Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
- Viết bởi Ga 3, 7-15
Ðược Sống Muôn Ðời.
29/04 – Thứ Ba tuần 2 Phục Sinh. – Thánh Catarina Siêna, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".
* Thánh nữ sinh năm 1347 tại Xiêna. Ngay từ thuở niên thiếu, chị đã khao khát sống cuộc đời hoàn thiện, khát khao chiêm ngưỡng Chúa Kitô chịu đóng đinh, và phục vụ Hội Thánh bấy giờ đang bị xâu xé. Vì thế, chị đã gia nhập Dòng Ba Đaminh.
Thấm nhuần tinh thần của thánh Đaminh, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hòa giữa các thành của nước Italia, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Đức Giáo Hoàng và canh tân đời sống đạo đức. Chị là tác giả của nhiều tác phẩm đạo lý và tu đức. Chị qua đời năm 1380. Ngày 18 tháng 06 năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Italia. Và ngày 04 tháng 10, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên phong cho chị là tiến sĩ Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 3, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai tin được sống muôn đời
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Con người hôm nay vừa bị hấp dẫn bởi cái chết,
vừa bị lôi kéo bởi cuộc sống đời này.
Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều tiện nghi thoải mái.
Nó mời chúng ta hưởng thụ, mua sắm, tiêu dùng.
Luôn luôn xuất hiện những mẫu mã mới hơn, tốt hơn, đẹp hơn.
Con người vất vả làm việc để có thể mua được món hàng do mình chế tạo.
Cuộc sống vừa dễ chịu hơn, vừa mệt mỏi hơn bởi vô số những nhu cầu.
Con người hôm nay có hạnh phúc hơn xưa không?
Những thức ăn trần thế có đủ làm con người mãn nguyện không?
Người Kitô hữu quý chuộng cuộc sống ở trần thế này,
nhưng họ hiểu tính chất mau qua và tương đối của nó.
Như Đức Giêsu, họ cũng phải đi qua cuộc sống đời này,
nếm đủ mọi mùi vị của phận người, chịu đựng mọi khó khăn thách đố,
trước khi về với điểm đến chung cục là cuộc sống đời sau.
Thiên đàng, Nước Thiên Chúa hay sự sống vĩnh cửu
là những từ diễn tả hạnh phúc đang chờ đợi người Kitô hữu sau cái chết.
Họ biết mình từ đâu đến và biết mình sẽ đi đâu.
Họ biết phân biệt những ga xép với đích đến cuối cùng.
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu khẳng định
chẳng ai được vào Nước Thiên Chúa nếu không được sinh ra bởi Thần Khí.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại khẳng định:
“Ai tin vào Con Người thì có sự sống vĩnh cửu” (c.15).
Vào Nước Thiên Chúa đồng nghĩa với có sự sống vĩnh cửu.
Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc để ai nhìn lên thì được khỏi,
Con Người cũng phải được giương cao để ai tin thì được sự sống vĩnh cửu.
Sự sống vĩnh cửu là hoa quả của mầu nhiệm được giương cao.
Đức Giêsu được giương cao khi bị treo trên thập giá,
được giương cao khi được Cha phục sinh,
và được giương cao khi được Cha đưa về trời.
Chính vì Đức Giêsu bị đóng đinh, được phục sinh và về trời
nên chúng ta được sinh lại từ trên nhờ Thần Khí,
được vào Nước Thiên Chúa và có sự sống vĩnh cửu.
Kitô hữu là người đang trên đường về quê hương đích thật.
Đấng từ trời xuống nay đã lên trời (c. 13),
và lôi kéo chúng ta lên với Ngài (Ga 12, 32).
Làm thế nào chúng ta thoát khỏi sức kéo xuống của vật chất?
Làm thế nào chúng ta sống nhẹ nhàng hơn để kéo thế giới quanh ta bay lên?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
Suy Niệm 2: Sống theo Thần Khí tự do
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Ki-tô Phục sinh không còn thuộc thế giới phàm trần. Không có gì ngăn chặn được Người. Ngôi mộ có phiến đá to không thể nhốt kín Người. Cửa nhà đóng chặt không ngăn chặn được Người. Vì Người đã trở về thượng giới.
Người ra đi mở đường cho ta. Người được treo lên cũng kéo ta lên với Người. Những ai tin vào Người sẽ được sinh lại trong Thần Khí vào một đời sống mới. Đời sống thượng giới. Đời sống tự do.
Ta có thể đoán trước đường đi nước bước của người phàm. Nhưng ta không biết được đường đi của Thần Khí. Đó là đường đi của gió. Không ai biết gió từ đâu, đi đâu. Cũng thế ta không đoán được đường đi của những người sống theo Thần Khí tự do.
Những tín hữu đầu tiên sống theo Thần Khí tự do. Nên có những suy nghĩ và hành động khác thói trần gian. Không bị vật chất ràng buộc nên họ bán hết nhà cửa đem tiền đặt dưới chân các tông đồ. Không bị ý riêng, tự ái cá nhân ràng buộc nên họ sống hài hòa với nhau, một lòng một ý. Không còn bị thói đời trói buộc. Họ đã bay lên thế giới thần linh. Họ đã thuộc về thượng giới. Trái tim họ hoàn toàn trong sạch. Sống theo Thần Khí, họ là những con người hoàn toàn tự do.
Thật nghịch lý. Khi bon chen chỉ biết vun quén cho mình sẽ rơi vào nghèo nàn, tàn lụi. Khi quên mình, quảng đại cho đi, lại trở nên phong phú và làm cho cộng đoàn phát triển. Vì họ không còn sống cho đời tạm chóng qua. Họ sống cho sự sống đời đời.
Chúng ta đang sống trong một thời đại tục hóa. Thói trần gian xâm nhập vào những nơi linh thiêng nhất. Xâm nhập cả vào não trạng, vào những ước muốn thâm sâu trong con người. Vì thế ta bị ràng buộc, mất tự do.
Ta hãy thoát khỏi những ràng buộc của não trạng trần tục. Được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Được trở nên như gió. Được Chúa Giê-su trên thánh giá kéo ta lên. Để chúng ta được tự do. Để chúng ta được thuộc về thượng giới. Để chúng ta làm chứng cho Nước Trời.
Suy Niệm 3: Ðược Sống Muôn Ðời
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Chúng ta chiêm ngắm hai vị thầy gặp nhau trong đêm thanh vắng để trao đổi điều quan trọng mà không bị phiền phức. Ông Nicôđêmô là vị thầy của người Do Thái, một nhà thông thái muốn biết nhiều hơn nữa về Chúa Giêsu và ông đã nhìn nhận như Người đến từ Thiên Chúa, và nhất là có Thiên Chúa ở cùng, vì những dấu lạ được thực hiện, những dấu lạ chưa có ai làm được như vậy.
Ông Nicôđêmô là vị thầy trên trần gian này, còn Chúa Giêsu là vị Thầy từ trên cao xuống, từ cung lòng Thiên Chúa Cha mà đến: "Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống". Hơn nữa, Chúa Giêsu còn xác nhận cho ông Nicôđêmô rằng: "Thật, tôi bảo thật ông. Chúng tôi nói những điều chúng tôi đã thấy", đó là uy tín của Chúa Giêsu Kitô, vị Thầy đến từ Thiên Chúa Cha. Lời quả quyết của Chúa với ông Nicôđêmô làm cho chúng ta nhớ lại lời quả quyết nơi đầu sách Phúc Âm theo thánh Gioan như sau: "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết" (Ga 1,18).
Ông Nicôđêmô đến với Chúa Giêsu với khả năng trí khôn của ông, muốn hiểu biết sự thật. Nhưng Chúa Giêsu lại mời gọi ông làm một điều khác. Ðừng ỷ lại vào khả năng trí khôn của mình nữa mà hãy nhờ đến sức mạnh từ trên cao của Chúa Thánh Thần. Ông phải sinh ra lại và sinh ra từ ơn trên và tin vào Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống. Như con rắn của Môisen, Con Người cũng sẽ phải được giương cao để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Ðược sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Chúa Giêsu không ngừng mời gọi nơi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa. Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục Sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa, xin hãy dạy cho con biết những việc trên trời. Xin hãy nói cho con biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người. Xin hãy tái sinh con trong Thánh Thần cho con được trở nên Thánh, để giống Chúa mỗi ngày một hơn.
Suy Niệm 4: Thánh Thần dẫn tới đâu?
Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói:
Các ông cần sinh ra lại bởi ơn trên.
Gió muốn thổi đâu thì thổi;
Ông nghe tiếng gió,
Nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.
Ai bởi Thần Khí mà sinh ra cũng vậy.” (Ga. 3, 7-8)
Trong cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, sau khi mở cho ông thấy niềm hy vọng được sinh vào đời sống mới, Đức Giêsu đã tự tỏ mình ra, tỏ cuộc sống đã từng trải của Người ra cho ông và nói với ông rằng: “Ai bởi Thánh Thần mà sinh ra thì cũng vậy”.
Chính Người đã sinh ra bởi Thánh Thần, nghĩa là Người sống hoàn toàn dưới ảnh hưởng của hoạt động của Thiên Chúa, của động lực Thiên Chúa. Đức Giêsu nói điều mình biết. Điều Người biết về Thiên Chúa thì Người nói ra, nên chứng của Người là chân thật.
Đức Giêsu cũng nói những dự tính về sứ mệnh tương lai của Người. Nên ai sinh ra bởi Thánh Thần không phải chỉ được sống mà còn lãnh một sứ mệnh như Đức Giêsu. Ai sinh bởi Thánh Thần còn được kêu gọi lên cao.
Điều Đức Giêsu dự tính, chính là sứ mệnh cứu chuộc bằng dấu Thánh giá: “Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người đã từ trời xuống”, hay như thánh Phao-lô nói: “Người đồng phận với Thiên Chúa mà đã không nắm lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Người đã hủy mình đi, hạ mình xuống làm thân phận loài người”.
Tiếp nối cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, Đức Giêsu nói để được tái sinh, nghĩa là sống dưới ảnh hưởng của Thánh Thần tái tạo, thì phải theo đường lối Thánh Thần đề ra. Bất cứ ai sinh bởi Thánh Thần đều phải bắt tay hành động theo đường lối lên cao, con đường treo lên thập giá, hay nói cách khác, con đường hiến mạng sống mình cho người khác.
Cử hành Thánh lễ là chúng ta sẽ sống cuốn hút vào của lễ Đức Kitô hiến dâng mình cho muôn người, trong khiêm tốn vâng lời Đức Chúa Cha và ngoan ngoãn theo Chúa Thánh Thần. Nhận biết ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần đối với Đức Kitô có thể là lý do chính chúng ta dâng lễ tạ ơn và tiếp rước cũng một Thánh Thần đến trên của lễ chúng ta xin ơn hôm nay.
C.G
Suy Niệm 5: Điều kiện căn bản: "niềm tin"
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Một tờ báo Công giáo địa phương ở Chicago có đăng trong chương trình "sống đạo" mẩu chuyện như sau: có đôi vợ chồng chung sống với nhau được ba mặt con. Người chồng cũng là người Công giáo, nhưng chủ trương cuộc đời chỉ có ba lần đến nhà thờ: "Rửa tội, lễ cưới và sau khi chết". Ngược lại, người vợ là một tín đồ ngoan đạo, đêm ngày bà cầu nguyện cho chồng. Lời cầu nguyện của bà hầu như vô vọng khi người chồng đổi công việc làm ăn ở tiểu bang Texas, miền Nam Hoa Kỳ.
Suốt ba tháng trời, bà và các con chẳng được tin tức gì của chồng, nếu có chăng nữa thì cũng chỉ là những tin buồn do người quen kể lại. Họ nói rằng chồng của bà kể như hư đốn hoàn toàn. Ông ta đã sa vào cảnh cờ bạc, rượu chè, chẳng còn nhớ đến ai. Mấy tin tức như thế đã làm cho bà thêm lo lắng xao xuyến. Tuy nhiên, không vì thế mà bà quên cầu nguyện.
Bỗng một đêm kia, khi gia đình đã hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, bà nhận được một cú điện thoại từ xa gọi về. Bên kia đầu dây là giọng nói thổn thức của người chồng từ Texas gọi về cho bà. Ông ta đã nói với bà như sau: "Em yêu dấu! Ðây là lần đầu tiên trong cuộc đời anh đã thành tâm quì gối cầu nguyện. Anh đã quì gối không phải trong nhà thờ hoặc một nơi thánh nào đó. Nhưng anh đã quì gối ngay tại chốn ăn chơi. Các bạn anh cười nhạo tưởng anh đã hóa khùng. Có thể đúng. Anh đang khùng, khùng vì Ðức Kitô, vì anh đã trở về với Ngài".
Anh chị em thân mến!
Trong lúc tưởng chừng như sự việc không còn cách gì để cứu vãn, thì lòng tin bền bỉ của người đàn bà được Thiên Chúa đáp lời. Một lời đáp thật bất ngờ dưới con mắt người đời: "Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió nhưng chẳng biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi đâu". Những câu hỏi: nơi nào, khi nào, và thế nào đã được con người đặt ra cho Thiên Chúa chắc chắn là những câu hỏi chẳng bao giờ con người được thỏa mãn vì những sự việc dưới đất họ chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu được những việc trên trời.
Tuy nhiên, dù cho đang lần mò trong tăm tối của hiểu biết như thế, con người vẫn không bị thất vọng, lạc lối, vì luôn luôn Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ một lối đi dẫn tới vĩnh cửu. Ðường lối ấy do chính Con Một Thiên Chúa từ trời cao xuống vạch ra cho tất cả loài người. Hết thảy mọi người đều được kêu mời đến.
Như ngày xưa, Môisen đã treo con rắn đồng trên sa mạc để cho dân được chữa lành thì hôm nay Con Một Thiên Chúa cũng được treo trên cao để mọi người được cứu thoát. Ngài được treo trên cao cho hết mọi người nhìn thấy, Ngài mở lối cho tất cả bước vào nhưng rồi không phải hết thảy đều đạt mục đích.
Một nhân vật thông thái của hội đường Do Thái là Nicôđêmô đang đứng trước ngưỡng cửa dẫn vào lối sống, thế mà ông vẫn chưa tìm được lối vào chỉ vì ông thiếu một điều kiện căn bản: "niềm tin".
Thiếu "niềm tin" mọi hiểu biết đều dẫn đến sai lạc vì mọi vận hành trong vũ trụ này không riêng lẻ độc lập nhưng liên hệ với Ðấng đã tạo thành nó. Niềm tin là chiếc cầu cho phép con người bước từ cõi đất lên cõi trời. Niềm tin là ngọn đèn soi tỏ ý nghĩa của mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến. Mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến không đơn thuần chỉ là những gì con người có thể cảm biết, còn có những ý nghĩa tàng ẩn đàng sau mà chỉ niềm tin mới vén mở cho con người trọn vẹn ý nghĩa của chúng.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra được những thiếu sót trong vốn hiểu biết mà bấy lâu nay như Nicôđêmô, con vẫn hằng tự mãn bằng lòng. Xin cho con biết rằng chỉ có niềm tin mới ban cho con một sự hiểu biết trọn vẹn ý nghĩa của con. Một cuộc sống không hạn hẹp trong cõi đất nhưng được bắt nguồn từ cõi trời. Amen.
Suy Niệm 6: Tin để hiểu
Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua, vì thế, vẫn trong bối cảnh giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô xoay quanh câu chuyện tái sinh và sự sống đời đời.
Thật vậy, vấn đề sự sống đời đời là một chủ đề lớn và vấn nạn ấy khiến cho con người ở mọi thời không ngừng suy tư!
Thấy được Nicôđêmô là một người chân chính, lòng dạ ngay thẳng, không có gì gian dối, nên khi ông chân thành đến với Đức Giêsu và tin tưởng Ngài là vị thầy tâm linh sẽ giúp ông đạt được điều mà ông hằng thao thức! Đức Giêsu đã không ngần ngại để mặc khải cho ông biết phải làm gì và phải làm như thế nào để đạt được sự sống ấy. Ngài nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời”. Nói như thế, Đức Giêsu đã mặc khải thiên tính của Ngài cách cụ thể, để như một con đường và mời gọi Nicôđêmô đi trên con đường ấy thì được cứu độ.
Tiếp theo, Đức Giêsu muốn củng đức tin thêm cho ông, nên Ngài khẳng định: “Thật, tôi bảo thật ông: ‘Chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy”.
Con đường cụ thể mà Đức Giêsu đề ra cho Nicôđêmô là con đường sinh lại từ ơn trên, nghĩa là cần được tái sinh, đổi mới nhờ Thần Khí. Ai đi trên con đường ấy là đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mà đường lối của Chúa Thánh Thần chính là đường lối từ trên cao, con đường Gongotha, con đường thập giá, con đường cứu độ bằng cái chết...
Qua cách thức của Đức Giêsu, Ngài đã dẫn Nicôđêmô từ chuyện cố hiểu để tin, sang tình trang tin để hiểu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để Lời Chúa được thấm vào trong tâm hồn của mình. Bởi vì nếu không khiêm tốn, thì hồng ân đức tin không thể đến với những người kiêu ngạo.
Sự sống đời đời được trao ban là do phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không phải do kiến thức mà ta có được. Vì thế, cần phải sám hối để đón nhận mạc khải của Chúa và trung thành đi theo đường lối ấy thì mới mong được cứu độ.
Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người, đó là: hiểu biết điều nào phải tin; hiểu biết điều nào phải ước ao; và hiểu biết điều nào phải thực hiện. (Thánh Thomas Aquinas)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho mỗi người chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và sẵn sàng đi trên đường lối cứu chuộc mà Chúa mạc khải cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi hằng ngày để được trở nên con người thánh thiện nhờ được ơn Chúa thanh tẩy. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời xuống để mặc khải những sự trên trời cho ta. Người còn chịu treo trên Thánh giá để ta được sống đời đời. Ta hãy khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì nhờ bí tích Rửa Tội, Chúa đã cho con được sống lại với Chúa. Chúa đã đưa con vào thế giới mới, Chúa đã nâng con lên cuộc sống trên cao, cuộc sống của Chúa.
Không phải ai cũng thấy được cuộc sống trên cao, không phải ai cũng tin được những chuyện trên trời. Con thường chỉ tin những chuyện dưới đất và ham thích cuộc sống trần gian. Những chuyện dưới đất thì dễ hiểu hơn, dễ thấy hơn. Cuộc sống trần gian dù có lắm khổ đau, nhưng đối với con, vẫn lôi cuốn hơn, hấp dẫn hơn. Dù là những người trí thức và đạo đức như ông Ni-cô-đê-mô cũng chẳng thể hiểu hết những điều dưới đất, và càng không thể hiểu được những chuyện trên trời.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết khiêm tốn và mở lòng mình ra để đón nhận những sự trên trời. Xin cho con được hết lòng tín nhiệm vào Chúa. Càng tự phụ mình trí thức và đạo đức, con lại càng khó đón nhận Chúa. Xin cho con được sinh lại bởi Chúa Thánh Thần, cho con mãi mãi là một trẻ thơ để dễ vào Nước Chúa hơn.
Con khao khát xin Chúa cho con được mỗi ngày mỗi hiểu biết Chúa hơn, yêu mến những sự trên trời nhiều hơn. Con không thể xao lãng bổn phận dưới đất, nhưng nhờ hiểu biết và yêu mến những sự trên trời, con sẽ hiểu những sự dưới đất đúng đắn hơn và chu toàn bổn phận dưới đất tốt đẹp hơn. Xin Chúa dẫn con đến với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời”.
Suy Niệm 8: Chúa Kitô được giương cao
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa Kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào cuối phi đạo. Đây là một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.
Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống đường bay, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉnh tháp chuông một bóng đèn neon lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống đường bay vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tàu cập bến an toàn.
Suy niệm
Chúa Kitô được giương cao, đã được loan báo trước bằng hình ảnh của rắn đồng trong sa mạc, để ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên đó thì được cứu khỏi chết (x. Ds 21,9tt). Nicôđêmô đàm đạo, biết và tin vào Chúa Kitô, Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ… Ai không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,17-18).
Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha khi nhìn lên Chúa Kitô, Đấng được giương cao và tin vào.
Người tin được thông phần sự sống của Thiên Chúa, và bước vào một cuộc sống mới. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ. Giữa đêm tăm tối của cuộc đời, người tin nhận ra ánh sáng tình thương của Thiên Chúa và bước tới, nhưng nếu khép kín lòng sẽ mãi là con cái bóng tối như Chúa Giêsu đã nói: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19).
Chiêm ngắm Đấng được giương cao, tác động chúng ta tin vào hành trình của Đức Kitô ở trần gian: Sứ mạng của Đức Giêsu đến thế gian là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), làm cho tội nhân tin vào Ngài và nên thánh thiện (x. Rm 6,22), hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16,16; x. Cv 16,3) khi chiêm ngắm Đấng được giương cao: Giương cao để chết cho nhân loại, nhưng giương cao bên hữu Chúa Cha trong mầu nhiệm phục sinh.
Tin vào con Thiên Chúa - Đấng giương cao chết treo trên thập tự, Đấng đã được giương cao bên hữu Chúa Cha qua phục sinh, như là nội dung của giao ước mới: sự sống đời đời của Thiên Chúa được trao ban như Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong buổi gặp gỡ mạc khải về niềm tin vào Con Người, Đấng được giương cao: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Chính trong niềm tin vào Đấng được giương cao, sau này thánh Phaolô tuyên tín: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”.
Ý lực sống:
Đấng được giương cao - treo thập tự,
Trần gian cứu độ, được nhờ Người,
Ai tin sức sống muôn đời có,
Giương cao cùng với Đấng Phục Sinh.
Suy Niệm 9: Tiếp tục nói về việc tái sinh
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục kể lại cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông đã để ý nghe Chúa giảng và được thấy phép lạ Chúa làm, ông bắt đầu tin Chúa, ông có nhiều thắc mắc, và hôm nay ông tới gặp Chúa để xin Chúa giải đáp. Chúa cho ông biết: muốn được tái sinh để được vào Nước Trời thì:
- Phải nhờ tác động của Thánh Linh: “Gió muốn thổi đâu thì thổi... mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”.
- Nhờ tin vào Đức Giêsu: “Không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời”.
2. Đức Giêsu cho ông biết: “Nếu ông muốn vào Nước Trời, ông phải tái sinh, phải sinh lại trong nước và Thánh Thần”. Dĩ nhiên Chúa không bảo ông phải chui vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa, Chúa có ý bảo ông phải lãnh nhận phép Rửa tội. Phép rửa tội là bí tích tái sinh làm cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, tức là qua dòng nước đổ trên đầu, đó là dấu hiệu của Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong. Nói rõ hơn, nhờ bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần đến với linh hồn chúng ta, Ngài cải hóa và đổi mới con người chúng ta.
3. Theo Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta có thể cắt nghĩa chữ “tái sinh” như sau: Tái sinh có nghĩa là người gia nhập Giáo hội Chúa qua bí tích rửa tội mà vẫn giữ nguyên bản ngã của mình. Bản chất con người đó không hề bị tiêu tan nhưng được chữa lành và bồi bổ trong ân lộc của Ba Ngôi Thiên Chúa, và cuối đời họ được sống viên mãn với chính Thiên Chúa Ba Ngôi.
Cho nên chữ tái sinh “bởi trên cao”có nghĩa là sinh lại bởi Thiên Chúa, trở nên con cái Thiên Chúa, chấp nhận nguyên tắc sống siêu nhiên, một bản tính mới như nâng hẳn chúng ta lên, vượt khỏi điều kiện tầm thường nhân loại: Từ thân phận tội lỗi đáng trầm luân mà được nâng lên làm con Thiên Chúa cùng được thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.
4. Được sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Đức Giêsu không những mời gọi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa.
Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Đức Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục Sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Đức Giêsu để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
5. “Như ông Maisen đã giương cao con rắn trong sa mạc...”
Để tin nhận Đức Giêsu, con người không chỉ phải thấy những việc làm cả thể của Ngài, mà còn phải nhìn Ngài trên Thập giá nữa. Đây là cái nhìn mà Đức Giêsu ám chỉ đến khi nhắc lại sự kiện Maisen treo một con rắn đồng trong sa mạc, để những ai bị rắn cắn nhìn lên sẽ được chữa lành. Với hình ảnh con rắn đồng chịu treo lên cao để được nhìn ngắm, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Ngài trên Thập giá. Như vậy, biết Ngài và tin nhận Ngài là có thể nhận ra vinh quang của Ngài khi Ngài bị treo trên Thập giá, đó là chân dung đích thực của Ngài mà con người cần phải nhận ra và chiêm ngắm (Mỗi ngày một tin vui).
6. Tái sinh chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể có việc tái sinh. Hay nói khác đi, tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình.
7. Truyện: Câu chuyện hai hạt giống.
Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất mầu mỡ. Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên, tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất... Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cành hoa của tôi”.
Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.
Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ phải gặp những điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu cố gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập... Nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở”.
Và hạt giống đó tiếp tục chờ.
Một chú gà mái đang vô tử bới đất tìm mồi, thấy hạt giống ở gần đấy, nó liền mổ ăn một cách ngon lành, và thế là hết đời một hạt giống nhát đảm.
David L. Weatherford đã nói một câu hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tim cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát”. Vì người nào càng trốn tránh thử thách, thì chính thử thách lớn nhất của con người là sự nhát đảm sẽ đè bẹp họ.
Suy Niệm 10: Sinh lại như thế nào
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiếp tục đối thoại với Nicôđêmô về việc tái sinh. Đại ý bài Tin Mừng hôm nay: Sinh lại như thế nào.
Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?”
Chúa Giêsu lại trả lời nhờ tác động của Thánh Linh (“Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”) và nhờ tin vào Chúa Giêsu (“không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là con người vốn ở trên trời”).
B...Nẩy mầm.
1. “Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình” (Mỗi ngày một tin vui).
2. Mục sư Rober Fangum, trong một cuốn sách được sếp vào loại best seller (bán chạy nhất), đã viết: “những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ”. Ông kể ra những bài học vỡ lòng quý giá khi còn ở nhà trẻ như sau:
Hãy chia sẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đứng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
Lấy đâu thì trả đó, dọp dẹp những gì mình bày ra, nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.
Biết ngạc nhiên trước màu nhiệm của cuộc sống.
Chính Chúa Giêsu cũng dạy: “Nếu các con không nên giống như trẻ nhỏ, chúng con không được vào Nước trời”. (trích “Chờ đợi Chúa”).
3. Thực ra biết bao nhiêu lần tôi muốn sinh lại thành con người mới, nhưng lực bất tòng tâm. Đó bởi vì việc sinh lại không chỉ bởi do sức riêng của tôi mà còn phải nhờ ơn Chúa.
4. Một bài thơ:
“Cảm thấy mình hoàn toàn mới
Được làm mới lại
Như mùa Xuân
Nghị lực tôi bừng tỉnh dậy
Nhuệ khí mới hứa hẹn
Tôi đã ra khỏi mùa Đông
Trở thành trẻ lại
Trở thành nhỏ lại
Để có thể lớn lên(…)
Trở thành không không
Để có thể tái sinh thành người khác.
Nhưng muốn thế, trước tiên phải chết cho con người cũ
với những suy nghĩ cũ và những lề thói cũ
điều này thực khó khi mình đã già
Nhưng rất đáng làm
Phải cởi mở lòng mình như cho thứ men mới:
Đó là Thánh Linh Thiên Chúa, nguồn sống Thần linh…” (Góp nhặt).
5. “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, con người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào người thì được sống đời đời”.
Chuyện kể về hai cậu bé người An độ, một theo đạo Hin-đu và một theo đạo Công giáo. Cậu bé theo đạo Hin-đu thì luôn tìm các chê bai Thiên Chúa của cậu bé Công giáo. Một ngày kia, cậu ta lại dở giọng ra và nói: “Thiên Chúa của tôi thì quyền thế, mạnh mẽ, giàu có, chứ đâu nào như Thiên Chúa của bạn?”
Cậu bé Công giáo lắng nghe và ôn tồn đáp lại: “Nhưng Thiên Chúa của bạn thì không chết cho bạn còn Thiên Chúa của tôi thì chết cho tôi!”.
Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại, để từ đây con không còn chết vì lối sống ích kỉ, kiêu căng thường gây ra chiến tranh. Nhưng được sống dồi dào nhờ biết cho đi, cảm thông và tha thứ. Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa đã chết và sống lại vì con. (Epphata).
6. Mầm khác.
A. Ngày xửa ngày xưa có một con búp bê bằng muối. Một hôm, búp bê muốn học hỏi, khám phá thêm về thế giớ bên ngoài, cô ta quyết định làm một chuyến du lịch. Cô đi khắp nơi và học hỏi được nhiều điều hữu ích. Ngày kia, búp bê muối lần mò đến một bờ biển, đứng trước đại dương nhưng không biết đại dương là gì. Tò mò cô ta liền lên tiếng hỏi:
- Ngài là ai vậy?
Đại dương trả lời:
- Tôi không thể nói cho cô biết tôi là ai.Nhưng nếu muốn biết thì cô hãy bước vào trong tôi, lập tức cô sẽ biết.
Tuy hơi sợ nhưng vì tò mò nên búp bê muối từ từ bước vào lòng biển. Càng vào sâu, thân thể búp bê càng từ từ tan biến. Cho đến khi chỉ còn là một hạt muối bé tí, cô mới bắt đầu la lên:
- A! bây giờ tôi mới thực sự biết tôi là ai.
B. Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.
Hạt giống thứ nhất tâm sự:”Tôi muốn lớn lên. tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏcứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cía nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên mặt tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”
Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.
Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nề rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăn kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sén sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể dẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.
Và hạt giống đó tiếp tục chờ.
Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành.
(Jack Canfield and Mark Victor Hansen, Chicken Soup for the Soul)
Suy Niệm 11: Nhờ tác động của Thánh Linh
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Hôm qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi phải tái sinh. Hôm nay, Chúa giải thích tái sinh hay sinh lại là sinh như thế nào.
Khi Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?” (Ga 3,9).
Chúa Giêsu trả lời là nhờ tác động của Thánh Linh “Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy” và nhờ tin vào Chúa Giêsu “không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời” (Ga 3,13).
“Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình”. (Mỗi ngày một tin vui)
Tái sinh chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể có việc tái sinh.
Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.
Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên. Tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu hiện báo hiệu một mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”.
Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.
Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng, mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nào đó nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.
Và hạt giống đó tiếp tục chờ.
Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành và nuốt ngay vào bụng. Thế là hết đời một hạt giống.
David L. Weatherford đã nói rất hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tìm cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát”. (Jack Canfield and Mark Victor Hansen, chicken)
2. Phải nói là con đường làm cho mình trở nên một con người mới là một con đường rất khó đi, nhưng chỉ khó với những ai thiếu niềm tin và thiếu ý chí, còn đối với những người có đức tin mạnh và một chí khí can cường, thì nhất định sẽ thành công.
Một hôm bà chị của thánh Thoma Aquinô hỏi một người:
- Phải làm gì để hưởng hạnh phúc đời đời?
Người ấy trả lời:
- Phải muốn được như thế.
Vâng! Đúng như vậy, trước hết là chính mình phải muốn, muốn một cách mạnh mẽ.
Khi thánh Phanxicô đệ Salê nghe tin thánh Phanxicô Xaviê được phong thánh. Ngài nói:
- Đó là Phanxicô thứ ba được phong thánh. Tôi sẽ phải là thánh Phanxicô thứ bốn.
Và người đã giữ lời hứa và ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ 4 của Hội Thánh.
Phải muốn và đồng thời cũng phải dám hy sinh. Chính Chúa Giêsu cũng đã cho biết con đường theo Ngài là con đường hẹp!
Ông François Piza người hùng đã chiến thắng đất Pérou trong một cuộc thám hiểm. Trong khi đi thám hiểm, có lúc phái đoàn của ông đã bị đặt vào một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Vì không chịu được những gian nan trước mắt, đám thủy thủ đã nổi dậy đòi ông phải quay trở về, nhưng Piza trả lời:
- Phía bắc con đường chúng ta đang đi là một cuộc sống dễ dàng và không nguy hiểm. Đi theo hướng đó chúng ta sẽ thất bại và khổ sở. Trái lại, nếu hướng về phía nam, chúng ta sẽ phải cắn răng chịu đựng những khó khăn, đương đầu với những thách đố, cam chịu những thiếu thốn, nhưng thành công, hạnh phúc, giàu sang, vinh hiển sẽ tiếp đón chúng ta. Vậy, các anh hãy tự chọn con đường đi.
Gần hết đám thủy thủ đã chọn con đường phía bắc quay trở về. Chỉ có 12 người biết theo con đường Piza đã vạch. Và 13 người can đảm ấy, sau những ngày gian nan khốn khó, cay đắng trăm bề, tất nhiên là phải chịu nhiều thiếu thốn, nhưng họ vẫn không chịu lùi bước trước khó khăn, và cuối cùng họ đã thành công.
Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã phải tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!”
Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy, thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào.
Suy Niệm 12: Chúa đến trần gian vì chúng ta
(Lm. Micae Võ Thành Nhân)
Chúa nói với ông Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời” (Ga 3, 13). Điều ấy có nghĩa là sau khi ông Nicôđêmô tin Chúa là Thiên Chúa rồi thì Chúa cho ông biết, chỉ có mỗi một mình Chúa là người biết chắc chắn nhất con đường để dẫn con người chúng ta về với Chúa Cha. Con đường đó là Chúa chấp nhận chết trên thập giá để kéo con người chúng ta lên với Chúa Cha: “Cũng như ông Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 15).
Như vậy, để được Chúa cứu, con người chúng ta phải được tái sinh trong bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta biết được ơn tái sinh qua bí tích Thánh Tẩy là nhờ Chúa. Chúa thiết lập bí tích này bởi cái chết và sự phục sinh của Chúa. Và cũng như gió, một vật thể trong không gian vũ trụ do Chúa dựng nên, chúng ta chẳng biết nó từ đâu đến và đi đâu, muốn thổi đâu thì thổi, nhưng chúng ta nghe được tiếng gió, biết được tác động của nó đang xảy ra chung quanh chúng ta (Ga 3, 8). Còn bí tích Thanh Tẩy, chúng ta biết được nguồn gốc và chúng ta biết được kết quả là chúng ta được nhận làm con Chúa khi chúng ta lãnh nhận. Chính Chúa Thánh Thần làm nên hiệu quả này cho chúng ta: “Mọi kẻ sinh ra bởi Thần Linh cũng vậy” (Ga 3, 8b). Như vậy, ơn tái sinh là do Chúa ban, còn hiệu quả của ơn ấy là do Chúa Thánh Linh.
Thật sự, Chúa đang nói ơn tái sinh bởi trời cho ông Nicôđêmô và cho con người chúng ta nghe. Ơn này có liên quan đến đời sống đức tin của chúng ta, phần rỗi của chúng ta qua hình ảnh Chúa minh chứng trong cuộc sống, đó là “Gió” mà ai trong chúng ta cũng hiểu cũng biết. Khi trời có gió thì chúng ta mát mẻ, thoải mái, sảng khoái. Nhưng khi trời không có gió, chúng nóng nực, bực bội, khó chịu. Nếu chúng ta không nhận lãnh ơn tái sinh, chúng ta không được vào nước trời. Còn khi chúng ta nhận lãnh, chúng ta được vào nước trời. Chúa cho hiểu thì chúng ta mới hiểu, mới lãnh nhận và mới sống được: “Nicôđêmô hỏi lại rằng: Việc ấy xảy ra thế nào được? Chúa Giêsu đáp: Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Ðiều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được?” (Ga 3, 9 – 12). Do đó, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn thì chúng ta mới hiểu và sống được ơn tái sinh cao trọng này.
Lạy Chúa phục sinh của chúng con, chúng con biết ơn Chúa vì Chúa đã cứu chúng con khỏi hư mất đời đời. Giờ đây, trong con người chúng con có mầm móng ơn phục sinh của Chúa, xin Chúa cho chúng con biết lấy cả cuộc đời này để chúng con sống ơn ấy khi chúng con gia tăng làm các việc lành phúc đức từ thiện bác ái yêu thương cứu giúp mọi người, đồng thời chúng con cũng biết sống khổ chế, hy sinh, hãm mình, chừa tội, luyện tập các nhân đức để làm gương sáng cho mọi người noi theo mà tin vào sự phục sinh của Chúa để họ được Chúa cứu chữa và ban cho sự sống đời đời sau này. Amen.
