
Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy nhưng “Người không đến để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người” (Mc 10,45). Cho nên, cả đời Ngài là một chuỗi hành vi phục vụ con người. Ngài phục vụ như một người nô lệ, một tôi tớ: cúi mình xuống thật sâu để mặt mình ngang hàng với chân của học trò và thậm chí kẻ phản bội mình (Ga 13,1-15) để rửa chân.
Còn chúng ta có làm được như thế cho mọi người nhất là những người nghèo, người khuyết tật, bệnh nhân hay tù nhân không, chúng ta có khả năng tươi cười, tha thứ yêu thương hay phục vụ họ như bao người khác không? Chắc chắn Chúa Giêsu phải có một trái tim yêu thương cao thượng đến tột độ mới phục vụ chúng ta như thế! Chúa Giêsu lại ban cho chúng ta tình yêu cao quí đó qua việc chúng ta liên kết và hợp nhất với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, cùng hiệp thông với Chúa Thánh Thần. Giờ đây, chúng ta hãy cất bước vào đời thi hành tinh thần phục vụ mọi nơi, mọi lúc và trong từng việc chúng ta làm; phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ân nghĩa không chờ, và phục vụ tất cả vì Chúa Kitô. Vì vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta không yêu thương người ta, không ao ước phục vụ người ta, hãy tự hỏi lòng mình rằng: liệu Chúa Giêsu Kitô có thật sự ở trong tôi không? Và tôi có phải là môn đệ Chúa Kitô không? Cho nên, Chúa Giêsu khẳng định: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Vì vậy, cũng trong sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi: “Mỗi cộng đoàn Kitô hữu được kêu gọi ra khỏi chính mình để dấn thân vào đời sống của xã hội rộng lớn hơn mà mình cũng là thành phần, nhất là với những người nghèo và những người ở xa Giáo hội. Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, Giáo hội không co cụm vào mình, nhưng được sai đến với mọi quốc gia và mọi dân tộc” (số 3). Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, trong Mùa Chay này chúng ta hãy cầu xin Chúa: Xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa” (Kinh cầu Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu) để có được một con tim mạnh mẽ và biết xót thương, ân cần và quảng đại mà phục vụ anh chị em đang cần chúng ta giúp đỡ để đừng rơi vào cám dỗ của nạn toàn cầu hóa thói vô cảm hôm nay. Amen.
82.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Để chuẩn bị tinh thần cho các Môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Nhưng đi liền với lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết thì Ngài cũng cho biết “ngày thứ ba” Ngài sẽ sống lại. Như thế, đau khổ và sự chết như là điều kiện tất yếu để Ngài bước vào ngày phục sinh.
Chính vì vậy, qua bài Tin mừng hôm nay, sau khi nhắc tới nguyên lý của hạt lúa mỳ phải mục nát đi thì mới sinh bông hạt, Đức Giêsu khẳng định: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. “(Ga 12,25).
Thoạt nghe, nhiều người cho rằng lời khẳng định của Đức Giêsu có vẻ rất nghịch lý với cuộc sống. Bởi vì, bình thường không ai ghét mạng sống mình bao giờ, nhưng trái lại họ yêu và rất yêu mạng sống của mình. Họ chăm sóc mạng sống ấy bằng nhiều cách thế khác nhau: ăn uống, ăn mặc, trang điểm, đi khám bác sĩ và nhiều hình thức khác nữa. Thực ra, biết yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân không phải là điều xấu. Nếu làm đúng cách thì đó lại còn là một thái độ rất tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở thái độ yêu mạng sống mình, chăm sóc cho bản thân mình mà quên mất tình thân, quên mất tình người, quên mất những bổn phận khác thì sẽ trở thành người xấu. Khi Đức Giêsu nói “ai yêu sự sống mình thì sẽ mất” ám chỉ những người chỉ lo cho mình mà không màng chi đến người khác. Những người chỉ muốn nhận mà không biết cho. Họ là những người ích kỷ giống như chiếc ao tù đọng không có sự sống.
Hơn nữa, lời dạy của Đức Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài muốn nói tới sự sống linh hồn của chúng ta. Để được sống phần linh hồn, mỗi người chúng ta cần phải chết đi cho tội, chết đi tính ích kỷ. Để có sự sống phần linh hồn có khi chúng ta cũng phải chấp nhận chết đi sự sống phần xác vì phải hiến thân, phải quên mình, đúng như lời khẳng định của Thánh Phanxicô Assisi trong lời kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. “Vì thế, giáo huấn của Đức Giêsu không nghịch lý nhưng là một chân lý. Chân lý này đã được chính Ngài thực hiện một cách trọn vẹn trong cuộc sống. Chính Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đã chấp nhận mục nát đi để sinh ơn cứu độ cho nhân loại chúng ta. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.”(Pl 2,6-9).
Thật vậy, vì vâng lời Chúa Cha và để cứu độ nhân loại, Ngài đã chấp nhận sống mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình từ khi nhập thể cho đến khi chịu chết trên thập giá để được sống lại vinh quang. Ngài sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, làm con nuôi của Thánh cả Giuse, sống 30 năm với nghề thợ mộc tại làng Nazaréth như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm ra đi rao giảng Tin mừng: Ngài rao giảng và làm phép lạ để cứu giúp nhiều người. Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Cao điểm của sự phục vụ ấy là việc Ngài rửa chân cho các môn đệ vào tối trước ngày Thứ năm tuần thánh. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn chịu chết để cứu độ nhân loại. Như vậy, Đức Giêsu là hạt lúa mỳ chịu mục nát đi để đem lại sự sống cho nhân loại chúng ta. Ngài đã hy sinh mạng sống của mình để cho nhân loại được sống.
Noi gương Đức Giêsu, có rất nhiều vị thánh cũng đã chấp nhận hy sinh, chấp nhận làm hạt lúa mỳ mục nát đi để người khác được sống. Đó là sự hy sinh của Thánh Maximilianô Kolbê đã chấp nhận chết thay cho người tử tù được sống. Đó là sự hy sinh của Mẹ Têrêxa Caculta và các nữ tu thuộc dòng của mẹ, suốt cuộc đời vì những người nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề xã hội tại các khu ổ chuột. Đó là sự hy sinh của các Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ đã dâng hiến đời mình vì hạnh phúc và phần rỗi của tha nhân. Đó là sự hy sinh của những người vợ người chồng vì hạnh phúc của người bạn đời. Đó là sự hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ vì niềm vui và hạnh phúc của con cái. Đó là sự hy sinh cho nhau của anh chị em ruột thịt trong gia đình. Và còn biết bao tấm gương hy sinh khác trong đạo ngoài đời mà chúng ta không thể kể hết ra đây. Nếu tìm kiếm trên mạng, chúng ta sẽ đọc được những câu chuyện rất cảm động về sự hy sinh đó. Chẳng hạn: Cha lấy thân làm "bao cát" để kiếm tiền cứu con; Đôi vợ chồng già ăn xin kiếm tiền nuôi con ăn học; Đóng giả làm đàn ông suốt 43 năm để dễ kiếm việc làm, nuôi con khôn lớn; Mẹ già bán cầu từ tinh mơ để kiếm tiền nuôi con; Người mẹ làm đôi chân cõng con đi học mỗi ngày; Mẹ 90 tuổi chăm con bại não suốt 50 năm…Và câu chuyện sau đây cũng phần nào cho chúng ta thấy sự hy sinh cao cả của một cậu bé 8 tuổi.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được mau chóng tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn máu cùng nhóm để truyền. Rất may là máu của cậu bé cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm. “Sau đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh dậy, cậu bé đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười khi nói: “Ô hay! Con chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?” Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi bằng lòng hiến máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu trong con người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị chết, nên sau khi ngần ngại một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em gái mình được sống! (Sưu Tầm)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh để cứu độ chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa. Ngoài Chúa ra, còn biết bao nhiêu người khác cũng đã hy sinh vì chúng con, xin Chúa trả công bội hậu cho các vị ân nhân đó. Xin cho mỗi chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
83.Yêu thương là cho đi
Yêu thương là cho đi, là chia sẻ, là dám chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau. Hoa hồng nào mà chẳng có gai, tình yêu nào mà chẳng có những hy sinh gian khổ của nó.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại rằng: Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén đường và nói: Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả những gì mình cần thiết. Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người đàn ông đến gặp mẹ và nói: Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn. Lập tức mẹ bưng rá gạo đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi lập tức chia làm hai phần, bưng nửa ra đi, lát sau mới trở lại. Mẹ thấy vậy bèn ngạc nhiên hỏi: Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai? Không chút do dự người đàn bà trả lời: Họ cũng đói lắm. Nhưng họ là ai? Là những gia đình Hồi giáo, cũng có những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng chẳng có gì để ăn.
Từ những câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy, yêu thương chính là cho đi, chính là chia sẻ. Không phải những gì mình dư thừa, nhưng cả những gì cần thiết cho đời sống của mình. Sức mạnh của tình yêu chính là khả năng chấp nhận những hy sinh gian khổ cho người khác được hạnh phúc. Trong chiều hướng này, chúng ta nhận thấy tình yêu Thiên Chúa thực lớn lao biết bao, bởi chưng, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người chịu đựng mọi vất vả túng thiếu và sau cùng chịu chết một cách ô nhục trên thập giá, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu: Ta đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
84.Giờ của Chúa
Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.
Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con đã đến.
Đó là một sự chấp nhận thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang phục sinh.
85.Giờ Chúa đến.
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.
86.Chúa Nhật 5 Mùa Chay
Chúa nhật hôm nay được coi như là Chúa nhật cuối cùng của thời gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Phục Sinh. Bước qua tuần tới là chúng ta bước vào Tuần Thánh, tuần lễ quan trọng nhất đối với chúng ta là những người sống niềm tin Kitô giáo. Và để giúp mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thánh một cách vừa sốt sắng vừa ích lợi, Phụng vụ Lời Chúa trong ngày Chúa nhật cuối cùng này sẽ cho chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị của cuộc khổ nạn mà mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trước mặt mọi người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Lời Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia phán rằng: "Đã tới ngày Ta ký kết giao ước mới với dân Israel. Giao ước này không giống như giao ước mà Ta đã ký kết với tổ phụ chúng trong ngày Ta dẫn dắt chúng ra khỏi Ai cập, mà chúng đã nhiều lần phản nghịch. Giao ước mới này sẽ không còn ghi trên bia đá, nhưng là ghi vào tận đáy lòng của chúng. Cốt lõi của giao ước này chính là tình thương và sự tha thứ, nhờ đó mà mọi người từ lớn tới nhỏ đều nhận biết Ta. Và Ta, Ta sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa. “Vậy thì thử hỏi rằng: Bao giờ thì Thiên Chúa sẽ thực hiện việc ký kết mà Người vừa tiên báo? Thưa đó chính là ngày hôm nay, bằng chính cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.
Tác giả bức thư gửi tín hữu Do thái, nơi bài đọc thứ hai khẳng định là: "Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu chính là một biến cố đem lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi kẻ tùng phục Người. “Còn nơi bài Phúc âm, Thánh Gioan như muốn diễn tả nỗi thao thức của Chúa Giêsu về cái chết mà Người sắp phải chịu: "Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi kéo mọi người lên cùng Ta. “Và để cho mọi người có thể hiểu được điều mà Người mới vừa tuyên bố, Đức Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thuộc, hình ảnh một hạt lúa được gieo trồng xuống đất, để nói về giá trị của cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình.
Nhưng nếu nó chết đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt. “Vâng! Đúng là như vậy; Nếu hạt lúa được gieo xuống mà không chấp nhận chết đi, thì nó vẫn mãi mãi là một hạt lúa khô cằn đơn độc. Trái lại, nếu nó chấp nhận chết đi, chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ đem lại ích lợi cho mọi người. Bởi vì nó sẽ trở thành một cây lúa tươi tốt và trổ sinh nhiều bông hạt khác. Cho nên sự sống được từ bỏ kia không những là không mất đi cách vô ích, mà ngược lại nó sẽ tồn tại mãi mãi. Như thế thì Chúa Giêsu hoàn toàn có lý khi tuyên bố rằng: "Nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được nó cho sự sống đời đời. “Hạt lúa mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây, không ai khác hơn là chính Người. Từ Thiên cung ngự xuống, Người đã chấp nhận chết đi nơi mình những gì "là Chúa" và "của Chúa", để trổ sinh những hoa trái của ơn cứu chuộc, đó là đem lại cho mọi người sự sống đời đời.
Quả thật, nếu nhìn lại cuộc đời của Đức Giêsu nơi các tác giả Phúc âm, chúng ta đều thấy rằng: Người chính là Thiên Chúa quyền năng từ trời xuống thế làm người, chấp nhận một kiếp sống nhạt nhẻo tầm thường tại làng quê Nagiarét. Đến lúc khởi sự công việc rao giảng Nước Trời, Người lại chọn một cách thức cũng nghèo nàn: không tiền bạc, không phương tiện, không thế lực, cũng không có đến một lời giới thiệu hay sự bảo trợ nào của những người có uy tín trong xã hội. Và rồi trong suốt ba năm giảng dạy, Người đã nếm trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, mọi tâm trạng của một con người thấp cổ bé miệng: bị hiểu lầm chống đối, bị khước từ đánh đập và bị xử tử bằng một bản án dành cho những tội phạm nguy hiểm nhất. Và cuối cùng trên thánh giá, Đức Giêsu gục đầu như một kẻ thất bại hoàn toàn.
Thế nhưng đó chính là lúc Người chiến thắng, đó chính là lúc thế gian bị xét xử khai trừ, vì đó chính là lúc mà như Người đã báo trước: "Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến". Rồi gần với chúng ta hơn nữa là nếu hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở nên cơm bánh nuôi sống con người, thì Đức Giêsu cũng vậy, Người chấp nhận bị chôn vùi, bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn, để trở thành tấm bánh trên bàn thờ nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Như thế, hạt lúa mà Đức Chúa Cha gieo vào trần thế này đã chết; Đức Giêsu đã chết.
Thế nhưng cái chết đó không phải là vĩnh viễn, mà cái chết đó đã được phục sinh và tồn tại mãi mãi để đem lại sự sống vĩnh cữu cho con người. Ngày hôm nay chúng ta sống trong một bối cảnh hoàn toàn khác với những người Do thái thời xưa. Chúa đã chết rồi và Chúa cũng đã phục sinh rồi. Chúng ta đã biết; chúng ta đã tin điều đó, và chính vì đã tin điều đó mà bây giờ chúng ta mới có mặt trong ngôi nhà thờ này. Vậy thì xin hỏi rằng: Việc tìm hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có còn cần thiết nữa không? Thưa cần! ngày hôm nay Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện này, trước khi mừng kỷ niệm cuộc khổ nạn của Chúa, chính là để nhắc cho chúng ta nhớ lại căn nguyên, nguồn gốc ơn cứu rỗi của mình.
Đồng thời cũng là để cho chúng ta nhìn vào đó mà suy nghĩ, chọn lựa một nếp sống mang lại ích lợi cho phần rỗi linh hồn của mình và cho những người chung quanh. Hạt lúa mà không chấp nhận chết đi cuộc sống riêng tư của nó, thì nó sẽ nên trơ trọi lẽ loi. Đời sống gia đình mà không chấp nhận chôn vùi những ý riêng, những sở thích cá nhân, thì những thành viên sống trong đó vẫn mãi mãi là mhững hòn đá nằm cạnh nhau mà thôi. Đời sống đức tin mà không chấp nhận nghiền nát những cái gọi là tính toán, hẹp hòi, ích kỷ, thì cuộc sống sẽ đơn điệu nhàm chán, và dần dần việc sống đạo sẽ trở một gánh nặng cho mình.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau, để mỗi người chúng ta sớm nhận ra những điều mà mình cần phải để cho nó chết đi, để nhường chổ cho những điều tốt đẹp được tỏ hiện. Bởi vì con người tội lỗi có chết dần đi, thì con người vốn được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mới dần dần được sống lại; Đó cũng chính là cách tốt nhất để chúng ta chuẩn bị bước vào Tuần Thánh sắp tới đây.
87.Chúa Nhật 5 Mùa Chay.
Nói về tình yêu, trong chúng ta, ai cũng nhớ đến mối tình cao đẹp trong câu chuyện xưa có tên: "Trần Minh Khố Chuối. “Ngày nay được các nghệ sĩ đỗi tên là:"Bên cầu dệt lụa. “Câu chuyện diễn tả mối tình cao đẹp của đôi bạn Trần Minh và Nguyệt Nga. Hai người đã vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, để tìm hạnh phúc cho nhau. Tôi thiết nghĩ: Nếu Trần Minh vì quá tự ái, nuôi mối hận riêng tư trong lòng, tìm cách trả thù thì cũng không được một kết cuộc tốt đẹp như thế. Còn nếu Nguyệt Nga cứ giữ mãi danh phận của một tiểu thư đài cát, không dám hy sinh cho tình yêu thì họ cũng không thấy được bông hoa tình yêu. Nhưng vì họ đã biết vun trồng, biết chấp nhận những nghịch cảnh, biết vượt qua chính mình, biết cùng góp sức từ bỏ đi những gì là riêng tư, nên họ nhận được phần thưởng tốt đẹp và xứng đáng.
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không tối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi,thì sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. “Chúa Giêsu đã nói lên một chân lý, để dạy cho con người cách sống ở đời, nhưng đặt biệt, Ngài còn muốn kêu gọi mọi người thực hiện để tìm hạnh phúc đích thực và vững bền. Ngài không chỉ nói suông nhưng Ngài đã thực hiện những gì mình đã nói, đã dạy. Ngài đã để cho thân xác hay hư nát của Ngài tiêu tan đi cho đến độ Ngài không cần gìn giữ nó cho riêng Mình nữa mà Ngài dám hy sinh nó cho những người mình yêu thương. Sự hy sinh của Ngài làm cho những người đương thời không thể hiểu được. Mọi người tưởng rằng Ngài đã chết thật, nhưng đang lúc đó, Ngài đã chứng tỏ một sức sống mãnh liệt cho tình yêu. "Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất..."
Nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta cũng nhìn thấy biết bao người đã hy sinh đời sống của mình, họ đám từ bỏ tất cả để đạt cho được mục đích mà mình muốn. Nhưng nhìn chung, tất cả những gì con người ước muốn chỉ thỏa mản những đòi hỏi riêng tư, không có giá trị lâu dài. Con người càng đòi hỏi và niềm khát vọng mỗi ngày càng dâng cao. Nên con người không tìm được hạnh phúc trong những khát vọng ích kỷ cá nhân. Đáp ứng những khát vọng chỉ là đi tìm chính mình, lo bảo vệ mình mà thôi. "Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất."
Mỗi người chúng ta nhìn vào chính mình xem: Bao nhiêu lần vì tự ái, chúng ta không thể nào nghe người khác khi họ chỉ cho chúng ta thấy những thiếu sót, sai phạm, để chúng ta sửa đỗi cho tốt hơn. Đó là những lúc chúng ta không dám chết đi cho lòng tự ái, tính kiêu căng của mình. Còn bao nhiêu lần nữa, chúng ta thấy được những tật xấu của mình, thấy được những điều bê tha, thấy được những điều không nên làm, thế mà chúng ta vẫn làm. Đó là chúng ta chưa dám chết cho những ý riêng, chưa dám chết cho những dục vọng của chính mình. Có những lần chúng ta nhìn thấy những điều không hợp lý, những điều bất công, nhưng, chúng ta đành lánh mặt đi nơi khác cho được yên thân. Đó là lúc chúng ta chưa dám chết cho sự hèn nhát của chính mình. Cũng có những lúc chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của chính mình trong cuộc sống, nhưng chúng ta vẫn không chu toàn được, vì thiếu sự cố gắng. Đó là những lúc chúng ta chưa dám chết cho sự lười biếng của chính mình.
Đối với Thiên Chúa. Có những lúc chúng ta cảm nhận được sự ngọt ngào trong những lần thành công, trong niềm hạnh phúc mà mình đạt được. Lời Chúa dạy, chúng ta biết rất rỏ, chúng ta vẫn không thi hành. Chúng ta chưa dám chết đi cho những gì là riêng tư của chính mình, thì làm sao chúng ta đạt được bông hoa hạnh phúc của tình yêu bất tận. Đôi bạn tình Trần Minh, Nguyệt Nga đã dám hy sinh những gì là riêng tư, nên họ mới đạt được hạnh phúc chung cuộc. Còn chúng ta, Thiên Chúa đã yêu thương, đã lo lắng cho chúng ta tất cả mọi việc, nhưng rồi, chúng ta chỉ biết lo cho những ích kỷ, những kiêu căng, sự lười biếng; thì làm sao chúng ta có thể nhìn thấy được những bông hoa của tình yêu bất diệt được để mà tận hưởng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết hy sinh, biết chịu khó thêm một chút nữa, để bông hoa tươi đẹp của cuộc sống được nở rộ chung quanh chúng ta.
88.Hạt giống nảy mầm.
Vào một đêm giông bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào Lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ. Và sự hy sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách sạn sang trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Mùa chay sắp kết thúc, những cũng chưa quá muộn để chúng ta chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức Kitô và vì anh em, bởi vì có cùng chết với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ được sống lại trong vinh quang với Ngài.
89.Hạt giống sinh hoa kết quả
1. Trong khi giảng dạy, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh quen thuộc với dân chúng để giải thích chân lý Ngài muốn mạc khải. Đoạn Tin Mừng hôm nay, Ngài sử dụng hình ảnh hạt giống được gieo, để cho chúng ta thấy tại sao Ngài phải bước vào cuộc Vượt qua: "Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trội một mình. Còn nếu nó thối đi thì mới sinh nhiều bông hạt". Thậy vậy, hạt giống được gieo vào lòng đất nếu bị phân hủy ("thối") mới có thể đem lại sự sống mới; nếu không bị phân huỷ hẳn là trơ trội một mình, không sinh ích gì, ai trong chúng ta cũng dễ dàng đón nhận sự thật này.
2. Đức Giêsu, Chúa chúng ta là hạt giống đặc biệt đem sức sống mới cho loài người. Ngài có thể cứu độ chúng ta bằng nhiều phương cách; nhưng Ngài đã chấp nhận "bị phân huỷ" tức hy sinh đi những cái gì "là Chúa" và "của Chúa" để cứu chuộc chúng ta. Ngài bỏ trời cao xuống gian trần, làm người như bao con người khác, ngoài trừ tội lỗi. Hơn thế nữa, chấp nhận làm thân phận của người nghèo. Ba mươi năm sống ẩn dật, ba năm đi rao giảng thì bị công kích, chống đối. Cuối cùng chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá (x. Plp 2,6-8). Biến cố này xem ra là một thất bại nặng nề trước mặt người đời, nhưng là giờ phút quyết định cuộc giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của Satan.
3. Hình ảnh về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu được gợi lên rất rõ như một hạt lúa mì bị tan rữa trong lòng đất, nhưng sẽ dẫn tới một mùa lúa bội thu, phong phú. Cái chết của Đức Giêsu không dừng lại ở sự cằn cỗi, mất mát, như người đời tưởng, mà cái chết của Ngài có sức mạnh qui tụ mọi người, mọi dân, mọi nước: " Khi nào Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta ". Nếu ông Tertulianô cho rằng: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu", thì máu Đức Giêsu có giá trị tuyệt đối, là hạt giống mẹ của các hạt giống đức tin.
4. Đức Giêsu không chỉ là hạt giống đức tin của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu muốn chúng ta, những môn đệ của Ngài, cũng hãy là hạt giống đức tin. Trước hết, hạt giống ấy phải phân huỷ để sinh hoa kết quả cho chính mình. Nghĩa là phải theo quy luật hy sinh của hạt lúa giống ấy để đạt tới hạnh phúc đời đời: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời". "Sự sống" ở đây là sự sống đời này và tất cả những gì liên quan đến nó như tiền tài, danh vọng, thú vui, nếu như chúng ta quá bận tâm, bám víu vào nó, mà sao lãng sự sống đời đời thật là một đại hoạ! Thánh Phanxicô Assise, trong lời kinh Hoà Bình, đã cảm nghiệm chân lý sâu sắc này và đã ca lên:"Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời". Kế đến, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào hạt giống Giêsu, chúng ta phải có trách nhiệm mang hạt giống đức tin đến cho tha nhân nữa.
5. Cuộc Vượt qua của Đức Giêsu vừa như là hạt giống âm thầm, vừa là biến cố vinh quang của Chúa, nhưng tất cả điều đem lại sức sống mới cho nhân loại. Điều này làm cho chúng ta nhớ rằng mọi Kitô hữu trong hoàn cảnh sống của mình đều có trách nhiệm chia sẻ hạt giống đức tin cho tha nhân. Chúng ta cùng suy nghĩ về hai người con Chúa, Thánh Phanxicô Assise và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị, sống hai thời khác nhau, địa vị khác nhau, nhưng cả hai đều là những hạt giống đức tin nhiệt thành:
Chuyện kể rằng một ngày kia thánh Phanxicô Assise (+ 1226) rủ một thầy dòng nữa cùng đi truyền giáo, hai người đi hết phố này sang phố khác rồi trở về, thầy cùng đi chúng mới hỏi: Chúng ta đâu có giảng thuyết lời nào đâu mà gọi là đi truyền giáo? Phanxicô mới trả lời: Sự hiện diện của chúng ta, cách ăn mặc và nếp sống nghèo khó của chúng ta đó chính là một hình thức chúng ta giới thiệu Chúa cho người khác rồi!
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị cũng là một người rất nhiệt thành trong công việc truyền giáo, những năm đầu triều đại Giáo Hoàng của ngài, ngài đã chọn việc đi thăm viếng nhiều quốc gia, chúng ta không biết bao nhiêu người gia nhập đạo Công Giáo trong triều đại của ngài, nhưng lễ tang của ngài vào những ngày của tháng 04 năm 2005 vừa qua, rất đông đại diện các quốc gia đến tham dự, rất nhiều người tiếc xót khi vĩnh biệt người đại diện của Thiên Chúa ở trần gian này! Chắc hẳn qua đó nhiều tâm hồn suy nghĩ về Thiên Chúa, về Đức Giêsu mà Đức Gioan Phaolô đệ nhị và chúng ta tôn thờ.
6. Lạy Đức Giêsu, giờ Vượt qua của Ngài, tuy âm thầm lặng lẽ, tuy xem ra thất bại, nhưng vinh quang và đã tuôn ban nguồn ơn cứu rỗi cho muôn dân. Xin cho mỗi người chúng con biết tích cực đón nhận hồng ân cứu rỗi, đồng thời cũng biến chúng con thành những hạt giống đem nguồn sống thật đến cho tha nhân. Amen.
90.Hạt lúa
Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:
Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.
Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.
Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:
- Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:
- Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết được thực hiện nơi chính bản thân Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì khi đi vào trần gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, và nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá, để rồi từ đó trổ sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh Phao lô đã diễn tả:
- Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Còn chúng ta thì sao? Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay:
- Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những toan tính gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa? Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy câu trả lời cho riêng mình.
91.Chết đi
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta phải học biết chết đi để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai nhưng lại là một sự thật. Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng nhân đã hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này được nổi bật lên qua câu nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến của cuộc sống của chúng ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm chứng cho khả năng của Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các thánh. Ở đây tôi không có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm chứng của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự căn tính Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải chết đi để cây có thể mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy ra cho mỗi người trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại một vụ mùa bội thu cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định chết đi cho chính mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này không phải là một việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy sinh. Tuy nhiên, việc chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình là để cho Nước Thiên Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà thôi nhưng còn trong cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá hơn cả việc chúng ta tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm vui để có thể đáp trả được lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu và Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà thôi.
92.Chết để sống
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu – ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án… nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”.
93.Ta là sự sống lại và là sự sống
Trong cuốn sách, Tình Yêu Vô Điều Kiện, cha John Powell kể lại một câu truyện về Tommy, một trong những học sinh của cha.
Tommy là một người tự xưng là vô thần. Anh không tin bất cứ một sự kiện gì cả. Anh đặc biệt lên án ý tưởng rằng Thiên Chúa có thể yêu thương nhân loại một cách vô điều kiện.
Sau cùng, mùa học đã tới lúc mãn khóa. Khi Tommy nộp bài thi cuối năm, anh nói với cha một cách nhạo báng, "Cha thử nghĩ coi, tôi có thể tìm thấy Thiên Chúa không?" Cha đáp lại, "Không, Tommy ơi, anh không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa sẽ tìm thấy anh. “Anh chỉ nhún vai và bỏ đi.
Vài năm sau, cha được tin là Tommy đang sắp sửa chết vì bệnh ung thư. Trước khi cha có thể liên lạc với Tommy, Tommy đã liên lạc với Cha.
Khi Tommy đến gặp cha, cha nhận thấy thân xác của anh đã rã rời và bộ tóc của anh đã rụng hết do các thuốc chữa ung thư mà anh uống. Tommy nói:
"Con đến với Cha, vì những gì Cha đã nói với con trong buổi học sau cùng. Cha nói, con không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ tìm thấy con.
"Đúng thế, khi bác sĩ cho con biết con chỉ còn một thời gian ngắn để sống, con đã làm một việc mà con không bao giờ nghĩ là con sẽ làm. Con đã bắt đầu cầu nguyện rất nhiều với Thiên Chúa. Thế nhưng không có chuyện gì xảy ra cả. Không một ai trả lời con.
"Con cố gắng nhiều hơn nữa! Thế nhưng cũng vậy, không gì xảy ra cả. Không ai trả lời con cả. Sau cùng, sau khi đã cố gắng thêm một vài lần nữa, con đã đầu hàng bỏ cuộc.
"Con nghĩ rằng, thật là bất hạnh cho một người chết đi mà không có tình yêu; thật là bất hạnh cho một người chết đi mà chưa nói với người mình yêu thương rằng mình thật sự thương yêu họ. Con đã quyết định làm việc đó.
"Con bắt đầu từ một người khó chịu nhất: chính là ba con. Một đêm nọ, trong khi chúng con ở nhà một mình, con đã nói với ba về việc con cảm nghĩ thế nào về ông. Sau đó, ông đã làm việc mà con không thể ngờ. Ông đã khóc và ôm con vào lòng. Chúng con đã nói chuyện suốt đêm, mặc dù ba con phải dậy đi làm sáng hôm sau.
"Khi nói với mẹ con và các anh em con rằng con yêu mến họ thì thật dễ dàng hơn. Giống như ba con, họ cũng khóc và ôm chầm lấy con.
"Sau đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra. Không biết từ đâu, Thiên Chúa đã đến với đời sống của con. Ngài đến với một sức mạnh và quyền lực mà con không thể nào không nhận thức được. Đúng thế, thưa Cha, Ngài đã tìm thấy con! Ngài đã thật sự tìm thấy con!"
Ít lâu sau, Tommy đã qua đời, nhưng anh đã khởi sự một cuộc sống trong một phương thức khác. Anh khởi sự sống trong cách thức mà Chúa Giêsu đã nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống."
Trong trường hợp phép lạ của Lazarô, điểm quan trọng không phải là việc Chúa làm cho một người bạn sống lại. Điểm quan trọng là, Chúa Giêsu muốn dùng phép lạ này để dạy dỗ cho ta điều gì.
Chúa Giêsu muốn dùng nó để nói lên một cách tượng hình những gì mà Ngài đã nói với Martha: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì dù có chết, cũng sẽ sống."
Những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho Tommy và Lazarô, thì Ngài cũng muốn làm cho chúng ta. Ngài muốn ban cho chúng ta một sự sống mới. Ngài muốn chia sẻ cho chúng ta chính sự sống của Ngài. Ngài muốn làm cho chúng ta sống lại trong đời sống vĩnh cửu.
Đây chính là sứ điệp của Mùa Chay. Nó có ý nói về việc mở rộng tâm hồn của chúng ta với tha nhân, giống như Tommy đã làm với gia đình của anh, hầu qua đó Chúa Giêsu có thể thực hiện cho chúng ta những gì Ngài đã có thể làm cho Tommy.
Nó có ý nói về việc đón nhận một đời sống mới từ Chúa Giêsu trong ngày hôm nay, hầu chúng ta có thể đón nhận đời sống vĩnh cửu từ Chúa Giêsu trong ngày sau cùng.
94.Hy sinh
Hy sinh và gian khổ là điều kiện cần thiết cho tình yêu cũng như cho sự phát triển. Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh vừa sống sộng lại vừa gần gũi để nói lên sự thật trên.
Ngài nói:
- Một hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái, bằng không thì nó chỉ trơ trụi một mình, làm mồi cho chuột bọ mà thôi. Chính sự mục nát ấy đã làm phát sinh ra sự sống mới.
Trong lãnh vực con người cũng thế. Để chúng ta được khôn lớn cho tới ngày hôm nay, thì cha mẹ chúng ta đã phải gánh chịu biết bao nhiêu gian khổ. Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta từng giờ, từng phút. Chính vì thế mà ca dao Việt Nam đã từng ca tụng:
- Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có lẽ chính bản thân chúng ta cũng đã cảm nhận được kinh nghiệm ấy. Chẳng hạn như ngày hôm nay, các em nhỏ phải cắp sách tới trường. Việc học hành đòi hỏi các em phải siêng năng, phải chăm chỉ, phải cố gắng. Tất cả những kiến thức các em vất vả thu lượm được, sẽ là như một số vốn để các em đầu tư cuộc đời của mình và mai ngày sẽ đem lại cho các em những thành công rực rỡ.
Từ những thí dụ cụ thể trên chúng ta đi vào cuộc sống của Chúa Giêsu, và thấy được những gì?
Nếu đọc lại Phúc Am chúng ta thấy Chúa Giêsu bỏ trời xuống đất, mặc lấy thân phận con người, đã sống một cuộc đời nghèo túng và nhất là đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu nhằm tới những gì qua những hy sinh gian khổ ấy?
Tôi xin thưa, với những hy sinh gian khổ ấy Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài thật bao la. Khi suy gẫm về mầu nhiệm thập giá, thánh Phaolô đã phải kêu lên:
- Chúa đã yêu thương tôi, và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Chúng ta thường ca tụng những người dám hy sinh mạng sống mình vì kẻ khác.
Chẳng hạn cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho một bạn tù được sống. Cha Đamiêng đã hy sinh đến sống với những người phong cùi ở Molokai. Chúa Giêsu cũng thế, Ngài đến sống với chúng ta và chết vì chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã chấp nhận những hy sinh gian khổ ấy là để cho chúng ta được sống và được sống vĩnh cửu. Trong Phúc Am có lần Ngài đã phán:
- Ta đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Trong bữa tiệc ly Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Này là Mình Ta sẽ nộp vì các con. Này là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội.
Với cái chết ô nhục trên thập giá, Ngài giao hòa chúng ta với Thiên Chúa, tẩy xóa mọi dấu vết của tội lỗi, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Thiên Chúa, cũng như quyền được thừa hưởng phần gia nghiệp nước trời.
Chính vì thế, chúng ta hãy suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta phải làm gì để đáp trả tình yêu thương bao la ấy.
95.Từ bỏ
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.
96.Tổn thương
Một số người cứ khăng khăng rằng vị anh hùng của họ không bao giờ tỏ ra bất cứ dấu hiệu yếu đuối nào, không bao giờ biểu lộ sự ngập ngừng, nghi ngờ, không chắc chắn hoặc sợ hãi gì cả. Trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh, vị anh hùng phải mạnh mẽ, can đảm và không hề nao núng. Nhưng những vị anh hùng thực sự lại không hề giống như vậy.
Chẳng hạn như trường hợp của Martin Luther King, ông là một nhà lãnh đạo phong trào quyền lợi dân sự tại Mỹ – đó là một công việc khó khăn mà ông đã miễn cưỡng đảm nhận. Công việc này đem lại cho ông những gian khổ, bị lăng mạ, cầm tù và đe dọa đến mạng sống của ông. Cuối cùng, công việc này đòi hỏi cả đến sinh mạng của ông – ông đã bị ám sát chết.
Trong suốt cuộc đấu tranh đó, ông đã từng có nhiều lúc tinh thần bị xuống dốc. Ông kể lại cảnh một đêm kia, ông xuống đến tận cùng của sự choáng váng. Căn nhà của ông đã bị đánh bom. hậu quả là ông cảm thấy mình không thể tiếp tục được nữa. Ông quá mệt mỏi vì những lời xỉ nhục và xúc phạm. Trong tình trạng kiệt quệ vì thất vọng này, ông lao mình xuống quì gối trước mặt Thiên Chúa và cầu nguyện:
“Lạy Chúa, con đã đảm nhận một vai trò mà con tin tưởng là đúng đắn. Nhưng bây giờ, con sợ hãi quá rồi. dân chúng đang mong đợi con làm lãnh đạo. Nếu con đứng trước mặt họ, mà không tỏ ra có sức mạnh, hoặc can đảm, thì họ cũng sẽ bị nao núng. Nhưng con đã cạn kiệt sức lực của con rồi. Con không còn gì nữa. Con không thể đương đầu với tình trạng này lâu hơn được nữa”.
Ông nói rằng vào lúc đó, ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa theo một cách thế mà trước đây, chưa bao giờ ông cảm thấy. cảm nghiệm này đã đem lại cho ông khả năng để tiếp tục cuộc đấu tranh.
Martin Luther King không được như một vị anh hùng, bởi vì ông chứng tỏ rằng con người ông không được làm bằng đá. Vì không bao giờ tỏ ra yếu đuối, hoặc dễ bị tổn thương, nên một điều đơn giản là chúng ta không thể tin tưởng vào các vị anh hùng. Chúng ta cũng không thể coi họ như là những mẫu gương cho chúng ta. Chúng ta không thể đồng nhất với họ hoặc bắt chước họ. Mặt khác, khi gặp gỡ một người nào đó do dự, miễn cưỡng và sợ hãi, chúng ta lại cảm thấy rằng người đó dễ tin tưởng hơn. Sự miễn cưỡng này chính là yếu tố cốt lõi của vấn đề. Vị thánh hoặc vị tử đạo nào cứ hăm hở tìm kiếm số phận của họ, thì không bao giờ có vẻ thật. Chúng ta thích nhìn thấy một con người thật đằng sau vẻ anh hùng.
Chính bản thân Chúa không đến với cái chết với bất cứ sự đảm bảo nào. Trong vườn Giệtsimani, Người cũng có giây phút xuống tinh thần tới mức thấp nhất, khi linh hồn Người bị lo lắng quá mức, đến nỗi Người đã thốt lên “Linh hồn Thầy buồn đến chết được”. Thánh Gioan không giải thích về nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu. Nhưng chúng ta bắt gặp một tiếng vang rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giêsu nói “Tâm hồn Thầy xao xuyến”.
Trong một số khía cạnh, nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu là phần an ủi nhất trong Tin Mừng, bởi vì điều đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu đang ở khía cạnh nhân loại nhất của Người. Cho đến lúc bấy giờ, Người vẫn kiên quyết tiến tới số phận của Người. Nhưng bây giờ, khi giây phút khủng khiếp đến, Người quá đau khổ, đến nỗi mồ hôi của Người rơi xuống mặt đất, giống như những giọt máu. Người không nhìn vào nỗi đau khổ và cái chết bằng sự bình tĩnh mang tính khắc kỷ. Người kinh sợ trước viễn cảnh đó. Nhờ đâu mà Người có được sức mạnh để đương đầu với tâm trạng kinh hãi đó? Nhờ lời cầu nguyện, và do đó, chính là nhờ ở Thiên Chúa. Có người định nghĩa về lòng can đảm là “Lòng can đảm chính là nỗi sợ hãi đã được thốt ra bằng lời cầu nguyện”.
Nếu không cảm thấy sợ hãi, khi có nguy hiểm đe dọa, thì bạn không phải là con người nữa. Lòng can đảm không phải là không abo giờ cảm thấy sợ hãi, mà chính là có cảm giác sợ hãi, nhưng vẫn cứ tiến tới, bất chấp nỗi sợ hãi đó. “Một người không biết sợ hãi, thì không phải là người anh hùng, nhưng người nào chế ngự được nỗi sợ hãi, mới đích thực là người anh hùng”(Solzhenitsyn).
Nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu ban cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng trong những giây phút tinh thần bị sa sút. Chúng ta không cần phải giả vờ cho rằng con người mình được làm bằng đá hoa cương. Chúng ta không được che giấu sự yếu đuối và nỗi sợ hãi của mình. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa, trong lời cầu nguyện bằng cảm nghiệm của tâm hồn. Và chúng ta cũng phải tìm kiếm sự an ủi nơi con người nữa, Như Đức Giêsu đã làm như vậy, khi Người yêu cầu Phêrô, Giacôbê và Gioan tỉnh thức và cầu nguyện cùng với Người.
97.Con đường Thập Giá mà Chúa Giêsu đã đi qua
Sự chết là một phần của sự sống. Sinh vật được sinh ra để rồi chết đi. Tuy nhiên, đối với người Công giáo, con người chết không phải là hết. Con người chết để bước vào sự sống mới. Chính Chúa Giêsu Kitô đã mạc khải chân lý này. Và chính Ngài chết và đã sống lại. Như thế, Ngài mặc khải cho sự chết một ý nghĩa mới. Chết là để bước vào cõi sống.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Thánh Gioan đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực cái chết của Chúa Giêsu. Hình ảnh của một hạt giống bị thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt khác" (Ga 12, 24). Cũng vậy con đường khổ giá của Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không dừng lại ở cái chết mà sẽ dẫn đến sự sống lại sung mãn nhằm mang ơn cứu độ cho con người. Tuy nhiên, trong thân phận xác phàm, đứng trước cuộc thương khó Chúa Giêsu cũng sợ hãi và đau đớn. Ngài cũng phải trải qua những giờ phút xao xuyến, lo âu, đau đớn khi phải đương đầu với con đường khổ giá. Thánh Phaolo đã nói: "Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết" (Dt 5, 7). Nhưng cuối cùng, Ngài không xin Cha cứu khỏi chết nhưng xin cho Danh Cha được tôn vinh. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin cho Ngài hoàn tất, chu toàn công trình cứu chuộc con người, đi qua cái chết và sống lại.
Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận "giờ' của sự phục vụ cho đến cùng trên thập giá, nhưng cũng đồng thời là "giờ" con Người bước vào vinh quang. Vinh quang đòi hỏi trải qua khổ giá. Vinh quang của hạt lúa trổ bông, nặng trĩu và chín vàng nhưng sau khi nó bị chôn vùi vào lòng đất rồi trở nên mầm sống mới, lại sẵn sàng sinh trưởng và tăng gấp mãi.
Sự chết và sống lại là hai mặt của một cuộc sống. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành môn đệ của Ngài và mọi người được ơn cứu chuộc. Thế nên, chúng ta được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta đừng quên nguyên tắc căn bản của sự sống đó: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất còn ai bằng lòng để mất sự sống mình ở đời này vì Chúa Giêsu thì sẽ giữ lại được cho sự sống muôn đời" (Ga 12, 25). Đi theo chúa Giêsu, đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cái chết và sự sống của Ngài. Chúa Kitô đã chết đi để sinh ơn cứu độ cho chúng ta. Chúa Kitô chết vì hạnh phúc vì sự sống nhân loại.
Đi vào cuộc khổ nạn là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng sợ đánh đập, sợ tòa án và tử hình. Nhưng Chúa Giêsu đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Tetulianô đã nói: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu" thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu. Như thế, Chúa Giêsu chấp nhận mình chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Ngài đã chết và đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình. Như hạt giống phải thối đi mới sinh trưởng và phát triển. Hạt giống phải trải qua quá trình mục nát mới sinh nhiều bông hạt. Muốn mùa gặt, ta phải gieo trồng. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả. Cũng vậy, người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cày bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử. Do đó, đời sống con người giống như hạt giống, phải chấp nhận được vùi sâu trong khổ luyện và hy sinh. Nó giúp cho người ta tiến thân, tiến bộ, tiến đức và tiến bước.
Như hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt thì chúng ta cũng phải mục nát bằng cách chết cho tội lỗi, biết từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi để dứt lìa những điều trái luật Chúa và Hội Thánh. Chấp nhận những "cái mất" hiện tại, ta sẽ có những "cái được" trong tương lai. Nếu ta dám chấp nhận những "cái mất" chóng qua, ta sẽ có những "cái được vĩnh cửu". Khi dám từ bỏ tội lỗi, chúng ta dễ dàng đến với Chúa, làm theo ý Chúa. Tuy nhiên từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được Thiên đàng.
Chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta: "Nếu cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài. Nếu chúng ta chịu đau khổ vời Ngài, ta sẽ được thống trị với Ngài" (1Tm 2, 8 - 12). Ai ham sống, sợ chết sẽ đánh mất tất cả. Người làm theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại sẽ được sống muôn đời. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta. Chính khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Khi chúng ta chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.
Chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng nhưng chính Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống cho Chúa, can đảm từ bỏ, chấp nhận hy sinh, đi con đường mà Ngài đã đi và vui lòng vác thập giá hằng ngày mà tiến bước theo Chúa trong niềm tin sẽ được phục sinh giống như Ngài. Xin cho chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống. Amen.
98.Mất và được
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Thật ra, không phải cứ thu vào là được và buông ra là mất. Nhưng có khi được mà lại mất, mất mà lại được. Mất trước để được sau. Mất ít mới được nhiều. Mất nhỏ để được lớn. Có thể nói đây là quy luật trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa hôm nay giúp ta hiểu rõ quy luật này, để ta vui vẻ đón nhận tất cả những nghịch cảnh trong cuộc đời với niềm tin tưởng, hy vọng như thánh giá trổ sinh ơn cứu rỗi.
Khi biết giờ của mình đã đến, giờ mà Đức Giêsu sắp bước lên Thập gía. Theo cái nhìn của người đời là bi thảm, nhưng đối với Thiên Chúa là bước vào sự sống vĩnh cữu: "Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất và không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi, nhưng nều nó chết đi thì sẽ sinh nhiều hoa trái. “(Ga 12, 24)
Đời người không có gì đau thương và mất mát hơn là cái chết. Nhưng may mắn cho chúng ta là những người đặt niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống để cứu độ chúng ta. Ngài đã cho chúng ta một niềm hy vọng đằng sau cái chết, đó là sự sống đơì đời. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cữu, mọi người chúng ta phải trải qua thử thách nghiệt ngã là cái chết. Nghĩa là phải mất trước rồi mới được sau. Đây quả là một thách đố.
Bởi vì chính Chúa Giêsu cũng từng trăn trở, thổn thức và nao núng trước giờ phút tang thương này. Nhưng sức mạnh nào đã thôi thúc Ngài đi vào cuộc thương khó một cách can đảm? Phải chăng là động lực của tình yêu, và tin rằng cái chết của Ngài sẽ mang lại cho nhân loại mùa ơn cứu độ: "Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu."(Ga 15, 12). Nghĩa là khi biết cái chết mang lại mang lại hạnh phúc cho tha nhân thì chúng ta không còn gì phải sợ. Vì tình yêu thì cao quý và mãnh liệt hơn sự chết. Chết cho niềm tin, cho tình yêu là cái chết tận hiến. Cái chết này sẽ không mất nhưng là cửa ngõ dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, vào vương quốc của Thiên Chúa. Thật là một điều khó tin, một nghịch lý của cuộc sống. Sự sống bắt đầu bằng cái chết. Chúng ta sẽ không thể có được Đức Giêsu Phục Sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ hình và mai táng.
Khi Chúa Giêsu nói: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống ở đời này thì sẽ giữ lại được sự sống đời đời.", không có nghĩa là Ngài dạy chúng ta ghét bỏ hay khinh khi sự sống thể lý. Trái lại chúng ta phải học để biết yêu chính mình, vì chúng ta không thể yêu Chúa và yêu tha nhân nếu như chúng ta không biết yêu mình. Nhưng yêu mình cũng không có nghĩa là bám díu hay quá lo lắng vào sự sống của con người thể xác. Mà hãy quên đi hay vượt lên trên cái "tôi", là từ bỏ chính mình, chết cho chính mình, cống hiến cuộc đời vì Tin Mừng và vì chính nghĩa là cách vượt ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của bản thân. Thì cuộc sống chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái bình an, tự do và hạnh phúc. Thế giới sẽ nghèo nàn nếu như mỗi người chỉ biết lo cho chính mình, đặt lợi ích của mình là tất cả. Nhưng xã hội sẽ được ướp đầy hương vị yêu thương nếu chúng ta biết chết đi cho sự hưởng thụ riêng tư.
Qua cái chết và sự Phục Sinh, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một tấm gương mẫu mực khi Ngài hiến mạng sống mình vì hạnh phúc nhân loại. Điều này không đơn giản, chính Ngài đã thật sự lo sợ khi giờ chết đến. Giờ đây, chúng ta không sợ. Vì hiểu rằng:Thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Mọi khó khăn vất vả chỉ là thử thách và thử luyện ta trên con đường nên thánh. Ta không thể đổi thánh giá khác nếu ta đặt niềm tin tương vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thánh giá tôi đang vác không nặng nhưng thích hợp và vừa sức của tôi. Vấn đề là thay gì đổi thánh giá thì ta hãy đổi thái độ, đổi tâm tình. Khi yêu thì mọi sự đều ra nhẹ nhàng, không còn cảm thấy nhọc nhằn cho dù có nặng thật.
Lạy Chúa! Xin hãy đổ đầy trái tim con tình yêu của Chúa để con sẵn sàng đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến trong niềm an vui, tin tưởng và phó thác.
99.Mất và được
Ít có phong cảnh nào đẹp cho bằng cảnh một cánh đồng tràn ngập những thân cây lúa mì non. Khi nhìn ngắm những thân cây đó đong đưa trước gió, và nhảy múa dưới ánh nắng, đem lại cho tâm hồn chúng ta một niềm vui. Nhưng quá trình những thân cây này tồn tại được thật là lạ lùng.
Ngoài ra phải chôn hạt lúa mì vào lòng đất lạnh ẩm ướt, giống như trong một ngôi mộ vậy. Thế rồi nó phải chết đi. Nếu nó không chết đi thì nó sẽ không mang lại sự sống mới nào. Nhưng khi nó chết đi, thì từ ngôi mộ của hạt giống cũ, nụ chồi của một cây lúa mì mới đâm ra một cách lạ lùng. Đó là một nghịch lý đáng ngạc nhiên – sự xuất phát từ cái chết.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình.
Sự chết là một phần của sự sống. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả vờ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn, bị khước từ, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự cay đắng, hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta.
Khi Đức Giêsu nói “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, ai ghét mạng sống mình ở thế gian này, thì sẽ giữ được nó”, thì Người không bảo chúng ta phải ghét năm tháng mình, hoặc cuộc sống của mình. Chúng ta phải học biết yêu biết chính mình. Thiên Chúa muốn chúng ta biết thương xót bản thân. Không ai có thể yêu mến chúng ta được, nếu chúng ta không biết yêu mến chính mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai khác, trừ phi chúng ta biết yêu mến con người của mình. Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa tình yêu chính đáng đối với bản thân, và thói ích kỷ.
Quên mình, vượt lên trên bản thân mình – điều đó có nghĩa là đánh mất, là khước từ, là chết đi cho chính mình. Chính khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Chính khi ra khỏi con người của mình, tự cống hiến bản thân vì những lý do bên ngoài mình, thì chúng ta mới phát triển và mang lại hiệu quả. Chúng ta có thể được sống lâu hơn, nếu chúng ta coi mọi sự là thoải mái, nếu chúng ta biết tiết kiệm cuộc sống. Chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn. Nhưng liệu chúng ta sẽ được sống lâu hơn chăng?
Thật là một thế giới nghèo nàn, nếu mọi người đều coi sự an toàn bản thân, được che chở, tiến thân một cách ích kỷ là yếu tố đầu tiên và sau cùng, nghĩa là không có ai được chuẩn bị để vượt ra ngoài bản thân mình. Luôn luôn do con người đã được chuẩn bị để chết đi cho sở thích cá nhân, nên những điều quí giá nhất mà nhân loại được sở hữu đã được sinh ra.
Đức Giêsu đã đem đến cho chúng ta một gương mẫu. Người trao tặng cuộc sống của Người, để phục vụ Cha của Người trên trời và cả chúng ta nữa. Nhưng Người không hề cảm thấy đó là điều dễ dàng. Khi giờ chết thực sự đến, tâm hồn Người tràn đầy nỗi sợ hãi.
Cuộc sống của Đức Giêsu không tách biệt khỏi Người. Người trao tặng nó đi – trao tặng nó vì tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với chúng ta. Tình yêu chính là chấp nhận rằng con người mình có thể chết đi bằng một cái chết khác, trước khi người ta thực sự chết đi. Con đường yêu mến là con đường thánh giá, nhưng chính con đường thánh giá lại đưa đến sự sống lại.
Nhưng ai chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.
100.Nghịch lý mất được
Không biết ở phương Tây thì sao, chứ còn ở tại Việt Nam, ở đây đó vẫn thường xảy ra tình trạng bị cúp điện. Nhất là vào mùa khô nạn cúp điện càng xảy ra thường xuyên hơn. Lý do có thể là mùa khô không đủ nước để cung cấp cho nhiều nhà máy thủy điện sản xuất điện. Biết thế nên trong phòng, lúc nào tôi cũng chuẩn bị vài cây nến phòng khi cúp điện. Và đúng như thế, vào một tối nào đó, đang ngồi đọc sách bỗng cúp điện. Tôi vội vàng đốt ngọn nến lên để có ánh sáng tiếp tục đọc sách. Quyển sách đang hấp dẫn không thể bỏ ngang được. Tôi xin bắt đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay từ ngọn nến đó. Khi nhìn ngọn nến đang cháy sáng tự nhiên tôi có vài cảm nhận:
- Muốn có ánh sáng phải có nến.
- Muốn có nến phải có sáp.
- Muốn nến đó được cháy liên tục thì sáp phải tiêu hao dần.
- Để có nhiều ánh sáng, đòi hỏi sáp càng phải bị tiêu hao nhiều.
- Và để tận dụng hết nguồn sáng, cây nến phải được đặt trên cao. Không biết đấy có phải là một qui luật không, nhưng không thể làm khác được. Tôi lại liên tưởng tới một ngọn nến khác có tên là Têrêsa Calcuta. Chấp nhận tiêu hao cả thời gian, sức lực, con người để những người nghèo, cô đơn, bệnh tật, bị bỏ rơi được chăm sóc, nâng đỡ. Tôi lại liên tưởng tới một ngọn nến khác có tên gọi là Maximilien Kolbe: Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Đức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng 07 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt một người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này. “"Tên kia. “Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.Trong khi một người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. "Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con. “Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. "Mày là ai?" "Là một linh mục. “Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis GaGiowniczek.
Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng 08) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác. Và còn nhiều ngọn nến khác nữa vẫn đang thắp sáng cho đời. Tất cả những ngọn nến ấy có hoàn cảnh khác nhau, màu da khác nhau, địa vị vị khác nhau, nhưng lại có một điểm chung là tan biến, là hy sinh và từ bỏ.
Hình ảnh của những ngọn nến đó làm tôi nhớ đến một câu nói của Chúa Giêsu trong Tin Mừng: "Nếu hạt lúa mà rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12, 24) Những ngọn nến như thế, những khuôn mặt như thế, những con người như thế làm cho tôi càng hiểu thêm về điều mà Kinh thánh gọi là Kenosis (tự huỷ) của Chúa Giêsu, mà chính thánh Phaolô đã viết nên thành lời của một ca khúc thánh ca bất hủ. Thánh Phaolô viết thế này: "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh tự. “(Pl 2, 6-8) Tôi nhớ một nhà tư tưởng nào đó đã nói: "Muốn hiểu môt sự vật, bạn hãy lên cho thật cao và phải xuống cho thật sâu".
Muốn biết chiều cao của một ngọn núi, ta phải lên thật cao trên đỉnh của nó và đồng thời ta cũng phải xuống cho thật sâu của vực thẳm. Tương tự như thế, Chúa Giêsu đã lên thật cao trong địa vị là Thiên Chúa và Người cũng đã xuống thật sâu trong thân phận con người. Và còn hơn thế nữa, Người đã chấp nhận hủy mình ra không, để từ cái không đó trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho con người. Đấy là Kenosis (tự hủy). Thế nhưng, chính Kenosis ấy lại trở thành một điều gây khó hiểu cho nhiều người. Người ta không thể hiểu được: Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống. Tại sao tôi phải hy sinh, phải chịu mất mát, chịu thiệt thòi cho người khác và vì người khác? Đúng như lời một triết gia đã nói: "Tha nhân là hoả ngục của tôi", dại gì tôi phải hy sinh cho họ.!!! Cái khó hiểu và cái khó chấp nhận đó tôi tưởng nó có nhiều lý do vừa khách quan vừa chủ quan.
Xã hội hôm nay là một xã hội thực dụng và hưởng thụ trong một nền kinh tế thị trường. Người ta chỉ biết nghĩ đến mình mà quên đi người khác. Chính vì chúng ta đang bị nhận chìm trong một quan niệm, một lối sống thực dụng và hưởng thụ như thế nên càng ngày người ta càng mất ý niệm về sự hy sinh, sự cho đi, lòng quảng đại và sự chia sẻ mà chỉ lo củng cố cái tôi của mình mà thôi. Tôi là số một, tôi là trên hết. Người ta quên mất tha nhân là ai.
Họ có nhu cầu gì, họ khao khát và ước muốn cái gì. Cho nên người đời có thể không hiểu thế nào và cũng không thể chống lại cái gọi là Kenosis là tự hủy, là hy sinh, là từ bỏ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hiểu thế nào, hiểu đến mức độ nào? Nói cách khác, tình yêu nào đòi chúng ta sống đời bác ái? Sức mạnh nào thúc đẩy ta dám chết cho anh chị em? Động lực nào thúc giục ta hiến thân cho đồng loại? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 12) Tình yêu cao quí hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết và cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương cho con người. Chính lúc gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi con người hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đàng.
Đúng như một triết gia nào đó đã từng nói: chỉ có con vật mới quay lưng trước nổi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ lông của mình, còn con người thì không như thế. Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: " Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt". (Ga 12, 24). Chúng ta không ngạc nhiên khi nghe câu này. Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ. Thế nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình. Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa. Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.
Tôi chấp nhận cô đơn để được yên thân. Tôi sợ mất mát vì mất mát đem lại đớn đau nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi đang là... Nhưng Chúa Giêsu còn nói thêm: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ỏ đời này, thì sẽ Giữ lại được cho sự sống đời đời". (Ga 12, 25) Cuối cùng, tôi xin mượn một lời cầu nguyện như một lời nhắn nhủ đến anh chị em và các bạn. Lời cầu nguyện thế này:
"Lạy Chúa Giêsu,
Khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hại Giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao Giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố Giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân". Amen.
101.Giờ phút cao quí
Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980. Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến. Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang. Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái. Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt. Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.
Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người”. Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người. Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra. Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy? Đó là giờ chết của Người. Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất. Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.
Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn lao. Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống. Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.
Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy. Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển. Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người. Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.
Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay. Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.
Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt. Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.
Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công. Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt. Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi”.
Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).
Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng. Sự sống sẽ chiến thắng. Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.
102.Chúa Nhật 5 Mùa Chay
Trong bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia đã tiên báo: Chúa sẽ thiết lập giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa. Giao ước đó làm cho Ngài trở thành Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ngài. Giữa cảnh lưu đày biền biệt nơi đất khách quê Người, còn thành thánh Giêrusalem thì bị hoang tàn, tiên tri Giêrêmia đã khơi lên cho họ niềm hy vọng lớn lao, Thiên Chúa sẽ quên đi lỗi lầm của họ, Ngài sẽ ký kết với họ một giao ước mới, giao ước tình yêu. Chúa Giêsu chính là Đấng thiết lập giao ước mới đó.
Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan kể lại, khi có một số người Hy lạp đến tìm Chúa Giêsu, Ngài vui mừng thốt lên " đã đến giờ Con Người được tôn vinh một khi được gương lên cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi ". Tại sao Chúa Giêsu lại vui mừng hớn hở như thế? Có phải rằng vì Chúa Giêsu biết đằng nào mình cũng phải chết, nên chết quách cho rồi không? Không phải thế, không phải Chúa Giêsu " ham chết sợ sống " như thế đâu. Tâm trạng vui mừng của Chúa Giêsu, cho ta thấy tấm lòng của Ngài. Ngài đã chờ đợi, đã mong muốn đến ngày này để Ngài thiết lập một Giao ước mới, Giao ước Tình yêu với nhân loại. Để nhờ đó nhân loại được ơn cứu độ. Ơn làm cho con người trở thành con Thiên Chúa, được thừa hưởng Nước Trời.
Nhưng trong thân phận con người, Chúa Giêsu cũng lo sợ trước cuộc khổ nạn Ngài phải chịu " lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đến ". Tâm trạng vừa vui mừng vì ơn cứu độ sắp được thực hiện, vừa lo sợ trước cái chết, dằn vặt tầm hồn, làm Chúa Giêsu xao xuyến trong lòng.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2, đã mô tả tâm trạng và cái chết của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đã lớn tiếng và rơi lệ mà dâng lời khẩn nguyện lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết, Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trãi qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi bản thân tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Chúa Giêsu chính là " hạt lúa gieo vào lòng đất, có chết đi, mới sinh nhiều hạt khác ". Chúa Giêsu không chỉ chết đi một lần trên thập giá, nhưng thập giá chính là đỉnh cao; Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa, là Chúa thật, nhưng đã "chết đi " để mặc lấy thân xác con người, một người nghèo không có một nơi đàng hoàng để sinh ra. Phải chạy trốn trước sức mạnh và uy quyền của Hêrôđê. Vốn là Chủ tể của vũ trụ, Người đã từ bỏ mọi sự, chọn lấy sự thiếu thốn và nguy hiểm, sống trong âm thầm, khiêm nhượng. Khi bước vào cuộc sống công khai rao giảng, Chúa Giêsu chọn một đời hoạt động bấp bênh, Ngài đã trãi qua mọi hoàn cảnh, bị khước từ, bị công kích, bị chụp mũ " Ngài hoạt động với hai bàn tay trắng con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu ". Cuối cùng Chúa Giêsu đã chọn cho mình cái chết đau thương, nhục nhã nhứt làm đỉnh cao cho "sự chết đi" của Ngài.
Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu, chúng ta hãy cám ơn Chúa vì tình yêu lớn lao Chúa đã dành cho chúng ta, Chúa không ngừng tha thứ cho chúng ta dù chúng ta cứ mãi phạm tội. Trong tâm tình của Mùa chay chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu bài học "chết đi" mỗi ngày với những tánh hư, tật xấu, những ham muốn bất chính, những tội lỗi của chúng ta để mỗi ngày chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Chúa.
103.Hạt giống vâng phục--Huệ Minh
Cuộc sống quanh ta chuyện sinh nở là chuyện của tự nhiên, của quy luật cuộc sống.
Như hạt lúa rơi vào trong lòng đất không thối đi thì làm sao nó sinh mầm và sinh cây khác để cho ta được lúa để ăn?
Và rồi, trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng chỉ dùng những hình ảnh hết sức gần gụi, hết sức bình dị như thế để nói về Nước Trời, để nói về kho tàng trên trời ... và để nói về chính mình. Có khi Chúa Giêsu ví mình như con chiên hiền lành bị mang đi làm thịt nhưng có khi Chúa Giêsu ví mình như hạt lúa như trang Tin Mừng hôm nay.
Hết sức giản đơn, Chúa nói: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Nói như thế vẫn sợ các môn đệ không hiểu để rồi Ngài lại giải thích thêm: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha". Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta".
Chúa Giêsu không còn úp mở gì nữa. Nói như thế nghĩa là Chúa cho biết rằng Chúa phải chết cách nào.
Cả cuộc đời Chúa Giêsu và nhất là cái chết của Chúa Giêsu đó chính là cuộc đời và cái chết của sự vâng phục.
Trong thư Do Thái, chúng ta vừa nghe: Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Trong thư Philip, Thánh Phaolô đã nói rõ:
Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)
Vâng phục chính là đặc tính, là căn cốt của cuộc đời Chúa Giêsu. Hạt lúa mục nát nơi đời Chúa Giêsu đã vào trần gian sống cả cuộc đời bằng đời sống vâng phục.
Ta, là những người đi theo Chúa, ta cũng được mời gọi sống như hạt lúa mì đàn anh, hạt lúa mì anh Trưởng, anh Cả của ta đó chính là Chúa Giêsu.
Thật sự mà nói, thử thách nhất đời con người đó chính là sự vâng phục, vâng lời Thiên Chúa.
Nhìn suốt chiều dài lịch sử cứu độ, thấp thoáng đâu đó cho ta hình ảnh, cách sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa trên đời mình. Các vị chứng nhân anh dũng đã sống đời vâng phục trong mỗi cảnh sống của mỗi người.
Thấp thoáng ta vẫn thấy hình ảnh của Abraham. Abraham đã trọn đời vâng lời Thiên Chúa để lên đường mà đi và chẳng biết mình đi đâu cả. Cứ đi và cứ đi theo lời của Thiên Chúa. Và bi đát, đỉnh điểm nhất đời ông đó chính là việc sát tế đứa con đầu lòng và là đứa con duy nhất của đời ông. Dẫu thử thách đến tột cùng như thế nhưng ta thấy Abraham đã vâng lời Thiên Chúa để sát tế đứa con yêu của mình.
Ta vẫn thấy hình ảnh của một Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở bên đời. Sống trong 4 bức tường của đan viện đầy dẫy những khó khăn thử thách nhưng Têrêsa vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác đời mình trong lòng bàn tay của Chúa.
Hay gần ta, ta thấy một hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngài đã sống trong thân phận tù đày và đặc biệt là biệt giam nhưng Ngài đã không hề một tiếng kêu ca phàn nàn ai oán. Sống như thế, Ngài không những đã rèn luyện mình nhưng Ngài đã làm cho những người cai ngục cảm nhận được một Thiên Chúa vâng phục trên đời của Ngài.
Thật sự không phải dễ sống đời vâng phục chịu đựng như thế bởi lẽ ta cũng là con người. Là con người. ai ai cũng mang trong mình yếu đuối của phận người để rồi ta muống chứng tỏ mình với người khác. Ta muốn chứng minh rằng ta tự do, ta có quyền trên người khác và rồi ta muốn làm gì thì làm và không cần biết cũng như chẳng cần vâng phục ai cả. Đó cũng chỉ là cái lý của ta nhưng ta vẫn còn đó một Đấng để ta vâng phục đó chính là Thiên Chúa.
Bình gốm làm sao qua khỏi bàn tay của thợ gốm đó chính là Thiên Chúa. Cuộc đời của ta từng phút từng giây ở trong lòng bàn tay của Chúa nhưng đôi khi ta bé cái lầm, ta tưởng rằng ta định đoạt được cuộc đời của ta. Thế nhưng, thật sự trong sâu lắng của cuộc đời, chỉ cần một cơn gió thoảng, dù làn gió biến đi cũng không còn mang vết tích. Thân phận mong manh mỏng dòn của đời ta là thế đó nhưng mấy ai chân nhận ra sự mong manh mỏng dòn của đời ta.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã gợi lên cho ta thân phận của Ngài. Dù Ngài là Thiên Chúa đó nhưng Ngài đã sống vâng phục và vâng phục cho đến bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá.
Đời của ta một ngày nào đó cũng trở về với lòng đất mẹ. Thế nhưng, chuyện quan trọng là ta có phải là hạt giống biết vâng phục thánh ý của Thiên Chúa như Chúa Giêsu hay ta tự cao tự đại.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta biết học thế nào là bài học vâng phục mà chính Chúa Giêsu đã học và đã sống. Có như thế, khi ta nằm xuống ta mới sinh được hoa quả của cuộc đời vâng phục.
104.Mầu nhiệm tự hủy--Lm. Micae Võ Thành Nhân
Chúa dùng hình ảnh hạt lúa mì được chôn vùi trong lòng đất, tự nó mục nát để rồi nảy mầm, lớn lên thành cây, trổ hoa sinh nhiều bông hạt, để nói về cái chết và sự phục sinh của Chúa: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24).
Hạt lúa mì khi bị chôn trong lòng đất như thế, nó tự hủy đi để mang lại phần lợi lộc sau đó cho con người chúng ta. Giờ phút này Chúa đi vào cuộc khổ nạn, Chúa chịu chết trên thập gía và sống lại để rồi Chúa mang đến phần lợi cho chúng ta là Chúa sẽ ban cho chúng ta được làm con của Chúa trở lại mà trước đó chúng ta đánh mất vì tội bất phục tùng Chúa, và Chúa còn cứu chúng ta khỏi chết đời đời: “Khi nào Ta chịu đưa lên khỏi đất, Ta sẽ keo mọi người lên cùng Ta. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào” (Ga 12, 33).
Chúa chờ đợi thời điểm quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa là Chúa sẽ bước vào cái chết đây mà Chúa gọi là " Giờ" . Do đó: “Chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này” (Ga 12, 29). Nhưng mà đây lại là”Giờ” đau khổ quá khủng khiếp, nhục nhã vô cùng tận khi Chúa chết bị treo trên thập giá mà Chúa phải chịu. Đấy cũng là giờ mà theo như tiên tri Giêrêmia đã nói trong bài đọc một là Chúa sẽ ký kết với dân Chúa là chúng ta đây một giao ước bằng máu của Chúa và bền vững đến muôn đời (Gr 31, 31 – 34). Do đó, lòng Chúa xao xuyến vô cùng. Sự xao xuyến ở đây đã cho chúng ta thấy Chúa đau đớn đến tột độ. Chúa bồi hồi, do dự, lưỡng lự như Chúa muốn trốn đi cho êm chuyện: “Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới” (Mt 26, 46). Nhưng rồi Chúa không làm như vậy, Chúa không trốn tránh, mà Chúa chỉ biết trông cậy, tín thác vào Chúa Cha, Đấng đã sai Chúa đến để cứu chúng ta: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12, 27). Chúng ta hãy chấp nhận mọi gian nan, thử thách, đau khổ, bệnh tật, thất bại đắng cay chua chát, trái ý cực lòng…, như là góp một phần hy sinh nhỏ nhoi của mình vào giờ đau thương của Chúa, để phần nào an ủi những cực hình Chúa phải chịu, và chúng ta còn đền bù những tội lỗi do chúng ta đã phạm đến Chúa nữa.
Giờ Chúa chịu chết treo trên thập giá, đó là giờ mà Ba Ngôi Thiên Chúa được cả trời đất muôn vật hữu hình và vô hình tôn vinh. Nghĩa là Chúa Cha được tôn vinh, và Chúa cũng được tôn vinh: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23),”Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa” (Ga 12, 28). Và rồi sau đó, Chúa kéo mọi người lên với Chúa để rồi chúng ta là những người theo đạo Chúa, chúng ta biết yêu mến và phụng sự Chúa: "Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta và Ta ở đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó...” (Ga 12, 26), nhờ đó mà Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta nhiều hơn trong cuộc hành trình trên dương này tiến về với Chúa.
Như vậy, giờ Chúa hấp hối trong vườn cây dầu, chúng ta hãy ở bên cạnh Chúa, cùng cầu nguyện với Chúa. Giờ Chúa chịu đòn vọt, chúng ta hãy chấp nhận những nỗi đau vết thương tích trong cuộc sống. Giờ Chúa vác thập giá đi chịu chết, chúng ta cũng hãy vác thập giá đời mình theo Chúa. Giờ Chúa bị đóng đinh chết treo trên thập giá ở đồi Canvê, chúng ta cũng ở đó và đóng đinh tính xác thịt mình vào thập giá với Chúa. Như thế, Chúa sẽ cho chúng ta được chia sẻ giờ vinh quang phục sinh với Chúa, vì chúng ta đã tham dự vào cuộc khổ nạn đớn đau của Chúa: “Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi” (Ga 12, 30).
Chúng ta tin Chúa chịu chết và sống lại là vì yêu thương ta. Nếu chúng ta sống hết mình vì Chúa thì chúng ta sẽ không bị khai trừ, chúng ta sẽ được Chúa cho sống đời đời. Nếu chúng ta yêu sự sống của mình mà không chịu dấn thân, ngại hy sinh thì chúng ta sẽ mất: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12, 25).
Lạy Chúa, mỗi ngày sống, xin cho chúng con biết chết đi con người cũ của chúng con: Nếu chúng con sống ích kỷ thì xin cho chúng con chôn vùi sự ích kỷ trong huyệt mộ để chúng con biết sống quảng đại, chia sẻ, nếu chúng con sống hận thù thì xin cho chúng con chôn vùi hận thù trong huyệt mộ để sống yêu thương, tha thứ, nếu chúng con sống lười biếng thì xin cho chúng con chôn vùi lười biếng trong lòng đất để sống siêng năng…. Nhất nữa, xin Chúa cho chúng con trung thành, bền vững vác thập giá đời mình mà theo Chúa đến cùng, và vĩnh viễn, không bao giờ đổi thay.
Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Ðức Giêsu Ki-tô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
- Chi tiết
- Viết bởi Ga 3, 14-21
- Lượt xem: 3
Con Người phải bị treo lên.
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY năm B.
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Lời Chúa: Ga 3, 14-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.
Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.
Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa.
Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY B
Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
MỤC LỤC
1. Chuộng tối hơn sáng--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
2. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
3. Nhìn lên ánh sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người--TGM Giuse Nguyễn Năng
5. Đấng giải phóng--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Người thợ săn trên trời--GM. Arthur Tone
7. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
8. Tin thì sống--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
9. Lòng Chúa thương xót chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Người thợ săn trên trời--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
11. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
12. Muốn được Chúa cứu, ta phải làm gì?--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
13. Nhìn lên Thập Giá--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
14. Thiên Chúa yêu thế gian--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
15. Ai tin Chúa sẽ được cứu chữa để sống muôn đời--Lm. Đan Vinh
16. Ánh sáng và bóng tối--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
17. Tình yêu lớn nhất--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
18. Thế gian được cứu độ nhờ Người--Lm. Trầm Phúc
19. Tin thì được sống--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
20. Giương cao con rắn--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
21. Nào ta hãy mừng vui--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
22. Nhìn lên Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
23. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
24. Hãy đến cùng ánh sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
25. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
26. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
27. Yêu đến quên mình--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
28. Lời xin lỗi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
29. Như hoa hướng dương--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
30. Phận người yếu đuối và tội lỗi--John W. Martens--Văn Chính, SDB chuyển ngữ
31. Chuyện thưởng phạt--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
32. Tin Chúa--Lm. Vũ Đình Tường
33. Cho là cõi phúc--Lm. Vũ Đình Tường
34. Đón nhận ánh sáng--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
35. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
36. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
37. Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
38. Tình Chúa thương con--Lm. Minh Vận, CMC
39. Niềm tin và hành động--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
40. Ánh sáng thật--Lm. Bar. Lê An Phong, SDB
41. Yêu cho roi cho vọt--Lm Trần Bình Trọng
42. Truyện con rắn đồng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
43. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
44. Cơ hội sống tốt hơn--Lm. Xuân Hy Vọng
45. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
46. Tin vào Con Thiên Chúa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
47. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Alfonso
48. Ánh sáng và bóng tối--Lm Nguyễn Khoa Toàn
49. Dĩ độc trị độc--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
50. Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Minh Hùng
51. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Bùi Thượng Lưu
52. Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô--JNK
53. Nội dung mặc khải của Chúa Giêsu (c.14-17)--Alain Marchabour
54. Một tình yêu không thể tin được--Lm. Phanxicô X. Vũ Phan Long
55. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu--Noel Quesson
56. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Chú giải của Noel Quesson
57. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Fiches Dominicales
58. Đàm thoại với Nicôđêmô (Ga 3,14-21)--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
59. Con Người phải được giương cao (Ga 3,14-15)--William Barclay
60. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
61. Nhìn lên Thánh giá Chúa Giêsu--Lm John Nguyễn Tươi
62. Khước từ tình yêu Chúa là tự kết án mình--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang-- Joshepus Quang Nguyễn
63. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
64. Tình thương của Thiên Chúa
65. Cựu Ước và Tân Ước
66. Từ bóng tối tới ánh sáng
67. Nô lệ tự nguyện
68. Tuyệt vọng trong hy vọng
69. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
70. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
71. Thiên Chúa yêu thương
72. Yêu thương tha thứ
73. Sự thật đổi mới chúng ta
74. Lòng tin
75. Người thợ săn
76. Thích gì
77. Yêu Chúa
78. Con rắn
79. Thiên Chúa yêu
80. Tiến vào ánh sáng
81. Nhìn lên Thập giá
82. Đón nhận Thập Giá Chúa Kitô
83. Rắn đồng cứu độ
84. Nicôđêmô
85. Tình yêu của Thiên Chúa
1.Chuộng tối hơn sáng--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt,
tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu.
Nói chung chẳng ai thích bóng tối,
vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối.
Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy...
Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối.
Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ.
Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài.
Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì các việc họ làm đều xấu xa."
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối:
đó là thảm kịch nơi lòng con người,
bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô,
từ chối đến với ánh sáng và sự thật,
chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá.
Những lý do biện minh cho sự từ chối này
thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa,
nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng
dù biết mình đang chìm trong bóng tối;
hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối
mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà.
Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình,
bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình,
để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối đó
là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên...
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành
nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời
nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau,
nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ,
nhưng là người say mê tình yêu:
tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu,
tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá,
nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn.
Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên
thân xác bầm tím nát tan của Đức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng
để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng
đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
2.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan,
Đức Giêsu nhiều lần nhận mình là ánh sáng (Ga 8,12; 9,5; 12,46).
Ngài là ánh sáng đã đến trong thế gian (Ga 1,9).
Tiếc thay, thế gian lại yêu bóng tối và ghét ánh sáng.
Bóng tối dễ làm người ta bị vấp, vì không thấy đường đi.
Nhưng nhiều người vẫn thích bóng tối hơn,
vì bóng tối che giấu những âm mưu của họ.
Sau khi được Thầy Giêsu đãi miếng bánh trong bữa ăn,
Giuđa liền đi ra, lúc đó trời đã tối (Ga 13,30).
Sau khi Đức Giêsu bị bắt vào buổi tối ở Vườn Dầu,
Ngài đã bị các thượng tế vội vã đem ra xét xử suốt đêm đó.
Mãi đến sáng họ mới chuyển Ngài cho Philatô (Ga 18,28).
Trong cuộc Khổ Nạn, có vẻ bóng tối thắng thế.
Thật ra thì bóng tối không thắng được ánh sáng (Ga 1,5).
“Tên thủ lãnh thế gian không làm gì được Thầy” (Ga 14.30).
Sự phục sinh của Đức Giêsu là chiến thắng của ánh sáng.
Không phải chỉ từ khi làm người, Ngôi Lời mới là ánh sáng.
Ngài là ánh sáng từ vĩnh cửu, chiếu soi cả nhân loại (Ga 1,4.9).
Khi đối diện với Đức Giêsu, con người đứng trước một lựa chọn:
tin hay không tin, đón nhận hay từ chối ánh sáng.
Có những người không tin Đức Giêsu
không phải vì đức tin nghịch với lý trí, nhưng vì lối sống của họ.
Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng,
vì họ sợ điều ác của họ bị phơi bày (Ga 3,20).
Ai làm theo sự thật thì đến cùng ánh sáng,
vì họ muốn việc họ làm được thấy là đúng ý Chúa (Ga 3,21).
Đến với Giêsu là đến với ánh sáng.
Ai có cuộc sống càng gần với sự thật, sự thiện,
thì càng dễ đón nhận ánh sáng và tin vào Giêsu.
Mặt khác, ai càng tin vào và bước theo Giêsu,
thì càng không ở lại, không đi trong bóng tối (Ga 8,12; 12,46).
Như thế để được sự sống đời đời, cần tin vào Đức Giêsu.
Nhưng đó không phải là một đức tin trên lý thuyết suông,
mà là một đức tin luôn làm cho đời mình được tỏa sáng.
Tin vào Đấng là ánh sáng đòi chúng ta phải từ khước bóng tối,
bóng tối sự dữ, bóng tối dối trá, bóng tối của ý định gian tà.
Vào ngày tận thế, người chết sẽ ra khỏi mồ.
“Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống,
ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29).
Mặt khác, muốn làm cho nhiều người tin Đức Giêsu,
chúng ta phải xây dựng một thế giới tốt lành, huynh đệ.
Một thế giới càng ít điều xấu xa, đen tối, ám muội,
thì càng dễ đón nhận và tin vào Giêsu.
Lời Chúa hôm nay mời chúng ta đến với ánh sáng,
dứt khoát từ bỏ bóng tối, dù bóng tối cho ta sự an toàn.
Hơn nữa, Lời Chúa còn mời chúng ta ngước nhìn lên.
Người Do-thái xưa đã ngước nhìn lên con rắn đồng treo ở cột,
để được chữa lành khỏi cái chết vì rắn cắn.
Ngày nay, chúng ta được mời ngước nhìn lên Người Con Một
đang được giương cao trên thập giá.
Chẳng ai yêu Người Con ấy bằng Thiên Chúa Cha.
Nhưng Cha lại tặng chính Người Con mình yêu dấu
cho thế gian tội lỗi, đang thù nghịch và chống đối mình.
Phải yêu thế gian này biết chừng nào, Cha mới làm như vậy.
Đơn giản là Cha muốn cứu loài người khỏi họa diệt vong.
Người Con Một là bàn tay Cha đưa ra cho nhân loại.
Ai nắm lấy bàn tay ấy với lòng tin thì được sống.
Mùa Chay đã gần hết, lời mời trở nên khẩn trương hơn.
Chỉ mong chúng ta được sức sống hơn nhờ nhìn lên…
và được ngời sáng hơn nhờ đến cùng ánh sáng.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê su,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy,
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng vào
những bóng mờ trong đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để cho ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.
3.Nhìn lên ánh sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?
4.Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người--TGM Giuse Nguyễn Năng
Suy niệm: Bài Tin mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Tình yêu ấy sẽ không bao giờ phai nhạt dù cho cuộc đời có đổi thay. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn như mưa tưới gội trên mọi người: cả người lành cũng như kẻ ác. Ngài không áp đặt con người phải theo Ngài. Trái lại, Ngài cho họ được quyền tự do lựa chọn hạnh phúc cho chính mình. Vì thế, kẻ tin theo Chúa, đặt tin tưởng vào Chúa thì đã được cứu. Còn kẻ không tin, thì tự họ, họ đã tìm đến cõi diệt vong.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, từ muôn thuở Chúa đã yêu thương và muốn cứu chuộc chúng con. Nhưng Chúa không thể cứu được con nếu chúng con không muốn. Xin cho chúng con biết dùng tự do của mình để chọn con đường dẫn đến phúc trường sinh. Con đường đó chính là Ðức Giêsu. Tin vào Ðức Giêsu chắc chắn chúng con sẽ được hạnh phúc muôn đời. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ”.
5.Đấng giải phóng--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Sống ở đời, chúng ta bị ràng buộc tư bề. Con người bị ràng buộc do lối sống ích kỷ, do những thành kiến mặc cảm, và cũng có thể do những tham vọng đam mê và nhất là do tội lỗi. Vì những ràng buộc này, con người trở thành nô lệ của chính mình, và họ luôn giãy giụa tìm cách để thoát ra khỏi vòng nô lệ ấy. Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay muốn khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa là Đấng giải phóng và làm cho con người được tự do.
Dân Do Thái đang chán nản đau buồn trong cảnh lưu đày ở Babylon. Họ phải sống trong cảnh tủi nhục nơi đất khách. Không còn đền thờ, chẳng còn tư tế, vắng bóng các sinh hoạt truyền thống và các nghi thức tế tự. Lòng người Do Thái quặn đau nơi lưu đày. Họ không thể gượng vui mà hát xướng trước thái độ ngạo mạn của người bản địa. Những người đạo đức luôn hoài niệm về quá khứ. Họ hướng về Giêrusalem với đôi mắt đẫm lệ. Trong bối cảnh ấy, Chúa dùng vua Cyrus, vua Ba Tư, cứu dân khỏi ách lưu đày và quyết định cho họ trở về quê cha đất tổ. Khỏi phải nói, niềm vui của dân lưu đày vỡ oà. Họ nhận ra Cyrus là vị cứu tinh. Họ coi ông là người của Thiên Chúa đến để giải phóng dân riêng của Ngài và đưa về bến bờ tự do.
Nếu Thiên Chúa đã dùng ông Cyrus để cứu dân tộc Do Thái khỏi ách lưu đày ở Babylon, thì qua Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn cứu độ cả thế gian, mọi nơi, mọi thời. Ngài không cứu thế gian khỏi ách nô lệ của một chế độ, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi, của quyền lực tối tăm. Bài Tin Mừng ghi lại cuộc đàm đạo vào ban đêm giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông này là thành viên Công nghị Do Thái, tạm coi như thành viên của quốc hội. Ông cảm phục giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng còn nhiều điều băn khoăn nên đến gặp Người để khai thông trí tuệ. Chúa Giêsu đã nói với ông về tình thương của Thiên Chúa Cha. Tình thương ấy được chứng minh qua Ngôi Lời nhập thể, chính là người đang đàm đạo với ông về những thực tại thiêng liêng. Đức Giêsu cũng khẳng định với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa sai con của Ngài đến để giải phóng nhân loại. Ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và quyền lực tối tăm. Tình thương của Thiên Chúa được chứng minh qua mầu nhiệm thập giá. Đức Giêsu đã nhắc tới con rắn đồng được treo trong sa mạc thời ông Môisen (x. Dân số 21,3-9) như hình ảnh báo trước cây thập giá. Đương nhiên, Tin Mừng được viết sau biến cố thập giá và phục sinh, nên tác giả muốn diễn tả qua hình ảnh con rắn đồng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Cũng như con rắn mang lại sức chữa lành cho dân Do Thái – những người bị rắn cắn – cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Người cũng chữa lành những vết thương của con người do tội lỗi gây ra.
Chúa Giêsu khẳng định: một trong những điều kiện căn bản để được cứu độ hay được ơn giải thoát, đó là Đức tin vào quyền năng Thiên Chúa. Tin là tự do chọn lựa Chúa và dấn thân sống hết mình vì chọn lựa đó. Nếu bạn tin vào Chúa, bạn sẽ tìm được sự sống, sẽ được cứu độ trong ngày xét xử, sẽ được ánh sáng chiếu soi. Một khi tin vào Chúa thì những hành động của bạn sẽ là những việc thiện lương. Bởi lẽ bạn không thể tin vào Chúa mà lại có một lối sống ngược lại với điều bạn tuyên xưng.
Một cách cụ thể, tin vào Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô. Tin vào Chúa không chỉ có nghĩa là tin Ngài đang hiện diện, mà còn là thiện chí thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy. “Ai khước từ Thày là khước từ Đấng đã sai Thày” (Lc 10-16). Đức Tin giải thoát chúng ta khỏi sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đón nhận và thực hiện lời Chúa Giêsu là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa cách hữu hiệu nhất. Nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, chúng ta trở nên những tác phẩm của Thiên Chúa, được canh tân trong Chúa Giêsu, nên con người hoàn thiện, và như thế, chúng ta làm cho ánh vinh quang của Ngài tỏa rạng qua cuộc đời của chúng ta (x. Bài đọc II).
Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu vào ban đêm đã làm cho ông Nicôđêmô thay đổi cuộc đời. Từ một người còn nghi ngờ, dè dặt, ông đã trở nên môn đệ của Chúa. Ông không còn sợ hãi nữa, trái lại, ông đã công khai biện hộ cho Chúa Giêsu nơi những người biệt phái (x. Ga7,51) và đã cộng tác trong việc an táng Chúa Giêsu (x. Ga 19,39). Một điều đáng chú ý là khi Chúa chịu chết đau thương trên thập giá, cũng chính là lúc ông Nicôđêmô sẵn sàng từ bỏ công danh sự nghiệp để công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Thông thường ở đời, người ta đi theo và tôn vinh một người chiến thắng, không mấy ai chấp nhận đi theo một người bị lên án tử hình, như trường hợp ông Nicôđêmô.
Mùa Chay là thời điểm sống Đức tin một cách mãnh liệt hơn. Phụng vụ khẳng định: nếu thành tâm tin vào Chúa, chúng ta sẽ tìm được niềm vui ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta lựa chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối? Chúng ta đang làm việc thiện hay việc ác? Chúng ta đang bảo vệ sự sống hay cổ võ sự chết? Tất cả những vấn nạn này cần được trả lời bằng cuộc sống cụ thể của mỗi người.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hãy nhìn lên cây thập giá để tôn vinh Chúa là Đấng giải phóng, để biết Chúa yêu chúng ta đến dường nào. Từ cây thập giá, chúng ta học được những bài học cần thiết trong mối tương quan với Chúa và cách ứng xử với anh chị em.
6.Người thợ săn trên trời--GM. Arthur Tone
Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson.
Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quạt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con yêu quý của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ.
Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi ý chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì rộng rãi: nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài: “Ta yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21.3)”. Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. Tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ ngai tòa Đấng Tối cao trên trời cao thẳm mà tới. Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.
Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ Thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bethlem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rất hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới. Vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.
Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng Tình Thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.
7.“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1) Con Rắn trên cây cột và Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh
2) “Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột” (Ds 21, 9)
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (x. St 3, 1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho bà Evà và ông Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: “chẳng chết chóc gì đâu !” Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình ; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: “Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2, 17). Mười một chương đầu của sách Sáng Thế cho thấy rõ, Lời Chúa là chân thật.
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến (x. Ds 21, 4-9) và trong bài Tin Mừng Đức Giê-su so sánh mầu nhiệm Thập Giá của Người với chính con rắn này, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
Chắc chắc chúng ta cũng có kinh nghiệm nghi ngờ Thiên Chúa, nghi ngờ ý định tốt lành của Thiên Chúa, khi cho chúng ta được làm người và sống trong một ơn gọi: Tại sao Chúa lại sinh ra con như thế này: thiếu đủ thứ, kém cỏi đủ thứ, thua thiệt đủ thứ? Sao con không như anh kia, chị nọ? Tại sao con lại ra nông nỗi này, rơi vào tình cảnh khổ sở như thế này, Chúa dẫn vào đây để làm gì? Những lúc khủng khoảng như thế, chúng ta cũng kinh nghiệm được những hậu qủa tại hại của thái độ nghi ngờ. Trong khi đó, mỗi người chúng ta, theo Tv 139, là một tuyệt tác, mà nhiều khi chúng ta lại mù quáng không nhận ra: “Chúa dựng nên con cách lạ lùng”.
1. “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”
Đức Giê-su, ngay từ những lời nói đầu tiên trong đời sống công khai, trong Tin Mừng theo thánh Gio-an (3, 14), đã đặt mầu nhiệm Thập Giá mà Người sẽ sống trong tương quan rất trực tiếp với hình ảnh “con rắn”, biểu tượng của Tội và Sự Dữ:
Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,
để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Theo lời này của chính Đức Ki-tô, chúng ta nên hình dung ra, hay tốt hơn là vẽ ra, một bên là “Con Rắn” bị giương cao trên cây gỗ, một bên là Đức Ki-tô được giương cao trên cây thập giá, thay vì là Sự Dữ, là Sa-tan, bởi vì theo luật, chỗ trên cây thập giá phải là chỗ của tử tội, của chính Tội. Như thế, Đức Kitô trong Cuộc Thương Khó, sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Thực vậy, thánh Phaolô nói, Ngài lại tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) ; và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 và Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7, 13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người chúng ta hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vì, thế, chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:
* Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
* Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị.
* Chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính.
* Và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
Theo lời của Đức Chúa, Mô-sê khi đó đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên nguyên nhân gây ra cái chết được phô bày ra đó, thì đã được chữa lành. Nếu hình phạt bị rắn độc cắn là nặng nề, để cho thấy rằng, thái độ nghi ngờ và kêu trách tự nó mang nọc độc giết người, thì ơn chữa lành thật nhẹ nhàng và nhưng không: “Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”. Cũng giống như khi người ta chữa bệnh: trước tiên phải tìm ra nguyên nhân gây bệnh; và khi tìm được, thì hoặc dùng thuốc hóa giải nó đi, hoặc phải cắt bỏ ra khỏi cơ thể.
2. “Ai Tin vào người thì được sống muôn đời”
Như Dân Chúa trong sa mạc nhìn lên con rắn đồng, chúng ta được mời gọi ngước nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Nhưng thay vì bị lên án, loài người chúng ta được mời gọi nhìn lên Đấng Chịu Đinh với lòng tin để đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Ơn tha thứ. Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa. Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế.
Ơn chữa lành. Đúng là Thánh Gía mặc khải cho con người bản chất của Tội, nhưng không phải là để lên án con người, mà là để cứu sống con người. Thiên Chúa không thể tha thứ cho con người mà không đồng thời chữa lành, bằng cách làm cho con người nhìn ra hình ảnh thật sự của tội. Nghi ngờ Thiên Chúa là căn bệnh nan y, nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá: Tình yêu đi đến mức “điên rồ” đến như thế; chúng ta cũng được mời gọi yêu Chúa “điền rồ” như thế.
Chữa lành khỏi hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa. Và Thập Giá con mặc khải cho chúng ta rằng thân phận con người không phải là một hành trình dẫn đến chỗ chết (St 3 và Ds 21). Con người muốn vươn lên bằng Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa làm người và làm người đến tận cùng (Ph 2, 5-11), để nói với chúng ta rằng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người không phải để đầy đọa, thử thách và lên án, và thân phân con người, dù có như thế nào, là con đường dẫn đến Thiên Chúa, nguồn Sự Sống.
3. Tình yêu Thiên Chúa
Dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá, được hiểu khởi đi từ con rắn đồng trong sa mạc và cả con rắn trong Vườn Eden nữa, chúng ta mới có thể hiều sâu sa và con tim của chúng ta có thể bừng cháy khi nghe lời này của Đức Giê-su:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời. (c. 16)
Lời này của Đức Giêsu thật dịu dàng, an ủi vỗ về chúng ta, và nhất là làm cho chúng ta có can đảm trở về với Thiên Chúa như người con hoang đàng. Đây là một trong những lời của Đức Giêsu, nói cho chúng ta rõ nhất về khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, về con tim của Thiên Chúa, về cõi lòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thế gian, nghĩa là yêu tất cả nhân loại và yêu từng người trong nhân loại, dù con người là ai và đang ở tình trạng nào; Thiên Chúa yêu nhân loại, đơn giản là vì Ngài sinh ra nhân loại. Giống như cha mẹ sinh con, con nó nên người thì vui, nó hư đốn thì buồn, nhưng luôn luôn yêu con, dù nó như thế nào.
Và Thiên Chúa không yêu sơ sơ hay yêu tạm thời, nhưng Ngài yêu trọn vẹn và mãi mãi, bởi vì Ngài yêu loài người đến nỗi ban chính Con Một của mình; Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Một cũng là Con Duy Nhất của Ngài. Cho đi Người Con Duy Nhất chính là cho đi chính mình, bởi vì Cha và Con là một. Cuộc Thương Khó của Đức Kitô mà chúng ta sẽ tưởng niệm cách trọng thể vào Tuần Thánh, bí tích rửa tội, bí tích hòa giải và nhất là bí tích Thánh Thể, tỏ bày cho chúng ta tình yêu cho đi chính Con Một, chính bản thân mình của Thiên Chúa.
Vấn đế là chúng ta có chịu tin hay không? Đức Giê-su hay nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (x. Lc 7, 50). Như thế, lòng tin có sức mạnh cứu độ: lòng tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ngôi vị và Thập Giá của Đức Giê-su nói, giải thoát chúng ta khỏi mặc cảm tội lỗi, khỏi sự nghi ngờ chết chóc đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Và đó chính là sức mạnh cứu độ của lòng tin, được chính Đức Giê-su nói công bố, chứ không phải là bất cứ điều gì khác, hay điều kiện nào khác.
Hơn nữa, tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa còn mời gọi chúng ta đón nhận “Hiện Thân” của tình yêu Thiên Chúa, là Đức Giêsu Con Thiên Chúa (Rm 8, 39) vào cuộc đời mình với những may rủi, với những thuận lợi cũng như khó khăn, với những biến cố vui buồn, những thành công và thất bại; tin vào Con Thiên Chúa, là đón nhận ánh sáng của Ngài vào ơn gọi của mình, ơn gọi hôn nhân hay tu trì, vào hướng đi của mình, vào cách sống của mình; tin vào Con Thiên Chúa là để cho Lời của Ngài hướng dẫn những lựa chọn lớn trong cuộc đời của chúng ta, cũng như những lựa chọn nho nhỏ hằng ngày. Tin vào Con Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ sống sung mãn, sống bình an, sống hạnh phúc thực sự, không phải ở đời sau, nhưng ngay hôm nay.
Vì thế, chúng ta cần ghi lòng tạc dạ lời này của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (c. 16). Chúng ta đừng bao giờ nghi hoặc, hay đừng để cho bất cứ ai, bất cứ lời nói hoặc lời dạy nào làm cho chúng ta nghi hoặc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, bày tỏ ra cho chúng ta nơi Đức Kitô, và nhất là Đức Kitô chịu đóng đinh.
***
Khi chúng ta nghi ngờ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta bị rắn độc cắn. Bị rắn độc cắn, thì đương nhiên là chết, không cần phải ai bắt mình ra xét xử, lên án và thi hành án phạt. Như chính Đức Giêsu nói:
Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án;
nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi,
vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (c. 17-18)
8.Tin thì sống--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Giữa đêm thanh gió mát, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do thái, đến gặp Đức Giêsu. Người đàm đạo với ông về sự sống muôn đời. Sự sống muôn đời là sự sống trong nước Thiên Chúa. Ai tin vào Con Người, Đấng từ trời xuống, thì được sống muôn đời. Tin vào Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống. Tin vào Con Một đến cứu độ thế gian. Tin vào Con Một là ánh sáng thế gian để thiên hạ thấy rõ những chuyện trên trời mà sống theo sự thật để mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa. Như vậy, họ sẽ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn thuở.
Đức Giêsu dẫn chứng lịch sử thời Môisen đã treo con rắn đồng lên cây cờ, để ai bị rắn lửa cắn mà tin nhìn lên rắn đồng thì được sống (Ds. 21, 19). Sự kiện đó và bao nhiêu việc lạ lùng khác yêu thương dân Người, cứu họ khỏi chết, cho họ được sống. Giờ đây Thiên Chúa không phải chỉ sai sứ giả phàm nhân như Môisen, để treo rắn đồng mà sai chính Con Một Thiên Chúa xuống thế gian chịu treo mình để không chỉ cứu một dân tộc, mà cứu cả thiên hạ được sống, không phải chỉ sống dưới đất, mà còn được sống trong vinh quang nước trời.
Thánh Phaolô cũng nói với giáo đoàn Êphêsô phải tin vào “Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và rất mực yêu thương chúng ta, tin vào Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa”. Tác phẩm của loài người chỉ là chữ chết hay đá gỗ mà còn mất bao nhiêu kỳ công. Huống chi chúng ta là tác phẩm sống động của Thiên Chúa, được sáng tạo trong trái tim Đức Giêsu để thực hiện những công trình tốt đẹp của Thiên Chúa, thì kiệt tác biết chừng nào!
Hơn nữa chúng ta còn là tác phẩm do công trình cứu độ của Thiên Chúa, còn tốt đẹp gấp bội hơn nữa: “Dầu chúng ta đã chết vì phạm tội, Người vẫn cho chúng ta được sống với Đức Giêsu Kitô, được sống lại, được ngự trị với Đức Kitô trên cõi trời, thế mới rõ tình thương và ân huệ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô dồi dào phong phú vô cùng”.
Tin thì được sống tuyệt vời như thế! Kẻ không tin thì khốn cùng, tận diệt như thế nào? Họ chuộng bóng tối, làm điều xấu xa, mỗi ngày thêm bất trung bất nghĩa, học đòi các thói tục ghê tởm, làm nhơ nhuốc đền thờ, khinh dể nhạo báng, chê cười các ngôn sứ, khiến Chúa nổi cơn thịnh nộ để cho quân thù tiêu hủy triệt hạ, châm lửa đốt tất cả bọn chúng. Còn sót lại những ai không bị gươm giết, thì bị đày làm nô lệ (Bài đọc I).
Thực ra những hình phạt hữu hình ấy bây giờ ít xảy ra. Nhưng những đau khổ ngấm sâu tận đáy lòng kẻ không tin thì rất nhiều.
Vị cứu tinh vĩ đại của Ấn độ, thánh Grandhi đã nói: “Không nhờ cầu nguyện thì tôi điên từ lâu rồi. Chúng ta cần nhiều nhà thờ để bồi dưỡng sức mạnh tinh thần cho nhân dân”. Cầu nguyện và nhà thờ là biểu lộ lòng tin. Lòng tin đã cứu ông khỏi điên. Không tin, ông đã bị điên vì đau khổ rồi.
Giáo sư William James, người cha của khoa học tâm lý thực nghiệm, đã viết: “Phương pháp thần diệu nhất để diệt ưu tư là đức tin tôn giáo, vì đức tin là năng lực giúp loài người sống mạnh”. Không có đức tin, con người là mồi ngon của ưu tư và nhu nhược.
Bác sĩ Jung, ông tổ khoa chữa bệnh tâm thần kể: “Trong ba mươi năm gần đây, có những người thuộc đủ các nước văn minh trên thế giới, xin tôi chữa bệnh. Tôi chữa được mấy trăm người. Họ đau vì mất thăng bằng. Phải kiếm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh, mà tôn giáo thời nào cũng đem lại cho tín đồ hai kho tàng quý báu: kiên nhẫn và cậy trông”. Không có tôn giáo, thế giới văn minh sẽ mất thăng bằng, bệnh hoạn, rối loạn và tuyệt vọng.
Bà Carnegie, bậc thầy về sách học làm người, đã kể: “Ba má tôi làm việc cực nhọc lắm, từ 4 giờ sáng đến 8-9 giờ tối, liên lỉ 16 giờ một ngày mà vẫn bị nợ nần quấy rầy. Trên ba mươi năm đầu tắt mặt tối, ba tôi chỉ chuốc thêm nợ nần nhục nhã. Ba tôi mất ăn mất ngủ, sức lực hao mòn. Bác sĩ nói: Ông không thể sống được quá sáu tháng nữa đâu. Lo lắng chán nản quá, lúc lên đò qua sông lớn, ba tôi tính lao đầu xuống sông tự tử. Nhờ thoáng nghĩ đến lời mẹ tôi khuyên: Nếu ta kính mến Chúa và giữ lời Người, mọi sự sẽ được như ý. Một sức mạnh tin tưởng đổ dồn vào tim ông. Ông đã phấn đấu với cảnh nghèo khổ và sống thêm 42 năm nữa. Ông thọ được 89 tuổi” (Nguyễn hiến Lê dịch “Quẳng gánh lo đi và vui sống” của Carnegie. Tr. 206).
Nhờ đức tin Grandhi đã không bị điên, còn trở nên thánh nhân và vĩ nhân thế giới.
Nhờ đức tin tôn giáo, bao nhiêu bệnh nhân tâm thần đã được khỏi, sống mạnh mẽ và yêu đời.
Niềm tin tôn giáo còn tránh cho xã hội bao nhiêu thảm họa khác nữa. Dostoievsky, một văn hào bậc nhất Liên Xô nói: “Không còn Thiên Chúa, người ta muốn làm gì thì làm, bất chấp xấu xa, tàn ác”.
Ai tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô thì chẳng những sống lành mạnh ở đời này mà còn được sống vinh phúc muôn đời. Ai không tin vào Con Người thì phải chết muôn thuở.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã bao nhiêu lần nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (Mt. 9, 22). Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con được sống dồi dào và được sống đời đời.
9.Lòng Chúa thương xót chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta những lý do khiến chúng ta vui mừng. Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên: ”Anh em hãy vui lên với thành Giêrusalem, anh chị em là những người đang mang tang chế”. Phụng vụ khuyến khích chúng ta hãy vui lên, chúng ta muốn vui lắm, nhưng nhiều khi không vui được vì còn gặp nhiều nỗi buồn phiền lo lắng, kể cả thất vọng nữa. Thực ra chẳng bao giờ chúng ta hết lo, hết khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng làm sao vui lên được?
Thì đây, thánh Gioan đã đưa ra lý do căn bản về niềm vui: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta tới mức độ sai Con Một Ngài xuống thế cứu vớt nhân loại. Vậy muốn tham dự ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, còn cần phải tin vào Ngài! Đức tin thật cần thiết vì: ”Ai tin thì sẽ được sống đời đời”(Ga 3,16).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16. 19-23.
Tác giả sách Biên niên điểm lại những giai đoạn lịch sử dân Israel trước, trong và cuối thời lưu đầy. Nếu Thiên Chúa ngoảnh mặt đi mà cho quân đội Babylon đến phá hủy đền thờ Giêrusalem và bắt dân ưu tuyển đi lưu đầy, chính là dân đã phản bội, đã bỏ Ngài trước. Dân Israel bị phạt vì tội bất trung, nhưng lại được tha thứ vì biết sám hối. Qua các biến cố trong lịch sử của họ, tác giả luôn tìm được những lý do để trông cậy, mà một trong những lý do quan trọng là Chúa trung thành bởi vì chính Ngài là Tình Thương.
+ Bài đọc 2: Ep 2,4-10.
Thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Êphêsô biết là mọi người được cứu độ nhờ ân sủng khi Ngài nói:”Chính là bởi ân sủng mà chúng ta đượcï cứu độ nhờ đức tin”. Chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng miễn là có lòng tin. Đó là giáo thuyết thánh Phaolô dạy chúng ta về ơn cứu độ “nhưng không” màThiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ được ban “nhưng không” chứ không do một điều gì trong con người chúng ta có quyền đòi hỏi. Vì thế, thánh Phaolô xác quyết rằng:”Tất cả là hồng ân”.
+ Bài Tin mừng: Ga 3,14-21.
Ông Nicôđêmô là một người biệt phái đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Đây là đoạn nối tiếp câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông. Trong buổi nói chuyện này, ông được hiểu thêm về ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Qua đó, ông biết được rằng tin vào Đức Kitô, chính là nhận biết Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ.
Nói khác đi , là nhìn nhận ơn cứu độ con người đến từ trời cao, do mối liên hệ cha con, tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhưng ta chỉ biết một sự thật như vậy khi “sống sự thật “ ấy, khi thực sự dấn buớc vào một cuộc sống được soi sáng không ngừng bởi phận làm con.
Theo ý nghĩa đó, không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống và tất nhiên đi vào con đường những việc làm xấu xa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lòng Chúa yêu thương tha thứ
I. THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ.
1. Tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
2. Nhưng dân Chúa lại phản bội.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ, Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ. Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
3. Các tiên tri nhắc nhở dân chúng.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
4. Dân hối cải, Chúa thứ tha.
Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng. Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
II. TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ.
1. Sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). và Ngài còn nói tiếp:”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ”(Ga 3,17).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu ước. Ta có thể nói Cựu ước là hình ảnh của Tân ước. Cựu ước là hình ảnh, Tân ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân ước.
Chẳng hạn , họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào:
. Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị dâng làm hy lễ, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu ước và Tân ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết:”Con
người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống... Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời”(1 Cr 15,45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).
2. Thập giá, dấu tích của tình yêu.
Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
3. Truyện con rắn đồng.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen:”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”. Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.
Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông:”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi”. Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen:”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Rắn lửa nói đây không phải nó đỏ như lửa, nhưng vết thương nó gây ra cho người ta rát như bỏng lửa. Tại miền nam xứ Palestine có rất nhiều thứ rắn và rắn có nọc.
Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta , nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho.
Sau này, những con rắn đồng đã trở thành vật dị đoan cho dân Do thái: Họ đốt hương trước rắn đồng. Vì thế, trong cuộc cách mạng tôn giáo Ezechias truyền đập nát con rắn đồng
(4 Sb 18,4).
Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).
III. HÃY TIN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ CỨU CHÚA.
1. Ngài đã cứu chuộc bằng máu Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolôâ trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định:”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ”(Dt 9,22).
Truyện: máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
2. Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh Gioan nói:”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3, 20 ). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma qủi. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại:”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ,
Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.
10.Người thợ săn trên trời--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Một trong bài thơ nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn trên trời”, sáng tác của Francis Thonpson, ông cố chạy trốn Chúa. Ong so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi một linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson. Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong một xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quẹt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thopson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa. Ong cố gắng chạy trốn Chúa làm sao, Chúa săn đuổi ông thế nào, làm sao Thiên Chúa đã chộp bắt được ông. Đó là chủ đề của bài thơ gây cấn đó.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người con yêu quí của Người để đổi lại chúng ta.
Như ông Thopson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt đuổi theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ. Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta ?
Trong bức thơ gởi cho giaó đoàn Ephesô, thánh Phaolô gợi ý chúng ta suy nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao, và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta. Tình yêu thương chúng ta thì rộng rãi, nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người, Thiên Chúa muốn mọi người chia sẻ sự tốt lành của Người. Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài “Ta yêu Người bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21,3)” Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia. Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: nó từ ngai tòa Đấng tối cao trên trời cao thẳm mà tới.
Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ. Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bet-lem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rốt hèn, tới những sỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thopson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta khắp thế giới, vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II . Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng tình thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
11.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Khuyến khích sám hối để được cứu. "Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc..."
(Ga 3,14)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha ngay.
II. Gợi ý sám hối
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa.
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em.
Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sb 36,14-16.19-23
Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối thời lưu đày: vì dân Do Thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương.
2. Đáp ca: Tv 136
Đây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày: buồn nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ mong được trở về quê hương yêu dấu.
3. Tin Mừng: Ga 3,14-21
Một phần trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời". Khi đề cập đến tội lỗi của loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
4. Bài đọc II: Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói "Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót". Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi..."
Để giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhắc lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới lần khác tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài:
Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai cập, dẫn họ xuất hành về Đất hứa.
Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận: "Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ". Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, Do Thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát "giận thì giận mà thương thì thương". Điều này càng đúng với Thiên Chúa.
Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất "giận" (có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả "của con người"). Ngài đã tuyên án cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Đấng Cứu thế sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc (St 3,21).
Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất "giận" nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn, Thiên Chúa đã "ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh" (St 4,15).
Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê. Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy: luôn luôn yêu thương, dù giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời"; "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý: "Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ"
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ "bị Chúa phạt". Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những cách đối xử của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người Do Thái lên án, nhưng phần Đức Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như: người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 "Tội của chị đã được tha rồi"), ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Đức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
4. Nicôđêmô
Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần:
Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay. Ông đến với Đức Giêsu "ban đêm" để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo Do Thái muốn giết Đức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7,51)
Lần thứ ba là lúc táng xác Đức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn liệm thi hài Đức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan thuật: "Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người do thái" (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Đức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết: "Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng"
5. Nỗi buồn thánh
"Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion". Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau:
Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá. Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà mình phải xa cách đó. Như dân Do Thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ về Sion yêu quý.
Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng. Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào? Nó xuất phát từ nhận thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Đó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn thương. Đó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
6. Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
*
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
*
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin:
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng / để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ của Đức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn nhận hồng ân cứu độ mà Đức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Dù chúng ta phạm tội nhưng Ngài vẫn thương chúng ta. Vậy chút nữa đây khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt lấy hết tâm tình nói với Ngài câu "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Trước lúc rước lễ: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con Một của Ngài làm lương thực cho chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta được biết một điều rất an ủi là Thiên Chúa không muốn phạt ai cả mà chỉ muốn cứu mọi người. Bất cứ ai tội lỗi sám hối quay về với tình thương của Chúa thì đều được tha thứ. Chúng ta đều có tội, vậy chúng ta hãy sám hối quay về với Chúa, đón nhận sự tha thứ của Ngài.
12.Muốn được Chúa cứu, ta phải làm gì?--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Phụng vụ hôm nay chủ ý nhằm đề cập đến một sự kiện có liên hệ đến cây Thánh Giá Chúa sắp nằm trên đó để thực hiện việc cứu độ loài người. Câu chuyện có liên hệ đến một sự việc đã xảy ra và được kể trong sách Dân số (21,4-9).
Hồi ấy, sau khi ra khỏi Ai Cập để tiến về đất hứa, dân Do Thái đã phải ngày đêm băng qua sa mạc. Ngày thì nóng như thiêu. Đêm thì lạnh như cắt. Hơn nữa đời sống trong sa mạc đâu có phải là đời sống bình thường. Sa mạc là một nơi thiếu thốn đủ mọi thứ. Có lúc dân Do Thái bị đói, có lúc họ bị khát. Chúa đã phải làm phép lạ cho họ có của ăn thức uống, nhưng rồi vì phải đi quá lâu trong sa mạc, sức chịu đựng của họ cũng có giới hạn, họ đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môisen. Họ kêu trách không tiếc lời. Sự việc đó đã khiến Chúa phải dùng đến hình phạt. Chúa đã cho những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc và tang thương cho dân. Sau đó dân hối hận và Chúa lại thương, Người truyền cho ông Môisen đúc một con rắn đồng rồi treo lên một cây cột cao để như Lời Chúa nói với Môisen: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống” (Ds 21,8) Và quả đúng như thế, tất cả những ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì đều được sống.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắc lại câu chuyện xưa. Chúa biết Nicôđêmô là một bậc thầy về Kinh Thánh. Chúa dùng một biến cố mà Nicôđêmô biết tường tận để giúp ông hiểu một việc Chúa sắp làm trong tương lai. Chúa Giêsu nói với ông: “Như ông Môisen đã giương cao con rắn trong hoang địa, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống đời đời” (Ga 3,14). Chúa muốn bảo với Nicôđêmô rằng: Con rắn đồng trong sa mạc chỉ là hình bóng xa xa nhắc cho con người biết việc Chúa sẽ chịu chết trên Thánh Giá để ban ơn cứu độ cho con người, tức là làm cho con người được hưởng sự sống đời đời.
Nhưng muốn được Chúa cứu, chúng ta phải làm gì ?
Thưa, phải tin tưởng vào lòng yêu thương nhân từ vô biên của Thiên Chúa. Qua lịch sử, Thiên Chúa từ từ mạc khải cho dân Do Thái thấy Ngài không phải là Thiên Chúa hay phạt, nhưng là Chúa nhân từ hay tha thứ. Mỗi khi dân bỏ Chúa đi thờ các thần khác, hoặc vi phạm giao ước đã ký kết, thì Ngài phạt họ rất nặng nề, như câu chuyện rắn đồng chẳng hạn. Nhưng nếu họ biết hối hận ăn năn quay trở về thì Chúa lại yêu thương và tha thứ. Dần dần họ nhận ra Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi đúng như Ngài nói: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề: Ta đâu có muốn kẻ dữ phải chết, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống!” (Ez 33,11).
Vâng! Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa mà vì yêu thương, Ngài đã ban cho thế gian để ai tin vào Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.
Nhưng tin vào Chúa thì phải làm gì ? Là phải nhận ra tội lỗi mình, sám hối và quyết tâm sửa lại.
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về vấn đề sám hối.
Vậy thế nào là sám hối ?
Một cách thật đơn sơ chúng ta có thể trả lời như sau: Sám hối là hối hận về tội lỗi của mình.
Như vậy, muốn có được lòng sám hối thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu đó là phải thấy được tội lỗi, lỗi lầm của mình. Nói một cách đơn giản hơn là thấy được mình là người tội lỗi.
1. Làm sao để biết mình là người có tội ?
* Ngày trước người Do Thái cho rằng, muốn biết ai là người có tội, thì cứ căn cứ vào những dấu chỉ bên ngoài, thí dụ như bị tai nạn, bị trừng phạt v.v…
Tin Mừng hôm nay nói đến hai sự kiện: Một là việc Philatô giết một số người Galilê - những người Galilê nói ở đây là những người đến Jêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn nào đó trong khuôn viên Đền thờ, do đó đội binh Rôma ở trong đồn Antônia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ không nương tay và sự kiện thứ hai là việc tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người trước đó.
Phải những người đó có tội nên bị giết và bị chết như thế ?
Đối với người Do Thái thì quả là như vậy.
Nhưng thử hỏi đối với Chúa thì Ngài nghĩ làm sao ?
Chúa không khẳng định cũng như không phủ định nhưng Chúa muốn coi đó như một cơ hội để cho người ta cảnh tỉnh mà rà lại cuộc sống của mình. Đây, ta hãy nghe lời của Chúa: “Không phải đâu nhưng nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng phải chết như vậy” (Lc 13,5)
2. Trước mặt Chúa, mọi người chúng ta đều có tội. Chẳng có ai hoàn toàn trong trắng vô tội trước mặt Chúa.
Một mục sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông ấy cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.
- Sao, con mơ thấy gì ?
- Con mơ thấy một chiếc thang bắc lên tới tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn và mỗi người phải lấy phấn viết hết các tội mình đã phạm lên chiếc thang đó thì mới lên được.
- Hay thật! Rồi con thấy gi nữa ?
- Con thấy con leo lên, nhưng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.
- Ai vậy ?
- Ba chứ ai.
- Ba ?
- Thế ba leo xuống để làm gì ?
- Ba lấy thêm phấn!
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: “Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té” (1Cr 10,12).
3. Như vậy, vấn đề còn lại là mỗi người phải thấy được tội lỗi của mình và can đảm sửa lại. Chúa ghét tội, nhưng luôn yêu thương tội nhân và sẵn lòng đổ tràn ơn tha thứ trên họ.
Có hai hành khách ngồi chung trong một chuyến xe lửa từ Tôrinô tới Paris.
Vào một ngày mùa đông, bầu trời xanh xám không một tia sáng mặt trời, xe lửa chạy tới biên giới nước Pháp thì tuyết bắt đầu rơi, bên ngoài trời giá lạnh, nhưng trong xe hơi ấm của lò sưởi rất dễ chịu, thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ cho cuộc hành trình thêm thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn lo lắng lạ thường, mỗi lần tới một nhà ga người ấy lại giựt mình đứng phắt lên, đến gần cửa nhìn nhà ga đọc lớn tên ga rồi ông trở về chiếc ghế ngồi và thở dài một cách thảm não. Sau nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với tất cả sự quan tâm và tế nhị.
- Có điều gì làm ông khó chịu hoặc ông bị đau chăng ? Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:
- Tôi không đau ốm gì cả, chỉ có điều là tôi đã lấy chuyến xe đang chạy ngược chiều với hướng của tôi định đi. Lẽ ra tôi phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang chuyến xe khác, nhưng tôi không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng. Ngồi trong xe với hơi ấm thế này dễ chịu hơn.
Biết mình đang là người tiến trên con đường tội lỗi, phải quay về con đường thiện. Nếu không đủ can đảm cởi bỏ những thói quen cũ và những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống đang sống thì chắc chắc đích điểm mà mình muốn nhắm tới sẽ càng ngày càng bỏ xa mình. Than vãn thở dài nào có ích lợi gì đâu.
Thống hối cải tà quy chánh là phải can đảm đôi khi phải trả giá rất cao. Qua miệng các ngôn sứ, chúng ta biết Thiên Chúa rất nhân từ và đầy lòng thương xót luôn chờ đợi các tội nhân ăn năn thống hối trở về với ngài.
Lạy Chúa, xin ban cho con cánh cửa tình thương để con biết can đảm trở về với Chúa.
Xin ban cho con lòng khiêm nhượng để con biết nhìn nhận tội lỗi của con.
Xin ban cho sức mạnh để con biết mau mắn chỗi dậy sau khi sa ngã.
Xin hãy thay đổi sự cứng cỏi lòng chai dạ đá, để con chỉ biết ước muốn và thi hành những gì Chúa yêu thích nơi con mà thôi. Amen.
13.Nhìn lên Thập Giá--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi". Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm". Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
14.Thiên Chúa yêu thế gian--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
I. Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.
II. Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2. Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3. Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
15.Ai tin Chúa sẽ được cứu chữa để sống muôn đời--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau:
Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ chấp nhận cái chết đau thương trên thập giá để đền tội thay và giao hòa loài người với Thiên Chúa.
Từ đây, những ai muốn được ơn cứu độ phải có mấy điều kiện sau: Một là phải được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Đức Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay, mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người.
Nhờ cùng chết với Đấng Thiên Sai, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người và được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng đời sau.
CHÚ THÍCH:
- C 14-15: + Ni-cô-đê-mô: Một người vị vọng trong dân Do Thái, là thành viên của Công Nghị tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn tìm hiểu về con người và giáo lý của Đức Giê-su, nhưng vẫn trong tâm trạng dè dặt. Sau này ông đã can đảm bênh vực Đức Giê-su trong Công Nghị (x. Ga 7,50-52; 12,32). Và khi an táng Người, ông đã can đảm gia nhập vào hàng ngũ các môn đệ của Đức Giê-su (x. Ga19,39). + Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc: Khi được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, dân Do Thái thay vì biết ơn Chúa và Mô-sê, họ lại kêu ca trách móc khi phải chịu kham khổ. Họ thà quay lại làm nô lệ cho dân Ai-Cập, miễn là hằng ngày được ngồi bên nồi thịt và được ăn uống no nê, còn hơn là được tự do mà bị đói khát thiếu thốn giữa nơi sa mạc hoang vu. Chúa đã trừng phạt họ về tội vô ơn bạc nghĩa ấy. Họ đã bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Bấy giờ họ mới hồi tâm sám hối và cầu xin Mô-sê để chuyển cầu xin Đức Chúa tha tội. Đức Chúa đã tha và truyền đúc tượng một con rắn bằng đồng, treo lên cây cột để ai bị rắn cắn mà tin cậy vào tình thương tha thứ của Đức Chúa qua việc nhìn lên con rắn đồng này, thì sẽ được cứu sống (x. Ds 21,8-9). + Con Người: là một hình ảnh được ngôn sứ Đa-ni-en nhìn thấy trong giấc chiêm bao. Con Người nói đây là một nhân vật được Đức Chúa tuyển chọn và trao cho sứ mệnh cai trị muôn dân trong sự công minh chính trực (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su nhiều lần đã tự xưng là Con Người theo nghĩa này (x. Mt 8,20; 12,32). + Cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời: Đức Giê-su đã tiên báo Người sẽ được nâng lên khỏi mặt đất, hay bị treo trên cây thập giá, giống như con rắn đồng thời Mô-sê xưa, để giao hòa tội nhân với Đức Chúa và nên dấu chỉ ơn cứu độ cho loài người. Người cũng được nâng lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là được tôn vinh trong Thiên Chúa (x. Ga 3,13; 6,62), để kéo mọi tín hữu lên trời hưởng hạnh phúc với Người (x. Ga 8,28; 12,32-34).
- C 16-18: + Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một: Thánh Gio-an đã khẳng định nhiều lần: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Người thể hiện tình yêu qua việc ban Con Một yêu dấu cho thế gian. Thế gian chính là mọi loài thụ tạo, đặc biệt là loài người. Sự ban tặng này, gợi lên hình ảnh tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã vâng lời Đức Chúa, đem hiến dâng con trai độc nhất là I-sa-ác để làm của lễ toàn thiêu tiến dâng Đức Chúa (St 22,2-13). + Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: Điều kiện để được ơn cứu độ là phải tin vào Đức Giê-su - Con Một Thiên Chúa, là Đấng ban ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ là ơn tha thứ mọi tội lỗi, xóa bỏ hình phạt đáng chịu vì tội, và saư này được sống lại trong ngày tận thế để được hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời với Chúa. + Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án: Tin ở đây là chấp nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Tin cũng là vâng nghe lời Người mời gọi, là từ bỏ mọi sự mà vác thập giá bước theo chân Người. Tin đòi ta phải kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su để sống tình yêu thương đối với tha nhân, giống như cành nho chỉ phát sinh hoa trái nếu được tháp nhập vào thân cây nho và hút được nhựa sống từ thân cây chuyển sang cho (x. Ga 15,4). NÓI CÁCH KHÁC: Tin là sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Những ai đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su như vậy thì không bị kết án nữa vì họ đã được Người chịu chết đền tội thay cho rồi. + Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa: Không tin là từ chối Chúa, là không sống trong ơn nghĩa với Chúa. Đây là những kẻ thù ghét Đức Giê-su và chống lại Hội Thánh của Người. Vì kẻ không tin không được dự phần vào ơn cứu độ của Đức Giê-su, nên tội và án phạt của họ vẫn còn đó. Vì không tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, nên họ sẽ không được cứu độ nhờ Danh Người (x. Pl 2,9-11). Như vậy, những kẻ không tin đã tự loại mình ra khỏi Ơn Cứu Độ của Đức Giê-su.
- C 19-21: + Ánh sáng đã đến thế gian: Đức Giê-su là “Vầng Đông soi sáng” (x. Lc 1,78-79; 2,32) là “ánh sáng đích thực” đã đến thế gian và chiếu soi mọi người (x Ga1,9). Người đã tự ví mình là “Ánh Sáng thế gian” để ai theo Người thì sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống đời đời (x. 9,5). Những ai tin vào Danh Người thì không phải chết và không bao giờ bị hư mất (Ga 12,46). + Người ta thích bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa: Thánh Phao-lô giải thích lý do người ta thích bóng tối hơn ánh sáng là do tội bất phục tùng của nguyên tổ A-đam nên tội lỗi đã nhập vào thế gian, và tội là nguyên nhân dẫn đến sự chết (x. Rm 5,12). Tội nguyên tổ làm cho con người dễ chiều theo bóng tối hơn ánh sáng. Thánh Phao-lô cũng thú nhận như sau: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). + Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách: Bóng tối và ánh sáng luôn xung khắc nhau. Ánh sáng đi đến đâu thì sẽ xua tan bóng tối. Người đời thường ưa thích bóng tối là các đam mê tội lỗi hơn là ánh sáng của sự khiêm hạ phục vụ tha nhân. Họ không chấp nhận ánh sáng là Đức Giê-su và còn xuyên tạc các việc tốt Người làm (x. Mt 9,33-34). Họ rình để bắt lỗi từng lời nói việc làm của Người để tố cáo Người (x. Mc 3,2). Cụ thể là phái Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, đã liên minh với nhau để tìm cách triệt hạ Người (x. Mc 3,6). + Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa: Những người ăn ở lương thiện và công minh chính trực, thì dễ dàng tìm thấy chân lý và sẵn sàng đi theo ánh sáng soi đường là Đức Giê-su. Nhờ đó họ sẽ làm được nhiều việc tốt theo thánh ý Thiên Chúa.
CÂU HỎI: 1) Hãy cho biết đức tin vào Đức Giê-su của ông Ni-cô-đê-mô diễn tiến thế nào? 2) Con rắn trong sa mạc thời kỳ Xuất Hành của Cựu Ước, liên quan thế nào với việc Đức Giê-su chịu chết trên thánh giá thời Tân Ước sau này? 3) Ngày nay muốn được hưởng ơn cứu độ do Đức Giê-su thiết lập, các tín hữu cần những điều kiện nào? 4) Tin vào Con Thiên Chúa cụ thể đòi chúng ta phải làm gì? Tin như vậy ta sẽ được lợi ích nào? 5) Hình phạt dành cho những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giê-su sẽ như thế nào? 6) Đức Giê-su đã nói câu gì để mặc khải Người là ánh sáng? Tại sao người đời lại thích bóng tối hơn ánh sáng do Đức Giê-su đem lại? 7) Ai đi theo ánh sáng của Đức Giê-su thì sẽ được những ơn ích nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,15)
2. CÂU CHUYỆN: Rắn đồng trong sa mạc
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô vào lúc đêm tối, Đức Giê-su đã đề cập đến con rắn đồng đã được Mô-sê treo trên cây cột, như một biểu hiệu tình thương của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của dân Ít-ra-en. Tình thương ấy sẽ còn được biểu lộ qua việc Đức Giê-su bị giương cao trên cây thập giá, để những ai tin nơi Người, nhìn lên cây thập giá là biểu hiệu tình yêu tột đỉnh của Người, thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người cứu độ và được tham phần sự sống muôn đời của Người (Ga 3,14-15). Thánh Gio-an đã tóm kết như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
3. SUY NIỆM:
1) Thiên Chúa yêu thế gian nên đã sai Con Một xuống cứu độ thế gian:
Đã từ lâu, hình ảnh một con rắn cuộn tròn quanh một cây gậy cũng được ngành y dược thế giới chọn làm biểu tượng của khoa chữa bệnh cho con người. Hình ảnh ấy xem ra cũng rất phù hợp với ý nghĩa của con rắn đồng thời Mô-sê, được treo trên cây cột để chữa lành những ai phạm tội nà bị rắn cắn được khỏi chết. Tuy nhiên chỉ có Đức Giê-su, Đấng đã hiến thân chịu treo trên thập giá, mới thật là linh dược chữa lành mọi bệnh hoạn thể xác và linh hồn của chúng ta.
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau: Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ vâng theo ý Chúa Cha đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang”, Đức Giê-su đã chịu khổ hình thập giá để đền tội thay loài người và trở thành Đấng trung gian hòa giải loài người với Thiên Chúa.?2) Điều kiện để nhận được ơn cứu độ của Chúa Giê-su:
Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ phải hội đủ mấy điều kiện sau: Một là khiêm tốn nhận mình là tội nhân để ăn năn sám hối và chịu phép rửa tội tái sinh làm con Thiên Chúa nhờ Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Chúa Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải sẵn sàng “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi con đường hẹp leo dốc của Chúa Giê-su”.
Nhờ cùng chết với Chúa Giê-su, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người là được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.?3) Tin và đi theo con đường thánh giá của Chúa Giê-su:
Cũng như khi bị mắc bệnh nan y, nếu muốn được khỏi bệnh, ta phải đến xin thầy thuốc khám bệnh để tìm nguyên nhân và cho thuốc điều trị. Bệnh nhân chỉ được khỏi bệnh nếu tin vào khả năng của thầy thuốc khám bệnh, nhận toa thuốc và uống thuốc đúng như liều lượng. Cuối cùng còn phải nghe theo lời khuyên của bác sĩ để tránh nguyên nhân gây bệnh về sau. Cũng vậy, khi chúng ta phạm tội mà muốn khỏi bị chết về tâm linh, ta cần tin vào Chúa Giê-su, đi theo đường thánh giá, năng nhìn lên Chúa bị treo trên thánh giá để cầu xin ơn tha tội noi gương người trộm lành xưa (x. Lc 23,40-43). Chắc chắn chúng ta sẽ được ơn Chúa cứu độ và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.?4) Phải làm gì để được ơn tha tội và chừa bỏ thói hư?:
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại để biết mình đang sống trong ánh sáng hay đang ở trong bóng tối sự chết? Chúng ta hãy đến bệnh viện của Chúa là Hội Thánh để kiểm tra sức khỏe tâm hồn, để được Chúa Giê-su chữa lành bênh tật thói xấu là mối tội đầu. Một tác giả vô danh đã kể về cuộc kiểm tra sức khỏe tâm linh của ông ta nơi bệnh viện của Chúa và đã được ơn Chúa chữa lành như sau:?- Đầu tiên khi đo huyết áp cho tôi, bác sĩ Giê-su cho biết tôi bị bệnh thiếu máu Đức Tin và Lòng Bác Ái. Và khi cặp độ, nhiệt kế báo hiệu tôi đang bị sốt cao Ích Kỷ lên tới 40 độ cần phải cấp thời được điều trị.
- Điện tâm đồ chỉ ra rằng trái tim của tôi thiếu những rung động Tình Thương, chứng huyết áp cao do mạch máu bị tắc nghẽn vì lớp cholesterone Ganh Ghét và có nguy cơ bị đột quỵ bất cứ lúc nào.
- Tới khoa xương khớp, tôi đã tìm ra nguyên nhân tại sao chân tay của tôi lại hay bị đau nhức khiến đi đứng khó khăn, là do Mỡ Tự Mãn trong máu lên khá cao và chất đạm axit uric do ăn uống thiếu điều độ cũng tăng gấp đôi mức an toàn, nên bị cục Gút ở khuỷu tay rất khó cử động bình thường. Cũng vì thế mà tôi không thể “Đi Bước Trước” để mỉm cười bắt tay người mới gặp hay cố gắng bắt chuyện làm hòa với bà chị dâu khó tính luôn nói hành nói xấu tôi.
- Chứng cận thị Tham Lam làm mờ mắt khiến tôi đánh giá tha nhân dựa trên dáng vẻ bề ngoài như nhà cửa, xe cộ, quần áo… thay vì nhìn vào bản chất và động cơ ẩn giấu trong tâm hồn họ.
- Do quen nghe những tiếng ồn ào của quán nhạc Ka-ra-ô-kê nên một bên tai tôi đã bị Điếc Nặng, không còn nghe được hay muốn nghe những lời tâm sự của những người bất hạnh.
Tôi đã được bác sĩ Giê-su tận tình khám bệnh miễn phí do Lòng Thương Xót. Người đã cho tôi một toa thuốc gồm hai loại thuốc đặc trị là Lời Chúa và Thánh Thể, đồng thời khuyên tôi thực hành vật lý trị liệu là Thao Luyện Tâm Linh và làm Công Tác Bác Ái thăm viếng tha nhân.
Tôi quyết tâm trong Mùa Chay này sẽ chữa bệnh theo toa thuốc của Chúa như sau:
Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tôi sẽ dùng ngay một ly nước Tạ Ơn Chúa. Trong bữa điểm tâm, tôi uống thêm một thìa súp Nụ Cười Thân Thiện và Chào Hỏi những người tiếp xúc.
Ở cơ quan làm việc, lợi dụng các giờ nghỉ giữa giờ, tôi làm các động tác vật lý trị liệu là Nghĩ Đến Người Khác và Đáp Ứng Nhu Cầu của họ. Trong bữa trưa, tôi không quên uống thêm viên thuốc Nhẫn Nại Chịu Đựng. Buổi tối về nhà, tôi không quên vận động tay chân bằng cách giúp người thân làm các việc nhà biểu lộ Tình Thương Cụ Thể. Rồi trước khi đi ngủ, tôi uống thêm thuốc Sám Hối Tạ Ơn và Cậy Trông Phó Thác trong tay Chúa quan phòng.
4. THẢO LUẬN: 1) Khi nào ta phạm tội với Thiên Chúa và tha nhânvà phân biệt Tội nặng nhẹ về giống tội, về mức độ phạm và về hình phạt? 2) Có khi nào người ta chỉ phạm tội bằng lời nói mà vẫn có tội nặng hay không? Nêu ví dụ tội nặng về lời nói, việc làm hay bỏ việc phải làm. 3) Khi ý thức mình đã phạm tội, chúng ta cần làm gì noi gương người phụ nữ tội lỗi (x Lc 7,47) hay ông Phê-rô (x Lc 22,61-62), để sớm được giao hòa với Chúa?
5) NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Chúa đã yêu thương chúng con đến cùng, nên đã ban Lời Chúa cho chúng con và dạy chúng con biết cách ăn ở thế nào để nên con thảo của Chúa Cha, và anh chị em của mọi người. Chúa cũng ban bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đức tin trong cuộc hành trình về Nhà Cha trên trời. Chúa còn ban chính mạng sống mình, chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng con. Để mỗi lần lỡ sa ngã phạm tội, chúng con biết tin thác vào tình thương của Chúa và nhìn lên Thánh giá, để xin ơn tha thứ. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con năng suy niệm chặng đàng Thánh giá, chăm chỉ đến nhà thờ suy ngắm mười lăm sự thương khó, tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay để cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và quyết tâm chừa cải các thói hư. Nhờ đó, hy vọng chúng con sẽ được biến đổi nên người mới, thành con yêu dấu của Chúa Cha, môn đệ thực sự của Chúa và nhiệt tình làm việc tông đồ là làm chứng cho tình thương của Chúa với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
16.Ánh sáng và bóng tối--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
***
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
***
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen.
17.Tình yêu lớn nhất--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).
18.Thế gian được cứu độ nhờ Người--Lm. Trầm Phúc
Có những lời chúng ta không thể quên, nó xoáy vào trong quả tim thịt máu của chúng ta làm chúng ta sững sờ vừa vui sướng. Có những câu nói mang lại niềm vui bất tận. Hôm nay, chúng ta cũng nghe được một lời như thế: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban người Con Một cho trần gian”. Có lời nào êm đềm hơn không? Chúng ta có cảm thấy hương vị ngọt ngào đó thấm sâu vào tim ta không? Thật huyền diệu! Nếu chúng ta không cảm thấy gì, hãy đọc lại từng chữ, nhiều lần, chúng ta mới cảm thấy cả một vùng trời yêu thương mở rộng trước mắt chúng ta, chúng ta sẽ nghe thấy cả một điệp khúc yêu thương trào tràn trong tim.
Không thể tưởng tượng được! Chúng ta được yêu thương đến mức độ như thế! Chúng ta làm sao cảm tạ ơn Cha trên trời cho xứng được! Chúng ta đo được tình yêu của Cha trên trời đối với chúng ta không?
Thế nhưng chúng ta đã làm gì cho người Con Một yêu quí đó? Chúng ta đã giương cao Ngài lên cây thập giá như xưa, trong sa mạc, Môsê đã giương cao con rắn bằng đồng để nhờ đó những người bị rắn lửa cắn được chữa lành. Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện này để nói cho chúng ta biết, Ngài như con rắn đồng xưa kia trong sa mạc. Sách Dân số kể lại: Dân Do Thái mệt mõi vì nắng nóng và thiếu nước uống, dân đã kêu trách Thiên Chúa, và Chúa đã cho một bầy rắn từ núi bò ra cắn chết một số người. Dân đến kêu cứu với ông Môsê, xin ông cầu nguyện để Chúa cất tai họa đi. Môsê cầu khẩn Chúa và Chúa bảo làm một con rắn bằng đồng treo trên một cây gỗ và khi ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn thì sẽ được khỏi. Chúa Giêsu nói: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Con rắn đồng xưa được nhắc lại như một hình ảnh báo trước cây thập giá: “Con Người cũng phải được giương cao như vậy”.
Người Con Một của Chúa Cha được trao ban cho chúng ta như một món quà tặng của tình yêu, chúng ta mang đóng đinh Ngài vào thập giá! Thật là điên rồ về phía chúng ta, nhưng cũng là sự điên rồ của Thiên Chúa. Điên rồ vì tại sao lại ban người Con Một yêu dấu cho một lũ tội nhân để họ đóng đinh Ngài, giương cao Ngài lên?
Một luồn thần học cổ điển xưa cho rằng Chúa Cha trong sự công thẳng của Ngài, đòi hỏi phải có một sự đền bù cân xứng vì tội nguyên tổ, vì thế Chúa Cha phải cho Chúa Con đến đền tội cho loài người mới xứng hợp với sự phản bội của Ađam. Không thể nói là sai nhưng như thế làm như Chúa Cha là một quan toà hơn là một người cha. Nhiều nhà thần học khác không nghĩ như thế mà ngược lại nghĩ rằng, Chúa Cha là tình yêu vô biên, Ngài thương nhân loại đến mức độ Ngài phải cùng đau khổ với con người bằng cách ban cho con người đứa Con Một yêu dấu của Ngài, vì thế Ngài cũng đau cùng với Chúa Con và cho con người. Như thế, chúng ta thấy câu nói của Chúa Giêsu diễn tả tình yêu của Chúa Cha và của cả Chúa Con.
Nếu hiểu như thế, chúng ta mới thấy thấm thía, chúng ta mới hiểu được hạnh phúc của chúng ta vì được yêu thương đến như thế. Tình yêu của Chúa vượt hẳn tất cả những tư tưởng của con người, vì thế thánh Phaolô dám nói: “Chúng tôi rao giảng một Chúa Kitô chịu đóng đinh, một vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với người ngoại đạo”. Người tử tội mang tấm bảng viết bằng ba thứ tiếng: Giêsu Nadaret, Vua Do Thái, với cạnh sườn mở toạt ra, là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua một con người bằng xương bằng thịt. Chỉ có tình yêu của Ngài đạt tới đỉnh cao đó mới cho thấy chiều sâu rộng của tình yêu Thiên Chúa là Cha nhân từ. Nhân từ đến mức độ không tiếc gì với loài người.
Cái chết nhục nhã của Chúa chúng ta không chấm dứt mọi sự như cái chết của chúng ta mà là một cuộc khởi đầu cho một cuộc sống vĩnh hằng. Như con rắn xưa trong sa mạc được giương cao, chữa lành vết thương do rắn cắn, thì hôm nay, Chúa Giêsu được giương cao để chữa lành vết thương tâm hồn chúng ta, cũng do con rắn là ma quỷ, nhưng với điều kiện là tin vào Ngài.
Người Con Một của Chúa Cha được ban cho chúng ta, Chúa Cha đã giương cao Ngài lên trên thập giá và nhờ đó hễ ai tin vào Ngài thì sẽ khỏi chết và được sống muôn đời. Người Con Một được ban cho chúng ta là để nhờ Ngài, chúng ta được sự sống mới trong tình yêu của Chúa Cha.
Từ giương cao được nhìn từ hai khía cạnh. Giương cao lên thập giá tức là Chúa Con phải chịu khổ hình và chịu chết cho con người. Cái chết đau thương đó chính là nguồn mạch sự sống, vì nơi Ngài chúng ta được hưởng ơn tha thứ nhờ lòng tin. Thánh Phaolô, trong các thư Galat, Êphêsô, Rôma đều nói đến lòng tin. Chúng ta được cứu thoát khỏi tội và được trở thành con Thiên Chúa là nhờ lòng tin: “Chính nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”.
Vấn đề quan trọng là tin hay không tin. Sự sống muôn đời là do niềm tin. Nếu chúng ta tin, chúng ta sẽ được sống và không bị lên án. Dân Do Thái đã không tin nên đã mất đi tất cả và đã trở thành nô lệ cho ngoại bang. Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, mang lại nguồn sống mới, nhờ Ngài được giương cao trên thập giá. Tin vào Ngài, chính là đặt nền tảng cuộc sống chúng ta không phải trên sự tài giỏi hay công nghiệp riêng mà đặt trên tình yêu của Ngài.
Giương cao đứng trên bình diện khác, là được phục sinh và lên trời vinh hiển. Chúa Giêsu chịu chết đau thương nhục nhã, không là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài đã sống lại vinh hiển, đã toàn thắng sự chết và tội lỗi và chiến thắng đó chính là chiến thắng của chúng ta, vì Ngài chết cho chúng ta, sống lại cho chúng ta. Chúng ta thuộc về Ngài. Từ nay chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta… Chúng ta trở thành tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống và thực hiện công trình tốt đẹp của Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta. Như thế, chúng ta trở thành con cái của ánh sáng. Những việc chúng ta làm sẽ được tỏ bày trong ánh sáng. Thánh Gioan luôn nói đến ánh sáng và bóng tối. Đối với ngài, Chúa Giêsu là Ánh sáng thật chiếu soi vào bóng tối trần gian. Nhưng bóng tối đã không tiếp nhận ánh sáng, thế gian đã yêu bóng tối hơn ánh sáng, vì những việc của thế gian đều xấu xa.
Dù Chúa Giêsu đã mang lại ánh sáng cho chúng ta, nhưng chúng ta có thành ánh sáng như Ngài mong ước chưa? Những việc chúng ta làm có thực sự là ánh sáng chưa? Chúng ta có thực sự sống cho Chúa chưa?
Mùa Chay là lúc thuận tiện để chúng ta có dịp đối thoại với Chúa sâu xa hơn và tìm lại nguồn ánh sáng chúng ta đang cần, để tâm hồn và đời sống chúng ta tươi sáng hơn, xứng đáng với tình yêu Chúa hơn. Chúng ta chỉ là lữ hành trên trần gian, những bước đi nhọc mệt của chúng ta hôm nay sẽ dẫn chúng ta về miền ánh sáng của Chúa, dù quanh ta, bóng tối đang dầy đặc, đôi khi cũng làm chậm bước chân, nhưng tin tưởng, chúng ta không nản lòng. Chúng ta sở hữu Người Con Một thì không có gì có thể làm chúng ta nao núng. Chúng ta đang đi trong tình yêu của Cha chúng ta. Khó khăn nhọc mệt chỉ là giai đoạn, vì Chúa chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ xin cho chúng ta dám tin Ngài đến cùng.
Trên con đường lữ khách, chúng ta vẫn được Chúa chăn nuôi giữ gìn và chính Ngài lại ban cho chúng ta một thứ lương thực hằng sống là Mình thánh Ngài. Thật tuyệt diệu! Hãy đến với Ngài với tất cả niềm tin, ăn lấy của ăn thần linh đó, chúng ta có thể bước đi mãi mà không sợ sệt cho đến ngày chúng ta chỉ còn là một trong tình yêu vô biên của Ngài.
19.Tin thì được sống--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy. Hình ảnh này được bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp và truyền thuyết "Con giun". Bên cạnh đó, biểu tượng này còn có nguồn gốc từ một câu chuyện được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước khi dân Dothái trên đường trở về Đất Hứa (x. Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, kết thúc phần hội thoại với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã nhắc tới sự kiện này như tiền đề cho một chủ đề lớn, đó là cái chết và ơn cứu chuộc do Ngài mang lại ngang qua thập giá, để qua đó, những ai ngước nhìn và tin thì sẽ được cứu độ.
1. Sự liên hệ giữa con rắn đồng và Đức Giêsu
Khởi đi từ việc Đức Giêsu đem chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (x. Ds 21,4-9).
Để hiểu được ý nghĩa của việc Đức Giêsu so sánh trên, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, để làm toát lên hình ảnh tiên trưng về Đức Giêsu sau này.
Câu chuyện về con rắn được tác giả sách Dân Số trình thuật rằng: vì yêu thương, Thiên Chúa đã nghe được tiếng ai oán của dân bên đất Aicập kêu than do nỗi thống khổ của họ phải chịu bởi những tên cai của nhà vua Aicập hành hạ…!
Trước cảnh tượng đó, qua Môsê, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ, để dẫn họ về Đất Hứa. Tuy nhiên, trên đường, họ đã nổi loạn, kêu trách nặng lời với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã không cho họ được đi trên con đường thẳng để tiến vào Đất Hứa (x. Ds 14,25. 33). Người cũng không cho bất kỳ một ai trong đám dân này được đặt chân vào đó! Hơn thế, Người đã cho rắn độc trong sa mạc tiến ra và cắn chết nhiều người!
Thấy vậy, dân chúng đã van nài Môsê kêu cầu lên Thiên Chúa để xin tha thứ vì sự phản bội, vô ơn mà họ đã chót phạm, đồng thời, xin Người ra tay cứu sống cho những người bị rắn cắn. Môsê đã thay mặt cho toàn dân để chuyển cầu lên với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông làm con rắn treo lên cây cột, nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì liền được sống. Ông Môsê đã làm như vậy và nhiều người đã được sống nhờ nhìn lên con rắn này.
Con rắn đồng chính là biểu tượng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và cụ thể là hình ảnh báo trước về chính Đức Giêsu bị treo trên thập giá sau này!
Qua câu chuyện trên, Thiên Chúa muốn dạy cho dân một bài học nhớ đời, đó là: vô ơn, bội nghĩa và đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa thì sẽ phải chết. Ngược lại, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Người, thì sẽ được sống.
Khi nhắc lại biến cố này trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu muốn cho ông hiểu rằng: cần phải có một bước tiến cụ thể, rõ ràng, xác quyết với niềm tin, chứ không phải khơi khơi bề ngoài hay phụ thuộc vào kiến thức mà mình có. Những thứ đó chỉ làm cho ông thỏa mãn sự hiếu tri mà thôi. Vì thế, nó không thể đem lại cho ông ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc chỉ đến với ông khi ông nhận thức về tội lỗi của mình; cảm nghiệm và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa và ơn cứu chuộc ngang qua chính Người Con của Người qua mầu nhiềm thập giá (x. Ga 3,15).
2. Ý nghĩa Lời Chúa với đời sống đức tin của chúng ta
Qua câu chuyện và những mặc khải của Đức Giêsu cho ông Nicôđêmô, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến đời sống đức tin của mình ngang qua những cảm nghiệm sau:
Trước hết là ý thức về thân phận yếu đuối của mình:
Cuộc sống của chúng ta không thiếu gì những bất toàn. Chính vì những yếu đuối do bản tính của con người, nên chúng ta dễ hướng chiều và làm theo sự tội. Vì thế, tội lỗi đã làm cho con người đau khổ, thất vọng, nhất là nó nhấn chìm và làm cho chúng ta mất ơn cứu chuộc.
Lời mời gọi nhìn lên con rắn đồng là hình ảnh và cũng là lời mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô, để ý thức mình tội lỗi và cần được cứu chuộc.
Thật vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Chúa chịu đóng đinh, hẳn ai cũng cảm thấy thật xấu hổ, bởi vì do tội lỗi của chính mình mà Con Thiên Chúa quyền năng lại phải chịu treo trần trụi trên Thánh Giá như một kẻ tử tội…!
Khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng ta hiểu được ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu và chúng ta sẽ không thể không sám hối ăn năn, bởi vì nơi ấy, Đức Giêsu đã gánh lấy hết tội lỗi của nhân loại để cho con người được sống và sống dồi dào.
Thứ đến, là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa:
Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta nhớ lại lời Kinh Thánh đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thật vậy, tội lỗi của con người rất nặng nề, khiến chúng ta chắc chắn phải chết, nhưng Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn khi trao ban chính con của Người đến để yêu và yêu đến cùng. Tình yêu ấy được chứng minh bằng cái chết trên thập giá. Qua đó, Đấng chịu treo trên thập giá mặc khải cho chúng ta hiểu rằng: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13
Như vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu nơi cái chết của Ngài thật lớn lao vô kể….
Cuối cùng, nhìn lên Thánh Giá Chúa để chúng ta được cứu chuộc:
Khi đã phạm tội, con người không thể tự thân cứu chuộc được mình. Cũng như những người Dothái xưa, khi đã phạm tội và bị rắn cắn, họ không còn có thể tự cứu được mình khỏi chết, mà chỉ còn cách, đó là: nhìn lên rắn đồng thì mới được cứu sống.
Chúng ta cũng cùng chung số phận, nên khi phạm tội, con người không thể nào đụng chạm được ơn giải thoát nếu không có lòng thương xót của Thiên Chúa!
Như vây, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với Đấng chịu treo trên đó, chúng ta sẽ nhớ lại những tội lỗi do yếu đuối của mình đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời, biết cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn ăn năn, tin tưởng vào hiệu quả của Đấng chết thay cho nhân loại được cứu chuộc.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng gánh tội và cứu chuộc trần gian.
Khi tin vào Đức Giêsu tuyệt đối, chúng ta được mời gọi đi trên con đường mà Ngài đã đi để được cứu chuộc. Con đường ấy là: tự hủy, yêu thương và vâng phục. Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi thuộc về Đức Giêsu là Ánh Sáng, khi sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống và khước từ những thứ thuộc về bóng đêm của tội lỗi như: ích kỷ, kiêu ngạo, khoe khoang, bất hòa, chia rẽ….
Tuy nhiên, muốn được tiếp bước trên con đường của Đức Giêsu và thuộc về Ngài là Ánh Sáng, chúng ta phải sống Lời Chúa mời gọi cụ thể trong Mùa Chay này, đó là: hãy sám hối, ăn năn và canh tân đời sống….
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo chúng con lên với Chúa để được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Amen.
20.Giương cao con rắn--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an - người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.
21.Nào ta hãy mừng vui--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
"Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... ".
Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay. Làm sao không thể vui mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, " Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên " (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Vì tội lỗi của dân mà đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ "được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ" (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23). Đoạn Tin Mừng Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài... để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ" (Ga 3,16-17).
Thiên Chúa đã dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để được hạnh phúc.
Vui vì được yêu thương và được cứu
Chúng ta đang ở tuần thứ IV trên hành trình tiến về lễ Phục Sinh, hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong "hoang địa". Đây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng là để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định: "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14-15). Lời trên nhắc lại cuộc xuất hành của người Do thái từ đất Ai Cập. Trong hành trình, một số người bị rắn độc cắn và bị chết. Khi ấy, Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môisê làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây sào: ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa lành (x. Ds 21,4-9). Ám chỉ Đức Giêsu sẽ được giương cao trên thập giá để bất cứ ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ, đúng như Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Theo thánh Âugustinô thì: "Người thầy thuốc là người đến để chữa bệnh. Nếu người bệnh không tuân theo đơn thuốc và chỉ dẫn của thầy thuốc, anh ta tự làm hại mình. Đấng Cứu Thế đến thế gian...nếu anh không muốn được Ngài cứu chuộc, anh tự phán xét chính mình" (Sul Vangelo di Giovanni, 12,12: PL 35, 1190). Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội cho con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình. Thực vậy, mỗi người phải nhận biết tình trạng bệnh tật của mình để được cứu chữa; từng người phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá, hiện thực trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người. Thánh Âugustinô viết tiếp: "Thiên Chúa lên án tội lỗi và nếu anh cũng làm tương tự, anh được hiệp thông với Thiên Chúa. Khi anh bắt đầu tách mình khỏi những gì đã làm, khi đó anh khởi sự nhưng việc tốt lành bởi đã từ bỏ những việc bất chính. Nên hoàn thiện bắt đầu từ việc nhận ra những sai sót của mình."
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ánh Sáng đã đến thế gian, nhưng nhiều người ưa thích đêm tối hơn là ánh sáng. Có biết bao nhiêu đen tối ở trên thế giới hiện nay, những đám mây của sự dữ vẫn còn bao phủ trên mặt đất này. Những vụ thảm sát tàn bạo tại Irắc và Siria, những cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc, lòng tham lam làm hoen ố con tim, đưa đến cảnh bóc lột người nghèo, lòng tham vơ vét khai thác các tài nguyện không nghĩ gì đến các thế hệ tương lai; bên cạnh đó là tính ích kỷ khiến con người khép kín, trở nên vô cảm đối với Thiên Chúa và tha nhân, thay vì những lý tưởng cao thượng của quảng đại và từ bỏ, thì người ta đi tìm khoái lạc, hưởng thụ, tìm hạnh phúc qua xì ke, dâm đãng, đưa đến cảnh huỷ hoại gia đình, tàn sát các bào thai, gạt bỏ người già và em nhỏ.
Để chống lại não trạng trên, Sứ điệp Mùa Chay năm nay có chủ đề là xóa bỏ sự "thờ ơ toàn cầu hóa". Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước: " Nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ" (Sứ điệp MC 2015). Dửng dưng với Thiên Chúa và đồng loại là điều cần phải loại bỏ trong xã hội hiện đại hôm nay. Chúng ta cần tạo ra một não trạng mới coi tha nhân như là anh chị em đáng được yêu thương tôn trọng và giúp đỡ trên cuộc hành trình tiến đến tự do, sự sống và hy vọng.
Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. Giữa biển cả thờ ơ của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo hội sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót.
22.Nhìn lên Thánh Giá--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ.
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: " Hãy khôn ngoan như con rắn!" (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21, 4-9).
Trong truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho con người.
Biểu tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh "con rắn đồng được giương cao" với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống". Ông Môsê "làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống" (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Và đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi". Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ "treo lên"; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống". Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự sống nhân tính, mà "sự sống vĩnh cửu". Ân huệ vô biên đó là do: "Thiên Chúa yêu thương".
Khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
1. Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi.
Đức Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: "Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. " (2Pr 2,24a). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống "Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành" (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
2. Tin vào tình thương của Chúa.
Con người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống. Thiên Chúa "yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời". Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi "trao ban". Điều quí nhất của Người Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: "Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người". Người đã tự nguyện chết cho con người được sống: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu"; "Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và diệu kỳ.
3. Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá trong thi ca.
Có những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo: thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường. Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm. Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá?
Không biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. "Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
Thánh giá, tình yêu tự hiến
Thánh giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một" (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Thánh giá, tình yêu dâng hiến
"Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:"Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta". Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và người đội trưởng thốt lên: "Qủa thật người này là Con Thiên Chúa", vì họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu, nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.
23.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
TẠI SAO “CON NGƯỜI CŨNG SẼ PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO NHƯ VẬY”?
Sách Dân Số (21, 4b-9) kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.
Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).
Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.
Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.
1- Núi Nebo
Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.
Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, ysaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó!. Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).
Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.
Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.
Ngày 20/03/2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.
Ngày 9/5/2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.
Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14).
Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.
2. Tại sao lại treo con rắn?
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.
3. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.
Sách Dân Số (21,9) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa
Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Người “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
4. Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.
Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.
Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.
24.Hãy đến cùng ánh sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Nicôđêmô:
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có thời cơ hành động.
Đêm đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế nên Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19-20)
Trong khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá nên xứng danh con người.
Giai thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội dung nầy.
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
* * *
Qua Tin Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Và Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh sáng."
Xa lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối.
Xin cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần "đèn".
25.Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
* * *
Cuộc đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống.
Ngày nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác, đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
"Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Thiên Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi, không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi, Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời." (Ep 2, 4-6)
Thế là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời".
Thật là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.
26.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín vững chắc rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế giới đau khổ bệnh tật này qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Chúa Giêsu nói với ông cụ Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sự sống vinh cửu."
Tình yêu chúng ta đối với tha nhân không phát xuất từ đâu khác hơn là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này bao la bát ngát đến nỗi Ngài hiến tặng mạng sống mình cho tất cả, chẳng loại trừ ai... Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đi đó ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
Chính khi nhìn vào thập tự giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Canvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc tình yêu của Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Nhiều ngôn sứ đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng vẫn hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa. Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xảy ra mỗi khi chúng ta phủ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta cũng phải đối diện với việc chọn lựa đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống chia lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng với tình yêu của Thiên Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Hôm nay chúng ta đã đi được nửa con đường mùa Chay. Đây là lúc chúng ta duyệt xét lại những dốc lòng hồi đầu mùa Chay, và tự hỏi cuộc sống chúng ta đã hân hoan đáp lại tình yêu Thiên Chúa chưa? Tình yêu của Ngài có tìm được cách diễn tả qua nếp sống chúng ta chưa? Chúng ta đang làm gì để mang tình yêu của Ngài vào cuộc đời của bạn bè chúng ta? Mùa Chay là một lời mời gọi chúng ta bước ra khỏi nơi tối tăm của tội lỗi mà bước vào ánh sáng kỳ diệu của Đức Kitô.
27.Yêu đến quên mình--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải đánh đổi cả tính mạng vì yêu.
Có một anh chàng nói với cô gái:
- Nếu mình chia tay em có buồn không?
- Đương nhiên là có
- Buồn đến mức độ nào?
- Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết
- Vậy mình chia tay đi“!
Hóa ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.
Thế nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”.
Thực ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể cả hy sinh tính mạng mình.
Một học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:
- Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?
- Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!
- Nhỏ nói gì với mày?
- Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn”.
Cái chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Đây chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”. Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy ra”. Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc cho người mình yêu.
Thiên Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xem ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
28.Lời xin lỗi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có bà cụ bán vé số tới mời mua, người mẹ nhẹ nhàng mỉm cười và mua cho bà 2 tờ. Bà thấy thằng nhóc kế bên bà nựng nó tí. Thế là nó la lên và hất bà cụ ra tỏ vẻ sợ hãi đứng dậy. Bà mẹ thấy thế xin lỗi bà cụ rối rít. Bà cụ gật đầu và lủi thủi đi trong sự im lặng. Có 1 điều làm tôi khá bất ngờ, nếu đứng ở khía cạnh khác, người mẹ đã la đứa con hay tỏ vẻ khó chịu. Nhưng không, bà mẹ nói với con trai: "Nếu sau này mẹ già mẹ ra ngoài đường bán vé số, bị người ta làm như vậy con sẽ làm gì?". Cậu con trai bối rối im lặng và thủ thỉ xin lỗi mẹ, mai mốt con không làm như vậy nữa. Hai mẹ con mỉm cười và tiếp tục ăn tiếp.
Cách giáo dục của bà mẹ này rất hay, không la con, nói từ tốn nhẹ nhàng nhưng làm cho cậu nhóc đau, và hiểu được những gì mình đã gây ra là không tốt. Người Việt Nam hôm nay rất ngại nói lời xin lỗi. Có thể vì kiêu căng không dám cúi mình nhận lỗi. Có thể là thiếu giáo dục nên không nhận ra cái sai để nói lời xin lỗi.
Nhiều gia đình đang đánh mất hạnh phúc khi vợ sai vẫn cố gào to tiếng để lấn át chồng. To còi là thắng mà! Nhiều người chồng sai vẫn cố dùng thói vũ phu để đè bẹp người khác. Thói gia trưởng mà! Nhiều đứa con sai vẫn cố tình ngang bướng xem thường bố mẹ chẳng bằng tui! Mình giỏi hơn ông bả mà!
Cuộc sống sẽ hóa giải mọi hiềm khích nếu những người sống bên nhau biết nói lời xin lỗi. Đừng để khi đứng trước quan tài người thân mới nghẹn lời nói trong nước mắt. “Con nợ mẹ cha một lời xin lỗi” như bao bạn trẻ mà tôi đã thường gặp...
Thánh Phaolo nói anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoại trừ tình yêu. Nếu xét về tình yêu ta thấy mình còn nợ nhiều. Nợ ai đó một bổn phận, một công việc. Nợ ai đó một trách nhiệm mình chưa hoàn thành. Nợ ai đó một lời xin lỗi vì mình quá thờ ơ. Nợ ai đó một lần phản bội, phụ bạc với người hết mình yêu ta.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho thế gian. Nhưng xem ra chúng ta còn nợ Ngài rất nhiều lời “xin lỗi Chúa” vì những lần xúc phạm đến Ngài, vì những lần không chu toàn bổn phận với Ngài và vì những lần ta phản bội để chạy theo thú vui trần thế.
Thiên Chúa ngàn đời vẫn thế, vẫn yêu là yêu cho đến cùng. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Đồng hãy hãy biết noi gương Ngài là sống yêu thương, sống phục vụ với hết khả năng và trách nhiệm để khi đi đến cuối cuộc đời có thể nói như thánh Phaolo tông đồ: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha” (2Tm 4,1). Xin cho mùa chay thánh này giúp chúng ta sửa đổi và canh tân theo như lòng Chúa mong ước. Amen.
29.Như hoa hướng dương--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát "Tình yêu Thiên Chúa" của nhạc sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ cho rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò nhau giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan hệ không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính đại, phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn che dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất chính và tội lỗi.
Thường tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành. Thế nhưng, "lực bất tòng tâm". Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng tối của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối của giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau trong những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người con gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: "anh yêu em, nhưng đừng cho ai biết". Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái tham tiền nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia. Ở đời vẫn còn đó những mối tình vụng trộm của "chồng chung vợ chạ", của vô luân thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm khắp mọi nơi và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về tội. Nhiều người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con người mất đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng". Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì thiếu ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối cũng đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam - Eva đã rời áng sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và bản án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi. Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?
Chúng ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:
Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
Chứng Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của Chúa.
Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để đẩy lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta. Nguyện xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ, che chở chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen.
30.Phận người yếu đuối và tội lỗi--John W. Martens--Văn Chính, SDB chuyển ngữ
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,17).
Một trong những thời điểm đen tối nhất trong lịch sử dân Do thái chính là việc thành phố Giê-ru-sa-lem và Đền thờ bị những đội quân của đế quốc Babylon phá hủy, rồi tiếp sau đó là cuộc lưu đày sang Babylon. Theo người ghi chép biên niên sử, biến cố này chẳng phải là chuyện mà Thiên Chúa muốn, “nhưng là vì dân chúng cứ tiếp tục nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, coi thường Lời của Người, nhạo báng các tiên tri, cho tới khi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ lên dân của Người, và vô phương cứu chữa.” Chỉ khi đó, quân đội Babylon mới đến tấn công họ.
Quân Babylon ngạo mạn đến đánh chiếm đất Ít-ra-en. Trẻ già đều bị họ giết mà “chẳng chút xót thương, bất kể là phụ nữ, người già hay kẻ yếu đuối”. Tài sản và của cải bị cướp được chuyển hết về Babylon; Đền thờ bị thiêu hủy bình địa, các bức tường của thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ; còn những ai không bị giết thì bị bắt đi lưu đày ở Babylon và trở thành những nô lệ.
Thế rồi bên bờ sông Babylon, họ ngồi than khóc tội lỗi của mình, và Thiên Chúa lại đến với dân Do thái bị lưu đày, và yên ủi họ rằng sẽ đến một ngày họ sẽ được trở về quê hương của mình. Sau khi vua Cyrus của Ba Tư cùng quân đội của nhà vua chiến thắng đế quốc Babylon, dân Do thái được phép quay trở về quê hương của mình để xây dựng lại, và điều này đã “hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa đã nói qua miệng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a”. Thế là dân Do thái đã bước từ nơi tăm tối sang miền ánh sáng.
Chuyện Thiên Chúa đến cứu độ dân của Người như vậy chẳng phải do dân Do thái giờ đây đã biết sống công chính, nhưng vì Thiên Chúa dủ lòng thương xót dân của Người. Qua Ét-ra, Nê-hê-mia và Hắc-gai, chúng ta biết dân Do thái cần phải quay trở về và tuân giữ những lề luật của Thiên Chúa mà đã họ lãng quên, canh tân đổi mới cuộc sống và tái xây dựng lại Đền thờ đã bị phá hủy. Thiên Chúa không chờ đợi cho đến khi họ phải đạt tới một cuộc sống công chính trước đã, nhưng chỉ cần hội đủ những điều kiện để sự công chính có thể nở hoa.
Đây chính là điều mà tác giả thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô đã nói tới. Thánh Phao-lô đã nói về việc Thiên Chúa đến với con người “ngay cả khi chúng ta phải chết vì tội lỗi của mình”. Thiên Chúa đến để ban thưởng cho chúng ta, không phải vì chúng ta đã đạt tới một mức độ công chính cần thiết nào đó, nhưng vì Thiên Chúa xót thương và Người muốn đặt chúng ta “đồng ngự trị trên nước trời với Đức Ki-tô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô”. Tất cả những chuyện này đã xảy ra như vậy là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô viết rằng: “Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa”. Ơn cứu rỗi là một quà tặng, là một ân ban. Vì thế, chúng ta được dạy rằng tất cả chúng ta được cứu độ là “nhờ đức tin” (pistis) vốn tự nó là một quà tặng. Ơn cứu rỗi không thể là chuyện do chúng ta đạt được, do mua bán hay mặc cả được, nhưng đức tin là sự đáp trả thiết yếu về phía con người. Đức tin là “quà tặng nhưng không” của Thiên Chúa, cho phép chúng ta sống đúng theo hình ảnh của Thiên Chúa, vì chúng ta “được tạo dựng trong Đức Giê-su Ki-tô để làm các việc lành (ergois agathois) mà Thiên Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành”.
Trong Tin mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Hạn từ “tin” trong Ga 3,16 ở đây là động từ của “pistis”, cùng một hạn từ được dịch ra là “đức tin” ở trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô. Tất cả những ai tin (pisteuôn) vào Người Con của Thiên Chúa, thì đang làm cho mình trở thành hình ảnh của Thiên Chúa để được thông dự vào sự sống vĩnh cửu, hay theo lối nói của thư Ê-phê-xô, là “đồng ngự trị trên nước trời” với Đức Ki-tô.
Chính Đức tin này cho phép chúng ta (dẫu chúng ta còn sống trong tình trạng tội lỗi) vẫn có thể nhìn ra rằng “sự sáng đã đến trong thế gian” và “những ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động (erga) của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa". Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô thì nói rằng chúng ta được tạo dựng để làm “các việc lành”, trong khi Tin mừng Gio-an lại nói những ai sống trong “sự sáng” thì thực thi “những việc làm” của họ trong Thiên Chúa. Cũng một hạn từ Hy lạp (ergon) được dùng cho “các việc lành” trong thư gửi Ê-phê-xô và “những hành động” trong Tin mừng Gio-an.
Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là ơn mà chúng ta không xứng đáng, lại được khởi sự với đức tin. Nhưng sự đáp trả của chúng ta trước ân ban của Thiên Chúa sẽ được thể hiện qua các việc lành, “để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa.” Những việc làm này tất nhiên không phải để chúng ta xứng đáng được ơn cứu rỗi, nhưng là sự đáp trả trong niềm vui trước ân ban cứu độ do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Suy tư: Bạn hãy suy nghĩ xem cách nào để ân ban nhưng không của Thiên Chúa này sẽ giúp bạn thực hiện được những việc lành.
31.Chuyện thưởng phạt--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Chúa hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh, đặc biệt là Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.
Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,15).
1. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì dễ vái tứ phương”. Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” (Ep 2,8-9)
2. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương. Có thể nói đây là ý chính của phần Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” (Tv 136), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14,5). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,4).
Thiên Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ…không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu (x.Rm 8,39). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.
32.Tin Chúa--Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống có niềm tin là cuộc sống hạnh phúc. Không phải hạnh phúc lúc nào cũng giống nhau. Có lúc ta vui nhiều, lại có lúc ít vui. Có niềm vui dạt dào lại có niềm vui nhè nhẹ, thoang thoảng. Vui dù ít, dù nhiều đều là hạnh phúc, kết quả của niềm tin. Niềm tin nơi mỗi người lại khác nhau. Có người đặt niềm tin trên thành công, kẻ khác trên vật chất, kẻ khác nữa trên danh vọng, kẻ khác dựa vào tôn giáo. Bởi đặt niềm tin khác nhau nên niềm vui cũng đến rồi đi khác nhau. Niềm vui qua mau bởi chính nguồn gốc của niềm tin không vững chắc. Gốc không vững, chắc chắn ảnh hưởng đến ngọn, hoa lá cành. Như thế cần đi tìm một nguồn gốc vững chắc cho niềm tin vì niềm tin bảo vệ hạnh phúc. Niềm tin vạch đường, vẽ ra viễn tượng cho cuộc sống tương lai. Người ta sống thực hiện, mong đạt được giấc mơ của niềm tin. Đạt được ước mơ của niềm tin mang lại hạnh phúc, nguồn vui. Hạnh phúc bền lâu nếu gốc của niềm tin vững chắc. Hạnh phúc mau tàn, chóng qua nếu gốc của niềm tin biến chuyển ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội.
Niềm tin vững chắc là niềm tin tôn giáo bởi niềm tin này cao hơn vật chất nên vật chất dù biến đổi cũng tác hại rất ít đến niềm tin tôn giáo. Có nhiều tôn giáo khác nhau. Về phương diện đạo đức tôn giáo thường có những điểm giống nhau nhưng niềm tin tôn giáo không giống nhau. Căn bản là niềm tin mà niềm tin khác nhau tạo thành tôn giáo khác nhau. Bởi khác biệt về niềm tin nên mới có tôn giáo này, tôn giáo kia. Chính vì khác biệt mà cần chọn lựa, không phải chọn lựa tôn giáo thích hợp cho mình mà chọn lựa tôn giáo có nguồn gốc vĩnh cửu bởi ai cũng đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
Nicodemus sanh ra trong gia đình quí tộc, giầu có, thành công trên đời. Ông chan chứa danh vọng, đầy quyền chức thuộc hàng lãnh đạo. Bao kẻ ước mơ mong sống thử một ngày như ông nhưng không được trong khi đó Micodemusvui với những gì mình có nhưng vẫn thấy thiếu hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc sống đạo đức không thoả mãn ước mơ tâm hồn. Có lẽ ông có cảm tình với Đức Kitô khi Ngài thanh tẩy đền thờ, dùng giây thừng đuổi kẻ buôn bán.
Ba lần ông đến gặp Đức Kitô mong tìm nơi Ngài điều đang thiếu. Lần đầu có lẽ vì sợ tai tiếng, giữa đêm ông gõ cửa xin gặp Đức Kitô. Trong cuộc đối thoại ông không hiểu làm sao người lớn lại có thể tái sanh trong nước hằng sống. Đức Kitô đã mở trí ông. Có thể nói ông được thanh tẩy không phải bằng nước mà chính Lời Chúa soi sáng tâm hồn. Lần thứ hai trước toà ông công khai lên tiếng phản đối cách phán xét, xử án bất công với Đức Kitô. Kêu gọi họ phải tuân thủ luật lệ hiện hành. Lần thứ ba là kinh nghiệm đau đớn nhất. Ông cùng với bạn mình hiện diện tháo đinh Đức Kitô.
Nicodemus hy vọng gì nơi người bị đóng đinh, chết trên thập giá?
Qua cái chết của Đức Kitô mắt ông nhìn thấy ánh sáng chân lí và bắt gặp niềm vui bất diệt nơi Ngài. Tình thương Đức Kitô dành cho những phụ nữ đứng bên đường than khóc làm mềm tim ông. Lòng nhân ái Đức Kitô dành cho kẻ trộm biết thống hối tăng thêm đức tin cho ông. Lòng mến Đức Kitô dành cho bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt thôi thúc tâm hồn ông tin Chúa. Chính ông rủ người bạn quí tộc Joseph of Arimathia đến chôn cất Đức Kitô. Người bạn này dành phần mộ riêng mình cho Đức Kitô. Nocodemus tặng Đức Kitô đủ số lượng mộc dược cho việc an táng.
Nicodemus có được niềm tin không phải lúc Đức Kitô đang lừng danh nhưng lúc Đức Kitô chết đau thương trên thập giá. Chính đau khổ của thập giá mở mắt đức tin ông.
33.Cho là cõi phúc--Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc đời chúng ta vừa học cho vừa học nhận. Nhận để làm giầu và đồng thời cũng là nhận để cho. Nếu chỉ cho mà không nhận hẳn nguồn cho sẽ cạn dần, cuối cùng không còn bao nhiêu để cho. Vì thế cần phải vừa cho vừa nhận. Nói về của cải vật chất trần thế là thế. Tuy nhiên lí luận hợp lí này không đúng với tình yêu, tình thương và lòng mến con người dành cho nhau. Tình yêu, lòng mến, tình người, con người dành cho nhau không bao giờ cạn. Trái ngược hẳn với của cải vật chất trần thế. Trong tình yêu càng cho đi nhiều chừng nào thì nguồn tình yêu càng triển nở chừng đó. Nguồn tình yêu sung mãn đến độ không bao giờ cạn. Nguồn tình yêu khô cạn, héo hắt là nguồn tình yêu tích trữ. Càng tích trữ nguồn tình yêu càng khô cạn. Tựa như giếng nước trong. Một khi không múc nước, nước giếng vẫn không dâng cao hơn, vẫn không tràn đầy trái lại nước giếng trở nên hôi, bẩn, chứa nhiều vi khuẩn trở thành nước giếng tù hãm, ô nhiễm, độc hại. Trái lại nước giếng trong sáng nhờ có người múc nước hàng ngày. Múc cạn hôm sau nước lại tràn đầy. Cứ thế nước giếng đủ nước cung cấp cho cả làng. Mọi người được tươi mát nhờ nước giếng được múc cạn mỗi ngày.
Tình yêu tích trữ chính là tình yêu tù hãm, loại tình yêu ô nhiễm này độc hại vì nó chỉ biết yêu những gì thuộc về nó mà loại bỏ tình yêu không thuộc về nó. Loại bỏ tình yêu khác chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo của loại bỏ chính là tàn phá, giết chết các tình yêu không thuộc về nó. Nguồn gốc của độc tài phát sinh, thúc đẩy bởi loại tình yêu loại bỏ. Những gì không thuộc về nó thì không thể tồn tại. Nếu tồn tại nó không sống yên ổn nên cần loại trừ, triệt tiêu. Nói cách khác tình yêu tích trữ là tình yêu ích kỉ. Bản tính ích kỉ là luôn lo thu quén, gom góp cho chính nó và yêu quí những gì thuộc về nó. Yêu chính nó trên hết mọi sự nên nguồn tình yêu nào không thoả mãn tính ích kỉ đều bị loại trừ.
Trong tình yêu, cho đi chính là làm cho tình yêu triển nở, làm giầu tình yêu bằng cách cho đi. Đây không phải là phí phạm mà chính là tạo cơ hội thuận tiện cho tình yêu nở hoa, kết trái. Hoa trái của tình yêu không thành tựu nơi người cho hay nguồn tình yêu xuất phát. Hoa trái tình yêu thành tựu nơi người lãnh nhận, nơi nguồn tình yêu được trao đến. Dâng hiến, cho đi làm giầu cho tình yêu, tạo cơ hội cho tình yêu đơm hoa, kết trái.Theo nghĩa này trao tặng tình yêu chính là cho sự sống, đổi mới, làm cho tốt hơn. Đây chính là ý nghĩa câu Kinh Thánh,
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban cho Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con sẽ không phải chết nhưng nhận được sự sống trường sinh. Gioan 3,16.
Cho đi những gì dư thừa, không thích, dù vẫn còn tốt, vẫn mang lại lợi ích cho người nhưng có khác chi nhờ người dọn rác dùm. Cho như thế không phải là cho một cách chân thành. Cho đi điều mình yêu quí, ưa thích, ấp ủ thật lòng như thế mới thật sự là cho đi. Ngoài ra đều không phải là chân thành. Dâng hiến tình yêu một cách tự nguyện, không điều kiện ràng buộc, không mong đền đáp chính là mối tình Thiên Chúa trao tặng nhân loại. Vì trao tặng nên không ép buộc phải đón nhận. Ai đón nhận thì được hưởng hoa trái tình yêu Chúa ban, đó là sự sống mới, sự sống trường sinh. Ai từ chối đồng nghĩa với từ chối sự sống trường sinh. Bởi vì từ chối sự sống trường sinh đời sau nên người ta tranh nhau tìm kiếm sự sống tạm bợ đời này. Để được sống an nhàn người ta bắt người khác phục vụ họ. Để được sống hoan lạc người ta đi tìm lạc thú qua mọi thú vui trần thế. Để được phục vụ cần có người phục vụ và tất nhiên cần tiền chi tiêu cho người cung cấp dịch vụ. Tranh nhau vì tiền từ đó mà ra. Nguồn gốc chính là từ chối sự sống đời sau, sự sống trường sinh Chúa ban. Vì thế Kinh thánh ghi tiếp những ai từ chối đón nhận Con Một Thiên Chúa là tự mình chọn sự sống đời này để rồi chết trong tuyệt vọng. Nói cách khác là tự chọn cuộc sống ngắn ngủi đời này. Chọn sống trong sợ hãi, u sầu vì sợ thần chết đến bất tử.
Chọn tin Con Một Thiên Chúa hay chọn từ chối không tin cùng sống trong một xã hội, một thế giới nhưng có sự khác biệt. Kitô hữu tin vào Thiên Chúa nên học từ Thiên Chúa là cho đi để được nhận lãnh. Hành động bác ái, yêu thương chính là cho đi để tình yêu được đong đầy.
34.Đón nhận ánh sáng--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Thiên Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu của Ngài” (Ga 3,16)
Có một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích dẫn trong bài Tin mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị về ánh sáng: “Ánh sáng đã đến trong thế gian” (3,19).
Ngài còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm sao Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong đáp án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: “ Như Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời”. Sau này, như được nhắc đến trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu (8,28)”, và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng cứu thế của Ngài: “ Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là “Giờ” và “Vinh quang” của Ngài” (Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ trao ban chính con một của Ngài”. Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho con người. Ánh sáng và vinh quang ở đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình ra hư không. Ngài trở nên quà tặng vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Nhưng chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết “Đức Giêsu là Chúa”. Nhưng đây không phải là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê 2,19). Đức tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó là “Tin Vào” (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình tiến sâu vào trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho Ngài: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26)”.
Trong Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và “ Yêu”. Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy(15,9)”. Ngài còn dặn dò các môn sinh: “ Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau (13,34)”.
Bạn đã từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật chất, nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến bạn, bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ trong đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến độ quên đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá, Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.
35.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực tại tốt. Từ cuộc đổ vỡ trong công cuộc tạo dựng nhân loại, Thiên Chúa lại tái tạo nó đẹp đẽ hơn theo hình ảnh Con Một Người là Chúa Kitô. Tái tạo hay phục hồi là một đề tài lớn của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh. Nhưng động lực tình yêu khiến Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo này mới là cao điểm suy niệm. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua biến cố lịch sử Người giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ, nhưng đó chỉ là hình bóng tiên báo tuyệt đỉnh tình yêu qua hành động Thiên Chúa “sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
1. Lịch sử Israel: yêu cho roi cho vọt (bài đọc Cựu Ước – 2 Sb 36:14-16.19-23)
Một đoạn sách Sử biên niên tiêu biểu như bài đọc Cựu Ước hôm nay cũng đủ để phác họa tất cả lịch sử dân Chúa với ba nét chính: Israel bất trung với Thiên Chúa và không chịu hối cải – Thiên Chúa trừng phạt họ, thường là họ bị phát lưu hoặc bị lân bang đánh phá – Thiên Chúa thương xót tha thứ và tái thiết Israel. Lịch sử dân Chúa không chủ yếu xây dựng trên những cột mốc năm tháng, nhưng trên mối quan hệ yêu thương thăng trầm và đổi thay giữa Thiên Chúa và dân Israel. Lịch sử khởi đầu bằng một sự tuyển chọn từ phía Thiên Chúa. Người đã kêu gọi Áp-ra-ham làm tổ phụ của một dân riêng với hy vọng dân này sẽ luôn luôn nhìn nhận Người là Đức Chúa của họ và phụng thờ Người, đồng thời tuân giữ luật pháp Người ban cho họ là Mười điều răn. Mà đã tuyển chọn và kêu gọi thì cần phải có sự đáp lại của Israel. Do đó, mỗi khi dân Chúa quay mặt về phía các tà thần và không đáp lời gọi sống theo luật Chúa là họ đã lỗi phạm sự trung thành đối với Người. Với thân phận làm Cha, Thiên Chúa muốn con cái Người luôn luôn ngoan ngoãn nên mới sửa dạy, sửa dạy bằng những hình phạt nhằm đánh thức lương tâm và giúp họ sống theo đường lối của Người. Việc sửa dạy này đòi hỏi kiên nhẫn và đầy lòng bao dung khoan thứ. Ta có cảm tưởng Thiên Chúa chạy đua với lỗi phạm của loài người. Tội lỗi loài người càng nhiều thì lòng nhân từ thứ tha của Chúa càng tăng gấp bội. Điều này thánh Phao-lô đã phát biểu trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5:20).
Tuy nhiên ta cũng đọc thấy trong lịch sử dân Chúa không biết bao lần Người đã trừng phạt Israel. Phải chăng Thiên Chúa ghét bỏ Israel? Không bao giờ. Trái lại những trừng phạt ấy luôn luôn nhằm hai mục đích. Về phía Thiên Chúa, chúng là dấu chỉ biểu lộ lòng thương xót của người Cha nhân từ không bao giờ nỡ hủy diệt hay loại bỏ những gì Người đã tuyển chọn. Về phía loài người, trừng phạt của Chúa nhắm mục đích nhắc nhở kêu gọi họ hãy bỏ đường tà mà trở về sống theo luật pháp Chúa. Cha mẹ nuông chiều con cái, chúng sẽ dễ hư mất. Trái lại, răn bảo, la mắng hoặc đôi khi đánh đòn sẽ là những phương tiện nhắc nhở chúng sống cho đúng theo ý tốt của cha mẹ. Cũng vậy, những lần dân Chúa bị ngoại bang xâm chiếm và bắt đi làm nô lệ là những lần giúp họ nhìn lại lỗi lầm bất trung của họ và lối sống đi ngược với Lề Luật. Những khổ đau nhục nhằn của kiếp sống lưu đày là những ngọn roi tuy làm cho người ta đau đớn nhưng lại đầy yêu thương và nhân từ của vòng tay người Cha hoang đàng về tình thương yêu con cái.
Để hiểu rõ hơn mục đích của những trừng phạt này, ta cứ đọc kỹ ba đoạn Kinh Thánh trong bài đọc Cựu Ước hôm nay. Đoạn thứ nhất (2 Sb 36:14-16) cho thấy lỗi lầm to lớn của dân Israel làm cho Thiên Chúa “bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa”. Đoạn tiếp theo (2 Sb 36:19-21) cho thấy mức độ vô phương cứu chữa. Làm sao có thể tái thiết Giê-ru-sa-lem và nhất là thoát ách nô lệ của vương quốc Ba-tư! Đoạn thứ ba (2 Sb 36:22-23) ghi lại sự kỳ diệu của việc Thiên Chúa can thiệp. Ai có thể ngờ được Thiên Chúa dùng chính bàn tay của kẻ thù Israel để tạo điều kiện và hô hào dân Israel xây dựng Nhà Chúa tại Giê-ru-sa-lem? Nhất là lời động viên dân Chúa trong sắc chỉ của vua Ky-rô càng khiến ta suy nghĩ: “Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” Rõ ràng là Thiên Chúa không “quá giận mất khôn” như ta nghĩ. Nhưng Đấng thấu suốt lòng dạ con người biết con cái mình sẽ hối lỗi ở mức độ nào của sự trừng phạt. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói đến cái biết này của Thiên Chúa: “Cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:21). Đất có được nghỉ một thời gian thì sau đó mới có thể trồng trọt phì nhiêu. Cũng vậy, những năm tháng lưu đày sẽ là thời gian để Israel tăng triển lòng tin và trung thành với Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều thường xảy ra trong cuộc đời tín hữu. Gian nan cuộc đời thường là những nhắc nhở hoặc chuẩn bị ta thêm lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3:14-21)
Con người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu là ban tặng. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Thiên Chúa yêu thương Israel nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang, như bài đọc I hôm nay đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái chết đời đời ấy. Với dân Israel, Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là Chúa Kitô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả. Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
“Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự”, đó là một luận đề chính trong giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Kitô đã khởi đầu công cuộc phục hồi cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta. Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta còn được cùng đồng hành với Chúa Kitô để sống tình con cái với Thiên Chúa là Cha của Chúa Kitô và của ta nữa. Chúa Kitô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta. Ánh sáng ấy là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong Thiên Chúa.
3. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người dành cho ta (bài đọc Tân Ước – Ep 2:4-10)
Thánh Gio-an diễn tả tình yêu của Thiên Chúa là việc trao ban Con Một, còn thánh Phao-lô lại muốn nói cách thức Thiên Chúa yêu thương ta qua cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô. Hai nhà thần học tiên khởi của Kitô giáo cùng nhìn một vấn đề, nhưng dưới khía cạnh khác nhau. Nhưng cả hai đều muốn nói lên một điểm chung: Thiên Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng thương xót. Tuy nhiên thánh Phao-lô muốn khai triển về phía con người được lãnh nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã cho ta là những kẻ đã chết vì sa ngã của tổ tông lại “được cùng sống với Đức Kitô”. Đây chính là điều ta cần phải suy nghĩ để biết cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu ta nên Thiên Chúa mới tạo điều kiện cho ta “được cùng sống với Đức Kitô”, nghĩa là cùng với Chúa Kitô làm một cuộc biến đổi, một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã khai mào cho một cuộc Tạo dựng Mới. Trong cuộc Tạo dựng Mới này, “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Như vậy là thánh Phao-lô đã cho ta thấy rõ ra phải làm gì rồi, nghĩa là ta phải “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp” của Thiên Chúa, tức công trình cứu độ của Người. Mỗi ngày sống của ta là một ngày ta thực hiện một chút công trình cứu độ của Chúa nơi ta. Cứ thế, sau khi ta đi hết những ngày trên trần gian này, ta sẽ đạt tới đích là “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2:6).
4. Sống Lời Chúa
Càng gần lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng cho ta thấy rõ hơn vai trò cứu độ của Chúa Giê-su Kitô. Người đã lấy tất cả cuộc đời Người để nói cho ta biết Thiên Chúa yêu mến và muốn cứu độ ta. Người mời gọi ta đến với Người để bắt đầu một hành trình sức sống mới, sống như “tác phẩm Thiên Chúa đã dựng nên trong Đức Kitô”. Mời gọi này quả thực là một thách đố cho ta nếu ta muốn thành tâm đáp lại. Tuy nhiên ta cũng phải ý thức rằng được mời gọi làm cuộc hành trình sức sống mới này còn là một “ân sủng” Thiên Chúa ban cho ta vì Người yêu thương ta. Ân sủng là do Thiên Chúa, nhưng lòng tin là đáp lại từ phía chúng ta vậy.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi đã sống niềm tin này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động, để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Chay).
36.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Thiên Chúa yêu thương đến độ, ban Con Một Người vì tất cả chúng ta.
Kính thưa quý anh chị em,
Ban tặng là cách cụ thể biểu lộ tình yêu của người này đối với người kia. Nó là ngôn ngữ biểu tượng chứng thực người đó đã bước ra khỏi mình để gắn kết với người kia.
Quà tặng luôn là tình yêu, là hiện thân của người yêu, nên thật vô giá, thật đáng trân trọng. Định giá quà tặng tình yêu dựa trên giá trị vật chất, thương mại là sỉ nhục và xúc phạm đến người yêu thương mình.
Tuy nhiên, một người yêu thương thật lòng, sẽ dành phần tốt nhất, giá trị nhất, dành cả bản thân làm quà tặng cho người họ yêu thương. Yêu là dám hy sinh tất cả, dám chết cho người mình yêu:
“Vì thương con, Chúa chết ô nhục trên thánh giá, trái tim mở ra những giọt máu cuối cùng, là bằng chứng Chúa đã yêu hết mình” (Vì thương con, Kim Long).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay loan báo một Thiên Chúa yêu thương bằng việc làm, nghĩa là, không viển vông, trìu tượng, rất cụ thể và hiệu quả. Người trở nên “quà tặng tình yêu” cho cả thế gian, để nhờ Ngài, nhân loại được sống và sống dồi dào.
Thiên Chúa tình yêu là quà tặng duy nhất, nhưng thể hiện theo cách thức riêng của mỗi Ngôi trong mầu nhiệm cứu độ: Chúa Cha là Đấng ban tặng, Chúa Con gởi quà cứu chuộc, Chúa Thánh Thần ban quà thần hóa.
Bài đọc I, trích sách Sử Ký, ghi lại những mốc lịch sử và giải thích lý do tại sao sảy ra biến cố đó. Bài sách thánh, vừa là bản cáo trạng tội ác của dân, là nguyên cớ cho việc họ bị trừng phạt, vừa là lời tuyên xưng Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, không hành xử theo điều gian ác của dân, nhưng tạo nhiều cơ hội, sai nhiều sứ giả, giúp dân nhận ra tội lỗi của mình, mà hoán cải canh tân, để được hưởng ơn chúc lành và được sống.
Mục đích của trích đoạn sách thánh là nhấn mạnh quyền năng yêu thương của Thiên Chúa trên thế gian tội lỗi. Khi yêu thương và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách lạ lùng hơn cả.
Bài đọc I cho cái kết có hậu, đó là, ngay trên đất lưu đày, Chúa dùng Ky-rô, vua dân ngoại, trả tự do, an ủi, khuyến khích, dân Chúa hồi hương, sống an cư lạc nghiệp và tái thiết đền thờ.
Con người và hành động của Ky-rô được xem như món quà Chúa Cha ban tặng Israel, vì Người yêu thương họ rất nhiều.
Thật, Cha yêu thương chúng con vô cùng, đã chuẩn bị quà tặng tình yêu từ đời đời và hôm nay, chọn Ky-rô làm hình ảnh tiền trưng của Đấng cứu thế, để khi tới thời viên mãn, Cha sai Con Một làm Đấng cứu thế.
Bài Tin Mừng là một mạc khải lớn về Cha, Đấng giầu lòng xót thương, đi đến mút cùng tình yêu nhân hậu, muốn cho con người tham dự vào sự sống thần linh, nên bằng muôn vàn cách thế chuẩn bị họ đón nhận mầu nhiệm lớn lao: sai Con Một giáng trần vì tất cả chúng ta.
Khi ban Người Con ấy, Cha muốn Người sống trọn thân phận con người như chúng con, ngoại trừ tội lỗi. Cái chết vâng phục của Giê-su là con đường mở vào sự sống thật: “Cha cho chúng con được cùng sống với Đức Kitô trên trời” (Ep 2, 5 – 6).
Hình ảnh con rắn đồng được treo cao trên hoang địa là dấu chỉ sự chữa lành trong Thiên Chúa. Hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được chữa lành.
Khi đặt rắn đồng cạnh thập giá Đức Kitô, mới thấy cái chết của Giê-su là tuyệt đối cần thiết: Ai nhìn lên thập giá mà tin, thì được sống muôn đời (cf. Jn 3, 14 – 15).
Rắn đồng trong hoang địa chỉ giữ vai trò “gợi” lên niềm tin, còn thập giá ban tặng đức tin là bảo chứng vững bền của ơn cứu độ. Máu và nước tuôn trào từ trái tim Giê-su phát sinh các bí tích, nhằm lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng cứu thế, thì muôn đời kín múc tận nguồn ơn cứu độ.
Theo cách thức riêng, Giê-su gởi quà tặng cứu độ trong hành động tự hiến: Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Máu ấy làm thành giao ước vĩnh cửu, có sức tẩy rửa lương tâm chúng khỏi sự chết, mà phụng thờ thiên Chúa hằng sống. Hy tế thập giá là bằng chứng Chúa đã yêu hết mình.
Quà tặng của Thánh Thần là gì ?
Thưa: là thực hiện ý muốn cứu độ của Cha trong Đức Kitô. Nhờ quyền năng sáng tạo, Ngài đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, tháp nhập kẻ tin vào mầu nhiệm tử nạn và Phục Sinh như một ấn tín đợi ngày thân xác được sống lại hiển vinh. Và đang khi chờ đợi niềm hy vọng hồng phúc, ngày trở lại của Chúa Giê-su, Thánh Thần cho chúng ta được hưởng trước lương thực bởi trời, là Lời và Mình Máu Thánh Chúa.
Cha ban tặng Con Một, không phải để lên án, luận phạt, nhưng để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.
Vậy, chỉ cần tin và hành động theo đức tin thì được sống muôn đời !
Thưa anh chị em,
Niềm hy vọng được sống đời, không miễn chuẩn người môn đệ quên lãng bổn phận trần thế, trái lại, thúc dục họ chu toàn một cách có trách nhiệm và hoàn hảo hơn những bổn phận thuộc đấng bậc mình.
Chu toàn bổn phận, không vì miễn cưỡng, nhưng vui tươi cần mẫn dưới cái nhìn và sự hiện diện của Chúa, mới làm đẹp lòng Chúa, cụ thể:
Cha mẹ nên thánh trong đời sống gia đình, tạo môi trường sống chan hòa yêu thương cho mỗi thành viên. Gia đình anh chị em phải trở nên tổ ấm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong tình hiệp thông liên đới: con cái thảo hiếu, vợ chồng thương yêu nhau.
Sống với những người xung quanh, kitô hữu phải chứng tỏ khả năng yêu thương và sống thuận hòa. Nhất thiết, họ phải trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho những người xung quanh: “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau” (Jn 13, 35).
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần tình yêu, dạy chúng con học biết yêu thương, nhất là sống yêu thương như Chúa đòi hỏi, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho chúng con. Amen!
37.Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người--Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
- Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
- Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
- Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
- Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
- Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hoàn toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
- Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
- Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
- Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
- Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
- Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
- Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
- Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
38.Tình Chúa thương con--Lm. Minh Vận, CMC
Một trong những bài thơ Công Giáo nổi tiếng nhất viết bằng Anh Ngữ là bài "Sự săn đuổi của Thiên Đàng". Tác giả bài thơ đó là Francis Thompson, người đã cố xa tránh Thiên Chúa. Ông so sánh Thiên Chúa như một người thợ săn, săn bắt các linh hồn. Bài thơ đó cũng là câu truyện về cuộc đời của Thompson. Khi còn là một cậu bé, ông có ý định đi tu làm Linh Mục, nhưng vì ông lười biếng, nên cha ông đã ghi tên cho ông học trường thuốc. Sau này ông nghiện thuốc phiện và tật nghiện này đã tàn phá tinh thần lẫn thể xác ông. Ông trở thành kẻ ăn mày la cà các ngõ hẻm, đánh giầy, bán hộp quẹt và giữ ngựa cho người ta để sinh sống. Nhờ một cô bé gái nghèo khó môi giới, Thompson gặp được ông bà Wilfred Meynell. Ông bà Meynell nhận ra Thompson là người có tài và có chí hướng. Họ giúp đỡ ông quay về với Tình Yêu Thiên Chúa.
Ông đã cố tránh né Thiên Chúa ra sao, Ngài đã săn tìm ông thế nào và Tình Yêu Chúa đã bắt được ông làm sao. Đó là tất cả ý nghĩa của bài thơ.
I. TÌNH YÊU CHÚA ĐƯỢC MẶC KHẢI
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc hội kiến giữa Chúa Kitô và Nicodemô trong lúc đêm khuya. Chỉ duy có Thánh Sử Gioan nói về Nicodemô trong 3 trường hợp: Nicôdêmô đến gặp Chúa ban đêm (Jn 3:1-2), bênh vực Chúa khi những người Pharisiêu kết án (Jn 7:50), đem thuốc thơm đến xức xác Chúa (Jn19:39). Ông thuộc phái Pharisieu, là một nhân viên của Hội Đồng Cộng Tọa, bậc Thầy trong dân, Nicodemô cảm phục giáo lý của Chúa và những việc Chúa thực hiện. Nhưng vì sợ đồng bạn, không dám công khai gặp Chúa, ông kín đáo đến cùng Chúa ban đêm và được Chúa mạc khải cho biết, muốn được cứu độ phải tin vào Ngài, phải chịu Phép Rửa, tức là phải được tái sinh bằng Nước và Thánh Linh: "Ai không sinh lại bởi Nước và Thánh Linh sẽ không được vào Nước Thiên Chúa" (Jn 3:5). Đồng thời, Chúa mặc khải cho ông biết về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, luôn theo rõi con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Con Một Thiên Chúa khi nói với Nicodemô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Jn 3:16). Tình Chúa say yêu mỗi người chúng ta còn được tỏ ra qua lời tiên tri Jeremia và Osê: "Cha yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer 31:3). Con người đã bất tuân, cố xa lìa Chúa, đã chống lại Ngài, đã phản bội Ngài; nhưng Chúa vẫn không từ bỏ và để chứng tỏ lòng Ngài thương yêu, Ngài đã sai Con Một Yêu Dấu của Ngài xuống trần gian, chịu chết đền bồi tội lỗi, để cứu chuộc loài người đã hư mất.
Như Thompson, những linh hồn xa tránh Chúa đều bị Chúa săn đuổi để cứu vớt, vì Ngài yêu thương họ. Mỗi người chúng ta đều được Chúa yêu thương, săn đuổi, tìm kiếm trong mọi ngả đường của cuộc sống. Đã bao lần chúng ta phạm đến Ngài, lìa xa Ngài, trốn tránh Ngài, nhưng Ngài vốn theo rõi tìm kiếm, cứu vớt và tha thứ. Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn như Tin Mừng đã tường thuật, để bày tỏ cho chúng ta thấy tình Ngài yêu thương mỗi người chúng ta. Nào dụ ngôn người con phung phá ăn chơi hoang đàng tội lỗi, khi trở về được cha yêu thương tha thứ và mở tiệc mừng. Nào dụ ngôn con chiên lạc, được người mục tử để 99 con lại trên núi, để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, ông vác lên vai vui mừng trở về nhà. Nào dụ ngôn đồng bạc bị mất, người đàn bà thắp đèn tìm kiếm, khi tìm thấy rồi, gọi bạn bè xóm ngõ đến chung vui, vì đã tìm được đồng bạc đã mất.
II. HẬU QUẢ CỦA TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA
Adam Evà, nguyên tổ chúng ta phản bội Chúa, xúc phạm đến tình thương của Người, đã chuốc lấy án phạt, tự đẩy mình xa cách Chúa trong kiếp sống lầm than vất vả, mất hết các đặc ân ngoại nhiên và siêu nhiên Chúa ban, linh hồn ra tối tăm u mê, thân xác ra nặng nề, lòng thú lấn thắng lòng thần, thân xác phản bội linh hồn... Ác quả tội lỗi lưu truyền lại cho cả dòng giống.
Cũng như Thompson, cố tình xa tránh Chúa, ông đã phải sống kiếp sống nghèo nàn, vất vả để tìm của độ thân; đam mê nghiện ngập hút xái đã tàn phá cả tinh thần lẫn thể xác, đã hủy hoại cả tài ba, sức lực và chí hướng cao thượng đã được Thiên Chúa phú bẩm. Con người cố chấp trong tội lỗi cũng thế, họ cố tình chống lại Chúa, xa lìa Ngài, bội phản Ngài, khinh dể Ngài, họ cũng tự chuốc lấy án phạt mình bằng một lương tâm cắn rứt, một tâm hồn mặc cảm, một tâm tư nặng trĩu và trở nên nô lệ cho quyền lực tội lỗi và gông cùm hỏa ngục.
III. ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Với lòng thống hối khiêm nhu, ai trong chúng ta cũng đã tự cảm thấy, nhiều lần chúng ta đã phản bội lại tình Chúa yêu thương chúng ta, bằng những tội lỗi xúc phạm đến Người, hoặc những thiếu sót lỗi lầm.
Hay ít ra, chúng ta cũng phải phàn nàn, vì chúng ta chưa sống xứng với những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta, ơn phần hồn cũng như ơn phần xác. Chúng ta chưa sống xứng với Ơn Gọi cao cả chúng ta được làm con Chúa, được nhiều may mắn hơn người khác, được Chúa thương yêu cưng chiều hơn.
Không tội nhân nào không cảm thấy sung sướng, được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm, được xóa bỏ mọi vết tích tội khiên, được quên đi những điều phản bội, được giải hòa và được trở lại trong tình thương mến của Chúa.
Không con cái nào lại không cảm thấy hạnh phúc được cha mẹ thương yêu, cưng chiều, săn sóc, gìn giữ, bao bọc, tha thứ mọi lỗi lầm sơ sót làm phiền lòng các ngài.
Đối với Chúa, chúng ta cũng là những tội nhân đã bao lần xúc phạm đến Người, nhưng Chúa vẫn tha thứ, kiếm tìm và đem trở về hưởng tình yêu thương của Người. Chúng ta là những người con đã bao lần làm cho Chúa phải đau buồn vì những lỗi lầm, hay ít ra chưa sống đúng những ơn huệ Chúa ban, chưa đáp lại cân xứng lòng Chúa yêu thương và muôn ơn phúc Chúa hằng tuôn trào xuống trên chúng ta.
Thì Mùa Chay là cơ hội thuận tiện, chúng ta hãy trở về với tình Chúa yêu thương, làm hòa với Chúa để được lãnh ơn tha thứ. Canh tân cuộc sống, sống đẹp lòng Chúa hơn, xứng với tình Người yêu thương chúng ta.
Kết Luận
Để đáp lại tình Chúa yêu thương, chúng ta hãy sống xứng với Ơn Gọi cao cả làm con Chúa, bằng cách luôn sống trong ơn nghĩa Người, bằng tấm lòng người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Cha Hiền.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta hiểu biết giá trị cao quí của Ơn Gọi làm con Chúa và luôn trung thành với hồng ân Chúa ban.
39.Niềm tin và hành động--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Tôi không nhớ đã nghe ở đâu đó câu chuyện kể rằng. Có một người đàn ông lên Thiên đàng gặp Thánh Phêrô và hỏi: Vợ con đã có ở trên này chưa? Thánh Phêrô trả lời là vợ con đã ở trên này rồi. Thế là anh ta nói với Thánh Phêrô: Thế thì con không vào đâu vì con đã sống bao nhiêu năm với nó trên trần gian và chịu muôn vàn tủi nhục vì nó. Giờ lên đây lại gặp nó nữa thì đời con tiêu hẳn rồi. Còn một người đàn ông khác lên Thiên đàng và cũng hỏi Thánh Phêrô câu hỏi tương tự và nhận được câu trả lời là vợ con chưa có trên Thiên đàng. Anh ta nói với Thánh Phêrô rằng nếu vợ con chưa có ở đây thì con cũng không vào đâu vì con không thể sống thiếu vợ con được. Cô ấy và con đã có một cuộc hôn nhân tuyệt vời. Giờ cô ấy ở đâu con sẽ đi tới đó.
Câu chuyện giả tưởng trên đây muốn diễn tả một chân lý tuyệt hảo rằng Thiên đàng hay hỏa ngục chẳng phải là một thực tại xa xăm nào. Thiên đàng hay hỏa ngục là ở đây và bây giờ. Chính chúng ta tự tạo ra Thiên đàng và cũng chính chúng ta tự tạo ra Hỏa ngục. Thiên đàng và Hỏa ngục nếu có thì cũng phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Đây cũng là điều mà tôi cảm nghiệm được khi đọc Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm B. Thánh Gioan nói với chúng ta Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban Con Một mình để những ai tin Con Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi. Không cần phải đợi tới ngày cánh chung chúng ta mới bị xét xử mà ngay hôm nay, chúng ta đã bị xét xử rồi. Chúng ta đứng trước lựa chọn hoặc tin vào Thiên Chúa hoặc khước từ Ngài. Tin vào Thiên Chúa chính là tin vào tình yêu và hành động theo tình yêu. Làm như thế, chúng ta sẽ không bị hư mất. Còn nếu không làm như thế, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Theo Thánh Gioan thì phần nhiều trong chúng ta sẽ khước từ Ngài. Lý do là bởi vì chúng ta chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Chúng ta sợ ánh sáng vì những việc làm của chúng ta xấu xa. Chúng ta sợ bị phơi bày sự thật trước Thiên Chúa là ánh sáng vĩnh cửu.
Nhìn vào thực tế cuộc sống, tôi thấy giữa niềm tin và cuộc sống thực luôn có một khoảng cách quá xa vời. Người ta có thể vẫn đi dự lễ, vẫn tham gia các Hội đoàn, nhưng trong cách hành xử với đồng loại thì luôn không ổn tí nào. Chúng ta cũng dễ dàng coi trọng những điều chúng ta cho là linh thiêng nhưng lại bỏ quên thực tại là những con người cụ thể chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Hồi mới ra trường, tôi vào Sài gòn và mua 1000 cây thánh giá gỗ nhỏ để tặng cho các bạn trẻ. Tôi đến Fatima Bình triệu và gặp một Sơ bán hàng ở đó. Số lượng Thánh giá lớn quá nên Sơ đó hẹn tôi đến chiều quay lại. Buổi chiều hôm đó tôi có việc nên 18h00 mới tới được. Sơ đó bảo giờ đó thì con không thể tiếp Cha được vì con phải chầu Mình Thánh Chúa với cộng đoàn. Tôi không hiểu ngày đó làm sao tôi lại có thể nói được một câu mà đến giờ tôi cũng bất ngờ. Tôi bảo Sơ đó rằng liệu Sơ có thể để lại một Giêsu trong Nhà Chầu để gặp một Giêsu giữa đời được không? Sau một chút ngần ngại, Sơ đó bảo tôi rằng thôi được Cha cứ đến. Bất cứ giờ nào con cũng sẵn sàng tiếp Cha.
Đó là một kinh nghiệm gây ngạc nhiên cho chính bản thân tôi. Nhiều khi chính tôi cũng lấy lý do này lý do nọ để từ chối tha nhân. Có những linh mục đã xua đuổi chính con chiên của mình chỉ vì họ đến không đúng ngày tiếp khách, ngày làm việc của ngài. Có những linh mục không kìm hãm được cơn giận dữ của mình nên sẵn sàng lên Tòa giảng để thóa mạ giáo dân. Thật xót xa khi chứng kiến những cảnh tượng như vậy. Làm sao chúng ta rao giảng một Thiên Chúa giàu lòng thương xót khi chính chúng ta lại thể hiện một bộ mặt đầy trái ngược? Làm sao nói về Cứu Độ, nói về Nước Trời, nói về Thiên đàng khi mà những cái nhỏ nhặt nhất chúng ta chưa làm được?
Lạy Chúa, Chúa nhật IV Mùa chay là Chúa nhật của màu hồng, Chúa nhật của niềm vui. Cũng như dân Do Thái xưa vui mừng vì được Hoàng đế Ba Tư là Cyrus cho hồi hương tái thiết Đền Thờ sau bao ngày lưu lạc tha hương, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui vì được Chúa yêu thương mỗi ngày. Nhưng niềm vui ấy chỉ thực sự trọn vẹn khi chúng con thực tâm trở về sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương với những người chúng con gặp gỡ trên đường đời. Xin giúp chúng con thực hiện được điều đó hôm nay. Amen.
40.Ánh sáng thật--Lm. Bar. Lê An Phong, SDB
Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.
Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô - Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).
Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).
Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?
Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.
Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.
Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.
41.Yêu cho roi cho vọt--Lm Trần Bình Trọng
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Đi tản mát khắp thế giới sau khi Đền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.
Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.
Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Đấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc sửa lỗi:
Lạy Thiên Chúa, Đấng công minh và khoan hậu.
Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán
nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn
hầu cho loài được sống.
Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình
chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội
với quyết tâm cải thiện đời sống
hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
42.Truyện con rắn đồng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Ga 3:14-21: Thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên Thánh Giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do Thái đi từ núi Horeb về phía Biển Đỏ đi vòng quanh xứ Eđôm. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Môsê: "tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập để rồi chúng tôi phải chết trong hoang địa? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi".
Bấy giờ Đức Chúa cho những con rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết. Dân chúng chạy đến ông Môsê, thưa với ông: "chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi".
Ông Môsê cầu cho dân. Chúa bảo Môsê: "hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống". Môsê làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan đã ghi lại: "như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời."
Gioan dùng câu chuyện này như một loại dụ ngôn để chỉ về Chúa Giêsu. Ông nói: "Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng về Ngài thì sẽ được sự sống đời đời".
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Một là việc Chúa bị treo lên thập giá, và hai là việc Chúa được cất lên để vào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; P1 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên, lần bị đưa lên thập giá và lần được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó - là việc Ngài đã có thể làm thật dễ dàng nếu muốn - thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất di bất dịch của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Anh chị em thân mến, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ của chúng ta sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
- Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của con người.
- Hãy nhìn lên thập giá: đó là một sự ô nhục, nhưng chính sự ô nhục này lại mang lại vinh quang cho chúng ta.
- Hãy nhìn lên thập giá; đó là một sự chết chóc, tủi nhục và thương đau, nhưng chính sự chết chóc này lại mang sự sống cho chúng ta.
Đó là thập giá của Chúa Kitô, còn thập giá giá của chúng ta như thế nào?
- Đó chính là khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm,
- Đó chính là khi chúng ta bị bỏ rơi và phản bội,
- Đó chính là khi chúng ta bị thất bại và oan ức,
- Đó chính là khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được. Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta. Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận. Chỉ khi nào chấp nhận chúng ta mới có thể đi vào vinh quang với Ngài.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài. Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta. Amen.
43.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.
2Sb 36: 14-16, 19-23
Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.
Ep 2: 4-10
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta nhờ và trong Đức Ki-tô.
Ga 3: 14-21
Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)
Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn khởi sự cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I trích từ phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích nầy nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành thánh Giê-ru-sa-lem bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá, đất nước mất chủ quyền.
1. Tội của dân Ngài:
Tác giả ghi lại những biến cố nầy vào thời gian rất lâu sau nầy, cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.
Tác giả ghi nhận tình trạng đất nước vào thời đó: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày mỗi thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế” (36: 14). Vì thế, việc dân bi trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (36: 15).
Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người” (36: 16). Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông, vân vân. Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.
2. Thiên Chúa tha thứ:
Nhưng cơn thịnh nộ nầy chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không hủy bỏ lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên nầy. Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích nầy (2Sb 36: 22-23) là phần đầu của sách Ét-ra (Er 1: 1-3). Qua phần cuối này, tác giả đóng lại sách Sử Biên quyển hai với điểm nhấn chứa chan hy vọng.
3. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem:
Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa là “làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế” (36: 14). Nếu Thiên Chúa sai phái sứ giả của Ngài đến cảnh cáo họ, chính vì Ngài “hằng thương xót thánh điện của Người” (36: 15). Hành động của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là “đốt Nhà Thiên Chúa” (36: 19). Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ky-rô tuyên bố: “Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa” (36: 23).
Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân trong khi đất nước mất chủ quyền. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Ê-phê-xô từ Rô-ma trong hoàn cảnh thánh nhân bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư nầy không chỉ cho cộng đoàn Ê-phê-xô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.
Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích nầy rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.
1. Quyền Tối Thượng của Chúa Cha.
Thánh Phao-lô luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư nầy, trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt các động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…
2. Chúa Cha giàu lòng xót thương.
Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Độ: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki-tô.
3. Cuộc sống tương lai:
Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.
Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ nầy? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.
4. Đức tin, việc làm và ân sủng.
Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ nầy. Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.
TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc đàm đạo của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài vào ban đêm. Trong đoạn trích nầy, chúng ta không còn gặp thấy cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Qua ông Ni-cô-đê-mô, một người Phê-ri-sêu thiện cảm với Ngài, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối.
1. Thập Giá vinh quang (3: 14-15)
Trong cuộc lữ hành băng qua hoang địa, vì thiếu bánh ăn nước uống dân Ít-ra-en đã than trách Thiên Chúa và ông Mô-sê. Thiên Chúa cho rắn lửa cắn họ chết. Họ ăn năn, xin ông Mô-sê cầu bầu cho họ. Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc một con rắn đồng và treo trên một cây sào để “Tất cả những ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21: 4-9). Khi so sánh việc Ngài được giương cao trên thập giá với chuyện tích con rắn đồng được giương cao trong hoang địa, Đức Giê-su muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu, nếu đặt trọn niềm tin tưởng vào Đấng chịu đóng đinh.
Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su loan báo Thập Giá vinh quang bằng cách quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng: “Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14); “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (8: 28); “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Qua đó, Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá, nơi vinh quang của Chúa Con đồng nhất với vinh quang của Chúa Cha trong ý định cứu độ nhân loại.
2. Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người (3: 16-18)
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu: “Con Một”, có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2), nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều được sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.
Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Thiên Chúa không kết án bất cứ ai, nhưng mỗi người tự kết án chính mình nếu khước từ ánh sáng, nghĩa là từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.
3. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)
Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối nầy cô đọng thần học về sự phán xét của thánh Gioan.
Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.
Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. Sau này, trong một cuộc đối thoại với người Do thái, Chúa Giê-su nói rõ: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông là thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8: 31-32).
44.Cơ hội sống tốt hơn--Lm. Xuân Hy Vọng
Con người chúng ta dù tốt lành đến mấy, cũng chỉ cho người khác cơ hội ‘làm lại cuộc đời’ không hơn không kém ‘quá tam ba bận’ mà thôi!!! Tệ hơn, trong chúng ta có khi còn khắt khe, đóng hết mọi cánh cửa ‘sửa đổi’ hay ‘cải thiện’ hoặc ‘lấy công chuộc tội’ của anh chị em mình nữa!
Quả thật, nếu Chúa cũng cư xử như vậy với chúng ta, có lẽ ‘chẳng ai đứng vững trước thiên nhan Chúa’ được! Dĩ nhiên, Ngài là Thiên Chúa bao dung, chậm bất bình và rất mực khoan nhân, nên Ngài luôn luôn ban cho chúng ta nhiều cơ hội đổi mới, canh tân, hoán cải, quay về với Ngài.
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta nghiệm thấy rõ lòng từ bi Chúa trước thói bất trung, thất tín của dân Ngài: “Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem” (2Sb 36, 14). Dù rất thịnh nộ, nhưng lòng nhân hậu và thương xót Ngài vượt trên ‘sự khinh thường, nhạo báng của dân Is-ra-el, giết hại các sứ giả, ngôn sứ của Chúa’ (x. 2Sb 36, 15-16). Tuy dân Is-ra-el phải lãnh hậu quả đi đày do hành vi bất xứng của họ như lời tiên tri Giê-rê-mi-a: “…họ sẽ không giữ được ngày Sa-bát trọn bảy mươi năm trường” (Sb 36, 21; x. Gr 25, 1; 29, 10). Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, nhưng Ngài chẳng nỡ bỏ rơi dân Ngài. Lòng nhân hậu của Chúa được bày tỏ cách lạ lùng qua sự lưu đày và giải thoát dân Is-ra-el dưới triều đại Sy-rô, vua xứ Ba-tư: “Chúa là Thiên Chúa trời đấy đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Ngài đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Ngài một đền thờ ở Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đê-a. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên” (2Sb 36, 23). Thiên Chúa hằng trung tín, và luôn ban cơ hội cho dân Ngài được hoán cải quay về, được cứu thoát khỏi khổ đau cơ hàn.
Hơn thế, cảm nghiệm này càng được tỏ hiện rõ nét hơn qua lời của Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Ê-phê-sô: “…vì lòng yêu thương cao cả mà Ngài đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Ngài làm cho chúng ta sống lại trong Đức Ki-tô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi” (Ep 2, 4-6). Thiên Chúa không chỉ ban cho chúng ta cơ hội ‘đổi đời’, mà còn cứu rỗi chúng ta, mang chúng ta ra khỏi vũng nhơ nhớp của tội lỗi, và giúp chúng ta bước ra khỏi bóng đêm của sự lầm đường lạc lối, “vì chưng, bởi ơn Chúa, anh (chị) em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh (chị) em, vì đó là ân huệ của Chúa” (x. Ep 2, 8-9). Tại sao, chúng ta được ơn phúc lớn lao nhường vậy? Chẳng phải bởi vì công trạng, tài năng, thành đạt, thành tựu, thành công, hay kể cả công ơn đạo đức của chúng ta, mà chúng ta được lãnh nhận ân huệ cao quý từ Thiên Chúa đâu! Nhưng trên hết, nhờ lòng từ bi lân tuất của Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, mà chúng ta có phúc, được hưởng ơn đổi mới, canh tân, và được cứu chuộc. Hơn nữa, do lòng thương xót không bờ bến của Chúa, mà “chúng ta cùng được sống lại, đồng ngự trị trên nước trời trong Đức Giê-su Ki-tô” (x. Ep 2, 7). Ôi diễm phúc, cao quý khôn cùng! Con nào biết cảm tạ thế nào cho cân, Chúa ơi!
Tình yêu của Chúa dành cho chúng ta không dừng ở đó, mà Ngài còn “ban chính Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). Vì muốn ban cho chúng ta cơ hội được ăn năn, hoán cải, sống tốt hơn, và được cứu rỗi, Thiên Chúa chẳng tiếc gì, ngay cả ban chính Người Con duy nhất cho chúng ta, “không phải để luật phạt thế gian, nhưng nhờ Con Ngài mà thế gian được cứu độ” (x. Ga 3, 17). Tình yêu này càng đến mức tận cùng qua việc Ngôi Lời nhập thể, sinh hạ trong thế gian, mặc lấy xác phàm, ngoại trừ tội lỗi, chịu khổ hình, chịu tử nạn trên Thánh giá, rồi Phục sinh. Ngài hằng trao ban sự sống thần linh, hiến thân mạng sống mình cho chúng ta qua hy tế tình yêu, Bí tích Thánh Thể, trong mỗi Thánh lễ. Còn gì bằng lòng mến tự hiến mà Thiên Chúa bao dung trao ban cho chúng ta thế này! Ước gì chúng ta năng chạy đến Bí tích Tình yêu, năng lãnh nhận Bí tích giao hoà, đón nhận thời gian ân sủng, thời cơ thuận tiện này, hầu trở về nương tựa mãi nơi suối nguồn xót thương! Ước gì chúng ta hành động trong sự thật, làm việc nơi sự sáng, và sống trong Thiên Chúa luôn!
Giờ đây, chúng ta dành ít phút thinh lặng trước Chúa, thầm thỉ dâng lời nguyện xin:
Tình Chúa hằng ấp ủ con
Dù đời con nhiều nỉ non khôn xiết.
Ngài vẫn bên con mải miết
Tuôn đổ hồng ân tha thiết chan hoà.
Chờ con tiến bước trở về
Trong niềm hoan lạc tràn trề thánh ân. Amen!
45.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Trong cuộc sống, điều gì sẽ giúp mang lại sự hòa giải, hiệp nhất, bình an và hạnh phúc cho con người chúng ta? Có phải chăng những điều này sẽ đạt được nhờ tiền bạc-của cải, vũ khí-súng đạn, hay chiến tranh? Tất cả sẽ không. Vậy thì, điều gì mà con người đang nỗ lực tìm kiếm và khao khát để đạt được? Từ ngày 3 đến ngày 8 tháng 3 vừa qua, với ơn Chúa và sự cộng tác của biết bao người, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nỗ lực hết sức để đến thăm Irak, mặc dầu đối diện với biết bao khó khăn và giới hạn của chuyến tông du này; từ tuổi cao sức yếu, từ dịch bệnh hoành hành, từ hỗn loạn-nguy hiểm của chiến tranh…Thật vậy, khi chứng kiến, mọi người đều rất xúc động, chỉ biết dâng lời cảm tạ và cầu nguyện cho Ngài. Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô mang tới cho Irak cũng như cho toàn thế giới chính là những gì mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng, hướng dẫn; đây cũng chính là những gì mà chúng ta đang khao khát, tìm kiếm để đạt tới đích điểm trong cuộc sống của chúng ta trong tương quan với Chúa và với tha nhân trong Mùa Chay này.
Trong bài đọc một, Thiên Chúa đã tỏ ra rất mực kiên nhẫn, khoan dung và nhẫn nại trước những yếu đuối bất xứng và tội lỗi phản nghịch của con người. Dẫu rằng, Thiên Chúa đã không biết bao lần, qua muôn vàn cách thế để uốn nắn, răn dạy và sửa lỗi; thế nhưng, con người vẫn không biết ơn, vẫn thất tín, bội bạc, tệ hại hơn họ lại còn chê bai, nhạo báng và tỏ ra những thái độ, hành động bất kính với Thiên Chúa và các Sứ Giả của Chúa. Chính vì lẽ đó mà Chúa đã không còn che chở họ, khi họ bị lâm vào cảnh lưu đày. Trước tội lỗi và những nỗi đau khổ, cực hình mà con người tự chuốc lấy, Thiên Chúa lại không nỡ để thấy họ phải chịu, nên lòng thương xót của Chúa lại biểu lộ qua việc Chúa giúp cho họ được ơn giải thoát. “Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc”.
Vậy thì, câu hỏi được đặt ra: Trong cơn thịnh nộ, Chúa có phạt chúng ta không? Trong Cựu ước, mỗi lần dân chúng bất tuân mà phạm tội, thì Chúa đã phạt họ. Thế nhưng, trong Tân ước, từ bài đọc hai, Thánh Phaolo cho chúng ta biết, chính vì tội lỗi của chúng ta, chúng ta tự chuốc lấy án phạt hay hình phạt do chính tội mình gây ra, chứ Chúa không thịnh nộ và trừng phạt. Nhưng trong thánh ý nhiệm mầu, Chúa lại cho những điều đó xảy ra, để qua đó, ân sủng, tình thương và lòng thương xót Chúa được biểu lộ. Thật vậy, tình thương và ơn thánh Chúa ban cho chúng ta dẫu yếu đuối và tội lỗi. Ơn sủng mà Đức Kitô trao ban thì dành cho tất cả mọi người, thế nhưng, với những ai tin vào Ngài, chấp nhận và sống như Ngài thì sẽ đón nhận được bình an và ơn thánh.
Tin mừng hôm nay đã soi sáng, tỏ rõ hơn cho chúng ta thấy để phần nào cảm nếm tình thương và lòng thương xót mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi. Điều này đã được minh chứng qua sứ vụ của Chúa Giêsu khi Ngài vâng theo thánh ý Chúa Cha, đến nỗi đã chấp nhận chết nhục nhã trên thập giá để cứu chúng ta. Qua Tin mừng của Gioan, khi Chúa Giêsu nhắc lại biến cố con rắn đồng ở trong sa mạc năm xưa đã cứu sống những ai biết ăn năn sám hối, biết quay đầu để nhìn lên nó thì được Chúa tha thứ và cứu sống, dẫu cho họ đã biết bao lần bất tuân, phản nghịch, chối bỏ và tỏ lòng bất kính với Thiên Chúa. Thì Đức Kitô Giêsu hôm nay trên thập tự giá cũng chính là nguồn ơn cứu sống cho tất cả chúng ta những ai vì yếu đuối mà phạm tội, những ai đã chối bỏ và khước từ Chúa, giờ đây có cơ hội để sám hối ăn năn và tin vào Đấng đã chịu đóng đinh. Trong cuộc sống, chúng ta không biết bao nhiêu lần cũng đã như dân Do Thái xưa, đã không tin vào Chúa, không tin vào Sứ Giả Chúa sai đến nên đã phạm tội. Thế nhưng, Thiên Chúa qua Giáo hội và qua các bí tích ban ơn tha thứ, thánh hóa, đặc biệt là bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ơn thánh Chúa ban, không hệ tại nơi công trạng hay việc làm của chúng ta, nhưng nhờ vào chính công nghiệp từ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô; đồng thời, Chúa cũng thương cho chúng ta được cộng tác với Ngài qua thái độ khiêm tốn và lòng tin.
Sứ điệp cũng như chứng tá mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã mang đến Irak đang mời gọi tất cả nhân loại là: Hãy tin vào Thiên Chúa, hãy tin như Apraham, hãy khiêm tốn và hành động theo lòng tin của chúng ta vào Chúa. Qua Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết xác tín hơn vào tình thương, lòng khoan dung và ơn thánh của Chúa dành cho chúng ta qua chính công cuộc của Đức Giêsu Kitô, để nhờ đó, chúng ta cũng luôn sống đáp trả với lòng tin vào Chúa và lòng mến cho tha nhân. Amen.
46.Tin vào Con Thiên Chúa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Trong bối cảnh của chương 3, đoạn 3,14-21 là một độc thoại được xem là lời của Chúa Giêsu. Người nói về Thiên Chúa, chính mình và con người ở ngôi thứ ba. Đoạn độc thoại nầy có thể được nối tiếp bởi đoạn 3,31-36 như là bổ sung và tóm kết những ý tưởng chính. Trong khi, cuộc đối thoại của Nicôđêmô với Chúa Giêsu được trình bày song song với cuộc đối thoại giữa Gioan và các môn đệ của ông (3,1-12 // 3,22-30). Cả hai đều bàn đến phép rửa và liên kết với hai cuộc độc thoại bằng chủ đề nầy.
Những từ vựng dùng để trình bày về Chúa Giêsu như: tin, Người Con duy nhất, sư sống, ánh sáng, bóng tối trong 3,14-21 đã gặp trong 1,1-21 rồi. Tuy nhiên, điểm khác biệt là đoạn 1,1-12 bàn đến sự nhập thể, còn đoạn nầy đề cập đến sự cứu độ của Người (3,14). Nếu như đã đón nhận Chúa Giêsu từ lúc Người xuống thế làm người, thì cũng đã tin vào công trình cứu độ của Người; và ngược lại. Đoạn 3,14-21 chia thành hai phần mô tả hai thái độ và hành động khác nhau liên quan đến Chúa Giêsu: 3,14-18 và 3,19-21.
Trong đoạn 3,14-18, Thiên Chúa là vai chính và Chúa Giêsu được gọi là Con, Con Một, Con Một của Thiên Chúa. Công việc của Thiên Chúa là yêu mến và muốn thế gian được cứu độ, nên đã ban/gởi Con Một đến. Công việc nầy của Chúa Cha sẽ được Chúa Giêsu nói rõ hơn sau nầy: phần Người là cứu chuộc nhân loại (4,34; 17,4); phần con người là tin vào đấng Chúa Cha sai đến (6,29; 10,38). Vậy thái độ căn bản của con người là tin vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh để được sự sống muôn đời (3,15.16.17).
Ngược lại công việc của Thiên Chúa là công việc của con người nói chung được trình bày trong đoạn 3,19-21. Chúa Giêsu được gọi là ánh sáng (3,19.20[2x]), đối nghịch với bóng tối. Thái độ của những người thuộc hạng nầy: yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, nghĩa là ghét ánh sáng (15,24), và kéo theo hậu quả là không đến với ánh sáng. Công việc của họ là xấu, nên họ không muốn bị tỏ lộ (3,19-20; 7,7). Việc gì của họ gọi là xấu? Việc của họ trước tiên là không tin vào những sự thật Chúa Giêsu nói cho biết, nhất là sự thật Người là Con Thiên Chúa (cf. 8,46-47; 14,6). Tiếp đến, như là hậu quả của việc không tin, họ tìm giết Sự Thật (8,40.44.46; 10,32). Công việc sát nhân nầy cha ông của những người ấy cũng đã từng làm (cf. 8,41).
Hành động ngược lại là làm theo sự thật (3,21), nghĩa là làm công việc của Thiên Chúa: “Công việc của Thiên Chúa là anh em hãy tin vào Đấng Người đã sai đến” (6,28-29). Không thể tin vào Chúa Giêsu là sự thật và làm theo sự thật của những điều Người dạy nếu không có Thần Khí Sự Thật dẫn đường (cf. 16,13). Muốn thế, con người cần được tái sinh bởi Người (cf. 3,1-12).
47.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Ga 3:14-21: Thánh giá được treo cao nơi bàn thờ tư gia của Kitô hữu, vút cao nơi chóp tháp của thánh đường để nhắc nhớ mọi người về Người can đảm vác lấy thập giá để tỏ bày tình thương và sự cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho các tội nhân quay về với Chúa.
Suy Niệm:
Địa danh vương quốc Ba Tư có lẽ ngày xưa là quốc gia rộng lớn, chiếm phần lớn các nước Tây á, bao gồm Iran và Iraq ngày nay... Những người thuộc thế hệ trước đã quen địa danh với cuốn truyện Nghìn Lẻ Một Đêm, còn những bạn trẻ sau này cũng được biết về Ba Tư qua truyện Đôrêmon – Chú mèo máy thông minh. Ngày xưa, dân Do Thái vì bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày sang Ba Tư. Nhưng sơ đồ thường thấy trong Kinh Thánh “Tội – phạt; hối – cứu” được thể hiện để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa. Nghĩa là vì phạm tội nên con người bị phạt – nhưng nếu biết sám hối thì được Thiên Chúa ra tay cứu vớt. Vì lòng thành tín và yêu thương nên Ngài đã soi sáng cho vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép dân Do Thái hồi hương, gầy dựng lại đền thờ.
Chúa Giêsu nhắc lại quy luật của Thiên Chúa “Tội phạt; hối cứu” qua câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời”. Nếu như con rắn là biểu trưng cho cái độc, sự chết để trừng phạt những người phản nghịch và tội lỗi, thì với các tội nhân khi nghe theo Môisen giảng dạy và tin vào lời Chúa hứa cứu dân khi bất cứ ai bị rắn cắn mà hướng nhìn lên con rắn đồng Môisen treo trên cây gỗ, người ấy đã nắm lấy cánh tay cứu chữa của Thiên Chúa. Từ đây, hình ảnh chữa lành của của ngành Y là con rắn quấn quanh cây gậy, còn ngành Dược là con rắn quấn quanh cái ly biểu tượng của sự bào chế.
Cũng vậy, thập giá là hình thức mà những người Do Thái dành cho những kẻ có tội mang án tử, thì qua Người Con Một, Thiên Chúa mặc khải về tình thương của Ngài dành cho thế gian, Người đã biến thập giá như án tử cho kẻ tử tội thành Thánh giá để cứu chữa các tội nhân. Việc Chúa Giêsu chịu giương cao trên thập giá nói lên sự vinh thắng của Người. Người nhận lấy muôn vàn tội dữ đáng chết của con người và bến cây gỗ sự chết thành cây sự sống để cứu vớt những kẻ hư mất. Chúa Giêsu không khước từ thập giá Cha trao, không chạy trốn việc vác thập giá nặng nề vì tội lỗi của loài người. Và cũng từ ấy, Thánh giá không trở nên một sự đau thương mà là biểu tượng của niềm hy vọng. Thánh giá được treo cao nơi bàn thờ tư gia của Kitô hữu, vút cao nơi chóp tháp của thánh đường để nhắc nhớ mọi người về Người can đảm vác lấy thập giá để tỏ bày tình thương và sự cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho các tội nhân quay về với Chúa.
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Người này có quá nhiều tội nặng, mặc cho cha xứ rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, người đó vẫn không chừa tội và lại tiếp tục sa ngã. Bực quá, cuối cùng cha xứ quát lên: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha cho anh tội này đâu!”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị cha xứ cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu rời khỏi lổ đinh và đưa ra ban phép lành tha tội cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ quay lưng với người có tội trở về với Chúa. Xin cho Chúa nhật Hồng này đánh dấu chặng đường nửa mùa Chay thánh con bước đi, để còn những lầm lỗi nào, con quyết từ nay quay về với Chúa. Amen.
48.Ánh sáng và bóng tối--Lm Nguyễn Khoa Toàn
Những ngày này quanh quẩn bên người mẹ đang thoi thóp thở những làn hơi cuối ở quê nhà, thỉnh thoảng mẹ lại thều thào nói đang đến được một vùng tràn đầy ánh sáng có rất nhiều thiên thần bay lượn vây quanh. Rồi khi cắn chặt răng quằn quại với cơn đau điến người thịt xác, mẹ mê sảng la lên qủy ma đang chực chờ ẩn hiện đưa mẹ đến một nơi xa thật xa vô cùng tăm tối.
Tìm đọc một vài tin tức địa phương để 'thư giản' vãn thời gian, điều đầu tiên đập ngay vào mắt là chuyện dài... cúp điện! Người dân ở đây cơ hồ như quen với lúc tối lúc sáng lúc có lúc không đã từ lâu nên chẳng mấy ai thở than. Mà giả như có muốn thì cũng chẳng biết nơi đâu mà trút tiếng thở dài!!!
Có ai đó nói rằng bất hạnh của người này là hạnh phúc của người kia. Điều này thật vô cùng đúng mỗi khi điện cúp vì đây là cơ hội bằng vàng cho những tay đạo chích. Thời tiết oi bức khó chịu nên sau một ngày dài làm việc khi vừa bước vào nhà mà điện đóm lại không có, việc đầu tiên là mở tung mọi cửa sổ rồi tắm một cái cho đã đời. Bọn trộm chuyên nghiệp chỉ chờ có thế! Dùng những cần dài với móc câu trét đầy 'keo dính chuột' cực mạnh, chúng câu bất cứ cái gì mà khổ chủ vô ý bỏ quên!
Đau đớn hơn, họ còn là nạn nhân của những tên trộm ngày thời đại -những cái gọi là 'đầy tớ nhân dân': đám quan lại tham ô hủ hóa dùng đủ mọi thủ đoạn tinh vi đến man rợ rợn người đục khoét công qủy nhởn nhơ vênh vang sống ung thối trên mồ hôi nước mắt của chính đồng bào máu thịt -những người dân tội nghiệp ba miền hiền lành khốn khổ ngụp lặn miệt mài lây lất sống cháo buổi mai khoai buổi chiều. Ngày cũng như đêm! Bóng tối đương nhiên đồng nghĩa với xấu xa nhưng ngay cả ánh sáng cũng đã chưa dọi chiếu hết bình minh công chính cho phần đất quá cơ khổ này. Lo toan đè nén ban ngày rồi trăn trở sợ sệt lo âu khi hoàng hôn vừa buông xuống. Thương ôi! "Người chết hai lần..."
Khi xã hội chỉ biết đắm chìm vào việc phát triển kinh tế và con người chỉ mãi lặn lội giữa những sóng đời vật chất, tình nhân loại và nghĩa đồng bào đã không còn nữa. Và khi mọi trọng tâm chỉ chuyên chú vào chỉ tiêu báo cáo, khi giá trị con người chỉ được nhìn qua lăng kính thành tích thi công, tôn giáo và luân lý khó có thể nẩy hạt gieo mầm. Như Dorothy Thompson viết: "Khi Thiên Chúa ra đi, tất cả sẽ ra đi." Hoặc như George Washington phát biểu trong bài diễn văn từ biệt: "Luân lý sẽ chẳng có thể trường tồn nếu không có đức tin và tôn giáo."
Thiên Chúa không thể ra đi khi mỗi chúng ta luôn tin vào Con Một Chúa. Nhưng tin vào Con Một Chúa không phải giản đơn chỉ tin những gì đã xảy ra bên này và bên kia bờ sông Babylon hơn hai ngàn năm trước rồi lãng quên hoặc sống cùng sống với thực tế chung quanh. Tin vào Con Một Chúa là phải sống như Con Một Chúa.
Sống như Con Một Chúa là phải luôn "yêu sự sáng" và "đến cùng sự sáng" bằng "hành động trong sự thật". Ở đây, sự thật đã thật khó tìm mỗi khi hoàng hôn xuống. Và cũng chẳng dễ tìm khi bình minh vừa ửng hiện chân trời. Tự dưng muốn ngồi bên một bờ sông vắng, treo cây đàn, khóc thương về một chốn củ nơi xưa!
49.Dĩ độc trị độc--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn tượng trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không đẩy xô con người xuống hố diệt vong. Đó là con rắn đồng trong sa mạc. “Ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,” (Ga 3:14) để “tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” (Ds 21:9) Con rắn đã mang một bộ mặt mới kể từ ngày Thiên Chúa tìm cách cứu con người khỏi hố diệt vong.
TÌNH YÊU BA CHIỀU
Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thiết lập được một tương quan ba chiều với Chúa Cha, con người và vũ trụ. Người đã phải trả một giá rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không thương yêu thế gian tột độ, không bao giờ có cuộc hi sinh lớn lao đó. Đức Giêsu xứng đáng là một vị thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn dân. Nhưng Người đã không đến với tư cách đó. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Sự công chính đã mang bộ mặt tình yêu. Chính vì tình yêu đó, Đức Giêsu đã phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng trên thập giá. Đó là giá rất đắt. Con Thiên Chúa đã phải trả cho chúng ta.
“Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó nhằm lập tương quan thân ái với nhân loại và vạch ra con đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu treo trên thập giá. Đó là con đường dẫn ta thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật. Chính Đức Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16)
Thập giá trở thành trung tâm trong chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994: 262). Ngước mắt nhìn lên thập giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu độ. Bởi vì chính trên cây thập giá Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về bản tính mình. “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:28). Đức Giêsu chính là Đức Chúa và nguồn sống cho vạn vật và con người. Không tin vào chân lý đó tức là tự lên án chính mình. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Chính cây thập giá sẽ phân nhân loại làm hai hạng người tin và không tin. Thập giá không phải là dấu chỉ của án phạt. Nhưng không tin cái chết của Đức Giêsu có sức mạnh cứu độ mới dẫn tới hư vong. “Đức Giêsu là cơ hội chứ không phải là nguyên nhân” (Fahey 1994:263) của việc phán xét. Cây thập giá là một biểu tượng cho mọi người thấy tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt tới mức nào.
Như vậy cây thập giá đã chứng tỏ tình yêu riêng của Đức Giêsu (Ga 13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Tình yêu là động lực chi phối toàn bộ sứ mạng Đức Giêsu dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ đại, vượt quá tầm hiểu biết. Quả thực, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng ta trở thành “con cái ánh sáng” (Ep 5:8). Bởi vì chính Đức Giêsu là “ánh sáng đã đến thế gian.” (Ga 3:19) Không phải ai cũng đón nhận được hồng ân cao cả đó. Thực tế, “người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19) Chính việc làm đã tạo thành một bản án đeo vào cổ họ. Số phận thật tang thương! Định mệnh thật khốc liệt!
Nhưng trong quá khứ, ngay lúc bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện trọn vẹn giấc mơ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử! Thực vậy, “để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba tư” (Sb 36:22), để vua “ra lệnh phục hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết đền thờ” (Fahey 1994:261). Bởi đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt đẹp nhất.
TRỜI BỪNG SÁNG
Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho những ai tin tưởng tuyệt đối nơi Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song đôi. Tin là con đường dẫn tới sự sống. Đức Giêsu đã củng cố tinh thần những ai run sợ trước thần chết: “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Đức tin vô cùng quan yếu cho con người. Theo Martin Luther, “đức tin là một thực tại sống và bởi thế gồm những nhân đức thương yêu và hi vọng, kinh nghiệm sống hiệp nhất với Thiên Chúa, và khát vọng sống kết hiệp với Chúa tới muôn đời” (Cook 1995:512). Chính vì thế, không tin, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô vị.
Khi tin, con người sẽ thấy mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta không những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn khiến chúng ta tự do yêu thương nhau và bởi đó đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ tình yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống trong tình yêu là đi trong ánh sáng. Đức Giêsu muốn chúng ta là “ánh sáng cho trần gian” (Mt 5:14). Nguồn cung cấp ánh sáng chính là tình yêu, một tình yêu phải được sự thật giải thoát. Đó là lý do tại sao Chúa nói “kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng” (Ga 3:21). Đi trong tăm tối trần gian hay sống dựa trên sự lừa đảo, gian dối, không thể tìm được nguồn sống và nguồn sáng đích thực. Do đó cuộc đời mãi mãi là nô lệ.
Muốn thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than đó, phải “tin tưởng và xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta. Tin là phó thác những chương trình hiện tại và vận mệnh đời đời nơi Đức Kitô. Tin là vừa xác tín lời Chúa có thể thực hiện và cậy dựa vào quyền năng biến đổi của Người” (Life Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như thế, chúng ta sẽ thay đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn và nếp sống. Từ nay không còn gì xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đức tin giúp ta “bắt đầu lượng định tất cả sự việc xảy ra theo nhãn quan vĩnh cửu” (Life Application Study Bible 1991:1878).
Hơn nữa, tin tưởng còn có nghĩa là “làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng trên quyền lực sự dữ trong chúng ta và trên thế giới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu cực, nhưng luôn thúc đẩy con người đi tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi người vào cuộc sống hạnh phúc và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có niềm tin ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha nhân cho những mục tiêu trần tục. Đó là điều những người vô thần đã làm. Đứng trước đài kỉ niệm Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ nghĩa Nazis, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Chỉ có chủ thuyết không có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối người như vậy” (VietCatholic 23/3/2000). Những hành động cuồng điên đó không những phát xuất từ niềm tin vô thần, nhưng còn là kết quả của những thất vọng lớn lao. Từ thất vọng đến tuyệt vọng.
Nhưng “ngay trong những giờ tuyệt vọng, không phải mọi ánh sáng đều đã tắt hết đâu” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 23/3/2000). Lý do vì ngay lúc khốn cùng và nguy hiểm nhất, người tín hữu vẫn có thể thưa với Chúa: “Con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa, con dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con.” (Tv 30:15) Nói lên được điều đó thật là can đảm. Ngày nay vẫn còn rất nhiều tâm hồn can đảm như thế nơi những Kitô hữu trên quê hương Việt Nam.
50.Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Minh Hùng
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con".
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: "Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ".
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm. Có lẽ, nếu có so sánh với trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiễng. Lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn cho đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về nỗi yếu đuối của bản thân mình, nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên Chúa không mảy may vướng một lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.
Đọc bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu tiên, câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", tôi bỗng nhớ tới câu chuyện cảm động bên trên, để càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Tha thứ là gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận ra trong câu nói của Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", có liên quan thế nào với tình yêu tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc? Sau khi xuất Ai Cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môsê hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
Hình ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu Chuộc. Cũng như con rắn đồng được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa đến bất cứ người nào đã từng được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương cao, nghĩa là lòng tha thứ của Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn vào mà học lấy, mà tha thứ cho nhau.
Lòng tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên Chúa như ném chính Người Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để thực hiện hiện lòng tha thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa.
Trong mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm chính lời Chúa Giêsu: "Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ". Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, việc ăn chay trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng để có tha thứ, cần đến sự hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố sâu ngăn cách bởi hận thù, tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng nhau, phải lấp đầy những ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống, những gì là trao ban, là yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi hãy nhớ rõ một điều: Làm sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải; làm sao có thể nhận được ơn tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh giá ban phép lành để tuôn đổ ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất. Câu chuyện có thể không có thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn thật. Vì thế dẫu cho không có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật rất thật: Lòng Thiên Chúa yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó giúp ta ghi lòng để học lấy lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị em.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy".
51.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Bùi Thượng Lưu
Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời
Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái và cũng là “bậc thầy trong dân Israel” đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Các nhà chú giải Kinh Thánh giải thích rằng hoặc ông là người vị vọng trong dân Do Thái, lại là tiến sĩ luật, phái Pharisêu, sợ dư luận, nên đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm, để tránh những cặp mắt dòm ngó, những lời đàm tiếu. Hoặc ông là môn đệ đầu tiên bắt đầu tin theo Chúa một cách kín đáo, chưa dám công khai. Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ đã đưa Nicôđêmô, một người khát khao chân lý và ánh sáng được gặp thấy chính Đấng đã phán: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14-16). Trong đêm tối của tội lỗi, trong những thao thức băn khoăn đi tìm chân lý, Đức Giêsu đã mạc khải “vén bức màn” bí mật của chương trình cứu độ của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của nhân loại.
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, Nicôđêmô còn xuất hiện hai lần nữa. Một lần trong cuộc tranh luận về nguồn gốc của Đức Kitô: “Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Chúa Giêsu, ông nói với họ: Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7, 50). Lần sau cùng vào buổi chiều ngày thứ sáu chịu nạn, Ni-cô-đê-mô cũng dự cuộc liệm xác của Đức Kitô: “Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược, trộn với trầm hương” (Ga 19-39).
Trong cuộc gặp gỡ với Nicôđêmô trong Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm phụng vụ B hôm nay, sứ điệp quan trọng nhất mà Thiên Chúa muốn mặc khải cho tất cả những tâm hồn đang khao khát sự thật và ánh sáng chính là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)
Vì yêu thương con người đến tột cùng, Chúa Cha đã trao ban Chúa Con cho trần gian, để trần gian được cứu độ (3,16.35) và được sống (5,24-27; 6,39). Sứ mạng của Chúa Con là hoàn tất công trình cứu chuộc của Chúa Cha, đưa con người vào sự hiệp thông hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con. Lịch sử nhân loại, lịch sử dân Do Thái, lịch sử Hội Thánh hay xác thực hơn, lịch sử của mọi người tín hữu chúng ta đều là Lịch Sử Ơn Cứu Rỗi.
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3, 17-18). Như vậy:
1. Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha (xem 3,16-18; 14,1.10; 17, 21-25; 20,31), là đến với Đức Giêsu và gặp Người (6,35-37), là biết Người và cùng với Người biết Chúa Cha (10,38; 11,40; 14,7.20). Đức tin còn là một hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha (6,37.44.65).