Suy Niệm 13: Đấng từ trời xuống
(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Catarina Xiêna hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Catarina Xiêna, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Xin Chúa nhậm lời thánh nữ chuyển cầu, mà cho dân Chúa biết thông phần khổ nạn với Đức Kitô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa. Catarina sinh năm 1347 tại Xiêna. Chị đã gia nhập Dòng Ba Đaminh. Thấm nhuần tinh thần của thánh tổ phụ, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hòa giữa các thành của nước Ý, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Giáo Hội, và góp phần canh tân đời sống đạo đức. Chị đã viết nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Chị qua đời năm 1380. Đến năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Ý, rồi năm 1970, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.
Thông phần khổ nạn với Đức Kitô, trung thành sống theo những gì Chúa dạy, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Thư gửi các Hội Thánh Êphêxô và Ximiếcna, mỗi cộng đoàn phải chất vấn về lòng trung thành của chính mình. Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống. Ai thắng thì không hề bị cái chết thứ hai làm hại. Dù phải chết, ngươi hãy phấn đấu cho sự thật, và ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa sẽ bênh vực ngươi.
Thông phần khổ nạn với Đức Kitô, làm chứng cho sự dịu ngọt của Thiên Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trong sách Đối thoại, thánh Catarina Xiêna nói: Con đã nếm thử và đã nhìn thấy… Hãy mở cửa tâm hồn cho Ta, hỡi cô em được cùng Ta thừa hưởng Nước Trời, hỡi người bạn đã được Ta mặc khải mọi kho tàng chân lý. Người đã nên phong phú nhờ Thần Khí Ta ban, được sạch mọi vết nhơ nhờ máu Ta tẩy rửa. Hãy tạm ngưng suy niệm, để dấn thân làm chứng cho chân lý của Ta.
Thông phần khổ nạn với Đức Kitô, hiệp nhất cùng nhau đi đến cùng con đường thập giá, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Các tín hữu chỉ có một lòng một ý. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 92, vịnh gia cho thấy: Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Con Người sẽ phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Đấng từ trời xuống phải được giương cao, để con người từ đất thấp được sống muôn đời. Trời với đất se chữ đồng, đây là một mầu nhiệm tình yêu cao cả. Mầu nhiệm này ví tựa đại dương sâu thẳm: càng tìm, ta càng thấy; càng thấy, ta càng tìm. Thiên Chúa làm cho linh hồn ta được no thỏa, mà lại, dường như, không no thoả, bởi vì, Chúa làm cho linh hồn ta được no thỏa, mà vẫn còn luôn đói khát Chúa. Chúa là lửa luôn rực cháy, mà không thiêu rụi. Chúa dùng sức nóng của Chúa, mà thiêu hủy mọi tình yêu vị kỷ của linh hồn ta. Chúa dùng ánh sáng của Chúa mà soi sáng trí lòng ta, làm cho ta nhận biết chân lý của Người. Chúa là sự thiện tuyệt đối, là vẻ đẹp vượt trên mọi vẻ đẹp, là sự khôn ngoan vượt trên mọi khôn ngoan. Chúa lấy sự dịu ngọt của Chúa mà nuôi dưỡng ta, là những kẻ đang đói lả. Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Catarina Xiêna, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Ước gì chúng ta biết thông phần khổ nạn với Đức Kitô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa. Ước gì được như thế!
- Viết bởi Ga 3,3
“Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa,
nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”. (Ga 3,3)
BÀI ĐỌC I: Cv 4, 23-31
“Khi họ cầu nguyện xong, thì được đầy Thánh Thần và tin tưởng rao giảng lời Chúa”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, sau khi được phóng thích, Phêrô và Gioan trở về cùng các anh em, và thuật lại cho họ nghe tất cả những điều mà các thượng tế và kỳ lão đã nói. Vừa nghe thuật lại, họ đồng thanh cất tiếng nguyện cùng Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, Chúa là Đấng tạo thành trời đất, biển cả và mọi vật trong đó. Nhờ Thánh Thần, Chúa đã dùng miệng tổ phụ chúng con là Đavít tôi tớ Chúa mà phán: 'Tại sao chư dân chấn động, và các nước lại mưu đồ chuyện luống công ? Các vua thiên hạ đều nổi dậy, các thủ lãnh toa rập với nhau chống lại Chúa và Đấng Kitô của Người'. Vì quả thật, tại thành Giêrusalem này, Hêrôđê và Phongxiô Philatô đã liên kết với các dân ngoại và dân Israel, mà chống lại tôi tớ thánh của Chúa là Đức Giêsu, Đấng Chúa đã xức dầu, để thực hiện những điều mà quyền năng và ý định Chúa đã dự liệu từ trước. Và lạy Chúa, giờ đây, hãy xem họ đang đe doạ, và xin ban cho các tôi tớ Chúa được đầy lòng tin tưởng rao giảng lời Chúa, cùng xin Chúa giơ tay chữa lành các bệnh nhân, làm những dấu lạ, và những việc phi thường nhân danh Thánh Tử của Chúa là Đức Giêsu”.
Khi họ cầu nguyện xong, thì nơi họ đang tập họp liền chuyển động, mọi người được tràn đầy Thánh Thần và tin tưởng rao giảng lời Thiên Chúa.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 2, 1-3. 4-6. 7-9
Đáp: Phúc cho tất cả những ai tin tưởng nơi Chúa (c. 13b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tại sao chư dân chấn động, và các nước mưu đồ chuyện luống công: các vua mặt đất cùng nổi dậy, và bậc quân vương nhất tề âm mưu phản nghịch Chúa và Đấng Kitô của Người. Họ nói: “Đập tan xiềng xích chúng ra, gông cùm chúng, hãy ném cho xa bọn mình”. - Đáp.
2) Đấng ngự trên thiên đình cười nhạo, Chúa mỉa mai cười chúng. Bấy giờ Người phán bảo chúng trong cơn thịnh nộ, và làm cho chúng rối loạn trong cơn lôi đình: “Nhưng Ta đã đặt vương nhi Ta trên núi Sion, núi thánh của Ta”. - Đáp.
3) Ta sẽ truyền rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và tận cùng cõi đất làm gia tài. Con sẽ cai trị chúng bằng cây gậy sắt, như bình thợ gốm, Con đem nghiền nát chúng ra”. - Đáp.
Tin Mừng: Ga 3,1-8
1 Bấy giờ, trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái. 2 Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người:
“Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”.
3 Đức Giê-su trả lời: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”.
4 Ông Ni-cô-đê-mô thưa: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được ? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao ?”
5 Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.
6 Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt ; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. 7 Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.
8 Gió muốn thổi đâu thì thổi ; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy”.
1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Con người được Thiên Chúa sinh ra từ muôn đời trong tình yêu. Nhưng tội lỗi đã huỷ hoại sự sống thần linh nơi con người. Vì thế ta cần phải được tái sinh trong Chúa Kitô, nhờ nước rửa tội và nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc trao đổi thân tình giữa Chúa với ông Ni-cô-đê-mô, là một lời giải đáp cho con thấy được con đường và cũng là điều kiện thiết yếu cho những ai muốn bước vào Nước Thiên Chúa: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không sinh lại bởi Ơn Trên”.
Lạy Chúa, sự sống thân xác của con được hình thành bởi cha mẹ. Nhưng chính tình yêu Chúa đã sinh ra con, đã rửa con sạch mọi tội lỗi trong ngày con chịu bí tích Rửa Tội, đã nuôi con lớn mạnh bằng ơn Chúa Thánh Thần. Tất cả không do công khó của con, mà do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban tặng. Thế mà lạy Chúa, những năm tháng qua, con đã vô ơn bội nghĩa, đã quên đi tình thương đó. Loài cây cỏ con biết bốn mùa thay lá, đơm bông kết trái cho con hưởng dùng. Còn con, tháng năm qua đi, con chỉ lo thay đổi cuộc sống vật chất, lo phát triển thân xác, thậm chí con tìm an nhàn một cách ích kỷ. Con đã để thân xác làm chủ đời sống linh hồn, an tâm sống trong tội lỗi. Chiếc áo tinh trắng của ngày đầu tiên trong đời Kitô hữu đã nhiều lần bị hoen ố. Con đã được tái sinh, nhưng rồi lại chết trong tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay quả là một cảnh tỉnh giúp con nghĩ lại. Xin Chúa giúp con ăn năn và quyết tâm trở về sống với Chúa. Trong những ngày trọng đại này, con đã được tái sinh trong Máu Chúa và được đón nhận sự sống lại của Chúa. Xin cho sự sống siêu nhiên của bí tích Rửa Tội được lớn mãi trong con. Con nguyện sẽ cố gắng bắt đầu một đời sống mới. Xin cho con được sống lại với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa”.
2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt Giống...)
Phụng vụ dùng cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với ông Nicôđêmô làm bài giáo lý thứ nhất, dạy về Bí tích Rửa Tội (Bí tích Tái sinh).
Bài Tin Mừng hôm nay dạy về sự cần thiết phải sinh lại:
Nicôđêmô là “một đầu mục của người Do Thái”. Nghĩa là về mặt xã hội ông là một bậc cao niên đáng kính, về mặt tôn giáo ông là người có học thức và đạo đức. Dù vậy ông vẫn tìm đến Chúa Giêsu để học hỏi thêm.
Điều đầu tiên Chúa nói với ông là sự cần thiết phải sinh lại: “Thật, tôi bảo cho các ông biết: Nếu ai không sinh lại bởi ơn trên thì chẳng thấy nước Thiên Chúa”.
“Sinh lại” không theo nghĩa thể lý (“Một người đã già làm sao có thể sinh lại ? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao ?”), mà theo nghĩa thiêng liêng (“sự gì sinh bởi huyết nhục thì là huyết nhục, và sự gì sinh bởi thần linh thì là thần linh”).
B. Suy niệm (... nảy mầm...)
1. Maurice Zundel đã viết: “Chúng ta không sinh ra đã thành con người (…) Con người có bổn phận phải thành người (…) sách Tin Mừng nói “phải sinh lại”. Có một lần sinh thứ hai, đó là sinh con người, sinh phẩm cách, sinh tính bất khả xâm phạm, sinh sự trường tồn bất tử, lần sinh mà không có, nó không thể thành người” (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”).
2. Một người như Nicôđêmô vừa cao niên, vừa thông thái, vừa đạo đức, thế mà Chúa Giêsu bảo ông cần phải sinh lại. Huống chi là tôi, bởi vì trong tôi hiện giờ còn rất nhiều điều chưa đáng là người, đó là chưa xét đến có đáng là Kitô hữu hay không.
3. Bí tích Rửa tội đã sinh lại tôi thành người con Chúa. Nhưng “làm con Chúa” chỉ mới là một hạt giống, tôi cần phải vun trồng cho phát triển thành cây. Huống chi người “con của Chúa” ấy với thời gian đã bị người “con của thế gian” chèn ép khiến trở nên èo uột, méo mó. Bởi vậy tôi cần phải sinh lại lần nữa.
4. Một nhà đại thần bí Ấn Độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo Thế Giới”.
Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con”.
Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời, tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời cầu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa, xin cho con thiện trí để hoán cải chính con”. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu tôi đã không lãng phí cuộc đời. (Góp nhặt).
5. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.
Một buổi chiều năm 1953, các kí giả và mọi người tập trung ở nhà ga xe lửa ở Chicago để chào đón người được giải Nobel Hòa Bình 1952. Các nhân vật cao cấp của thành phố dang rộng tay để chúc mừng vị thượng khách.
Ông cám ơn mọi người, rồi đưa mắt nhìn quanh sân ga. Bất chợt, ông xin kiếu mọi người rồi băng qua đám đông, tiến thẳng đến đỡ một cụ già không quen biết với chiếc vali nặng trên tay bà. Ông mỉm cười dẫn bà lên xe và không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông, ông xin lỗi vì bắt họ phải chờ đợi! Người được giải thưởng đó chính là bác sĩ Albert Schweitzer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hi sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Châu Phi. Thấy thế, một người đã thốt lên: “Lần đầu tiên tôi nghe được một bài giảng biết đi”.
Là một Kitô hữu tôi phải loan báo Tin Mừng và phải là “những bài giảng sống động và biết đi” về tình yêu Thiên Chúa.
3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Ông Nicôđêmô gặp Đức Giêsu (Ga 3, 1-8)
Trong những người tin Đức Giêsu, một thành viên của Hội đồng cộng toạ, thuộc nhóm biệt phái, khâm phục trước những lời giáo huấn của Chúa. Nhưng vì e ngại, không dám tỏ lòng tin công khai, ông đã tìm gặp Đức Giêsu lúc đêm khuya.
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô về ơn tái sinh.
Nicôđêmô là “một đầu mục của người Do thái”, nghĩa là về mặt xã hội ông là bậc cao niên đáng kính, về mặt tôn giáo ông là người có học thức và đạo đức. Dù vậy, ông vẫn tìm đến Đức Giêsu để học hỏi thêm.
Nhưng dầu sao ông vẫn còn vướng mắc thành kiến của người biệt phái và luật sĩ thời đó. Với sự hiểu biết Kinh thánh, Nicôđêmô tưởng đã có thể sử dụng mớ kiến thức ấy, để tìm hiểu về con người Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu đã đặt ông trước một thách đố mà ông không bao giờ ngờ trước. Ngài bảo ông phải tái sinh thì mới thực sự thấy và hiểu biết về con người của Ngài, ông phải tái sinh thì mới thực sự hiểu được Kinh thánh, ông phải tái sinh thì mới có thể trở thành con người mới với cái nhìn mới và sự cảm nhận mới.
Tư tưởng tái sinh làm cho ông thắc mắc: không lẽ phải chui vào bụng mẹ để sinh lại sao? Nhưng Đức Giêsu đã giải thích cho ông hiểu từ ngữ tái sinh đó. Tái sinh mà Chúa muốn nói là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình. Qua cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Đức Giêsu loan báo phép rửa mà Ngài sẽ thiết lập và ký thác cho Giáo hội. Nhờ phép rửa ấy, các Kitô hữu đã thực sự được tái sinh, họ sống bằng sự sống thần linh của Chúa, họ nhìn bằng cái nhìn của Chúa, họ mặc lấy chính những suy nghĩ của Chúa và yêu thương bằng chính tình yêu của Chúa.
Ông Nicôđêmô là con người rất có thiện chí. Đức Giêsu khen là ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Nhưng dầu sao Ngài con phải chuẩn bị thêm cho ông và long trọng xác nhận với ông rằng để theo Chúa, con người không thể ỷ lại vào sự hiểu biết hay vào lý lẽ khôn ngoan của con người. Cần phải được biến đổi bởi nước và Thánh Thần. Cần phải khiêm tốn lãnh nhận ân sủng Chúa ban và vâng phục sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không được sinh lại bởi ơn trên, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần”. Bí tích rửa tội và ơn Chúa Thánh Thần là cửa ngõ mở vào Nước Thiên Chúa.
Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà các mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: ‘Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới’.
Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: ‘Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con’.
Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời, tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời cầu nguyện của tôi bây giờ là: ‘Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con’. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời” (Góp nhặt).
Như vậy, Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay, qua cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Đức Giêsu dạy chúng ta ý thức lại ơn tái sinh của chúng ta qua phép rửa trong nước và Thánh Thần, và nhờ đó, chúng ta cần đổi mới, phải từ bỏ con người cũ là mê theo xác thịt, mà mặc lấy con người mới là bước đi trong Thần khí sự thật.
Trong mùa Phục sinh, Giáo hội đặc biệt mời gọi chúng ta ôn lại những cam kết trong phép rửa tội. Người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng cởi bỏ con người cũ của tội lỗi, để lớn lên trong ân sủng, cho đến khi đạt được tầm mức viên mãn của nhân cách là chính Đức Giêsu.
Truyện: Thưa, chính Chúa đấy ạ
Cha John Diamond có kể lại câu chuyện này: Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên linh hồn lên trước cửa thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng vọng ra: “Ai đó?” Linh hồn trả lời: “Con đấy ạ”. Cửa vẫn đóng.
Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa thiên đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết hơn: “Dạ, chính con đây”. Cửa vẫn đóng.
Linh hồn lại phải trở về trần thế... mở sách Tin mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi là con đường nào. Đó là con đường tự huỷ. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, tự mãn, ghen ghét. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy rẫy những ham muốn bất chính, để cho con người của mình được giống Thiên Chúa hơn.
Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời... lại gõ cửa... lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó”. Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp ngay: “Dạ, thưa chính Chúa đấy ạ”.
Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào Thiên đàng.
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Lòng Thương Xót Chúa.
27/04 – CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH Năm C.
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Lời Chúa: Ga 20, 19-31
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.
Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!" Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH - Năm C
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
MỤC LỤC
1. Chúng tôi đã thấy Chúa--‘Manna’
2. Vui mừng vì thấy Chúa--‘Manna’
3. Hãy nhìn xem--‘Manna’
4. Xem tận mắt bắt tận tay--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô
7. Nỗi oan Tôma--GM. Giuse Vũ Duy Thống
8. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
9. Bình an trong tin yêu—ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
10. Phúc cho ai không thấy mà tin—ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm--‘Xây Nhà Trên Đá’
11. Chứng nhân Phục Sinh--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
12. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
13. Đức tin và bình an--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
14. Bình an--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng OP.
15. Cần truyền đạt đức tin với lòng thương xót--Lm. Đan Vinh
16. Lòng Thương Xót Chúa tồn tại đến muôn đời--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
17. Lòng từ bi Chúa tồn tại đến muôn đời--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
18. Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
19. Phục sinh: tạo dựng con người mới trong Thần Khí thứ tha--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
20. Nền công lý Phục Sinh--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
21. Thánh Tôma và vết thương LTXC--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
22. Tha thứ là bản chất của Lòng Thương Xót--Lm. Anthony Trung Thành
23. Đức Giêsu đến đứng giữa các ông--Lm. Trầm Phúc
24. Đức Giêsu mặc khải lòng thương xót qua ơn ban bình an--Jos. Vinc. Ngọc Biển
25. Đã thấy, đã không thấy--Lm Trịnh Ngọc Danh
26. Làm chứng cho Đấng Phục Sinh--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
27. Lòng từ bi--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
28. Con đường tiếp nhận Chúa qua việc Ngài hiện ra--Lm Giuse Phạm Ngọc Khuê
29. Lm. GB. Hiếu
30. Đức tin ngọn đuốc cuộc đời--Lm Hồng Phúc
31. Mối phúc thật Đức Tin--Lm Hồng Phúc
32. Chúa có mắt không--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
33. Tần số tình yêu--Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
34. Thấy bằng trái tim – Thiên Phúc--“Như Thầy Đã Yêu”
35. Bình an của Chúa--AM Trần Bình An
36. Hoài nghi và xác tín--AM Trần Bình An
37. Hồng ân đức tin--AM Trần Bình An
38. Hồng Phúc từ Lòng Thương Xót của Chúa--AM Trần Bình An
39. Bình an cho các con--Radio Veritas Asia--‘Sống Tin Mừng’
40. Đức tin là một sự tăng trưởng—‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
41. Dấu chứng Phục Sinh--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
42. Dấu chân của Thiên Chúa--R. Veritas--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
43. Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
44. Đức tin của Tôma--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
45. Lòng Chúa xót thương--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
46. Hãy học nơi Chúa Lòng Thương Xót--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
47. Phẫn nộ thì dễ--Tha thứ mới khó--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
48. Định nghĩa Lòng Thương Xót--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
49. Bài học sự tha thứ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
50. Tôma, con người đa nghi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
51. Phục sinh không giết chết thập giá--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
52. Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót--Bài Giảng cho Thiếu Nh
53. Tin là hồng ân…--Lm. Vũ Xuân Hạnh
54. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
55. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
56. Chỉ có trẻ nhỏ mới có thể đi vào cốt lõi của tin mừng phục sinh--Đam. Maria Cao Tấn Tĩnh
57. Suy niệm Chúa Nhật II Phục Sinh--Lm. Alfonso
58. Ý nghĩa các vết sẹo--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
59. “Bình an cho các con!”--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
60. Thánh Tôma và Lòng Thương Xót Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
61. “Chúng tôi đã thấy Chúa”--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
62. Tôma và con mắt thứ ba--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
63. Suy niệm Lễ kính Lòng thương xót Chúa--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
64. Cuộc sáng tạo mới--Lm Ignatiô Trần Ngà
65. Phúc cho ai không thấy mà tin--An Phong
66. Phục Sinh không phải điều tưởng tượng--Lm G. Nguyễn Cao Luật OP.
67. Phúc thay người không thấy mà tin--Martin Vũ Thái Hiệp OP
68. Tôma và vết thương lòng thương xót Chúa--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
69. Lòng thương xót--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
70. Lm. Lã Mộng Thường
71. Phúc cho những kẻ không thấy mà tin--Lm. Trần Thanh Minh
72. Kính Chúa Tình Thương--Lm. Minh Vận, CRM
73. Bình an cho các con--Lm Thu Băng, CRM
74. Lòng Chúa Thương Xót--Huệ Minh
75. Suy niệm các ngày trong tuần 2 PS--Jos. Vinc. Ngọc Biển
1.Chúng tôi đã thấy Chúa--‘Manna’
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa,
nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp,
khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26),
thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương.
Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa,
vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng:
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma.
Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5).
Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh.
Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến.
Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách.
Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn,
khi ông thẳng thắn từ chối tin vào
lời chứng của các bạn: “Chúng tôi đã thấy Chúa.”
Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan.
“Nếu tôi không thấy... nếu tôi không xỏ ngón tay...
nếu tôi không thọc bàn tay... tôi sẽ chẳng tin đâu.”
Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai.
Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến.
Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em,
nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi.
Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay
dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin,
đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống Tôma.
Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình,
như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu “thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”,
thì đòi hỏi trên thật là chính đáng.
Đức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng
giúp người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật.
Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa,
cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao,
cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác
như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin,
làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa.
Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta
phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18).
Và tất cả cộng đoàn chúng ta
phải nói được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
2. Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
2.Vui mừng vì thấy Chúa--‘Manna’
(Chúa Nhật Lòng Nhân Hậu Chúa)
"Chúng tôi đã được thấy Chúa"
Đó là tiếng reo vui ngây ngất của các môn đệ.
Thầy Giêsu, người đã bị đóng đinh, chết và chôn cất,
nay bất ngờ hiện đến, đứng giữa họ thật gần gũi.
Động từ "thấy" được nhắc đến 6 lần trong bài Tin Mừng này.
Thấy Thầy vẫn như xưa, với những dấu đinh và vết đâm.
Nhưng Thầy cũng khác xưa, nên không dễ nhận ra ngay.
Maria Macđala cứ tưởng Thầy là người làm vườn.
Để thấy được Chúa phục sinh, cần có đức tin.
Ai tin mới thấy, và thấy để rồi tin hơn.
"Phúc cho ai không thấy mà tin"
Chúng ta vẫn tin bao điều mình không thấy.
Các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn.
Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau,
dù chẳng ai thấy rõ hết lòng dạ con người.
Tin không phải là một hành vi mù quáng, phi lý.
Tin chẳng hề làm hạ giá con người.
Trái lại, chỉ con người mới biết tin và dám tin.
Nhờ tin, tôi không còn bị giam trong thế giới chật hẹp
của cân đo đong đếm, của vật chất khả giác,
nhưng được đưa vào một thế giới phong phú hơn nhiều:
thế giới của những ngôi vị tự do, của chính Thiên Chúa.
Tin là chấp nhận bấp bênh, là có thể bị lừa.
Nhưng nếu không tin thì không thể sống được.
Vấn đề là tôi phải biết tôi đã tin vào ai.
Khủng hoảng lớn nhất là khủng hoảng niềm tin:
niềm tin vào Thiên Chúa và niềm tin vào con người.
Cả hai niềm tin nâng đỡ nhau và cho tôi hạnh phúc.
Ông Tôma không tin vào lời chứng của các bạn,
nên ông chậm tin vào việc Chúa phục sinh.
Khi Chúa giúp ông lấy lại niềm tin vào Chúa,
ông sẽ gắn bó hơn nhiều với cả tập thể.
Chúng ta là những kẻ không thấy mà tin.
Không thấy bằng mắt thường,
nhưng vẫn thấy bằng con mắt đức tin.
Tin là một cách thấy nghiêm túc.
Người tin là người thấy bằng trái tim.
Họ thấy được Đấng Vô Hình rõ hơn cả cái hữu hình.
Kitô hữu là người tin Chúa, nên cũng là người thấy Chúa.
Thấy Thiên Chúa hiện diện như người Cha nhân từ.
Thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người trên trái đất,
sống chết chỉ vì say mê Cha và say mê con người
và đã sống lại để cho cuộc đời một ý nghĩa mới.
Thấy mọi người là con cái Cha và là anh em của nhau.
Dù những điều chúng ta tin thật là mầu nhiệm,
nhưng đó không phải là chuyện mơ hồ, viễn vông.
Thế giới hôm nay chỉ tin vào những người đã thấy.
Ước gì chúng ta dám mạnh dạn tin Chúa hơn,
để có thể thấy Chúa tỏ tường hơn
và giúp người khác thấy điều mình đã thấy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều khi chúng ta không thấy Chúa chỉ vì chúng ta không dám liều lĩnh tin vào Ngài. Có khi nào bạn gặp được Chúa, vì đã dám quên mình để sống cho tha nhân không?
Có khi nào bạn gặp khủng hoảng đức tin chưa (mất lòng tin vào Thiên Chúa và vào con người)? Đâu là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng? Đâu là cách bạn giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
3.Hãy nhìn xem--‘Manna’
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo,
hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã.
Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ,
Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng:
Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo,
dù điều đó chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc.
Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.
Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức
cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu
thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.
Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương.
Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.
Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến
để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình.
Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy,
nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma,
nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình,
của Hội Thánh, của cả thế giới,
để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt
giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin",
và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi,
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết
đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
4.Xem tận mắt bắt tận tay--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi nói đến Tông đồ Tôma, người ta thường kèm theo biệt hiệu “Cứng lòng tin”.
Thật ra Tôma không cứng lòng tin hơn các Tông đồ khác. Khi Chúa đã chết rồi, các ngài hoang mang sợ hãi. Khi nghe tin Chúa sống lại, các ngài bàng hoàng bỡ ngỡ nhưng nửa tin nửa ngờ. Vì thế hai môn đệ đi đường Emmau vẫn còn buồn bã. Dù đã nghe các phụ nữ tường thuật việc Chúa sống lại, các ngài vẫn không tin, nên muốn bỏ về làng cũ. Vì thế, Chúa phải hiện ra nhiều lần. Và mỗi lần hiện ra, Người phải trấn an các ngài, cho các ngài xem các vết thương, cùng ăn uống để các người tin tưởng.
Tuy các môn đệ chưa hoàn toàn tin nhưng không ai trong các ngài phát biểu câu nào. Chỉ có Tôma nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chính vì câu nói mạnh mẽ này mà ông bị mang biệt danh “Cứng lòng tin”.
Tôma đại diện cho những người thời nay, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Nhưng ta phải cám ơn thánh Tôma, vì nhờ Ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Vì nhờ ngài mà Đức Giêsu lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ ngài mà ta được nghe mối phúc cuối cùng Chúa hứa cho ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Việc thánh Tôma đòi xem vết thương ở tay chân và cạnh sườn Chúa đặt ra cho ta những tiêu chí mới cho việc truyền giáo hôm nay.
Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Làm sao người ngoài đạo mến đạo nếu những người trong đạo cũng chia rẽ bất hoà? Làm sao đạo có sức thuyết phục khi người theo đạo vẫn còn ham hố danh vọng chức quyền đến nỗi bán rẻ cả lương tâm của mình và tìm cách chà đạp bôi nhọ người khác? Làm sao làm chứng được đạo là tốt trong khi những người tin đạo vẫn còn bất công, gian tham của cải không phải là của mình.
Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa.
Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Chứng kiến cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, niềm tin của các Tông đồ bị chao đảo. Đời bạn cũng đã gặp nhiều thử thách, niềm tin của bạn có bị chao đảo không?
2. Lời nói hay và việc làm tốt, đàng nào có sức thuyết phục hơn?
3. Trong mùa Phục Sinh này, bạn quyết định làm gì để góp phần vào việc truyền giáo?
5.Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
6.Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô
Bài Giảng Giờ Kính Tối Thứ Bảy 11/4/2015 Vọng Lễ Lòng Thương Xót Chúa
Anh Chị Em thân mến,
Lời chào của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ của Người vào tối Phục Sinh: "Bình an ở cùng các con!" (Gioan 20:19), vẫn tiếp tục vang vọng trong tất cả chúng ta. Bình an, nhất là trong Mùa Phục Sinh này, vẫn còn là ước mong của rất nhiều người đang chịu đựng bạo lực chưa từng thấy gây ra bởi kỳ thị và sát hại chỉ vì họ mang danh "Kitô hữu". Lời cầu nguyện của chúng ta càng thiết tha và trở nên một tiếng kêu van xin trợ giúp lên Chúa Cha là Đấng giầu lòng thương xót, để Ngài bảo trì đức tin của nhiều anh chị em chúng ta đang chịu đớn đau. Đồng thời chúng ta cũng xin ơn hoán cải tâm can của bản thân mình để biết cảm thương chứ đừng dửng dưng lạnh lùng.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đã được cứu độ nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Người là Đấng Hòa Giải, Đấng đang sống giữa chúng ta để cống hiến đường lối hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Vị Tông Đồ này nhắc nhở rằng, bất chấp những khó khăn và khổ đau của cuộc đời, niềm hy vọng cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trong lòng chúng vẫn tiếp tục tăng trưởng. Tình thương của Thiên Chúa được tuôn đổ trên chúng ta, làm cho chúng ta nên công chính và ban cho chúng ta bình an.
Nhiều vấn đề được đặt ra là tại sao hôm nay đây lại có Năm Thánh Tình Thương? Chỉ vì Giáo Hội, ở vào thời điểm đổi thay lịch sử cả thể này, được kêu gọi để cống hiến những dấu hiệu hiển nhiên hơn nữa về sự hiện diện và gần gũi của Thiên Chúa. Đây không phải là thời điểm bị phân tâm; trái lại, chúng ta cần tỉnh táo và làm bừng lên lại trong bản thân mình khả năng thấy được những gì là thiết yếu. Đây là một thời điểm cho Giáo Hội tái nhận thức ý nghĩa của sứ vụ được Chúa ký thác cho Giáo Hội vào ngày Lễ Phục Sinh: ở chỗ trở thành một dấu hiệu và là một dụng cụ cho tình thương của Chúa Cha (xem Gioan 20:21-13).
Vì lý do ấy, Năm Thánh này cần phải làm sống động ước muốn làm sao để đón nhận nhiều dấu hiệu về niềm êm ái dịu dàng được Thiên Chúa cống hiến cho toàn thế giới, nhất là cho những ai đang chịu khổ đau, những ai đang lẻ loi cô độc và bị bỏ rơi, không hy vọng được thứ tha hay không cảm thấy được tình yêu thương của Chúa Cha. Một Năm Thánh để mạnh mẽ cảm nghiệm trong bản thân mình niềm vui được tìm thấy bởi Chúa Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành là Đấng đã đến để tìm kiếm chúng ta vì chúng ta đã bị lạc loài. Một Năm Thánh để lãnh nhận hơi ấm của tình Người yêu thương khi Người vác chúng ta trên vai của Người hầu mang chúng ta về nhà Cha. Một Năm Thánh chúng ta được Chúa Giêsu chạm tới và được tình thương của Người biến đổi, nhờ đó chúng ta có thể trở thành những chứng nhân cho tình thương.
Thế nên lý do cho Năm Thánh này đó là vì đây là thời điểm của tình thương. Đây là thời điểm thuận lợi để chữa lành các vết thương, một thời điểm không mệt mỏi để gặp gỡ tất cả những ai đang đợi chờ để thấy được và chạm vào bằng bàn tay của họ những dấu hiệu của việc Thiên Chúa gần gũi, một thời điểm để cống hiến cho hết mọi người ơn tha thứ và hòa giải.
Xin Mẹ Thiên Chúa mở mắt chúng ta, để chúng ta có thể thấu hiểu công việc chúng ta đã được kêu gọi, và xin Mẹ xin cho chúng ta ơn cảm nghiệm được Năm Thánh Tình Thương này như là những chứng từ trung thực và phong phú của Chúa Kitô.
*********
BÀI GIẢNG LỄ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Chúa Nhật 12/4/2015
(Bài giảng được chia làm 2 phần: phần lời ngỏ đầu cùng anh chị em Armenia, và sau đó là phần sau bài giảng)
Phần Lời Ngỏ
"Thời điểm của chúng ta như là một thời điểm chiến tranh, một cuộc thế chiến thứ 3..."
Anh chị em Armenia thân mến,
Anh chị em thân mến.
Tôi đã nói một số lần về thời điểm của chúng ta như là một thời điểm chiến tranh, một cuộc thế chiến thứ 3, đang đánh nhau từng phần, một cuộc thế chiến chúng ta hằng ngày chứng kiến thấy những thứ tội ác man rợ, những cuộc tàn sát tàn ác và việc hủy hoại điên cuồng. Buồn thảm thay, hôm nay đây chúng ta cũng nghe thấy được tiếng kêu la bị bóp nghẹn và bị lãng quên của rất nhiều anh chị em không thể tự vệ, những người vì niềm tin tưởng của mình nơi Chúa Kitô hay vì nguồn gốc của mình, đang bị công khai sát hại một cách tàn nhẫn - bị chặt đầu, bị đóng đanh, bị thiêu sống - hay bị buộc phải lìa bỏ quê cha đất tổ của mình.
Cả đến ngày hôm nay nữa chúng ta đang cảm nghiệm thấy một loại diệt chủng gây ra bởi thái độ lãnh đạm chung chung và tập thể, bởi thái độ im lặng đồng lõa của Cain là kẻ hô lên rặng: "Cái đó đâu có liên hệ gì với tôi? Chẳng lẽ tôi là người canh giữ anh em tôi hay sao?" (xem Khởi Nguyên 4:9; Homily in Redipuglia, 13 September 2014).
Trong thế kỷ vừa qua, gia đình nhân loại của chúng ta đã trải qua 3 thảm họa to lớn chưa từng có. Thảm họa thứ nhất, một thảm họa nói chung được coi như là "cuộc diệt chủng đầu tiên của thế kỷ 20" (JOHN PAUL II and KAREKIN II, Common Declaration, Etchmiadzin, 27 September 2001), đã đổ xuống trên nhân dân Armenia của anh chị em, quốc gia Kitô giáo đầu tiên, cũng như những tín hữu Công giáo và Chính Thống giáo Syria, Assyria, Chaldea và Hy Lạp. Các vị giám mục, linh mục, tu sĩ, những con người nam nữ, người già và thậm chỉ cả trẻ em bất khả tự vệ và người yếu đau bệnh nạn đều bị sát hại. Hai cuộc thảm họa còn lại gây ra bởi chủ nghĩa Nazi và Stalin. Gần đây hơn nữa đã xẩy ra các cuộc tàn sát khác, như những cuộc tàn sát ở Cam Bốt, ở Rwanda, ở Burundi và ở Bosnia. Dường như nhân loại không thể ngăn chặn được việc đổ máu vô tội. Dường như cái nhiệt tình xuất phát từ lúc kết thúc Thế Chiến Thứ II đã bị hao mòn và giờ đây đang biến mất. Dường như gia đình nhân loại không muốn học từ các lầm lỗi của mình đây ra bởi luật khiếp sợ, mà cả đến ngày nay vẫn còn có những kẻ muốn loại trừ người khác bằng sự trợ giúp của một thiểu số cũng như bằng cái im lặng đồng lõa của những kẻ chỉ biết đứng nhìn. Chúng ta chưa học biết rằng "chiến tranh là những gì khùng điên", là "tán sát vô cảm" (cf. Homily in Redipuglia, 13 September 2014).