2. Tin là nhìn lên Con Người (1,51) được giương cao (12,32) và đặt trọn niềm tin vào ĐẤNG BỊ TREO LÊN trên Thập giá, Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi... Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện ghi trong sách Dân Số (chương 21, 4-9): trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn đã kêu trách Chúa, nên bị nạn rắn cắn. Chúa đã truyền cho Môsê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Con rắn đồng đã trở lên dấu chỉ của sự cứu sống. Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người bị hành hạ và bị treo trên thập tự giá. Tất cả những ai nhìn lên và tin vào Ngài, sẽ không bị con rắn xưa là ma quỷ ám hại. Ngày nay, người ta đã dùng dấu hiệu con rắn treo trên các nhà bán thuốc tây hay dùng trong y học như biểu tượng của sự cứu chữa bệnh tật.
3. Người tin (3,12) bước vào một cuộc sống mới (4,14; 6,27; 17,3). Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Mêsia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ (Ba lời thề hứa trong khi lãnh nhận Phép Rửa). Phải, chính trong đêm tối của tội lỗi mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm đều xấu”. (Ga 3-19).
Tin là bước đi trong ánh sáng, sống trong chân lý và hành động ngay chính: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 19-21)
Kế hoạch Thiên Chúa là mỗi người được kêu mời lãnh nhận ơn cứu độ. Đó là một mầu nhiệm, Vì, tất cả chúng ta đều đã phạm tội, nhưng nhờ ân thánh, chúng ta được sống lại, được cải tử hoàn sinh với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Cứ nhìn qua nếp sống hưởng thụ ăn chơi đàng điếm của những đô thị lớn trên khắp thế giới, kiểm điểm lại sự sa sút lòng đạo đức cũng như luân lý trong các gia đình di cư, chúng ta sẽ nhận định rõ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa trong thế giới hiện nay.
Mùa chay thánh, mùa ăn năn đền tội sám hối giúp mọi cá nhân tỉnh giấc ngủ say, ý thức thân phận tội lỗi của mình, sự yếu hèn của bản tính con người, để khiêm nhượng hơn, để tin tưởng hơn và mở lòng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, lãnh nhận chính tình yêu lớn lao của Ngài.
52.Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô--JNK
Câu hỏi gợi ý:
1. Con người tội lỗi và rất yếu đuối, nhưng Thiên Chúa có hy vọng biến đổi con người trở nên tốt, nên thánh thiện hơn không? Ngài kết án hay tìm cách giáo hóa con người? Ngài đã làm gì để giáo hóa?
2. Những nỗ lực của các nhà giáo dục có khả năng hữu hiệu biến người thụ giáo nên tốt lành thánh thiện không? Các nhà giáo dục có ban được sức mạnh cho những người thụ giáo với mình không? Còn Đức Giêsu, Ngài có làm được điều đó không? Với điều kiện gì về phía ta?
3. Chúng ta vẫn tự hào rằng mình tin vào Đức Giêsu, nhưng tại sao chúng ta xem ra vẫn còn rất là yếu đuối trước tội lỗi? Có điều gì không ổn trong đức tin của ta không?
Chia sẻ
1. Con người có thể thay đổi: người xấu thành người tốt
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào (đạo, đời), trong bất kỳ lãnh vực nào (chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội), trong bất kỳ cấp độ địa vị nào (cao, thấp), tuổi tác nào (già, trẻ)... cũng đều có người tốt kẻ xấu, người nhiều thiện chí kẻ lắm ác ý, người trung kẻ nịnh, v.v... Tình trạng khác biệt đó không luôn luôn cố định mà có thể biến đổi: người tốt có thể biến thành người xấu, hay ngược lại. Thật vậy, có người rất ác rất xấu, nhưng sau một biến cố nào đó, gặp một ai đó, đọc một cuốn sách nào đó, hoặc sống trong một môi trường mới nào đó, người đó thay đổi hoàn toàn, trở thành một người rất hiền rất tốt. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh có những người như Maria Mađalêna (x. Mt 26,6-13), người trộm lành (Lc 23,39-43); trong lịch sử Giáo Hội có những người như Augustinô...
2. Vai trò của giáo dục
Chúng ta cần phải nắm lấy chân lý này: con người có thể biến đổi, từ xấu thành tốt, cũng như từ tốt thành xấu. Chính vì thế, vấn đề giáo dục rất quan trọng và cần thiết, nó đem lại hy vọng cho Giáo Hội và xã hội. Con người - mà tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương - nếu không được giáo dục, sẽ rất yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi: điều thiện mình muốn làm thì lại không làm, mà điều ác mình không muốn làm thì lại cứ làm (x. Rm 7,15-20). Được giáo dục, con người có thêm sức mạnh để làm điều thiện và tránh điều ác hơn. Tuy nhiên, khả năng này rất giới hạn.
Chính dựa trên khả năng thay đổi này mà có những nỗ lực giáo dục, chuyển hóa con người: nhiều nỗ lực đã thành công vẻ vang, nhưng cũng có nhiều nỗ lực không đi đến kết quả. Để giáo hóa, các nhà giáo dục thường dùng những phương tiện tự nhiên của con người: dạy lý thuyết, khích lệ, dỗ dành, đe dọa, thưởng phạt...
3. Đức Giêsu đến để cải hóa, cứu độ con người bằng đức tin
Thiên Chúa cũng quan niệm con người có thể thay đổi và nhờ đó được cứu rỗi. Khi thế gian bị tội lỗi làm hư hỏng, Thiên Chúa đã không lên án và hủy diệt thế gian, nhưng đã “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Thiên Chúa vẫn hy vọng và chờ đợi con người thay đổi. Vì cho dù tự do của con người đã bị tội lỗi hủy hoại phần nào, khiến con người sẵn sàng làm nô lệ cho điều ác, nhưng con người vẫn còn phần nào tự do. Con người vẫn có thể chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa Thiên Chúa và những gì khác với Ngài. Ngài đã đi bước trước để làm cho hy vọng biến đổi con người thành hiện thực, bằng cách sai Đức Giêsu, Con của Ngài, đến trần gian. Sứ mạng của Đức Giêsu cũng là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), biến họ nên thánh thiện (x. Rm 6,22), và hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16,16; x. Cv 16,31).
Đức Giêsu đến không phải để đem đến một lý thuyết giáo dục, một triết lý mới để con người theo. Ngài đến để cứu con người khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, là những thứ khiến con người đâm ra bạc nhược, ý chí yếu đuối. Ngài đến để đem lại sức mạnh cho con người, nhờ đó con người có thể đủ sức mạnh để thực hiện những điều thiện mình muốn làm, và nói “không” với những điều ác mình không muốn làm (x. Rm 7,15-20). Để có được sức mạnh đó, con người không cần phải học hỏi lý này thuyết nọ. Điều duy nhất và hết sức quan trọng con người phải làm để có được sức mạnh ấy là hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay xác quyết: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Như vậy, sức mạnh đến từ đức tin, tin vào Đức Giêsu Kitô.
4. Giới hạn của giáo dục
Bất kỳ nhà giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhận thấy khả năng giáo hóa của giáo dục rất giới hạn. Giáo dục có thể rất thành công trong việc dạy cho con người biết tất cả điều nào tốt, điều nào xấu, điều nào phải làm, điều nào nên tránh. Nhưng có thể một người biết rất rõ những điều ấy, và thành thật mong muốn làm theo sự hiểu biết ấy, vẫn cảm thấy không đủ năng lực để thực hiện. Người ấy vẫn cảm thấy có một lực nào đó ở ngay bên trong mình khiến mình làm ngược lại. Nghĩa là lực ấy cản trở mình làm điều tốt, và thúc đẩy mình làm điều xấu. Khốn thay, cái lực xấu ác ấy nhiều khi lại thắng và làm tê liệt được sức mạnh của ý chí. Đó chính là điều mà thánh Phaolô cảm nghiệm rất rõ nơi bản thân ông, và ông gọi cái lực xấu ác ấy là “tội”: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì (...) không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (...) Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7,15-20). Đây chính là nguyên nhân của mọi bi thảm trên trái đất: kẻ tội lỗi nhất thế giới vẫn luôn luôn phân biệt điều tốt điều xấu, vẫn luôn ao ước làm điều tốt, vẫn mong trở nên trở nên người tốt, nhưng không làm nổi. Vì lực xấu ác kia quá mạnh, đã lôi kéo, thúc đẩy người ấy làm những điều hắn không muốn. Lực ấy mạnh đến nỗi hắn dường như chỉ biết tuân theo, ý chí yếu đuối của hắn không cưỡng lại được.
5. Sức mạnh và sự cứu rỗi đến từ đức tin vào Đức Giêsu
Trước tình trạng bi thảm ấy, thánh Phaolô đã phải kêu cứu: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,24). Và may mắn thay, ông đã nhận ra người có khả năng cứu ông: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (7,25). Điều này đã được Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng xác nhận điều ấy: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”. Như vậy, muốn được cứu khỏi tình trạng yếu đuối, nô lệ tội lỗi, điều quan trọng là tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đức tin tạo nên sức mạnh: “Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23), vì “nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Khả năng làm được tất cả mọi sự ấy không phải là khả năng của bản thân ta, vì như Đức Giêsu nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5), mà là quyền năng của Thiên Chúa, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,27). Vì thế, khi tin thật sự vào Đức Giêsu, Đấng ban sức mạnh, ta có thể nói như thánh Phaolô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được tất cả mọi sự” (Pl 4,13).
Tin vững vàng vào Đức Giêsu, ta sẽ thật sự trở nên mạnh mẽ. Nhưng hãy xem, biết bao người mang danh là tin Đức Giêsu, vẫn cảm thấy mình còn yếu đuối, còn nô lệ cho tội lỗi. Vậy, vấn đề mà ta cần phải nghiêm túc đặt lại, là ta đã thật sự tin vào Đức Giêsu chưa, hay ta chỉ mang danh là tin Ngài thôi? Đức tin của ta vào Ngài là thứ đức tin nào: đức tin rẻ tiền (tin hờ, tin ngoài miệng) hay đức tin đắt giá (tin thật, bằng hành động, bằng đời sống dấn thân thật sự)? Rất nhiều Kitô hữu cảm thấy an tâm vì tưởng rằng khi tuyên xưng ngoài miệng rằng mình tin thì có nghĩa là mình đã tin. Thật ra, tin là một việc quan trọng, nhưng tin thế nào còn quan trọng hơn rất nhiều. Tin mà vẫn nghi nan trong lòng thì chẳng có tác dụng. Hãy xem gương của Phêrô, khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước đến với thuyền của mình, nhờ tin vững chắc vào Thầy mình, ông đi được trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ và nghi nan trong lòng. Lập tức ông bị chìm xuống (x. Mt 14,25-31).
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã mang danh là tin vào Cha, vào Đức Giêsu biết bao nhiêu năm nay. Nhưng thử hỏi đức tin của con đã biến đổi con thế nào? Con đã thật sự tốt hơn, mạnh mẽ hơn những người không tin chưa? Đáng lẽ có đức tin, con phải vượt hơn họ xa lắm! Phải chăng, con mới chỉ mang danh là tin, chứ chưa thật sự tin? Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thật, một đức tin được minh chứng bằng hành động thật sự.
53.Nội dung mặc khải của Chúa Giêsu (c.14-17)--Alain Marchabour
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sự mới mẻ mà Người mang đến, cần phải là sự hoàn tất mọi điều Kinh Thánh. Con rắn được giương cao trong sa mạc, theo sách Dân số 21,4-9, đã giải thoát các người Do Thái bất trung khỏi phải chết. Từ giai thoại bí nhiệm này, chúng ta nên lưu ý những điểm có thể làm sáng tỏ điều mặc khải tiếp theo sau:
a) Con rắn được giương cao, giống như con người sẽ được treo lên thập giá. Có sự giống nhau từng chữ.
b) Sự chết đe dọa dân tộc là do sự cứng lòng tin. Dân Do Thái được cứu độ không phải bằng một nghi thức phù phép, mà bằng một nghi thức đầy ý nghĩa tượng trưng, đó là đức tin vào Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn ngoan đã hiểu rất rõ điều đó: “Ai nhìn lên (con rắn) sẽ được thoát, không phải nhờ xem điềm lạ đó mà được khỏi, nhưng tại nhờ vào Ngài là Cứu Chúa muôn loài” (16,7). Quả thật, ơn cứu độ do Thiên Chúa mà có.
c) Hiểu rộng hơn, việc tham chiếu với đoạn nói về con rắn bằng đồng kết nối sự giáng thế của Chúa Giêsu với những biến cố Xuất hành. Chúa Giêsu là một Môsê mới, và chắc chắn đối với Thánh sử Người còn hơn thế nữa.
Con Người
sẽ phải được giương cao
để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời
Quả thật Thiên Chúa
yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một
để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết
nhưng được sống muôn đời.
Câu này tóm gọn mặc khải: ở đây chúng ta đang đứng trước những “chuyện trên trời” được nói đến ở câu 12. Nên lưu ý đến kết cấu Do Thái song song: cách phân chia câu cú có thể giúp nhận ra những thành phần của câu tương ứng với nhau: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”: hoàn cảnh và các tác nhân cụ thể gây nên cái chết của Chúa Giêsu không được phơi bày ở đây. Thánh sử chỉ giữ lại sự “nhất thiết” (phải) ăn rễ sâu trong ý định của Thiên Chúa. Việc dùng thụ động tiếp sau đó có thể là một cách hành văn để tránh phải dùng đến từ “Thiên Chúa”. Kết cấu bản văn chứng tỏ sự song song giữa Thiên Chúa yêu thương và Người được giương cao. Từ câu này chúng ta nhận ra bản tóm lược sự mặc khải, chúng ta thử dẫn ra những điểm sau đây:
a) Trong Tin Mừng Gioan, sự nâng lên tương ứng với việc treo lên thập giá (x 2,28’ 12,31-34). Tại sao việc bị treo lên thập giá, “điều ô nhục đối với người Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cl 1,23) lại là tuyệt đỉnh mặc khải nơi Gioan (x. 19,31-37)?
b) Điều đó bởi vì thập giá là nơi phơi bày tình yêu của Thiên Chúa. Từ này xuất hiện ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt nó sẽ được lặp lại trong phần thứ hai của Tin Mừng. “Thiên Chúa đã yêu đến nỗi đã ban Con mình”: cả hai động từ đều được dùng ở thì quá khứ vô định, một sắc thái của thì động từ không dùng trong tiếng Pháp, chỉ định một thời điểm rõ ràng và chính xác (hội nhập vào bước đường lịch sử của Chúa Giêsu và kết thúc trên thập giá). Chính nhờ ân huệ này của Thiên Chúa mà Gioan có thể nói đến tình yêu. Đó là tình yêu hiển thị (1Ga 4,10). Việc nhập thể chính là sự biểu lộ tình yêu mà đỉnh cao là thập giá.
c) Thập giá không phải là nguồn ơn cứu độ ở khía cạnh một của lễ đền tội đẫm máu. Chính bởi vì nó là cách diễn tả cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chúng ta không nên nhìn thập giá như nơi Thiên Chúa trút cơn thịnh nộ, nơi Chúa Con bị Chúa Cha từ bỏ để cứu độ chuộc tội lỗi loài người. Nơi đây Chúa Con và Chúa Cha thông hiệp cùng một tình yêu dành cho nhân loại. Prométhée chịu hình phạt của chúa tể trên chính tảng đá mà chúa tể đã sử phạt mình vì đã mang lừa cho loài người. Và ca đoàn lý giải các nguyên do hình phạt bằng những lời lẽ này: “Đó là kẻ thù của Zeus, kẻ đã chấp nhận sự căm hờn của mọi thần linh vì đã quá yêu loài người”. Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu loài người được Thiên Chúa Cha và Con cùng chia sẻ.
d) Cho dù ông Nicôđêmô đã biến mất cách lạ lùng, thì cũng một chủ đề đó kết nối phần thứ hai của bài trần thuật với phần bài mà ông có mặt: ông này, ngờ vực, đã không muốn tin rằng một người già có thể sinh ra lần thứ hai. Ở đây chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa trên thập giá có năng lực làm cho những ai tin vào Người được sống muôn đời.
TIN VÀ KHÔNG TIN (cc. 18-21)
Nếu tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là vô điều kiện, thì nó mời gọi lời đáp trả của con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người bây giờ phải lựa chọn: chính bây giờ mà việc xét xử được thực hiện. Tính cách quyết liệt và lập tức của việc xét xử là hiệu quả sự hiện diện của Đấng mặc khải: Người hiện diện, con người bắt buộc phải lựa chọn và từ sự lựa chọn này phát sinh ngay từ bây giờ hoặc ơn cứu độ hoặc án phạt. Sự đối nghịch bóng tối/ánh sáng nhắc đến những đoạn văn rất quen thuộc với cộng đoàn Cumran. Thế nhưng Gioan tránh né khía cạnh định mệnh những người Etxênô: chính sự tự do của mỗi người kéo theo sự chia cách và từ đó sự xét xử. Đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng (12,46-48) lặp lại những chủ đề đó cùng với một loại từ ngữ, đến nỗi có vài nhà chú giải đã nghĩ rằng Ga 3,16-19 và 12, 46-50 có thể là hai bản dịch của cùng một bài giảng của cộng đoàn Gioan. Giả thuyết này (không thể xác định được) có cái lợi là chứng tỏ thánh sử đã soạn thảo Tin Mừng như thế nào: ông có sẵn nhiều nguồn và ông đã lựa chọn. Một vài mảng văn đã có thể được thêm vào trong những lần in ấn khác nhau. Chỉ có tác giả là người hoàn tất việc soạn thảo Tin Mừng, chịu trách nhiệm toàn tập.
Cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô và sự mặc khải tiếp theo, tạo thành một đỉnh cao về Chúa Kitô trong Tin Mừng Gioan. Cộng đoàn, đối mặt với Do Thái giáo, được mời gọi xác định căn tính của Chúa Giêsu và tách mình ra khỏi trào lưu Do Thái, cho dù nó có gần gũi với cộng đoàn (như trường hợp ông Nicôđêmô), bởi vì những người Do Thái đã không sẵn sàng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng mặc khải của Thiên Chúa, là Chúa Con nhờ người Thiên Chúa nói lời cuối cùng với nhân loại.
54.Một tình yêu không thể tin được--Lm. Phanxicô X. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu.
- cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
- ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
55.Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu--Noel Quesson
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý tưởng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn bằng chết vì bạn hữu”.
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đã đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa…” thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đọa, mất lương tâm nghề nghiệp… Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v,v… Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Người không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu… đó là cuộc sống từ trên ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4).
Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hỏa ngục”. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”. (Ga 3,17-19).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu chuộc chúng con.
56.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Chú giải của Noel Quesson
Như ông Môsê đã gương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm", "đưa mắt" hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh trong suốt "bốn mươi" năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm "một dấu hiệu chữa trị", một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người" (Kn 16,7).
Qua sự giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái "nhìn" tự nó không chữa. lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị đoan. Nhưng đó là dấu chỉ "Đức tin", nghĩa là nhờ một cử chỉ bên ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang "quay về" với Thiên Chúa.
Con người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời.
Vâng, thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.
Cần phải dám ngắm nhìn "Đấng chịu đóng đinh" đó, Đấng được "giương cao" trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao" ("upsothènai" trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được "giương cao) trên thập giá, vừa được "đưa lên" ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).
Vâng, thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm "hình ảnh” này, và đây là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với Gioan, "Thập giá" và "Phục sinh" thuộc cùng một mầu nhiệm mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: "Đức Giêsu được đưa lên cao khỏi đất". Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ "vinh quang" của Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa
Ngay khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh" (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: "'Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác... phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12,23-32).
Vậy khi đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được "gương cao" giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là "đỉnh cao của tình yêu”: Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người bị tra tấn đến ứa máu, chính là một "chóp đỉnh của đau đớn" và chết chóc", nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần phải nhắm mắt lại để "thấy" những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh tượng trên mới chỉ là "dấu chỉ": Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt tâm hồn con người đó, Đức Giêsu "không ai có tình thương lên hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là "dấu chỉ” của một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người" (Ga 3,16).
Vì thế, các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ "vinh quang" nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh "Lạy Cha".
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.
Thời đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: ‘Thế gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được’ chúng ta cũng dễ hiểu sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp, lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng... Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một ‘cái nhìn yêu thương’, thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng sống cho anh em.
Người đã ban cho Con Một mình
Hai động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: "Yêu và cho"! Ta hãy cầu nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.
Ta cũng nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: “Một" hay "độc nhất" (tiếng Hy Lạp là ‘Monogénes’). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó được đưa vào trong kinh Tin kính: "Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa". Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại chấp nhận một cách kỳ diệu ‘hy sinh’, ‘ban tặng’ đứa con đó: thánh Gioan nhớ rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng "Con Một" Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể nghĩ ngược lại được: “Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất", Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).
- Thiên Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một "sự sống từ trời" được ban tặng (Ga 3,3).
- Thiên Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.
- Thiên Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ.
- Công trình của Con Người cũng là "công trình của Thiên Chúa" (1Tm 2,4).
Ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên Chúa là "Đấng hằng sống" tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định "cứu độ phổ quát" của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành tựu, con người còn phải chấp nhận "ân huệ" đó. Hiển nhiên không thể tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế, thì thật sự là tạo một thứ "hỏa ngục". Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người: Kẻ nào không muốn "sự sống" mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự "đối diện với Thiên Chúa".
Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
Trích đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.
Đoạn văn quả quyết hai điều:
- Một là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người.
- Hai là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên Chúa.
Như thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự. Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc "lên án" không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng "diện kiến" tự kết án mình trở thành một thế giới "ở bên ngoài" Thiên Chúa; một thế giới chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.
Chúng ta cần ghi nhận rằng, "bi kịch của thái độ vô tín" không chỉ là một vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình, thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của Thiên Chúa "Đấng không đến để xét xử".
Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: "Mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa"
Sau hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ không ngừng tạ ơn tình yêu đó và ‘sự sống vĩnh cửu’ này đã khởi sự, đó là một sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một ’sự nghỉ ngơi đời đời’. Đối với Tin Mừng thứ tư, đó là một ‘sự sống vĩnh cửu’, tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã nói: "Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng". Sống là “hành động"! Đó là những "hành động", những "việc làm"; những "công trình". Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những "việc làm của con người" cũng được công nhận như những "việc làm của Thiên Chúa”. Đó là cuộc sống vĩnh cửu.
57.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Fiches Dominicales
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI…
(Ga 3,14-21)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. Ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tìm đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí" (3, 5).
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
+ Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao; hễ ai nhìn lên con rắn đồng với lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7).
+ Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống, ban sự sống của Thiên Chúa. “Bị treo lên", Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên "Con Người bị đóng đinh và phục sinh” thì được Người ban cho sự sống đời đời.
+ Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa, của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon-Dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L'evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
X. Léon-Dufour giải thích thêm: "trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lại, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu "bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).
BÀI ĐỌC THÊM
1) "Cái nhìn cứu sống"
(G.Bessière, trong "Dieu si proche" năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương, Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: "Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống" (Ds 21, 8)
Ở đây sự so sánh nằm ở từ "treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiến sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy "tin". Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy? - "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng "để nhờ Người mà thế gian được cứu sống".
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình.
Phải chăng, như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: "Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng...”
2) Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp "Thư gởi những người công giáo Pháp", Cerf, trang 55-56).
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì "cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.
58.Đàm thoại với Nicôđêmô (Ga 3,14-21)--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thánh Gioan viết cuốn Tin mừng của ông khoảng 60 năm sau khi Chúa Giêsu về trời. Trí nhớ của tuổi già, thường rất chính xác khi gợi lại những kỷ niệm thời thanh xuân, đã giúp ông nhớ lại một vài cảnh đặc sắc trong đời Chúa Giêsu và nhiều giáo huấn đặc biệt của Thầy. Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục câu chuyện Nicôđêmô đến đàm thoại với Chúa Giêsu về đề tài đức tin và sự tái sinh thiêng liêng. Sau khi tường thuật, vị thánh sử gộp lại trong suy tư riêng một lô giáo huấn Chúa Giêsu đã ban hay đã gợi ý mà ông đã thâu thập và đào sâu. Ông trình bày chúng dưới ánh sáng của Chúa Giêsu phục sinh cùng trong lối văn riêng của mình, là nhớ thế đã cho chúng ta một vài phản ảnh sống động về một đức tin được trực tiếp nuôi dưỡng tận nguồn (Gioan dã biết Chúa Giêsu) cùng được suy niệm cách sâu xa (Gioan đã sống đức tin với tư cách môn đồ hết mực trung tín).
2. Ở đây thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô vẫn luôn gói trong các thư của ông là "mầu nhiệm" cứu rỗi do Thiên Chúa đem đến để ta tin: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần để cứu rỗi thế gian. Những ai được hưởng ơn rỗi là kẻ, khi gặp Chúa Kitô, đã tin vào Người.
3. Từ ngữ "Con Người" xuất phát từ ngôn sứ Đanien (7,13). Một cách chung chung, tước hiệu được Tin mừng Gioan áp dụng cho Chúa Giêsu để biểu thị vai trò cứu thế của Người qua việc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh, nên có thể hiểu như là "Con Thiên Chúa làm người". Như vậy ta thấy Chúa Giêsu là Đấng thể hiện được kiểu mẫu hoàn hảo của con người tự hoàn thành lấy mình vì đã tự vượt thắng mình trong Thiên Chúa. Thánh Gioan còn ghi lại: "Con Người đã bị giương cao". Đây là việc treo lên thập giá. Lời này ám chỉ đến câu chuyện Môsê treo con rắn đồng được sách Dân số kể lại (Ds 21,6-8) Sách kể rằng: khi đang ở trong một vùng nầy rắn rít lúc đi qua sa mạc, người Hy bá đã được kháng nhiễm một cách lạ lùng khỏl nọc độc của chúng bằng cách nhìn lên một con rắn đồng Môsê treo lên nơi cao. Câu chuyện này được thánh sử gợi lại như biểu tượng cho thực tại thiêng liêng của ơn cứu độ được ban cho hết những ai nhìn về thập giá Chúa Kitô vui lòng tin.
4. "Ai tin vào Người thì không bị án xử, kẻ không tin vào Người thì đã bị án xử rồi". Cách nói này cho thấy niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô bao hàm sự dấn thân dứt khoát và sau cùng sẽ đem lại công hiệu. Nghĩa là đức tin của tôi hôm nay (mà tôi luôn giữ vững) sẽ cứu tôi trong ngày tôi chết và trong ngày cánh chung. Giữa cái hôm nay và ngày sau hết của đời tôi, có thể xảy ra nhiều thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi vào vị thế khỏi bị kết án, nghĩa là đặt tôi trong ơn tha thứ của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón và trong tình bằng hữu của Ngài. Điều này giải thích cho thấy sự nồng nhiệt của đức tin tôi hôm nay có một tầm quan trọng rất lên đối với cuộc gặp gỡ sau cùng của tôi với Thiên Chúa; mỗi ngày hiện tại chuẩn bị ngày cuối cùng đời tôi. Song nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu, hồng ân lạ lùng là tình bằng hữu của Thiên Chúa cũng đến ngay bây giờ trong tôi và biến đổi tôi rồi. Niềm tin này lôi kéo tôi sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn trung thành với Tin mừng. "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng".
5. Sự tự do hành động mà Nicôđêmô được hướng cũng là một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, Đấng để con người bước đi theo ý họ, ngay cả trên đường nẻo gian tà, thù hận và chết chóc. Thiên Chúa chỉ muốn làm một điều là ban Con Một, sai Người đến giữa nhân loại để chịu đau khổ và chết chóc hầu cứu rỗi họ. Cả Chúa Cha lẫn chúa Con đều không muốn ép con người yêu, nhưng chỉ kêu mời họ yêu từ đỉnh thập giá. Hai Đấng cũng tránh không phán xét hay kết án con người ngay ở đời này. Chính con người và chỉ mình họ tự làm quan tòa cho mình, tùy như họ cởi mở đón nhận hay từ chối ánh sáng.
6. Như thế con người của Chúa Kitô, qua hành động và lời nói, tỏ hiện ra như là nơi gặp gỡ hay chia rẽ của nhân loại. Theo Tin mừng Gioan, mọi người đều phải đối chất với Chúa Kitô, dù chỉ là một cách mặc nhiên, khi họ thông đồng với sự ác, hay khi họ khát vọng chân lý, sự thiện. Từ khi Ađam ẩn núp khỏi mặt Thiên Chúa, con người luôn luôn có khuynh hướng trốn tránh Thiên Chúa, tha nhân và chính mình, để khỏi lộ tẩy các hành vi xấu xa của mình, nhất là những hành vi bên ngoài có vẻ tốt hảo. Ai cố ý quay lưng lại với chân lý dầu chân lý ra sao - thì liều mình chết trong sự mù quáng tội lỗi. Ngược lại, ai tỏ ra trung thành trong thực tế với chân tý mà mình đã thoáng thấy - dầu chân lý đó hạn hẹp mặc lòng – thì cũng được Chúa Kitô hứa cho sống và dược thông hiệp với Thiên Chúa Cha.
59.Con Người phải được giương cao (Ga 3,14-15)--William Barclay
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu. Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
1) Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:
a) Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
b) Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
c) Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.
2) Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
a) Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
b) Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
c) Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
d) Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
e) Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
1) Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
2) Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
3) Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.
TÌNH YÊU VÀ XÉT XỬ (Ga 3,17-21)
Đến đây chúng ta lại đối diện với một trong những điểm dường như nghịch lý trong Phúc Âm Gioan –nghịch lý giữa yêu thương và xét xử. Chúng ta vừa suy nghĩ về tình yêu của Chúa và bây giờ thình lình phải đối đầu với sự xét xử, buộc tội và kết án. Gioan vừa mới tuyên bố Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài cho thế gian; rồi ông tiếp tục cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nói: “Ta đã đến thế gian để xét xử” (Ga 9,39). Làm sao cả hai điều trên đây đều đúng được?
Chúng ta có thể tạo cho một người kinh nghiệm chỉ có tình yêu mà thôi, nhưng chính kinh nghiệm đó lại trở thành hình phạt cho người ấy. Chúng ta có thể cung ứng cho một người một kinh nghiệm vui sướng hạnh phúc, nhưng kinh nghiệm đó lại là một hình phạt cho người ấy. Giả như chúng ta rất thích nhạc đại hòa tấu, dường như chúng ta cảm thấy rất gần gũi với Chúa trong tiếng vang rền của âm điệu hơn bất cứ nơi nào khác. Giả như chúng ta có một người bạn không biết gì về âm nhạc, chúng ta muốn giới thiệu với người bạn ấy cái kinh nghiệm tuyệt diệu của mình, để chia sẻ cho họ và tạo dịp tiện để họ được tiếp cận với vẻ đẹp vô hình của âm nhạc mà chúng ta thích thú. Chúng ta không có mục đích gì khác ngoài ra làm cho bạn mình thấy hạnh phúc trong một kinh nghiệm mới mẻ tuyệt vời. Chúng ta đưa người bạn ấy đến buổi hòa nhạc giao hưởng; chỉ trong chốc lát, người ấy thấy uể oải, chán ngán và dáo dác nhìn chung quanh hội trường. Người bạn ấy đã chịu hình phạt chính mình vì chẳng có chút âm nhạc nào trong tâm hồn cả. Cái kinh nghiệm nhằm đưa anh ta đến với niềm vui lại trở thành hình phạt cho anh.
Điều này cũng thường xảy ra cho con người khi đứng trước một nhân vật vĩ đại, cao trọng. Chúng ta có thể đưa người ấy đi xem các tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, nghe một nhà truyền đạo lừng danh giảng thuyết, ngắm một cảnh đẹp nào đó, hoặc một cuốn sách hay để đọc. Nhưng phản ứng của họ lại trở thành một lời phán xét, một hình phạt cho chính họ. Nếu họ không thấy chút gì là đẹp, không có chút rung động nào, thì chắc hẳn đã có một điểm mù trong tâm hồn họ rồi. Người ta kể rằng có một du khách được đi xem triển lãm nghệ thuật. Trong phòng triển lãm có những tác phẩm vô giá, những kiệt tác vượt thời gian và không gian của những bậc thiên tài thực sự. Sau khi đi hết một vòng, người du khách nói: “Tôi không thấy mấy bức tranh cũ này của ông có giá trị gì”. Người hướng dẫn phòng triển lãm nói: “Thưa ông, tôi xin nhắc để ông nhớ các họa phẩm này không còn bị đem ra xử, nhưng chính chúng xử những người đến xem chúng”. Phản ứng của người này cho thấy ông ta là kẻ đui mù về nghệ thuật cách đáng thương hại.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Khi một người gặp Chúa với tâm hồn rung động trước sự kỳ diệu và vẻ đẹp của Ngài, thì người ấy đang ở trên con đường cứu rỗi. Nhưng nếu đã gặp Chúa và vẫn không thấy Ngài có gì đáng yêu cả, thì người ấy đã bị phán xét. Chính phản ứng của người kết án người. Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến trong tình yêu để cứu rỗi người ấy, nhưng Chúa Giêsu đã trở thành một lời buộc tội người ấy. Chúa không buộc tội người Ngài yêu thương, nhưng chính người ấy đã tự kết án mình.
Người thù nghịch Chúa Giêsu là người đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng. Điều khủng khiếp đối với một người thất sự tốt lành thánh thiện, là luôn luôn có một yếu tố vô thức nào đó trong lòng vẫn lên án mình. Chính lúc so mình với Chúa, chúng ta mới thấy mình là thể nào. Alcibiades, một thanh niên tài ba, nhưng hư hỏng, của thành phố Athène, bạn của Socrates, thỉnh thoảng thét lên: “Socrates ơi, tôi ghét anh, vì mỗi lần gặp anh thì anh cho tôi thấy tôi là gì”. Một người làm ác chẳng bao giờ muốn sự sáng soi rọi điều ác mình. Nhưng một người làm lành chẳng bao giờ sợ ánh sáng.
Người ta kể rằng, có lần một kiến trúc sư đến với Plato đề nghị đưa cho ông ta một số tiền, ông sẽ xây cho Plato một ngôi nhà nhiều phòng mà ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy người trong phòng. Plato đáp: “Tôi sẽ tặng ông số tiền gấp đôi để ông xây một ngôi nhà mà ở trong phòng nào người ta cũng thấy được”. Chỉ kẻ làm ác mới không muốn nhìn thấy chính mình, cũng không muốn người khác nhìn thấy mình. Người như thế chắc chắn sẽ thù ghét Chúa Giêsu, vì Ngài sẽ chỉ cho người ấy thấy rõ chính mình, đó là điều cuối cùng mà người ấy muốn thấy. Người ấy yêu thích bóng tối che dấu, và không muốn ánh sáng soi tỏ, phơi bày ra.
Phản ứng của một người đối với Chúa Giêsu bày tỏ con người thật của người ấy. Qua phản ứng đối với Chúa Cứu Thế, tâm hồn con người được phơi bày trần trụi. Nếu người ấy nhìn Chúa Cứu Thế với tình yêu, dù chỉ là mơ ước, người ấy vẫn còn hy vọng. Nhưng nếu người ấy chẳng nhìn thấy có gì đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, thì người ấy đã tự kết án chính mình. Đấng đã được phái đến trong tình yêu đã trở thành sự phán xét buộc tội người ấy.
60.Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Thánh sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí nhớ của bậc cao niên nhiều khi rất chính xác để gợi lên những kỷ niệm lúc thiếu thời, đã làm cho Người nhớ lại cảnh tượng ngoạn mục trong cuộc đời Chúa Giêsu những giáo huấn đặc biệt mà Thày Chí Thánh đã ban bố. Đoạn Phúc Âm đọc hôm nay tiếp nối vào câu chuyện ông Nicôđêmô đến đàm đạo cùng Chúa Giêsu ban đêm. Cuộc đàm đạo nhắm chủ đề đức tin và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sau khi thuật lại câu chuyện trên, thánh sử quy tụ vào sự suy tư cá nhân, một tổng hợp các giáo huấn mà Chúa Giêsu đã ban bố hoặc gợi ý. Sau khi đã nhận lấy và nghiền ngẫm các giáo huấn đó, thánh Gioan trao nó lại cho chúng ta dưới ánh sáng của “Chúa Giêsu đã về trời”, trong một văn thể mà sự suy gẫm riêng tư của Người đã mang lại. Điều này xứng đáng dành cho chúng ta nhiều phản ảnh tuyệt vời của một đức tin được trực tiếp cấp dưỡng từ nguồn gốc vì chưng thánh Gioan đã từng được biết Đức Giêsu phản ảnh của một đức tin sâu xa nghiền ngẫm bởi chưng thánh Gioan đã sống Phúc Âm đó như một môn đệ say sưa trung thành.
Ở đây, thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở trong các thơ của Người, đó là “mầu nhiệm” ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho đức tin của chúng ta: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để cứu chuộc loài người. Được thừa hưởng ơn cứu độ ấy là những kẻ khi gặp Chúa Kitô, nhờ ân sủng đã tin vào Người.
1) Kiểu nói “Con của Người” xuất phát từ tiên tri Đanien (Đn 7,13). Cách tổng quát, Phúc Âm đã áp dụng danh hiệu đó cho Chúa Giêsu để định nghĩa cho nhiệm vụ Cứu thế qua việc nhập thể, cuộc Khổ nạn và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được phép hiểu câu “Con Thiên Chúa làm người”. Từ đó, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu thực hiện mẫu người trọn hảo đã hoàn thành, bởi vì Người vượt mình trong Thiên Chúa. Thánh sử Gioan kể lại: “Con Người phải được nâng lên cao”. Đây là ý nói đến việc Chúa bị treo lên thập giá. Sự liên tưởng đến con rắn đồng treo lên cao của ông Môsê, xuất xứ từ một đoạn trích trong sách Dân số (Ds 21,6-9). Đoạn sách ấy thuật lại rằng: Khi dân Do Thái đi qua sa mạc, trong một miền đầy rắn, khi bị rắn cắn, họ được cứu nguy cách kỳ diệu là hễ nhìn lên con rắn đồng –một thứ đồ mã- mà Môsê đã dựng lên cho dân thấy thì dầu có bị rắn cắn cũng không sao. Giai thoại ấy được thánh sử gợi lại ở đây để tiêu biểu cho một thực tại siêu nhiên là ơn Cứu độ dành cho hết thảy những ai nhìn lên Thánh giá Đức Kitô với lòng tin.
2) Ai tin vào Người không bị kết án. Ai không tin vào Người, thì bị luận phạt rồi. Kiểu nói trên đây báo hiệu là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, có hiệu lực chung quyết. Đức tin hôm nay của tôi (dĩ nhiên với điều kiện là tôi không chối bỏ đức tin ấy) đã cứu tôi, ngày tôi từ giã cõi đời và cũng là ngày tận thế. Từ nay cho đến ngày cuối hết đó, dĩ nhiên còn có thể xảy đến biết bao thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi về phía đối nghịch của sự kết án, nghĩa là trong lượng thứ tha của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón, và tình nghĩa thiết của Người. Điều này biện giải tại sao đức tin nồng nhiệt của tôi hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của tôi cùng Thiên Chúa. Mỗi ngày hiện tại chuẩn bị trong tôi ngày sau hết của tôi, nhưng nhờ đức tin của tôi nơi Chúa Giêsu, ơn nghĩa phi thường của Thiên Chúa không phải là chuyện sẽ tới nhưng thực sự ơn nghĩa ấy đã hiện hữu nơi tôi và đang biến đổi tôi. Đức tin đó đòi hỏi tôi dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn thực tiễn của lòng trung thành với Phúc Âm. Ai hành động trong chân lý tức là đến cùng Ánh sáng.
61.Nhìn lên Thánh giá Chúa Giêsu--Lm John Nguyễn Tươi
"Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ." (Ga 3,14)
Trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, ngài thuật lại việc Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đi-mô rằng: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, thì Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." Hình ảnh con rắn là biểu tượng của loài sảo huyệt trong sách Sáng thế thuật lại, nó dụ dỗ Adam và Eva sa ngã phạm tội, chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, Tin Mừng hôm nay lại nói, ai nhìn lên con rắn đồng thì lại được sống. Chúng ta sẽ đặt ra đặt câu hỏi, con rắn đồng của Mô-sê có ý nghĩa gì? Đây là vấn đề cho chúng ta tìm ra ý nghĩa ánh sáng Lời Chúa.
Thánh Kinh thuật chuyện dân Do Thái khi họ trên đường tiến vào vùng đất hứa đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Họ nặng lời với Môi-se, ngài có sứ mạng dẫn dân Chúa đến vùng đất hứa, họ nói rằng: "Vì sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập, khiến chúng tôi phải chết trong sa mạc này? Chúng tôi chẳng có nước uống, cũng chẳng có gì ăn ngoài loại bánh đạm bạc mà chúng tôi đã chán ngấy!" Thiên Chúa đã sai rắn đến và cắn nhiều người chết. Người ta chạy đến với Môi-se kêu lên rằng: "Chúng tôi có tội, vì đã nói xúc phạm đến Chúa và ông. Xin ông cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn đi." Môi-se tha thiết khẩn cầu thay cho dân. Thiên Chúa đã đáp lời, Ngài phán cùng Môi-se rằng: "Con làm một con rắn đồng, treo trên cây. Người nào bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó là được sống." Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, treo trên một cây sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn đồng, liền được thoát chết. (Dân Số 21:6-9)
Đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan nhắc lại sự kiện lịch sử thời của Môi-sê dẫn dắt dân chúng thoát khỏi lưu đày. Nhưng ai bị rắn cắn và nhìn lên con rắn bằng đồng thì sẽ được cứu sống. Con rắn bằng đồng là hình ảnh của Chúa Giê-su bị treo lên cây thập giá. Ngài chịu đau khổ, bị sỉ nhục, đóng đinh và chết trên cây thập giá, để chuộc tội cho nhân loại, hễ ai nhìn lên Thánh giá Chúa và tin vào Ngài, thì dù bị nọc độc tội lỗi tàn hại cũng được chữa lành, mỗi hành vi sám hối của chúng ta đều được Ngài tha thứ. Các phòng mạch bác sĩ ngày nay cũng dùng hình ảnh con rắn để nói đến sự chữa lành. Qua hình ảnh con rắn bằng đồng trong Cựu Ước, chúng ta thấy rằng: nhiều người đã bị rắn độc cắn chết, không có thứ thuốc nào chữa được, nhưng nhìn lên con rắn thì được cứu chữa.
Cũng vậy, nhân loại ngày nay không có phương cách nào để tự giải trừ tội lỗi, giải cứu linh hồn mình ra khỏi lửa địa ngục: "Vì mọi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa" và "tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rm 3:23). Cho dù, ngày nay khoa học có tiến bộ hơn, nhưng khi con người không biết kính sợ Thiên Chúa- Đấng Tạo Hóa, thì con người vẫn đi trong tăm tối, vô vọng, và trở nên tàn ác hơn. Tội lỗi gian ác là nọc độc phá hoại tâm trí và linh hồn con người bởi nọc độc của quỷ vương từ khi tổ phụ loài người phạm tội, và nọc độc tội lỗi ấy lan truyền cho con người hôm nay. Nhưng, Chúa Giê-su đã đến trần gian để đã nhận chịu nọc độc của tội lỗi thay cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta đến với Chúa Giê-su thì tất cả nọc độc của tội lỗi trong chúng ta đều tan biến, mắt chúng ta nhìn biết Đấng Tạo Hóa mình, tai chúng ta nghe được tiếng êm dịu đầy tình yêu của Ngài, để chúng ta kịp thời ăn năn, thống hối và được ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là ân phúc Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Người Con Chí Thánh của Ngài, chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra ơn huệ lớn lao này, nhờ đó chúng ta được chữa lành vết thương và nọc độc đang phá hoại tâm hồn và thể xác con. Căn bệnh của sự kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam, dục vọng đang bám lấy tâm hồn con, thì xin cho con biết nhìn lên Thánh Giá Chúa Giê-su mỗi ngày để được chữa lành tâm hồn và thể xác con. Amen.
62.Khước từ tình yêu Chúa là tự kết án mình--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang-- Joshepus Quang Nguyễn
Bài đọc 1, Sách Biên Niên Sử hôm nay mô tả dân Israel bị lưu đầy ở bên Babilon. Khi vua nước Batư đã đánh hạ ngục Babilon, ông ta ra chiếu chỉ giải phóng dân Israel, một cuộc xuất hành mới và cho phép họ tái thiết lại đền thờ. Ông vua này không có đạo, không biết Thiên Chúa là ai? Ông giải phóng dân Israel là hành động mang tính chính trị. Ông muốn lấy lòng dân tộc để việc cai trị ông được vững vàng hoặc lý do kinh tế xã hội nào đó. Trái lại, dân Israel nhìn sự giải phóng bằng một đức tin là do Chúa thúc dục lòng nhà vua để hành động. Một cái nhìn của đức tin như vậy không phải là Chúa xa lạ mà là sự thật trong những bước đi của lịch sử khi Ngài gởi Con Một của Ngài. Thiên Chúa Kitô giáo không ở trong lý luận, Thiên Chúa hiện hữu trong đời người tất cả mọi người. Chúa đóng ấn tình yêu của Ngài khi Ngài ban tặng Con Một của Ngài. Giờ đây, Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử bằng tình thương, đó chính là Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa “đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.”
Quả thế, Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người. Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ tình của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu và Lời Người. Như thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Như vậy, Thánh giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài và hễ “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa.
Điều này có nghĩa rằng tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, từ bỏ tội lỗi, thi hành ý Chúa và thực thi Lời Người dạy ngay trong cuộc sống. Đức tin mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép Thanh Tẩy và giữ mãi cho đến hôm nay thực sự nó đã cứu tôi, có nghĩa rằng tôi nắm chắc sự sống lại mà Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh ban cho tôi. Nhưng từ khi Rửa Tội cho đến ngày cuối hết đó, đức tin của tôi như thế nào? Hành vi đạo đức của tôi trong cuộc sống như thế nào? Nói cách khác, tôi sống và thi hành Lời Chúa ở mức độ nào? Vì vậy, đức tin của chúng ta hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của chúng ta cùng Thiên Chúa, vì chưng Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 rằng: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8). Vì vậy, mỗi ngày thực thi Lời Chúa của chúng ta là công trạng trong ngày sau hết của chúng ta. Lời Chúa đòi hỏi chúng ta dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn, trung thành và hành động theo gương yêu thương Chúa Giêsu, hy sinh cho người mình yêu.
Đứng trước thập giá Đức Kitô, hôm nay chúng ta phải có thái độ nào? Nếu ta tin vào tình yêu Thiên Chúa thì được ân sủng, được Chúa và cả tha nhân, còn nếu ta chối từ tình yêu của Ngài? Ta tự kết án mình, xa lìa Thiên Chúa và trở thành người vô cảm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy đón lấy thập giá Chúa Kitô để thấy được tình yêu bao la của Chúa, đồng thời thấy ta tội lỗi vô ngần. Tình yêu Chúa luôn chịu đựng, phục vụ, hiền hòa, khiêm nhường, nhịn nhục và không ngừng tha thứ, và hy sinh chết cho ta. Còn tình yêu của ta dành cho Chúa và tha nhân như thế nào? Có thờ phượng Ngài trên hết mọi sự không? Hay có còn thờ thần đôla, thần danh vọng hay dục vọng mà bỏ Chúa ra bên lề, thích thì đọc kinh dâng lễ không thích thì thôi. Còn đối với nhân thì sao? Ta có yêu ngươi như Chúa yêu ta không? Có tha thứ cho tha nhân như Chúa không hay kết án anh chị em, cha mẹ mình mãi, “sống để bụng, chết mang theo”. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? Hãy nhớ Lời Chúa dạy: “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Vậy, nhìn lên thập giá Chúa Kitô thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13). Cho nên, trong Sứ Điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi đừng vô cảm với tha nhân vì “Tình yêu của Thiên Chúa phá vỡ sự vô cảm ấy, một thái độ khép kín tai hại. Giáo hội trao tặng chúng ta tình yêu này qua giáo huấn, và nhất là qua chứng tá của mình. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm chứng về điều mà chính chúng ta đã cảm nghiệm. Kitô hữu là người để Thiên Chúa mặc cho mình lòng nhân từ và thương xót của Ngài, mặc lấy Chúa Kitô, để giống như Chúa Kitô, trở nên tôi tớ của Thiên Chúa và của người khác. Chúng ta thấy rõ điều này trong Phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh qua nghi thức rửa chân. Phêrô không muốn Chúa Giêsu rửa chân cho ông, nhưng ông đã hiểu ra rằng Chúa Giêsu không muốn chỉ nêu gương về cách thức chúng ta phải rửa chân cho nhau. Chỉ những ai để cho Chúa Giêsu rửa chân mình trước thì người ấy mới có thể phục vụ người khác như thế. Chỉ người nào được “dự phần” với Ngài (Ga 13,8) thì mới có thể phục vụ người khác” (số 1).
Thư Mục Vụ Năm 2015 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam viết rằng: “Giáo xứ là gia đình của những người con cái Thiên Chúa, trong đó tất cả là anh chị em với nhau. Gia đình giáo xứ cần được Phúc-Âm-hóa, nghĩa là thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân”. Ước gì, trong mùa Chay thánh này, mỗi người chúng ta thấm đẫm tinh thần Phúc Âm hôm nay là sống và trao ban tình yêu Chúa đã dành cho mọi người trong giáo xứ và mọi người trong môi trường sống chúng ta ngõ hầu đức tin của chúng ta thật sự sống động và đem lại ân phúc thay vì luận phạt. Vì chưng, “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Amen.
63.Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Lịch sử cứu độ là lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tình yêu tạo dựng, tình yêu quan phòng và tình yêu cứu chuộc. Thật vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người.
Vì yêu nên Ngài đã tạo dựng mọi sự để cho con người cai quản và sử dụng. Vì yêu nên Ngài đã không chấp tội con người, trái lại đã ban chính Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại. Tin mừng hôm nay khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3,15). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2,4-6). Ngài còn cho biết thêm: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa.” (Ep 2,8). Cũng vì yêu nên khi xuống trần gian, Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ để lập nên Giáo hội, thiết lập các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến Tận thế. Điều đặc biệt hơn nữa là Thiên Chúa không những yêu thế gian chung chung mà Ngài yêu thương chăm sóc chu đáo từng người một trong chúng ta giống như người cha yêu thương từng người con trong gia đình vậy.
Nhưng con người hay phản bội, đi ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử dân Do Thái là một lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, nhưng đồng thời cũng là một lịch sử nói lên sự phản bội của con người đối với Thiên Chúa. Đoạn sách Sử Biên Niên quyển thứ II được trích đọc trong bài đọc I hôm nay cho chúng ta thấy điều đó. Thật vậy, dân Do thái đã sống bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem. Họ phụ bạc với tình yêu của Thiên Chúa, bất tuân lề luật, phá vỡ giao ước đã ký kết với Thiên Chúa (x. 2Sb 36,14). Hậu quả là đền thờ và thành thánh của họ bị sụp đỗ tan tành. Dân chúng bị tàn sát vô số, những người sống sót còn lại bị đưa đi lưu đầy (x. 2Sb 36, 19-20).
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có giận, có ra án phạt nhưng không phải vì ghét, vì oán thù mà nhằm mục đích để thanh luyện, thanh tẩy và chữa trị họ. Bằng chứng là khi dân sai phạm, Ngài đã sai các sứ giả đến để nhắc nhở họ nhiều lần: “Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người.” (2Sb 36,15). Không những thế, Ngài còn thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư để nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên.” (2Sb 36, 22-23).
Hình ảnh con rắn đồng được nhắc tới trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng là biểu tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi ra khỏi đất Ai cập, dân Do Thái phải sống ròng rã suốt 40 năm trong sa mạc, gặp mọi thử thách gian nan. Họ phàn nàn kêu trách Chúa vì đã để họ phải chịu cảnh lầm than khốn khổ. Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và để cho rắn lửa cắn chết nhiều người. Họ khiếp sợ và thống hối tội lỗi của mình. Họ đến với Môsê và xin ông cầu nguyện cùng Thiên Chúa cứu giúp họ: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi” (Ds 21,7). Thiên Chúa đoái thương bảo Môsê đúc một con rắn đồng treo lên và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát (x. Ds 21,8).
Con rắn đồng là biểu tượng của Đức Giêsu bị treo lên thập giá và ai tin vào Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá sẽ được cứu rỗi. Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3,20). Cho nên, Thánh giá cũng là biểu tượng của tình yêu. Vì yêu thương nên Đức Giêsu đã chấp nhận bước vào con đường đau khổ, con đường thập giá. Khi suy niệm về những hình khổ Đức Giêsu đã chịu: đánh đòn, đội mạo gai, vác thập giá, đóng đinh vào thập giá…chắc chắn không ai không nghĩ đến tình yêu mà Đức Giêsu dành cho nhân loại. Đó là tình yêu cao quý trên mọi tình yêu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Thánh giá cũng là biểu tượng của sự tha thứ. Đức Giêsu đã chịu chết trên thập giá để cứu độ loài người, tha thứ tội lỗi cho loài người. Chính trên thập giá Ngài đã tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Cũng trên thập giá, Ngài đã tha thứ cho kẻ trộm lành cùng đóng đinh với Ngài và hứa ban phúc Thiên đàng cho anh ta ngay ngày hôm đó.
Và nhờ công ơn cứu chuộc của Ngài, Ngài muốn Giáo hội tiếp tục sự tha thứ như thế mãi cho đến tận thế. Câu chuyện sau đây nói lên tinh thần đó. Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. (Sưu tầm)
Lạy Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Xin cho mỗi người chúng con luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa để chúng con biết yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
64.Tình thương của Thiên Chúa
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Sau khi đã tốn nhiều sức lực tinh thần cũng như những cực nhọc thể xác, để cùng với những người cộng tác sáng chế ra bóng đèn điện đầu tiên. Thomas Edison trao bóng đèn điện ấy cho một người bạn trẻ tuổi nhất trong hóm leo lên các bậc thang gắn bóng vào chuôi mà thử nghiệm. Nhưng rủi thay, vì quá xúc động, người bạn trẻ ấy khi vừa leo lên tới bậc thang cuối cùng đã đánh rơi chiếc bóng đèn xuống đất khiến nó bể vỡ tan tành. Thế là cả nhóm lại phải cố gắng không ngừng làm việc suốt 24 tiếng đồng hồ nữa để tạo ra chiếc bóng đèn thứ hai cho kịp với chương trình thử nghiệm. Sau khi hoàn tất xong chiếc bóng đèn thứ hai này, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Edison lại trao chiếc bóng đèn ấy cho người bạn trẻ đã từng làm vỡ chiếc bóng đầu tiên, để người bạn trẻ này lại leo lên gắn bóng vào chuôi như lần trước.
Cử chỉ cao đẹp này đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của người bạn trẻ đó. Hành động tha thứ và tin tưởng của Edison đối với người bạn trẻ đã một lần sơ sót làm bể chiếc bóng đèn đầu tiên, đã làm cho nhiều người phải kính phục và có lẽ cũng đang thôi thúc mỗi người chúng ta bắt chước Edison, thực hiện những cử chỉ tha thứ và tin tưởng như vậy đối với những người chung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời hành động này còn nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn luôn tha thứ và tin tưởng con người mặc dù con người hay lầm lỗi, sa ngã, vấp phạm và làm hư hỏng chương trình của Ngài.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Ngài sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn ngồi trong tội lỗi. Chính sự tha thứ và tin tưởng của Thiên Chúa đã khơi dậy trong lịch sử nhân loại không biết bao nhiêu tâm hồn hối cải, làm lại cuộc đời và bắt đầu sống một cuộc sống mới, cao đẹp hơn, lợi ích hơn. Thiên Chúa luôn tha thứ cho con người để khởi dậy những điều tốt đẹp, vậy thì tại sao mỗi người chúng ta lại không thể dễ dàng tha thứ cho nhau, tin tưởng lẫn nhau để xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
65.Cựu Ước và Tân Ước
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật thiết với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng, thì Tân Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã diễn tả trong bức thư thứ nhất gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, còn Adong thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy... Bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay bởi một người mà nhân loại được sống.
Tiếp đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu thương, thì Đức Kitô cũng được Cha mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác củi lên núi để dùng vào việc hy tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh Canvê, để rồi hiến dâng mình cho Thiên Chúa.
Và hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong hoang địa. Ngài nói: Maisen đã treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi. Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và cũng như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với niềm tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra, sẽ được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng ta sắp sửa mừng kính.
66.Từ bóng tối tới ánh sáng
Mỗi khi đọc Kinh thánh, nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ thấy tên tuổi của nhân vật Nicôđêmô được kinh Thánh nói tới ba lần, vào ba hoàn cảnh và ba thời điểm khác nhau:
Lần thứ nhất: ông ta chủ động đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay sẽ nói với chúng ta về cuộc gặp gỡ này.
Lần thứ hai: khi các thủ lĩnh tôn giáo Do Thái đang bàn tính để tìm cách giết Chúa Giêsu. Nicôđêmô vốn là thành viên của Thượng Hội đồng Do Thái Giáo, ông đã phản đối quyết định đó với ý kiến rằng: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7, 15)
Lần thứ ba: lúc táng xác Chúa Giêsu. Ông cũng đến để tẩn liệm thi hài Chúa Giêsu bằng cách thức sang trọng như tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan kể: " Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Chúa Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của người Do Thái." (Ga 19, 39-40). Sở dĩ tôi liệt kê ba lần như thế vì tôi muốn làm nổi bật lên khuôn mặt của Nicôđêmô và con người của ông. Con người ấy đã đi qua một hành trình mà tôi tạm gọi là hành trình từ bóng tối tới ánh sáng, mà ba lần ở trên là ba cột mốc quan trọng trọng trong hành trình đó.
Ở lần thứ nhất , xét về phương diện thời điểm thì đây là giai đoạn mang một bầu khí căng thẳng do Chúa vừa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ.(x. Ga 2, 13-25). Sự căng thẳng này chưa kịp lắng dịu thì Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Ông ta gặp Chúa lúc đêm tối nhằm giữ kín sự việc và để tránh dòm ngó, soi mói của người khác, đặc biệt là của giới lãnh đạo Do Thái Giáo, đồng nghiệp của ông. Chi tiết ban đêm mà Thánh Gioan mô tả sẽ nói cho chúng ta biết điều đó. Và còn hơn thế nữa, hàm chứa trong chi tiết ấy tôi còn khám phá thêm điều này của Nicôđêmô: Ông đang ở trong đêm tối. Và từ trong đêm tối đó, ông đang dò dẫm, âm thầm tìm đến nguồn sáng. Nicôđêmô là ai?Kinh thánh bảo rằng ông là một thủ lãnh của người Do thái(x. Ga 3,1).
Tức là môt người có địa vị trong xã hội. Và gắn liền với địa vị đó, chắn chắn ông là người có nhiều kiến thức và là một người có trình độ, chính những cái đó sẽ cho ông có khả năng là một người Giàu có.
Tóm lại, cuộc sống ông đầy đủ, bảo đảm, và an ninh. Vậy ông còn thiếu cái gì? Bên ngoài xem ra ông đầy đủ. Ông có tất cả.nhưng những cái mà ông đang có đó không thể làm cho ông được sống thoả mãn. Vì thế, tự trong thâm tâm của ông vẫn luôn nói với ông rằng ông vẫn còn thiếu một cái gì đó. Cái đó là cái gì nếu không phải là sự sống đời đời. Nên ông vẫn phải đi tìm. Và ông hy vọng rằng nơi Chúa Giêsu, ông sẽ khám phá và có được sự sống ấy. Và thế là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh tân tòng Nicôđêmô bắt đầu. Chắc chắn cuộc nói chuyện này rất dài và rất lâu. Tôi không muốn đi sâu vào cuộc đối thoại này vì sợ làm mất nhiều thì giờ của anh chị em.
Nhưng thay vào đó là điều tôi muốn nhấn mạnh trong bài chia sẻ này là: Chúng ta có thể khám phá ra điều gì về Nicôđêmô qua ba lần được Thánh kinh mô tả? Là gì, nếu không phải đấy là ba giai đoạn của một hành trình hoán cải mà Nicôđêmô đã đi qua.
Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là người cởi mở, nhiều thiện chí và là một người thật sự muốn tìm kiếm chân lý.
Lần xuất hiện thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, một mực khăng khăng rằng không được kết án Chúa Giêsu trước khi đưa ra xét xử công khai. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có nhưng quảng đại và có lòng thương xót nữa. Dám bỏ tiền ra mua số lượng lớn là một trăm cân mộc dược và trầm hương, là những thứ quý hiếm. Chúng ta đang sống trong bầu không khí của mùa chay. Ai trong chúng ta cũng biết mùa chay là mùa hoán cải. Vì thế để gọi là hoán cải, chúng ta cần làm lại hành trình của Nicôđêmô. Hành trình đó được khởi đi từ một khao khát được sống. Khao khát đó sẽ giúp cho ta:
1. Ra khỏi chính mình để đi tìm, để tiếp cận, để gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và là Sự Sống.
2. Một khi đã khám phá Sự sống đó, sẽ dẫn chúng ta tới sự can đảm để bảo vệ cho sự sống ấy.
3. Cuối cùng là lòng quảng đại để sống cho, sống vì và sống với Sự Sống đó.
- Đó là những Giá trị của Tin Mừng.
- Đó là hành trình của Mùa chay.
- Đó là hành trình của hoán cải.
- Đó là hành trình của bóng tối đến ánh sáng, hành trình đi từ bống tối của sự chết đến ánh sáng của Sự sống. Amen.
67.Nô lệ tự nguyện
Ngày nay, có lẽ con người khao khát, tìm kiếm tự do hơn bao giờ hết. Đây thật là một nhu cầu cần thiết và không thể thiếu. Người ta dị ứng hoặc không thích nghe đến từ " luật" vì nó làm cho ta cảm thấy bị bó buộc. Nhưng có những thứ tự do sẽ dẫn chúng ta đến nô lệ. Và có thứ nô lệ làm cho người ta được tự do, được cứu độ. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết thế nào là tự do đích thực.
Bài đọc I cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tự do. Khi dân Do thái muốn sống và làm theo sở thích, theo bản năng, đi trong tội lỗi, họ nghĩ như vậy mới tự do nhưng kết quả họ phải chịu sống trong cảnh nô lệ tủi nhục nơi đất khách Babilon.
Đức Kitô là ánh sáng tình yêu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ chúng ta không phải bằng khả năng của ta nhưng bằng tình thương của Ngài. Đứng trước tình yêu bao la đó, chúng ta có hai thái độ: Tin hay không tin. Nếu tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chúng ta sẽ được sống. Trái lại, nếu từ chối, chúng ta sẽ bị luận phạt.
Người thời đại không muốn bị trói buộc hay uốn mình trong một khuôn khổ. Nghĩa là người ta chỉ thích làm theo những gì mình muốn: Muốn ăn, muốn nói, muốn chơi, muốn làm gì tuỳ theo sở thích. Nhưng tự do đó sẽ biến chúng ta thành nô lệ sống buông thả theo bản năng, và trở thành một con người vô kỹ luật, vô ý thức. Chính những thứ đó sẽ làm mất nhân cách và phẩm giá của chúng ta.
Nhưng, có thứ nô lệ sẽ mang lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc. Đó là nô lệ cho Thiên Chúa và lề luật của Ngài. Kỳ thực, khi đó người ta không cảm thấy mình nô lệ, trái lại cảm thấy tự do, hạnh phúc: "Chúng tasống dưới chế độ Lề luật nhưng thật sự chúng ta là con cái của tự do.". Lề luật Chúa không làm cho chúng ta trở thành tên nô lệ nhưng nhằm mang lại hạnh phúc. Vì nô lệ tội lỗi, thì phải chết; còn nô lệ phục vụ Thiên Chúa thì sẽ được nên công chính, thánh thiện và sự sống đời đời. Khi có niềm vui và hạnh phúc, chúng ta không thể là nô lệ.
Là người chắc chắn không ai muốn sống trong bóng tối, nhưng sống theo ánh sáng thì ai cũng ngại. Chấp nhận Đức Kitô thì dễ, nhưng sống theo giáo huấn của Ngài thì không mấy ai thích: " Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy". Và điều này sẽ làm cho chúng ta mất tự do. Nhưng tự do là gì, nếu không phải đi trong đường lối của Thiên Chúa, khi đó chúng ta sễ được tự do vì:" Sự Thật sẽ giải phóng các con." Ga 8, 32. Lề luật giúp cho con người sử dụng tự do một cách có ý thức và trách nhiệm. Sống nuông chìu theo sở thích bản năng, vô kỹ luật thì cũng giống như ngựa không dây cương, hay thuyền không bánh láy, chúng ta không thể điều khiển cuộc đời mình, cuối cùng trở thành nô lệ cho tội lỗi. Cũng như Krisnamuti nói: "Chỉ có chân lý mới đem lại sự tự do cho chúng ta, chứ không phải ước vọng của chúng ta muốn được tự do."
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Chân Lý, và xin ánh sáng Chân lý Chúa luôn chỉ đường dẫn lối để chúng con xua tan bóng đêm tội lỗi nơi tâm hồn chúng con. Amen.
68.Tuyệt vọng trong hy vọng
"... ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16).
Phật giáo có câu: "đời là bể khổ" nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời chỉ gặp toàn là đau khổ, tội lỗi, chết chốc... Đây là một trong những ưu tư mà con người phải mang lấy. Đặc biệt hơn khi đối diện với cái chết, con người dù tài giỏi đến đâu cũng đành bó tay và cúi đầu im lặng. Không khéo sẽ dẫn con người đến chổ tuyệt vọng. Nhưng là con người thì ai cũng mong cho mình một cuộc sống an vui, một gia đình ấm no và hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là mộng ước, còn thực tế thử hỏi có mấy ai được như vậy?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn tích cực, mang đầy ý nghĩa và niềm hy vọng từ những đau khổ, tội lỗi và chết chốc trong cuộc sống. Như thánh Phaolô dạy, "Niềm hy vọng của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Với tôi, sống là chiến đấu; chết là chiến thắng. Tôi hoàn toàn tin tưởng ký thác vào lòng từ bi nhân hậu cho tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và phục sinh vinh hiển ngay trong trần gian này. Đây là đích điểm mà tôi tin tưởng khi phải trực diện với biết bao nghiệt ngã của đau thương, biết bao sóng gió vùi dập lên cuộc đời, và nhất là mai đây phải ngậm ngùi trong tuyệt vọng của cái chết. Và lời hứa của Ngài là chìa khoá mở ra một chân trời hy vọng: "...ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời"(Ga 3,16). Chìa khoá này, giúp tôi xác tín một cách chắc chắn rằng: không có sự chết và càng không có sự chết trong khi chỉ có những người đang sống trên thế giới này và thế giới bên kia. Mặc dầu sự chết là một thực tại, nhưng chết chỉ trong chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi. Bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Bước đi từ hữu hạn sang vô hạn.
Và cũng chính lời hứa ấy đã âm thầm len lỏi và lấn sâu vào lòng của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đến nỗi Ngài phải thốt lên trên giường hấp hối: "Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống". Hơn thế nữa Thánh Phanxicô đã xác tín niềm tin về cái chết của mình rằng: "Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi, lúc con người nằm yên giấc ngủ, mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai". Quả thế, với những người không có niềm tin thì chết là tuyệt vọng. Ngược lại, với tôi chết là chiến thắng là khởi điểm cho một cuộc sống mới: sống với Chúa, sống bên Chúa, sống trong Chúa và sống như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua tình yêu, Ngài đã chiến thắng sự chết trong đau khổ, trong thất vọng trên giường thập giá. Xin cho con ý thức rằng: Chấp nhận mọi nghịch cảnh đau thương trong cuộc đời mà trên giường hấp hối, trước khi chết con chưa làm được. Nói lời yêu thương mà trong cơn nguy tử con không thể nói được. Hiến thân cho anh em khi còn sống mà trong nấm mồ con đang bất lực. Xin cho con tin tưởng vững vàng trong giay phút hiện tại, để rồi mai đây con không tuyệt vọng mà mãi mãi ra đi trong hy vọng và trong vinh quang bất diệt.
69.Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Lịch phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng, màu của niềm vui và hạnh phúc. Sở dĩ gọi làChúa nhật màu hồng là bởi vì trong ngày hôm nay, đồng thời với phẩm phục của chủ tế được thay đổi từ màu tím u buồn sang màu hồng trong sáng, thì những bài Thánh Kinh được chọn để đọc trong thánh lễ cũng loan báo một tin mừng trọng đại cho tất cả mọi người: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một mình, để tất cả những ai tin vào con Ngài thì được sống đời đời.
Bởi vì Thiên Chúa không sai con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ". Tin vui trọng đại này mặc dù được chính Đức Kitô làm cho trở nên hiện thực, nhưng nó đã được chuẩn bị từ thời Cựu ước, mà chúng ta đã có dịp nghe nhắc lại một cách sơ lược trong những ngày Chúa nhật vừa qua. Đúng vậy! Từ thời xa xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều phương cách, nhiều trung gian để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện một cách rỏ ràng và dứt khoát nơi con một của mình là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng ấy được bảo đảm bằng một giao ước long trọng với gia tộc Noe, một gia đình nhân loại mới được tái sinh, là sẽ không bao giờ có hình phạt Đại Hồng thủy như vậy nữa; Một sự kiện mà chúng ta đã nghe nhắc lại trong ngày Chúa nhật thứ nhất mùa chay.
Lợi dụng sự trung thành của Thiên Chúa, dân tộc mới này dần dần biến giao ước đó trở thành pháo đài của sự chống đối Người, mà tháp Ba-ben là một biểu tượng hữu hình. Thế nhưng không vì sự phản bội đó mà thiên Chúa hủy bỏ kế hoạch yêu thương của mình. Lời Chúa trong ngày chúa nhật thứ hai đã cho thấy rằng: Để bày tỏ sự trung thành của mình, Thiên Chúa đã nhẫn nại chọn trong đám nhận loại hư hỏng đó một người thật sự là biết trung thành và tin tưởng nơi Người, để hình thành một dân riêng của Chúa, đó là ông Ab-ra-ham.
Bước vào chúa nhật thứ ba, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một sự quan tâm đặc biệt mà Thiên Chúa đã dành cho dân này: Người ân cần ban bố những huấn lệnh, những lời chỉ dạy tốt lành nhất, để cho họ thật sự trở thành một dân tộc được Chúa chúc phúc. Thế nhưng một lần nữa, tình thương của Thiên Chúa bị con người lợi dụng.
Bài đọc một của ngày hôm nay cho thấy rằng: Không phải chỉ có dân chúng, mà còn cả hàng tư tế, cũng tỏ ra gàng bướng bất trung. Bao nhiêu thói hư tật xấu, bao nhiêu tội ác khủng khiếp mà dân ngoại đã làm, thì bây giờ nó lại xảy ra trong chính đền thờ; làm cho đền thờ trở nên dơ bẩn hổn tạp, mở đường cho ngoại bang xăm chiếm. Và rồi cũng thêm một lần nữa, chúng ta nhìn thấy được lòng trung thành yêu thương của Thiên Chúa: Người đã dùng triều đại Vua Cyrô để xây dựng lại đền thờ và khôi phục vương quốc Israel.
Đúng như tác giả của bức thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng đến thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử". Noe, Abraham hay Cyrô đều là hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu mang ơn cứu rỗi đến cho nhân loại. Và để chứng tỏ rằng: "thời kỳ đã mãn"; nghĩa là ơn cứu rỗi do Đức Giêsu mang đến là vĩnh viễn và dứt khoát, thì trong bài phúc âm hôm nay, khi trả lời với Nicôđêmô, Người quả quyết rằng: "Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, lịch sữ dân tộc Do thái sẽ không bao giờ quên được câu chuyện rắn đồng trong sa mạc. Lúc đó họ nổi loạn đòi giết chết cả ông Môisen. Lập tức Chúa để cho rắn lửa bò ra khắp nơi và cắn chết nhiều người. Khi ấy họ hoãng sợ tìm đến cầu cứu Môisen, và Chúa bảo Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Bất cứ người nào bị rắn cắn mà biết nhìn lên con rắn đồng ấy thì sẽ được cứu thoát. Nếu như năm xưa con rắn đồng được treo lên cao đó như là một dấu chỉ của lòng yêu thương tha thứ, để rồi cho dù con người có năm lần bảy lượt xúc phạm đến Chúa, nhưng nếu biết tỏ lòng hối cải và nhìn lên đó thì sẽ được cứu thoát; thì hôm nay cũng vậy, việc Đức Giêsu chấp nhận bị treo trên cây thập giá, cũng chính là một sáng kiến nói lên lòng tha thứ, để rồi bất cứ một ai nhìn lên đó và tin vào Người thì sẽ được cứu thoát.
Chính vì thế mà liền sau đó Đức Giêsu khẳng định rằng: "Thiên Chúa sai con một của Ngài đến thế gian không phải là để kết án luận phạt, nhưng là để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ".
Tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm ở trần gian này, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả thì kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng phần rỗi của chúng ta, những con người tội lỗi và bất toàn vẫn được Lời Chúa bảo đảm: "Ai tin thì sẽ không bị lên án, còn ai không tin sẽ bị kết án." Những người không tin không phải là bị kết án bởi Thiên Chúa, mà là tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố của mình, giống như ngày xưa chỉ có những ai nhất định cúi mặt xuống đất mà không chịu nhìn lên con rắn đồng, thì kẻ ấy mới chết.
Nhưng rồi chúng ta phải thể hiện lòng tin của mình như thế nào? Thánh Giacôbê tông đồ quả quyết rằng: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết." Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải là một đức tin được hòa quyện giữa lý trí và việc làm. Dĩ nhiên là có nhiều phương cách thể hiện lòng tin của mình. Thế nhưng chủ đề chung mà các bài đọc Thánh kinh của ngày hôm nay muốn thể hiện đã gợi lên cho chúng ta một bài học lớn.
Một bài học mà suốt cuộc đời này, chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thực hiện nó; đó là mang tình thương của Chúa đến cho anh chị em mình bằng chính cuộc sống hàng ngày, qua những cung cách ứng xử thắm đượm lòng bác ái của chúng ta. Khi kết thúc cuộc sống đời này, Chúa sẽ không hỏi về số quần áo mà chúng ta đang có trong tủ của mình, nhưng sẽ hỏi rằng chúng ta đã giúp cho bao nhiêu người có quần áo để mặc?
Chúa sẽ không hỏi mức lương cao nhất của chúng ta là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi là chúng ta có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không? Chúa sẽ không hỏi chúng ta là đã nhận được bao nhiêu lời động viên khuyến khích, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã sẵn lòng khích lệ người khác như thế nào? Chúa sẽ không hỏi là chúng ta đã làm gì để lo cho bản thân, mà sẽ hỏi là chúng ta đã làm gì để giúp đỡ anh chi em của mình? Chúa cũng sẽ không hỏi chúng ta đã sống bên cạnh những ai, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã đối xử như thế nào với những người láng giềng của mình? Và nếu như ngay bây giờ, từng người trong chúng ta đang vui mừng hãnh diện với lòng mình về những điều đó khi mà chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa, là chúng ta đang thể hiện niềm tin của mình vào Chúa cách đúng đắn.
Còn ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy âu lo ngại ngùng trước những câu hỏi ấy, thì nhất định chúng ta hãy mau mắn sửa chữa, đặc biệt là trong mùa chay thánh này; đó chính là lý do mà ngay trong ngày khai mạc, Thánh Phaolô đã tuyên bố: "Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ".
Chúng ta nên nhớ rằng: không có một sự sửa chữa hay một sự đổi mới nào gọi là quá trể cả. Xin Chúa qua lời cầu bàu của Thánh cả Giuse, Người Công Chính, ban cho mỗi người chúng ta có được sự Công chính của Chúa để sống cuộc đời kitô hữu của mình. Nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta được trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn với tình thương và ơn cứu độ của Chúa dành cho chúng ta.
70.Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần trôi... Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngở ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm.
Người chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đòi mẹ, nhưng chẳng thấy.
Nó lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng Trương.
Người chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật, vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những lời giải thích cặn kẻ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.
Chúng ta cũng vừa chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông nầy là ai? Ong là thủ lãnh những người biệt phái, là một nhà thông thái, hiểu biết nhiều, có địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nhìn thấy Chúa Giêsu, hiểu biết những việc làm của Ngài. Nhưng ông ta chưa dám đến với Ngài thật sự, vì những gì là của riêng ông ta, đã làm nặng nề bước chân tìm chân lý, đã che khuất đi ánh mắt đi tìm ánh sáng.
Những cái đó cũng làm mất đi sự can đảm cần thiết để có hành động nói lên sự thật. Chính vì thế ông ta mới tìm Chúa Giêsu vào lúc đêm về. Qua cuộc đối thoại không mang lại kết quả bao nhiêu, vì ông ta chưa ra khỏi chính mình được. Đến khi Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, khi đó ông mới được mở mắt ra, khi đó tất cả những gì là của ông, chẵng có giá trị gì. Mặc dù hiện tại, ông đang đứng trước chân lý, đang đứng trước nguồn hạnh phúc đích thực mà ông chẵng hay biết.
Sánh về địa vị, chắc chúng ta không bằng ông thủ lãnh người Do Thái kia đâu. Về sự hiểu biết, chắc cũng không ai dám tự hào là hơn ông. Về địa vị, chúng ta cứ nhìn lại chính mình xem. Vậy mà chúng ta có biết tìm đến Chúa chưa? Tìm đến để nghe Ngài nói, Ngài chỉ dạy. Chúng ta chê trách ông Nicôđêmô hơi thiếu can đảm. Nhưng vì ông đã có sự khởi đầu nên ông cũng đã có được kết quả tốt đẹp. Ông đã dám xuất hiện giữa ban ngày vào lúc cần thiết nhất, lúc mà các Tông đồ đã trốn chạy hết. Ông lo tất cả mọi việc thật chu đáo.
Thiên Chúa luôn chờ đợi và Ngài cũng tạo điều kiện cho ta, nhưng chúng ta có rời được chỗ ở, rời được con người của chính mình để đến với Ngài không. Hay chúng ta vẫn còn nặng nề với bao nhiêu vấn đề của cuộc sống. Công việc không thể; Vì chúng ta còn sợ; Hay là tôi đã hiểu biết nhiều, nên tôi không cần phải nghe ai chỉ dạy. Vậy thì làm sao chúng ta có thể gặp được Chúa. Thiên Chúa không hiện ra trực tiếp với chúng ta. Ngài nói, nếu cần thiết, có thể qua người con nhỏ trong gia đình để đánh động tâm hồn chúng ta. Ngài cũng muốn nói với chúng ta, qua những cử chỉ đơn sơ của những ngưới thấp hèn hơn chúng ta, đôi khi qua những người hành khất để đánh động lương tâm chúng ta.
Đôi khi cứng rắng hơn, Ngài nói qua những người có uy quyền với lời lẽ có khi làm chạm tự ái chúng ta để đánh động tâm hồn. Nhìn lại cách sống của chính mình, mỗi người sẽ nhận thấy mình đã tìm gặp được Chúa hay chưa. Nếu giờ nầy chúng ta đã can đãm hơn, biết chu toàn trách nhiệm hơn, siêng năng đến với Chúa hơn , biết làm gương tốt cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã gặp được Chúa, đã nhìn thấy ánh sáng. Đó là chúng ta không còn đi trong đêm tối nữa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với Chúa, để nhận ra chân lý và luôn sống trong ánh sáng chân lý của Ngài.
71.Thiên Chúa yêu thương
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc chúng ta.
Đúng thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.
72.Yêu thương tha thứ
1. Tặng quà là một trong những phương cách biểu hiện lòng yêu quý nhau. Món quà càng có giá trị, càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, có thể nói lên tâm tình của người tặng dành cho người nhận. Nhìn lại Lịch Sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, thời Cựu Ước, Thiên Chúa nhờ các ổ phụ, các ngôn sứ để dạy dỗ, mạc khải... tình yêu của Thiên Chúa cho dân riêng của Người. Thời Tân Ước, sau một thời gian lâu dài chuẩn bị, Thiên Chúa ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu cho loài người, đây là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu đến thế gian không phải để luận phạt, mà đem ơn cứu độ, đem lòng yêu thương, tha thứ cho loài người.
2. Bài Tin Mừng hôm là một phần trong cuộc đối thoại với Ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời Xuất hành. Hình ảnh con rắn đồng, đó là tìền trưng của Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy".
Hẳn chúng ta còn nhớ, sau khi rời khỏi Ai Cập để tiến về đất Chúa hứa. Suốt bốn mươi năm trong hoang địa, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc dân Do thái, cho cột mây, cột lửa dẫn đường; đói có mana, có chim cút; khát có nước chảy ra từ tảng đá, thế nhưng họ vẫn chưa thoả mãn, vẫn kêu trách Thiên Chúa. Một lần cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA đã giáng xuống đám dân này, đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Họ đã nhận ra lỗi lầm của họ và chạy đến cầu cứu với Môsê, Thiên Chúa dạy Môsê đúc con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn độc cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng này sẽ được cứu. Thật ra, Không phải chỉ lần này, mà nhiều lần dân Do thái đã sa ngã, nhưng Thiên Chúa đều rộng lòng tha thứ. Điều này cho ta thấy Thiên Chúa , Đấng giàu lòng tha thứ và hay thương xót.
Nếu con rắn đồng là biểu tượng nói lên lòng yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa , thì Đừc Kitô, Con Một của Người, được giương cao trên cây Thánh giá, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người đạt đến đỉnh cao tuyệt đối: "Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Người mà được cứu độ".
Đọc Tin Mừng, chúng ta dễ thấy, lòng tha thứ của Đức Giêsu dành cho tất cả mọi người, nhất là những người được xem là tội lỗi như thu thuế, đàng điếm; ngay trên cây Thánh giá, Chúa đã tha cho người trộm lành, cho những kẻ bắt bớ sỉ nhục Ngài. Ngày hôm nay việc tha thứ vẫn được tiếp diễn, qua Bí tích Hòa giải, dù tội chúng ta nặng nề như thế nào, nếu thành tâm quay về cùng Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả.
3. Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, cùng với việc cầu nguyện, ăn chay, thì sống bác ái đối với nhau là một việc làm rất cần thiết, hữu ích. Một trong những việc làm bác ái cụ thể mà Đức Kitô mời gọi chúng ta sống theo tinh thần, gương của Ngài đó là tha thứ cho nhau, quên đi những lỗi lầm của nhau. Thật vậy, trong đời sống chung làm sao tránh được những điều mất lòng nhau, nhiều khi vô tình hoặc do cố ý.
Hãy sống bác ái, bằng việc tha thứ, từ những người gần gũi. Hãy thực hiện việc tha thứ từ trong gia đình, cộng đoàn: vợ chồng đối với nhau, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái, anh chị em đối với nhau, những người chung sống... Từ việc yêu thương tha thứ với những người trong gia đình, cộng đoàn, chúng ta sẽ đi xa hơn trong việc tha thứ đối với người khác: chòm xóm, những người cùng làm ăn buôn bán, nơi làm việc.
4. Muốn tha thứ cần phải có làm hòa. Có thể chúng ta muốn tha thức cho anh chị em chúng ta, nhưng do tự ái, tự cao, chúng ta đặt điều kiện người anh chị em đó phải đi bước trước đến với tôi thì tôi mới tha. Hãy nhìn vào Đức Giêsu, Ngài đã đi bước trước, bỏ trời cao để đến với con người tội lỗi. Bỏ ra món quà để tặng nhau, bỏ ra tiền bạc của cải đễ giúp nhau xem ra dễ hơn rất nhiều bỏ cái "tôi". Cái "tôi" tự ái, cái "tôi" tự cao, cái "tôi" bướng bỉnh. Vì thế có thể nói tha thứ là món quà quý giá mà chúng ta trao cho nhau. Bởi muốn tha thứ phải bỏ những cái "tô" hẹp nòi như đã nêu trên.
Muốn tha thứ cần phải quên đi những lầm lỗi của người khác, thường thì chúng ta dễ quên điều tốt mà lại nhớ lâu lỗi của người khác. Chính vì vậy khó tha thứ cho anh chị em của minh! Chúng ta nên noi gương Thiên Chúa giàu lòng vị tha: Người không nhắc dân Do thái đã lỗi với Người bao nhiêu lần. Thiên Chúa cũng không nhớ quá khứ tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng đừng để lòng về thiếu sót của tha nhân, đó là điều kiện để chúng ta thực hiện việc tha thứ tốt hơn.
5. Người Kitô hữu không những được hưởng hồng ân Cứu Độ từ Thập giá của Đức Giêsu mà Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta thông phần vào việc chia sẻ niềm vui Thập giá của Ngài. Vì thế hãy tiếp tục đem tình yêu, sự tha thứ của Chúa đến với tha nhân. Hãy góp phần phân phát món quà quý giá này, đặc biệt là trong mùa Chay thánh, bằng cách sống yêu thương, tha thứ.
73.Sự thật đổi mới chúng ta
Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh sáng về con người của chúng ta.
Thật khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc sống ấy như thế nào.
Có những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó”. Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi sự!”. Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự. Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi. Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một lời mời gọi sống.
Vậy Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật. Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu. Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.
74.Lòng tin
Đang khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh "con rắn đồng" trong sa mạc. Đây là câu chuyện xảy ra trên đường từ Aicập về đất hứa. Ong Môisen theo lệnh Chúa dẫn "đám dân nô lệ" ra khỏi Aicập về Đất Hứa, trên đường đi Chúa ban Manna để nuôi dân chúng, nhưng ăn riết một thứ họ cũng chán, chẳng còn thấy ngon chút nào, chán đến phát ớn! Họ nhớ lại những củ hành của tỏi ở đất Aicập, vì dù là nô lệ họ vẫn được ăn nhiều thứ.
Càng nghĩ họ càng thèm những món ăn truớc đây họ đã được ăn, thèm nhỏ dãi luôn, không chịu được họ nỗi loạn chống lại ông Môisen, họ muốn quay về để được ăn dù phải làm nô lệ, làm tôi mọi, chẳng đáng một con người. Họ cố chịu đấm để được ăn xôi, cho dù là xôi có hẩm, xôi hẩm cũng vẫn là xôi mà. Để uống nắn và lòng dân, Chúa cho có những con rắn lửa xuất hiện và chúng đã cắn chết rất nhiều người. Họ hoang mang sợ hãi kêu cầu Chúa tha thứ và cứu chữa họ.
Chúa bảo ông Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn lửa cắn thì nhìn lên con rắn đồng ấy, thì sẽ được Chúa cứu khỏi chết. "Cũng như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời ". Chúa Giêsu nói đến cái chết của Ngài sẽ phải chịu. Vâng! Ngài sẽ phải bị treo lên cây thập giá, để những ai tin vào danh của Ngài và thực hành những Lời Ngài dạy bảo thì sẽ được cứu sống.
Xưa dân Do thái nổi loạn chống lại ông Môisen, nghĩa là không tin vào Thiên Chúa nữa. Khi họ bị rắn lửa cắn họ đã nghe theo lời ông Môisen dạy, nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu sống. Không phải con rắn đồng có khả năng ấy, nhưng vì họ đã vâng nghe theo lời ông Môisen, nghĩa là tin vào Thiên Chúa, bởi ông là Ngôn sứ của Chúa. Chúa đã ra tay cứu chữa họ, dù họ đã bất trung chống lại Ngài. Xưa con rắn đồng cứu sống họ nhưng rồi họ vẫn phải chết, còn Chúa Giêsu sẽ cho những ai tin và thực hành Lời Ngài sự sống cả đời này và đời sau nữa.
Anh chị em, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, có lẻ đã nhiều lần, nhiều lúc, ở đâu đó, chúng ta cũng bất trung, cũng phản bội lại ơn làm con Chúa khi chúng ta phạm tội hay chúng ta đồng loã với tội lỗi. Hãy mau quay về với Chúa, hãy ngước nhìn lên thánh giá Chúa với tâm tình hoán cải thực sự, hầu được ơn tha thứ. Hãy tin rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Ân sủng và tình thương của Chúa lớn hơn tội lỗi và sự bất trung của chúng ta.
Tâm tình mà chúng ta cần phải có hôm nay là cám ơn Chúa vì tình thương Chúa lớn hơn tội của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng học nơi Chúa bài học tha thứ, tha thứ luôn luôn cho anh chị em của mình.
Bản thân chúng ta là những con người tội lỗi yếu đuối, dễ phạm tội, dễ sa ngã, chúng ta cần được Chúa tha thứ thì chúng ta cũng phải biết không ngừng tha thứ cho những sai phạm của anh chị em chung quanh mình.
75.Người thợ săn.
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời”.
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.
Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.
76.Thích gì.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về bản chất của tội lỗi. Tội chính là chọn lựa bóng tối thay vì chọn ánh sáng là đời sống của Chúa Giêsu. Đây là một sự thật rất kinh khủng về tội. Tội là một cớ vấp phạm, không một suy tư nào có thể biện minh cho tội lỗi. Vì Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những hành vi tội lỗi đều là sự dữ.
Điều chúng ta nên làm là thường xuyên phản tỉnh về những chọn lựa mà chúng ta đang làm, và phân biệt đó là sự chọn lựa bóng tối của tội lỗi hay chọn lựa ánh sáng sự thật của Chúa Giêsu Kitô.
Khi phản tỉnh về những điều sai trái của tôi, tôi cảm thấy bị vỡ mộng và khó chịu về sự bất lực không làm được những chọn lựa đúng của tôi. Cuộc sống của tôi dường như phản ánh cuộc chiến đấu của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 7. Trong đoạn này, thánh nhân nói điều mà mình biết là cần phải làm thì lại không làm được.
Trong thực tế, Giáo Hội khuyến khích chúng ta thực hành việc xét mình hàng ngày, vào ban tối trước khi đi ngủ. Vào lúc xét mình, chúng ta nhớ lại các sự việc đã xảy ra trong ngày và tạ ơn Chúa vì những phúc lành mà Người đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ lại các tội đã phạm và những điều chúng ta cần phải làm mà đã không làm và ăn năn thống hối tất cả các tội lỗi đã phạm. Nhờ ơn Chúa, qua việc xét mình này, chúng ta thấy rõ tâm hồn của mình, nhận biết các tội đã phạm, giúp chúng ta tỉnh thức hơn để canh phòng tâm trí của mình và sẵn sàng đón nhận những ơn soi sáng của Chúa.
Chúng ta cần nhận thức cuộc sống của chúng ta là một chiến trường giữa hai lực lượng thiện và ác. Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu vì chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng khi khắc phục được tội lỗi và các cơn cám dỗ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta chịu thử thách quá sức chịu đựng của chúng ta. Nhưng chúng ta phải cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, để nhờ đó, chúng ta luôn sống như con cái của ánh sáng và không trượt ngã vào trong vương quốc của tối tăm và tội lỗi.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh và can đảm để con chiến đấu với các đam mê tội lỗi và nết xấu của con.
77.Yêu Chúa.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn đồng là gì? Đây là một câu chuyện thời xưa được Chúa nhắc lại, khi dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này? Số người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn hai triệu người, con số không phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày, nhưng rồi họ cũng chán ngán, họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương bảo ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.
Thật ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy, yếu tố cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Nói rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư mất đời đời thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của Ngài, để Ngài đem hạnh phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là người phải cần tới Chúa, thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái chết khác, không liên quan gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của Ngài cũng như cái chết của một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của những người Do Thái xưa kia nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn bị chết. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị rớt xuống vực thẳm, không thể tự cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy cần phải có một người ở trên, ở ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa cứu chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu độ của Chúa.
Như vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là chúng ta phải tin vào Chúa thì mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy sống trên trần gian này bất cứ ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con người ta sống không thể nào thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này thì tin điều khác, không tin người này thì tin người khác, chúng ta tin nhau, cha mẹ tin con cái, con cái tin cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học, cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một lòng tin “tát bể đông cũng cạn”. Như vậy, tin là chuyện bình thường trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo, đối với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải có một đức tin sắt son vào Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai? Tin vào mình chăng? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào đời mình chăng? Làm như vậy là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa, chắc chắn rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi, nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn năng, đó là bấy nhiêu của lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa. Chúng ta tin nên chúng ta yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được một nửa đường của Mùa Chay. Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn những người trần gian yêu chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy ăn năn sám hối.
78.Con rắn
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình.
Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
- Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai… Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá.
Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời.
Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
- Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.
79.Thiên Chúa yêu.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
80.Tiến vào ánh sáng
Thánh Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh sáng”. Đến với ánh sáng là điều kiện để làm theo lẽ phải. Không phải người nào suy xét về chân lý mới đến được với ánh sáng, mà là những người làm theo lẽ phải. Hành trình ngắn nhất để đến được với ánh sáng là làm việc thiện. Nhưng trong thực hành, không phải lúc nào chúng ta cũng hành động như vậy.
Thông thường, điều mà chúng ta phải làm, đó là cố gắng được trạng thái an bình nội tâm, và rồi sau đó, mới tiến đến làm những hành động đem lại sư an bình. Chúng ta phải cố gắng đạt được trạng thái vui vẻ và biết ơn, và rồi sau đó mới đến làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn. Nhưng chúng ta thường làm ngược lại. Chúng ta thực hiện một hành vi đem lại sự an bình, để đạt được sự an bình nội tâm. Chúng ta làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn, để cảm nghiệm được niềm vui và sự biết ơn trong tâm hồn. Cũng theo cách đó, nếu chúng ta đang sống trong tối tăm, và làm những hành động tốt đẹp, thì rồi ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta. Câu chuyện có thật sau đây minh họa điều này thật rõ ràng.
Trong thành phố Látvi của Kovno, có một giáo sư sống tại đó. Mặc dù trong suốt cả cuộc đời, ông đều sống theo học thuyết bất khả tri, nhưng vị giáo sư này càng ngày càng bắt đầu cảm thấy bất an hơn, vì tình trạng bị bỏ bê, u buồn của nghĩa trang dành cho người Do thái trong thành phố. Bởi vì những người theo chủ nghĩa Phátxít đã hủy diệt người Do thái, và những người Xô-viết gây phiền hà cho họ, nên không một ai quan tâm chăm sóc các nấm mộ của họ. Vì thế, phát xuất từ tấm lòng tốt của mình, vị giáo sư này đã quyết định làm công việc đó.
Chúng ta không biết ông có ý thức rằng việc chăm sóc các ngôi mộ là một mitzvah, nghĩa là một nghĩa cử tốt đẹp hay không. Dù sao đi nữa, người đàn ông tốt bụng này cũng kiếm cho bằng được một cái xẻng, một cái liềm, và một cái kéo lớn, rồi bắt đầu công việc làm cho nghĩa trang xứng đáng với những người chôn cất tại đó. Lúc đầu, ông làm một mình, nhưng sau vài tuần, có những người Do thái khác tham gia vào công việc này với ông. Hầu hết những người này đều đã từng là người Do thái rất tuân thủ theo nguyên tắc, nhưng rồi họ trở thành những người sống theo học thuyết bất khả tri, giống như vị giáo sư đó. Cuối cùng, họ có đến 200 người, tất cả đều đang làm một công việc đúng đắn. Trong quá trình họ làm việc, một sự kiện đẹp đẽ đã xảy ra. Niềm tin Do thái của họ soi sáng trong tâm hồn họ. Về mặt thực hành, một lần nữa, tất cả những người này đều đã trở thành những người Do thái tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức.
Bất cứ kẻ nào làm điều sai trái, thì đều căm ghét và tránh né ánh sáng. Nhưng những ai làm điều đúng đắn, thì yêu mến và đến với ánh sáng. Có bao nhiêu hành động của chúng ta được thực hiện trong ánh sáng? Có bao nhiêu hành động của chúng ta bộc lộ sự quan sát kỹ lưỡng đối với ánh sáng?
Chúng ta phải chấp nhận rằng có cảnh tối tăm trong cuộc sống và thế giới của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra cảnh tối tăm đó, và học hỏi được cách sống trong tương quan với nó.Thật vô ích khi chúng ta chờ đợi cho cảnh tối tăm đó biến mất. Chúng ta vẫn mong muốn điều đó. Nhưng chúng ta phải chấp nhận rằng nó đang tồn tại ở đây, và sẽ luôn luôn ở đây.
Chúng ta không được gọi bóng tối là ánh sáng. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ bị bóng tối đánh bẫy. Nhưng khi gọi nó là bóng tối, chúng ta có thể học hỏi được cách sống sao cho bóng tối không chế ngự được chúng ta. khi chấp nhận tất cả mọi sự, thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được giữa ánh sáng và bóng tối.
Người nào nhận biết niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, thì không từ chối bóng tối, nhưng họ chọn lựa không sống trong bóng tối. Họ tin tưởng vào ánh sáng chiếu tỏa trong bóng tối, và nhận biết rằng chỉ một tia sáng nhỏ nhoi thôi, cũng đủ xua tan nhiều bóng tối. Và ánh sáng của Đức Kitô quá đỗi mạnh mẽ, đến nỗi không một bóng tối nào có thể áp đảo được. Nếu chúng ta làm việc thiện, thì ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta.
81.Nhìn lên Thập giá
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu chuyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Môsê. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Môsê cứu giúp. Ông Môsê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đích-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đích-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Baraba, vì Baraba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rôma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành thánh giá và bóng thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
82.Đón nhận Thập Giá Chúa Kitô
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người Công Giáo mà còn phải được tôn vinh ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã bị treo lên để cho mọi người nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho nhân loại. Ngài đã thể hiện tình yêu tột đỉnh.
Nói về tình thương tha thứ của Thiên Chúa, người ta thường kể lại cho nhau nghe về câu chuyện ở một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt. Đó là Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Người ta kể rằng, một lần kia, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh". Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con". Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, thể hiện sự tha thứ của Thiên Chúa đối với hối nhân.
Bước vào Chúa Nhật 4 Mùa Chay, hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Ngài luôn tha thứ. "Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống" (Ez 33, 11). Quả vậy Thiên Chúa sai con một của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian nhưng để thế gian nhờ con của Ngài mà được cứu độ. (Ga 3, 17). Cũng như Môisen treo con rắn đồng trong Samạc thế nào, thì con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời (Ga 3, 14). Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ và Đấng bị treo trên thập giá đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin Ngài.
Thánh Gioan đã nói: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một, để ai tin con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời" (Ga 3, 16). Thiên Chúa một lần nữa đã biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể qua sự trao ban. Điều quý giá nhất của Người Cha chính là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính con một dấu yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Một yêu dấu đến trong trần gian, mang lấy thân phận con người và cuối cùng qua việc trao nộp Con Một cho loài người treo trên thập giá. Chúa Giêsu trên thập giá chính là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy lúc đó chính là lúc Thiên Chúa đặt con của Ngài làm Đấng ban sự sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải kết án thế gian nhưng để cứu thoát loài người khỏi chết và ban cho họ thông phần vào cuộc phục sinh vinh quang của Ngài.
Như thế, đứng trước thập giá Chúa Kitô chúng ta tin hay không? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ. Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói: "ai đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối và tự mình đoạ đày mình trong cảnh tăm tối trong cõi chết". Thiên Chúa không cần luận phạt nữa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một của Ngài. Đó là chân lý cơ bản của chúng ta. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu là dấu chỉ mà Chúa muốn nói với chúng ta là Chúa yêu thương chúng ta. Yêu thương con người đến nỗi sẵn sàng để ngưiơì con Một yêu quý của Ngài chết thay cho chúng ta.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Ngài đã chết cho nhân loại để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy nhìn lên thập giá để thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa. Một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán và mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để chúng ta thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi nhưng trái lại để cảm nhận được hồng ân bao la của Chúa để cho tâm hồn được phấn khởi tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Ngài để chúng ta biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Càng cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Hãy tha thứ để được Chúa thứ tha. Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương. Một lần nữa hãy nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là dường nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là ngần nào. Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng tình thương mà Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con luôn coi thập giá Chúa Kitô là hy vọng sự sống đời đời của chúng con. Đồng thời xin cho chúng con biết yêu thương và tha thứ cho anh chị em chúng con như Chúa đã yêu thương mà tha thứ. Amen.
83.Rắn đồng cứu độ
Trong cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều nói đến hai nhịp: bất trung và trừng phạt, triệt hạ và tái thiết, lưu đày và hồi hương; lên án và cứu độ, chết và sống. Các tình huống thăng trầm này thường xảy ra trong lịch sử dân Do thái. Chúng tiêu biểu cho nhịp sống tôn giáo của một dân tộc và cũng là của mỗi chúng ta, khi bất trung khi nhiệt thành. “Tư tế và dân chúng bất trung bất nghĩa … khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (x. Bài Đọc 1. 2Sb 36,14-16.19-23).
Một kinh nghiệm khác, trong hành trình sa mạc tiến về đất Hứa, có lúc người Do thái đã thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa nên than trách, thay vì tri ân thì ca thán Môsê đã đưa họ vào sa mạc; hình phạt được dựng nên tức khắc để trừng trị kẻ vô ơn: rắn độc tràn ra cắn chết những kẻ than van. Không có thuốc chữa, họ ngước nhìn Thiên Chúa và kêu cầu Người; Môsê được lệnh đúc tượng rắn bằng đồng rồi giương cao nơi hoang địa để những ai bị rắn độc cắn, nhìn lên rắn đồng, tức thì được cứu sống (x. Ds 21,4-9). Phương thuốc chữa trị này không phải là ma thuật bùa chú gì cả, nhưng là hành vi cứu độ do đức tin đem lại, quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện nơi lòng tin. Một phương thế cứu độ nhất thời của Thiên Chúa đối với dân của Người, tỏ cho dân biết Thiên Chúa quyền năng đáng kính sợ, Người cứ độ và thưởng phạt theo tội phúc mỗi người.
Hình ảnh rắn đồng được giương cao trong hoang địa được chính Đức Giêsu lấy làm biểu tượng và áp dụng cho chính mình: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (x. Bài Tin Mừng. Ga 3, 14-21). Con Người được giương cao trên thập giá, hình ảnh con rắn đồng được thay thế bằng thực tại xảy ra, Đức Giêsu được ví như Môsê Mới giương cao mình trên đồi Canvê vào Thứ Sáu Thánh để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân, như một phương pháp dĩ độc trị độc. Con đường từ cõi chết bước sang sự sống vươn cao trong mầu nhiệm Vượt qua nơi bản thân Đức Giêsu thành Nadarét, đó là mầu nhiệm tử nạn và phục sinh mà Giáo Hội cử hành hằng ngày trên bàn thờ: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Mỗi Chúa nhật, Lời Chúa và Thánh Thể làm cho chúng ta sống một cách bí tích hai nhịp “chết đi và sống lại” này, làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô. “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô trên trời” (x. Bài Đọc 2. Ep 2,4-10).
Kinh thánh ghi lại những bất trung, phản trắc của dân Do thái, những tai ương đi kèm theo họ mỗi khi họ vấp ngã phản bội, như để sửa trị và gíao dục họ, nhưng mục đích chính là cốt để làm nổi bật lên lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân Người. Thật vậy lòng yêu thương của Thiên Chúa luôn dẫy tràn trên họ đến nỗi Tin Mừng thánh Gioan ca tụng tình yêu đó: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (c.16). Thật là tội hồng phúc (felix culpa), tội đáng ca tụng vì đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, như bài Hoan Ca Phục Sinh (exultet) được cất lên trong đêm Chúa sống lại. Thật tuyệt vời! Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả của Người đến giữa dân Người để kêu gọi họ trở về với Thiên Chúa. Nếu như dân đã bất trung với Giao Ước nên đã bị lưu đày, Thiên Chúa đã nhờ bàn tay ngọai giáo vua Ky-rô xứ Ba Tư để mở cho họ con đường trở về. Trong mọi hoàn cảnh cho dù bế tắc đến đâu Thiên Chúa cũng có cách hành xử hợp lý, Người luôn tỏ ra là Ông chủ lịch sử. Thật kỳ diệu, lòng Chúa xót thương! Thánh Phaolô dâng lời ca tụng: “Thưa anh em , Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống lại với Đức Kitô” (c. 2. Bài Đọc 2). Tin tưởng và tín thác vào tình yêu Thiên Chúa, người Ki-tô hữu không có chỗ cho tuyệt vọng, họ không có bất cứ lý do nào để đánh mất niềm hy vọng được Thiên Chúa cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng sự chết và sống lại của Chúa để cứu độ con, con tri ân cảm tạ và cung kính thờ lạy Chúa. Xin cho con biết trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa đối với anh em con. Amen.
84.Nicôđêmô
Nicôđêmô là nhân vật trung tâm trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù ông chỉ xuất hiện ba lần trong sách Tin Mừng (cả ba lần đều xuất hiện trong sách Tin Mừng theo thánh Gioan), nhưng tính cách của ông rất hay. Ông là một người Pharisêu, và là một thành viên của Sanhedrim – tòa án tối cao Do thái.
Lần đầu tiên Nicôđêmô xuất hiện là trong bài Tin Mừng mà chúng ta đọc hôm nay. Chúng ta được nghe kể lại rằng những lời giảng dạy và việc làm của Đức Giêsu đã gây ấn tượng nơi ông. Đối với ông, rõ ràng là trong những lời nói và hành động đó có bàn tay của Thiên Chúa. Do đó, ông đến với Đức Giêsu, nhưng đến một cách âm thầm, bởi vì ông không muốn bị người khác phát hiện ra. Nhưng chúng ta không nên quá khắt khe đối với ông trong cách tính toán này. Với sự kiện ông là một người Pharisêu, thật là một điều đáng ngạc nhiên, khi ông đến với Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã cho ông vinh dự được có một cuộc phỏng vấn dài với Người.
Khi Nicôđêmô xuất hiện lần thứ hai, ông đã dày dạn, khi dám đặt vấn đề với những kẻ chống đối Đức Giêsu. Lúc bấy giờ, những người Pharisêu đã có ý định giết Đức Giêsu, và sẵn sàng giết Người, mà thậm chí không cần đưa Người ra xét xử. Nhưng Nicôđêmô đã can thiệp, ông tuyên bố rằng ít nhất phải nghe Đức Giêsu nói một cách công bình, theo như lề luật đòi hỏi. Đây là lần ông công khai dính líu vào Đức Giêsu. Chính ông đã cung cấp một khối lượng lớn những thứ thuốc thơm đắt tiền để chôn cất người. Chúng ta có thể suy luận được điều gì về Nicôđêmô, qua ba lần xuất hiện ngắn ngủi này? Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là một người cởi mở, và là một người thực sự muốn tìm kiếm chân lý. Lần xuất hiện lần thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, khi cứ khăng khăng rằng không được kết án Đức Giêsu, mà không đưa Người ra xét xử. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có, nhưng cũng là người quảng đại và có lòng thương xót nữa. Với tất cả những phẩm chất này, chúng ta có thể khen ngợi và bắt chước những tính cách hữu ích của ông. Nhưng điều mà dường như Nicôđêmô không có khả năng thực hiện, đó là thẳng tiến và có một hành động chứng tỏ lòng tin nơi Đức Giêsu một cách trọn vẹn và công khai. Dường như ông không có khả năng can đảm để bước ra khỏi bóng tối, và dứt khoát quyết định đến với ánh sáng. Chúng ta có được hình ảnh một con người tốt, có thể trở thành một người vĩ đại. Một con người tầm thường là người không phải là đại thánh, mà cũng không phải là người tội lỗi. Khi suy nghĩ về Nicôđêmô, có thể chúng ta bước ra khỏi bóng tối, vì không e ngại hoặc xấu hổ công khai tuyên xưng lòng tin của chúng ta nơi Đức Giêsu, và nếu cần, chúng ta sẵn sàng trả bất cứ giá nào khi làm điều đó. Những ai tin tưởng sẽ không bị hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời. Tuy nhiên, điều đó không đơn giản chỉ là vấn đề tin tưởng, mà còn là sống sao cho phù hợp với lòng tin đó.
85.Tình yêu của Thiên Chúa
Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên, giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như giới xì ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ, nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
- Chi tiết
- Viết bởi Lc 18, 9-14
- Lượt xem: 3
Cầu nguyện trong sám hối.
Thứ Bảy tuần 3 Mùa Chay.
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Lời Chúa: Lc 18, 9-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:
"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi".
Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội".
Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tự hào và khinh người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tự hào về sự đạo đức của mình và khinh người khác,
Đó chẳng phải chuyện của các ông Pharisêu ngày xưa.
Đó là chuyện của con người mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.
Chúng ta nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho mình trong Mùa Chay thánh.
Hai nhân vật đối lập nhau, được đặt bên nhau trong dụ ngôn.
Họ ở trong cùng một đền thờ, cùng đứng cầu nguyện trước nhan Chúa.
Họ là một ông Pharisêu thánh thiện và một người thu thuế tội lỗi.
Nghe lời cầu nguyện của họ, chúng ta biết được lòng họ.
Người Pharisêu không xin gì cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa.
Ông kể ra những điều xấu mà ông không làm như bao kẻ khác,
hay như tên thu thuế mà ông thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c. 11).
Ông còn kể những việc đạo đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng
mà ông đã làm vượt quá những gì Luật đòi buộc.
Lời cầu nguyện của ông khiến nhiều người Do Thái tử tế phải thèm.
Còn người thu thuế thì đứng xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu xin cách đơn sơ:
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13).
Anh thấy mình bất xứng, bất lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ.
Kết luận của Đức Giêsu hẳn đã làm nhiều người chưng hửng.
Người thu thuế được Thiên Chúa làm cho nên công chính,
còn người Pharisêu thì không (c. 14).
Thiên Chúa có bất công không? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không?
Thật ra, ông Pharisêu không được gì vì ông đã không xin gì.
Ông không xin vì ông thấy mình quá ư giàu có về mặt đạo đức.
Ông ra trước Thiên Chúa với một kho công trạng của mình.
Có bao nhiêu chữ con đầy tự hào trong lời nguyện của ông.
Chúng ta tưởng ông mở ra khi nói “con tạ ơn Thiên Chúa”
nhưng thực tế ông đã khép lại, quay vào mình, ngắm nghía vẻ đẹp của mình.
Rốt cuộc Thiên Chúa là người thừa, cùng lắm chỉ là người ông đến đòi nợ.
Ngược lại, anh thu thuế tuy có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay trắng, lỗi tội.
Chính điều đó khiến anh hết sức cần đến Thiên Chúa.
Ngài đã nghe tiếng kêu của anh từ xa, từ cuối đền thờ.
Không cần Thiên Chúa và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở.
Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm”
mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi.
Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối của mình,
lời cầu nguyện của người đó mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Suy Niệm 2: Được nên công chính
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nhìn bề ngoài thì ai cũng thấy người Pha-ri-sêu được đánh giá cao hơn. Ông thuộc tầng lớp đạo đức, được mọi người kính trọng. Làm nhiều việc lành hơn cả luật đòi hỏi.
Người thu thuế bị mọi người khinh miệt. Bị coi là người tội lỗi công khai. Bị coi là người phản quốc, vì tiếp tay với ngoại bang để hà hiếp dân chúng. Bị coi là gian dối, vì thu thuế đồng nghĩa với tham nhũng hối lộ.
Thái độ trong nhà thờ khi cầu nguyện tiếp nối cách sống ở ngoài đời. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng người trên cung thánh và lớn tiếng cầu nguyện. Còn người thu thuế quì sụp xuống đất ở cuối nhà thờ, chỉ nài xin Chúa tha tội. Nhưng kết quả trái ngược hẳn với những gì ta thấy bên ngồi. Tại sao?
Người Pha-ri-sêu kiêu ngạo. Thực ra ông không cầu nguyện, ông chỉ khoe khoang và tự đánh giá mình cao hơn người thu thuế. Còn người thu thuế khiêm nhường. Ông cầu nguyện thầm thĩ, đấm ngực ăn năn, và xin tha thứ.
Người thu thuế được nên công chính, người Pha-ri-sêu thì không. Có 3 lý do:
Chúa kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chẳng ai có quyền tự hào. Tất cả là của Chúa. Tất cả phải trả về cho Chúa. Đó là điều phải làm. Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng mà thôi.
“Ta muốn tình yêu chứ không cần hi lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu”. Thiên Chúa là tình yêu và giầu có vô cùng. Người chỉ cần tình yêu chứ không muốn gì khác. Người thu thuế đến với Chúa bằng tấm lòng yêu mến và nghèo công phúc. Nên được công chính.
Thư Rôma 3, 27: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy”. Người Biệt phái làm điều luật dạy, nên tự hào. Người thu thuế chẳng dám tự hào, chỉ tin vào lòng thương xót của Chúa. Nên ông được công chính.
Mùa Chay là lúc ta nhận biết mình tội lỗi, yếu hèn và không thể tự mình đạt được ơn cứu độ. Ta hãy noi gương người thu thuế nhận thức tội lỗi của mình. Nài xin ơn tha thứ. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, để ta được công chính, được ơn cứu độ.
Suy Niệm 3: Chìa Khoá Của Tự Do
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau:
Có một người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin được gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được cho các người những nữ trang có thể dùng được”. Các quản giáo không thấy trở ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông. Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn được khỏi nhà tù.
Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng người để kể về những thành tích của mình, trong khi đó người thu thuế tội lỗi đứng trong góc đền thờ, không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội, còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.
Mùa Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện, điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi tội lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.
Như người con hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.
Suy Niệm 4: Hoán cải và cậy trông
(Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày – R. Veritas)
Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người pharisiêu thường bị Chúa quở trách nặng lời về tính tự cao tự đại của họ.
Trong dụ ngôn vừa đọc lại trên đây, Chúa Giêsu dùng hình ảnh một người pharisiêu khoe khoang công trạng mình trước mặt Thiên Chúa. Ông đáng trách không phải vì những việc tốt ông đã làm, như việc ăn chay mỗi tuần hai lần và đóng thuế thập phân cho đền thờ. Nhưng ông đáng trách vì đã xem những công việc đạo đức này như là một chiếc vé để mang lại sự công chính cho ông. Qua lời cầu nguyện của ông, chúng ta thấy rõ ông làm những việc này cốt để tự biến mình trở nên người công chính chứ không phải để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Ông giữ mình khỏi vướng mắc vào các thói hư tật xấu cốt để cho người khác thấy ông đạo đức tốt lành, chứ không như những người hư đốn đồi bại khác. Mỗi khi ra đường, chắc hẳn ông đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên với khuôn mặt nghiêm trang, dáng đi chững chạc uy nghi, các hộp kinh thật lớn thắt trên người, các tua áo thật dài thả tung bay, ông nhìn thấy mình thật xứng đáng để cho thiên hạ kính nể. Bước vào đền thờ, ông đứng riêng ra, chọn cho mình một chỗ xứng đáng và ông bắt đầu khoe với Chúa những công trạng của mình. Nhìn thấy người thu thuế đang cúi đầu khẩn nguyện, ông thưa với Chúa cách tự phụ: "Ðấy, Chúa thấy người thu thuế tội lỗi kia không, con đâu như hắn ta, con tốt hơn hắn nhiều, hắn tham lam tiền bạc, gian lận thuế má, chèn ép lận lường. Con cám ơn Chúa vì con đâu giống như hắn". Nhưng ông pharisiêu đâu biết rằng Thiên Chúa chẳng cần đếm xỉa gì đến những lời khoe khoang tự cao tự đại của ông, Người cần tấm lòng chứ không cần hy lễ, Người cần con tim yêu thương chứ không cần trí óc tự phụ. Tâm hồn khiêm cung tự hối của người thu thuế mà ông coi chẳng ra gì kia lại làm đẹp lòng Chúa còn hơn là ông nghĩ đến.
Thử hỏi, chúng ta nhìn thấy mình trong hình ảnh người nào trong dụ ngôn trên đây: người pharisiêu hay là người thu thuế? Nếu đã lỡ là người pharisiêu, chúng ta đừng ngã lòng nhưng hãy thành thật hoán cải và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa, Người có thể biến sự dữ trong chúng ta nên sự lành. Nếu chúng ta thành tâm thiện chí, Thiên Chúa sẽ đập tan tính kiêu hãnh của chúng ta và thay vào đó một tâm tình mới, Người sẽ dạy chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa. Còn nếu chúng ta đã là người thu thuế, thì chúng ta cũng hãy cương quyết làm lại cuộc đời, Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, Người đã đón nhận tấm lòng tan nát khiêm cung của chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng làm lại từ đầu.
Với ân sủng của Thiên Chúa, không có sự gì là không thể thực hiện được, chỉ cần chúng ta vững tin và phó thác vào Người rồi Người sẽ dẫn dắt chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Mùa Chay là mùa thuận tiện để canh tân đời sống. Chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa để đổi mới tâm hồn mình nên công chính như Chúa vẫn mong chờ.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con, đừng để con rơi vào thái độ tự phụ kiêu ngạo. Xin cho con biết sống khiêm nhường tự hạ trước tôn nhan Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Và xin giúp con được canh tân đời sống trở về với Chúa, đừng bao giờ thất vọng vì những tội lỗi của con đã phạm, nhưng luôn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.
Suy Niệm 5: Đừng bắn người biệt phái
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
J.G
Suy Niệm 6: Khiêm tốn thật thì mới được tha thứ
Có một câu chuyện kể rằng: một ông giáo dân nọ nổi tiếng là đạo đức với những câu chuyện về lòng quảng đại, giúp đỡ của ông cho người nghèo. Ông được nhiều người ca tụng là người tốt lành, thánh thiện, nhất là khiêm tốn khi quảng đại giúp đỡ người cùng khốn mà không cần đến danh vọng...
Chính bản thân ông cũng nghĩ mình như thế! Tuy nhiên, đến lúc về già, ông đến gặp cha xứ và tâm tình với ngài rằng: “Cả cuộc đời con đã hy sinh cho Chúa, Giáo Hội và mọi người, con không hề tính toán thiệt hơn, bởi xác tín rằng: mọi sự con có là bởi Chúa”. Nhưng ngay sau đó, ông xin cha xứ một đặc ân, đó là: khi ông chết, cho ông được chôn ở gầm bàn thờ!
Câu chuyện mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn kể về việc hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một Pharisêu và một thu thuế. Hai người này là điển hình của hai thành phần cực đoan, thái quá trong dân Dothái thời bấy giờ.
Với nhóm Pharisêu thì bảo thủ, kiêu ngạo, tự coi mình là người thành toàn, nắm toàn bộ lề luật và trở thành kiểu mẫu cho mọi người. Điều này được chứng minh qua lời cầu nguyện của ông với Thiên Chúa. Ông kể lể: “Con không gian tham, không bất công, không ngoại tình, không như người thu thuế đằng sau”; “một tuần ăn chay hai lần và dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Còn người thứ hai, bác thu thuế. Người thu thuế thì ai cũng biết, biết về tội ác của ông là phản bội và cấu kết với đế quốc La mã để hà hiếp, bóc lột, vơ vét của cải nhân dân. Vì thế, họ bị dân chúng khinh bỉ vì tội công khai của họ. Chính vì lý do đó, nên chúng ta dễ hiểu là tại sao ông thu thuế này lại đứng đằng xa, không dám ngẩng đầu lên, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Kết cục, hai người ra về và người thu thuế thì được Chúa nhận lời, còn người Pharisêu thì không những không được Chúa nhận lời mà lại còn phạm thêm tội vì coi khinh người khác ngay khi cầu nguyện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.
Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết “xé lòng chứ đừng xé áo” để đáng được Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Khiêm tốn, cậy trông lòng thương xót bao la của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tất cả mọi nỗ lực cố gắng, tất cả mọi thành tích công trạng của con người đều không xứng đáng được Chúa ban ơn. Trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là số không. Khiêm tốn nhìn nhận đúng thân phận của mình ta sẽ được Chúa ban ơn lành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bắt đầu phút cầu nguyện, trước hết con dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn. Trước mặt Chúa Toàn Năng, con chẳng đáng là gì. Lời cầu nguyện khiêm tốn của con không phải chỉ để xin ơn, nhưng là để nhận biết những ơn lành Chúa ban, để dâng lời cảm tạ Chúa, lời cầu nguyện khiêm hạ không làm con trở nên yếu đuối, nhưng thúc đẩy con trở nên can đảm chấp nhận mọi sự thật về mình. Con nhận biết khuyết điểm hạn chế của con để sẵn sàng đón nhận ân sủng Chúa ban.
Chúa đã tuyên dương thái độ của người thu thuế, vì ông khiêm tốn thống hối ăn năn và chờ đợi ân sủng cứu độ từ lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa cho con đừng chỉ dừng lại nơi việc thống hối bên ngoài, nhưng biết đi sâu vào nội tâm và thể hiện trong cuộc sống: biết đến với Chúa trong tâm tình tin tưởng phó thác và biết đối xử với anh em trong tình huynh đệ cảm thông.
Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh tuyệt đẹp trong cuộc sống là lúc Chúa liên kết với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Xin Chúa dẫn đưa con đến với Cha trong tâm tình yêu mến.
Lạy Chúa, hằng ngày con vẫn cầu nguyện trong giờ kinh lễ, và ngay lúc này con đang cầu nguyện với Chúa. Xin Chúa giúp con khiêm tốn, không tự mãn, nhưng biết mở lòng hướng nhìn về Chúa và cậy trông vào lòng thương xót bao la của Chúa. Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm công việc con phải làm. Amen.
Ghi nhớ: “Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Suy Niệm 8: Hãy nghe Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô Salê nói rằng: “Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”.
Phanxicô nghe nói ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui sướng và biết ơn.
Suy Niệm
Người biệt phái: Tuân giữ luật Môisê một cách nghiêm ngặt và người thu thuế, bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa người phong hủi, người tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm trốn tránh cái nhìn của người đời…
Người biệt phái bên cung thánh cất lời vang vang “con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia”(Lc 18,11). Lời cầu nguyện đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi. Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ: Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Anh tự hào, cái tự hào tự mãn làm anh cảm thấy không cần nhu cầu ơn thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, người biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa. Hơn nữa sai lầm lớn nhất khi anh dám so sánh mình “thánh” với “tội” của người khác, Chúa Giêsu đã nói: “Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cái đà trong mắt mình?” (Mt 7,3). Là con người bất toàn, ai cũng có lỗi, nhưng anh chỉ thấy cái thánh thiện để khỏa lấp bao che cho chính tội lỗi của mình. Qua hình ảnh của người biệt phái, hôm nay chúng ta nghiệm thấy tinh thần của Chúa Giêsu muốn giáo huấn chúng ta: Bản thân con người không thể làm cho mình nên thánh thiện, nếu chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức, nhưng luôn cần ân sủng và nương nhờ vào tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Người thu thuế thì không dám ngẩng đầu, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối đền thánh, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”.
Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài. Sự trở lại và canh tân của anh trong ân sủng. Hình ảnh đó làm chúng ta cảm nghiệm lời chia sẻ của thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Ở đâu tội lỗi ngập tràn, thì ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).
Chúng ta mang tâm tình khiêm cung trước Thiên Chúa, đấm ngực sám hối và mở lòng xin Ngài tiếp tục làm điều kỳ diệu trong chính mình: Tâm hồn luôn đổi mới ngập tràn tình yêu.