Anh chị em Kitô hữu Armenia thân mến, hôm nay, với tâm can đầy đớn đau nhức nhối đồng thời với niềm hy vọng cao cả vào Chúa phục sinh, chúng ta nhắc lại biến cố 100 năm này, một biến cố mà ông bà tổ tiên của anh chị em đã phải chịu đựng cái dã man tàn ác của cuộc tàn sát man vàn và vô cảm này. Cần phải, đúng hơn là phải có nhiệm vụ tưởng nhớ đến họ, vì bất cứ bao giờ ký ức trở nên nhạt nhòa thì sự dữ làm cho các vết thương bị mưng mủ. Chae đậy hay chối bỏ sự dữ thì giống như việc để cho vết thương rỉ máu mà không băng bó nó lại!
(ĐTC ngỏ lời chào....)
Trong niền tin tưởng mạnh mẽ rằng sự dữ không bao giờ xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng vô cùng tốt lành, và với niềm tin vững chắc, chúng ta hãy tuyên xưng rằng những gì dã man tàn bạo không bao giờ được coi là việc Thiên Chúa làm, hơn thế nữa, tuyệt đối không thể nào được biện minh bằng Danh Thánh của Ngài. Chúng ta hãy tiếp tục việc cử hành này bằng việc gắn mắt của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh từ trong cõi chết, Đấng Chiến Thắng sự chết và sự dữ!
Phần Bài Giảng
"Ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương".
Thánh Gioan, vị đã ở trên Căn Thượng Lầu với các môn đệ khác vào tối ngày thứ nhất sau Ngày Hưu Lễ, nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã đến và đứng giữa các vị mà nói: "Bình an ở cùng các con", và Người tỏ cho các vị thấy đôi tay cùng cạnh sườn của Người (Gioan 20:19-20); Người đã tỏ cho các vị thấy các vết thương của Người. Nhờ đó các vị đã nhận ra rằng đó không phải là một thứ hiện ra mà thực sự là chính Người, là Chúa và các vị cảm thấy tràn đầy niềm vui.
Vào ngày thứ tám, Chúa Giêsu lại đến Căn Thượng Lầu và tỏ các vết thương của Người cho Tông Đồ Tôma, để vị tông đồ này có thể chạm vào các vết thương đó như vị tông đồ này mong muốn, nhờ đó có thể tin tưởng và trở thành chứng nhân cho sự Phục Sinh.
Cả với chúng ta nữa, vào ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương. Thật thế, các thương tích của Chúa Giêsu là các thương tích của tình thương: "Chúng ta được chữa lành nhờ các lằn vết của Người" (Isaia 53:5).
Chúng Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn xem các thương tích ấy, hãy chạm đến những thương tích này như Tông Đồ Tôma đã làm, để chữa lành sự thiếu lòng tin tưởng của chúng ta. Trước hết Người kêu mời chúng ta hãy tiến vào mầu nhiệm của các thương tích ấy, tức là mầu nhiệm về tình yêu thương nhân hậu của Người.
Qua các thương tích này, như nơi một nơi mở ra đầy ánh sáng, chúng ta có thể thấy toàn thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Thiên Chúa: Cuộc Khổ Nạn của Người, đời sống trần gian của Người - đầy những cảm thương đối với thành phần yếu đuối và bệnh hoạn - việc nhập thể của Người nơi cung dạ của Đức Maria. Và chúng ta có thể lần về với toàn thể lịch sử cứu độ: các lời tiên tri - đặc biệt về Người Tôi Tớ Chúa, các Thánh Vịnh, Lề Luật và Giao Ước; cho đến cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, đến cuộc Vượt Qua đầu tiên cũng như đến máu của các con chiên bị sát tế; và từ các vị Tổ Phụ đến Abraham, và rồi đến mãi Abel với máu kêu lên từ trái đất. Tất cả những điều ấy chúng ta đều có thể thấy nơi các thương tích của Chúa Giêsu tử giá và phục sinh; với Mẹ Maria, nơi ca vịnh Ngợi Khen của Mẹ, chúng ta có thể thấy rằng "tình thương của Người trải qua từ đời nọ đến đời kia" (Luca 1:50).
Trước các biến cố thảm thương của lịch sử nhân loại có những lúc chúng ta có thể cảm thấy tan nát tự hỏi "Tại sao?" Sự dữ của nhân loại có thể xuất hiện trên thế giới như là một vực thẳm (an abyss), một đại khuyết (a great void), nghĩa là trống rỗng yêu thương (empty of love), trống không thiện hảo (empty of goodness), trống trơn sự sống (empty of life). Thế nên chúng ta đặt vấn đề: chúng ta làm thế nào để lấp đầy cái vực thẳm này? Đối với chúng ta là những gì bất khả; chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấp đầy cái trống không do sự dữ mang đến cho tâm can của chúng ta và cho lịch sử của nhân loại mà thôi. Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết trên Thánh Giá và là Đấng lấp đầy vực thẳm tội lỗi bằng thẳm sâu của tình thương Người.
Thánh Bênađô, ở một trong những dẫn giải của ngài về Sách Diệu Ca (Sermon 61, 3-5: Opera Omnia, 2, 150-151), đã chia sẻ chính yếu về mầu nhiệm về các thương tích của Chúa, bằng cách sử dụng những lời diễn tả mãnh liệt đến bạo dạn mà chúng ta muốn lập lại hôm nay đây. Ngài nói rằng: "nhờ những thánh tích này chúng ta có thể thấy được cái bí mật của tâm can Chúa Kitô, thấy được một mầu nhiệm yêu thương cao cả, thấy được lòng thành của tình thương khiến Người từ trên cao đã đến viếng thăm chúng ta".
Thưa anh chị em, hãy nhìn xem đường lối Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta để cuối cùng chúng ta ra khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi và sự chết của chúng ta, nhờ đó tiến vào mảnh đất của sự sống và bình an. Chúa Giêsu, tử giá và phục sinh, là đường lối ấy và các thương tích của Người đặc biệt đầy tình thương.
Các thánh nhân dạy cho chúng ta rằng thế giới được đổi thay bắt đầu từ việc hoán cải tâm can con người, và điều này xẩy ra nhờ tình thương của Thiên Chúa. Thế nên, cho dù có phải đối diện với tội lỗi riêng của tôi hay các thảm họa lớn lao trên thế giới, "lương tâm của tôi có bị sầu thảm nhưng không bị rối loạn, vì tôi nhớ lại các thương tích của Chúa: 'Người đã bị đả thương vì lỗi lầm của chúng ta' (Isaia 53:5). Tội lỗi nào đáng chết đến độ cái chết của Chúa Kitô không thể thứ tha chứ?" (cùng nguồn vừa dẫn).
Gắn ánh mắt vào các thương tích của Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cùng với Giáo Hội ca lên rằng: "Tình yêu của Người bền vững muôn đời" (Thánh Vịnh 117:2); tình yêu của Người vĩnh hằng. Và với những lời này ăm ắp trong lòng của mình, chúng ta hãy tiến lên trên các con đường lịch sử, theo sự dẫn dắt của Chúa chúng ta và là Đấng Cứu Độ chúng ta, là sự sống của chúng ta và là niềm hy vọng của chúng ta.
7.Nỗi oan Tôma--GM. Giuse Vũ Duy Thống
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
8.Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: "Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa".
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Các môn đệ đang sợ hãi giam mình trong phòng kín, nhưng khi gặp thấy Chúa Giêsu phục sinh thì các ông vui mừng. Chúa Giêsu phục sinh cũng đang ở giữa chúng ta. Vậy chúng ta hãy vui mừng cùng Ngài dâng lễ tạ ơn lên Thiên Chúa là Cha toàn năng của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúa Giêsu phục sinh là bảo đảm cho chiến thắng của sự thiện trên sự ác. Nhưng chúng ta chưa xác tín điều ấy nên chưa tích cực chiến đấu chống lại sự ác.
Chúa Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Nhưng chúng ta thường quên điều đó nên sống và làm việc như không có Ngài bên cạnh.
Chúa Giêsu phục sinh là nguồn gốc và nền tảng của vui mừng và bình an. Nhưng chúng ta thường để mình bị giao động bởi những buồn phiền lo lắng thế tục.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 5,12-16
Trích đoạn này từ sách Công vụ cho thấy hai tác động lớn của việc Chúa Giêsu phục sinh trên các tông đồ: (1) Chúa đã thông ban cho các ngài quyền năng đến nỗi có thể làm nhiều phép lạ; (2) Chúa làm cho uy tín các ngài tăng cao trước các tín hữu và cả những người lương.
2. Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31
Hai lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau:
* Chúa Giêsu nâng đức tin của các một đệ lên một bậc: từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng mà giác quan kiểm nghiệm được (câu 20 "Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài"; câu 25, Tôma đòi điều kiện "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài...) lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe (câu 29: "Phúc cho những ai không thấy mà tin")
* Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
4. Bài đọc II: Kh 1,9-13.17-19
Thị kiến đầu tiên trong sách Khải huyền:
* Hoàn cảnh của người được thấy thị kiến: Thánh Gioan Tông đồ đang sống trong cảnh gian truân vì bị bắt bớ: "Tôi cùng chia xẻ nỗi gian truân... cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu. Lúc ấy tôi đang ở đảo gọi là Pátmô vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Chúa Giêsu".
* Thị kiến nhằm an ủi và khích lệ kẻ đang bị bắt bớ: "Đừng sợ... Ta là Đấng hằng sống. Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ"
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đấng chữa lành vẫn còn mang thương tích
Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh vẫn còn mang những thương tích của cuộc thụ nạn. Điều này có ý nghĩa gì? Câu chuyện sau đây có thể cung cấp vài tiêu điểm giúp chúng ta tìm hiểu.
Chuyện kể về một góa phụ lao động ở thành phố New York. Trong khoảng thời gian 6 năm, bà đã chứng kiến cảnh 3 đứa con của mình bị bắn chết, đứa nhỏ nhất bị bắn ngay trước cửa nhà bà. Những cảnh ấy đã để lại một vết thương sâu đậm trong lòng bà, và vết thương ấy cứ như sống lại làm bà nhức nhối mỗi lần bà nghe tin có một ai đó bị giết chết. Tuy nhiên bà không để mình bị trói buộc trong nỗi sợ hãi. Trái lại bà tìm cách đến với người khác. Bà đi diễn thuyết khắp nơi và trở thành một nhà hùng biện tranh đấu cho việc kiểm soát vũ khí. Bà lập một hiệp hội gồm những phụ nữ cùng hoàn cảnh với Bà. Mỗi khi có một đứa con bị giết chết, bà đến thăm và an ủi cha mẹ chúng. Bà cho biết ban đầu bà ước sao cho những đứa trẻ vô tội ấy đừng sinh ra còn hơn. Nhưng bây giờ thì bà nói: "Hẳn nhiên trong cái chết của chúng có một nỗi buồn phiền, thế nhưng cũng có một niềm vui không thể tin được. Nếu tôi đã không có 3 đứa con bị giết thì tôi đã không là một con người như hôm nay. Chúng giúp tôi mạnh mẽ, chúng giúp tôi sống không ích kỷ". Khung cửa nhà bà vẫn còn lại những vết đạn đã bắn chết đứa con út của bà. Tuy nhiên bà không cho sửa lại khung cửa ấy. Tại sao? Bà nói "Tôi muốn những lỗ đạn ấy còn mãi ở đấy để nhắc cho mọi người nhớ là có người đã bị giết chết ngay chỗ ấy. Nếu sửa lại thì người ta sẽ quên".
"Khi sửa lại thì người ta sẽ quên". Có lẽ đó là lý do tại sao Chúa Giêsu phục sinh vẫn giữ lại những vết thương của cuộc chịu nạn. Trước hết, những vết thương ấy giúp các môn đệ nhận ra Ngài: Đấng hôm nay chiến thắng sự dữ vẫn là một với Đấng hôm trước đã chịu nạn chịu chết để nhờ đó Thiên Chúa chiến thắng cái chết. Thứ hai, những vết thương ấy là bằng chứng tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói suông về tình yêu, Ngài đã chịu đau khổ để làm chứng cho tình yêu. Đó là những thương tích mà Người mục tử chịu đựng để bảo vệ đàn chiên yêu quý của mình.
Chúa Giêsu không dấu những thương tích. Ngài cho Tôma thấy và mời ông chạm vào. Khi Tôma chạm vào đấy, nỗi hoài nghi của ông tan biến và đức tin của ông sống lại.
Những thương tích thánh thiện của Chúa Giêsu là nguồn an ủi, nguồn can đảm và nguồn hy vọng của chúng ta. Chúng giúp ta chịu đựng đến cùng những thương tích của chúng ta. Chúng bảo ta đừng sống ích kỷ. Nhờ những thương tích của Ngài, chúng ta được chữa lành khỏi chứng bệnh tự thương xót mình và mặc cảm là nạn nhân.
Người ta có khuynh hướng che giấu những thương tích vì nghĩ rằng người khác mà thấy được sự yếu ớt của mình thì sẽ không còn kính trọng mình. Tuy nhiên những kẻ dám cho người khác biết những cuộc chiến đấu của mình thì sẽ là một nguồn an ủi cho người khác. (FM).
2. Tần số tình yêu
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha:
- Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích:
- Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
****
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: "Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số. Đó là tần số tình yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên "người môn đệ Chúa Giêsu thương mến" (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy ngôi mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì "rất đỗi ngạc nhiên" còn Gioan thì "ông đã thấy và ông đã tin"? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã nói: "Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: "Ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy" (Hs 6,2) và phép lạ "ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm" (Ga 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần; Phêrô đứng chung vớt mười một Tông đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: "Chính Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về điều nầy, tất cả chúng tôi xin làm chứng" (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Chúa Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: "Nếu Đức Ki tô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình" (1Cr 15,17).
***
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen. (Thiên Phúc)
3. Bình an
Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào các ông "Bình an cho các con". Đây là lời chào thông thường của người Do thái "Shalom". Giáo hội cũng bắt chước lối chào đó, trong Thánh lễ, Chủ tế chào giáo dân "Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em", và giáo dân chào lại "Và ở cùng Cha", nghĩa là "Và cũng xin bình an của Chúa hằng ở cùng Cha". Xét ra lời chào này hơi lạ so với những kiểu chào mà chúng ta quen biết, nhưng có ý nghĩa nhiều hơn. Quả thực. Bình an là điều quý nhất mà chúng ta cần có và cũng là điều tốt nhất mà chúng ta cầu chúc cho nhau. Nhưng bình an là gì mà quý như vậy? và làm thế nào để có được bình an? Đó là điều mà chúng ta sẽ đưa vào bài Tin Mừng hôm nay để tìm hiểu.
Khi ấy các môn đệ đang sợ: Thầy đã bị bắt và bị giết chết rồi. Rất có thể tới phiên các ông cũng sẽ bị bắt và bị giết như vậy. Cho nên họ sợ, và họ trốn trong nhà đóng kín cửa lại. Rồi Chúa Giêsu hiện đến ở với họ, trò chuyện với họ, cho họ xem các vết thương, ăn uống với họ, khích lệ họ... Thế là họ không còn sợ nữa. Họ được bình an. Nhưng do đâu mà họ được bình an? Có phải là vì nguy hiểm đã qua đi rồi chăng? Thưa không, nguy hiểm vẫn còn đó, kẻ thù vẫn còn vẫn đang tìm cách hãm hại các ông. Nhưng nay họ không sợ nữa là vì họ biết đã có Chúa ở bên cạnh họ. Có Chúa bên cạnh thì mọi nguy hiểm không còn làm họ nao núng nữa. Thực ra họ chưa hoàn toàn bình an đâu. Sau khi Chúa Giêsu biến đi thì họ lại sợ, lại đóng cửa trốn. Có lần họ cũng đánh bạo cùng nhau đi đánh cá. Nhưng mới thấy có một cái bóng đen tiến đến là họ lại sợ, họ tưởng là ma. Và khi biết đó là Chúa thì họ lại hết sợ. Mãi tới khi Chúa Giêsu nói với họ trước khi về trời rằng: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế", thì họ mới hết sợ hoàn toàn, họ mới hoàn toàn được bình an. Kể từ đó trở đi, các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng. Người ta bắt, họ cũng không sợ, người ta tra tấn, họ không sợ mà còn vui mừng vì được chịu khổ vì Thầy; người ta xử tử, họ vẫn bình an vui sướng vì được giống như Thầy.
Như vậy, Bình an tức là một sức mạnh, một nơi nương tựa, một nguồn an ủi khiến ta không nao núng sợ sệt dù phải đứng trước bất cứ gian truân nguy hiểm nào. Bình an ấy có được khi ta ý thức có Chúa vẫn ở bên cạnh mình.
Giống như một em bé. Em đang chơi vui vẻ thì trời đổ mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, em hoảng sợ khóc thật lâu. Nhưng mẹ em đã đến, bế em vào lòng, em cuộn mình trong lòng mẹ và ngủ thiếp đi. Sau đó dù mưa vẫn cứ rơi, sấm chớp vẫn cứ ầm ầm, nhưng em vẫn ngủ yên vì em đang ở trong vòng tay che chở của mẹ. Đó là một hình ảnh rất đẹp giúp ta hiểu thế nào là sự bình an.
Phần chúng ta, nếu chúng ta luôn ý thức có Chúa ở bên cạnh mình, và ta luôn nương tựa vào Chúa như em bé nương tựa vào mẹ nó thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.
Có một gia đình nọ, nhà nghèo, lao động thật là vất vả, tính toán làm ăn rất là lo âu. Nhưng chiều về, vợ chồng con cái đều quây quần trước bàn thờ gia đình và cùng đọc kinh tối chung. Họ dâng lên Chúa những lao nhọc trong ngày, họ xin Chúa thứ tha những vấp váp lỗi lầm đã phạm, họ phó dâng cuộc sống cùng tất cả mọi âu lo cho Chúa. Sau đó họ lên giường ngủ. Bình an! Biết bao gia đình khác cũng lao động vất vả như họ, cũng lo âu toan tính như họ, nhưng các gia đình đó không có được một giấc ngủ bình an. Chỗ khác nhau là một bên có Chúa và biết sống với Chúa, còn một bên thì không.
Hay như một cụ già kia đang hấp hối, cái chết gần kề mà vẫn bình thản sẵn sàng buông tay nhắm mắt ra đi không hề sợ sệt, vì cụ già ấy biết rằng mình ra đi là ra đi trong tay Chúa. Trong khi có biết bao nhiêu người khác đối diện với cái chết mà lòng hoang mang sợ hãi, họ sợ không dám ra đi, vì họ không biết đi về đâu, họ không có Chúa cùng đi với họ.
Kinh nghiệm mà các môn đệ đã trải qua là một bài học quý giá cho chúng ta. Sau khi Chúa Giêsu bị quân thù bắt giết đi, các ông đã sợ hãi trốn kín trong phòng đóng cửa lại, sợ vì cảm thấy cô thế không có Thầy nâng đỡ. Nhiều lần chúng ta gặp cảnh túng thiếu, gian truân, hiểm nguy, chúng ta cũng sợ hãi như thế, chúng ta muốn rút lui trốn tránh, chúng ta muốn ngã lòng, là vì chúng ta không có Chúa ở với mình. Nhưng khi các môn đệ đã biết có Chúa ở bên cạnh họ, cho dù Chúa chỉ hiện diện một cách vô hình sau khi Chúa đã về trời, các ông không còn sợ nữa mà lòng luôn bình an dù phải đối diện với bất cứ hiểm nguy nào. Thì chúng ta cũng thế: Chúa hằng ở bên cạnh chúng ta nếu chúng ta ý thức được điều đó, nếu chúng ta biết tin yêu phó thác vào Chúa và làm việc gì chúng ta cũng nghĩ là có Chúa cùng làm với chúng ta thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.
Nguyện chúc bình an của Chúa hằng ở cùng chúng ta luôn mãi. Amen.
4. Bài học từ Tôma
Thật là sai lầm khi tưởng rằng tin là chuyện dễ dàng đối với những kẻ may mắn được thấy Chúa Giêsu hơn là đối với chúng ta ngày nay. Tin Mừng đã cho thấy có nhiều người đã được thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn không tin. Vậy "thấy" không nhất thiết sẽ dẫn tới "tin". Muốn tin thì phải có một quyết định.
Thực thế, các sách Tin Mừng đã kể rằng ngay cả các tông đồ mà cũng gặp khó khăn trong việc tin. Tôma không phải là người duy nhất đã hồ nghi về việc Chúa Giêsu sống lại, mọi tông đồ khác cũng thế. Tin Mừng Thánh Mác cô kể rằng khi Chúa Giêsu hiện ra với họ vào buổi chiều ngày phục sinh thì Ngài đã "trách họ vì sự không tin và cứng lòng bởi họ đã không tin theo lời của những người đã từng thấy Ngài sau khi Ngài sống lại" (Mc 16,14)
Chúng ta có thể thông cảm với các tông đồ. Việc Chúa Giêsu bị đóng đinh quả là một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt họ. Họ đã đầu tư rất nhiều vào Ngài. Họ đã bỏ nghề nghiệp và bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Rồi bỗng nhiên Ngài bị giết chết. Thực tế về cái chết của Ngài càng rõ ràng bao nhiêu thì họ càng cảm thấy mất mát bấy nhiêu. Giá trị và ý nghĩa của mọi thứ đều bị đe dọa: tình thân với Ngài, niềm tin vào Ngài, và cả cuộc đời của họ nữa.
Đang lúc đó thì một chuyện không thể tin được xảy ra: đột nhiên họ nhìn thấy Ngài đang đứng ở giữa họ. Việc đầu tiên Ngài làm là chỉ cho họ thấy các vết thương của Ngài. Tại sao Ngài làm thế? Thứ nhất là vì những vết thương ấy giúp họ nhận dạng được Ngài, xác định Ngài vẫn là người trước đó đã bị đóng đinh. Thứ hai là những thương ấy là bằng chứng rằng Ngài yêu thương họ, một tình yêu chứng tỏ bằng hành động. Kế đó Chúa Giêsu mời họ hãy xem và hãy sờ vào những vết thương ấy.
Thái độ của Tôma rất đáng làm gương cho chúng ta. Đó là một thái độ thẳng thắn vì không dấu diếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi thường là dấu chỉ của sự yếu kém. Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma: nhờ hồ nghi nên sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong sách Tin Mừng "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con".
Ở thế gian này, chẳng có gì là tuyệt đối chắc chắn về những sự thiêng liêng, vì nếu có thì đâu cần tới đức tin nữa. Những sự tuyệt đối chắc chắn có thể dẫn tới thái độ ngạo mạn, bất khoan dung và ngu xuẩn. "Người có đức tin mà không bao giờ cảm thấy hồ nghi thì thực ra không phải là người có đức tin" (Thomas Merton)
Mỗi cộng đoàn đều cần có một con người như Tôma, tức là con người dám đặt ra những câu hỏi mà không ái khác dám đặt ra. Người như thế là người đáng tin, người như thế còn giúp những khác trở thành những kẻ đáng tin, bởi vì người như thế giúp cho những người đang tin nhận ra đức tin của họ còn yếu kém lắm, và đồng thời cũng làm cho những kẻ hồ nghi cảm nhận được nỗi ray rứt khi không có niềm tin.
Sau khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo thánh truyền, ngài đã mang Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và Ấn Độ, nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin.
Chúa Giêsu mời chúng ta đến gần Ngài trong đức tin và chạm vào các vết thương của Ngài. Mặc dù chúng ta không thể chạm tới Ngài một cách thể lý, nhưng chúng ta có thể đến gần Ngài một cách thiêng liêng. Chúa Giêsu cũng mời chúng ta làm chứng cho Ngài trước mặt những người khác. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho Chúa Giêsu trở thành hữu hình trong thế giới hôm nay. Đó cũng là nhiệm vụ của các tông đồ ngày xưa. Ngày xưa khi các tông đồ đã nhìn thấy Chúa rồi thì các ông cảm thấy được thúc đẩy phải làm cho nhiều người khác cũng biết và tin vào Ngài.
Thế giới hôm nay đầy dẫy những hoài nghi và những người không tin. Cách duy nhất khiến họ tin là làm sao cho họ "thấy" được Ngài, "chạm" được Ngài nơi những môn đệ của Ngài. Thế nhưng, nếu các môn đệ của Chúa Giêsu không có những vết thương để chỉ cho người ta thấy và cho người ta chạm vào thì làm sao mà người ta tin được!
Ước gì chúng ta được ở trong số những người được Chúa Giêsu công khai chúc phúc "Phúc cho những ai tuy không thấy mà vẫn tin" (FM)
5. Khủng hoảng đức tin
Khủng hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như câu chuyện sau đây:
Năm 1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình. Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ "Chiến tranh và Hòa bình", và "Anna Kerenina". Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo đảm cho ông một vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công nhận ông là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo. Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: "Liệu trong dời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không?". Khoảng thời gian ấy thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày suốt đêm, giống như một người sắp chết đi tìm đường sống. Nhưng tìm mãi mà ông chẳng gặp gì cả.
Thế rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô giáo. Thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ nó từ lâu, lý do là ông thấy nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống ngược hẳn với đức tin của họ. Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông khi ông nhìn những tín hữu sống đức tin ấy. Ông viết: "Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn nào trong đời. Nhưng rồi tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin Mừng. Tôi đã loá mắt vì sự sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu quả thực là một giáo huấn tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ 2000 năm nay, những lời dạy cao quý ấy đã tác động lên biết bao người một cách tuyệt vời không thể tìm được nơi bất cứ ở nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng chiếu trong tôi và quanh tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi nữa".
Có nhiều người được sinh ra trong đức tin, và trải qua bao năm tháng đức tin ấy vẫn cứ vững mạnh. Thật là một ơn ban vô cùng quý giá. Nhưng cũng có nhiều người mà đức tin luôn là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Họ phải trải qua những cơn khủng hoảng đức tin rồi mới có được một đức tin sâu sắc và xác tín.
Nói cách lý thuyết, chỉ có đức tin mới trả lời được cho những câu hỏi sâu xa về cuộc đời. Nhưng trên thực tế, chúng ta không nên hy vọng rằng đức tin sẽ giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Không phải chỉ vì chúng ta tin mà chúng ta có được mọi câu trả lời. Tuy nhiên chúng ta đâu cần biết hết mọi câu trả lời, vì tin là tín nhiệm chứ không phải là chắc chắn.
Câu chuyện của văn hào Tolstoy giúp chúng ta nhận thức rằng đức tin được chứa đựng trong một chiếc bình dễ vỡ như thế nào. Nó cũng giúp ta hiểu thêm rằng đức tin kitô giáo chủ yếu không phải là tin vào một mớ giáo điều, mà là tin vào một Đấng đã yêu thương chúng ta - những thương tích của Ngài chứng tỏ điều đó. Hơn nữa, Thánh Kinh còn cho ta biết điều quan trọng không phải là niềm tin chúng ta đặt vào Thiên Chúa mà là niềm tin mà Thiên Chúa đặt vào chúng ta. (FM)
6. Chuyện minh họa
Có một vị hoàng đế kia trị vì một đất nước giàu có hùng mạnh. Nhưng tâm hồn ông không thoải mái an vui vì ông luôn bị ray rứt bởi những tội lỗi tàn bạo đã phạm trong thời quá khứ. Một hôm ông bỏ hoàng cung đi vào rừng, cất một túp lều đơn sơ. Trong rừng có một vị ẩn sĩ. Nhà vua tìm đến và nói: "Thưa Ngài, tôi muốn từ bỏ kinh thành ồn ào náo nhiệt vào đây để tìm được một sự bình an như Ngài đang hưởng". Ẩn sĩ đáp: "Tâu đức vua, ở đây cũng không hơn gì nơi khác, vì bình an phải ở trong lòng người". Nhà vua trở về lều mình. Khi thì quỳ gối tha thiết đọc kinh, khi thì thơ thẩn trong rừng, chỉ ăn lương khô và uống nước lã. Chiều đến nhà vua mệt lả ngả mình xuống đất có trả một mớ lá khô. Nhưng suốt đêm cứ trằn trọc không ngủ được. Sáng hôm sau ông tìm đến vị ẩn sĩ: "Thưa ngài, lương tâm tôi cắn rứt làm tôi không ngủ được. Xin ngài nghe lời thú tội của tôi". Ẩn sĩ đáp: "Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội thôi". Nhà vua cãi: "Nhưng tôi không nghe được tiếng Chúa". Ẩn sĩ trả lời: "Tiếng Chúa chỉ nghe được trong thinh lặng, mà thinh lặng chỉ có ngay trong lòng ta. Người nào chỉ biết kêu cầu than rên rỉ mãi mà không biết thinh lặng lắng nghe thì sẽ không nghe được tiếng Chúa". Nhà vua trở về. Vài hôm sau ông đến chào vị ẩn sĩ: "Tôi đã nghe lời ngài, tôi không kêu than rên rỉ nữa mà tập thinh lặng lắng nghe, và tôi đã được nghe tiếng Chúa. Nhưng đó không như tiếng loài người, tôi chỉ nhận thấy như một cảm xúc êm dịu là lỗi lầm của tôi đã được tha thứ. Xin cám ơn ngài, hôm nay tôi sẽ trở về triều đình".
Vài năm sau nhà vua lại trở vào rừng, và cũng tìm đến vị ẩn sĩ: "Thưa ngài không bao giờ tôi quên được tâm trạng an bình khi sống trong rừng này. Hôm nay tôi muốn trở lại đây ít lâu để cầu xin Chúa cất bớt những gánh nặng mà hằng ngày tôi phải vác". Ẩn sĩ đáp: "Tâu Bệ Hạ, khi chúng ta phàn nàn với Chúa về các gánh nặng của mình thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa là không phải cất những gánh nặng đó đi, nhưng là tăng cường đôi vai của ta để ta có thể vác nổi những gánh nặng đó". Nhà vua thắc mắc: "Nhưng làm sao biết được Chúa đang tăng cường sức mạnh cho ta?" Ẩn sĩ: "Bao lâu ta còn dãy dụa chiến đấu thì ta chưa nhận biết được điều đó. Cần phải thinh lặng, ngưng chiến đấu mà chờ đợi sự trợ giúp của Chúa thì khi đó ta mới cảm thấy được bàn tay uy quyền của Chúa đang giúp sức cho ta". Nhà vua cám ơn lui về. Vài ngày sau trở lại chào biệt vị ẩn sĩ: "Thưa ngài tôi đã cảm nghiệm rằng Đấng đã làm cho cỏ cây xanh tốt và nuôi nấng chim trời cũng đang dang tay tăng sức mạnh cho đôi vai tôi. Xin cám ơn ngài và chào ngài".
Thế là nhà vua trở về triều đình. Mấy năm sau ông lâm trọng bệnh, sai người đi mời vị ẩn sĩ đến. Khi ẩn sĩ đến, nhà vua nói: "Thưa ngài đã hai lần ngài giúp tôi tìm thấy bình an. Bây giờ là lần thứ ba mà cũng là lần chót, vì tôi sắp từ giã cõi đời này". Ẩn sĩ hỏi: "Bệ Hạ có còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp đầu tiên rời xa Bệ Hạ?" Vua đáp: "Không bao giờ tôi quên, đó là ngày tôi biết lắng nghe tiếng Chúa trong thâm tâm". Ân sĩ hỏi tiếp: "Bệ hạ còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp thứ hai rời xa Bệ Hạ không?" Nhà vua đáp: "Cũng không bao giờ quên, đó là ngày tôi biết chờ đợi trong thinh lặng ơn Chúa đến tăng sức cho tôi". Ẩn sĩ bây giờ cao giọng: "Tâu Bệ Hạ, Bệ Hạ đã được nghe tiếng Chúa, Bệ Hạ đã được thấy bàn tay Chúa tăng sức cho Bệ Hạ. Bây giờ Bệ Hạ sắp được chiêm ngưỡng Chúa". Nhà vua sung sướng như đang mơ: "A, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Chúa. Nhưng làm sao được?" Ẩn sĩ giải thích: "Chỉ khi ở trong yên lặng tuyệt đối, khi cái nhìn của chúng ta không còn nhìn vào cõi đời đầy những sầu thương tang tóc, không còn ngó nhìn về những tương lai với những ước mơ hay sợ sệt, không còn ngó vào bên trong mình để ngắm chính cuộc đời mình, mà chỉ nhìn về hướng duy nhất là Chúa thôi, thì khi ấy chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa". Nhà vua thì thầm: "Yên lặng tuyệt đối. Người ta có thể yên lặng tuyệt đối không?" Ẩn sĩ đáp: "Ở đời này thì không. Nhưng trong sự chết thì được". Nhà vua sung sướng thì thầm: "Thế thì tôi muốn chết". Và ông sai sứ giả đi khắp nơi trong nước ra lệnh cho thần dân đừng cầu nguyện cho ông khỏi chết nữa. Còn trong phòng của nhà vua thì cả ngày hôm đó rất yên tĩnh. Khi bình minh ló rạng thì nhà vua ra đi an bình. Cái nhìn của ông như chìm vào một cõi xa xăm, một nụ cười tươi sáng rạng ngời trên gương mặt của nhà vua. Ông đã chiếm hữu được sự an bình vĩnh cửu (Vị Ẩn sĩ)
7. Thơ Tagore
"Vào hôm thần chết đến gõ cửa, anh sẽ lấy gì biếu hắn hở anh?
Ồ, tôi sẽ đặt trước mặt khách cốc rượu đời mình tràn đầy, tôi sẽ chẳng chịu để khách ra đi tay không.
Lúc năm tháng đời tôi khép lại, khi thần chết đến gõ cửa mời đi, tôi sẽ đặt trước hắn tất cả trái nho thơm dịu của những ngày mùa thu, những đêm mùa hè, những gì kiếm được, những gì chắt chiu trong suốt cuộc đời cực nhọc.
Ôi thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối. Thần chết của ta ơi, hãy lại và thì thầm cùng ta chứ (...)
Tôi biết ngày ấy thế nào cũng đến, lúc tôi nhắm mắt thôi không nhìn trái đất này, rồi cuộc đời sẽ thầm lặng ra đi, kéo manh che kín mắt tôi lần cuối (...)
Khi tôi nghĩ đến phút giây cuối cùng ấy (...) nhờ ánh sáng lâm chung tôi thấy thế giới Ngài trần trề châu ngọc. Ở đó, chỗ nương thân tầm thường nhất cũng thú vị, ở đó cuộc đời hèn mọn nhất cũng thơm tho (...)
Tôi đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường!"
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta hãy tôn vinh Người và dâng lời cầu xin:
1. Chúa luôn hiện diện trong Hội thánh cho đến ngày tận thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục / linh mục / phó tế / biết luôn chu toàn sứ mạng dẫn dắt Dân Chúa trên con đường lữ thứ trần gian.
2. Khát vọng sâu xa nhất của hết thảy mọi người trên trái đất này / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới được bình an / và mọi người thoát được cảnh đói nghèo.
3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa đem niềm hy vọng đến cho những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Người thương nâng đỡ những kẻ tật nguyền đau yếu / cho họ mau bình phục / để họ sống mạnh khỏe an vui.
4. Lạy Chúa / Lạy Thiên Chúa của con / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cũng biết noi gương thánh Tôma mà tuyên xưng niềm tin của mình / bằng đời sống mến Chúa yêu người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, sau khi Phục sinh vinh hiển, Chúa đã hiện ra cho các tông đồ được thấy tỏ tường. Xin củng cố niềm tin còn quá yếu kém của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Chúc bình an: Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã chúc bình an cho họ. Giờ đây, trong niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta cũng hãy chúc cho nhau được bình an.
VII. Giải tán
Chúa Giêsu phục sinh đã mang lại bình an cho những kẻ tin Ngài. Chúc anh chị em ra về và luôn sống trong bình an của Chúa.
9.Bình an trong tin yêu—ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Bài Tin Mừng kể lại hai lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần thứ nhất ngay trong buổi chiều Người sống lại, lần thứ hai: Tám ngày sau. Người hiện ra và nhấn mạnh đến “Hãy tin và Chúa chúc bình an”. Đoạn Tin Mừng có sáu lần nói đến tin và ba lần chúc bình an.