Chúa thứ tha, Chúa ban ơn
Từ nay con sống tâm tình an vui.
Ý lực sống: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Suy Niệm 9: Thái độ khi cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đưa ra hình ảnh hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái đứng riêng một mình, tách khỏi người thu thuế mà ông khinh chê. Thật sự ông đã chu toàn các phận sự mà luật buộc và ông cho rằng đó là những điều bảo đảm cho ông được công chính. Ông không cần điều gì nơi Thiên Chúa. Nhưng thật ra, sự công chính cũng là một ân huệ Chúa ban. Chính vì tự kiêu, nên lời cầu nguyện của ông không được Thiên Chúa chấp nhận.
Còn ngươi thu thuế cũng đứng đàng xa, cũng tách khỏi cộng đoàn. Vì thấy mình bất xứng, tội lỗi, ông chẳng dám ngước mắt lên trời. Nhờ sự khiêm tốn mà ông đến được với Thiên Chúa và được ân sủng của Người.
2. Đối với xã hội Do thái, có hai hạng người đối nghịch nhau, đó là những luật sĩ, biệt phái và người thu thuế. Người biệt phái thì tuân giữ luật Maisen cách nghiệm ngặt, họ là mẫu gương cho mọi người và được mọi người kính trọng; còn người thu thuế bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa những người phung hủi, tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào Đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào Đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm lành trốn tránh cái nhìn của người đời.
3. Người biệt phái cầu nguyện: Ông bước vào cung thánh đứng thẳng người, cất tiếng ca vang: “Con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia”. Lời cầu nguyện của ông đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi.
Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ. Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Ông tự hào, cái tự hào tự mãn làm cho ông cảm thấy không cần nhu cầu ân thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, ông biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa.
4. Người thu thuế cầu nguyện: anh này không dám ngẩng đầu lên, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối Đền thờ, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ điếm. Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt tới mục đích”. Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài.
5. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống...”
Sinh vào đời ai cũng có một cái tôi thật đơn sơ và dễ thương. Thế nhưng nó dễ bị biến tướng trở thành cái tôi đáng ghét như Blaise Pascal đã nói: “Le moi est haissable”: cái tôi đáng ghét.
Cha Lê Quang Uy đã “đánh vần” cái tôi biến tướng đó thành một bài hát dí dỏm và thật ý nghĩa:
Khi kiêu căng tôi sắc sảo,
tôi thành tôi sắc tối.
Huênh hoang tôi huyền hoặc.
tôi thành tôi huyền tồi.
Tự ái tôi nặng nề,
tôi thành tôi nặng tội.
Khiêm tốn tôi thật thà,
Tôi thành tơ-ôi-tôi.
Cũng vậy, ông biệt phái đã huênh hoang, tự cao tự đại, “khoe” thành tích cái tôi của ông với Chúa. Do đó, những việc ông làm – dù rằng rất tốt – thay vì trở nên công phúc thì lại biến thành bọt bèo cái tôi tồi tệ và tội lỗi của ông. Ngược lại, với lòng khiêm hạ, người thu thuế nhìn thấy sự yếu đuối của mình và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chính vì vậy, ông hoán cải và được Chúa kể là người công chính (5 phút Lời Chúa)
6. Truyện: Quỉ không khiêm nhường sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:
- Tôi thấy Chúa xử không công minh chút nào!
Chúa liền hỏi nó rằng:
- Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng?
Bấy giờ tên quỉ mới đáp:
- Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng nữa. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhât, thế mà Chúa không khi nào tha thứ, mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao?
Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:
- Loài người có phạm tội với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội. Còn các ngươi, có sám hối và xin Ta tha tội cho chưa?
Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng:
- Ma quỉ chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả.
Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
Suy Niệm 10: Tình yêu và lòng sám hối chân thật
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê đã để lại cho hậu thế một câu nói lừng danh: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ”.
2. Bài Phúc Âm: Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:
‑ Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màng của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
1. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để Suy Niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không?
- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)
2. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích “Món quà Giáng sinh”)
Suy Niệm 11: tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
Đây là lời của một bản thánh ca: con chẳng có gì dâng Chúa hôm nay.
Một đêm Giáng Sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để Suy Niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không?
- Nào con còn có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu! Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ôi lạy Chúa, thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)
2. Lời Chúa hôm nay cũng muốn nhắc nhớ chúng ta về sự cầu nguyện. Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy được một số gợi ý cho chúng ta:
a. Người kiêu ngạo không thể cầu nguyện. Cửa lên trời rất thấp nên chỉ ai biết quì gối xuống mới vào được. Có một bài cầu nguyện của một Rabbit Do Thái mà người ta ghi lại được. Bài cầu nguyện đó như sau:
“Lạy Giavê là Thiên Chúa của tôi, tôi cảm tạ Ngài vì Ngài đã đặt tôi dự phần với những viện sĩ trong Hàn lâm viện chứ không phải ngồi chung với những kẻ đầu đường xó chợ. Vì tôi dậy sớm thì chúng cũng dậy sớm, tôi dậy sớm để học luật pháp Chúa, còn chúng dậy sớm vì những sự hư không. Tôi làm việc, chúng cũng làm việc. Tôi làm việc và lãnh phần thưởng, còn chúng làm việc và không được lãnh phần thưởng. Tôi chạy và chúng cũng chạy, tôi chạy tới sự sống của đời sau, còn chúng chạy tới hố diệt vong”.
Người ta nói, Rabbit Simon ben Gacai đã có lần nói: “Nếu chỉ có hai người công chính trên thế gian thì đó là tôi và con trai tôi; nếu chỉ có một người công chính thì người đó là tôi”. Người Pharisêu này thực ra không đến Đền thờ để cầu nguyện. Ông ta đến để nói cho Thiên Chúa biết ông ta tốt như thế nào.
b. Người nào khinh dể anh em mình cũng không có thể cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, chúng ta không được nâng mình lên trên kẻ khác. Cần nhớ rằng, chúng tôi là một phần nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu, tất cả đang quì gối trước ngai xót thương của Thiên Chúa.
c. Chỉ có sự cầu nguyện thật khi chúng ta biết đặt đời sống mình bên cạnh sự sống của Thiên Chúa. Chúng ta không hồ nghi điều mà người Pharisêu trong Tin Mừng hôm nay đã nói. Tất cả đều đúng. Ông ta đã ăn chay và đã kỹ lưỡng dâng 1/10, ông ta đã không giống người khác, lại càng không giống người thâu thuế bên cạnh ông. Nhưng vấn đề không phải là “Tôi có tốt như kẻ khác chăng?” nhưng là “Tôi có tốt như Chúa không?”
Trong cuốn “Tâm Hồn Nhật Ký”, Đức Gioan XXIII đã ghi lại tất cả cuộc sống thiêng liêng của ngài, trong đó phần quan trọng nhất là phần ghi lại những lần tĩnh tâm từ lúc còn ở chủng viện (1898) cho đến những năm trên ngôi Giáo Hoàng (1963). Đối với ngài, mỗi lần tĩnh tâm là mỗi lần kiểm điểm lại cuộc đời và có quyết định mới. Đặc biệt là lúc đã ngoài 80 tuổi, gần từ giã dương thế, mặc dù ở trên ngôi Giáo Hoàng bận rộn muôn vàn công việc đại sự, ngài vẫn thường xuyên tự kiểm điểm. Ngài luôn quyết tâm sống xứng đáng là một tâm hồn cao cả, muốn sửa đổi mình liên lỉ để sống đẹp lòng Chúa cho đến giây phút cuối cùng, sống thế nào đó cho được giống như Người.
Như vậy, tất cả là tùy ở chỗ chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống kỳ diệu của Chúa Giêsu, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi khốn nạn”.
Mẹ Têrêsa phụ hoạ thêm:
Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện không đòi chúng ta bỏ dở công việc nhưng đòi chúng ta tiếp tục làm việc vì làm việc cũng là cầu nguyện.
Cầu nguyện dẫn tới đức tin, đức tin dẫn tới tình yêu, tình yêu đưa tới phục vụ vì lợi ích người nghèo.
Lạy Chúa, xin làm con nên dụng cụ phục vụ mọi người trên thế giới với tình yêu thương như Chúa. Amen.
- Chi tiết
- Viết bởi Mc 12, 28b-34
- Lượt xem: 5
Giới Răn Trọng Nhất.
Thứ Sáu tuần 3 Mùa Chay.
"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người".
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh".
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Điều răn đứng đầu
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Giữa một rừng 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm dựa theo Luật,
các rabbi thường tranh luận với nhau xem điều răn nào đứng đầu.
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi của vị kinh sư bằng lời mở đầu của kinh Shema,
kinh này được người Do thái đọc sáng chiều mỗi ngày:
“Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.
Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi,
tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí tuệ ngươi, tất cả sức lực ngươi” (Đnl 6, 4).
Đó là điều răn đứng đầu, điều răn thứ nhất trong mọi điều răn (c. 29).
Tuy nhiên, Đức Giêsu còn muốn thêm một điều răn thứ hai nữa.
“Ngươi phải yêu mến người thân cận với ngươi như chính mình ngươi” (Lv 19,18).
Và Ngài kết luận: “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn nhũng điều răn đó” (c.31).
Đức Giêsu tóm gọn mọi luật lệ trong hai điều răn, bằng hai câu trích trong sách thánh.
Cả hai đều bị chi phối bởi một động từ duy nhất: yêu mến.
Yêu mến Thiên Chúa, yêu mến tha nhân:
đó là câu trả lời của Đức Giê su cho ông kinh sư Do thái cách đây hai ngàn năm.
Đó cũng là câu trả lời của Ngài cho các Kitô hữu hôm nay.
Ngài mời ta hãy để lòng yêu mến thấm vào mọi lãnh vực của cuộc sống.
Điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa, yêu Ngài với tất cả con người mình (c.30).
yêu Ngài một cách tuyệt đối, và đặt Ngài lên trên mọi người, mọi sự khác,
vì chỉ mình Ngài là Tạo Hóa, tất cả mọi sự khác chỉ là thụ tạo.
Chúng ta yêu mến Thiên Chúa để đáp lại tình Ngài yêu mến chúng ta trước.
Ăn ngay ở lành không đủ.
Theo đạo không phải chỉ là chuyện ăn ngay ở lành.
Tình yêu đối với tha nhân không thay thế được tình yêu đối với Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa lại đòi hỏi tình yêu đối với tha nhân.
Thương người như thể thương thân.
Nhưng đối với tôi thương thân là gì? Tôi cần gì trong cuộc sống?
Cảm thông, khoan dung, trung tín, tôn trọng, khích lệ, nâng đỡ, hiền từ…
Tôi biết người khác cũng cần những điều ấy như tôi, và tôi muốn trao cho họ.
Có một cuộc đối thoại thực sự và thân tình giữa ông kinh sư với Đức Giêsu.
Ông hỏi, nhưng không có ý thử Ngài.
Câu trả lời của Đức Giêsu khiến ông hoàn toàn nhất trí.
Ông thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân lớn hơn mọi lễ vật trong Đền thờ,
dù ông không coi thường việc dâng lễ vật cho Thiên Chúa.
Phụng vụ phải đi kèm với cuộc sống mến yêu.
Mùa Chay là thời gian trở lại với trái tim của mình
để xem Thiên Chúa có chỗ nào trong trái tim đó.
Chỉ khi tim tôi bị tình yêu Thiên Chúa chinh phục và chiếm trọn,
nó mới có thể mở ra đến vô cùng trước tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Suy Niệm 2: Yêu thương là lẽ sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do thái có một rừng luật. Và họ bị lạc lối trong rừng. Không biết điều luật nào là chính. Hôm nay Chúa cho họ biết những điều cơ bản nhất trong luật. Biết nguyên tắc cơ bản, nội dung thiết yếu và cách thế để tuân giữ lề luật.
Nguyên tắc cơ bản là luật để sống chứ không phải để giữ. Khi sống người ta làm chủ lể luật. Khi giữ người ta làm nô lệ cho lề luật. Biết luật để sống ta sẽ đi tìm luật như đi tìm không khí để thở, nước để uống.
Vì luật để sống, nên yêu mến Chúa hết lòng hết sức lực hết trí khôn là điều tự nhiên và cần thiết. Vì Thiên Chúa sinh thành ra ta. Người ban sự sống cho ta. Tất cả những gì ta có, ta là, đều bởi Chúa. Vì thế mến Chúa là điều luật quan trọng nhất. Ta giữ điều đó là vì chính ta chứ không phải vì Chúa.
Nhưng yêu mến Chúa chỉ được chứng tỏ bằng yêu mến tha nhân. Khi hiểu rằng Thiên Chúa và tha nhân thực sự cần thiết cho đời sống, cho hạnh phúc của ta, ta sẽ giữ hai điều răn này một cách dễ dàng. Cũng như ta tự nhiên tha thiết giữ gìn sức khỏe, giữ gìn tính mạng của mình vậy.
Nếu hiểu luật chính là để sống ta sẽ càng yêu mến Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa sự sống càng tràn đầy sung mãn nơi ta. Chính vì muốn ta đạt đến sự sống sung mãn nên Chúa Giêsu mời gọi ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức hết tâm hồn và hết trí khôn.
Hiểu biết Thiên Chúa là lẽ sống, là nguồn mạch hạnh phúc, ta sẽ chẳng còn vương vấn thế gian. Biết Thiên Chúa là nguồn sức mạnh, ta sẽ chẳng còn cậy dựa vo thế lực trần gian, như Ít-ra-en đã từng cậy dựa vào thế lực của Át-sua
Không vương vấn thế gian, nhưng ta sẽ yêu mến thế gian, yêu mến tha nhân vì Chúa. Đó không còn là tình yêu thế gian, nhưng ta yêu thế gian, yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa. Như thánh Phao-lô nói: Từ nay tôi không còn biết người nào, điều gì theo xác thịt, nhưng là trong Đức Giê-su Ki-tô Phục sinh.
Suy Niệm 3: Giới Răn Trọng Nhất
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sau thế chiến thứ nhất 1914-1918 và thế chiến thứ hai 1939-1945, nhân loại đã rất lo sợ chiến tranh, và mong ước có một thế giới hoà bình, yêu thương. Người ta đã lập ra những hội khác nhau, như Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, để kiểm soát và ngăn ngừa thế chiến thứ ba, vì nếu thế chiến thứ ba xảy ra, thì với những vũ khí tối tân, qui mô chắc chắn nhân loại sẽ bị huỷ diệt. Người ta kêu gọi hoà bình khắp nơi trên thế giới. Tôn giáo cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc xây dựng hoà bình.
Trong Tin mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu trong các giới răn, điều nào trọng hơn cả. Chúa Giêsu đã trả lời: “Giới răn trọng nhất là ngươi hãy yêu mến Chúa hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm chúa tể vũ trụ, cho nên không được tôn thờ một Chúa nào khác. Ngài là Chúa hay ghen, nghĩa là không chấp nhận chia sẻ tình cảm cho bất cứ một ai khác. “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì họ sẽ yêu chủ này mà ghét chủ kia” và ngược lại. Ngài đòi hỏi một sự trung thành trong tình yêu đối với Ngài.
Giới răn thứ hai, đó là “ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”. Chúng ta tin Chúa ngự trong tâm hồn và chúng ta tuân giữ giới răn thứ nhất là yêu mến Ngài trên hết mọi sự, thì cũng phải giữ giới răn thứ hai vì có Chúa ở trong mọi người. Kinh thánh đã xác định với ta: nếu ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em, thì đó là kẻ nói dối.
Tất cả chúng ta đều thuộc mười giới răn Thiên Chúa được gồm tóm trong hai điều này là mến Chúa và yêu người. Mười giới răn Thiên Chúa ban cho con người qua Môsê trên núi Sinai tóm trong hai ý đó, và hôm nay được Chúa Giêsu lặp lại qua câu đáp trả cho người luật sĩ.
Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, mỗi ngày trở thành anh em với nhau, con cùng một Cha trên trời hơn. Ở đây tác giả tập sách Đường Hy vọng nhắn nhủ như sau:
“Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp những phiền phức, những thách thức đòi buộc lòng bác ái của chúng ta phải mở rộng ra. Bác ái không có biên giới, nếu có biên giới thì không còn là bác ái nữa. Chúng ta cần một con tim rộng mở như Chúa để có thể yêu thương như Ngài và với Ngài”.
Suy Niệm 4: Một câu hỏi, hai câu đáp
“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. (Mc. 12, 28b-31)
“Một luật sĩ hỏi Đức Giêsu: Giới răn nào trọng nhất? Người đáp: Anh phải yêu mến Thiên Chúa, là Chúa anh và yêu mến người lân cận anh, không còn giới răn nào lớn hơn hai điều đó”.
Chúng ta thấy đây là toàn thể mầu nhiệm nhập thể: Con Thiên Chúa làm người để làm vinh quang Thiên Chúa bằng cứu độ nhân loại. Chính khi giải thoát con người khỏi vòng nô lệ mà chúng ta làm sáng danh Chúa. Anh em của chúng ta là mọi người, đó là con đường độc nhất nối kết chúng ta với Chúa Cha. Lý do này đủ giúp ta yêu người với hết trái tim ta. Câu đáp này của Đức Giêsu là một lời giải phóng cho người luật sĩ và cả cho chúng ta nữa. Nơi dân Do thái, tôn giáo được phát triển ngày càng theo chiều chủ nghĩa thuyết duy luật lệ, nghĩa là cứ giữ luật lệ nhiều là được cứu rỗi. Luật Tôra có 613 điều. Người ta không thể làm sao tóm tắt lại cả được, cũng không biết đâu là bến bờ, không biết đi về đâu nữa.
Nếu Đức Giêsu mạnh mẽ chống đối biệt phái, chỉ vì thái độ tôn thờ pháp luật đã trói buộc con người. Tình yêu của Thiên Chúa đã bị hóa thành vong thân làm hủy hoại con người.
Ngôi lời Thiên Chúa đã hóa thành xác thân. Tình yêu của con người không đòi buộc phải thoát xác. Mỗi khi Giáo hội tập họp mọi người để cử hành Thánh lễ trước sự hiện diện của Thiên Chúa và mọi người là để nói lên rằng chỉ có những con người đoàn kết trong tình yêu mới thực sự làm sáng danh Thiên Chúa.
Có người nói: “Phúc cho tôi có Thiên Chúa như lòng tôi mong, cho tôi biết chịu đựng thân phận làm người”. Đúng lý hơn cho ai nói rằng: “Hạnh phúc biết bao khi Thiên Chúa cho tôi có nhiều người anh em, nhờ đó, tôi có thể yêu mến Thiên Chúa biết chừng nào”.
J.G
Suy Niệm 5: Yêu mến bằng cả tâm hồn
“Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn”; và: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Đây là một mệnh lệnh của Trời.
Tin Mừng hôm nay trình thuật câu chuyện đối thoại giữa Đức Giêsu và một Kinh Sư. Khởi đi bằng một câu hỏi của ông này về việc: điều nào là quan trọng trong toàn bộ luật. Thấy vậy, Đức Giêsu đã tóm cho ông toàn bộ nội dung và mục đích của luật trong câu: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn”; và: “Phải yêu người thân cận như chính mình”.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng là làm sao? Thưa: là thờ lạy, quy phục, là giữ và thực thi Lời Chúa, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để tin và theo Chúa, dù có phải khổ đau, hoạn nạn, thử thách và cuối cùng sẵn sàng chết cho Thiên Chúa là Đấng chúng ta tôn thờ, yêu mến.
Còn yêu người như chính mình thì như thế nào? Thưa: là yêu hết mọi người, không phân biệt bạn hay thù, thánh thiện hay tội lỗi, giàu hay nghèo, quý tộc hay thường dân, người già hay trẻ nhỏ, phụ nữ hay đàn ông, màu da hay chủng tộc...
Yêu như thế là chúng ta đi vào tình yêu của chính Thiên Chúa, bởi vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, mà tình yêu của Ngài là hướng tha, là thực tế, không trừu tượng.
Muốn yêu được như thế, chúng ta phải chấp nhận cho đi, thiệt thòi, chịu liên lụy và đôi khi đành mất chính mình.
Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta cho đi theo kiểu: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”; hay “bỏ con tép, bắt con tôm”; hoặc “ông bỏ nắm xôi, bà thò nậm rượu...”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi theo Chúa trên con đường tình yêu ấy bằng cả lòng mến chân thành được hiện tại hóa nơi hành động của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống và giữ Giới Luật của Chúa bằng cả con tim, khối óc và linh hồn, để chúng con được sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Hai mối tương quan: yêu mến Chúa và yêu thương nhau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tình yêu là điều quan trọng nhất. Ơn gọi của con người là sống trọn vẹn hai mối tương quan: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhiều lúc con tưởng mình chẳng có tội, tưởng mình đạo đức thánh thiện. Con vẫn siêng năng đi lễ, đọc kinh ca hát, làm việc bác ái, tham gia việc tông đồ giáo dân tích cực. Và có thể con đã được nêu làm gương mẫu cho kẻ khác.
Nhưng hôm nay. Chúa cho con thấy tất cả những điều ấy không phải là quan trọng nhất. Điều Chúa mong chờ nơi con là tình yêu mến chân thành đối với Chúa và với nhau. Có tình yêu là có tất cả. Thiếu tình yêu là thiếu tất cả. Con nhớ lại lời Chúa cảnh giác con đừng giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Vâng, con đã giật mình vì quả thực vẻ bề ngoài của con tốt đẹp, nhưng lòng con lại chất chứa ghen ghét, ganh tỵ, lỗi phạm công bằng bác ái. Con đã dửng dưng trước nỗi đau khổ của tha nhân để được an thân. Ngay cả việc thờ phượng và việc tông đồ, nhiều lúc con thực hiện chỉ vì thói quen, hay vì một động lực riêng tư ích kỷ được che đậy cách khéo léo.
Lạy Chúa, xin ban tình yêu cho con. Xin Chúa Thánh Thần tràn ngập hồn con để lòng con trở thành ngọn lửa bùng cháy mến yêu. Thế giới này giá lạnh vì thiếu tình yêu nhau, cằn cỗi sắp chết vì thiếu lòng mến Chúa. Xin Chúa giúp con trong mùa chay này trở về với tình yêu và ngụp lặn trong tình yêu.
Lạy Chúa, xin giúp con sống tình yêu cách chân thành: biết yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể đối với tha nhân, để cuộc sống của con luôn đậm tình Chúa và thắm tình người. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người”.
Suy Niệm 7: Mến Chúa – yêu người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Martinô có lòng mến Chúa và luôn đi đôi với lòng yêu người. Martinô coi lòng mến Chúa như động lực thúc đẩy ngài thực hiện việc yêu người. Martinô yêu tất cả mọi người dù già hay trẻ, nam hay nữ, da trắng hay da màu, quý tộc hay bình dân, bản xứ hay kiều cư, tự do hay nô lệ… Nhưng cách đặc biệt ngài dành tình yêu nhiều hơn cho những người xấu số phải sống trong những hoàn cảnh hẩm hiu về cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là đối với những người nghèo khó. Martinô hằng đem lòng bác ái rất đặc biệt mà đối xử với anh em; lòng bác ái đó phát xuất từ một đức tin toàn vẹn và một tâm hồn khiêm nhu.
Trong bài giảng của lễ phong thánh cho chân phúc Martinô Porres, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã nhận định: “Qua gương sáng đời sống của mình, thầy Martinô cho thấy: Chúng ta có thể được cứu độ nhờ và nên thánh bằng con đường Đức Giêsu Kitô đã vạch ra, nghĩa là nếu trước hết chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn chúng ta, rồi sau đó nếu chúng ta yêu người thân cận như chính mình”.
Suy Niệm
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, rồi yêu người thân cận như chính mình. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho một kinh sư đến hỏi Đức Giêsu: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”. Người Do Thái có 613 khoản luật. Giữa một rừng luật như vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng cách nối kết từ sách Đệ nhị luật 6,5 với sách Lê vi 19,18, khi khẳng định bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất, đó là yêu mến Thiên Chúa hết sức lực có được. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…” (Mc 12,30): Đức Giêsu đã trích Đnl 6,4-5, là một trong ba bản văn được những người Do Thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần (x. Đnl 6, 4-9; 11,13-21; Ds 15, 37-41). Yêu mến Chúa hết lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực (Mc 12,30): Đnl 6,5 nói đến lòng/tim, linh hồn sức lực (LXX: kardia, psychê, dynamis). Maccô nêu ra bốn từ lòng/tim (kardia) là khả năng ý chí, linh hồn (psychê) là khả năng trí thức, trí khôn (dianoia = sức mạnh của trí tuệ; thay vì dynamis) và sức lực (ischys = tất cả sức mạnh của tâm hồn). Như thế, nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Thiên Chúa với mọi tài nguyên có thể có được. Yêu mến Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh và khả năng ban cho con người là tổng hợp tối hậu về ý muốn của Thiên Chúa.
Dù chỉ trả lời cho điều răn thứ nhất, nhưng Đức Giêsu nói đến một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” rất gần với câu tục ngữ Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”. Tình yêu chúng ta có cho chính mình được đề ra như tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu phải có đối với người thân cận. Yêu thương chính mình là chấp nhận bản thân, theo ý muốn của Thiên Chúa. Tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân mình.
Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: Yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương họ đến vô cùng. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận như một giải thích cô đọng trên hai bia đá mười điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho Môisê trên núi Sinai. Chính vì thế trong kinh Mười điều răn, phán kết ghi nhận: Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự sau lại yêu người như mình ta vậy.
Thật thế, tình yêu Chúa là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu”(1 Ga 4,8). Chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài, thánh Gioan nhấn mạnh: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em” (1Ga 4,20).
Yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như thánh Gioan nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em” (1Ga 3,16). “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11).
Ý lực sống: “Lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Suy Niệm 8: Giới răn trọng nhất
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất, Ngài khẳng định một giáo lý mới mẻ: “Mến Chúa – yêu người” là hai giới răn quan trọng nhất. Hai điều này liên kết chặt chẽ với nhau vì cùng xuất phát từ một tình yêu. Mến Chúa một cách tuyệt đối: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Tình thương đối với tha nhân cũng phải tới mức độ cao nhất: như yêu thương chính mình. Vì tự nhiên ai cũng quí trọng và yêu mến bản thân mình hơn hết.
2. Tại sao ông luật sĩ lại đến hỏi thử Đức Giêsu về điều này? Thưa, vì bộ luật của người Do thái lúc đó có 613 khoản, gồm có 248 việc phải làm, và 365 việc không được làm. Người ta khó lòng chọn được khoản luật nào cao trọng nhất. Có người thì cho là luật nghỉ ngày sabat, người cho là luật cắt bì, người cho là luật dâng của lễ, rửa tay trước khi ăn... thật khó mà chọn luật nào quan trọng nhất. Những luật sĩ và biệt phải tưởng rằng Đức Giêsu sẽ lúng túng không trả lời được.
Nhưng Đức Giêsu điềm nhiên trả lời: “Điều luật trọng nhất là: “Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”. Rồi Chúa nói tiếp: “Điều luật thứ hai cũng trọng không kém là “Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Đó là hai luật rất quan trọng. Nhưng hai luật ấy đã bị biết bao nhiêu điều cấm đoán hay bó buộc khác lấn át làm cho nhiều người quên lãng hay không để ý tới sự quan trọng của chúng.
3. Tình yêu mà Phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hoàn hảo, tinh luyện, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là “Bác ái Công giáo” (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói: “Giới hạn tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ có một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Theo Đức cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối vói tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị: “Ama et fac quod vis” (Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
4. Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất. Yêu người thân cận như chính mình: “Yêu người như thể thương thân”. Người thân cận là hết mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa ta mới có thể yêu thương họ đến tột cùng. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận như một giải thích cô đọng trên hai bia đá mười điều răn mà Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen trên núi Sinai. Chính vì thế trong kinh Mười điều răn chúng ta đọc trong các ngày Chúa nhật, phần kết ghi nhận: Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.
5. Thật thế, tình yêu Chúa là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7). Chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài, thánh Gioan còn nhấn mạnh: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em” (1Ga 4,20).
Yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như thánh Gioan nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em” (1Ga 3,16). “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”(1Ga 4,11).
6. Truyện: Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mắt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi và nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với đầy lòng căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có được nghị lực để yêu tha nhân được”.
Suy Niệm 9: Trở về với Chúa là trở về với tình yêu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê kêu gọi hãy trở về với Chúa và đi theo đường lối của Ngài.
2. Bài trích Phúc Âm: Chúa Giêsu chỉ cho một luật sĩ thấy điều luật quan trọng nhất là yêu mến Chúa; điều thứ hai yêu mến tha nhân.
3. Như thế, trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sống tình yêu đối với Chúa và tha nhân là một cuộc sống tốt đẹp và làm hài lòng Chúa nhất, “hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ hy sinh”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Tội là xa rời tình yêu.
- Tuân giữ mọi giới luật nhưng không yêu thương thì cũng là đi lạc.
- Dâng nhiều lễ vật mà không có tình yêu thì cũng là đi lạc.
- Huống chi trong lòng đang chất chứa giận ghét thù hằn.
2. Trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sự trở về đúng mức phải là:
- Yêu Chúa tới mức độ “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”.
- Yêu tha nhân tới mức độ “như chính mình”.
3. Lạy Chúa, không nhiều thì ít con đã đi lạc xa tình yêu. Hôm nay con muốn quay về với tình yêu, yêu Chúa và yêu người.
4. “Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng”. (Đường hy vọng)
Suy Niệm 10: Đối với Chúa, ĐẠO là yêu Chúa yêu người
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong Do Thái giáo, chúng ta thấy có hai khuynh hướng liên quan đến luật pháp luôn đi song hành với nhau. Một khuynh hướng muốn mở rộng tới vô hạn định, thành hàng trăm, hàng ngàn điều luật và qui tắc khác nhau. Khuynh hướng thứ hai thì cố gắng hết sức tóm tắt luật pháp lại càng gọn càng tốt, nếu cần thì chỉ trong một câu cũng đủ.
Có lần một người mới gia nhập Do Thái giáo yêu cầu thầy Hillel hãy dạy cho ông ta toàn thể luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của Hillel là:
- Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích.
Thầy Akiba đã nói:
- Hãy thương yêu người lân cận như chính bản thân mình, đó là nguyên tắc tổng quát và quan trọng nhất.
Thầy Simon, biệt danh là người công chính, có nói:
- Thế giới này đứng trên ba điều: luật pháp, sự thờ phụng và hành động yêu thương.
Còn Chúa Giêsu khi trả lời câu hỏi người ta đặt ra cho Ngài, Ngài đã nhập chung hai điều quan trọng lại với nhau.
Đây là điều mới lạ. Trước đó, chưa hề có một Rabbit nào làm vậy. Như vậy, đạo đối với Chúa là yêu Chúa yêu người và Chúa cũng ngụ ý dạy rằng, phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Chúa là yêu thương người khác.
2. Vâng! Nói thì đơn sơ như vậy, nhưng đem vào cuộc sống thì là cả một vấn đề.
Thánh Gioan Tông đồ viết: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7-8)
Không có tình yêu, cuộc sống sẽ không còn ý nghĩa nhưng sống yêu thương đó mới là điều tốt đẹp làm sao!
Đây là một câu chuyện ngụ ngôn của Nga:
Một hôm, có một người đàn bà khó tính qua đời. Bà ta nổi tiếng là keo kiệt, cằn cỗi, cả đời không làm điều gì tốt, cũng chẳng yêu thương ai. Những người hàng xóm biết rất rõ về tính hận thù và hay ghen ghét của bà. Khi thấy bà hấp hối lũ quỷ cảm thấy vô cùng sung sướng. Chẳng cần phải đợi kết quả của sự phán xét ra sao, chúng đã hung hăng kéo luôn bà xuống hồ lửa đang cháy hừng hực bởi vì chúng tin rằng, một cuộc sống chẳng có một chút tình thương nào như thế thì chẳng cần phải phán xét cũng biết được kết quả như thế nào rồi.
Ma quỉ thì như thế, nhưng vị thiên thần bản mệnh của bà thì không chịu như vậy. Thiên thần nhất định không chịu thua. Ngài lăng xăng chạy ngược chạy xuôi để tìm kiếm từ trong dĩ vãng của bà xem có thể có một chứng cứ nào có thể cứu bà khỏi hình phạt khổ hình được không. Tìm tới tìm lui, loay hoay sổ này sổ nọ mà vẫn không thấy. Không thất vọng, thiên thần còn đi vào cả dĩ vãng của cha mẹ bà để xem có phải vì hoàn cảnh nào đó mà bà trở nên một con người như vậy chăng!
Nhưng rồi cuộc tìm kiếm chỉ để lại thất vọng. Rất may, đúng phút đó, thì thiên thần nhớ lại được một cử chỉ bác ái rất nhỏ của bà: Có một lần bà đã cho người nghèo kia một cọng hành. Thế là thiên thần vội vàng đến trình diện trước tòa Chúa. Thiên thần đưa ra chứng cớ, xin Chúa cứu xét trường hợp của bà. Chúa nhân lành ưng ngay, và ra lệnh cho thiên thần hãy kiểm tra lại cái cọng hành kia. Vâng! Quả là may mắn cho bà. Cộng hành vẫn còn được lưu giữ trong kho công nghiệp.
Sau khi được phép, thiên thần dùng cọng hành biến thành dây, để kéo người đàn bà đó ra khỏi hồ lửa. Vớ được cọng hành, bà nắm thật chặt và được từ từ kéo lên.
Thiên thần kéo cọng hành một cách hết sức thận trọng. Mọi sự diễn tiến rất tốt đẹp. Người đàn bà kia hớn hở mừng rỡ, tin rằng, giờ cứu thoát đã gần đến.
Thế nhưng, trước khi được hoàn toàn giải thoát, đang lâng lâng lướt nhẹ, thì bà chợt cảm thấy như bị níu kéo lại bởi nhiều bàn tay. Bà cảm thấy mình bị đụng chạm từ nhiều chỗ: nào là gấu áo, nào là chân, nào là tay và cả lưng áo nữa. Bà vội nhìn xuống lại thì thấy nhiều linh hồn khác đang “canh-me” bám vào bà với hy vọng mình cũng được cứu. Dĩ nhiên là bà không bằng lòng chút nào. Rồi với quyết tâm không cho những con người đó bám vào mình, bà lấy hết sức mình hất tất cả những bàn tay ấy ra. Rủi thay, chính hành động đó đã làm cộng hành bị đứt ra làm hai. Thế là bà và những người khác, tất cả lại rơi thẳng xuống đáy lò lửa.
Vâng, sống yêu thương thật khó. Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về vấn đề này. Nhưng khó không có nghĩa là không thể. Nếu biết cậy dựa vào ơn của Chúa. Vì đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được. (Lc 1,37).
- Chi tiết
- Viết bởi Lc 11, 14-23
- Lượt xem: 13
Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 3 mùa Chay. – Thánh nữ Perpêtua và thánh nữ Fêlicita, tử đạo.
“Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
* Khi bị bắt, chị Perpêtua còn là một dự tòng. Chị có một cháu bé, lúc chị hai mươi hai tuổi. Còn chị Fêlicita thì mang thai và sinh con gái trong tù.
Nhưng cả hai không hề tỏ ra yếu đuối khi tiến vào hí trường Carthagô ngày 7 tháng 3 năm 303. Tay nắm tay, hai chị tiến về phía con bò cái hung dữ sắp sửa sát tế hai chị.
Lời Chúa: Lc 11, 14-23
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
“Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người mạnh hơn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu vừa mới trục xuất được một quỷ câm.
Khi quỷ xuất ra thì người câm nói ngay được (c. 14).
Cùng với sự ngạc nhiên thích thú của đám đông,
còn có sự vu khống xuyên tạc của một số người khác.
Họ cho rằng chẳng qua Đức Giêsu chỉ là kẻ dựa dẫm Bêendêbun.
Bêendêbun là tên của một vị thần ở vùng Canaan.
Người Do thái vẫn coi các thần dân ngoại là ma quỷ (1Cr 10, 19-20).
Ở đây, Bêendêbun chính là quỷ vương, là Xatan (c. 18).
Như thế Đức Giêsu bị tố cáo là người cùng phe với quỷ,
dùng tay tướng quỷ để trừ các quỷ nhỏ.
Đức Giêsu cho thấy sự sai lầm của lập luận này.
Ngài nhắc đến nước của Xatan, một nước hiện vẫn còn đứng vững (c. 18).
Nước ấy chưa sụp đổ vì không có sự chia rẽ giữa các quỷ với nhau,
nên không thể bảo là Ngài dùng quỷ vương để trừ quỷ nhỏ.
Vả lại, có những người Do thái khác cũng trừ quỷ như Ngài.
Có ai dám bảo là họ thông đồng với quỷ vương không? (c. 19).
Đức Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa của việc Ngài trừ quỷ.
“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ,
thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (c. 20).
Nước Thiên Chúa đến qua việc Đức Giêsu giải phóng.
Ngài giải phóng con người khỏi bệnh tật thân xác.
Ngài trả lại cho con người khả năng nghe, nói, nhìn.
Ngài kéo người bất toại đứng lên, đi được, đưa tay ra.
Ngài trả người phong về với cộng đoàn, đưa người chết ra khỏi mộ.
Trên hết, Ngài giải phóng con người khỏi sự chật hẹp của lòng mình.
Ngài mở con người ra trước nỗi đau và cô đơn của anh em.
Ngài nâng con người lên tới tầm cao của trái tim Thiên Chúa.
Như thế là con người được thật sự tự do.
Chỗ nào có tự do thật sự, chỗ đó có Nước Thiên Chúa.
Chỗ nào có Nước Thiên Chúa, chỗ đó nước của Xatan phải lui đi.
Cuộc chiến giữa Nước Thiên Chúa và nước Xatan vẫn tiếp diễn,
nhưng Nước Thiên Chúa đã đến rồi, ngón tay Thiên Chúa ở đây.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trừ quỷ và mời chúng ta cộng tác.
Làm sao để con người hôm nay không còn bị ám bởi bất cứ thụ tạo nào,
không sụp lạy trước bao ngẫu tượng mới của thời đại?
Quỷ vẫn là kẻ mạnh, được vũ trang đầy đủ, đứng canh nhà của nó (c. 21).
Nhưng Thiên Chúa và Chúa Giêsu lại là người mạnh hơn (c. 22).
Người mạnh hơn tấn công, tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm.
Trong cuộc chiến này, chúng ta không có quyền mập mờ, hàng hai.
Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu,
vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài,
ai không thu góp với Giêsu là phân tán (c. 23).
Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Nghe và nói
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người là một sinh vật xã hội. Không thể sống một mình. Xã hội tính phát triển nhờ thông giao. Thông giao biểu hiện bằng nghe và nói. Nghe để tiếp nhận. Nói để thông tri. Nghe để hiều về người khác. Nói để người khác hiểu về mình. Nghe để cảm thông chia sẻ. Nói cũng để cảm thông chia sẻ. Như thế thông giao làm phong phú con người. Vì thế câm điếc là khuyết tật. Mất khả năng thông giao khiến con người không phát triển. Thông thường câm là do điếc. Vì không nghe nên không nói được.
Người Do thái cho khuyết tật đó là do ma quỉ. Ma quỉ trói buộc con người trong ích kỷ cá nhân. Để tàn lụi. Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc khi trục xuất quỉ câm. Nhưng Chúa lại không thể chữa người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng. Người câm điếc thiêng liêng là người tự ý không nghe không nói.
Giê-rê-mi-a cho biết những người Do thái thời ông là những người câm điếc. Vì họ không chịu nghe lời Thiên Chúa. Chỉ cần mở lòng ra nghe lời Thiên Chúa họ sẽ trở thành Dân Thiên Chúa, sẽ được hạnh phúc. Nhưng gọi không trả lời. Nói không nghe. Vì thế họ không phát triển. Chúa nói họ đi thụt lùi. Và còn tệ hơn nữa khi cố tình giả điếc thì họ không có sự thật: “sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó”.
Đó chính là tình trạng của những người chống đối Chúa hôm nay. Khép kín tâm hồn nên không nghe được Thiên Chúa. Dù phép lạ rành rành không thể chối cãi. Vì không nghe nên miệng họ nói lời gian dối. Bóp méo sự thật. Xuyên tạc cho rằng Chúa dùng quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Đó chính là tác động của ma quỉ. Thứ quỉ ám này còn nặng hơn quỉ gây nên câm điếc thể lý.
Thế giới đang hỗn loạn vì người ta không lắng nghe. Không nghe Chúa. Không nghe nhau. Không nghe lịch sử. Không nghe vũ trụ. Không nghe thiên nhiên. Và vì thế người ta nói theo ý riêng. Nói sai sự thật.
Mùa Chay Chúa mời gọi ta trở về sự thánh thiện nguyên thủy. Biết mở lòng, mở tai lòng lắng nghe. Biết mở miệng nói lời chân lý, lời xây dựng, lời yêu thương. Biết tái lập khả năng thông giao. Ta sẽ trở nên phong phú. Thế giới sẽ sống trong hòa bình.
Suy Niệm 3: Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: một hôm tôi đang giảng dạy cho một nhóm người tại Nagasaki. Sau bài giảng một người đứng lên hỏi tôi ba điều: “Tôi có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Tôi có vâng lời và hiệp thông với Đức thánh cha không? Tôi có giữ mình trinh khiết và sống độc thân không?”. - Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: “Tại sao ông lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?”
Người đó trả lời: “Vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải lấy ba tiêu chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa sai chân chính không. Nay chúng con vui mừng vì cha đích thực là người được Hội thánh sai đến, chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con truyền lại”.
Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm định đâu là nhà truyền giáo đích thực. Ngược dòng thời gian trở về thời Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chứng kiến một biến cố tương tự. Các tiên tri đã báo trước cho Dân Chúa là khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ thực hiện những dấu lạ: cho kẻ câm được nói, kẻ què được đi, người bị quỉ ám được chữa lành. Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên tri đó trước mặt nhiều thành phần trong dân để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng muôn dân mong đợi. Tuy nhiên có những người không nhìn nhận sự hiện diện và tác động của Chúa, họ cố tình giải thích sự lệch lạc để khỏi phải tin và làm cho người khác đừng tin, như được trình thuật trong Tin mừng hôm nay.
Quả thật, đứng trước Chúa Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc chối từ. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Chúa Giêsu. Ngài đến với con người qua Giáo Hội, qua những sứ giả được tuyển chọn và sai đi làm chứng cho Ngài nhưng liệu chúng ta có thành tâm và can đảm cộng tác với ơn soi sáng của Thánh Thần để tin nhận Ngài không? Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Ngài là Cha ở bên con với tất cả quyền năng và tình thương. Ngài là tất cả của con, là cùng đích trong ý hướng, là lý do các quyết định, là động lực các tình cảm, là gương mẫu các hành động của con. Hãy sống bên Chúa, con sẽ nên thánh. Thiên đàng không gì khác hơn là Thiên Chúa hiện diện”.
Suy Niệm 4: Đuổi quỷ
Rồi Đức Giê-su trừ một tên quỉ, và nó là quỉ câm. Khi quỉ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỉ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỉ.” (Lc. 11, 14-15)
Theo một số ý kiến chú giải thời nay thì những người quỷ ám trong Tin mừng là bệnh nhân của cảm cúm. Sự đuổi quỷ của Đức Giê-su được giải thích khéo léo hóa thành vô nghĩa. Những người bị quỷ ám, hầu hết được họ giải thích là những người mắc bệnh động kinh, bệnh thần kinh hay bị ám ảnh bởi hình ảnh quỷ ma trong họ, người bị quỷ câm trong Tin mừng hôm nay đơn giản chỉ là bệnh câm thôi, không bị quỷ ám nào hết.
Theo ý kiến số đông thời đại đó, một nửa bị quỷ thần ám hại cần phải cải cách và Tin mừng đã đến thanh tẩy những thần thoại chồng chất trong đời sống dân Ít-ra-en.
Cách giải thích đó có thật hữu ích không? Tin mừng có thanh tẩy phong tục tin tưởng vào quỷ thần không?
Thứ nhất, giải thích của một số người quá ngang ngược với cách trừ quỷ rõ ràng của Chúa, biến Chúa thành nạn nhân của hạng trí thức dổm. Thực ra, thời đại của Đức Giê-su đã có nhiều người khá thông minh để nhận định về thế giới quỷ thần.
Thứ đến, họ muốn kéo nhân loại ra khỏi những sức mạnh siêu nhiên để khỏi nỗi lo sợ bị phán xét về tội con người.
Theo ý số đông trên mặt đất này, có đầy những sự xấu xa, nếu chỉ gán tội cho loài người thôi thì thật bất công, phải tin rằng còn có ma quỷ ném đá dấu tay đã gây ra tội lỗi nữa. Sự hỗn độn của nhân loại được chia thành nhiều loại: loại người ăn nhậu nhồi nhét quá lẽ một bên, loại đói ăn túng cực một bên. Đó không phải do Thiên Chúa Cha dựng nên, cũng không phải hoàn toàn do con người tổ chức thiết kế những thứ ô nhục đó. Cần phải nhìn nhận rằng có hàng triệu người thiện chí hoạt động, tổ chức lấy lại quân bình phân chia của cải vũ trụ, tuy có vô ích.
Thật bất công tin rằng tính dã man do lòng dạ con người bình thường sinh ra, khi thấy nhiều người sống trên hành tinh này ném hàng tấn bom lân tinh xuống dân lành mà lương tâm lầm lạc của họ vẫn bình an. Nhận có tội lỗi, chính là tin có một Thiên Chúa có thể giải thoát chúng ta khỏi thế lực quỷ dữ mà con người không thể tự giải thoát được. Đức tin đòi chúng ta liên tục cầu nguyện xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tay quỷ dữ. Không có Thiên Chúa, chúng ta liều mình bị quỷ dữ ám hại đời đời.
J.G
Suy Niệm 5: Đừng “chụp mũ” nhau như thế
Có một tu sĩ đảm trách công việc mục vụ bệnh nhân Sida. Tuy nhiên, do sơ xuất, ngài đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này qua người bệnh trong khi chăm sóc họ. Nhưng thật trớ trêu, thay vì được mọi người nâng nỡ, khích lệ, thì họ lại bàn tán, gán ghép những chuyện không mấy tốt đẹp cho vị tu sĩ nhiệt tình vì sứ vụ này!
Đây cũng chính là căn bệnh truyền kiếp ở mọi thời, đó là, người ta không thích ai, hay ai đó uy tín hơn mình, thì họ sẵn sàng dùng đến biện pháp nói hành, hay chụp mũ để hạ gục đối phương!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng rơi vào tình trạng trên khi bị dân chúng chụp cho Ngài thứ mũ hết sức đê hèn như:
Ngài trừ được quỷ là do liên minh với quỷ khi nhân danh tướng quỷ để trừ quỷ!
Tại sao họ lại vu khống và nói hành Đức Giêsu như vậy?
Thưa chỉ vì một chuyện rất đơn giản, ấy là: Đức Giêsu ngày càng uy tín trước mặt dân chúng vì những việc tốt đẹp và lời dạy khôn ngoan của Ngài, khiến dân chúng tôn vinh Ngài là một tiên tri vĩ đại. Vì thế, những Luật Sĩ và Phairisêu bối rối, hoang mang và sinh lòng ghen tuông, tức tối đối với Ngài.
Họ đã dùng đến trò thâm hiểm nhất để bêu rếu và mục đích nhằm hạ gục Đức Giêsu khi nói là Ngài “nhờ tướng quỷ để mà trừ quỷ”.
Khi gán cho Đức Giêsu như thế, họ muốn nói với dân rằng: Đức Giêsu là người thuộc về thế giới của ma quỷ. Khi Ngài đã thuộc về ma quỷ, thì lẽ đương nhiên không nên tin vào con người này cũng như những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
Đây là một phương pháp triệt hạ đối phương bằng cách đánh vào uy tín.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đặt ngược lại vấn nạn với hai câu hỏi để lật tẩy trò đê hèn của chúng, Ngài hỏi: “Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”; và: “Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ?”!
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu một mặt cho thấy lý chứng của những Luật Sĩ và Pharisêu tự mâu thuẫn, khập khiễng, không ăn khớp với nhau, bởi vì cứ theo lập luận của họ, thì phải chăng một nước mạnh lại dùng chính kẻ mạnh để tiêu diệt kẻ yếu cùng đồng minh với mình hay sao? Hay nếu Quỷ Vương cho mượn quyền lực của hắn để tiêu diệt tay chân của hắn thì nước đó đã đến thời mạt vận?
Trong đời sống của chúng ta hôm nay nhiều khi rơi vào tình trạng của những Luật Sĩ và Pharisêu khi sử dụng những chiêu thức bỉ ổi là nói hành, nói xấu để bôi nhọ thanh danh tiếng tốt của anh chị em mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật để trả lại cho anh chị em mình những giá trị đích thực, khi họ vì lòng yêu mến Chúa mà thi hành những bổn phận của họ để loan báo tình thương của Thiên Chúa cho mọi người. Đồng thời chúng ta biết cộng tác với nhau để làm cho triều đại của Thiên Chúa mau đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con trong Mùa Chay thánh này, luôn biết yêu thương, nâng đỡ nhau để cùng nhau loan truyền và làm chứng cho Chúa bằng đời sống bác ái, yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Hãy nhìn nhau bằng đôi mắt của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để nhận ra triều đại của Thiên Chúa, phải thành tâm và có ý ngay lành. Hãy nhìn nhau bằng đôi mắt của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã trở thành nạn nhân của lòng đố kỵ. Trước phép lạ trừ quỷ câm, Chúa được dân chúng ngưỡng mộ. Nhưng khi thấy Chúa thành công, một số người tỏ ra bực tức ghen tị. Sự ghen tị làm lòng người ra hẹp hòi, trí óc ra mù quáng và họ giải thích cách ngu xuẩn: “Ông ấy dựa vào quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ”.
Ngày hôm nay, nhân loại chúng con đang thoái hóa về tinh thần vì không biết nhìn nhau bằng tinh thần của Chúa. Tình thân ái nơi loài người đang đổ vỡ vì chúng con nhìn nhau bằng cặp mắt của Xa-tan, con mắt ích kỷ tị hiềm.
Xin Chúa dạy con biết cảm thông với anh chị em con: biết vui với người vui và nhất là biết buồn với người buồn. Xin đừng để con vui khi thấy anh chị em khổ, đừng để con mừng khi thấy anh chị em khốn khó. Đừng để con khó chịu khi thấy anh chị em thành công. Ngược lại, xin Chúa dạy con biết coi nỗi khổ của anh chị em là nỗi khổ của chính mình để con mau mắn giúp đỡ gỡ khó cho họ.
Lạy Chúa, xin dạy con biết nhìn nhau bằng ánh mắt của Chúa: luôn tôn trọng người khác, không khinh thị bất cứ ai, kể cả những người tội lỗi. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi ông Giakêu thành người thực thi công bình bác ái. Cái nhìn của Chúa biến đổi Thánh Matthêu thành tông đồ cho Chúa. Cái nhìn của Chúa cũng biến đổi Thánh Phêrô từ kẻ chối Chúa thành người nâng đỡ đức tin cho anh em. Xin dạy con lối nhìn của Chúa để con biết nâng dậy những anh em vì hoàn cảnh đã đi xa đường lối Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Suy Niệm 7: Đức Giêsu trừ quỷ câm
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Việc Đức Giêsu trừ quỷ câm là nguyên cớ sinh ra cuộc tranh luận giữa phe chống đối gồm các luật sĩ, biệt phái với Đức Giêsu. Qua phép lạ trừ quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân khỏi ách thống trị của Satan. Từ sự kiện này, đáng lẽ người Do thái nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa, nhận ra uy quyền nơi Đức Giêsu, nhưng họ lại cắt nghĩa phép lạ theo một ý lệch lạc. Họ nói Đức Giêsu dùng quỉ vương mà trừ quỉ con, chỉ vì ghen tương và cố chấp. Họ không nhận ra vương quyền của Đức Giêsu. Chính do thái độ cố chấp ấy, họ sẽ phải chịu trách nhiệm và chịu xét xử.
2. Đức Giêsu đã rao giảng và đã thực hiện những dấu lạ khắp nẻo đường Palestin: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội. Hôm nay Đức Giêsu lại chữa người bị câm do quỉ ám... Tất cả chứng tỏ quyền năng thánh linh của Ngài. Nhưng một số người đã nghe Chúa giảng, đã thấy phép lạ tỏ tường không tin nhận Chúa lại còn cho rằng Ngài dùng quyền năng của tướng quỉ mà trừ quỉ con. Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài lấy quyền từ Thiên Chúa. Ngài mạc khải rõ sứ mạng của Ngài khi Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa mà trừ quỉ, bảo vệ bênh vực con người, cứu chúng ta khỏi ách thống trị của ma quỉ và tội lỗi.
3. Thật vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã dùng quyền năng mà trừ quỉ câm, dân chúng thấy vậy thì hết sức khâm phục Ngài; còn những kẻ cứng lòng tin lại cho rằng Ngài lấy quyền đầu mục quỉ mà trừ quỉ, họ không hiểu rằng nếu quỉ mà trừ quỉ thì chúng đã chia rẽ nhau và như thế sẽ phải tiêu vong, bởi vì “chia rẽ là chết”. Như vậy, nếu Đức Giêsu dùng quyền năng cao cả của mình để khử trừ ma quỉ, thì tức là Ngài mạnh hơn quỉ, chiến thắng ma quỉ, do đó ai tin theo Ngài sẽ được cứu thoát khỏi mọi sự dữ; ai tin theo Ngài sẽ cùng Ngài cộng tác để tiêu diệt các mưu mô độc hại của ma quỉ, của thế gian, của xác thịt, và đem nhiều linh hồn về cho Nước Chúa. Còn ai không tin theo Ngài tức là chống đối Ngài, là tự phân tán và như thế dẫn tới cái chết.
4. Tội ngoan cố là thế nào?
Tội ngoan cố là khi thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”.
Bởi vậy Đức Giêsu nói đó là tội chống Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
4. “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Đứng trước Đức Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc từ chối. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Đức Giêsu.
Đây là một sự lựa chọn dứt khoát cho chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta không thể cứ sống cách nửa vời. Việc sống đức tin là có hoặc không? Chọn Chúa hay theo Satan; sống theo giáo lý và lề luật đạo, hay thỏa hiệp với thế gian xác thịt..? Chứ không thể bắt cá hai tay, đạo nào cũng muốn mà đời cũng muốn.
- Không thiếu những người, đạo cũng muốn giữ mà cứ để mình sống trong tình trạng hôn nhân bất hợp pháp.
- Làm người tu cũng muốn mà tình lứa đôi cũng không dứt bỏ dứt khát, khấn nghèo khó mà lại sống trưởng giả.
- Có những người đạo cũng muốn giữ mà vẫn thề thốt để được “kết nạp” và giữ được những cái nọ cái kia...
5. Bài Tin Mừng hôm nay thúc giục chúng ta vững tin vào uy quyền của Thiên Chúa. Thế lực của ma quỉ tuy mạnh mẽ nhưng quyền năng của Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn. Đức Kitô đã dùng cái chết và sự sống lại của Ngài để chiến thắng Satan, Ngài đã trở thành lá cờ đầu để chúng ta đi theo. Hãy gia nhập vào cộng đoàn những kẻ theo Ngài, và hãy vững tin rằng nếu chúng ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài.
6. Truyện: Mưu mô ma quỉ.
Ngày xưa có một con qủi hiện về báo cho người đàn ông biết là gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó có thể cứu gã nếu gã chịu làm một trong ba điều sau: một là giết tên đầy tớ của gã, hai là gã đánh đập vợ, ba là gã hãy uống rượu.
Gã kia nghĩ: Ta không thể giết tên đầy tớ trung thành, đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi gã lấy rượu uống. Đến chừng say quá, gã đánh vợ, tên đầy tớ nhào vô can bị gã cho một dao chết tươi (Trích “Phúc”).
Suy Niệm 8: Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước nói đến sự cứng đầu cứng cổ của dân Israel: Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho dân để họ được hạnh phúc. Thế nhưng họ đã chẳng nghe theo. Thiên Chúa lại sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ. Nhưng họ vẫn không nghe.
2. Thời Chúa Giêsu, thái độ ngoan cố ấy vẫn tiếp tục: khi Chúa Giêsu làm phép lạ trục xuất quỷ câm khỏi người bị nó ám, lẽ ra người ta phải hiểu đó là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến. Nhưng những người biệt phái lại không muốn hiểu như vậy, họ còn cố tình xuyên tạc rằng Ngài đã dùng thế lực của quỷ vương để trừ quỷ nhỏ. Tin Mừng Mát-thêu (Mt 12, 22-32) coi đây là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất không được tha. Bởi vì nếu do yếu đuối hay sai lầm mà phạm tội thì dù tội có nặng hay nhiều đến đâu đi nữa Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ. Còn kẻ ngoan cố đã thấy sự thật nhưng cố tình không nhìn nhận, lại còn xuyên tạc cho nên họ không được tha. Nói đúng ra, họ không được tha vì họ không muốn được tha.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Tội ngoan cố là tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy Chúa Giêsu nói đó là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu duối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
2. Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần rất hữu ích và quan trọng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn nữa là con người có nghe theo ơn soi sáng đó hay không. Hằng ngày, Chúa Thánh Thần ban cho ta biết bao ơn soi sáng, nhưng ta nghe theo được mấy lần?
3. Nguỵ biện là thấy rõ sự thật nhưng cố ý giải thích sai đi cho hợp với sở thích. Người nguỵ biện tưởng rằng nhờ ngụy biện mình sẽ được sống thoải mái, nhưng thực ra họ tự hại chính mình. Chúa Giêsu đã nói “Sự thật mới giải thoát”.
4. Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí khả nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể đi bất cứ đâu”. Bạn cô đáp: “Tất nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một chuyện: lần đó, tôi và một số người đến thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn: - Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không? - Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa (Góp nhặt).
Suy Niệm 9: Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Qua bài Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy sự cố chấp của những người luật sĩ và Pharisêu đã lên tới mức độ thật cao. Trước một sự thật ai cũng thấy: Chúa vừa chữa lành một người bị quỉ câm ám hại, mọi người đều thấy phấn khởi…, vậy mà những người luật sĩ và Pharisêu lại cố tình muốn bẻ cong sự thật… Đây là tội ngoan cố. Tội ngoan cố là tội tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Tội ngoan cố là tội kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy, đã có lần Chúa gọi tội đây là tội chống lại Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không thể tha nếu ta ngoan cố.
Thánh Macariô tu hành ở Ai-Cập, lần kia gặp một chiếc đầu lâu của người chết, ngài mới hỏi:
- Cái sọ này của ai ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, cái sọ này là của một ngoại giáo.
Thánh Macariô hỏi thêm: - Linh hồn mày hiện giờ ở đâu ?
Cái sọ trả lời:
- Thưa cha, linh hồn tôi ở dưới hỏa ngục, vì khi còn sống, thấy giữ đạo phải hy sinh nhiều quá, nên tôi không chịu trở lại.
Thánh Macariô lại hỏi:
- Hỏa ngục có sâu lắm không ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, hỏa ngục sâu lắm, sâu bằng khoảng cách giữa trời và đất.
Thánh Macariô hỏi tiếp:
- Dưới hỏa ngục, có ai khổ hơn mày nữa không ?
Cái sọ trả lời: - Có các người Do Thái, đã cố chấp không chịu tin Chúa mặc dầu đã xem thấy bao nhiêu phép lạ Chúa làm.
Thánh Macariô lại hỏi thêm:
- Dưới hỏa ngục, còn ai khổ hơn người Do Thái không ?
Cái sọ trả lời:
- Có những người Công giáo xấu, đã giày đạp lên lòng thương xót Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc họ. Rồi cái sọ nói thêm: “Còn phần cha, cha hãy lợi dụng lòng thương xót Chúa nghĩa là hãy sử dụng ơn Chúa cũng như hãy lợi dụng thời giờ Chúa ban mà lập công phúc, để khỏi phải khổ cực dưới hỏa ngục, nhưng được vinh hiển trên Trời”
Vâng, chúng ta hãy biết lợi dụng lòng thương xót của Chúa để lập thêm công phước, phải lợi dụng lòng thương xót của Chúa để xin ơn tha thứ như vậy.
2. Chúa nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11, 23).
Đi với Chúa là chọn Chúa, là đứng về phía của Chúa. Nhưng làm cách nào biết rằng, chúng ta đã thực sự chọn Chúa và đứng về phía Chúa.
Chúng ta hãy nghe lời giải thích của Mirjana, cô gái được chính Đức Mẹ hiện ra dạy bảo tại Mễ Du. Khi người ta hỏi cô:
- Bằng cách nào chúng ta chọn Chúa Giêsu ?
Cô trả lời:
- Đức Mẹ nói rằng: muốn chọn Chúa Giêsu, ta phải nên giống Chúa. Nhiều người cho mình là tín hữu nhưng lại sống như người ngoại đạo. Kitô hữu chân chính phải là người được Kitô-hóa. Một người Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu.
Và khi được hỏi:
- Nên giống Chúa Giêsu như thế nào ?
Cô nhắc lại lời Đức Mẹ dạy:
- Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật và là ánh sáng cho cuộc sống chúng ta. Đường đi thì đã được vạch rõ trong Kinh Thánh. Còn sự thật thì nằm ở cả trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội. Ánh sáng thì từ Thiên Chúa mà đến cho những ai trung tín.
Mẹ luôn xin các con cái của Mẹ hãy đọc Sách Thánh, có như vậy ta mới biết về Thiên Chúa. Vì thế, Đức Mẹ xin những ai nói mình là tín hữu hãy sống cuộc sống của Chúa Giêsu như khi Chúa sống ở trần gian. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường về Thiên Đàng. Cuộc đời của Ngài là mẫu mực cho các tín hữu noi theo. Nếu tín hữu sống theo mẫu mực đó, họ sẽ là những môn đệ trung thành của Tin Mừng. Đời sống của họ sẽ nêu gương cho thấy có một vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chăm sóc dưỡng nuôi ta, đỡ nâng ta trong hết mọi sự. Nhưng Mẹ cũng không quên nhắc: “ngày nay, có nhiều người đã quên, nhiều người đã chọn lựa những điều phù phiếm mau qua, nhiều kẻ không hề quan tâm tới chân lý, chỉ biết say mê những lạc thú trần gian, trí khôn đâm mù tối và sống co rút lại trong ích kỷ”.
Cha Gioan Maria Vianney nói: “Chẳng có gì làm cho chúng ta nên giống Chúa bằng cách vác lấy Thánh Giá của Người. Đẹp thay bao linh hồn biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua việc yêu mến Thánh Giá của Ngài! Cha thật không tài nào hiểu được một Kitô-hữu mà không yêu mến và chạy trốn Thánh Giá! Như vậy, chẳng phải chúng ta đang chạy trốn Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống ôm chặt lấy Thánh Giá, và chịu chết cho chúng ta sao ?
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Ước gì khi sống như thế, con giống Chúa hơn. Amen.
- Chi tiết
- Viết bởi Mt 5, 17-19
- Lượt xem: 7
Chu toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 3 Mùa Chay.
“Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.
Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kiện toàn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Vào thời Tin Mừng Mátthêu được viết, các người Do thái thuộc Hội Đường
thường chỉ trích các người Do thái đã tin vào Đức Giêsu Kitô,
coi họ như những người đã bỏ Luật Môsê, bỏ cái cốt lõi của Do thái giáo.
Đức Giêsu của Mátthêu đã bác bỏ lối hiểu sai này.
“Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn” (c. 17).
Kiện toàn là đưa Luật Môsê đến chỗ thành tựu, hoàn hảo,
bởi lẽ nó có những hạn chế, bất toàn,
do Thiên Chúa phải nương theo trình độ lúc đó của Dân Ngài.
Kiện toàn là giải thích lại Luật Môsê theo đúng ý Thiên Chúa.
Chẳng ai biết Ý Thiên Chúa Cha bằng Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Hơn ai hết, Đức Giêsu có quyền nói lên ý nghĩa mới mẻ của Lề Luật.
Có một dòng chảy liên tục trong khoa sư phạm của Thiên Chúa.
Ngài huấn luyện Dân Ngài qua Môsê và các ngôn sứ trong lịch sử.
Đỉnh cao nhất là Đức Giêsu, Đấng vén mở trọn vẹn ý định của Thiên Chúa.
Đức Giêsu không phá những công trình đi trước, ngài kiện toàn.
Lời giáo huấn của Ngài vừa liên tục với,
vừa vượt qua Giao Ước thứ nhất còn khiếm khuyết.
Vượt qua về chiều rộng,
khi Ngài mời ta đi xa hơn chuyện không được giết người,
mà còn không được có hành vi, lời nói giận ghét anh em (Mt 5, 22).
Vượt qua về chiều sâu,
khi Ngài đòi ta không được giữ Luật kiểu giả hình bên ngoài,
nhưng phải khởi đi từ trái tim, từ cái tâm bên trong (cc. 27-28),
khi Ngài đưa ra những đòi hỏi tận căn trước đây chưa hề có
về việc chẳng những không được trả thù mà còn yêu kẻ thù (cc. 38-48).
Mọi lề luật đều qui về điều răn chính yếu là yêu thương.
Phải yêu như Cha trên trời mới trở thành con cái Cha (c. 45).
Đức Giêsu mời chúng ta nghiêm túc giữ Luật Môsê đã được Ngài kiện toàn.
Luật ấy là lời giáo huấn của Ngài mà các môn đệ đã nghe.
Con người thời nay thích tự do nên dị ứng với luật lệ.
Nhưng giữ luật không phải là chuyện của nô lệ hay trẻ con.
Khi tránh được thói nệ luật, cứng nhắc bám vào mặt chữ,
ta có thể giữ luật như cách biểu lộ hồn nhiên tình yêu với Chúa và tha nhân.
Trung tín với những đòi hỏi nhỏ bé của các điều răn chỉ vì yêu,
và “dạy người ta mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 20),
đó là con đường dẫn đến hạnh phúc mai sau cho người môn đệ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Hoàn thiện lề luật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu cư xử như một người tự do, phóng khoáng với lề luật. Người ta nghĩ rằng Chúa Giêsu đến phá hủy lề luật. Nhưng Người tuyên bố rõ ràng: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật.
Người kiện toàn bằng xác định thứ tự cho lề luật. Luật Do thái nhiều vô kể. Nhưng điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu người. “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 28-31).
Một trật tự khác: Luật Thiên Chúa phải trọng hơn luật của loài người. (x. Matthêu 15, 1-9). Không được “dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa”.
Người kiện toàn bằng đưa lề luật vào nội tâm. Phải rửa bên trong để bên ngoài cũng được sạch (Mt 23, 25-26). Ăn chay cầu nguyện và bố thí phải làm cách kín đáo (x. Mt 6, 1-6.16-18). Ý hướng là quan trọng. Vì thế, chưa giết người, nhưng giận ghét đã là có tội; chưa ngoại tình, nhưng trong lòng ham muốn thì đã là phạm tội (x.Mt 5, 21-30).
Người kiện toàn lề luật bằng đề cao con người. Điển hình là luật nghỉ ngày Sabat. Chúa đã đưa ra định hướng cho luật này: “Ngày Sabat vì con người chứ không phải con người vì ngày sabat” (Mc 2, 27). Vì thế, ngày sabat để cứu sống con người, để giải thoát con người, để làm điều tốt cho con người. (Mc 3, 1-6)
Người kiện toàn bằng hướng lề luật đến tình yêu. Người Do thái giữ luật vì sợ bị phạt. Chúa Giêsu dạy ta hãy giữ luật vì tình yêu mến. Và tóm tắt mọi luật lệ vào luật mới là yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Tình bác ái quan trọng vì Chúa hóa thân làm người nghèo. Và trong ngày tận thế chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Kiện toàn lề luật, Chúa Giêsu đổi mới cách sống đạo. Sống đạo không còn là hình thức, nhưng là tâm tình bên trong. Tâm tình đó hướng về Thiên Chúa trong tình yêu mến. Vì yêu mến nên giữ lề luật. Và cũng vì yêu mến Thiên Chúa, nên yêu mến con người. Việc giữ đạo như thế trở nên nhẹ nhàng, tự do, tự nguyện, nhưng lại đưa việc giữ lề luật đến mức hoàn hảo.
Suy Niệm 3: Chu toàn lề luật
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Vào một ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”. Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi lỗi luật Chúa.
Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích lời Chúa theo sở thích riêng.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về việc tuân giữ luật Chúa. Những lãnh đạo tôn giáo Do thái thời Chúa Giêsu hơn ai hết là những người bảo tồn luật Chúa trong lời dạy của Môsê và các tiên tri. Nhưng những đổi thay lịch sử đặt ra những vấn nạn mới và thôi thúc họ giải thích và áp dụng luật Chúa vào hoàn cảnh mới. Tinh thần vụ hình thức đã làm cho họ lạc đường đến nỗi đã bị Chúa Giêsu trách là giả hình.
Chúa Giêsu đến không phải để huỷ bỏ nhưng để kiện toàn lề luật và các tiên tri. Ngài kêu gọi các môn đệ tuân giữ luật Chúa với một tinh thần mới, với một dấn thân để sống trọn vẹn sứ điệp của Ngài. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã nhắn nhủ:
“Ngôi Lời đã nhập thể và Chúa Cha đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Ngài”. Ngài là sự sống, con chỉ sống bằng tinh thần của Ngài. Ngài là sự thật, con chỉ tin lời dạy của Ngài. Ngài là Đường, con chỉ theo bước chân Ngài. Có thứ Công giáo vụ lợi, có thứ Công giáo lý lịch, có thứ Công giáo xu thời, có thứ Công giáo giải nhiệt, Chúa chỉ chấp nhận hạng Công giáo 100% đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Hội thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội thánh có lời hứa của Chúa. Hội thánh là một phép lạ liên lỉ. Nhưng đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Hãy làm thế nào để tư tưởng lời nói hành động của con khiến người ta phản ứng: con người này đã say mê cuốn sách Phúc âm, đã bị lôi cuốn bởi lý tưởng cuộc đời Chúa Giêsu.”
Trong những ngày canh tân đời sống này, xin Chúa cho chúng ta một ý chí mạnh mẽ, một xác tín sâu xa, nhất là thật nhiều ơn Chúa để trung thành với ơn gọi của mình.
Suy Niệm 4: Trung tín giữ điều nhỏ nhất
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. (Mt. 5, 17-18)
Ý Thiên Chúa và sách thánh đã viết ra đều phải được kiện toàn. Cho nên Đức Giê-su nói: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”. Điều mới Đức Giê-su thực hiện, không hoàn toàn khác biệt, mà là kiện toàn luật đã có. Lề luật và lời các tiên tri viết về mặc khải của Thiên Chúa, không phải đã hoàn tất. Ý Thiên Chúa tỏ ra qua lề luật và lời tiên tri được bày tỏ dần dần cho đến thời Đức Giê-su ngự đến.
Lề luật và lời các tiên tri có một ý nghĩa mới nhờ mặc khải của Đức Giê-su Ki-tô. Chính Đức Giê-su đã tuyên bố chắc chắn về những mặc khải cuối cùng của Thiên Chúa, Người đã kiện toàn mặc khải cho chúng ta từ nay cho tới mãi mãi. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép quay lại quá khứ do loài người đặt ra như Mô-sê cho phép rẫy vợ, như cấm chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép chỉ làm những điều luật đã viết trước đó.
Luật tiếp tục tồn tại, nhưng được kiện toàn những gì luật còn thiếu sót cho đến khi Đức Giê-su kiện toàn lần chót. Sự kiện toàn bắt đầu mặc khải từ khi Chúa Giê-su giảng dạy vì Người là lời Thiên Chúa. Đức Giê-su không phải chỉ kiện toàn lề luật bằng lời dạy, mà còn bằng chính bản thân Người, bằng chính đời sống Người, bằng chính sự nhập thể và cuộc đời tại thế của Người.
Chúng ta phải giữ những điều răn nhỏ mọn nhất với quyết tâm cam kết toàn diện con người chúng ta, với tình yêu mến hảo hạng. Như vậy mới giải thoát chúng ta khỏi mọi kiêu căng của lòng trí, khỏi thứ trí thức tôn giáo hay khỏi cái lối thuần túy giữ “đạo tại tâm”, bỏ lơ, trễ nải với lối sống giữ đạo khiêm tốn hiện tại thường ngày.
Chúng ta biết quan tâm giữ cặn kẽ những điều nhỏ mọn, thì chúng ta được đánh giá để xếp hạng trong nước trời, không phải chúng ta được đánh giá theo ý tưởng, hay theo khuynh hướng bản thân, theo tính tình mỗi người … mà theo toàn bộ, toàn bộ trao phó cho chúng ta tất cả những điều nhỏ nhất, tất cả đều quan trọng đối với nước trời.
J.M
Suy Niệm 5: “Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để kiện toàn
Thánh Gioan Bosco nói với các môn sinh của ngài rằng: “Hãy trung thành giữ luật, luật sẽ gìn giữ con”.
Thật vậy, lề luật nó như cái bản lề để giúp cho cánh cửa cuộc đời được đứng vững.
Chính Đức Giêsu đã trung thành giữ luật cách yêu mến và trung thành. Chỉ khi nào luật không làm cho con người ta tốt hơn, mà ngược lại, nó đè bẹp con người, thì lúc đó Ngài lên tiếng chống đối.
Hai lối hiểu và hai cách giữ luật khác nhau, nên những nhà lãnh đạo Dothái và Đức Giêsu có sự đối kháng kích liệt. Họ cho rằng Đức Giêsu đến để bãi bỏ lề luật, còn Đức Giêsu thì khẳng định: “Các người đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ các lề luật hay các tiên tri. Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Nói cách khác, Đức Giêsu vẫn rất tôn trọng luật Cựu Ước, mà cụ thể là trong Ngũ Kinh, vì ở đó chứa đựng ý muốn và lệnh truyền của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, vì họ đã giữ luật theo kiểu mặt chữ, nên không còn tình thương, lòng mến, và luật đã trở thành phương tiện cho người ta hà hiếp, bóc lột và kết án nhau.
Khi phản đối lối gán ghép tội của các Luật Sĩ và Pharisêu gây ra cho mình, Đức Giêsu khẳng định không những không phá bỏ, mà còn kiện toàn và làm cho luật trở nên nhân nghĩa hơn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: hãy biết giữ luật trong lòng mến. Trung thành yêu mến luật vì nơi đó Thiên Chúa tỏ bày thánh ý của Ngài. Tuy nhiên, giữa việc giữ luật và đời sống phải đi đôi với nhau. Không thể sống theo kiểu “ngôn hành bất nhất” như Luật Sĩ và Pharisêu, vì họ dùng luật của Chúa để triệt hạ nhau khi luật của Chúa đã bị bóp méo.
Lạy Chúa Giêsu, luật của Chúa là luật vì con người và hạnh phúc của nhân loại. Xin Chúa ban cho chúng con biết yêu mến và thi hành luật ấy cách trung thành trong lòng mến Chúa và yêu người. Xin cho chúng con đừng vì luật mà cứng ngắc với anh chị em mình khi chúng con rơi vào tình trạng giả hình, chỉ câu nệ vào những hình thức bên ngoài mà quên đi những cái chính yếu bên trong. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thánh Ý Thiên Chúa là điều quan trọng, không gì nhỏ bé tầm thường. Chúa Giêsu đến chính là để được thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa và các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu ước. Ta cũng cần coi trọng và tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đôi lúc con có cảm tưởng Chúa thường phản ứng chống lại lề luật. Chúa phê bình việc giải thích và cách giữ luật của người biệt phái. Chúa lên án lối sống hình thức của họ. Nhưng càng nhìn ngắm Chúa và suy gẫm Phúc âm, con càng thấy rõ Chúa không chống đối lề luật, không bãi bỏ lề luật, mà Chúa đến để chu toàn lề luật và làm cho lề luật được kiện toàn, vì luật của Môi-sê cũng chính là luật của Thiên Chúa. Chúa phục tùng luật Môi-sê vì Chúa muốn phục tùng Ý Chúa Cha.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương Chúa mà tôn trọng luật Thiên Chúa và luật Giáo Hội. Qua lề luật, xin cho con biết nhận ra ý Chúa muốn con làm gì. Đời sống của Chúa là cuộc đời thánh thiện vì Chúa luôn chu toàn ý muốn của Chúa Cha. Xin Chúa cũng giúp con nên thánh bằng cách hy sinh ý riêng để tuân theo Ý Chúa, trung thành vâng giữ luật Chúa.
Lạy Chúa, vì xu hướng tự nhiên, con vẫn thích phá bỏ lề luật để sống tự do buông thả. Nhưng trong đức tin, con cảm tạ Chúa đã ban lề luật cho con, vì nếu không có lề luật như những tấm bảng chỉ đường, chắc chắn con sẽ lạc hướng và rơi xuống vực sâu. Xin Chúa thương gìn giữ con.
Con cũng xin Chúa giúp con biết tín nhiệm vào Chúa đang dẫn dắt Hội Thánh, để con khiêm tốn vâng theo sự chỉ dạy của Hội Thánh. Có những điều con không hiểu, có những điều con thấy lỗi thời, bảo thủ, khe khắt, nhưng xin Chúa giúp con biết đón nhận trong đức tin, ngay cả trong những điều nhỏ bé nhất. Và xin Chúa giúp tất cả chúng con động viên nhắc bảo nhau trung thành với luật Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
Suy Niệm 7: Hãy nghe Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Ngay từ thời xa xưa Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Công trình hoàn thiện luật theo một tiến trình phát triển được Chúa mạc khải sơ khởi phông nền với các tổ phụ, đặc biệt là Môisê qua 10 điều răn, được các ngôn sứ phát triển và chính Con Thiên Chúa - Đức Giêsu hoàn thiện bằng luật Kitô giáo: Tân ước. Tân ước là một chồi non làm sinh hoa kết trái nhưng được nuôi từ gốc và bằng nhựa của cây ô liu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (x. Rm 11,17-24). Chính Đức Giêsu đã được loan báo và chuẩn bị cả ngàn năm mong đợi của dân Do Thái khi chờ đón Đấng Cứu Thế, Đấng đến cứu họ được tự do và để kiện toàn luật và lời các ngôn sứ đã loan báo trước làm hoàn thành toàn bộ Kinh Thánh với hai phần rõ rệt: Tân ước và Cựu ước.
Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu Người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật. Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…), và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “…đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Chúa Giêsu kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” luật cũ. Khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật mà còn sống theo luật với ân sủng và tình yêu cho nên luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không dừng ở những việc làm vụ hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện: “Như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48): Luật pháp mà vượt qua luật, đi tới Tin Mừng (Phúc Âm) đem hạnh phúc tình thương cho con người. Bài giảng bát phúc trình bày tính vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.
Xin Chúa thổi tình yêu vào cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ mọi giới răn đạo Chúa, mọi giáo huấn của Giáo hội, chúng ta giữ luật không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, mà còn thực thi với tinh thần của Tình yêu.
Ý lực sống: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Suy Niệm 8: Chúa đến kiện toàn Lề luật
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu chính là Đấng Kitô phải đến mà dân Israel đang mong chờ. Ngài đến để hoàn tất mọi lời Thiên Chúa hứa, và để kiện toàn Lề Luật. Ngài đến để đưa Lề Luật tới ý nghĩa trọn hảo. Kiểu nói: “Một chấm, một phết trong Luật cũng không thể qua đi” diễn tả tầm quan trong của Luật: đó là ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã muốn dùng Lề Luật để giáo dục con người thì không có Luật gì là nhỏ bé tầm thường. Vì vậy, chúng ta chỉ đạt được sự sống đời đời khi trung thành tuân giữ luật Chúa và Lời Chúa. Chúng ta giữ luật không vì sợ tội, nhưng vì tình yêu. Trong tình yêu, càng cần sự tế nhị từ những điều nhỏ mọn.
2. Bất cứ quốc gia hay tổ chức lớn nhỏ nào trong xã hội loài người đề cần có luật, để giữ kỷ cương phép tắc, giữ trật tự an ninh và đảm bảo sự công bằng xã hội.
Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, lời các tiên tri, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.
Các luật sĩ và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn lề luật: Tất cả vì luật.
Đức Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hàng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh...
3. Thầy đến không phải là để bãi bỏ...”
Những lời Đức Giêsu nói về luật Cựu ước thực sự gây sốc nhất là đối với những người thượng tôn Lề Luật Maisen... Quả thật những lời Đức Giêsu dạy xem ra khó nghe và có vẻ như trái nghịch với luật cũ khiến một số người phản đối; nhưng xét cho cùng, đó không phải là Ngài phá đổ hay phế bỏ Lề Luật mà là Ngài kiện toàn nó.
Ngài đào sâu tận nguyên lý của Lề Luật và áp dụng vào hoàn cảnh mới của Tân Ước để thực hành đúng tinh thần của Lề Luật chứ không chỉ theo hình thức bên ngoài. Ta có thể dẫn chứng trường hợp ăn chay chẳng hạn: nhịn đói ít hôm, cúng dường... rồi sau đó bóc lột, ức hiếp ngươi nghèo khổ, thì hành vi ấy còn có nghĩa gì, nó lố bịch và chuốc thêm tội vào mình thôi... Như thế, Đức Giêsu chính là Maisen mới vì Ngài đến kiện toàn Luật Maisen và lời các tiên tri (5 phút Lời Chúa).
4. Việc kiện toàn ít nhất mang hai ý nghĩa.
Đức Giêsu đã đến kiện toàn Lề Lật và lời các tiên tri. Như vậy:
- Đối với Do thái, lề luật và tiên tri liên kết với nhau, nên việc kiện toàn của Đức Giêsu có nghĩa là Ngài thực hiện và đưa đến mức độ viên mãn những gì Thiên Chúa đã hứa trong Sách Thánh. Ngài là điểm đến và ứng nghiệm những gì chép trong Cựu Ước. Luật không bị mất hiệu lực một chấm một phẩy nào, nhưng đạt tới sự viên mãn nơi Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.
- Từ nay trong Đức Giêsu, luật được tuân giữ với tinh thần tự do và yêu mến Chúa, chứ không phải là một sự bó buộc phải làm hay phải giữ. Từ nay luật mang lấy một diện mạo mới là luật vì sự sống con người chứ không phải kềm hãm con người theo mặt chữ.
Tóm lại, kiện toàn lề luật mà Đức Giêsu dạy chúng ta là không bãi bỏ luật nhưng mặc cho luật một tinh thần mới, nghĩa là vượt qua sự giữ luật cách tiêu cực để thi hành cách tích cực trong Đức Kitô: giữ luật không vì sự bó buộc phải làm mà là với cả sự tự do muốn làm vì lòng mến Chúa và tha nhân, biến luật từ việc kìm hãm bản thân thành sự thanh thoát thánh hóa bản thân, giữ luật không dừng lại ở sự thể hiện ở ngoài mà là cả một tâm hồn ngay thẳng và trong sạch.
5. Lề luật giúp cho con người nên thánh và trung thành với Chúa.
Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc sống và làm trong khung khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa, ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quí giá: “Ubi amatur, non laboratur: khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn.
6. Truyện vui: Giữ luật hình thức.
Vào ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh ta gọi những món cá mà anh ta biết chắc chắn chủ quán sẽ trả lời là không có.
Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”.
Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi bị lỗi luật Chúa.
Suy Niệm 9: Tuân giữ lề luật theo tinh thần mới của Phúc Âm
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước: Trước khi dân Israel vào Đất hứa, Môsê đọc cho dân nghe các lề luật Chúa. Ông căn dặn dân phải nhớ tuân giữ những điều luật ấy “để được sống và được vào chiếm hữu phần đất (mà Thiên Chúa đã hứa ban)”.
2. Bài trích Phúc Âm: Mặc dù Chúa Giêsu đến để thiết lập Luật mới, nhưng Ngài không huỷ bỏ luật cũ: “Ta không đến để huỷ bỏ (luật Môsê), mà để kiện toàn”.
3. Như thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay là bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật, theo tinh thần mới của Phúc Âm.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
2. Một điều nữa cần làm ngay trong mùa Chay là xét lại cách mình giữ luật: luật Chúa, luật Hội Thánh, luật của cộng đoàn v.v...
3. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn”. (Lc 161,10)
4. “Vào một ngày thứ Sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”... Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật theo tinh thần mới của Tin Mừng.
1. Lề luật giống như đường ray giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
Cách đây ít lâu, có một báo cáo về một trường hợp một thủy thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị phạt rất nặng vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận bên ngành dân chính cho rằng, quá khắt khe.
Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong hải quân đã trả lời rằng, theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng. Ông cho rằng, kỷ luật là một biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh không thắc mắc và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.
Ông kể lại một kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu của ông phải cẩu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cột vào chiếc tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình, giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!”, tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chắc chết ngay tại chỗ. Nhưng vì thủy thủ đoàn đã tuân lệnh, nên tất cả đều được thoát hiểm và an toàn. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người. (WB).
Chúa Giêsu không hề chủ trương vô kỷ cương. Ngài đã từng tuyên bố: “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật và các lời tiên tri, nhưng Ta đến để kiện toàn lề luật” (Mt 5,17). Ngài tuân giữ lề luật của Do Thái giáo. Nhưng, trong khi các luật sĩ, Pharisêu chỉ biết bám vào hình thức, thì Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới. Ngài giữ chay và kêu gọi con người xé lòng chứ đừng xé áo. Ngài giữ ngày hưu lễ và kêu gọi con người thực thi bác ái. Ngài cảnh cáo những Pharisêu và luật sĩ khi họ cố tình bóp nghẹt tinh thần của lề luật. Ngài không ngần ngại lên án thái độ giả hình bên ngoài của họ bằng những lời rất nặng. Ngài ví họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng bẩy nhưng bên trong thì thối tha.
2. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10).
Vào một ngày thứ sáu tuần thánh buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy..”.
Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra muôn ngàn cách để tự an ủi và miễn thứ cho mình khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Chúng ta hãy nhìn lại một ít bài học trong Đạo để thấy rằng, có những con người rất can đảm. Họ thà chết còn hơn là lỗi luật Chúa.
* Xưa kia, Giuse con Giacob “thà chết” còn hơn là nghe theo lời đường mật, rồi sau đó là những lời đe dọa mà ngả vào vòng tay của người đàn bà xấu nết, là vợ quan Putipha.
* Bà Suzanna, cũng thà chết còn hơn là phạm luật Chúa trước những lời hăm dọa của hai lão mê dâm.
* Ông lão Aliazarô thà bỏ mạng sống còn hơn là nghe theo lệnh truyền của hoàng đế Antiocô mà ăn thịt trái luật Chúa.
* Ba thánh trẻ kia, sẵn sàng chịu thiêu trong đống củi chứ không chịu sấp mình trước tượng Nabucodonosor.
* Đaniel cũng thà chết còn hơn là bỏ việc thờ phượng Chúa dù việc đó làm cho Đaniel bị bỏ vào hang sư tử.
* Bảy anh em tử vì đạo đời Antiôcô cũng vì sợ mất lòng Chúa nên thà chết chẳng thà bỏ đạo.
* Tại Việt Nam ta ngày trước, nhiều tín hữu bị nhốt vào tù. Quan dạy đi ra hai cửa: sinh môn và tử môn. Ai qua “sinh môn” thì phải đạp ảnh. Những người bị giam đều qua “tử môn” có quân lính trực sẵn, hễ ai bước qua thì chém đầu.
* Trên đồi Dã Viên, đời cấm đạo, giáo hữu phải giam trong cũi, nhịn khát mấy ngày bên bờ sông Hương. Ai đạp ảnh mới được uống nước. Các đấng thà chết khát...
Người Công giáo thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa, bỏ nghĩa vụ.
- Chi tiết
- Viết bởi Mt 18, 21-35
- Lượt xem: 12
Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha.
Thứ Ba tuần 3 Mùa Chay.
“Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”
Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện.
Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hết lòng tha thứ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Tôi viết cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi…
Vâng, tôi cũng xin nói với bạn tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…
Ước gì chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc,
được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa muốn,
Người là Cha của hai chúng ta.”
Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de Chergé,
tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu Phi.
Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào đó sẽ giết mình.
Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu
cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.
Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải là kẻ thù hay sát nhân.
Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh ta, cũng cần được tha thứ.
Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng,
vì cả hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.
Dụ ngôn hôm nay hẳn đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của cha Christian.
Có hai người mắc nợ, cả hai đều là đầy tớ của cùng một ông chủ.
Một người mắc nợ ông chủ một món nợ cực lớn, mười ngàn yến vàng.
Một người mắc nợ đồng bạn mình một món nợ nhỏ, một trăm quan tiền,
mà người đồng bạn ấy lại chính là người đang mắc nợ ông chủ.
Cả hai đều không trả nổi và năn nỉ xin hoãn.
Ông chủ chạnh lòng thương tha luôn món nợ cho người thứ nhất.
Nhưng người này lại dứt khoát không chịu hoãn lại cho người thứ hai.
Anh ta đã tống bạn mình vào ngục.
“Đến lượt ngươi, ngươi lại không phải thương xót người đầy tớ đồng bạn
như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (c. 33).
Lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa như dòng suối chảy vào đời tôi.
Thương xót tha thứ chính là để cho dòng suối ấy chảy đi,
chảy đến với người xúc phạm đến tôi nhiều lần trong ngày.
Tôi tha bằng chính sự tha thứ mà tôi đã nhận được từ Thiên Chúa.
Không tha là giữ dòng suối đó lại, và biến nó thành ao tù.
Không tha là đánh mất cả những gì mình đã nhận được.
Người mắc nợ ông chủ nhiều, đã được tha một cách quảng đại bất ngờ,
nhưng sự tha thứ đó đã bị rút lại.
Chỉ ai biết cho đi sự tha thứ mới giữ lại được nó cho mình.
Chúng ta đều là người mắc nợ và đều là đầy tớ của Thiên Chúa.
Tôi nợ Chúa nhiều hơn anh em tôi nợ tôi gấp bội.
Sống với nhau tránh sao khỏi có lúc thấy mình bị xúc phạm.
Chỉ tha thứ mới làm cho tôi đi vào được trái tim của Thiên Chúa nhân hậu.
Chỉ tha thứ mới làm tôi được nhẹ lòng, và người kia được giải thoát.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Tha thứ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người vốn yếu hèn. Lầm lỗi là con người. Biết sống là biết tha thứ.
Tha thứ là biết Chúa. Thiên Chúa nhân hậu, nhẫn nại, giầu lòng xót thương và luôn tha thứ. Ta tội lỗi ngập tràn. Nhưng Chúa luôn tha thứ. Dụ ngôn hôm nay cho thấy sự tha thứ của Chúa là không giới hạn. Nợ 10 ngàn yến vàng là nợ quá lớn không ai có thể trả nổi. Vậy mà chỉ cần một lời van xin, Thiên Chúa tha ngay. Người tha thứ dễ dàng, tức khắc, không điều kiện, và vĩnh viễn. Nhận biết Thiên Chúa rộng lượng, giầu lòng thương xót, luôn luôn tha thứ sẽ dẫn ta đến biết mình.
Tha thứ là biết mình. Khi biết mình yếu đuối, ta dễ thông cảm với người khác. Nếu người khác chấp nhất tội lỗi của ta, ta sẽ không sống nổi. Vì ta cũng đã lỗi phạm đến người khác nhiều lần. Biết mình cần được tha thứ, ta sẽ dễ tha thứ cho người khác. Nhưng trên hết khi tha thứ ta nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ cho ta nhưng với điều kiện ta cũng phải tha thứ cho anh em. Cho người khác 100 quan tiền để nhận được 10 ngàn yến vàng. Ta được lợi lớn.
Tha thứ như thế là biết sống. Đời sống thành công là đời sống an vui hạnh phúc. Ta an vui khi mọi người chung quanh cùng an vui. An vui chỉ có được với những tâm hồn quảng đại, tha thứ. Chúa là yêu thương, là tha thứ. Không yêu thương tha thứ, ta không thể phù hợp với Thiên Chúa, không thể lãnh nhận được hạnh phúc. Con người là bất toàn. Muốn sống chung cần tha thứ và được tha thứ. Đó là biết sống, tạo hạnh phúc cho chính mình.
Tóm lại, tha thứ là biết yêu. Xét cho cùng tha thứ chính là tình yêu. Đây là cốt lõi của vấn đề. Tha thứ chỉ có được khi có tình yêu. Chúa tha thứ cho ta vì yêu thương ta. Và Chúa dạy ta phải tha thứ cho tha nhân. Vì tha nhân không phải người xa lạ, mà là anh em ta. Phê-rô nhận điều này khi hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” Người khác là anh em ta trong gia đình Thiên Chúa. Anh em phải có tình yêu thương. Đó chính là giới răn của Chúa. Tình yêu là không giới hạn nên phải tha thứ mãi mãi. Còn tha thứ là còn yêu thương. Còn yêu thương là còn thuộc về Chúa, còn là con cái trong nhà Cha, còn là công dân Nước Trời. Hết tha thứ là hết yêu thương, không còn là con Cha yêu thương, không còn là công dân trong Vương quốc tình yêu.
Suy Niệm 3: Tha thứ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tha thứ đến 7 lần, đó là tha thứ theo đúng công bằng của lề luật, của lý luận con người. Nhưng Chúa Giêsu còn đi xa hơn bằng cách nói: tha thứ cho đến 70 lần bẩy.
Trong dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ, người này xin chủ chờ thêm thời gian nữa anh sẽ trả hết, nhưng chủ đã tha luôn cả số nợ. Thế mà anh đã không hành xử như vậy đối với người bạn chỉ mắc nợ anh một trăm bạc. Chúa Giêsu đã đưa ra bài học từ dụ ngôn này: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các người như thế nếu mỗi người trong các ngươi thật lòng tha thứ cho anh em mình”.
Chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã sống thế nào về điều chúng ta thường cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Về vấn đề này tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:
“Tính phê bình chỉ trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con. Va chạm người khác là sự thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là Thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn. Phàn nàn là bệnh dịch hay lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa. Bác ái không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo bầu khí mới giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa. Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh em để chỉ trích. Đừng nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao tất cả cho tình yêu Chúa”.
Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để xây dựng hoà bình và hoà hợp trong môi trường chúng ta sống.
Suy Niệm 4: Tha thứ vô bờ
Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)
Khi Phê-rô hỏi: “Nếu anh em cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ mấy lần? Có phải bảy lần không”. Thế là ông tốt lắm rồi. Ông đã vượt mức luật cũ: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn chúng ta, có ai đã tha thứ đến bảy lần chưa?
Những trường phái Rabbi đã định mức tha thứ thế nào? Tha cho vợ mấy lần, cho con cái, cho anh chị em mấy lần? Họ cãi nhau xem phải ấn định mấy lần, phải tha thứ, luật của trường phái nào mới đúng?
Nhưng Đức Giê-su không đứng đầu trường phái nào, với Người, không có mức nào hết, vì Người không tự đóng khuôn vào khu vực số lượng nhiều hay ít. Chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ vô cùng thì chúng ta phải biết tha thứ không tính toán.
Khi bạn tha thứ, bạn đừng nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào Thiên Chúa và nhìn lại cuốn sổ ghi lỗi của bạn. Chỉ có kẻ vô tội mới được phép luận tội và tha thứ thôi. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và được thương xót tha thứ, cho nên chúng ta đo lòng thương xót của mình đối với kẻ có nợ chúng ta là tự phụ. Chúng ta cần nhớ bài học này: Theo đức tin, trước nhất chúng ta phải luôn luôn nhìn lên Chúa trước khi xét đoán anh em mình, và lúc đó chúng ta sẽ được đầy lòng nhân hậu khoan dung êm ái và yêu thương.
Lời của Đức Giê-su ban đầu có vẻ kỳ dị, nhưng nhìn kỹ, thì thấy khôn ngoan biết bao … Trong thế giới pháp chế trói buộc nặng nề này, không còn quan tâm đến con tim, thì tốt lành biết bao khi được nghe những bài diễn văn về lòng thương yêu tha thứ.
J.G
Suy Niệm 5: Hãy biết “yêu” như Chúa
Có một anh bạn hỏi một người Công Giáo rằng: “Nếu để nói một câu ngắn gọn nhất nhằm tóm gọn toàn bộ giáo lý về đạo Công Giáo thì bạn sẽ nói câu nào?”; bạn trẻ Công Giáo trả lời, đó là chữ: “Yêu”.
Thật vậy, chữ “yêu” là chữ cốt lõi của đạo Công Giáo. Vì yêu, Thiên Chúa dựng nên trời đất và con người. Vì yêu, Ngài đã cứu thoát họ khỏi Ai Cập, đưa về Đất Hứa. Vì yêu Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ đến để dạy dỗ dân. Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Đấng ấy là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã dạy dỗ, yêu thương, tha thứ cho kẻ thù và cuối cùng, vì yêu nên Đức Giêsu đã chết cho người mình yêu.
Hôm nay, Tin Mừng một lần nữa xác định căn cốt đó khi trình thuật cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và Phêrô. Khởi đi từ câu hỏi của Phêrô: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy".
Tha như thế là tha mãi, tha không giới hạn, không điểm dừng, không so đo tính toán thiệt hơn. Tha như thế là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là tình yêu, và làm toát lên đạo mới, “đạo yêu thương”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tha thứ và tha thứ không ngừng nghỉ!
Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ không ngừng. Vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.
Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy chúng con hôm nay thật tuyệt vời, vì nếu chúng con không tha thứ thì làm sao chúng con được Chúa thứ tha trong khi chúng con là kẻ có tội? Xin Chúa ban cho chúng con có lòng nhân hậu như Chúa là Đấng Nhân Hậu. Biết yêu tha thiết để sẵn sàng tha thứ không ngừng nghỉ như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Tha thứ cho nhau, vì được Chúa tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Hãy tha thứ cho nhau, vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thật quảng đại vô cùng. Không những Chúa đã tác tạo nên con, ban ơn để con được sống, mà ngay cả khi con xúc phạm đến Chúa, Chúa cũng tha thứ cho con. Cuộc đời con là những chuỗi ngày tội lỗi và phản bội tình yêu của Chúa. Nhưng Chúa đã tha thứ cho con từ khi con chưa có mặt trên đời này. Từ ngày con chưa sinh ra, tình yêu của Chúa đã lấp đầy trên con. Rồi từng ngày trong cuộc sống, tình yêu Chúa hằng ấp ủ con. Tấm lòng Chúa thật bao la vô bờ bến.
Hôm nay đây, khi đứng trước tấm lòng bao la ấy, đứng trước một tình yêu ngất trời như vậy, con chợt thấy lòng mình hẹp hòi nhỏ nhoi làm sao! Con hẹp hòi nhỏ nhoi với Chúa và với anh em con. Chúa đã tha thứ cho con tất cả. Vậy mà chúng con vẫn chưa biết tha thứ cho nhau, vẫn chấp nhất nhau trong từng lời nói, và từng việc làm nhỏ bé. Bao nhiêu cuộc chiến tranh khốc liệt, bao nhiêu sự đổ vỡ không hàn gắn được, tất cả đều xuất phát từ tấm lòng nhỏ nhen ích kỷ của chúng con. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con biết tha thứ cho nhau.
Chúa dạy con làm việc bác ái, con có thể làm được. Nhưng Chúa dạy con tha thứ cho anh em thì lạy Chúa, con thấy thật khó. Bởi vì khi cho đi tiền bạc của cải, con cho những cái ở ngoài con. Còn khi cho đi sự tha thứ, con phải lấy chính lòng con để trao tặng cho người khác. Có nghĩa là con chấp nhận để người khác cào cấu vào tim con. Xin Chúa ban ơn giúp sức để con biết tha thứ cho anh em con. Con tha thứ không những để được Chúa tha thứ, mà con muốn tha thứ, vì trước hết chính Chúa đã tha thứ cho con hết rồi. Xin cho con biết sống xứng đáng với lòng quảng đại của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Suy Niệm 7: Tha đến đến bảy mươi lần bảy
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Văn hào Ernest Hemingway đã kể câu chuyện về một người cha và cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu niên. Mối quan hệ cha con của họ không được tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé đùng đùng bỏ nhà ra đi.
Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên, ông đã bôn ba khắp nơi để tìm kiếm đứa con nổi loạn. Cuối cùng, khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con”.
Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới đó, ông đã gặp… 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang rộng yêu thương.
Suy Niệm
Sự khoan dung tha thứ là đỉnh cao của đức ái Kitô giáo mà Kinh Thánh đã dạy: Yêu thương tha thứ trước lỗi lầm của anh em: Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Không phải một màlà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21-22; Lc 23,34), nghĩa là luôn tha thứ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương sống động của lòng thứ tha khi trên thập giá Ngài tha thứ cho những kẻ giết hại mình (x. Lc 23,34).
Trước lỗi lầm của anh em mà họ đã chân thành nhận lỗi. Như Chúa Giêsu dạy người môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập lại sự giao hảo giữa hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ con giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe, thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
Trong bình diện tâm linh, tương quan ơn cứu độ, sách Huấn Ca dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha” (Hc 28,2). Chúa Giêsu qua kinh Lạy Cha cũng dạy: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12; Lc 11,4). Tha nợ do đòi hỏi bó buộc của Thiên Chúa, Ngài tha nợ cho chúng ta như chúng ta biết đã tha thứ cho anh em. Đây không chỉ là một điều kiện mà còn là một thái độ chuẩn bị: Khi tha thứ cho anh em, chúng ta cũng ao ước được Chúa tha thứ rộng rãi cho mình. Người có tha thứ mới thật lòng muốn được tha thứ và mới đáng nhận được ơn tha thứ.
Lạy Chúa, con khẩn thiết xin ơn tha thứ, hãy cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em và chính con cũng được ơn thứ tha.
Ý lực sống: “Vì nhân ái nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha là của bậc quân tử. Quân tử không tưởng, không nhớ lỗi lầm của người khác, mà chú trọng giáo hóa người lầm lỗi biết hối cải và nên người - quân tử vị tiểu nhân tức là người lầm lỗi là “quân tử chưa thành và sẽ thành” (Khổng Tử).
Suy Niệm 8: Hãy tha thứ cho nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Gêsu dạy ta về sự tha thứ. Dụ ngôn về sự tha thứ nhắm tới đời sống cộng đoàn. Quả vậy, trong đời sống chúng ta, vì tính tình xung khắc, nên đã gây ra nhiều điều phiền toái, chia rẽ, đố kỵ, thù oán... Nhưng nhờ sự tha thứ, đời sống chung lấy lại được hòa khí, bình an và hiệp nhất. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta vài khía cạnh quan trọng:
-Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều. Ta không thể đền tội cho đủ nhưng Chúa vẫn tha vì Ngài “động lòng thương”.
- Nhưng chúng ta củng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Ngoài ra hãy khôn ngoan tha lỗi nhỏ cho anh em để Chúa sẽ tha thứ những lỗi lầm lớn của chúng ta đối với Chúa.
2. Tha thứ xem ra không phải là điều tự nhiên đối với con người. Phải trải qua một thời gian lâu dài, nhân loại mới nhận ra được ý nghĩa và sự cần thiết của tha thứ. Xã hội nguyên thủy không dung tha cho tội phạm của cá nhân.
Sách Khởi nguyên nói đến sự trừng phạt mạnh hơn 70 lần 7 lỗi phạm của con người. Sang đến sách Xuất hành, người ta thấy có một tiến bộ quan trọng khi luật Maisen đã ra luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ít ra ở đây hình phạt cũng tương xứng với lỗi phạm. Sách Lêvi đi xa hơn, tuy không bắt buộc phải tha thứ, nhưng sách này nói đến tình liên đới giữa anh em với nhau và cấm không được nại đến việc tố tụng để giải quyết những tranh chấp giữa anh em với nhau. Như vậy, ít ra sự tha thứ cũng đã manh nha trong quan hệ ruột thịt (Mỗi ngày một tin vui).
3. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại. Cốt lõi giáo huấn của Ngài là tình yêu, mà cao điểm là sự tha thứ. Chính Ngài đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Vậy tha thứ bao nhiêu lần là tối đa, hay tha thứ bao nhiêu lần là không thể tha thứ được nữa? Xưa kia ông Phêrô cũng đã băn khoăn như thế và ông cho rằng chỉ tha thứ đến 7 lần là tối đa, vì như thế là đã vượt quá sự khuyến cáo của các luật sĩ đến bốn lần rồi: “Quá tam ba bận”. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: Tha thứ thì không có giới hạn, không phải ba lần, bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Chúa không có ý bảo là 490 lần mà có nghĩa là phải tha thứ luôn luôn, phải tha thứ mãi mãi, bao lâu người ta còn xúc phạm đến mình thì còn phải tha thứ.
4. Chính Đức Giêsu đã làm gương sống động của lòng tha thứ khi trên Thập giá Ngài tha thứ cho nhưng kẻ giết hại mình. Vì vậy Đức Giêsu dạy môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập sự giao hòa giữ hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ còn giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
5. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết: Nợ nần của chúng ta đối với Chúa hết sức lớn lao, đó là tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa rất kinh khủng, và tự sức mình chúng ta không thể nào thanh toán nổi. Trong khi đó món nợ của anh em mắc với chúng ta chỉ là những lỗi lầm không đáng kể, thế mà chúng ta lại khắt khe với anh em: xin không tha, trả không nhận, rồi bực tức ngày đêm, để lòng hờn giận, tìm dịp báo thù, thật là quá tệ. Kết quả là chúng ta chẳng được Thiên Chúa tha thứ, vì chính chúng ta đã tự lên án mình, khi chúng ta không tha thứ cho người khác. Chúa cũng chẳng tha cho chúng ta.
6. Truyện: Gương Bà Coritanbun tha thứ.
Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa nhật nọ, sau khi kêu gọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ Bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng im lặng, tay không thể nào bắt tay người đến xin Bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, Bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thư cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa. (Món quà ngày Giáng Sinh).
Suy Niệm 9: Sự tha thứ của Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước trích lời cầu xin của Adaria. Khi đó dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon. Họ biết họ đang khổ sở là vì tội họ đã phạm trước kia. Adaria xin Chúa tha tội cho dân. Nhưng hiện nay trong hoàn cảnh bị lưu đày, dân chẳng có lễ vật dâng lên Chúa để đền tội như luật định, cho nên Adaria chỉ biết kêu xin đến tình thương của Chúa: “Lạy Chúa, vì lòng từ bi sung mãn của Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng tôi”.
2. Dụ ngôn trong bài trích Phúc Âm cũng nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng lưu ý vài khía cạnh quan trọng:
- Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều (như ông quan thiếu nợ ông vua một ngàn nén bạc). Ta không thể nào đền tội cho đủ (ông quan không có gì để trả chỉ biết nài xin. Và ông vua tha chỉ vì “động lòng thương”).
- Nhưng chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Dụ ngôn còn khuyên ta chớ ngu dại vì không chịu tha cho anh chị em một trăm đồng bạc để không được Chúa tha cho ta mười ngàn nén bạc và còn phải “trao cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ”.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nghĩ đến lý, cũng không tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói ”Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn mà bài trích Phúc Âm hôm nay nói đến, tha thứ cũng chỉ vì ”động lòng thương”.
2. Sau khi nói đến ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận ”Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
3. Một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
4. Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa. (Trích “Món quà giáng sinh”)
Suy Niệm 10: Chúa tha thứ, và chúng ta tha thứ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ miễn là chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài.
Vâng, muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nên nghĩ đến lý, cũng không được tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói: “Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn Tin Mừng tha thứ cũng chỉ vì “động lòng thương”.
Sau khi nói đến việc ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận: “Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
Như vậy, một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
Đây là chứng từ của một tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Tác giả của câu chuyện tên là bà Anne Furish, người Tiệp Khắc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã bị quân Đức Quốc Xã bắt giữ. Đây là chứng từ bà kể lại:
“Mỗi ngày, những người lính canh chỉ cho chúng tôi một mẩu bánh mì nhỏ có dính cả mạt cưa, cho nên nhiều người trong chúng tôi ăn vào đã mắc bệnh. Những khi nhận được bánh mì đã khô cứng không còn ăn được, thì chúng tôi vò lại để làm thành những hạt chuỗi. Ở đó, có một tên quản giáo đặc biệt hung ác. Nếu mỗi tuần hắn không giết được hai tù nhân thì hắn ta không ăn ngủ được. Tôi đã bị hắn đánh đập nhiều lần. Nhưng tôi vẫn hằng cầu xin Chúa cho tôi biết tha thứ cho hắn, bởi vì tôi biết rằng, nếu tôi không tha thứ, thì thù oán có thể đục khoét và trở thành độc dược phá hủy tâm hồn tôi. Tôi cầu xin Chúa cho tôi có thể nói với hắn thế này: “Tôi tha thứ cho anh và tôi thương yêu anh, bởi vì Đức Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thập Giá”. Lần cuối cùng, khi hắn đánh đập tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã dùng trận đòn ấy để nhận lời tôi.
Sau trận đòn, tên quản giáo đưa tôi về trại giam. Và lạ lùng thay, từ đó, hắn đến thăm tôi mỗi ngày. Hắn còn mang cả sữa tới và nhờ các tù binh khác dùng muỗng đút cho tôi uống nữa. Tôi bị hôn mê nhiều ngày và khi tỉnh dậy, tôi đã ngạc nhiên hết sức khi thấy tên quản giáo đang ngồi bên cạnh tôi. Lính tráng như họ vì sợ lây bệnh cho nên ít có khi nào họ đến trại giam. Hắn nói với tôi:
- Cô hãy nói cho tôi biết ai là bạn trai của cô?
Tôi hỏi lại hắn:
- Ông muốn nói gì?
Hắn giải thích:
- Người bạn trai tên là Giêsu của cô đó! Tôi muốn được nghe cô nói cho tôi biết về người đó!
Tôi hiểu rằng, Chúa đã cho tâm hồn sắt đá này trở nên dịu dàng. Tôi bắt đầu khóc vì sung sướng. Và từ lúc đó, tên quản giáo không bao giờ đánh đập tôi nữa. Mỗi ngày hắn đến thăm tôi và nghe tôi nói về Đức Giêsu, từ lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thập Giá.
Một ngày nọ, tên quản giáo lại hỏi tôi:
- Cô có nghĩ rằng, Chúa của cô cũng yêu thương cả tôi nữa không? Cô có nghĩ rằng, Chúa đã tha thứ cho những gì tôi đã làm không?
Tôi nói với hắn ta:
- Dĩ nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn để anh đến hỏi tôi về điều đó.
Năm 1946, vào một đêm kia, người quản giáo ấy đến đánh thức tôi dậy. Ông ra hiệu cho tôi thinh lặng và đưa tôi lên một chiếc xe tải đậu gần đấy. Sau này tôi mới được biết là đúng lý ra, một người đàn bà khác đã được chọn để di chuyển trong chuyến xe đó, nhưng rồi bà ta lại qua đời trong chính đêm ấy, nên người quản giáo đã tráo tên tôi vào tên của người quá cố. Tôi đã được cứu sống trên chuyến đi này. Và cũng kể từ đó, tôi đã không gặp lại người quản giáo ấy nữa. Qua sự tha thứ, tôi cảm thấy mình được tự do để yêu mến người khác. Thêm vào đó, tôi còn cảm thấy mình dễ dàng thông cảm với thân phận con người hơn! Phải, nhờ sự tha thứ mà tôi đã trưởng thành hơn nhiều!
Biết đâu trong chúng ta đã có lần cưu mang trong mình những kỷ niệm oán thù. Xin Chúa tha thứ và ban cho chúng ta được tham dự vào sự sống Thần Linh, sự sống tuôn trào niềm yêu thương và sự cảm thông tha thứ của Ngài.
- Chi tiết
- Viết bởi Lc 4, 24-30
- Lượt xem: 8
Đời sống đức tin thật.
Thứ Hai tuần 3 Mùa Chay.
“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Băng qua giữa họ mà đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe
về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu
khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương.
Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.
Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.
Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,
Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.
Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,
lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.
Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.
Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình,
Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.
Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ đã mở ra với dân ngoại.
Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.
Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.
Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Suy Niệm 2: Đức tin trong đời thường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin là ánh sáng giúp ta nhìn thấy những gì mắt thường không thấy hay khó thấy.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lớn lao. Mắt đức tin nhìn những gì bé nhỏ. Chúa Giêsu dạy ta hãy biết nhìn những gì bé nhỏ. Như cánh chim sẻ trên bầu trời. Như bông hoa huệ ngoài đồng. Bé nhỏ nhưng lại tuyệt vời nói lên sự quan phong của Chúa Cha.
Mắt thường chỉ nhìn những gì may mắn. Mắt đức tin mới biết nhìn những gì thiệt thòi. Bá góa Sa-rép-ta đã tin nên dám chấp nhận thiệt thòi. Vì tin tiên tri Ê-li-a nên bà đã dám làm bánh cho vị tiên tri ăn trước. Đây là việc làm nhỏ nhoi nhưng đức tin thật lớn. Dám đánh cuộc cả mạng sống mình.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lạ lùng. Mắt đức tin biết nhìn những gì quen thuộc bình thường trong đời sống. Người ta dễ thần tượng những người xa lạ. Người có đức tin thật sẽ biết thấy Chúa trong những gì quen thuộc bình thường trong đời sống hằng ngày. Dân làng Na-za-reth không tin Chúa Giê-su vì biết rõ gốc gác tầm thường của Người.
Tướng Na-a-man đã có đức tin. Dám tin người giúp việc cho mình. Đức tin hành động cụ thể. Nên ông không ngại đường xa, mang theo cả lễ vật lớn lao để ra mắt vị tiên tri. Và nhất là ông đã chấp nhận những việc tầm thường. Đó là tắm dưới sông 7 lần.
Mắt thường không thấy Chúa đâu. Mắt đức tin thấy Chúa trong mọi sự. Ga-ga-rin, khi lên mặt trăng, đã tuyên bố: “Tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả”. Trái lại Amstrong, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Chúa. Newton, nhà thiên văn học lừng lẫy, khi quan sát bầu trời đầy sao đã thốt lên: Tôi thấy Chúa đi qua viễn vọng kính của tôi.
Có lẽ chúng ta từng kỳ vọng được có đức tin lớn lao như dám chịu tử đạo, đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi… Nhưng hôm nay Lời Chúa mời gọi tôi hãy có đức tin trong đời thường để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và trong mọi người, trong những sự bé nhỏ, những con người tầm thường, trong những khó khăn thử thách ta gặp phải, những thất bại cay chua, những thiệt thòi đau xót. Đó mới là đức tin thật.
Suy Niệm 3: Đời sống đức tin thật.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.
Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ đó trong bài Tin mừng hôm nay. Người Do Thái trong Hội đường Nazaret đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy. Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin nhưng niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Đó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, trung thành”.
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái đã mất đi Chúa Giêsu –nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoà không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con người ta phải kính mến, nói đúng hơn Thiên Chúa là Đấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Đức Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng đón nhận để tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Suy Niệm 4: Không một tiên tri nào
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)
Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
J.M
Suy Niệm 5: Không chừng sẽ mất ơn cứu độ vì kiêu ngạo
Quê hương đã trở nên máu thịt cho mỗi người. Nó chẳng khác gì tâm tư của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì: “Quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Vì thế, trong dân gian, người ta không ngớt khen ngợi quê hương và tự hào: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”; hay để nói về tình nghĩa quê hương, người ta cũng thường nhắc nhở nhau: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Những tâm tình ấy cho chúng ta thấy một điều là: nơi mà mình đã từng chôn nhau cắt rốn sẽ theo ta suốt cuộc đời, và dù có đi muôn phương ngàn lối, nhưng ai cũng chỉ có một chốn để về, đó là quê hương.
Có lẽ mang trong mình tâm tình ấy, nên Đức Giêsu cũng đã trở về quê hương của Ngài, nhưng điều oái oăm thay, dân làng đã không đón nhận Ngài, ngược lại, họ tìm cách để hãm hại Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã nói một câu bất hủ mang tính tiên tri: “Không tiên tri nào được sùng mộ nơi quê hương”.
Thật thế, người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.
Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.
Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái "thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ" (thánh Augutstinô).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tôn trọng và yêu mến mọi người. Nhất là những người cùng sống và làm việc trên quê hương với chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đồng hương Nadarét không đón nhận Chúa Giêsu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gặp chống đối ngay tại quê hương, nơi những người thân không chấp nhận đường lối và cách thức Chúa thể hiện sứ mạng cứu độ. Chúng ta đừng bao giờ khước từ hoặc chống lại Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ người nào có đức tin mới hiểu được đường lối của Chúa. Và chỉ kẻ nào có lòng yêu mến mới đón nhận được tình thương của Chúa. Chúa ơi, chắc chắn Chúa rất đau lòng khi đứng trước thái độ của người đồng hương. Họ không đón nhận, không nghe những lời Chúa giảng dạy, không muốn sự có mặt của Chúa. Họ đã đuổi Chúa ra khỏi hội đường, ra khỏi thành, nhẫn tâm đưa Chúa lên triền núi để xô xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con thấy hình ảnh đó vẫn diễn ra hằng ngày trong bối cảnh thế giới hôm nay, trong tầng lớp Kitô hữu là những người thân thuộc của Chúa. Chúa đang bị từ chối nơi biết bao người nghèo hèn, nơi những kẻ bị bỏ rơi, nơi những quốc gia đang bị kỳ thị chủng tộc, phân biệt giàu nghèo, hận thù dai dẳng.
Chính con cũng bao lần từ chối Chúa khi con từ chối giúp đỡ anh em. Con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn khi con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, khi con không chịu hồi tâm, không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa. Con cũng đã không đón nhận Chúa khi con không chấp nhận Ý Chúa mà chỉ muốn Chúa đáp ứng lời con cầu nguyện theo ý con.
Lạy Chúa, xin tha thứ những lỗi lầm của con và xin cho con luôn mở rộng tâm hồn để đón tiếp Chúa. Xin ban cho con một trái tim yêu thương biết đón nhận Chúa nơi anh em, để trong từng giây từng phút của ngày sống, trong từng công việc dù nhỏ bé, mọn hèn, con đều có Chúa hiện diện bên con. Amen.
Ghi nhớ: “Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Suy Niệm 7: Vượt thẳng định kiến, để sống yêu thương
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc”. Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin”. Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.
Suy Niệm
Dân làng Nadarét đã nghe về những điều Chúa Giêsu đã giảng và làm cho toàn dân, nay trực tiếp nghe những lời giảng dạy của Ngài, dân làng Nadarét ngưỡng mộ nhưng lòng mang nặng định kiến trong ghen tị như thánh Giêrônimô nhận định: “Sự đố kỵ ghen tỵ là phổ biến giữa các cư dân cùng một quê hương. Họ nhớ lại thời thơ ấu của Người mà họ xử sự ngay cả khi họ không có kinh nghiệm cho chính họ khi bằng tuổi này”.
Dân làng Nadarét, theo cắt nghĩa của thánh Phêrô Kim Khẩu: “Ngưỡng mộ trí tuệ sự khôn ngoan, những việc làm và lời gỉảng dạy của Đức Giêsu, nhưng họ biết cha mẹ của Ngài, và sự gần gũi này ngăn cản họ nhìn nhận thiên tính của Ngài. Một đám mây dày trước mặt trời, đêm đen không mang lại nhiều đêm tối trên bầu trời bằng sự đố kị ghen ghét trong tâm hồn”.
Chúa Giêsu đã trả lời thái độ của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của vĩ nhân vì “quen quá hóa lờn” như thành ngữ có câu: “ Bụt nhà không thiêng”.
Chúa Giêsu qua hai sự kiện trong Cựu ước nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđôn dân ngoại (1V 17,10-15), vì bà đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi (2V 5,1-19), còn những người đồng quê với tiên tri lại cứng lòng tin.
Dân làng Nadarét dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” mà trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô xuống vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Giải phóng mọi định kiến trong ghen ghét để được tự do trong suy nghĩ và phán đoán, để thoát khỏi bị những hành động loại trừ nhau như một thứ nô lệ hiện hữu trong tim. Hình ảnh Chúa Giêsu băng qua giữa họ mà đi (x. Lc 4,30), là hình ảnh gợi trong tâm trí của chúng ta cố gắng vượt thẳng mọi định kiến, loại bỏ mọi sự loại trừ để đi trong yêu thương.
Ý lực sống: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu”... (1Cr 13,4-5).
Suy Niệm 8: Chúa bị quê hương từ chối
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nagarét ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
2. “Tôi bảo thật các ông...”
Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
- Gần chùa gọi bụt bằng anh.
- Bụt nhà không thiêng
- Quen quá hoa nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
3. “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay...”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
- Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà góa nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.
- Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
4. “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”.
Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
5. Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
6. Truyện: Sư huynh hỗn xược.
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
... Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh... thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh... để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mảnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
Suy Niệm 9: Chúa không thiên vị nhưng yêu thương tất cả mọi người
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
2. Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện ngôn sứ Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một ngôn sứ xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu độ.
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisê chữa bệnh cùi cho ông Naaman, một người ngoại đạo.
Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo - ở xứ Sarepta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng, Chúa không thiên vị ai. Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù là người ngoại nhưng nếu họ tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng lại không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
Chúng ta thấy ban đầu vì kiêu căng, tướng Naaman đã không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông đã không chịu đi tắm ở sông Giodan mà ông cho là quá nhỏ và thua kém xa những con sông trong nước của ông. Thế nhưng, sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê, làm theo lời chỉ dạy của Êlisê mà ông đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy những nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
Đối với những người đồng hương ở Nazareth, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa đã chọn Nazareth làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là ơn đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: vì họ không tin nên Ngài không làm phép lạ cho họ.
2. Có lẽ ngày nay nhiều người cũng vẫn còn nghĩ một cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại đạo” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra, Thiên Chúa là Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay, chẳng thiếu gì những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương. Còn những người có đạo tự hào mình là người có đạo, coi chừng lại bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi” (Lc 4,30) giống như ở làng Nazareth thuở xưa.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kết thúc không có hậu, không phải vì Chúa muốn như thế, nhưng là do thái độ của những người làng Nazareth chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ muốn được ban ơn, mà không biết mở rộng cõi lòng ra để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đang cần ơn cứu độ bên cạnh mình.
Trong một cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn, có diễn lại câu chuyện sau: một thanh niên đang lim dim đôi mắt để tận hưởng những ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do những tiếng ồn ào của đám trẻ. Tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại, mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường cách âm để ngăn chặn các âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn dần, cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động lúc đó anh mới bằng lòng. Thế nhưng, anh có ngờ đâu rằng, khi ngăn chặn được hết các âm thanh thì lúc đó bức tường cũng che mất hết ánh nắng tuyệt vời. Bức tường đã trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội trong ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Họ tưởng đã xây lên được bức tường để bảo vệ niềm tin của mình nhưng hóa ra lại tự hại chính mình.
Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống.
Nếu chỉ đóng khung trong một số nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ xa rời cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em như vậy.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng để đón nhận được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Lạy Chúa,
Xin cho con một quả tim quảng đại như Chúa
vượt lên mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con một quả tim đủ lớn
để yêu những người con không ưa.
và đôi tay rộng mở
để có thể ôm cả những kẻ thù. Amen.