Phải tin vào Đức Giêsu sống lại mới dược bình an thật. Người ta chở hài cốt trung sĩ Mỹ tên Ridgeway về Houston bang Texas cho gia đình an táng. Anh đã chết trong tết Mậu Thân 1968 ở Việt Nam. Đến ngày 03/04/1973, trao trả tù binh Mỹ ở Bắc Việt, người ta thấy anh lù lù về gia đình. Ai cũng ngạc nhiên sửng sốt, tưởng chừng anh đã chết nay sống lại. Người hàng xóm kéo nhau đến xem, kẻ sờ đầu sờ cổ anh, kẻ sờ chân tay, kẻ bá vai, bắt tay.
Đức Giêsu đã chết thật, không như trung sĩ Ridgeway bị lầm tưởng đã chết. Đức Giêsu chết thật trước hàng chục ngàn người chứng kiến trong ngày đại lễ Vượt qua của dân Do Thái. Họ đã hô to kết án Người khi Philatô xét xử. Họ đã bắt Người vác Thánh giá lên núi Sọ và đóng đinh Người. Họ đã cho lính canh mồ khi hai ông Giuse và Nicođêmô táng xác Người trong mộ đá. Nhưng ba ngày sau, Đức Giêsu sống lại và hiện ra với các môn đệ. Lúc đầu, các ông không tin. Người phải làm đủ cách để các ông tin Người đã sống lại: Từ cách sống tự nhiên như đời thường, đến cách sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
Về tự nhiên đời thường: Từ nghe tin, nhìn thấy, đụng chạm, sờ mó, đến nói chuyện, ăn uống, làm việc. Đức Giêsu đã nhờ các bà đi báo tin cho các môn đệ. Nghe tin, chẳng ai tin (Mc. 16, 11; Lc. 24,11) đích thân Người hiện đến, họ lại tưởng là ma. Người phải cho các ông rờ xem chân tay và cạnh sườn Người, các ông vẫn chưa tin, rồi Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc. 24, 40-43). Thánh Gioan còn kể thêm, Người hiện ra sinh hoạt, hợp tác với các ông đi đánh cá, cả đêm không được gì. Người bảo các ông: “Thả lưới xuống bên phải thuyền, sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống và không sao kéo lên nỗi vì lưới đầy cá. Người còn nướng cá và bánh cho các ông ăn (Ga. 21, 10-14)
Về cách sống siêu nhiên: Kèm theo những việc tự nhiên đời thường, Đức Giêsu đã đặc biệt ban những ơn siêu nhiên: Chúc bình an cho các ông được an tâm vững chí, giải thoát cho các ông khỏi mọi lo âu, hoảng sợ. Các ông không còn sợ mất Thầy nữa, không sợ quyền bính Do Thái và đế quốc Rôma. Hơn nữa, Thầy ban Thánh Thần tha tội cho các ông. Thầy đã đại lượng không chấp tội các ông đã bất trung, bỏ trốn, đã nghi ngờ và rất kém lòng tin. Đặc biệt Thầy còn mở trí cho các ông hiểu Kinh thánh: Tất cả những gì sách luật Môsê, các sách ngôn sứ và các Thánh kinh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm (Lc. 24, 44-45; Cv. 1, 2-4).
Sự cứng lòng tin của các môn đệ càng chứng tỏ Đức Giêsu đã sống lại thật. Nếu các ông không thấy tỏ tường Người đã sống lại, thì các ông đã chạy trốn biệt tăm hết cả rồi; và có lẽ Tôma đã chạy trốn xa nhất vì ông quá sợ, các ông sợ họ giết Thầy, họ sẽ không tha các ông: “Họ nhổ cỏ, nhổ tận gốc”.
Nhưng tại sao các ông cứng lòng tin đến nỗi Chúa phải làm đủ cách, các ông mới tin? Thưa: Thứ nhất, vì cả loài người có ai chết mà tự mình sống lại đâu! Các ông đã biết: Dầu là tổ phụ như Abraham, Giacóp, Giuse. Vĩ đại như Môsê, David, Salômôn và các ngôn sứ làm nhiều phép lại như Êlia, Êzêkiel vẫn phải chết.
Thứ đến, gần ba năm các ông theo Thầy hầu như chỉ mong được địa vị danh vọng quyền bính, chỉ mong Thầy lên Giêrusalem để cai trị Israel, nhưng Thầy lại chịu chết. Ngay cả khi Thầy sắp sống lại, sắp về trời các ông còn hỏi: “Phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel?” (Cv. 1,6). Cho nên, dầu Thầy đã ba lần báo trước: “Con người phải chịu nhiều đau khổ,… bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt. 20,17-18; Mc.10, 33-34), các ông vẫn mơ ước có ngày được vinh quang trần thế. Những tham vọng phàm tục đó đã che mắt đức tin của các ông.
Sau hết, xét theo tâm lý: Có kẻ chỉ nghe báo cáo đã tin, có kẻ phải mắt thấy tai nghe mới tin như các thánh nữ. Có người đòi chứng nghiệm, thử nghiệm mới tin, như các nhà khoa học phải thí nghệm đúng mới công nhận. Phải chăng, các môn đệ thuộc hạng các nhà khoa học này. Thực vậy, các ông thấy Thầy hiện đến, các ông vẫn hoài nghi. Thầy phải bảo các ông sờ tay vào lỗ đinh, vào cạnh sườn, Thầy phải ăn uống, làm việc, dạy dỗ để chứng nghiệm rõ ràng cho các ông. Nhưng đó chỉ là những chứng cứ theo vật chất cụ thể để các ông xác tín, chưa phải là đức tin. Đức Giêsu phải ban bình an, ban Thánh thần, soi sáng bằng lời Kinh thánh, lời của Thiên Chúa. Lúc đó các ông mới được đức tin thực sự. Trường hợp của thánh Gioan chỉ thấy dấu chỉ: Mồ trống, khăn che đầu và băng vải liệm xác, “Ông thấy và đã tin” (Ga. 20,8) là trường hợp rất đặc biệt của người có lòng yêu mến Thầy chỉ thiết.
Người đã chúc: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” Phải chăng đó là những người yêu mến Chúa nồng nàn như thánh Gioan. Họ được dồi dào bình an trong tin yêu. Còn những người khác phải nghe, phải thấy, phải học hỏi, suy niệm lời Chúa để ơn Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng thì mới được đức tin.
Lạy Chúa, thân phận chúng con phức tạp, hỗn tạp như tiệm tạp hóa. Vật chất thì cụ thể, gần gũi, hào nhoáng hấp dẫn con mắt, lỗ tai, lòng trí chúng con. Còn mầu nhiệm lời Chúa thì sâu xa, siêu việt, huyền nhiệm,ẩn khuất. Xin cho ánh sáng Phục sinh của Chúa ban đức tin trung kiên cho chúng con để hết lòng yêu mến phụng sự Chúa.
10.Phúc cho ai không thấy mà tin—ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm--‘Xây Nhà Trên Đá’
Nguyễn Du, một thiên tài thi ca Việt Nam, đã kết thúc áng văn kiệt tác của ông bằng câu thơ: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Tâm chỉ tấm lòng yêu mến, tư tưởng, tinh thần, tâm linh, là cái không thấy được. Tài là khéo léo, làm giỏi, là tiền tài, danh vọng, phú quý, chỉ những thứ trông thấy được.
Sau những đoạn trường của cuộc đời đau khổ như đứt từng khúc ruột, Nguyễn Du đã thấm thía: Mọi của cải danh vọng, giàu sang mà ông đã từng trải và từng thấy rõ ràng, chẳng làm cho con người được hạnh phúc. Con tâm chí thiện mới thật quý giá và làm cho người được hạnh phúc. Như vậy, cái không thấy có phúc, có giá trị hơn cái thấy được. Đại học Nho giáo đã viết: “Đại học chi đạo? Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” (ĐH. I.). Chí thiện là thiên mệnh, là ý trời ở trong tâm tính không thể thấy được bằng tai mắt nhưng có thật, con người phải cố gắng thể hiện ý trời đó mới thực là đạo người. Đạo đưa lại hạnh phúc cho mình và cho muôn dân: “Thiên mệnh chi vị tính. Xuất tính chi vị đạo” (Trung Dung I).
Hôm nay, Đức Kitô chỉ cho các tông đồ và riêng Tôma biết: “Ai không thấy mà tin là người có phúc”.
Nghe tin các bà nói Thầy đã sống lại, các tông đồ tụ họp hồi tâm cầu nguyện chờ đợi xem sao. Tôma vắng mặt. Ông vắng mặt vì ông là người đa nghi và nhát đảm (Ricciotti: Vie de Jesus Christ No 633). Khi các bạn tông đồ đến nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông nổi khùng thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Lý lẽ của ông xem ra đã được nghiền ngẫm trước một người bị đóng đinh co dúm lại, da thịt rách nát, chân tay và cạnh sườn bị đâm toạc ra, làm sao sống lại được? Còn Madalêna thấy Thầy sống lại ư? Đó là kẻ bị quỷ ám, dễ ảo tưởng, đầu óc đầy ảo ảnh mê hoặc. Các bạn tông đồ đã thấy Chúa ư? Có thể lòng trí các ông đang bối rối nóng điên lên rồi, dễ tưởng tượng theo tin đồn nhảm.
Lý luận của Tôma hoàn toàn theo chủ thuyết tân sinh lý. Ông chỉ tin ở tai nghe mắt thấy, chân tay sờ mó. Không ai lay chuyển được sự khôn ngoan của ông. Đó là sự khôn ngoan của loài người, bắt nguồn từ xác thịt và ma quỷ. Xác thịt thấy trái cấm quyến rũ, ma quỷ giả dạng ẩn núp, rỉ tai và con người sa ngã. Sự khôn ngoan theo mắt xác thịt của Tôma bị diệt vong ngay tám ngày sau. Đức Giêsu hiện đến bảo Tôma “đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra thọc vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin”. Tôma sụp lạy thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”. Không cần ai báo cáo, Đức Giêsu cũng biết rõ Tôma nói gì, nghĩ gì, đòi yêu sách gì. Yêu sách đó đã dằn vặt Tôma, nên khi vừa nghe Thầy trả lời, Tôma đã sụp lạy hai lạy: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, lạy Chúa, để tỏ mình là tôi tớ hèn hạ của Chúa, Chúa là chủ mình. Lạy Thiên Chúa của con để nhận ra Thầy là Thiên Chúa hằng sống đã dựng nên mình, đã cho mình sống. Thầy là Thiên Chúa nên đã sống lại và chiến thắng kẻ thù cuối cùng là sự chết. Những ai tin Thầy sẽ được phúc sống lại và hằng sống.
Trước kia Tôma đã hỏi Thầy: “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi theo Thầy? Thầy đáp: Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga. 14, 5-6). Thầy đã nói cho ông biết Thầy là sự sống, thì nay Thầy sống lại, ông mới thấy rõ sự thật: Thầy là sự sống.
Tôma đã thấy Thầy, muốn được phúc, ông phải theo Thầy đi rao giảng Tin mừng, theo Thầy vác thập giá đến hơi thở cuối cùng.
Chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta vững tin theo Chúa, Chúa sẽ chúc phúc: “Phúc cho con không thấy mà tin”. Lạy Chúa là sự sống lại và hằng sống, tai mắt chân tay con không thấy được Chúa nhưng xin cho con vững tâm tin mến Chúa đã sống lại và đang ngự trong những người thiện tâm, thiện chí để con biết phục vụ Chúa trong hết mọi người.
11.Chứng nhân Phục Sinh--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Không phải chỉ có ông Thomas cứng tin, vì tất cả các tông đồ khác cũng đâu có tin Đức Yêsu Phục Sinh (Mc.16, 9-14) cho đến khi chính các ông được Ngài hiện ra cho (Ga.20, 19-23); tuy nhiên ông Thomas được coi là người cứng tin vì ông đã phát biểu rõ ràng lập trường của mình: “nếu tôi không thấy các dấu đinh nơi tay người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và nếu tôi không tra bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng tin” (Ga.20, 25). Tinh thần “thực nghiệm” của Thomas đâu có kém tinh thần “cân đo đong đếm” của con người ngày nay. Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Yêsu Phục Sinh khi các ông đã được thấy Ngài, tuy dù đã ba lần Ngài báo trước Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), tuy dù các chị phụ nữ đã báo cho các ông biết Chúa đã phục sinh.
Các tông đồ đã trở thành chứng nhân phục sinh (Cv.10, 39-43), và có nhiều người tin lời rao giảng của các tông đồ. Họ là những Kitô hữu tiên khởi. Nếu Đức Yêsu chỉ là người, nếu Đức Yêsu phục sinh chỉ có ích lợi riêng cho bản thân Ngài, thì chắc người khác không phải quan tâm nhiều đến biến cố này như vậy, và các tông đồ cũng không cần phải đem cả sinh mạng ra làm chứng, vì điều đó đâu có ích gì cho các tông đồ cũng như cho người khác. Biến cố Đức Yêsu Phục Sinh phải có thật quan trọng thì các tông đồ mới phải xả thân loan tin mừng phục sinh và dám đem chính mạng sống mình bảo đảm cho lời loan báo này. Thật vậy, theo những chứng nhân phục sinh, Đức Yêsu Phục Sinh là một sự kiện ảnh hưởng đến số phận tất cả con người, liên hệ đến sự sống và hạnh phúc của mọi người.
Đức Yêsu phục sinh chỉ là sự kiện khởi đầu, là dấu chỉ của thực tại khôn dò: Ngài là Đấng Vô Cùng Đặc Biệt. Qua biến cố Đức Yêsu Phục Sinh, người ta biết, Đức Yêsu không chỉ là người. Ngài là Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, Ngài lấy Ý Cha làm ý Ngài (Mc.14, 36), đến độ coi Ý Cha là lương thực nuôi sống Ngài (Ga.4, 34). Với tác giả sách Khải Huyền, Đức Yêsu là đầu và là cuối: “Ta là đầu và là cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa tử thần và âm phủ” (Kh.1, 17-18). Biến cố Đức Yêsu Phục Sinh là biến cố sinh tử đối với con người. Vì Ngài đã phục sinh, người ta nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, qua đó người ta nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa tha thứ mọi lỗi lầm cho con người. Thiên Chúa muốn con người sống và sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc ở đời sau và ngay cả ở đời này nữa. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt cho con người, và Ngài sẽ làm tất cả nên tốt cho những kẻ yêu mến Thiên Chúa.
Tất cả các tông đồ trở thành chứng nhân của Đức Yêsu Phục Sinh. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, luôn rao giảng Đức Yêsu Phục Sinh. Nếu người ta tin nhận Đức Yêsu Phục Sinh, thì người ta có cơ hội nhận ra chân tướng của Đức Yêsu, nhận ra sứ điệp Thiên Chúa muốn nói với con người qua Đức Yêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến độ đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin Con Ngài, thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời. Sứ mạng của Đức Yêsu là làm cho con người tin nhận Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, để họ phó thác đời họ cho Thiên Chúa, ngay cả khi họ gặp khó khăn tưởng chừng như tuyệt vọng. Tin vào Thiên Chúa tình yêu, giúp con người sống trong bình an và hy vọng, giúp người ta sống bình an hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Mỗi Kitô hữu được mời gọi để trở thành chứng nhân của Đức Kitô Phục Sinh. Là chứng nhân của Đức Yêsu Phục Sinh, là thực hiện sứ mạng của Đức Yêsu. Sứ mạng của Đức Yêsu là làm sao để con người tin thực Thiên Chúa yêu thương con người. Đức Yêsu đã yêu con người đến cùng, đã hiến mạng cho con người. Bí tích Thánh Thể là bằng cớ cho thấy Đức Yêsu yêu thương con người đến độ nào. Cái chết trên thập giá của Đức Yêsu cho người ta nhận ra tình yêu của Ngài và của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng.
Kitô hữu phải yêu thương con người hôm nay như Đức Yêsu đã yêu thương con người thời của Ngài. Chỉ khi yêu thương những con người cụ thể sống với mình, Kitô hữu mới có thể làm chứng cho họ thấy rằng Thiên Chúa yêu thương họ. Đức Yêsu đã yêu thương con người đến hy sinh chính bản thân mình, yêu đến hiến dâng chính mạng sống, yêu đến chết, mong rằng khi con người thấy tình yêu của Ngài đối với họ, họ sẽ rung động trước tình yêu của Thiên Chúa và sẵn sàng đáp trả tình yêu. Đến lượt mình, các Kitô hữu cũng phải yêu đến độ hy sinh cho những người mình sống với, để họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ qua các Kitô hữu. “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì nếu không phải là muốn cho lửa ấy bừng cháy lên” (Lc.12, 49).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao bạn tin Đức Yêsu đã phục sinh?
2. Bạn có thấy niềm tin vào Đức Yêsu Phục Sinh chi phối cuộc đời bạn không? Xin chia sẻ.
12.Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Đức Yêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Yêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Yêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Yêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Yêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Yêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Yêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Yêsu Phục Sinh cho con người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Yêsu. Chính Đức Yêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.
Đức Yêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Yêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Yêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Yêsu.
Sứ mạng của Đức Yêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Yêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức Yêsu là Thiên Chúa?
2. Các tông đồ tin Đức Yêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn biết vậy?
3. Sứ mạng của các Kitô hữu hôm nay là gì?
13.Đức tin và bình an--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các tông đồ: lần thứ nhất vào chính ngày Phục sinh, lúc đó vắng mặt ông Tôma, lần thứ hai, sau đó tám ngày, lần này có mặt ông Tôma. Mục đích Chúa hiện ra là để minh chứng cho các môn đệ thấy chắc chắn Ngài đã sống lại thực sự. Bài Tin Mừng này có hai câu nói của Chúa Giêsu rất đáng chú ý và suy nghĩ: Câu thứ nhất Chúa nói với ông Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin”, đây cũng là điều Chúa muốn nói với chúng ta, những người đang sống xa biến cố Phục sinh cả hơn hai ngàn năm, chúng ta không thấy Chúa Kitô Phục sinh, nhưng chúng ta vẫn tin, tin mạnh mẽ, tin vững chắc. Câu thứ hai là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”, đây cũng là điều Chúa muốn ban cho chúng ta và chúng ta cũng luôn cầu xin Chúa.
Chúng ta thấy lúc đầu ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin, ông nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chúa rất nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lệnh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt, cho nên, đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để đi tới thực tại tiềm ẩn: mắt ông chỉ nhìn nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi, phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Phán câu ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta ở thế kỷ XXI này và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài, nhưng chúng ta tin Ngài dựa vào bằng chứng của các tông đồ, thế giá của Kinh thánh và lời Giáo Hội giảng dạy, ai tin qua đó là có phúc. Chúng ta có thể nói như thánh Ghêgôriô: “Ngón tay đa nghi của thánh Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới, bàn tay đa nghi của thánh Tôma đã dạy cho con người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Phục sinh của Chúa Kitô”. Chúng ta tin chắc như thế, chúng ta sẽ là người có phúc: phúc cho chúng ta, dù không thấy, chúng ta vẫn tin.
Đàng khác, ngay khi hiện đến với các tông đồ, cả hai lần, lời nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em”, lời cầu chúc đó được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Quả thực, các ông đã bỏ mọi sự đi theo Chúa, nhưng ngờ đâu, “công chưa thành, danh chưa toại”, mới được 33 tuổi, vị thầy của các ông đã bị giết chết như một nhà cách mạng thất bại, và bây giờ đang nằm yên trong mộ đá. Chúa chết, các môn đệ “tay trắng vẫn hoàn tay trắng”. Hơn nữa, giờ đây các ông còn phải sống chui lủi trong cảnh “sảy đàn tan nghé”, như rắn mất đầu: thấp thỏm, hoang mang, lo sợ, các ông sợ tất cả mọi người, nên đã im hơi lặng tiếng, tụ tập nhau trong căn phòng cửa đóng then cài. Giữa lúc đó, Chúa hiện đến và chúc bình an, còn gì quý bằng, đang hoang mang, chán nản, sợ hãi, các ông được gặp Chúa và được Chúa ban cho điều các ông đang cần, đó là bình an. Ơn lộc đó Chúa cũng đang muốn dành cho chúng ta hôm nay.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình, hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao, cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an, nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.
Sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu: về tương lai, gia đình, con cái, tiền bạc, công ăn việc làm, sức khỏe… những lo ấu ấy như một chất thuốc độc tác hại vào tâm hồn và cướp đi những niềm vui trong lành, những giấc ngủ bình yên, khiến chúng ta luôn băn khoăn, khắc khoải, cố gắng tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những lo âu, và như thế có phải là chúng ta rất cần sự bình an không? Sự bình an đó do Chúa ban và cũng là cố gắng của mỗi người.
Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời cho Chúa để bản thân chúng ta tìm thấy sự bình an, đồng thời hãy cố gắng sống tốt đẹp, chúng ta sẽ cảm thấy bình an. Đàng khác, nếu chúng ta chưa đem lại bình an cho ai, thì chúng ta đừng cố tình làm mất bình an của họ bằng lời nói hay việc làm lỗi bác ái của chúng ta. Xin Chúa ban bình an cho chúng ta và xin Chúa cho chúng ta là “khí cụ bình an của Chúa” cho mọi người.
14.Bình an--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng OP
Ông Tô-ma là một người có óc thực tế, có vẻ chậm hiểu và chậm tin hơn các môn đệ khác. Điều đó cũng đúng và dễ hiểu thôi. Ông có đủ lý do để nghi ngờ, vì ông chưa thấy Chúa sống lại rõ ràng như các môn đệ khác. Và sự kiện ông đòi chính mình phải kiểm chứng mới tin lại có lợi cho chúng ta, và là dịp khiến Chúa Giêsu liên tưởng tới đông đảo những Ki-tô hữu, từ đó cho đến ngày cánh chung, sẽ tin vào Ngài. Chúa chúc phúc cho họ, vì họ là những người, dù không thấy tận mắt sự kiện phuc sinh nhưng vẫn tin vào Ngài: "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Lời Chúa Giêsu trên đây được coi là mối phúc thứ chín trong đời mỗi Ki-tô hữu. Chúng ta phải cám ơn ông Tô-ma, chính vì thái độ thực tế của ông mà chúng ta được thêm một lần Chúa Ki-tô Phục Sinh hiện ra để minh chứng Ngài đã sống lại, và ban cho chúng ta, qua Tô-ma, một mối phúc thật khác là "phúc thật đức tin".
Một điều lý thú nữa trong bài Tin mừng hôm nay, đó là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa Ki-tô Phục Sinh cho các môn đệ: "Bình an cho anh em". Lời cầu chúc này được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Còn gì vui mừng và sung sướng hơn họ nữa không? Họ được gặp lại người thân yêu nhất vừa mời chết. Họ được thấy tận mắt Thầy của họ, được nghe tận tai tiếng nói của Thầy. Thầy của họ đã sống lại thật rồi và còn được Thầy ban cho một món quà mà họ đang khao khát nhất, đang cần nhất, đó là "bình an".
Món quà ấy Chúa cũng dành cho mỗi người chúng ta hôm nay. Bởi vì Chúa quá hiểu tâm lý con người nhân loại. Chúa quá hiểu cục diện thế giới này, ít khi có bình an, lúc nào cũng đầy những bất hòa, bất thuận, chia rẽ, xô xát, đố kỵ, ích kỷ, nghi ngờ, giả dối...nên ai cũng muốn xin được hai chữ "bình an". Có hiểu như thế chúng ta mới thấy lời chúc bình an của Chúa thật ý nghĩa và là món quà quý giá Chúa dành cho các môn đệ xưa kia và mỗi người chúng ta hôm nay.
Anh chị em hãy hồi tưởng lại cuộc đời mình xem: có phải anh chị em rất cần sự bình an không? Có lần người ta hỏi ông Đan-tê, một đại thi hào của nước Ý rằng: "Điều ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc đời là gì?". Bậc vĩ nhân đã trả lời rằng: "Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm, đó là sự bình an". Chúng ta cần và chúng ta tìm kiếm sự bình an, là bởi vì cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng đầy những lo âu và phức tạp về bản thân mình, về gia đình mình và xã hội chung quanh...luôn gây cho chúng ta những bất an.
Có khi chúng ta muốn yên ổn mà không được, vì cây muốn lặng mà gió chẳng dừng. Không cần nói đâu xa, ngay trong gia đình chúng ta cũng đầy những ngột ngạt, lườm nguýt, hành tỏi, xích mích, tranh giành, lừa dối nhau, nghi ngờ nhau...khi thì chiến tranh lạnh khi thì chiến tranh nóng, mạnh ai nấy sống. Thậm chí có những người chỉ muốn sống ở những nơi khác mà không muốn về nhà mình. Chính vì thế mỗi người chúng ta, mỗi người trong gia đình, cần suy nghĩ xem: tại sao mình không có bình an, lý do là bởi ai, bởi đâu? Và chính mình có là nguyên nhân gây bất an cho gia đình cho những người chung quanh không?
Người ta nói: "Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan", "hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non", nghĩa là chúng ta là những người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, oán thù nhau, thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho chính những con cái trong nhà, cho anh em hàng xóm chung quanh và xã hội. Xin mọi người hãy suy nghĩ hai chữ "bình an" hôm nay để chính mình sống bình an và giúp người khác cùng sống bình an.
Tất cả chúng ta, ai ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Vì thế, Chúa luôn luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo Hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa cũng như Giáo Hội cầu chúc chúng ta " "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em", rồi linh mục bảo chúng ta: "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau". Vâng, đúng vậy, có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là "khí cụ bình an của Chúa", nghĩa là góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội. Xin nhớ rằng: nếu chúng ta không chia sẻ bình an thì thôi nhưng đừng bao giờ làm mất bình an của người khác.
15.Cần truyền đạt đức tin với lòng thương xót--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Rồi Người bảo Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin”. Ông Tô-ma thưa Người: “”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,27-28).
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của các ông như sau: Lần thứ nhất (c 19-25): vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Phục Sinh đã hiện đến đứng giữa các môn đệ đang hội họp mà thiếu ông Tô-ma. Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để chứng minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần và trao quyền tha tội cho các ông. Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày sau, Chúa Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ và lần này có cả Tô-ma. Người đã đặc biệt đáp ứng đòi hỏi của ông này. Rồi khi Tô-ma đã tin, thì Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế cho Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Người hiện đến trong lúc phòng đang đóng kín. Điều này cho thấy thân xác của Người sau khi phục sinh có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Qua đó, Người chứng tỏ Người chính là Đấng đã từng bị đóng đinh thập giá trước đó (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Như vậy cho thấy có sự liên kết mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Đức Giê-su Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả các tín hữu sau này. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã tuyên bố có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, để ban quyền tha tội cho các tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các giám mục kế vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.
- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai (x. Mt 10,3). Ông mang biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông ưa nêu ra thắc mắc khi nghe Đức Giê-su giảng để yêu cầu Người giải thích rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người...: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “... thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng Nhất Lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; hoặc: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc 24,38).
- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Tuy khiển trách Tô-ma, nhưng Đức Giê-su cũng cảm thông với sự cứng tin của ông và muốn ông hãy vững tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người.
- C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”: Tô-ma là môn đệ cuối cùng tin nhận Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại, nhưng ông là người đầu tiên đã tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất: Đức Giê-su vừa là “Chúa” (Đấng Mê-si-a), vừa là “Con Thiên Chúa” (x Mt 16,16). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Qua câu này, Chúa Giê-su muốn dạy các môn đệ: Từ nay, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh không được dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa, nhưng cần dựa trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các ông đã sẵn sàng chịu chết để minh chứng đức tin vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh.
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1) Thân xác Chúa Giê-su sau phục sinh có phải là thân xác đã chịu khổ nạn trước đó không?
ĐÁP:
Thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh cũng chính là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn. Trong Tin mừng hôm nay Chúa Giê-su đã chứng minh mầu nhiệm Phục Sinh gắn liền với cuộc Tử Nạn trước đó qua việc: “Cho các môn đệ xem các vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn Người” (c.20), cho sờ vào Người (x. Lc 24,36-40), và cho xem việc Người ăn một khúc cá nướng (x. Lc 24,41-43) để chứng minh Người thực đang còn sống chứ không phải hồn ma.
Tuy nhiên thân xác Chúa Giê-su sau khi phục sinh lại có những đặc tính khác thường như: Đi xuyên qua tường mà vào nhà Tiệc ly khi các cửa nhà đều đóng kín vì sợ người Do thái (x. Ga 20,19). Khuôn mặt của Người sau phục sinh biến đổi khác trước khiến cô Ma-ri-a gặp Người mà lầm tưởng là người làm vườn (x. Ga 20.14-15), khiến hai môn đệ làng Em-mau không nhận ra Người trong suốt chặng đường dài đồng hành với Người và được nghe Người giải thích Kinh thánh (x. Lc 24,16). Thân xác Người có đặc tính siêu việt: Dù không có mặt tại chỗ mà vẫn biết được các đòi hỏi của ông Tô-ma (x. Ga 20,25).
HỎI 2) So sánh hai lần Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ giống và khác nhau như thế nào?
ĐÁP:
- Về nơi chốn và thời gian: Hai lần Chúa Phục Sinh đều hiện ra với nhóm môn đệ tại nhà Tiệc Ly và cùng vào chiều Ngày thứ Nhất trong tuần nhưng cách nhau 8 ngày. Từ đây Ngày thứ Nhất trở thành Ngày của Chúa (Chúa Nhật) thay thế ngày Hưu Lễ (Sa-bát) của đạo Do thái.
- Về số môn đệ hiện diện: Lần thứ nhất số các môn đệ hiện diện là 10 vị do thiếu Tô-ma và lần thứ hai đủ 11 vị. Cả hai lần đều thiếu Giu-đa phản bội.
- Về lời chào đầu tiên: Trong cả hai lần Chúa Phục Sinh đều chào các môn đệ bằng một công thức giống nhau: “Bình an cho anh em!”.
HỎI 3) Trong lần hiện ra thứ hai với các Tông đồ và có Tô-ma ở đó. Chúa Phục Sinh đã ra lệnh cho Tô-ma sờ vào các vết thương ở tay và cạnh sườn Người. Vậy Tô-ma có làm như vậy không?
ĐÁP:
Tô-ma tượng trưng cho những người cứng tin, chỉ tin Chúa thực sự sống lại dựa vào cảm nghiệm và sự xét đoán theo lương tri của mình, chứ không dựa trên lời nói của người khác kể lại. Nhưng trong lần này, sau khi được gặp Chúa Phục Sinh và được nghe Người truyền xỏ ngón tay vào lỗ đinh ở bàn tay Thầy, thọc bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Thầy đúng như đòi hỏi trước đó của ông, thì Tô-ma đã tin Thầy thực sự sống lại, biểu lộ qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con!”. Tin mừng không đề cập đến việc ông có sờ vào các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Thầy như ông đã yêu cầu trước đó hay không (c. 27-28).
HỎI 4) Đức tin của Tô-ma giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu sau này?
ĐÁP:
Chúa Giê-su nói với Tô-ma và qua ông, Người muốn nhắn nhủ các tín hữu chúng ta hôm nay: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Thực vậy: có những mầu nhiệm về Thiên Chúa, mà người phàm tuy không thể thấy hay không cảm nghiệm được nhưng vẫn phải tin qua các chứng nhân đức tin. Vì đức Tin là điều kiện để được vào Nước Trời của Chúa Giê-su: "Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16,16).
Nên biết rằng cũng nhờ tuyên xưng đức tin, mà tông đồ Phê-rô đã được Chúa Giê-su đặt làm đá tảng đức tin của Hội thánh, được trao quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19), quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17) và quyền củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,23). Các Tông đồ cũng được Chúa Giê-su trao quyền giáo huấn về đức tin: “Ai nghe anh em là nghe Thầy. Ai khước từ anh em là khước từ Thầy. Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40; Lc 10,16).
Tóm lại: Việc tông đồ Tô-ma cứng tin lại chính là sự bảo đảm cho lòng tin của chúng ta hôm nay. Vì niềm tin vào mầu nhiệm Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời rao giảng, nhưng dựa trên đức tin của những chứng nhân sáng suốt và thực tế, đã nhìn thấy tận mắt và đã sờ tận tay chính Chúa Phục Sinh. Do đó, thánh Grê-gô-ri-ô đã quả quyết như sau: ”Chính ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; bàn tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn. Đó là Đức Giê-su đã sống lại”.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Tầm quan trọng của đức tin trong cuộc sống:
Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về một tu sĩ Hồi Giáo tên Nas-rud-din như sau:
Một ngày nọ, nhà của thầy Nas-rud-din bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội trèo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống thầy chỉ còn "ngàn cân treo sợi tóc". Họ liền căng một tấm thảm dưới sân, chia nhau giữ bốn góc thảm rồi cùng giơ thảm lên và hô lớn:
- Nhảy đi, Thầy hãy mau nhảy xuống đi!
Thầy Nas-rud-din nói:
- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành trò cười cho các anh!
- Ôi, Thầy ơi! Không phải chuyện đùa đâu, Thầy phải mau nhảy xuống đi!
Thầy Nas-rud-din vẫn ngoan cố không nghe và nói:
- Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, rồi tôi sẽ nhảy.
Tin là thái độ chấp nhận sự bấp bênh, chấp nhận mình có thể bị lừa dối. Nhưng thực tế người ta sẽ không thể sống nếu không tin vào người khác. Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy lòng dạ con người, nhưng mọi người đều tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn hữu...
2) Tại sao người ta có thể nhận biết và tin thờ Thiên Chúa?
Có một nhà bác học đã vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập dẫn đường. Nhà bác học để ý cứ vào lúc hoàng hôn, thì những người Ả Rập đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Các ông đang làm gì vậy?
Họ liền trả lời: Chúng tôi thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại:
- Vậy chứ các ông đã thấy Allah bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã từng nghe thấy tiếng Ngài nói khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
- Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe Allah bao giờ cả?
Nhà bác học lên giọng:
- Các ông thực là những người điên, khi mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều quan sát và sau đó nói với hướng dẫn viên:
- Ông hãy nhìn mà xem, chắc chắn là tối hôm qua đã có một con lạc đà đi ngang qua đây rồi.
Ônghướng dẫn viên liền hỏi nhà bác học:
- Vậy chắc ông đã nhìn thấy lạc đà đi ngang qua đây đêm hôm qua chứ? Hoặc là tay đã sờ vào lông con lạc đà trong lúc ông đang ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
- Không, tối hôm qua tôi ngủ rất ngon, đâu có nhìn thấy lạc đà và cũng không sờ vào lông nó.
Hướng dẫn viên lại hỏi:
- Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết có lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi mắt ông không thấy, tai ông không nghe tiếng bước chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
- Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn nguyên trên mặt cát đây sao?
Cùng lúc đó, mặt trời bắt đầu ló rạng. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
- Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chẳng phải là dấu chỉ sự hiện diện của Allah, Chúa chúng tôi tôn thờ hay sao?
3) Sức mạnh của mầu nhiệm Phục Sinh:
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn lập ra một tôn giáo mới với giáo lý rất dễ hiểu dễ tin. Nhưng ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan ra để thuyết phục thiên hạ mà chẳng mấy người tin theo. Ông bèn than thở với một người bạn thân thì nhận được một lời khuyên như sau: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Na-pô-lê-on! Điều mà Na-pô-lê-on muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại. Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
4) Thực thi lòng mến cụ thể: phương thế loan báo tin mừng hữu hiệu:
Ngày nay rao giảng về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh cho người khác có thể chấp nhận không dễ dàng. Ngòai việc cần ơn trợ giúp của Chúa, còn cần phải có chứng tích cụ thể của người rao giảng. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:
Một vị linh mục ở nước Bờ-ra-din (Brasin) đã thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của mình như sau: “Mỗi ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Ri-ô đờ Da-nê-rô (Rio de Janeiro), tôi đều thấy một thanh niên ngồi dựa lưng vào tường và chìa chiếc nón ra xin tiền khách qua đường. Anh ta không đi lại được vì đôi chân bị què. Sau đó vì đã nhiều lần qua lại trên con đường này, nên tôi không còn để ý đến chàng thanh niên hành khất bị què kia nữa.
Rồi một hôm, khi tôi đang đứng nói chuyện với một người quen ở bên kia đường, thì thấy có nhiều người đi ngang qua chỗ anh què ngồi ăn xin mà làm như không nhìn thấy anh và không chia sẻ tiền bạc gì giúp đỡ anh. Tôi liền nghĩ đến thái độ làm lơ của thầy tư tế và thầy lê-vi trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu. Hai ông này đã tránh sang một bên đường mà đi và chỉ có người Sa-ma-ri ngoại giáo tỏ lòng thương xót nạn nhân bằng hành động cụ thể (x. Lc 10,30-35). Tôi quyết định noi gương người Sa-ma-ri nên đã vui vẻ tiến lại gần bắt chuyện: “Này anh bạn, anh có thể đứng dậy được không? Anh có muốn đi đứng giống như mọi người không?...”Lúc đầu, anh ta đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn tôi dò xét, và khi đọc được sự thành thật trên gương mặt của tôi, anh đã trả lời: “Tôi luôn hy vọng sẽ có ngày cuộc đời của tôi tốt hơn và tôi được thoát khỏi cái nghề ăn xin nhục nhã hiện nay. Dĩ nhiên là tôi mơ ước một ngày nào đó tôi có thể tự mình đi đứng được như bao người khác. Nhưng làm sao kiếm ra tiền để lắp một đôi chân giả và mua được một cặp nạng đây?” Sau khi nghe anh tâm sự, tôi đã síết chặt tay anh và nói: “Tôi xin hứa là trong một ngày gần đây, giấc mơ của anh sẽ trở thành hiện thực”.
Trong bài giảng Thánh lễ Chúa Nhật mùa Chay hôm ấy, tôi đã kể về số phận đáng thương của người ăn xin này cùng với ước mơ nhỏ bé của anh. Rồi tôi đề nghị cộng đoàn cùng nhau làm một cuộc lạc quyên tại chỗ để giúp đỡ anh ta như một cách ăn chay tinh thần. Số tiền lạc quyên thu được trong thánh lễ hôm ấy đã gần đủ tiền chi phí làm đôi chân giả và cặp nạng gỗ mà người ăn xin đang cần. Tuần sau, khi tôi và hai đại diện cộng đoàn đến gặp và cho biết kết quả thì chàng thanh niên kia rất vui mừng. Ngay lúc đó, anh được chở đến bệnh viện chấn thương chỉnh hình để được ráp một đôi chân giả, và bắt đầu tập đi với đôi nạng mới.
Trong lễ Phục Sinh năm ấy, tôi mời anh đến nhà thờ dự lễ và dành cho anh chỗ ngồi đặc biệt cạnh bàn thờ chính. Trong bài giảng, tôi đã đề cập đến trường hợp của anh như sau: “Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Giê-su trỗi dậy từ trong cõi chết, bước vào một cuộc sống mới. Người kêu gọi chúng ta mở rộng lòng giúp đỡ những anh chị em đang lâm cảnh nghèo khổ để họ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Hôm nay, nhờ sự quảng đại của cộng đòan mà anh bạn của chúng ta đây đã nhận được một cuộc sống mới”. Nói đến đây tôi mời anh què đứng dậy để giới thiệu anh với cộng đoàn. Sau đó mọi người trong nhà thờ đều phấn khởi khi nghe những lời phát biểu chân thành của anh, và vỗ tay tán thưởng khi nghe anh ngỏ ý xin gia nhập cộng đoàn. Cuối cùng anh què đã được xếp vào đội hình những người lên dâng lễ hôm đó.
3. THẢO LUẬN:
1) Bạn đánh giá thế nào về phương cách truyền giáo của vị linh mục người Bờ-ra-din trong câu chuyện trên?
2) Bạn sẽ làm gì trong những ngày này để giúp một người lương tin nhận Chúa và đón nhận được ơn cứu độ của Người?
4. SUY NIỆM:
1) Dễ tin và cứng lòng:
- Trong cuộc sống đời thường, ngòai việc nhận biết mọi sự nhờ tai nghe mắt thấy, chúng ta còn cần tin vào lời dạy của thầy cô ở nhà trường thì mới có thể thăng tiến về học tập và trau dồi kiến thức; Tin vào cha mẹ mới nên người tốt được; Tin vào đối tác làm ăn mới kinh doanh thành công được... Tuy nhiên thực tế nhiều khi chúng ta đã bị lừa khi “tiền mất tật mang” nếu dễ tin, khi vâng theo lời những kẻ lừa đảo ăn nói giảo hoạt. Do đó, chỉ nên tin nếu hợp lý và người nói có uy tín chưa từng dối gạt ai và “nói có sách, mách có chứng”.
- Riêng về mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su, các môn đệ không phải là những người dễ tin: Dù các ông đã từng được nghe Đức Giê-su ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người tại Giê-ru-sa-lem, nhưng các ông vẫn không muốn chấp nhận điều đó (x Mt 16,21-23). Rồi sau cuộc tử nạn của Chúa, khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin Thầy Giê-su vẫn còn sống và chính bà đã được gặp Người, nhưng các ông vẫn không tin (x Mc 16,9-11). Vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, khi Chúa Phục Sinh hiện đến tại nhà Tiệc Ly cửa đóng then cài thì các môn đệ sợ hãi như nhìn thấy ma. Chúa Giê-su đã phải trấn an các ông và chứng minh cho các ông thấy Người không phải là ma: “Sao anh em lại hỏang hốt? Sao anh em ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,38-40). Sau đó thấy các ông vẫn chưa tin, Người đã ăn một mẩu cá nướng trước mặt các ông (x Lc 24,41-43). Do đó một khi các ông tin là đã dựa vào những chứng cớ xác thực.
2) Đức tin của Tô-ma và của các tín hữu hôm nay:
- Tô-ma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của các tín hữu chúng ta. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn sau khi Thầy bị bắt và đã sống trong u sầu thất vọng. Nhưng rồi ông đã quay về với cộng đoàn và đã tìm thấy đức tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh.Tuy Tô-ma cứng tin, nhưng sau khi đã gặp Chúa và cảm nghiệm về tình thương của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh hơn các môn đệ khác qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Chúa Giê-su đã qua Tô-ma chúc phúc cho các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
- Ngày nay tuy không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với Người như các tông đồ khi xưa… Nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của các tông đồ là những người không dễ tin nhưng đã cảm nghiệm được mầu nhiệm phục sinh như thánh Grê-gô-ri-ô đã nói: “Ngón tay đa nghi của Tô-ma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; Bàn tay đa nghi của Tô-ma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là Đức Giê-su Ki-tô thực sự đã sống lại”. Triết gia Pas-cal cũng đồng quan điểm khi nói: "Đức tin không đến từ lý trí nhưng từ con tim."
3) Truyền đạt Đức Tin cho con người ngày nay bằng cách nào?
Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao cho Hội Thánh sứ vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,19-20). Rao giảng Tin Mừng cho thế giới hôm nay thực không dễ chút nào. Muốn thuyết phục con người ngày nay tin vào Chúa Giê-su, tin vào Tin Mừng mà Người rao giảng thì cần có các điều kiện như sau:
- Một là phải cầu xin ơn Thánh Thần: Các tông đồ xưa sau khi Chúa lên trời đã cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a và các anh em Chúa, với các môn đệ… nên đã nhận được ơn Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau khi được Thánh Thần tác động, việc tông đồ truyền giáo của các ông mới thành công: Sau bài giảng đầu tiên của Phê-rô đã có ba ngàn người xin theo đạọ (x. Cv 2,41). Thực đúng như lời Đức Giê-su đã nói với các môn đệ trong bữa tiệc ly: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
- Hai là phải hiệp nhất với các mục tử trong Hội Thánh: Chỉ khi kết hiệp với Chúa Giê-su và vâng nghe lời sai đi của các vị chủ chăn trong Hội Thánh, việc tông đồ của chúng ta mới được ơn Chúa giúp và mang lại kết quả như câu chuyện mẻ cá lạ lùng: ông Si-mon đã thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm, mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Các ông đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới (Lc 5,6). Thánh Phao-lô cũng dạy: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15).
- Ba là phải rao giảng bằng lối sống chứng nhân tình thương: Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và vô tín. Cách thức duy nhất làm cho họ tin là giúp họ “nhìn thấy” Đức Giê-su và “đụng chạm“ vào Người qua chính lối sống của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm tốn phục vụ của các chứng nhân đức tin, như Đức Phao-lô VI đã nói: “Người đương thời sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn là thầy dậy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính các thầy dậy cũng là những chứng nhân”.
4) Thể hiện “Lòng Chúa Thương xót” đối với tha nhân:
- Vào ngày 30/4/2000 Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã tuyên thánh cho Nữ tu Faus-ti-na Ko-wals-ka và chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm làm ngày kính Lòng Chúa Thương Xót. Tông đồ Tô-ma đã được Chúa Giê-su thương xót khi thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của ông. Sau này Chúa Phục Sinh cũng hiện ra với thánh nữ Faus-ti-na qua một thị kiến bày tỏ lòng thương xót của Người. Thánh nữ Faus-ti-na đã thuật lại thị kiến ấy như sau: “Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng bí tích Thánh Thể và bí tích Rửa Tội”.
- Đức Giê-su là hiện thân Lòng Thương Xót của Chúa Cha qua việc chịu đau khổ do các vết thương ở tay chân, qua nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu. Chúng ta hãy cùng thánh nữ Faus-ti-na thưa với Người rằng: “Lạy Chúa Giê-su, con xin tín thác vào Người!” Mỗi người hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót đối với các tội nhân qua lối sống yêu thương hiệp nhất, chia sẻ các món quà cụ thể và luôn quan tâm săn sóc những người bệnh tật đau khổ, sẵn sàng tha thứ lỗi lầm cho những ai xúc phạm đến mình…
5. LỜI CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Tông đồ Tô-ma tuy lúc đầu cứng tin, nhưng sau đó đã đạt đến một đức tin trọn hảo khi ông gặp được Chúa Phục Sinh. Cũng nhờ sự “cứng tin” của Tô-ma lại trở thành chỗ dựa vững chắc cho đức tin của chúng con hôm nay. Rồi đến lượt các tông đồ cũng chứng tỏ lòng trung thực và khiêm tốn, khi không chỉ thuật lại những điều tốt lành, mà còn thuật lại cả những thiếu sót, chậm tin và hồ nghi của các ngài… để nhờ đó đức tin của chúng con hôm nay thêm vững mạnh. Giờ đây cùng với tông đồ Tô-ma, chúng con tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa Giê-su. Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa của chúng con. Xin thương xót chúng con”.
- Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi thương xót. Xin cho chúng con được ngụp lặn trong đại dương bao la của Lòng Chúa Thương Xót, được tắm gội trong Máu và Nước đã tuôn trào từ Thánh Tâm Con yêu dấu của Cha là Chúa Giê-su. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê-su Ki-tô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin hai Thánh Faus-ti-na và Gio-an Phao-lô II cầu bầu cùng Chúa cho chúng con hôm nay và luôn mãi.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
16.Lòng Thương Xót Chúa tồn tại đến muôn đời--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khởi đi từ năm 1931, lòng thương xót Chúa đã mạc khải cho nữ Thánh Faustina về lòng tôn sùng lòng thương xót Chúa; mà Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã quyết định thiết lập lễ kính lòng thương xót Chúa vào Chủ Nhật thứ II sau Phục Sinh khi phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000 và phổ biến Thông điệp đó trên toàn cầu.
Suy niệm đoạn Tin Mừng (Ga 20, 19-31) Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.
Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại" (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân "tha thứ các tội lỗi" diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa" (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, "hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước". Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa", diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.
Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Đức Thánh Cha Phanxicô xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tin vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa", bây giờ và mãi mãi. Amen.
17.Lòng từ bi Chúa tồn tại đến muôn đời--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nhân dịp phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt tên cho Chúa nhật tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh là Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, kính nhớ việc Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.
Bài Tin mừng theo thánh Gioan (20,19-31) hôm nay chung cho cả ba năm Phụng vụ A,B,C nói nhiều đến lòng thương xót và lân tuất của Chúa. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: " Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại" (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân "tha thứ các tội lỗi" diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa" (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ trái tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, "hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước". Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa", diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là tình yêu thương của Thiên Chúa nhập thể, là Lòng Thương Xót nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.
Ngày nay, Lòng thương xót là một chủ đề Đức Thánh Cha Phanxicô rất thường nói đến, như được thể hiện trong châm ngôn giám mục ngài đã chọn: “miserando atque eligendo” (Được thương xót và được chọn).
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin đầu tiên sau khi được bầu làm giáo hoàng, ngài đã nói: “Dung mạo của Thiên Chúa là dung mạo của một người Cha đầy lòng thương xót, đầy nhẫn nại với chúng ta. Người thấu hiểu chúng ta, chờ đợi chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta mà không bao giờ mệt mỏi, nếu chúng ta chạy đến với Người với tâm hồn sám hối… Lòng thương xót sẽ biến đổi thế giới. Một chút lòng thương xót thôi cũng làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và thêm công chính” (Kinh Truyền Tin, 17-03-2013).
Gần đây nhất, trong buổi đọc kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha cũng bày tỏ: “Tôi mong muốn biết bao rằng nơi nào Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và các cộng đoàn của chúng ta, nơi ấy sẽ trở thành những hải đảo thương xót giữa lòng đại dương vô cảm!”
Ngài xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm, 26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Ðấng cứu chuộc chúng con. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, xin cho chúng con được cùng với các thánh, hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa", bây giờ và mãi mãi. Amen.
18.Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa Phục Sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? đòi hỏi của ông có thật sự cần thiết không? gặp được Thầy Giêsu sống động, đi lại, nói năng và ăn uống như người thường, chẳng lẽ lại không đủ sao? tại sao ông lại đòi hỏi phải được “cho xem tay và cạnh sườn” Người? hơn nữa, việc mắt thấy tay chạm có ý nghĩa đặc biệt nào đối với nhóm môn đệ nhút nhát, nhất là đối với ông Tô-ma?
Dưới cặp mắt các môn để, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý về cái chết đau đớn của một thân xác treo trên giá thập tự. Đối với các ông - và đó cũng là nội dung giáo huấn trường kỳ của Đức Giêsu trước đây, dấu đinh trên tay chân và vết thương nơi cạnh sườn mà họ nhìn thấy nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, diễn tả tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ thân yêu một điều gì vượt xa lời khảng định rằng: Người đã sống lại về mặt thể lý. Điều Người muốn khảng định qua các dấu tích đó là: tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng! Các môn đệ do đó cần một cảm nhận cụ thể để tin vào điều này cách vững bền. Các ông là những nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó vẫn còn sống, vì nó là vô địch.
Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là thách thức: “Nếu tôi không….” Phần mình Đức Giêsu phục sinh đã coi yêu cầu đó là hoàn toàn chính đáng, và Người không ngần ngại đáp ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Quả vậy, Tô-ma và tất cả các môn đệ khác đều cần tới cái cảm nghiệm cụ thể này, nhất là sau tất cả các biến cố xáo trộn mà các ông vừa trải qua; ông đã thấy, đã chạm vào các dấu tích…, và ông đã tin. Ông không chỉ tin Chúa đã sống lại, mà đúng hơn: tin vào sự toàn thắng của tình yêu cứu độ.
Đối với Kitô hữu chúng ta thuộc các thế hệ sau này thì sao; Đức Giêsu đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không còn cần thiết! Ngược lại là đàng khác! Tuy nhiên Người khảng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì phải đụng tới bằng giác quan thể lý, “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Bí tích Thánh Thể mà Người đã thiết lập chính là để các tín hữu trải qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh trên tay chân và vết thương cạnh sườn Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể vì thế trở nên tâm điểm của đời sống Kitô hữu, chính vì nơi đây, trong niềm tin, các Kitô hữu từng người một, cảm nghiệm cách rất riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lặp lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cùng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”; đúng là họ, hơn bất cứ ai khác, cần đụng chạn tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Kitô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm! Họ sẽ có cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong hành lan đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” (Cv 3:6) Mọi Kitô hữu, bao gồm cả tu sĩ, linh mục lẫn giáo dân, cách riêng các tân tòng, đều cần ý thức rằng: họ không nhất thiết phải là người giầu có nhất về mặt vật chất tiền của, cũng không cần là những người phong phú nhất về diện tinh thần hay thiêng liêng, nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới, và được cử hành cách sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Kitô Giêsu.
Riêng cá nhân tôi! tôi có thực sự xác tín điều này không?
Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được dùng đức tin để xỏ ngón tay con vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng: tình yêu cứu độ Chúa dành cho con quả là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người cảm nhận mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tin chắc rằng: tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm Phục Sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống hàng ngày của con. Amen.
19.Phục sinh: tạo dựng con người mới trong Thần Khí thứ tha--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Theo tông đồ Gio-an: lần Đức Kitô Giêsu hiện ra trước đông đủ các môn đệ sau khi sống lại (việc hiện ra lần hai có mặt cả Tô-ma, càng nhấn mạnh sự đông đủ này) có một tầm quan trọng rất lớn. Sau những lời chào hỏi và tự giới thiệu, Người đã tuyên bố một điều và làm một cử chỉ long trọng hầu biểu lộ trọn vẹn bản chất sâu xa nhất của tông đồ đoàn và của người môn đệ, tức là của những kẻ tin và thuộc về Người – của Hội Thánh. Người thổi Sinh Khí mới vào các môn đệ và sai các ông ra đi để thứ tha; “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Nếu trước đó Người đã ‘cho các ông xem tay và cạnh sườn’ thì cũng chỉ là: để các ông nhận ra Con Người Phục Sinh cũng chính là Con Người Cứu Chuộc. Con Người đó đã được Chúa Cha sai đến để cứu rỗi trần gian, “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Người Con này một khi đã sống lại, cũng yêu thế gian đến nỗi, đã sai các môn đệ của mình đi, hầu tiếp tục sứ vụ làm cho thế gian khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’.
Cũng như trong cuộc tạo dựng đầu tiên, hơi thở của Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người để làm cho A-đam được sống, thì cũng vậy, hơi thở của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh thổi Thần Khí vào các môn đệ, hầu các ông trở thành sinh vật mới. Nếu thổi hơi lần đầu đã ban cho con người quyền sống để làm bá chủ muôn loài (St 2:7), thì hơi thổi lần hai này ban cho người môn đệ ơn tha thứ, để rồi họ cũng thi hành quyền thứ tha cho hết mọi người “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”. Nếu Thiên Chúa tạo dựng là Thiên Chúa hằng sống, và ai nhận được hơi thở của Ngài sẽ có sự sống và có khả năng thông truyền sự sống (St 1:28), thì Đức Kitô Phục Sinh là hiện thân Thiên Chúa thứ tha và xót thương, nên ai nhận được hơi thở của Người cũng được tha thứ, và có khả năng làm lan tỏa thứ tha tới hết mọi người; như thế, trong Thần Khí Đức Kitô Phục Sinh người môn đệ trở nên tạo vật mới đầy tràn sức sống của thứ tha và xót thương. Nếu mọi con người đều có quyền sống, thì mọi Kitô hữu đều có quyền sống thứ tha! Nếu mọi người nhân loại đều phải bảo vệ sự sống và truyền sinh, thì mọi Kitô hữu trong Hội Thánh cũng đều phải bảo vệ ơn tha tội và thúc đẩy việc thứ tha! Tôi thiết tưởng: cái gọi là ‘quyền tha tội và cầm buộc’ của Hội Thánh phải được hiểu trong ý nghĩa và nội dung này.
Về mặt này tôi rất tâm đắc với nhận xét của Hurault trong Christian Community Bible: “Kitô hữu càng nỗ lực tiến xa trong đời sống thiêng liêng luân lý, thì càng thấy mình chưa được hoàn toàn giải thoát khỏi tội lỗi. Do đó họ càng cảm nhận ơn tha tội là một quà tặng và quyền lợi lớn lao nhất được ban cho Hội Thánh. Tội không phải chỉ là những lỗi luân lý phạm hàng ngày, trong đó phần sai lầm và yếu đuối là chính. Tội thực ra là từ chối hay e sợ nộp mình cho Thiên Chúa tình yêu và tha thứ, là Đấng duy nhất có khả năng đưa chúng ta đến một cuộc sống hoàn toàn trần trụi, nhưng lại hoàn toàn viên mãn. Một khi tha tội cho chúng ta, Người ban cho ta khả năng biết tự nộp mình cho Người. Nói cách khác, đó là khả năng tha thứ, là sức mạnh duy nhất cho phép ta giải quyết và giải phóng mọi kiểm tỏa con người… Thái độ dung thứ là bí quyết vô cùng quí giá mà Hội Thánh phải xem là tài sản độc đáo nhất của mình, là Tin Mừng mình đón nhận và trao ban cho thế giới… Kitô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội tức là họ ý thức thân phận tội lỗi trường kỳ của mình, họ đón lấy hơi thở Thần Khí thứ tha của Thiên Chúa, và họ quyết sống tình yêu tha thứ này luôn mãi trong đời mình và trong mọi tương quan với tha nhân. Tha thứ, đối với họ, là quyền sống căn bản nhận được từ Đức Kitô Phục Sinh, mà họ sẽ cố bảo vệ bằng mọi giá”. Như thế: ai càng thuộc về tông đồ đoàn, thì càng phải cảm nhận được hơi thở tha thứ của Đức Kitô Phục Sinh cho mình; càng là tín hữu trung kiên trong Hội Thánh, tôi càng phải sở đắc và sống sung mãn ơn cứu độ và thứ tha.
Tôi thiết nghĩ, trong tư cách một linh mục của Hội Thánh, tôi là người trước hết phải nắm bắt được bản chất thánh thiện đích thực này của Giáo Hội, và thi hành quyền ‘thứ tha’ mà Đức Kitô đã ban cho Hội Thánh trong Thánh Thần với tất cả sự khẩn trương và quảng đại. Đặc biệt trong thế giới hôm nay, khi mà giới trẻ đang trông chờ được Hội Thánh chính thức trình bày cho chúng khuôn mặt thật này của Đức Kitô Phục Sinh: một Đức Kitô đầy nhân ái và thứ tha mà chúng hằng mong đợi.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thần Khí một lần nữa trên con và trên mọi tín hữu như Chúa đã thổi trên các môn đệ trong lần hiện ra đầu tiên. Trong đêm Phục Sinh, con đã tuyên xưng mình muốn sống Kitô hữu cách trọn vẹn hơn. Xin dạy cho con hiểu rằng: sống Kitô hữu là giữ trọn quyền được tha thứ và thứ tha cho tha nhân. Xin hãy sai con đi làm chứng tá cho tình yêu Phục Sinh của Chúa. Amen.
20.Nền công lý Phục Sinh--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Gioan thật nhẹ nhàng khi mô tả 04 lần Đức Giêsu hiện hình sau khi ra khỏi mồ: lần một cho Maria Mác-đa-la, 02 lần sau cho các môn đệ tụ họp trong nhà, và lần cuối cho một số môn đệ trên bờ hồ Ti-bê-ri-a. Và trong tất cả các lần hiện ra này, chẳng có gì là hoành tráng cả, không hào quang chói lọi, không uy nghi rực rỡ…, nhưng rất đời thường, có luôn cả cảnh ăn uống bình dị nữa; thế nhưng, hình như có một điều gì đó hết sức phi thường ẩn dấu dưới cái tầm thường, một sức sống hoàn toàn mới bừng lên giữa bầu không khí lạnh lẽo của thương tích và chết chóc.
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay nói về hai lần Chúa hiện hình với các môn đệ đang qui tụ trong nhà; ngay từ thời xa xưa, hình như đoạn văn này đã có một tầm quan trọng đặc biệt đối với đức tin của các Kitô hữu tiên khởi. Niềm tin của các môn đệ, đặc biệt của Tô-ma là đề tài của hai lần hiện hình này. Các môn đệ, sau khi được xem các dấu đinh nơi tay và cạnh sườn Đấng Phục Sinh, đã tin rằng: Thầy Giêsu từng chết nhuốc khổ trên cây thập tự và được tẩm liệm mai táng trong nấm mồ đá, nay đã sống lại thật rồi. Tông đồ Tô-ma còn được Đấng Phục Sinh mời gọi đích danh, “đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy; đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”, chỉ vì ông chưa xác tín đủ niềm tin ấy.
Ta có thể thắc mắc: câu tuyên xưng đức tin của Tô-ma, cũng là đại diện cho các môn đệ khác, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” thực sự có ý nghĩa và mang nội dung gì? Các ông muốn tuyên xưng rằng: Thầy Giêsu quả đã sống lại, hay Giêsu là Thiên Chúa quyền uy thống trị, hay một điều gì khác? Hơn nữa khi cho các môn đệ xem, và mời gọi Tô-ma cách đặc biệt chạm tay vào các lỗ đinh và vào vết thương cạnh sườn thì chủ đích của Người là gì? Nếu chỉ là để xác nhận thực con người đã chết nay sống lại, thì hẳn niềm tin này sẽ làm cho các môn đệ hết sức kinh hãi; các ông đã chẳng người bán kẻ chối, kẻ khác thì trốn chạy trước cái chết của Thầy mình là gì? Có thể phần nào là đúng như vậy, vì trong lần hiện hình nào Người cũng khởi đầu bằng câu chào: “Bình an cho anh em!” Còn nếu để minh định mình là Đức Chúa quyền uy theo quan niệm Cựu Ước thì Người đã thất bại, vì thân thể và cách thức Người xuất hiện thực chẳng có gì là sáng láng uy hùng cả. Đàng này tác giả Gio-an lại cho biết: ‘các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa’. Hình như trong các lần hiện hình này Đức Giêsu đang muốn xây dựng nơi các ông một niềm tin mang nội dung tích cực: niềm tin tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Quả thực, để cụ thể hóa niềm tin rất mới mẻ và thiết yếu đó, Người không những đã muốn các ông chạm vào các dấu đinh - bằng chứng của tình yêu cứu độ - mà còn trao vào tay các ông một sứ mệnh mới, rồi sai các ông ra đi loan truyền.
Sức sống của niềm tin vào tình yêu tha thứ được xác định là Thánh Thần. Chính Thần Khí này đã đưa Giêsu vào trần gian, đã hướng dẫn bước đường cứu chuộc của Giêsu nơi dương thế, đã dẫn đưa Giêsu tới hiến mình trên thập giá, đồng thời cũng làm cho Giêsu sống lại. Thánh thần từ nay được ban cho các môn đệ và tất cả mọi kẻ tin; “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thế là từ nay, trong niềm tin vào Giêsu Kitô phục sinh, tất cả các môn đệ đều nhận được một sức sống mới! Họ trở thành những con người mới, không chỉ vì họ sẽ sống vẹn sạch tinh tuyền, nhưng chính yếu là vì, từ nay họ được thông phần sâu xa vào tình yêu cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho họ.
Cùng với sức sống này, họ được trao cho một sứ mệnh quan trọng: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Nếu trước đây, khi nói cho Phê-rô cùng một câu này (xem Mt 16:19) Đức Giêsu có thể ngụ ý về một quyền bính nào đó, thì bây giờ, khi quyền này được ban cho hết mọi môn đệ (cũng là cho mọi Kitô hữu) thì ý nghĩa của nó lại càng trở nên hiển hiện hơn: sau khi nhận lãnh Thánh Thần tình yêu, sứ mệnh của môn đệ phải là tha và cầm giữ như chính Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại từng làm. Điều này có nghĩa là từ nay sứ mệnh đích thực của các ông là mang đến cho trần gian một nền công lý mới: công lý của nhân từ và tha thứ như chính Đức Kitô Thập Giá và Phục Sinh đã thứ tha, và của cầm giữ như chính Đấng cứu độ đã cầm giữ. Tắt một lời, đó là nền công lý của lòng từ bi nhân ái và của xót thương, thứ công lý không thể chối cãi của Thập Giá và Phục Sinh, thứ công lý mà chỉ những ai đón nhận Thánh Thần tình yêu mới có thể trao ban. Các môn đệ của Đức Kitô Phục Sinh, và mọi Kitô hữu, là những người duy nhật trên trần được trao vào tay thứ công lý đó, để từ nay cùng với Người họ thi hành việc xét xử trần gian trong cách thức này.
Lúc này đây, tôi chân thành gửi tới các anh chị em tân tòng lời chúc mừng; ngoài việc nhờ bí tích rửa tội được thanh tẩy nên tinh trắng, anh chị em đã nhận được Thánh Thần tình yêu, đã được ban cho một thứ uy quyền vượt lên trên mọi uy quyền, đó là uy quyền của lòng thương xót và nhân ái của Đấng Phục Sinh. Giữa một thế trần tội lỗi và lầm lạc, kể từ khi gia nhập vào cộng đoàn Hội Thánh là đoàn thể những người được Đấng đã chết và sống lại cứu chuộc, anh chị em được trao cho quyền lực cầm cân nảy mực xét xử nhân loại, không với sự công minh hà khắc nhưng với công chính của lòng nhân ái xót thương. Chúa Nhật Áo Trắng hôm nay, ngày của anh chị em tân tòng, được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II chọn làm ngày của Lòng Thương Xót Chúa thật chí lý lắm thay! Nếu Thập Giá và Phục Sinh là biểu hiện rõ ràng nhất của lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa, thì những ai tuyên xưng niềm tin này cũng đương nhiên phải trở thành con cái của lòng từ bi nhân hậu đó.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thánh Thần tình yêu vào con, để con cũng có quyền tha thứ và cầm giữ như Chúa - Đấng Cứu Độ. Hơn nữa, là linh mục của Hội Thánh Chúa, xin cho con biết luôn trở thành tiếng nói cho mọi người trần thế, nhất là những người tội lỗi, về thứ công lý mới này của Thập Giá và Phục Sinh. Xin cho con trong mọi hoàn cảnh luôn trở thành dấu chỉ và người mang đến cho nhân loại thứ quyền lực và công lý mới của Thập Giá: quyền lực và công lý của lòng thương xót vô biên. Amen.
21.Thánh Tôma và vết thương LTXC--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Nói đến vết thương, ai cũng rùng mình không muốn nhìn, chứ chưa nói tới đụng chạm vào. Vì sợ máu chảy cùng gây ra đau đớn. Nhưng Thánh Tông đồ Tôma lại nằng nặc đòi cho bằng được đụng chạm xỏ ngón tay vào vết thương của Thầy mình.
Một đòi hỏi táo bạo phiêu lưu mạo hiểm!
Thông thưòng thân xác hình hài diện mạo, tiếng nói, mầu da tóc cùng cá tính của một người là những đặc điểm giúp dễ nhận ra người đó hơn cả. Nhưng với Thánh Tôma lại khác. Theo Ông những vết thương nơi thân xác Thầy Giêsu mới là đặc điểm giúp Ông nhận ra Thầy mình.
Vì thế Ông qủa quyết với các Bạn Tông đồ: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không cỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25)
Một người có tầm nhìn suy nghĩ khác lạ không giống ai. Nhưng lại ẩn chứa một sự gì sâu xa bí nhiệm.
Vậy Ông Thánh Tôma là ai, và đòi hỏi cùng suy nghĩ khác lạ của Ông mang ẩn chứa sứ điệp đức tin gì?
1. Thánh Tôma Điđymô
Trong Hội Thánh Công giáo có nhiều Thánh cùng tên Tôma, như Thánh Tôma Aquino, Tôma Morus... Nhưng vị Thánh Tôma và vết thương Thầy Giêsu là một trong 12 Thánh Tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn kêu gọi ngay từ lúc đầu Ngài ra đi giảng đạo.
Thánh Tông đồ Tôma đã được học nghe Chúa giảng dậy, cùng chứng kiến những phép lạ Chúa làm, cùng sống trải qua cuộc đau thương khổ nạn của Chúa, được nhìn thấy Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa trở về trời và được tiếp nhận trực tiếp Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống ngày lễ Ngũ tuần.
Sau đó Thánh Tông đồ Tôma đã vâng mệnh Chúa Giêsu, sau khi Ngài trở về trời, ra đi rao giảng nước Thiên Chúa, thành lập Hội Thánh ở chân trời vùng Á Châu bên nước Ấn Độ.
Không có sử sách nào ghi chép về nơi chốn cùng ngày tháng sinh ra của Thánh Tôma. Chúa Giêsu kêu gọi Tôma làm Tông đồ ở Galilea nước Do Thái, khi đó Ông đang là một bác thuyền chài đánh cá ở sông hồ. Tên Tôma trong danh sách 12 Tông đồ Chúa Giêsu nơi ba Thánh sử Phúc âm Matheo (10,3), Maco (3,18) và Luca (6,15) được nói đến bên cạnh Thánh Tông đồ Matheo, còn trong sách Công vụ Tông đồ ở bên cạnh Thánh Philippus (Cv 1,13).
Tên Tôma có nguồn gốc từ tiếng Do Thái mang ý nghĩa là sinh đôi. Trong phúc âm theo Thánh Gioan Ông được gọi là Tôma Điđymô, theo tiếng Hylạp cũng có nghĩa là sinh đôi (Ga 11,16; 20,24)
Hội Thánh Công giáo Rôma mừng lễ kính Thánh Tôma Tông đồ vào ngày 03.Tháng Bảy hằng năm. Giáo Hội Chính Thống mừng lễ Thánh Tôma vào Chúa nhật thứ hai sau lễ Chúa phục sinh.
Con đường theo làm môn đệ Chúa Giêsu của Tôma cũng đã trải qua giai đoạn phải quyết tâm chọn lựa cùng chia sẻ với Thầy mình, và đòi Thầy mình mạc khải cho biết Thầy mình là ai.
2. Con đường theo chân Chúa
Không biết khi Chúa Giêsu kêu gọi Tôma, và những vị khác làm thành nhóm 12 Môn đệ đầu tiên của Ngài, họ đã có ý nghĩ về con đường đời sống, cùng công danh sự nghiệp trong nước Thiên Chúa như thế nào?
Thánh Tôma khi nghe Chúa Giêsu nói đến nỗi đau khổ cùng nguy hiểm, Ngài sẽ phải gánh chịu trong đời sống khi lên Giêrusalem, Ông đã mạnh dạn nói cùng các anh em Tông đồ: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chịu chết với Thầy” (Ga 11, 16)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. đã có suy tư về cung cách này của Thánh Tôma “Đó là một qủa quyết của lòng trung thành một mực theo chân Chúa cho dù phải đi tới đâu. Đây là mộ ví dụ điển hình trong mối tương quan theo chân Chúa: cùng sống, cùng chết, cùng cư ngụ ở trong trái tim người như Người ở trong trái tim ta.”
Thánh Tôma khi nghe Chúa Giêsu thầy mình nói đến sự thương khó cái chết gần kề của Ngài, Ông một mặt nói ngay lời tuyên xưng lòng trung thành của mình. Thầy đi đâu, con theo tới đó (Ga 14,4.) Và Ông cũng thắc mắc hỏi Thầy mình ngay, nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con có thể biết con đường đó?
Câu hỏi của Tôma, cũng theo Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI: “tương đối ở bình diện hiểu biết thấp. Nhưng lại là dịp lúc Chúa Giêsu nói lên những lời mạc khải về chính Ngài, và những lời đó trở nên thời danh cho mọi thế hệ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Rồi mỗi khi chúng ta nghe hay đọc những lời này, chúng ta có thể nghĩ rằng như đang đứng bên Thánh Tôma nghe Chúa Giêsu nói với mình như Ngài đã nói với Thánh Tôma khi xưa. Và chúng ta cũng được đặt ra câu thắc mắc của mình xin Chúa Giêsu cắt nghĩa cho hiểu, điều mình chưa hiểu. Đây là cung cách cầu nguyện với Chúa Giêsu trong sự tin tưởng cùng với sự giới hạn hiểu biết của mình.”
Xưa nay trong đời sống đạo Công giáo, khi nói đến Thánh Tôma Tông đồ không ai có thể quên bỏ qua mà không nghĩ tới, như tường thuật trong Phúc âm Thánh Gioan, về sự hoài nghi của Thánh Tôma - trong dân gian vẫn quen gọi là Tôma yếu kém lòng tin - , và từ sự hoài nghi đó dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
3. Vết thương lòng thương xót Chúa Giêsu
Anh em Tông đồ kể thuật lại cho Ông nghe về việc Chúa Giêsu sống lại hiện ra với họ. Nhưng Ông không tin vào những lời kể đó. Ông muốn chính mình phải được nhận ra Chúa Giêsu theo cung cách của Ông: Đụng chạm vào vết thương lòng thương xót của Thầy Giêsu.
Ông muốn được đụng chạm vào những vết thương của Thầy Giêsu.Vì với Ông đó là dấu ấn đặc điểm của Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập gía.
Ông không muốn đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh chỉ ở tầng bên trên. Nhưng cần phải đi sâu vào tận vết thương tình yêu của Chúa.
Với Ông, những vết thương đóng đinh nơi Chúa Giêsu là hình ảnh lòng thương xót của Ngài đối với con người, cùng quan trọng cho đức tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hiện ra cho Ông được nhìn thấy những vết thương nơi thân thể Ngài, sự hoài nghi nơi Ông liền biến ngay. Và từ đó đã dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh qua lời tuyên tín và cũng là lời cầu nguyện thâm sâu: Lạy Chúa, lạy Chúa của con. (Ga 20,28.)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. trong bài giáo lý về Thánh Tôma Tông đồ đã có suy tư: “Trường hợp của Thánh Tông đồ Tôma với chúng ta có ít nhất ba điều quan trọng: Thánh Tôma mang lại niềm an ủi cho chúng ta trong những khi chúng ta gặp hoài nghi; Thánh Tôma chỉ cho chúng ta, hoài nghi có thể dẫn đưa tìm đến ánh sáng giúp vượt qua sự bấp bênh mù mịt, và như Thánh Tôma, những lời của Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta đến ý nhĩa chính thật của đức tin. Đồng thời cũng giúp chúng ta can đảm, cho dù có những khó khăn hoài nghi, tiếp tục trung thành theo Chúa.”
***
Sách giáo huấn các Thánh tông đồ Didache viết vào thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh, cũng đề cập đến Thánh Tômas tông đồ đi truyền gíao ở bên Ấn độ và thành lập Giáo Hội ở đó.
Giáo phụ Origines viết tường thuật, Thánh tông đồ Tôma trước hết đi rao giảng Phúc âm ở Irak. Sau đó bước chân truyền giáo của Thánh nhân đi sang tới miền Nam Ấn Độ. Và vào khoảng những năm 70. của thế kỷ I. sau Chúa Giáng sinh ngài bị chết vì đức tin ở Mailapur.
Hội Thánh Công giáo bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa việc truyền giáo của Thánh tông đồ Tôma, ngày nay là một trong những Hội Thánh phát triển về nếp sống lòng đạo đức sầm uất, phát triển lớn mạnh cả về phương diện số giáo dân giữa lòng đất nước quê hương của Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Hội Thánh Công gíao bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa truyền giáo xây dựng đức tin của Thánh tông đồ Tôma đang có nhiều ơn kêu gọi tu trì.
Và Hội Thánh Công Giáo ở đây góp phần đáng kể vào việc giáo dục, bác ái xã hội cho đời sống cho con người.
22.Tha thứ là bản chất của Lòng Thương Xót--Lm. Anthony Trung Thành
Trong Tông Thư “Khuôn Mặt Xót Thương”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Trong dụ ngôn về lòng thương xót, Chúa Giêsu tiết lộ bản tính của Thiên Chúa như một người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi Ngài đã tha thứ kẻ sai phạm và vượt qua sự từ khước với lòng trắc ẩn và thương xót”.
Thật vậy, tha thứ là bản chất của Thiên Chúa. Trong thời Cựu Ước, biết bao lần dân Chúa phản bội, chạy theo các thần của dân ngoại, nhưng mỗi khi dân biết sám hối quay trở về thì Ngài sẵn sàng tha thứ. Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu luôn dạy về sự tha thứ. Khi Phêrô hỏi Chúa phải tha thứ bao nhiêu lần, có phải bảy lần không? Chúa trả lời “Không phải là bảy lần nhưng bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22).
Không những Chúa Giêsu dạy sự tha thứ mà chính Ngài đã thực hành sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Phêrô qua cái nhìn đầy trìu mến yêu thương sau khi Phêrô chối Ngài ba lần. Ngài tha thứ cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ cho những người đóng đinh Ngài “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu không hề nhắc tới tội của Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ. Sự nghi ngờ của ông Tôma. Ngài tha thứ cho họ tất cả. Ngài tha thứ cho Phaolô khi ông trên đường đi lùng bắt các kitô hữu. Nếu Giuđa có lòng thống hối, chắc chắn Chúa cũng sẽ tha luôn. Ngài đã lập Bí tích Giao Hoà để tha thứ tội lỗi cho con người mỗi khi con người phạm tội và biết thống hối ăn năn. Chính trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông đồ quyền tha tội : “Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha” (Ga 20,23).
Giáo Hội qua mọi thời đại không những thi hành sự tha thứ cho các tội nhân qua bí tích Giao Hoà mà còn thực hành sự tha thứ trong cuộc sống. Sách Công Vụ Tông đồ cho biết, chính Thánh Phêrô đã sống tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu trên Thánh giá khi coi hành động của những người Do Thái và cả của các thủ lãnh của họ như “do không hiểu biết” (Cv 27,25). Thánh Stêphanô đã cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho Phaolô (x. Cv 7,60). Muôn vàn gương tha thứ khác của Giáo Hội và các thành viên trong Giáo Hội mà chúng ta không thể kể hết ra đây. Trong thời đại chúng ta có gương tha thứ của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Ngày 13 tháng 05 năm 1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhỉ Kỳ, đã cố ý giết Đức Thánh Cha Gioan Phalô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma. Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Ngài đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là tha thứ cho y.
Trong cuộc sống chung, không thể tránh khỏi những va chạm, có những va chạm gây ra đổ máu, chết chóc: Giữa các thành viên trong gia đình; giữa những người làng xóm làng giềng với nhau; giữa bạn bè; giữa những người trong cộng đoàn; giữa những người không quen biết; có những va chạm đến từ những người không cùng quan điểm, tôn giáo với chúng ta, họ ghen ghét vì chúng ta là người kitô hữu...Nhưng trong mọi trường hợp, Chúa và Giáo Hội luôn mong muốn chúng ta phải thể hiện tinh thần tha thứ.
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 04 tháng 11 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các gia đình sống tinh thần tha thứ cho nhau, Ngài nói: “Gia đình là một thao trường lớn để tập luyện sự trao ban và tha thứ cho nhau, chẳng vậy không có tình yêu nào có thể trường tồn. Trong kinh nguyện mà chính Ngài đã dạy chúng ta, kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thưa với Chúa Cha: ‘Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Vào cuối kinh, Chúa bình luận: ‘Thực vậy, nếu các con tha thứ những lỗi lầm của người khác, thì Cha các con trên trời cũng tha thứ cho các con; nhưng nếu các con không tha thứ cho tha nhân, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ những lỗi lầm của các con’ (Mt 6,12.14-15). Ta không thể sống mà không tha thứ, hoặc ít là không thể sống tốt đẹp, nhất là trong gia đình. Mỗi ngày chúng ta làm những điều lầm lỗi đối với nhau. Chúng ta phải để ý đến những sai lầm ấy, do sự yếu đuối và ích kỷ của chúng ta. Nhưng điều mà chúng ta được yêu cầu là chữa lành ngay những vết thương chúng ta gây ra cho nhau, nối lại tức khắc những mối dây đã bị đứt đoạn. Nếu chúng ta chờ đợi quá lâu, thì tất cả trở nên khó khăn hơn. Và có một bí quyết đơn giản để chữa lành những vết thương và giải tỏa những lời cáo buộc, đó là đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không xin lỗi, không làm hòa giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, giữa mẹ chồng và nàng dâu! Nếu chúng ta học cách xin lỗi và tha thứ ngay cho nhau, thì chúng ta chữa lành những vết thương và hôn nhân được củng cố, gia đình trở thành căn nhà vững chắc hơn, chống lại được những chấn động do những thói xấu lớn nhỏ của chúng ta gây ra”.
Đối với những người khác, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu chúng ta học cách sống như thế trong gia đình, thì chúng ta cũng làm như vậy ở bên ngoài, bất kỳ nơi nào chúng ta sống. Nghi ngờ về điều này là điều dễ dàng. Nhiều người, kể cả các tín hữu Kitô nghĩ rằng đó là một điều thái quá. Họ nói: nói thì dễ, thì đẹp, nhưng không thể thực hành được. Nhưng cám ơn Chúa, không phải như vậy. Thực thế, chính khi lãnh nhận ơn tha thứ từ Chúa, mà chúng ta có khả năng tha thứ cho người khác. Vì thế, Chúa Giêsu đã yêu cầu lập lại những lời này mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi ngày. Và điều không thể thiếu được, đó là một xã hội nhiều khi tàn ác, có những nơi, như gia đình, trong đó chúng ta phải học tha thứ cho nhau”.
Chúa Nhật kính lòng thương xót Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cảm nghiệm lòng thương xót tha thứ của Chúa. Qua Bí tích Giao hoà, biết bao lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Từ đó, chúng ta đừng hẹp hòi khi cần phải tha thứ cho anh chị em mình. Bởi vì: Nếu chúng ta không tha thứ lỗi lầm cho người khác, thì Cha chúng ta trên trời cũng sẽ không tha thứ tội lỗi cho chúng ta” (x. Mt 6,15). Amen.
23.Đức Giêsu đến đứng giữa các ông--Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu phục sinh! Một biến cố vô tiền khoáng hậu, đã đảo lộn tất cả mọi sự. Người Công giáo tin vì chúng ta biết Thiên Chúa là ai và Ngài yêu thương chúng ta. Chúng ta tin nhờ những chứng nhân Ngài đã chọn, đã sống với Ngài, đã chứng kiến việc Ngài sống lại. Nhưng những bước khởi đầu của niềm tin này không dễ dàng đối với các tông đồ. Họ phải lần mò trong trong đêm tối, hoài nghi cho đến ngày thứ nhất trong tuần sau tử nạn, Chúa hiện đến với các ông.
“Các cửa đều đóng kín vì sợ người Do Thái”. Một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng. Đóng đinh Thầy rồi, các môn đệ cũng không thể yên thân. Nhờ đó các ông tụ họp lại với nhau, chỉ trừ một người vắng mặt.
Chúa Giêsu đến đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Thánh Gioan không nói gì về phản ứng của các môn đệ, chỉ nói: “Họ vui mừng” chứ không hoảng sợ. Chúa Giêsu muốn các ông tin Ngài trước khi gặp Ngài. Vì thế, họ không ngạc nhiên mà cảm thấy như khi Ngài còn ở giữa họ.
“Các cửa vẫn đóng kín”. Ngài vào nhà như thế nào?
Điều này cho thấy, khi sống lại, Ngài không còn lệ thuộc vào vật chất nữa. Ngài vẫn mang lấy thân xác như trước kia, tiếng nói của Ngài bình thường như thuở nào. “Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài”. Những chứng tích của sự toàn thắng. Ngài chính là Đấng chịu đóng đinh, đã bị đâm thâu; giờ đây, Ngài đã sống lại, là Đấng đang sống và là Sự Sống. Ngài vẫn là con người, đã mang lấy kiếp người đọa đày của chúng ta, đã mệt nhọc, đau khổ như chúng ta, đã bị hành hình, bị con người chà đạp nát tan, nhưng giờ đây, từ một thân thể nát tan, Ngài đã sống lại.
Từ “sống lại” có làm cho chúng ta ngạc nhiên không? Chắc không mấy người ngạc nhiên, vì mọi sự không gì thay đổi, nhưng lại là một dấu lạ tuyệt đỉnh vì chỉ có Ngài mới sống lại: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.
Ngài thân tình như ngày nào: “Bình an cho anh em”. Tiếng chào bình an nối kết lại sự gián đoạn mấy ngày qua. Đây là lời chào bình thường thân mật. Nhưng Ngài lặp lại: “Bình an cho anh em”. Đây không còn là lời chào nữa mà là hồng ân: “Ngài là sự bình an của chúng ta”.
Những ngày qua là bối rối, lo âu, sợ sệt, hôm nay bình an đã trở lại. Bình an không như thế gian ban tặng: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”.
Tội lỗi đã cướp mất bình an của nhân loại. Giờ đây, Ngài chiến thắng tội lỗi trả lại sự bình an cho mọi người. Nhưng bình an này không là một vật quí chúng ta có thể tìm gặp và đem cất, mà là cuộc chiến thắng trên tội lỗi. Chúa Giêsu đã lâm vào cuộc chiến đó và Ngài đã chiến thắng.
Chúng ta muốn được sự bình an đó cũng phải dấn thân vào cuộc chiến cam go chống lại tội lỗi, nhưng chúng ta không cô đơn. Ngài trợ lực chúng ta bằng Thánh Thần của Ngài, Thánh Thần ban ơn tha thứ: “Ngài thổi hơi trên các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội ai, người ấy được tha…” Sự toàn thắng của Ngài mang lại ơn tha thứ. Ngài sai chúng ta: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em…” Ngài đã đi trước, chúng ta theo sau với sứ mệnh như Ngài, tiêu diệt tội lỗi, loan báo sứ điệp phục sinh. Ngài tin vào chúng ta như đã tin vào các tông đồ. Chúng ta là những tông đồ của hôm nay. Sứ điệp phục sinh không được dễ dàng chấp nhận. Cần có những chứng nhân đáng tin cậy…
Chúng ta sẽ gặp sự chối từ lịch sự như Phaolô ở quảng trường Aêrôpagô: “Để lần sau chúng tôi sẽ nghe ông…” Chúng ta sẽ gặp bách hại mang nhiều sắc thái tinh vi và khoa học. Nhưng chúng ta không thể dừng bước. Ngài biết Ngài sai chúng ta “như chiên giữa sói”. Ngài biết chứ! Ngài biết rằng thế gian sẽ không tha thứ cho chúng ta, nhưng có Ngài… Ngài vẫn là Đầu và là Cuối của mọi sự. Chúng ta có thể chiến thắng như Ngài: bằng cái chết, Nhưng chúng ta sẽ sống lại như Ngài…
Tôma vắng mặt khi Ngài đến, nhất quyết cự tuyệt không tin anh em.
Tôma không tin, vì việc này quá khó tin. Một người đã chết rồi sống lại, chuyện này chỉ có trong thần thoại.
Tôma không dám tin vì ông đang sống trong một thế giới đầy gian trá. Ông đã trở nên đa nghi. Thầy vô tội mà người ta còn giết được thì tin ai đây?
Anh em đã bỏ Thầy trốn hết thì có thể tin họ được không?
Thầy chết rồi, vết thương trong lòng của Tôma còn rỉ máu. Nỗi tuyệt vọng đang dằn xé tim ông. Cái chết của Thầy quá thê thảm, làm sao tin rằng Thầy sống lại?
Chúng ta thử hỏi Tôma: “Nếu Thầy không sống lại thì sao? Chúng ta sẽ là gì? Những cánh bèo trôi dạt theo ngày tháng, những tử tội chờ ngày lên đoạn đầu đài.
“Nếu Chúa Kitô không sống lại thì lòng tin của anh em thật hảo huyền…
Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (Thánh Phaolô đã nói như thế).
Hóa ra chúng ta tin vào một thây ma, hóa ra chúng ta tôn thờ một bộ xương khô hay sao?
Không, chúng ta tin vững chắc rằng Chúa đã sống lại và chúng ta hãnh diện vì Thiên Chúa của chúng ta hằng sống.
Tám ngày sau, các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông, chúc bình an và quay sang Tôma, người anh em cứng lòng có mặt tại đó: “Tôma, đặt ngón tay vào đây… Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Không một lời trách móc, Ngài chỉ giúp Tôma vững tin. Tôma không biết nói sao, chỉ biết kêu lên: “Ôi Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!” Từ Chúa ở đây là một tiếng kêu đầy yêu mến mang nhiều ý nghĩa. Tôma không thể ngờ được mình được yêu thương như thế! Câu thứ hai mới là lời tuyên xưng đức tin. Chúa cũng nói với chúng ta như đã nói với Tôma: “Đừng cứng lòng nữa”. Chúng ta tin, nhưng chúng ta không tin hết mình. Chúng ta vẫn đứng giữa hai vực thẳm, Thiên Chúa và thế gian. Chúng ta nghiêng ngã, không vững chắc. Đức tin của nhiều người chỉ là thời cơ: bên nào mạnh thì theo. Khi mọi sự thuận lợi, vui mừng, chúng ta ngã theo Chúa, nhưng khi gặp thất bại gian nan, chúng ta nản lòng. Niềm tin chúng ta dao động.
Chúa Giêsu đòi hỏi: Hãy tin thôi! Hơn nữa, giờ đây không còn thấy nữa mà chỉ tin vào những chứng nhân: Không thấy mà tin. Nhờ Tôma, chúng ta được chúc phúc: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Chúa vẫn đến với chúng ta, như đến với Tôma và các Tông đồ, nhưng dưới một hình thức mới: một tấm bánh. Ngài là Đấng đã toàn thắng sự chết và sống lại. “Ngài không còn chết nữa. Sự chết không còn quyền gì trên Ngài nữa”. Ngài đến để củng cố niềm tin hay chao đảo của chúng ta, Ngài đến để giúp chúng ta dám dấn thân để làm chứng nhân cho Ngài. Ngài cần những chứng nhân đáng tin, vì trong Giáo hội hôm nay có quá nhiều những phản chứng. Người tín hữu hôm nay không thể để cho Giáo hội trở thành một bà lão hơn 2.000 năm tuổi mà là một nàng dâu xinh đẹp của Chúa Kitô. Chúng ta hãy ăn lấy Bánh Hằng Sống, Chúa của chúng ta, Thiên Chúa của chúng ta để có thể đủ can đảm sống tốt giữa một thế giới đồi trụy, gian ác. Chúng ta sống đẹp, sẽ làm cho khuôn mặt của Giáo hội tươi trẻ lại.
“Chúng con đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”.
24.Đức Giêsu mặc khải lòng thương xót qua ơn ban bình an--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Ga 20: 19-31: Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu hai lần hiện ra với các môn đệ. Cả hai lần, Ngài đều trao ban bình an cho các ông.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh vừa qua, Giáo Hội công bố Tình yêu của Thiên Chúa trải dài trên nhân loại và trong cuộc sống của con người ngang qua các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa.
Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Giáo Hội cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Qua thánh lễ này, Mẹ Giáo Hội muốn làm cho bản trường ca tình yêu của Thiên Chúa một lần nữa rõ nét hơn nơi trái tim và lòng dạ thương xót của chính Đức Giêsu, Đấng hiện thân lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa có tên là Tình Yêu
Nói đến Thiên Chúa, ấy là chúng ta nói đến bản chất của Người là “Tình Yêu”. Chính thánh Gioan đã khẳng định như thế trong thư của ngài: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vì yêu, Ngài đã tạo dựng trời đất muôn vật; đã tuyển chọn Israel làm dân riêng; đã nghe thấy tiếng van xin thống thiết của dân Người và đã ra tay giải thoát, dẫn đưa họ từ Ai cập trong thân phận nô lệ trở về Đất Hứa, nơi tràn trề sữa và mật; đồng thời nuôi sống họ bằng Manna và chim cút; vì yêu, Thiên Chúa đã không chấp nhất những tội vô ơn bạc nghĩa của dân...
Bởi lẽ, ở đâu tội lỗi tràn đầy, ở đó ân sủng chứa chan gấp bội, và lòng thương xót của Thiên Chúa luôn phủ lấp muôn vàn tội lỗi, sẽ tẩy trắng như tuyết, sạch như bông..., nên Thiên Chúa đã không bỏ rơi kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, đau đớn vì họ đang đi đến hố diệt vong!
Vì thế, nhiều lần nhiều cách, Người đã gửi các ngôn sứ, thẩm phán, vua chúa... để nhắc nhở và mời gọi dân đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng, Thiên Chúa đã trao ban chính Con Một của Người là Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian trong thân phận của con người, để dạy dỗ, yêu thương, tha thứ, chữa lành bệnh tật và đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời. Đỉnh cao của lòng thương xót ấy chính là cái chết đau thương trên thập giá vì con người... Và cũng chính tình yêu, Ngài đã khai mở Giáo Hội ngang qua lưỡi đòng đâm thâm. Chính từ cạnh sườn, Máu và Nước của lòng dạ xót thương đã chảy ra để lộ hiện dung mạo Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nhằm khai sinh và nuôi dưỡng Giáo Hội bằng chính nguồn sung mãn của lòng thương xót...
2. Trao ban bình an là trao ban lòng dạ thương xót của Thiên Chúa
Không dừng lại ở đó, lòng thương xót của Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại để chứng minh con đường cứu chuộc của Thiên Chúa nơi lịch sử cứu độ, trong cuộc đời, sứ vụ, sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Tất cả được móc nối chặt chẽ trên cùng một con đường tình yêu, được khởi đi và kết thúc do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nên ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu đã trao chuyển lòng thương xót của Thiên Chúa cho các môn đệ qua ơn ban bình an. Vì: nếu tình yêu là bản chất của Thiên Chúa; thì lòng thương xót chính là biểu hiện của tình yêu và nhân loại được mời gọi sáp nhập, dìm mình vào trong đại dương lòng thương xót ấy ngang qua sự bình an sâu thẳm của tâm hồn.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu hai lần hiện ra với các môn đệ. Cả hai lần, Ngài đều trao ban bình an cho các ông.
Khi trao ban cho các ông sự bình an, Đức Giêsu muốn cho các ông bình tâm để nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua lịch sử cứu độ, nhất là trên chính cuộc đời của từng người, để các ông đọc lại cuộc đời của mình và dân tộc mình trên nền tảng thương xót của Thiên Chúa ngõ hầu các ông chan chứa niềm tin và hy vọng, nhằm can đảm làm chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và nhất là nơi cuộc thương khó và phục sinh của Thầy Giêsu.
Muốn có được điều đó, các ông cần đón nhận sự bình an của Đức Giêsu trong tâm tình của những người có đức tin và lòng mến, chứ không như theo quan niệm thói đời về sự bình an khi phỏng chiếu nó theo kiểu may rủi...
Thật vậy, sự bình an mà Đức Giêsu trao tặng, chính là một ơn cao trọng, biểu lộ tình yêu và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, để nở hoa tình yêu và kết trái tha thứ. Thế nên, bản chất của nó khác xa một lời chào hay một nghĩa cử xã giao. Điều này chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27).
Khi bình an của Đức Giêsu được trao ban và những ai được đón nhận, thì sự bình an ấy sẽ sinh hoa trái và làm cho người đón nhận được biến đổi. Điều này ta thấy diễn biến của tâm trạng Tôma, từ một người cứng lòng tin, đến nỗi ông thách thức luôn cả Đấng Phục Sinh!!! Tuy nhiên, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi yếu đuối của ông, bởi vì qua biến cố Ngài chịu khổ nạn, tinh thần của Tôma đang hoảng loạn và hoài nghi mọi chuyện, nên Đức Giêsu một lần nữa đem lòng quý mến ông, thương xót ông, nên đã hiện ra và đáp ứng nhu cầu hiếu tri của người môn đệ cứng tin. Tôma đứng trước Đấng đầy lòng thương xót và được nghe thấy Thầy của mình không trách móc, nhưng lại yêu thương và mời gọi ông, cho ông được đặc ân sỏ ngón tay và lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn... Đến lúc này, Tôma đã đụng chạm được vào tận căn của lòng thương xót nơi Thầy mình, vì thế, ông đã thốt lên: “Lậy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Đây là một lời tuyên xưng đức tin nơi tâm hồn bình an thực sự của Tôma. Cũng chính vì lời tuyên xưng đầy tin tưởng này mà Đức Giêsu đã trao ban mối phúc lòng thương xót: “Vì con đã thấy Thầy nên con đã tin; nhưng phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin” (Ga 20,29).
Như vậy, hai lần hiện ra, Đức Giêsu đều muốn các ông rồi mai đây sẽ trở thành chứng nhân của lòng thương xót, ngang qua cuộc sống và hành động của chính mình, để Thầy và trò cùng đi chung con đường thương xót, nhằm trải dài ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho nhân loại.
3. Sống và thi hành sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc đời Kitô hữu
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: “Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào, và cách riêng trong thời hiện tại chúng ta đang sống, Giáo Hội phải coi một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình là rao truyền và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót đã được mạc khải một cách tuyệt vời trong Đức Kitô.”
Khám phá ra sứ điệp thương xót của Đức Giêsu ngang qua lời cầu chúc bình an cho các môn đệ, mỗi người chúng ta cũng hãy xin ơn bình an đó cho chính mình, và loan truyền sự bình an sâu thẳm ấy cho anh chị em chúng ta.
Đây là sứ mạng của mỗi chúng ta! Chúng ta không được dửng dưng với lòng thương xót và cũng không được thờ ơ khi thấy con người, nhân loại hôm nay vô tâm, quay lưng lại với lòng thương thương xót của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina: “Ta khao khát lòng thương xót của Ta được tôn thờ” (NK, 998) ; “Hãy công bố sự tôn kính lòng thương xót của Ta cho mọi tạo vật” (NK 1572). “Người nào tín thác nơi lòng thương xót của Ta, thì sẽ không bị tàn lụi, vì tất cả những việc của người đó đều là việc của Ta, và những kẻ thù của họ đều sẽ bị tan tác dưới bệ chân Ta” (NK,723). “Ta đòi hỏi con việc làm cho lòng thương xót phát xuất từ tình yêu đối với Ta. Con sẽ tỏ bày lòng thương xót với những người chung quanh con, mọi nơi mọi lúc. Con không được lùi bước hay biện hộ hoặc tự miễn trách nhiệm cho bản thân việc đó. Ta ban cho con ba cách sử dụng lòng thương xót đối với người thân cận: Thứ nhất – bằng việc làm; thứ hai – bằng lời nói; thứ ba – bằng lời cầu nguyện. Trong cả ba cấp đó cần chứa đựng đầy lòng thương xót, và đó là bằng chứng không thể nghi ngờ được của tình yêu dành cho Ta” (NK, 742).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót, xin ban bình an cho chúng con, để chúng con trở nên sứ giả của lòng thương xót khi chúng con đem bình an của Chúa đến cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, con tín thác cuộc đời chúng con cho lòng thương xót Chúa. Amen.
25.Đã thấy, đã không thấy--Lm Trịnh Ngọc Danh
Sau khi sống lại, vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện ra lần thứ nhất với các tông đồ, nhưng vắng mặt ông Tôma. Ngài đã chúc bình an và cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Các môn đệ vui mừng vì đã được xem thấy Chúa, và họ đã cho ông Tôma biết: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”; nhưng ông này cương quyết: “ Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà; lần này có mặt ông Tôma. Chúa Giêsu lại hiện ra lần thứ hai cùng các ông. Sau khi chúc bình an, Ngài đã cho ông Tôma xem những dấu đanh nơi bàn tay và vết thương nơi cạnh sườn Ngài và đã khiển trách ông: “ Chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Và ông Tôma chỉ còn biết kêu lên: “ Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”. Và Ngài nói tiếp với ông: “ Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Đã xem thấy, đã tin
Cũng như các môn đệ khác, ông Tôma cũng đã từng được nghe những giáo huấn của Chúa, đã được xem thấy những việc kỳ lạ Ngài đã làm, và cũng được nghe Ngài tiên báo về cái chết và sự phục sinh của Ngài...; nhưng ông vẫn còn bán tín bán nghi về việc chết đi sống lại của Thầy mình; vì, Chúa quyền năng có thể làm cho người chết sống lại như trường hợp ông Lagiarô thì còn hiểu được; nhưng đàng này, chính Chúa lại phải chết và lại tự cho mình sống lại thì thật là một việc quá sức tưởng tượng của ông: Làm sao lại có thể có chuyện ấy được! Và đức tin của ông đã bị chao đảo! Ông nghi ngờ đòi cho được tận mắt thấy những dấu đanh nên thân thể Chúa mới tin cũng phải thôi, vì ông đã một lần thất vọng khi thấy Thầy, một Đấng quyền phép mà ông đã tin, lại phải chịu nhục hình cho đến chết trên thập giá. Cũng còn may là ông còn lui tới với cộng đoàn, không như hai môn đệ trên đường Êmau, sau khi Thầy chết, đã thất vọng, sợ hãi tìm đường trốn chạy. Điều đó cho thấy ông vẫn còn tin tưởng vào Thiên Chúa, vẫn còn muốn đạt đến một đức tin viên mãn để được cứu độ.
Tuy bị Thầy khiển trách là cứng lòng tin, nhưng qua đó, ông đã thấy và ông đã tin. Đức tin của ông đã được củng cố cho vững mạnh hơn bao giờ hết đến nỗi ông đã kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Cũng không phải chỉ có ông Tôma mới nghi ngờ sự sống lại của Thầy mình, mà ngay chính những người được tận mắt thấy ngôi mộ trống cũng bán tín bán nghi.
Ngày thứ nhất trong tuần, từ sáng tinh mơ, các bà mang theo thuốc thơm đã chuẩn bị sẵn. Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ, bước vào trong, không thấy xác Chúa, bà Maria Mađalêna đã hốt hỏang chạy về báo: “ Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu” (Ga 20: 2); và đang khi còn ngơ ngác, vào trong mồ, thì thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà: “ Các bà đừng sợ. Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiareth chịu đóng đinh, nhưng người đã sống lại…”. Các bà chạy ra và trốn khỏi mồ, vì các bà run rẩy bàng hoàng. Các bà không nói gì với ai, vì các bà sợ hãi... (Mc. 16, 6-8)
Trở về nhà, các bà thuật lại cho các tông đồ; “nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin” (Lc. 24,11)
Vì không thấy, nên ông Tôma chỉ đòi hỏi thấy mới tin, nhưng các bà và các tông đồ đã thấy, đã nghe nói về việc ngôi mộ trống, về việc Chúa đã sống lại, thế mà các bà thì sợ hãi cho là ma, còn các ông thì cho đó là truyện vớ vẩn. Ai là người kém lòng tin hơn ai?
Hơn nữa, đứng về phương diện đức tin, thì có thể ông Tôma là người cứng lòng tin, nhưng đứng về phương diện khoa học, thì sự nghi ngờ của ông lại là điều cần thiết để tìm ra sự thật. Nếu khoa học kiểm chứng được những gì chúng ta phải tin, thì những điều chúng ta tin mà khoa học khám phá, chứng minh được, thì cũng chẳng còn gì là siêu việt đối với trí óc của con người.
Ông Tôma cứng lòng tin, vì ông muốn lấy lý trí để củng cố cho lòng tin của ông. Có thể ông đã nghĩ rằng: Nghe người ta nói Chúa đã phục sinh chưa đủ, tôi còn phải tận mắt nhìn thấy Ngài, và phải được tiếp cận thân thể đầy thương tích của Ngài, thì tôi mới tin.Và cuối cùng, Tôma đã thấy và ông đã tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi”.
Việc ông Tôma đòi hỏi được nhìn, được sờ, được kiểm chứng Đấng Phục sinh không chỉ là một đòi hỏi cho riêng ông, nhưng cũng là một chứng tích cho chúng ta hôm nay.
Đã không thấy mà tin
Và sau khi nhân định về lòng tin của ông Tôma: Vì con đã thấy và con đã tin; Chúa lại đưa ra một mẫu lòng tin khác được chúc phúc; đó là: Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Qua sự việc của ông Tôma, Chúa đã gián tiếp nói với chúng ta là những người sinh ra “hậu Phục sinh”, những người đã không thấy Chúa sống, chết và phục sinh, nhưng chúng ta tin. Chúng ta chỉ được đọc, được nghe về Thiên Chúa, về Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa xuống thế làm người vì yêu thương con người, để rồi chịu chết và đã phục sinh…; nhưng chúng ta không được may mắn như dân Chúa xưa kia hay gần gũi hơn là các môn đệ đã thấy và đã tin.
Cám ơn các tông đồ và đặc biệt cám ơn ông Tôma đã giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ hơn về việc Chúa sống lại, về lòng tin của mình.
Từ ngàn xưa, con người nói chung và con cái Thiên Chúa nói riêng đã thấy, đã tin, nhưng vẫn còn vô số người đã thấy, nhưng vẫn chối từ, vẫn không tin. Đã không thấy mà tin là một đòi hỏi rất khó đối với đức tin, đồng thời cũng là một yếu tố xác định mức độ lòng tin của chúng ta.
Đức tin và bình an
Trong cuộc hành trình đức tin, những người đã không thấy mà tin và ngay cả những người đã thấy và đã tin vẫn luôn gặp những trở ngại, nghi ngờ, lo lắng, bất an.
Các môn đệ, sau cuộc “bức tử” của Thầy Giêsu, họ đã hoang mang, lo lắng, sợ sệt, bất an: số phận của họ rồi sẽ ra sao? Ai sẽ là người hướng dẫn để tiếp tục công việc của Thầy?... Tụ lại với nhau, nhưng cửa đóng then cài.
Và những người đã không thấy mà tin thì sao? Đức tin của chúng ta ở mức độ nào? Chúng ta tin, nhưng đã sống và chết vì đức tin như thế nào?
Đức tin chưa đủ mạnh, chưa quyết liệt, chưa xác tín..thì luôn gặp những bất an. Thử thách, gian nan, khổ cực là thước đo đức tin, là những bất an trong tâm hồn.
Hiểu được tâm trạng lo lắng, sợ sệt, bất an của các môn đệ, nên qua hai lần hiện ra với các ông sau khi sống lại, lời trấn an đầu tiên mà Chúa gửi đến các ông là: “Bình an cho các con” và Ngài hứa sẽ sai Thánh Thần xuống để cùng đồng hành với họ. Như thế là họ sẽ được bình an, được an tâm để lên đường tiếp tục công việc của Thầy, không còn phải lo lắng, hoang mang.
Và cũng hiểu được tâm trạng bất an của chúng ta ngày nay, Chúa cũng đã chúc bình an và hứa với chúng ta rằng: “Thầy sẽ xin Cha Thầy, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các con luôn mãi”. (Ga. 14,15). Cũng như các môn đệ họp nhau vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện ra và chúc bình an cho họ, ngày Chúa nhật họp nhau tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận bình an của Thiên Chúa và chúc cho nhau bình an của Ngài để rồi lại ra đi trong bình an của Ngài đến với anh em. Bình an ấy là kết qủa của đức tin.
Chúng ta là những người “đã không thấy mà tin”, và đã được Chúa chúc phúc; vì, như Thánh Gioan Tồng đồ đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Đấng ấy. Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người…, và giới răn Người không nặng nề. Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Chiên Chúa? (1Ga. 5,1-6)
Đức tin đem lại cho chúng ta bình an của Thiên Chúa. Không những chúng ta phải tuyên xưng đức tin mà còn phải sống đức tin: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết; cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc. 2,26)
26.Làm chứng cho Đấng Phục Sinh--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Trong suốt tuần bát nhật, Giáo hội chọn những bài đọc trong sách Tông đồ Công vụ, để thuật lại những bài giảng của thánh Phêrô nói về sự kiện Đức Giêsu đã sống lại. Vị Tông đồ đã nhiều lần khẳng quyết sự xác tín này trước nhà cầm nguyền Rôma, trước những đầu mục và biệt phái người Do thái, cũng như trước đông đảo quần chúng. Trong Chúa nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhìn vào chứng tá của cộng đòan Giêrusalem tiên khởi(bài đọc 1), cũng như học hỏi niềm tin nơi các Tông đồ, đặc biệt nơi Tôma Đydimô. Niềm tin đó là nền tảng xây dựng Hội thánh và cũng được truyền thụ lại cho chúng ta ngày hôm nay.
Ngài thổi hơi vào các ông và ban Thánh Thần (Ga 20,22).
Trong nhãn quan thần học của Thánh Gioan, các sự kiện liên hoàn được trình thuật lại, gồm việc Chúa sống lại, đi vào trong vinh quang với Chúa Cha và trao ban Thần khí để xây dựng Hội thánh, tất cả chỉ là một mầu nhiệm duy nhất không tách rời. Vì vậy Chúa Phục sinh hiện đến giữa các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần, thổi hơi trên các ông và trao ban năng quyền tha tội, chính là động thái thiết lập Giáo hội, nhiệm thể của Đức Kitô Phục sinh. Sự sống của Đấng Phục sinh được thông truyền cho Giáo hội, vì thế ngoài Giáo hội, tức ngoài nhiệm thể của Đấng Phục sinh sẽ không có ơn cứu độ. Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật tạo dựng, tác giả sách Sáng thế thuật lại việc Thiên Chúa lấy bùn đất tạo nên hình người. Sau đó, Ngài thổi hơi ban sinh khí và con người trở nên sinh vật, tức là một vật thể có sự sống(St 2,7). Đây là những hình ảnh biểu trưng, khải thị cho ta biết rằng sự sống phát nguyền từ nơi Thiên Chúa. Song, tội lỗi đã nhập vào trần gian và con người đánh mất sự sống ban đầu. Vì thế, trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu đến trần gian và dùng chính máu của Ngài để ‘Giải án Tuyên công’ (hạn từ của dịch giả Nguyễn Thế Thuấn), cho chúng ta được ‘Công chính hóa’, và phục hồi nơi chúng ta sự sống làm con cái Chúa. Trong cái nhìn thần học ấy, thánh Gioan đã miêu tả việc Chúa hiện đến, và thổi hơi ban Thần khí để tái sinh Hội thánh chỉ là một sự kiện duy nhất. Chúa đã sống lại khai sinh một dân mới, dân tư tế, dân tộc thánh thiện gồm đoàn người đông đảo mặc áo trắng tinh, áo đã được giặt trong máu Chiên Con(Kh 8,14). Trình thuật hôm nay cần được đọc lại, liên thông với sách Khải huyền để chúng ta có thể nắm bắt những tư tưởng thần học mà thánh Gioan muốn trình bày.
Chứng tá của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi
Trong bài đọc 1, Thánh Luca, tác giả sách Tông đồ Công vụ nêu bật chứng tá của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Đây là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu thiết lập bằng cách thông ban sự sống mới cho họ. Cộng đòan này đã được hồi sinh, và đời sống của họ trở nên chứng tá cụ thể cho Đấng Sống lại. Tác giả đã nêu ra 4 đặc nét của cộng đoàn này:
- Sống một lòng một ý, tức hiệp nhất trong tình yêu.
- Sống theo chế độ cộng sản đúng nghĩa nhất, bằng việc đặt mọi sự làm của chung.
- Chuyên cần trong việc bẻ bánh, tức là cử hành các Bí Tích.
-Tuân theo lời chỉ dạy của các Tông đồ.
Sự sống mới mà Đấng Sống lại ban tặng đã giúp hồi sinh cộng đoàn và các vị đã trở nên những chứng nhân đầu tiên, thể hiện rõ nét qua cách sống mới. Đây là mô thức cho tất cả các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói: “Thế giới ngày nay cần những chứng nhân hơn là thầy dạy”. Rao giảng bằng lời nói phải đi đôi với hành động. Phêrô thì rao giảng cách mạnh mẽ và can trường, và cuối cùng Ngài đã chấp nhận cái chết tử đạo để trở thành chứng nhân. Các Kitô hữu tại Giêrusalem thì rao giảng qua đời sống chứng tá huynh đệ, gắn kết với nhau trong tình yêu, và biết chia sẻ với nhau của cải vật chất cũng như của ăn tinh thần. Họ vâng phục các tông đồ là những người thừa ủy năng quyền của Đấng Phục sinh, và nhờ đó họ trở nên một nhiệm thể duy nhất. Các cộng đoàn Kitô của chúng ta hôm nay cần nhìn vào mẫu gương đó để học hỏi và sao chép.
Niềm tin kiên định nơi Tôma và các tông đồ.
Tôma không phải là con người cứng tin như nhiều người lầm tưởng. Ngài cũng không phải là con người thuộc trường phái duy nghiệm hay thực dụng, tức là chỉ thấy mới tin. Trái lại, Tôma là một tông đồ có niềm tin rất sâu xa và kiên định. Ngài khao khát muốn được tiếp cận trực tiếp với Đấng Phục sinh để được Đức Giêsu thổi hơi ban Thánh thần, chuyền tải cho mình sự sống mới. Tôma và các tông đồ đã được Chúa Giêsu cho thỏa mãn ước mơ ấy. Tâm hồn của các Ngài đã được lấp đầy bằng sự sống và ân sủng. Chúa trưng ra các vết tích cuộc tử nạn nơi thân thể Ngài để mời gọi Tôma một lần nữa nhìn lại hình bóng Thập giá và nhắc nhở các học trò đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy hầuđược sống với Ngài trong sự sống mới. Lời tuyên tín của thánh Tôma ‘Thưa Thầy…’ là lời tuyên bố bắt đầu khai mở cuộc hành trình mới trong đức tin để cùng chết với Thầy mình trong mầu nhiệm tử đạo mỗi ngày. Sử sách ghi lại rằng, Thánh Tôma sau này đi truyền giáo ở Parthia và đã lãnh triều thiên tử đạo tại đó.
Tôma không phải là một tông đồ cứng tin hay cố chấp. Trái lại, đức tin kiên vững nơi Ngài là mô hình để chúng ta cùng học hỏi và noi theo.
Kết luận
Giáo hội đã mừng lễ Chúa Phục sinh và kéo dài suốt cả tuần bát nhật. Các ngày Chúa nhật cũng là ngày mừng Chúa sống lại, và mầu nhiệm căn bản này phủ bọc trọn vẹn đời sống đức tin của chúng ta. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã hiển thị niềm tin ấy cách cụ thể như thế nào. Chúng ta hãy bắt chước cộng đoàn Giêrusalem năm xưa để rao giảng không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.
27.Lòng từ bi--Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
Truyện kể: Một võ sĩ đã trở lại đạo. Ngày kia, người bạn của anh gặp mặt và hỏi: Tôi nghe anh mới tòng giáo, thật tức cười. Võ sĩ nói: Sao lại tức cười, đó là điều tốt mà anh. Người bạn nói thêm: Nếu vậy, liệu anh xoá nổi chân tướng du côn cao bồi trước chăng? Những vết sẹo trên mặt anh sẽ tố cáo tung tích của anh. Võ sĩ trả lời: Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo kia, nay trở thành cửa sổ cho ơn Chúa chảy vào hồn tôi. Cũng vậy, những tội của chúng ta đã được tha, tuy còn dấu vết, nhưng là dấu vết của tình thương Chúa vậy.
Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu còn giữ những vết sẹo trên lòng bàn tay, bàn chân và cạnh sườn từ khi bị đóng đinh thập giá? Vì khi Chúa Phục Sinh, Chúa có thể chọn bất cứ hình hài và thân xác hoàn hảo như các thiên thần. Khi xuất hiện, Chúa đã giữ nguyên những vết sẹo để các môn đệ có thể thấy và có thể sờ chạm. Tông đồ Tôma tỏ ra nghi ngờ, đã được Chúa mở lòng: Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20,27). Sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh sẽ không hoàn toàn thuyết phục, nếu không có những vết sẹo trên tay, chân và cạnh sườn của Chúa. Chúng ta biết khi con người mơ ước, ai trong chúng ta cũng ước mong có khuôn mặt tươi tắn, hàm răng đẹp, làn da mịn màng và thân hình thon đẹp. Chúng ta mong ước một thân xác hoàn hảo không vết nhăn. Nhưng Chúa Kitô Phục Sinh đã xuất hiện một cách ngoại thường, trên thân mình vẫn mang những vết sẹo hằn sâu để nhắc nhớ chúng ta sự hy sinh đau khổ để cứu chuộc nhân loại.
Chúng ta đặt niềm hy vọng vào những vết sẹo nơi thân xác Chúa Kitô. Trong các nhà thờ Công giáo, nơi gian cực thánh, treo hình tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá với mạo gai trên đầu, chân tay và mình mẩy đầy thương tích loang máu đào. Vết sẹo nơi cạnh sườn như còn rướm máu. Giáo Hội không lùi bước chỉ nhìn vào đau khổ và chết chóc, nhưng Giáo Hội muốn mọi tín hữu cùng chia sẻ, cảm thông và lãnh nhận ân sủng cứu độ qua giá máu châu báu của Chúa. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô đã trao ban sứ mệnh cho các Tông đồ: Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." (Ga 20,21). Các Tông đồ là những nhân chứng sống động và chân thành. Với ơn trợ giúp và quyền năng của Chúa Thánh Thần, các ngài đã can đảm ra đi truyền rao ơn cứu độ. Ra đi với hai bàn tay trắng, các tông đồ không có tiền bạc, địa vị, học vị hay cơ sở vật chất. Các ngài đã lãnh nhận nhưng không và giờ đây cũng đem Tin Mừng biếu không: Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông đồ (Cv 5,12).
Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện với các Tông đồ qua quyền năng của Ngài. Chúa trao cho các ngài uy quyền chữa lành tất cả các bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỷ. Rất nhiều người đã tuôn đến xin ơn lạ và lãnh nhận ơn cải đổi tâm hồn: Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành (Cv 5,16). Hạt giống đức tin được gieo vào lòng người. Từng tâm hồn hối cải trở về với Chúa. Họ đã được lãnh nhận ơn sủng chữa lành phần xác và tô điểm tâm hồn. Họ là những tín hữu nồng cốt xây dựng Hội Thánh sơ khai trên trần thế. Giáo Hội bắt đầu nẩy mầm và phát triển sinh hoa kết trái: Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông (Cv 5,14).
Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia. Điều vô cùng quan trọng là Chúa Giêsu trao ban quyền tháo cởi và cầm giữ cho các tông đồ. Các tông đồ nhận lãnh ơn chữa lành và thực hành các phép lạ để đặt nền móng cho Giáo Hội sơ khai. Nhưng chìa khoá của sự tháo cởi và cầm buộc tinh thần được lưu truyền qua ngàn muôn thế hệ. Thánh Gioan diễn tả rằng Chúa Giêsu trực tiếp ban ơn: Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22-23). Chúa Giêsu thấu tỏ sự ương ngạnh cứng cỏi cũng như sự yếu đuối thấp hèn và tội lỗi của con người. Chúa đã lập Bí tích Hoà Giải để mọi người có cơ hội hối lỗi trở về với lòng nhân từ của Chúa. Chúa tin tưởng vào quyền tài phán của các tông đồ và những người kế vị. Chúa đã trao quyền cho Giáo Hội qua biểu tượng của chiếc chìa khoá Thánh Phêrô. Biết rằng trao chìa khoá cho ai là đặt niềm tin tưởng nơi người đó.
Trong Sách Khải Huyền, Gioan đã được thị kiến sự lạ lùng vượt trên lòng trí, Chúa Kitô đã mạc khải: Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ (Kh 1,18). Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Kitô là chủ của sự sống và không còn chết nữa. Chúa đã chiến thắng tử thần và tội lỗi. Ngài về trời ngự bên hữu Chúa Cha và mọi đầu gối sẽ quỳ phục dưới chân Ngài. Chúa Kitô có uy quyền trên hết mọi loài, mọi vật, sự sống và sự chết. Niềm tin vào Chúa Kitô sống lại là niềm hy vọng vào sự sống viên mãn đời đời. Thánh Gioan được linh hứng để viết sách Khải Huyền: Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này (Kh 1,19). Khải Huyền là cuốn sách cuối cùng của bộ Tân Ước. Có rất nhiều chi tiết cao siêu như trên các tầng trời, chúng ta chẳng thể hiếu thấu. Chúng ta chỉ có thể nhận diện được phần nào những điều đã qua hoặc đang diễn ra trong cuộc sống mà thôi. Tương lai ngày mai phó thác trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nhắc nhở các Tông đồ: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20,29). Các Tông đồ đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Phục Sinh nhãn tiền. Các ngài được gặp gỡ, ngồi chung bàn bẻ bánh, đàm thoại, ăn uống và được Chúa ban bình an chúc lành. Các Tông đồ sẵn sàng ra đi làm nhân chứng. Làm nhân chứng là phải đối diện với sự sống sự chết. Tất cả mười một vị Tông đồ đã đổ máu đào chứng minh niềm tin sắt son vào Chúa Kitô Phục Sinh. Thánh Gioan là nhân chứng sống động cho tình yêu Chúa. Mọi lời rao giảng dạy dỗ của Thánh Gioan đều quy về tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Các Tông đồ đã can đảm sống cho tình yêu và chết cho tình yêu.
Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Mỗi ngày chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô qua việc ghi dấu thánh giá trên mình. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Thầy và là Chúa. Tin vào Chúa là lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúa đã mở cửa rộng rãi đón nhận và chúc phúc cho mọi người: Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Lc 8,21). Nước Chúa rộng mở đón nhận mọi thành phần, nhưng điều quan trọng là chúng ta cần tin tưởng vào tình yêu của Chúa và tuân giữ lời Ngài. Vì đức tin không có thực hành thì đức tin chỉ là những triết thuyết viển vông và trống rỗng.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta cử hành mầu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúng ta sẽ loan truyền ơn cứu độ cho tới khi Chúa lại đến. Lạy Chúa, những vết sẹo nơi thân mình đã nhắc nhở chúng con về lòng thương xót vô bờ của Chúa. Xin nguồn bình an và ân sủng của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ trên tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.
28.Con đường tiếp nhận Chúa qua việc Ngài hiện ra--Lm Giuse Phạm Ngọc Khuê
Niềm tin vào Chúa Phục Sinh khởi đi từ sự kiện mồ trống. Trong ngày thứ nhất trong tuần, các bà đạo đức phát hiện thấy mồ trống nên chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa Giêsu về những điều xẩy ra xung quanh ngôi mộ. Hai môn đệ Gioan và Phêrô cùng chạy ra mộ Chúa. Phêrô đi vào trong mộ và chứng kiến những tấm khăn liệm và dây băng cuốn xác Chúa được gấp cuộn hẳn hoi. Chứng kiến sự kiện này, thánh Gioan thuật lại niềm tin của các môn đệ: Các ông đã thấy và đã tin rằng Chúa đã sống lại.
Tuy nhiên, tin Chúa phục sinh nơi các môn đệ không dừng lại nơi sự kiện mồ trống, Chúa còn cho họ gặp Ngài nhiều lần bằng việc hiện ra với họ.
Chúa Nhật II PS nhấn mạnh khía cạnh khác của đức tin: đó là con đường tiếp nhận Chúa qua việc Ngài hiện ra. Như vậy, đức tin vào Chúa Phục Sinh vừa được xây dựng trên sự kiện lịch sử (mồ trống), vừa trên sự gặp gỡ tiêp xúc siêu nhiên. Chúa hiện ra hôm nay hoàn toàn thần thiên, vì cửa đóng then cài mà Ngài vẫn xuất hiện giữa các ông. Sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đi vào trong cõi thần thiên, Ngài không còn bị lệ thuộc thời gian và không gian nữa.
Thánh Gioan cho biết, Chúa hiện ra vào ngày thứ nhất trong tuần và lại hiện ra vào “Tám” ngày sau, và đều hiện ra vào lúc các môn đệ đang hội họp. Các môn đệ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần, chính là ngày chúa nhật, ngày Giáo Hội mừng ngày Chúa Phục Sinh. Việc các môn đệ hội họp trong ngày ấy, chính là cử hành bí tích thánh thể.
Cử hành bí tích thánh thể là cách cụ thể hiện tại hóa của tử nạn và phục sinh của Chúa, nên các môn đệ được tiếp xúc với chính Chúa. Các dấu đinh ở tay, chân và cạnh sườn, chính là lời tuyên xưng của Giáo Hội vào mầu nhiệm thánh thể. Qua cử hành thánh thể, Chúa Giêsu thực hiện cuộc thương khó và phục sinh của Người các bí tích trên bàn thờ.
Trong việc cử hành thánh thể, các tông đồ gặp gỡ đấng phục sinh và nhờ đó đức tin các ngài được củng cố và gia tăng.
Ngày nay, cũng một thể thức ấy, Giáo Hội cử hành thánh thể nhằm tái diễn cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Giáo Hội tin rằng Chúa hiện diện cách đích thực trong bí tích thánh thể và chính tại nơi đây Ngài ban thêm đức tin cho chúng ta.
Nghe Lời Chúa và cử hành mầu nhiệm thánh thể hằng ngày của cộng đoàn chúng ta là cách tích cực nhất để gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh, nhờ đó đức tin của mỗi người chúng ta mạnh mẽ thêm.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn ý thức sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu nơi bí tích thánh thể, mà siêng năng cử hành và rước mình máu thánh Ngài để mỗi ngày chúng ta được lớn lên đạt tầm vóc viên mãn của Đức Kitô, nhờ đó chúng ta luôn được ơn an bình của Chúa Phục Sinh, đồng thời có nhiệt huyết tông đồ lên đường làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người, để cả thế giới được hương ơn phục sinh của Chúa.
Xin được chọn câu Lời Chúa: Phúc cho những ai đã không thấy mà tin, làm châm ngôn cho ngày sống hôm nay để luôn ý thức sự hiện diện của Chúa nhờ đó đức tin của chúng ta mỗi ngày được mạnh mẽ và sốt sáng hơn. Amen.
29.Lm. GB. Hiếu
NHẬP LỄ
Nguyên nhân của những mối nghi ngờ chính là vì sự việc vượt quá tầm nhận thức, hiểu biết của con người -nhất là về phuơng diện đức tin. Do đó việc Thánh Tôma nghi ngờ như trong trình thuật Tin Mừng, cũng là điều tự nhiên.Tuy nhiên điều mà Thánh Tôma có lỗi, chính là vì đã không tin vào lời Chúa. Như Thánh Tôma, chúng ta cũng đã nhiều khi không tin vào lời Chúa như vậy. Xin Chúa tha lỗi cho chúng con.
- Lạy Chúa, vì niềm tin vào Chúa của chúng con được truyền lại từ các Tông Đồ. Xin Chúa thương xót …
- Lạy Chúa, vì Chúa là “Đấng Hằng Sống” và “giữ chìa khoá của tử thần và âm phủ” (Kh1,18). Xin Chúa Kitô …
- Lạy Chúa, vì Chúa đã đến để cứu chuộc và ban bình an cho chúng con. Xin Chúa thương xót …
GIẢNG
Có thể nói là từ xưa đến nay, Thánh Tôma hầu như đã bị người ta ghim chết trong định kiến một con người cứng lòng tin. Thế nhưng có mấy ai nghĩ cho ngài là con người tiên phong trong việc tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa? Nếu hiểu được điều đó, chúng ta mới có thể thấy được câu nói của Chúa Giêsu vừa là lời trách cứ, nhưng cũng là lời khích lệ niềm tin cho ngài cũng như cho tất cả chúng ta bất kỳ thời đại nào: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Quả vậy, Thánh Tôma không hẳn là người môn đệ duy nhất cứng tin. Các môn đệ khác cũng thế. Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, đã có lần Chúa Giêsu khiển trách các ông không tin và cứng lòng, “vì đã không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người sống lại” (Mc 16,14). Ngay cả khi tiễn Chúa về trời, Thánh sử Mátthêu vẫn còn ghi lại: “Có mấy ông lại hoài nghi” (28,17). Thực ra, niềm tin không phải là định kiến bất dịch, nhưng là một sức sống. Sức sống thì phải được nuôi dưỡng, phải có di chuyển. Nuôi dưỡng thì tất nhiên phải có thời để cảm nhận đói và thời được no; nghĩa là có tình trạng hao hụt để tiến tới thời sung mãn. Những lần Chúa hiện đến, đâu có phải ai ai cũng nhanh chóng nhận ra người đứng trước mặt mình là Chúa -Chúa Giêsu Phục Sinh! Chỉ sau khi được nhắc bảo, các môn đệ mới ngạc nhiên hướng nhìn Người! Cho nên ai cũng có thể sai lầm, cũng có thể lỡ bước. Điều quan trọng, chính là biết thức tỉnh để đi đến cùng, đến cùng sự thật.
Thánh Tôma trong trình thuật hôm nay, bước đầu có thể như hơi quá lời khi thách thức các môn đệ khác: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25b). Tuy nhiên sau đó, khi Chúa ngự đến, Thánh nhân không chỉ giữ im lặng như những người khác, nhưng đã tuyên xưng niềm tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (c.28). Ngài công bố chấp nhận Đức Giêsu -người đang đứng trước mặt ngài- là con người đã chết đi nhưng đã sống lại thực sự, chẳng những là chủ nhân có thể ra lệnh sai khiến chỉ bảo, mà còn là Thiên Chúa -Đấng tạo sinh nên mình nữa! Điều mà Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu trong kinh Tin Kính từ thời các Tông Đồ cho đến ngày nay, đâu có gì vượt quá điều Thánh Tôma đã tuyên xưng trước mặt Chúa ngày hôm nay: “Lạy Chúa của con; lạy Thiên Chúa của con!” Thánh nhân không chỉ tuyên xưng Chúa đã sống lại, nhưng còn tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế phải đến thế gian và là Thiên Chúa. Như thế, đức tin còn phải vượt qua điều thấy trước mắt để thấy được điều cần phải thấy, phải tin. Đã chắc gì các vị môn đệ khác thấy con người Chúa phục sinh hôm đo, mà tin nhận ngay hay thấy ngay được Chúa là Thiên Chúa tối cao đáng kính, đáng tôn thờ? Ngôi Lời Thiên Chúa khi trở nên xác phàm, là muốn để cho nhân loại thấy Chúa Giêsu có thân xác. Nhưng để được đi vào mầu nhiệm cứu rỗi và để sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa, con người phải thấy được Chúa Giêsu tỏ hiện trong vinh quang Thiên Chúa tính của Người. Mối hạnh phúc mà Chúa Giêsu chúc mừng cho Thánh Tôma, chính là điều Thánh nhân đã “thấy” -thấy vượt qua cái thấy trước mắt- và đã nhanh chóng tuyên xưng lòng xác tín của mình vào điều đã thấy ngoài điều nhìn bắng ánh mắt đó. Nhờ xác tín như thế mà Thánh nhân đã không ngần ngại mang Tin Mừng của Chúa sang rao giảng tận Batư, Xyri; và tại Ấnđộ, ngài đã sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Chúa.
Chúng ta cũng đã không thấy Chúa nhãn tiền như các Tông Đồ hay như Thánh Tôma xưa. Nhưng liệu đó có phải là đầu mối đem lại hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đã cố gắng khám phá và tuyên xưng Chúa đang sống trong cuộc đời mình chăng? Lời Chúa khích lệ Thánh Tôma ngày xưa vẫn còn mãi mãi giữ giá trị cho chúng ta ngày hôm nay: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Lạy Chúa, dù cuộc đời con có tăm tối, hay trống rỗng; dù đời con có thất bại nặng nề, muộn phiền hay lo âu, xin cho con luôn vững tin nơi Chúa, để nhìn thấy Chúa đang hiện diện bên cạnh và nâng đỡ con. Amen.
30.Đức tin ngọn đuốc cuộc đời--Lm Hồng Phúc
Ngày Chúa nhật là “ngày của Thiên Chúa”, là một lễ Phục Sinh.
Viết đoạn Phúc Âm này sau 60 năm sự kiện xảy ra, Thánh Gioan Tông đồ cảm thấy như còn thật mới mẻ sống động, một biến cố mà mình là nhân chứng.
Câu chuyện muốn nói lên rằng Chúa Giêsu sống lại chính là Đấng trước đây, nhưng cũng khác trước đây. Gioan đã nhìn thấy Ngài bị đâm thấu cạnh sườn trên Thập giá (19,34) thì hôm nay, Ngài tỏ cho thấy vết thương nơi tay và cạnh sườn. Chính là Ngài, nhưng Ngài đã đi vào một cõi sống mới, không lệ thuộc không gian và thời gian. Ngài đem đến sự bình an và vui mừng. Chúa đã sống lại.
Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc bằng sự chết và sự sống lại của Ngài. Hôm nay, Ngài đến để trao cho các ông sứ mạng phổ cập ơn cứu rỗi đó. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Sứ mạng biệt sai phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài thổi hơi và phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Một trong mục đích của cuộc biệt sai là ban ơn tha thứ: “Các con tha tội ai thì tội kẻ ấy được tha; các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Ơn tha tội được bảo đảm bằng sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, nhưng cũng qua trung gian của Giáo hội: tha cho ai, cầm buộc ai, kẻ ấy được tha hay bị cầm buộc. Thật là một quyền năng lớn lao và vĩ đại.
Sự kiện xảy ra chiều Phục Sinh.
Nhưng hôm ấy, trong nhóm môn đệ, thiếu mặt Tôma, một người không phải là dễ bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy, tai nghe, tay sờ đụng. Người ta dùng lý trí để lý luận, kiểm chứng. Nhưng người ta cũng có thể dựa trên niềm tin để tăng phần kiến thức.
Khi nghe các bạn cho biết họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại, Tôma không tin. Là người thực tế ông muốn được kiểm chứng bằng giác quan, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, ông mới tin.
Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, có Tôma ở với các ông. Chúa Giêsu cho Tôma và qua Tôma cho chúng ta, một bài học về Đức Tin. TIN không phải là nhìn thấy, sờ đụng, mà là dựa trên chứng từ những kẻ đã “thấy” và “chiêm gưỡng” vinh quang của Chúa. Niềm tin vào mầu nhiệm sống lại của chúng ta dựa trên chứng tích của các Tông đồ và của Giáo hội. Trong bài giảng đầu tiên, Phêrô tuyên bố: “Đức Giêsu, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy” (Cv 2, 32).
Đó là căn bản nhưng cũng là phần thưởng của Đức Tin: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”, và nhờ đó chúng ta được sống nhờ danh Ngài.
Hồi ấy, dân chúng đồn thổi và kéo nhau đi xem một phép lạ Phép Thánh Thể. Có người mời Vua Thánh Louis (1214-1270) cùng đi xem. Thánh nhân từ chối vì “không muốn mất phần thưởng về Đức Tin”.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta ơn Đức Tin và hãy gìn giữ, bám víu lấy Đức Tin, ngọn đuốc soi sáng ta trên cuộc đời đen tối.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.
31.Mối phúc thật Đức Tin--Lm Hồng Phúc
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những bàn thờ “kính thần vô danh”. Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã Phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng: “Khi tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”. Phaolô buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp, một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại. Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói: Shalom - Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt 9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha, các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga 5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa. Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là phúc thật Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin, Phúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20, 29). Đức Tin là một đặc ân của Thiên Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa, từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây 50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile Zola cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola chối sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Xin Chúa ban cho con mối phúc thật niềm Tin ấy.
32.Chúa có mắt không--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Cách đây khoảng 104 năm, vào Chúa nhật thứ nhất sau lễ Phục sinh, tức Chúa nhật Quasimodo, chiếc tàu Titanic đã chìm xuống lòng biển Đại tây dương mang theo trên một ngàn sinh mạng. Rất nhiều chi tiết liên quan đến con tàu định mệnh đã được báo chí đăng tải, nhưng có một chi tiết rất đáng chú ý: ngay phần hông tàu phía dưới mặt nước là dòng chữ “No God, no Pope” (Không Thiên Chúa, không Giáo hoàng).
Dường như khi khoa học kỹ thuật càng phát triển con người càng đánh mất niềm tin vào Thượng đế. Lắm kẻ dám nói: không có Thiên Chúa, vì họ có thấy đâu. Họ chỉ tin khi nào khoa học chứng minh điều đó. Nói cách khác, họ muốn tiếp cận với Thiên Chúa qua phương pháp khoa học thực nghiệm, nghĩa là bằng thấy, sờ, lý luận, phân tích, và xác minh.
Những đòi hỏi như thế đâu phải chỉ mới xuất hiện sau những tiến bộ vượt bậc của khoa học hôm nay. Đúng ra nó đã xuất hiện cách đây hai ngàn năm rồi. Khi mà người ta đòi phải thấy được Chúa nhãn tiền, sờ được Ngài, thọc tay vào lỗ đinh, xác quyết tường tận Đấng đã chết trên thập giá mà nay sống lại. Đó không phải là một niềm tin đòi được xét nghiệm bằng khoa học à?
Nhưng đức tin đâu có nằm trong phạm trù khoa học. Khoa học chỉ nghiên cứu các dữ kiện, định luật và nguyên nhân thuộc phạm vi vật chất. Ngoài đó nó không có chỗ đứng. Nói như thế không có nghĩa là khoa học chẳng dính dáng gì đến niềm tin và niềm tin không cần đến khoa học. Trái lại nếu thành tâm sử dụng thì khoa học vẫn là một phương thế rất tốt giúp con người khám phá sâu rộng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Còn càng tự mãn trong khoa học người ta sẽ càng rời xa chân lý tuyệt đối.
Chuyện kể về một bác học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu trong sa mạc. Ông chọn mấy người Ả rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, một người trong nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và ngồi lên đó trong dáng điệu trầm tư. Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:
- “Ngươi làm gì thế?”
- “Dạ, tôi cầu nguyện,” người kia trả lời.
- “Cầu nguyện à, thời buổi này mà còn cầu nguyện à, vậy ra ngươi còn tin có Thiên Chúa? Mà ngươi đã thấy Chúa chưa,” Nhà bác học như muốn bắt bẻ.
- “Dạ chưa.”
- “Vậy ngươi nghe Chúa nói chưa?”
- “Dạ chưa.”
- “Vậy ngươi đã sờ chạm được Chúa chưa?”
- “Dạ chưa,” người hướng dẫn khiêm tốn trả lời.
- “Nếu thế thì ngươi là một tên điên khi tin vào một Thiên Chúa mà chưa bao giờ thấy, không bao giờ nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng đến.”
Thế rồi mọi người đi ngủ. Sáng hôm sau, trước lúc hừng đông, nhà thông thái vừa bước ra khỏi lều đã vội kêu lên:
- “Ồ, tối hôm qua có một con lạc đà đi qua nơi này!”
Người hướng dẫn viên trợn mắt kinh ngạc:
- “Vậy chứ Ngài thấy con lạc đà đó đi qua đây à?”
- “Không,” nhà thông thái tự đắc trả lời.
- “Vậy chứ Ngài đụng phải nó à?”
- “Không.”
- “Vậy chứ ngài nghe nó kêu à?”
- “Không.”
Người hướng dẫn reo lên:
- “Thế thì ngài là kẻ điên khi tin có một con lạc đà mà ngài không thấy, không nghe, và không đụng đến.”
Nhà thông thái đáp lại:
- “Nhưng ta biết được qua những dấu chân còn trên cát của nó kia kìa.”
Ngay lúc đó mặt trời mọc lên, toả muôn tia sáng rực rỡ lung linh. Người hướng dẫn viên liền chỉ tay về phía mặt trời và nói: “Thế thì tôi cũng nhìn vào cái dấu vết kia để thấy rằng có một Thiên Chúa đang đi qua cuộc đời.”
Không ít người đã dùng những khám phá của khoa học để tuyên bố không có Thiên Chúa, chỉ có con người là chúa vũ trụ, và niềm tin thượng đế đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng, cùng lúc đó lại có rất nhiều người, qua khoa học, nhìn thấy thế giới này sao có nhiều điều bí ẩn, kỳ lạ, siêu vời mà tài sức con người chỉ mới vén mở được một phần rất bé. Từ đó họ càng nhận rõ dung mạo của một Đấng siêu vượt trên vũ trụ, khoa học, và tất cả-Đấng mà người Kitô hữu tin là nguyên lý siêu đẳng đã tạo nên trời đất bao la.
Thế nhưng cũng không ít người đặt vấn đề: nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Thiên Chúa không phải là một Đấng yêu thương, vì nếu yêu thương, cớ sao Ngài lại để cho thế giới gặp nhiều bất hạnh khổ đau? Tại sao Thiên Chúa không can thiệp, loại trừ những tác oai tác quái của nó?
Nói như thế thì chẳng khác chi tự dưng phủ nhận và khước từ sự sống. Vì có sự sống nào phát sinh mà không có sự đau đớn. Có chồi non nào mọc lên mà nhánh cây hay hạt giống đã không phải chịu nứt toác thân mình.
Nhưng điều cần nói không phải là cứ trước những gian nan trắc trở khổ đau của cuộc đời mà cho là không có Thiên Chúa, hay Thiên Chúa độc ác, bất lực, không biết yêu thương. Song điểm đáng ghi nhận chính là: người càng tin tưởng Thiên Chúa càng có sức mạnh để mang vác gánh nặng của cuộc đời; những ai mà tâm càng thành lòng càng trong thì càng dễ cảm nghiệm và tin tưởng vào Chúa hơn, cho dù gánh khổ của cuộc đời không vơi đi chút nào và cảnh chướng tai gai mắt vẫn còn đó.
Tôi vẫn thích nhắc đến câu chuyện “Chúa Có Mắt Không” khi nói về những sự ngang trái trong đời: Một buổi sáng đẹp trời nọ, một thầy dòng bước ra vườn cây, vừa dạo cảnh thiên nhiên vừa cầu nguyện. Đứng trước hàng cây chôm chôm, nhìn những chùm trái nho nhỏ xinh xinh, bên cạnh đó là gốc bí với những hàng quả thật lớn bám trên những chiếc dây leo mỏng manh, bất chợt thầy nghĩ: “Chẳng biết Chúa có mắt không! Tại sao những trái chôm chôm bé tí teo kia lại mọc trên những cành cây cứng cáp chắc chắn, còn mấy trái bí khổng lồ như thế này lại bám vào những dây leo tí tẹo? Chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Tại sao thứ mình thích thì lại nhỏ xíu, còn thứ không thích thì cứ to ơi là to?”
Trưa đó, sau lúc dạo và gặp phải ngày thời tiết nóng nực, thầy nằm hóng mát dưới một gốc cây và thiu thiu ngủ lúc nào không hay. Một làn gió thoảng qua. Cành lá rung động. Chợt một trái chôm chôm khô rơi trúng đầu thầy. Giật mình bật dậy. Rồi như vừa tỉnh khỏi cơn mộng thầy quì xuống cầu nguyện: “Ôi lạy Chúa, may mà Chúa có mắt, chứ để trái chôm chôm to bằng trái bí thì còn gì cái đầu của con.”
Thiên Chúa biết rõ những gì tốt nhất cho chúng ta. Ngài luôn làm mọi sự vì yêu thương con người. Vấn đề không phải là có Thiên Chúa không; Ngài có mắt hay có tai không; nhưng vấn đề là con người có mở mắt, mở lòng, mở tai để nhận ra sự hiện diện yêu thương và bàn tay quyền năng của Ngài không thôi. Trước một sự cố trong đời, có kẻ chống Chúa, từ Chúa, nhưng cũng có người tin yêu gắn bó với Ngài hơn. Thử hỏi bạn đang thuộc hạng người nào.
Lời của vị tu sĩ “Ôi lạy Chúa, may mà Chúa có mắt” sao nghe giống lời của Tôma quá. Theo sự tường thuật của Thánh Kinh, chẳng thấy Tôma nhìn vào vết đinh trên tay Chúa, cũng không xỏ bàn tay vào cạnh sườn Ngài, nhưng ông lại cảm nghiệm được sự hiện hữu của Thiên Chúa cách rõ ràng.
“Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” hay “Lạy Chúa, đúng là Chúa có mắt” chính là những lời tuyên xưng đức tin một cách sống động và hùng hồn vô cùng.
Thiết tưởng đời người Kitô hữu cũng nên thấm được niềm xác tín vững vàng như thế. Dù đứng trước phong ba bão táp, dù phải khốn đốn vì bao thăng trầm của cuộc đời, hãy cứ tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn hiện hữu bên ta, rất nhẹ nhàng và rất quyền năng: nhẹ nhàng như làn gió lay động nhành lá trong vườn, và quyền năng như lúc cửa đóng kín mà Ngài vẫn đến được với các tông đồ.
33.Tần số tình yêu--Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: - Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích: - Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay những người đã không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
34.Thấy bằng trái tim – Thiên Phúc--“Như Thầy Đã Yêu”
Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về vị tu sĩ Hồi Giáo Nasruddin như sau:
Một ngày nọ, nhà của thầy bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội trèo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống thầy chỉ còn "ngàn cân treo sợi tóc". Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:
- Nhảy đi, Thầy nhảy xuống đi!
Thầy Nasruddin nói:
- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề!
- Ôi, Thầy ơi! Không phải trò đùa đâu, Thầy nhảy mau đi!
Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố:
- Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.
****
Tin là chấp nhận bấp bênh, là chấp nhận có thể bị lừa dối. Nhưng không thể sống mà không tin. Người ta không thể nói: "Có thấy mới tin". Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy rõ lòng dạ con người, nhưng họ vẫn tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, tình làng xóm... Người ta cũng không thể nói: "Tôi chỉ tin vào Chúa nếu có bằng chứng". Paul Misraki nói: "Nếu bạn chỉ đợi có bằng chứng mới tin, thì đức tin đã trở thành khoa học rồi".
Khủng hoảng lớn nhất của thế giới ngày nay là khủng hoảng niềm tin. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy giữ vững niềm tin.
Tin vào Thiên Chúa và tin vào con người.
Tin vào thế giới do Người tạo nên.
Tin vào cuộc đời mà Người gởi ta đến.
Tin vào vẻ đẹp và hạnh phúc Người tặng ban.
"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga.20,28). Người tín hữu Kitô là những người không thấy mà tin. Họ không thấy Chúa bằng con mắt thường, nhưng họ thấy Người bằng con mắt đức tin. Họ không thấy Chúa bằng giác quan, nhưng họ thấy Người với cả trái tim. Thiên Chúa muốn cho giác quan chúng ta ra tăm tối, để niềm tin được ăn rễ sâu trong Người.
Miguel de Unamuno viết: "Tôi tin vào Thiên Chúa như tin vào một người bạn, vì tôi cảm nhận được hơi thở tình yêu của Người, cảm nhận được bàn tay vô hình và khả giác của Người tác động đến tôi".
Nhà sinh vật học Jean Henry Fabre sau 87 năm khảo sát và suy tư đã phải thốt lên: "Tôi không thể nói rằng tôi tin vào Thiên Chúa, mà là tôi trông thấy Người". Thấy Chúa là Cha rất nhân từ hằng yêu thương chăm sóc con người, và thấy mọi người là anh em với nhau. Cha Michel Quoist có viết: "Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô".
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thấy Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng con, để chúng con tin Chúa đang sống động, hiện diện, thật gần, ngay bên cạnh chúng con, trong cuộc sống và trong người anh em. Amen.
35.Bình an của Chúa--AM Trần Bình An
Tối nay có một thanh niên hấp hối; anh ta vật vã đau đớn. Theo ý anh, tôi bắt đầu đọc chuỗi kinh Chúa dạy. Khi đọc xong, cơn đau của anh vẫn chưa dịu xuống. Tôi muốn đọc tiếp Kinh Cầu Các Thánh, nhưng thình lình được nghe những lời sau: “Con hãy đọc chuỗi kinh.” Tôi biết linh hồn này cần sự trợ giúp đặc biệt của những kinh nguyện và lòng thương xót vô biên. Thế là tôi đóng cửa phòng và sấp mình xuống trước thánh nhan Chúa, nài xin Người tỏ lòng thương xót linh hồn ấy. Bấy giờ, tôi cảm nghiệm được uy linh cao cả và phép công thẳng vô cùng của Thiên Chúa. Tôi run rẩy, rùng minh sợ hãi, nhưng vẫn không ngừng khẩn xin lượng xót thương của Chúa cho linh hồn ấy. Rồi tôi lấy tượng Thánh Giá ra khỏi ngực, tượng tôi đã nhận trong dịp khấn dòng, rồi đặt lên ngực người hấp hối và thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu xin đoái nhìn linh hồn này với tình thương, mà Chúa đã đoái nhìn đến của lễ toàn hiến của con trong ngày vĩnh thệ, và với sức mạnh của Lời Chúa, đã hứa với con cho những người hấp hối, và những ai kêu nài lòng thương xót Chúa để cầu cho họ. Xin Chúa ban cho người này ơn chết lành.” Lúc đó, cơn đau đớn của thanh niên dịu xuống và anh ta ra đi bình an. Ôi, chúng ta cần phải cầu nguyện rất nhiều cho những người hấp hối! Chúng ta hãy tận dụng lòng thương xót của Chúa, trong lúc vẫn còn thì giờ của tình thương. (MM Ngọc Đính, Sr Sophia Michalenko, NK 1035, Cuộc đời Thánh nữ Faustina Kowaska)
Thánh nữ Faustina đã được thị kiến Lòng Chúa Thương Xót vô ngần với bất cứ ai trông cậy vào Người. Trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh hôm nay suy tôn Lòng Chúa Thương Xót, Thánh sử Gioan trình thuật hai cuộc hiện ra của Chúa Giêsu với ba lần chúc bình an.
Bình an khi theo Chúa
Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giêsu chân tình thốt lên những lời cáo biệt thắm thiết và yêu thương với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 17) Trước đó, biết bao lần Đức Giêsu trấn an các môn đệ đừng sợ hãi thế gian đố kỵ, hăm dọa, ghét bỏ, tẩy chay, bắt bớ, hành hạ, mưu sát, khi trung thành đi theo Chúa, thực hành sống theo Lời Chúa. "Anh em đừng sợ người ta... Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn... Vậy anh em đừng sợ...” (Mt 10, 26, 28, 31)
Rồi sau khi Đức Giêsu chịu khổ nạn và phục sinh.“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nghe lời chúc bình an và thấy Chúa Phục Sinh với năm thương tích, các môn đệ vui mừng, không còn lo sợ khiếp hãi như trước. Chúa hiện diện đem bình an đến nâng đỡ an ủi, chở che, bất chấp sự dữ đang hằn học, đe dọa. Chúa hiện diện đem đến cả niềm vui, hoan lạc đến những tâm hồn đang lo sợ, u sầu, bị kềm kẹp, bách hại vì danh Chúa.
Hiện nay, Chúa vẫn còn đang tiếp tục hiện diện, qua Lời Chúa, qua Thánh Thể và qua tha nhân. Chỉ vì thiếu niềm tin, thiếu trông cậy và thiếu lửa mến, nên Ki tô hữu mới không nhận ra Chúa hiện diện trong từng phút giây cuộc đời, trong mọi môi trường xã hội, cũng như trong từng hoàn cảnh thuận và nghịch.
Như vậy, làm sao nhận ra Chúa hiện diện, thì sẽ luôn có bình an và niềm vui sống đạo. Tôi Tớ Chúa, ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận dứt khoát không chấp nhận người Kitô hữu bị cô đơn: “Tại sao người Kitô hữu than vãn mình cô đơn? Chúa Kitô của họ ở đâu?” (Đường Hy Vọng, số 237)
Bình an khi làm chứng nhân
Sinh thời, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ hãy sẵn sàng chấp nhận đau khổ, gian lao, thử thách khi thực hiện sứ vụ rao giảng.“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (Lc 10, 2-3) Nhưng hãy can đảm đối đầu với sự dữ thế gian hãm hại: “Ðừng sợ những kẻ giết được xác, nhưng không thể giết được hồn; hãy sợ Ðấng có thể diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10, 28)
Nay Người phục sinh chúc bình an cho các môn đệ. "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con." Đồng thời Chúa Giêsu nhắc lại sứ vụ Đi Gieo Tin Mừng, như Người đã hoàn thành vô cùng mỹ mãn.Nay có Chúa cùng đồng hành, thì luôn bình an trên đường truyền giáo, mặc cho kẻ chống Chúa, phản Chúa khó dễ, cấm cản trăm bề.
“Bị nhục mạ, bắt bớ, đuổi từ thành này sang thành khác, là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ thật. “Tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn Thầy, họ đã đối xử với Thầy thể nào, cũng sẽ đối với các con như vậy. Hãy vui mừng hoan hỉ..., vì nếu chúng con theo thế gian, thì thế gian không ghét chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 319)
Bình an khi tha thứ
Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, không hề trách mắng các ông đã phản bội, bỏ chạy, chối Chúa, khi Người chịu khổ nạn. Người tha thứ tất cả tội lỗi con người ăn năn hối cải, cùng ban bình an, và tái lập quan hệ tốt lành với hối nhân.
Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin." Chúa cũng chẳng rày la ông Tôma cứng lòng, công khai phủ nhận lời chứng của bà Maria Mađalêna, của ông Phêrô và các môn đệ khác. Trái lại, Chúa hoàn toàn tha thứ và ban bình an cho ông Tôma, cùng thêm Lời Chúc Phúc Thứ Chín: Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Bình an cũng đến với những ai biết tha thứ cho anh em, vì đó là điều kiện tiên quyết để được Chúa thứ tha cho."Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em".(Mt 6, 14-15)
Tóm lại bình an là trạng thái tuyệt hảo, chỉ có Chúa trao ban, khi sống mật thiết, kết hợp với Chúa Giêsu trong mọi lúc, mọi nơi suốt cuộc đời. Trong Thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô đã công khai xác tín: “Chính Người là bình an của chúng ta.” (Ep 2, 14)
“Làm sao con hết buồn? Hãy cầu nguyện! Tại sao thế? Vì con gặp Chúa: Mađalêna tìm xác Chúa, hai môn đệ đi làng Emmau đã gặp Chúa và quên hết mọi ưu sầu.” (Đường Hy Vọng, số 541)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin Chúa tái sinh linh hồn chúng con khỏi sự chết tội lỗi, khỏi lòng phản bội, xa Chúa, để chúng con được chúc phúc bình an, tràn đầy niềm vui hy vọng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là nguồn cậy trông và hy vọng của chúng con. Xin cầu bầu cứu giúp chúng con khỏi cứng lòng, vì mê đắm thế gian phù phiếm, hư ảo, mà tin cậy vào Lòng Chúa Thương Xót, và luôn biết sám hối, ăn năn quay về với Chúa. Amen.
36.Hoài nghi và xác tín--AM Trần Bình An
Trong công ty, doanh nghiệp, mỗi sán phẩm chế tạo hoàn tất đều qua khâu kiểm soát cuối cùng, trước khi được đóng gói xuất xưởng, chuyển giao cho các đại lý, phân phối ra thị trường tiêu thụ. Đó là nhiệm vụ của KCS, viết tắt của các từ “Kiểm tra Chất lượng Sản phẩm.” Bộ phận KCS có nhiệm vụ kiểm tra việc tuân thủ quy trình công nghệ, kỹ thuật và chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Do vậy, khâu KCS vô củng quan trọng trong việc gầy dựng, bảo vệ và phát huy uy tín doanh ngiệp, công ty với thị trường.
Bài Tin Mừng Thánh sử Gioan hôm nay, tông đồ Tôma tình nguyện làm nhân viên KCS, trước khi chứng nhận một sự kiện vô tiền khoáng hậu: Chúa Giêsu Phục Sinh.
Hoài Nghi
Khi Ladarô chết được bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu. Người mời gọi các môn đệ dấn thân:”Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê” (Ga 11, 7). Đáp lại, các môn đệ không mau mắn nghe theo, mà phân vân, lo lắng. Hơn nữa, còn can gián:”Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (Ga 11, 8).
Nhưng chỉ duy nhất một mình ông Tôma mạnh dạn, can đảm thuyết phục các tông đồ: ”Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11, 16). Như thế ông quyết tâm đồng hành cùng Chúa, mặc dù sự dữ đang đe dọa tính mạng của cả Thầy trò.
Rồi sau khi Chúa Phục Sinh, nghe bà Maria Mácđala nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin (Mc 16, 11) Thậm chí các ông còn cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin. (Lc 24, 11) Tin Mừng thánh Matthêu cũng công khai khẳng định: Nhưng có mấy ông lại hoài nghi.(Mt 28, 17)
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, các môn đệ sợ hãi, kỹ lưỡng cửa đóng then gài, đột nhiên Chúa Phục Sinh hiện ra chúc bình an. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng, vì được thấy Chúa. (Ga 20, 20)
Thánh Luca còn kể rõ hơn nữa: Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ mà xem, ma đâu có xương có thịt như thấy Thầy có đây.” (Lc 24, 37-40)
Không may, ông Tôma vắng mặt, nghe kể lại Chúa hiện ra, ông không tin. Tâm trạng nghi hoặc của ông Tôma cũng giống như các môn đệ khác, trước khi được tận mắt chứng kiến chân tay, còn loang lỗ dấu đinh của Chúa Giêsu.
Như vậy, đâu chỉ có duy nhất ông Tôma hoài nghi Chúa Phục Sinh. Mà hầu hết các môn đệ đều cứng lòng như ông vậy. Điều đặc biệt là ông Tôma dám thẳng thắn bộc lộ sự nghi hoặc của mình, khiếm khuyết, sai lầm, tội lỗi xúc phạm đến Chúa Phục Sinh, mà không hề giấu giếm, giả vờ tin như kẻ giả hình. Ông Tôma vốn bộc trực, nhiệt thành, trung tín, như trước đây đã mạnh dạn công khai tuyên xưng Đức Mến, khi quyết tâm đi Bêtania, sẵn sàng cùng chịu chết với Chúa.
Tôi cũng hay nghi ngờ những điều tốt lành, những thiện chí của tha nhân. Nhất là đối với những người có qúa khứ không mấy hay ho. Tôi khó xóa nhòa vết hoen ố của họ. Dần dần tôi trở thành quan tòa gay gắt, cay nghiệt lúc nào chẳng hay, dù công luận đã rộng lượng tha thứ lỗi lầm. Tôi thích ném đá hay bôi đen, hơn là chạy đến ôm họ vào lòng an ủi, khuyến khích hướng thiện.
Sự hoài nghi đã nhiễm vào lục phủ ngũ tạng, máu xương của tôi quá nặng nề. Khiến tôi không còn phân biệt đâu là ảo thực, thật giả, phúc tội. Nhìn đời qua cặp kính màu đen, tồi chẳng thấy gì sáng sủa chung quanh. Làm sao tôi nhận ra hình ảnh đáng kính, đáng yêu của Chúa nơi anh em tôi?
Chứng Nhân
Trong Bữa Tiệc Ly, ông Tôma đã thẳng thắn cương quyết theo Chúa đến cùng: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" Chúa Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người. (Ga 14, 5-6).
Sau khi được thấy Chúa Phục Sinh tỏ tường, như nguyện ước, ông Tôma thân thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28) Đó là lời tuyên xưng duy nhất trong các sách Tin Mừng lưu danh thiên cổ. Phải chăng Chúa Giêsu đã thương yêu, biến khiếm khuyết hoài nghi của ông Tôma chuyển thành một điểm son trong Đức Tin. Người luôn hào phóng mở rộng vòng tay, đón đứa con hoang đáng trở vể.
Quả nhiên, sau lễ Ngũ Tuần, được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần, ông Tôma đã nhiệt thành vâng theo lệnh truyền của Chúa sống lại:” Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần...(Mt 28, 19) Ông Tôma, đã hăng say đi rao giảng Tin Mừng ở Patia, Ba Tư, Ấn Độ và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Từ hoài nghi sang xác tín, ông Tôma lột xác hoàn toàn, trở nên chứng nhân tích cực của Chúa Giêsu. Nhờ lòng thương xót vô biên của Chúa, ông Tôma mới được thánh hóa qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”
Lạy Chúa Giêsu toàn năng, xin củng cố lòng tin của con, ban cho con sức mạnh để như thánh Tôma, Tông đồ, tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa của con.
Lạy Mẹ Maria, xin ân ban cho cho con Đức Tin, Cậy, Mến vững vàng, để con luôn trở nên chứng nhân đích thực của Chúa Giêsu. Amen.
37.Hồng ân đức tin--AM Trần Bình An
Từ 4 tuổi, cậu ấm Nguyễn Văn Thích đã được Thân phụ dạy chữ Hán, rồi lớn lên vác lều chỏng thi Hương, đến trường ba thì hỏng (chuẩn bị bằng Cử nhân). Thời gian nầy, cậu Thích cũng học chữ quốc ngữ và chữ Pháp rồi vào trường Pèlerin gọi là «Trường Dòng» do các Sư huynh Lasan điều khiển và giảng dạy, ở Huế. Trường nầy được thành lập năm 1904 và học sinh Nguyễn văn Thích thuộc thế hệ đầu tiên được các Sư huynh truyền dạy kiến thức cả đời lẫn đạo. Nơi đây cậu ấm được học hỏi, trau dồi tiếng Pháp và được khai tâm về Giáo lý Kitô giáo. Không chỉ những lời giảng dạy, mà còn gương sống hy sinh tận tụy của các «Thầy Dòng» đã giúp học sinh con nhà Nho thấy được phần hòa âm tuyệt diệu giữa Nho giáo và ánh sáng Tin Mừng. Về sau, khi Thân phụ là Cụ Thượng Mại chống đối mạnh mẽ đạo Công giáo, thì cậu giải thích cho Thân Phụ rằng chữ TRỜI là THIÊN của Khổng giáo cũng là THIÊN CHÚA của đạo Công giáo. Sau khi trưng dẫn 30 câu trong các sách Nho về chữ THIÊN, thầy Nguyễn Văn Thích trình bày: chữ Thiên đây không phải là bầu trời với trăng sao vằng vặc, hay mặt trời chói lọi, mà là một Ngôi vị thiêng liêng, là Đấng Tạo Hóa Tối Cao và Toàn Năng Toàn Ái.
Nhưng từ lòng Tin vào Đấng Tối Thiện đến thể hiện niềm Tin ấy đối với đứa con một gia đình thâm nho, như gia đình của cụ Thượng Mại là Thượng Thư Bộ Lễ, không phải là chuyện đơn giản. Thời đó Giáo hội Công giáo không chấp nhận việc thờ kính tổ tiên, ngăn cấm người Công giáo thi hành nghi lễ này. Trong khi đó đối với truyền thống đạo đức Việt Nam, chữ HIẾU, với lòng thảo kính tổ tiên, ông bà cha mẹ là thiêng liêng, là nền tảng của đạo làm người. Do đó, Thầy Thích vô cùng khắc khoải, vì trở nên Công giáo sẽ bị xem là bất hiếu, nhất là trong một gia đình nổi tiếng, vị vọng của đất thần kinh. Ông Bà Nguyễn văn Mại khi biết con mình muốn theo đạo Công giáo thì quyết liệt ngăn cản.
Sau 3 năm suy tư, trở trăn và cầu nguyện, cậu ấm Thích chờ thời điểm thuận lợi. Với bằng Cao đẳng Tiểu học và một năm Sư phạm, Thầy Thích được bổ làm trợ giáo tỉnh Khánh Hoà tháng 2-1911. Bốn tháng sau, ánh sáng Đức tin tỏ rạng trong tâm hồn, thúc giục thầy quyết định nhận bí tích Rửa tội để trở nên con cái Thiên Chúa. Linh mục Charles Eugène Saulcoy, tên Việt là Cố Ngoan, ngày 29 tháng 6, tại Nhà thờ Bình Cang, xã Vĩnh Trung, Nha Trang, đã ban phép Thanh Tẩy cho Thầy giáo Thích với tên thánh là Giuse Maria. Được tin sét đánh, cụ Thượng không cầm nổi tức giận, dùng roi gậy đánh nhừ tử «đứa con bất hiếu». Khi cơn gia biến dịu dần với thời gian, Cụ Thượng thân phụ nghĩ đến việc lập gia đình cho con trai đã 26 tuổi. Cụ mời Đức Cha Lý (Cố Allys) đến nhà, xin Đức Cha làm mai mối với con gái Cụ Thượng Công giáo Nguyễn Hữu Bài, để con mình yên phận, không còn gây thêm tai vạ nữa. Ngờ đâu, khi được «hung tin» này, môn đệ của Đức Giêsu lấy quyết định từ giã gia đình qúy tộc…
Một đêm thanh vắng, thầy Giuse Maria hoá trang làm cô gái đội nón lá, mặc áo dài tha thướt ra đi, sáng sớm tháng 9 năm 1917, trực chỉ đến Tiểu chủng viện An Ninh tại Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị. Muốn được nhận vào Tiểu chủng viện thường là 12 đến 14 tuổi, mà thầy Thích đã 26 tuổi thì phải làm sao đây? May mắn là Giám mục Lý (Allys) nắm rõ hoàn cảnh, nên nhận ngay người chủng sinh rất độc đáo nầy, vừa học tiếng Latinh và chương trình đào tạo linh mục, vừa được mời làm giáo sư Pháp văn, Hán văn, Quốc văn cho chủng sinh. Sau 2 năm tu tập vừa làm trò vừa làm thầy nơi đây, thầy giáo «tiểu chủng sinh» được gửi vào Đại chủng viện Phú Xuân, Huế, và 6 năm sau được thụ phong Linh mục ngày 18 tháng 12 năm 1926. (Lm GM Nguyễn Văn Thích, Gương sống đức tin, web GP Nha Trang)
Hành trình đến với Đức Tin của Lm GM. Nguyễn Văn Thích, vốn được các môn sinh tôn xưng là “Hiền Nhân của thời đại,” trải qua bao khó khăn, gian nan, thử thách. Nhưng nhờ ơn Thiên Chúa, ngài đã thủ đắc đức tin và làm rạng danh Nước Chúa qua cuộc đời chứng nhân ngời sáng đạo hạnh, tài năng và đặc sắc.
Trong Tin Mừng Chúa nhật Lòng Thương Xót hôm nay, thánh sử Gioan phác hoạ đôi nét về Đức Tin, qua sự kiện ông Tôma cứng lòng, yêu cầu được xỏ ngón tay vào cạnh sườn Chúa Giêsu Phục Sinh, thì mới chịu khẳng định Người sống lại thật.
Đức Tin vượt giác quan
Bà Maria Mắcđala và quý bà đạo đức đã ra ngôi mộ táng xác Đức Giêsu. Nhưng không còn xác Người, thiên sứ báo tin Người đã Phục Sinh. Nghe tin lạ, hai môn đệ Phêrô và Gioan cũng vội vã chạy đến quan sát. Nhưng ngôi mộ trống rỗng, chỉ còn khăn liệm và khăn trùm đầu xếp gọn ghẽ. Thế mà trong bấy nhiêu người chứng kiến tỏ tường sự việc, chỉ duy nhất Người Môn Đệ Được Chúa Yêu Thương “đã thấy và đã tin” Chúa Giêsu phục sinh. Mặc dầu ai cũng đều sáng mắt, chứng kiến cùng một cảnh ngộ, một sự kiện nhãn tiền, thì tại sao chỉ mình ông Gioan nhận được đức tin?
Qua những dấu chỉ trong thiên nhiên, dấu chỉ từ các sự kiện xã hội, hay những diễn biến lịch sử, Thiên Chúa dẫn dắt vào niềm tin những người hướng thượng, thành tâm và thiện chí. Như ba vị chiêm tinh, khao khát đấng minh quân xuất hiện, đã tìm thấy ngôi sao dẫn đường, đến Bêlem thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Như môn đệ Gioan, đã mỹ mãn thành công giải mã dấu chỉ ngôi mộ trống.
Như thế, đức tin không thể nào kiểm chứng, vì vượt qua giác quan, vượt qua cảm nhận thông thường. Đức tin thuộc lãnh vực siêu nhiên, phi vật chất, không thể thấy, nghe, nếm, ngửi, đụng chạm, hoặc cân đo đong đếm. Nếu khoa học kiểm chứng được thì đâu cần đến nhân đức tin. Nói như ông Tôma thì cũng chẳng cần viện đến niềm tin, vì đã là một sự thật hoàn toàn."Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." (Ga 20, 25)
Vì thế Đức Giêsu mới chúc lành cho ai thực sự có đức tin bền vững, không mảy may nghi ngờ, chao đảo cám dỗ, đầy lửa mến, đức cậy: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20, 29)
Đức Tin vượt tri thức
Khi hai môn đệ sầu buồn thê thảm, ê chề thất vọng, lê gót chân trên đường Emmau, đều thiếu lòng tin tưởng, trông chờ vào Chúa, dù đã được loan báo tin vui từ nhiều nguồn.“Ðã hẳn, có vài người phụ nữ trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi hoảng hồn. Tảng sáng họ đi đến mồ; và không gặp xác Ngài, họ về phân phô là đã thấy thiên thần hiện ra nói rằng Ngài đang sống. Có vài người trong chúng tôi đã đi tới mồ, và đã gặp thấy y như các phụ nữ đã nói, còn Ngài thì họ không được thấy!" (Lc 24, 22-24)
Không nhờ đến giác quan, mà dựa trên tri thức, suy luận, để lý giải, phân tích, tổng hợp dữ kiện, thì cũng chẳng thể nào lãnh hội được đức tin. Hai môn đệ đã phải thú nhận sự thất vọng sâu xa về đấng đến phục quốc: “Phần chúng tôi, chúng tôi đã hy vọng rằng chính Ngài là Ðấng sẽ giải thoát Israel. Nhưng với ngần ấy cớ sự, nay đã là ngày thứ ba rồi, kể từ khi các việc ấy diễn ra!” (Lc 24, 21) Ba ngày trôi qua sau khi Đức Giêsu tử nạn, sao còn hy vọng được? Sau ba năm theo Đức Giêsu dạy dỗ, các ngài vẫn còn ngộ nhận về sứ vụ cao cả của Người, vẫn còn nặng lòng với vật chất, danh lợi.
Vượt qua tri thức, đức tin chỉ đạt được bằng con đường trái tim, yêu thương. Nhưng phải là tình yêu xả kỷ, bao dung, cho đi, khiêm nhường, trong sáng, vô vị lợi, mến Chúa yêu người, yêu thương, phục vụ những người cùng khổ, khó nghèo, đói rách, bệnh hoạn, tù đầy, bị bỏ rơi, bị xua đuổi, cả đến người thù địch.
Trả lời những người chống đối, Đức Giêsu không ngần ngại công khai nhận xét chính tâm hồn họ chai đá, lạnh nhạt với Chúa, phũ phàng với tha nhân, nên chẳng thể nào tin vào Con Người được sai đến: “Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga 5, 42-44)
Trong thư gửi tín hữu Philípphê, thánh Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến tình yêu, đức mến: “Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn.” (Pl 1, 9-10). Dồi dào lòng mến, nồng nàn yêu Chúa, yêu tha nhân, mới dễ dàng đón nhận được ơn tri thức, cũng như lãnh nhận được đức tin.
Vậy ai yêu Chúa thì vâng theo, hoàn toàn tin tưởng, trông cậy, thực thi Lời Chúa, sẽ được Người thân thương yêu quý, và được hạnh phúc ở lại trong Người, như Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.” (Ga 14, 23)
Thánh Têrêsa Hài Đồng cảm nghiệm tình yêu chân chính thế nào: “Yêu thương trước tiên là ‘mong muốn’, chứ không luôn là ‘cảm thấy.’
Đức Tin từ Lòng Thương Xót
Hai môn đệ đang trên đường Emmau,” bộ mặt ảo não,” đau buồn, xót thương Đức Giêsu chịu tử nạn. Người lặng lẽ hiện ra, “tiến lại gần bên mà đi với họ; nhưng mắt họ bị ngăn ngừa làm sao họ không nhận ra được Ngài.” (Lc 24, 15-16).
Thật phúc đức thay cho hai môn đệ đã vô cùng thương xót Chúa, nên được Chúa thương xót đáp lại.“Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.” (Mt 5, 7) Chúa Giêsu dùng chính Lời Chúa để giải thích cho các ngài mầu nhiệm phục sinh. “Và khởi từ Môsê và hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ những điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh.” (Lc 24, 27)
Cũng vì Lòng Thương Xót, Chúa Giêsu chẳng hề nỡ trách mắng ông Tôma cứng lòng, mà chỉ nhân từ, ôn tồn dạy bảo Tôma: "Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20, 27)
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. (Thánh Âu-Tinh, Rabbouni, 120 Lời nguyện của bạn trẻ Việt Nam, Vietnamese Missionaries in Asia)
Kính xin Mẹ Maria, biến đổi chúng con theo gương mẫu Mẹ, luôn biết sống yêu thương, nhân ái, khiêm nhường, đơn sơ và vâng phục, để chúng con có thể xứng đáng hưởng từ Lòng Thương Xót, hồng ân đức tin mạnh mẽ như Mẹ vậy. Amen.
38.Hồng Phúc từ Lòng Thương Xót của Chúa--AM Trần Bình An
Sau cuộc khổ nạn đau đớn, nhục nhã và cuộc Phục Sinh thầm lặng của Chúa Giêsu, các Tông đồ chưa khỏi bàng hoàng, khiếp sợ. Mặc dù chính hai ông Phê rô và Gioan đã đích thân ra vào mồ, thấy khăn lệm đã xếp lại ngăn nắp, đã tin Chúa đã sống lại thật. Nhưng nỗi sợ hãi vẫn còn ám ảnh, hằn dấu trên gương mặt các đấng. Do vậy, phòng họp mới phải cẩn thận cửa đóng then gài, an toàn và chắc chắn.
Các ông tụ họp, âm thầm nguyện cầu, cùng đang nhỏ to thuật lại những biến cố mới xảy ra. Thì bất ngờ Chúa hiện đến, trao tặng những món quà vô cùng quý giá.
Ban bình an và niềm vui, yên ủi những kẻ sầu khổ, lo sợ.
Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã chúc: “Phúc cho những ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5, 5) Hôm nay lời chúc phúc ấy đã được thực hiện tỏ tường. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (Ga 20, 20)
Chỉ trong đoạn trình thuật ngắn ngủi này của Tin Mừng theo Thánh Gioan, đã có đến 3 lần Chúa Giê su lập lại cầu chúc bình an.
Ban Sứ Mạng Truyền Giáo
Ngay sau khi sống lại, Chúa Giêsu trao phó cho các môn đệ công việc đầu tiên, ưu tiên và cấp bách nhất, đó là mệnh lệnh truyền giáo. Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. (Ga 20, 21) Như thế lệnh truyền này thực sự quan trọng và thiết yếu vô cùng. Các môn đệ đã vui vẻ thừa hành, Đi Gieo Tin Mừng, để bây giờ chúng ta mới hân hạnh nhận được hồng ân của Lòng Thương Xót Chúa.
Ban Chúa Thánh Thần cho người được sai đi.
Nhưng Chúa biết sức người hạn hẹp, tinh thần yếu đuối, không thể làm nên việc gì, nếu không có Thần Khí giúp đỡ, dìu dắt. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (Ga 20, 22) Nhờ Đức Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan và can đảm, các môn đệ sau đó mới dám công khai đi rao giảng trước các Thượng tế, Biệt phái, kinh sư, quan quân Hêrôđê, Philatô và đông đảo dân chúng khắp nơi. Sau này các chứng nhân đã cam đảm chịu hy sinh tuẫn đạo, như Thánh Gioan bị tù tội, làm kiếp nô lệ lưu đầy ở đảo Patmos, Thánh Phêrô chịu đóng đinh ngược, Thánh Phaolô bị chặt đầu ở Roma…
Ban quyền năng tha tội cho các môn đệ, linh mục sau này.
Nhân dịp này, Chúa Giê su nhắc lại quyền năng tha tội qua Bí tích Hòa Giải: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga, 20, 23) Mà trước đây Chúa đã từng trao phó cho các môn đệ, khi Người còn chưa chịu khổ nạn: “Thầy bảo thật anh em, dưới đất anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt 18, 18)
Ngày hôm nay tôn kính trọng thể Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Từ cạnh sườn Người đã tuôn trào hai luồng sáng, biểu thị Máu và Nước, để thanh tẩy linh hồn nên trong sạch, cùng ban sức sống cho linh hồn. Thánh nữ Faustina Kowaska đã giải thích như thế sau khi nhiều lần được thị kiến Chúa dẫn giải. Hai luồng sáng này phát xuất từ lòng xót thương dịu hiền sâu thẳm của Chúa, lúc trái tim thống khổ của Chúa bị lưỡi đòng mở ra trên Thập Giá.
Những luồng sáng này che chở các linh hồn khỏi cơn nghĩa nộ của Chúa Cha. Phúc cho linh hồn nào cư ngụ, nương náu vào Lòng Thương Xót của Chúa, vì bàn tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đè nặng trên họ. (NK 299)
Lạy Chúa, Giê su xin ban cho con luôn biết tìm đến Lòng Thương Xót của Ngài, để con luôn được bình an, niềm vui và niềm hy vọng được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, xin luôn dẫn con đến Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để con canh tân, đổi mới và làm chứng nhân cho Tình Yêu tuyệt đối của Chúa. Amen.
39.Bình an cho các con--Radio Veritas Asia--‘Sống Tin Mừng’
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phúc Âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho con đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông đồ, củng cố đức tin của họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi với sứ mạng mà Chúa đã chuẩn bị các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh: "Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con ra đi".
Con đường đức tin của các Tông đồ từ ngày được gọi theo Chúa cho đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chọn theo con đường đức tin này như được gợi lại cho chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, trước hết chúng ta nhìn thấy các Tông đồ lo sợ thu mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ sức để thi hành. Nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chứng kiến một cuộc thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng kiến một cuộc đổi mới và kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được củng cố để ra đi bắt đầu sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đến, các Tông đồ đang sống trong lo sợ, đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng. Ai trong chúng ta đã không trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là đang trải qua thử thách đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất đức tin vào Chúa về những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ Bảy, có một đoạn đối thoại thật ý nghĩa:
Thần chết hiện ra trong dung mạo của một người phàm và đã đối thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:
Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:
Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao Ngài không xuất hiện mạc khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa không đưa tay Ngài ra và chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời với chúng ta?
Thần chết trả lời:
Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó được, không phải vậy sao? Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài chỉ giữ im lặng.
Dũng sĩ tiếp:
Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì như vậy, Ngài không chạm đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi khi tôi nghi ngờ không biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?
Thần chết trả lời:
Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia, có thể không ai hiện hữu bên kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện một mình nơi cõi đời này mà thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có lẽ Thiên Chúa không có đâu, chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế giới này mà thôi.
Anh chị em thân mến!
Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm. Các Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói, được sống với Chúa như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không phải vì thế mà các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào Chúa khi Chúa trải qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và đã phục sinh.
Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là Tôma, cũng như chúng ta đã đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm chứng một cách cụ thể: "Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây". Chúng ta ngày hôm nay không thể nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối thoại tưởng tượng giữa Dũng sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa, chúng ta cần tin vào Chúa để không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn sứ mạng của Chúa. Lời Chúa phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó là: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".
Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban cho chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta trong đức tin. Amen.
40.Đức tin là một sự tăng trưởng—‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Ký sự thuật lại lần xuất hiện thứ hai của Chúa tại phòng Tiệc ly, trong lúc có một môn đệ Tôma là người bản tính cứng tin. Ký sự đáng cho ta chú ý về hai điểm được nhấn mạnh. Trước hết là thực tại hữu thể trong sự Chúa sống lại, dù người ta đưa ra bất kỳ lý thuyết phỏng đoán về cơ thể hiển vinh của Chúa. Tiếp đến là tầm quan trọng và ưu thế của đức tin.
Trước khi nhấn mạnh vấn đề đức tin, chúng ta ghi sơ qua rằng rất có thể bài tường thuật muốn trả lời hai ý kiến phản kháng:
a/ Chúa Phục Sinh không phải làmột bóng ma, cũng chẳng phải là một ảo ảnh. Chúa phô bày những dấu vết về nhân dạng –về thực tại hữu thể của Người: đó là những thương tích của một người đóng đinh trên thập giá, Chúa cho Tôma tra tay vào những vết thương đó.
b/ Truyền thuyết mà người Do Thái tưởng tượng về việc thi hài Chúa bị mấy môn đệ lấy đi mất, là một chuyện dựng đứng, bởi lẽ một số đông môn đệ đã thấy Chúa, nhận đúng Chúa bằng xương bằng thịt.
Giả thuyết này, giả thuyết nọ cốt ý giải thích cái thực tại hữu thể, nhưng không thay đổi được gì trong việc kiểm chứng một sự kiện.
Đối với chúng ta, vấn đề hấp dẫn nhất liên quan đến đức tin:
1) Trước đây, Chúa đã phán: Các ngươi tin vào Thiên Chúa, vậy hãy tin vào Ta (Ga 14,1). Đáp lại lời đó của Thày, vang lên tiếng hô của Tôma: Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi. Khoảng giữa Lời Chúa và tiếng kêu kỳ diệu của Tôma, một quá trình dài đã được thực hiện. Có thể nói rằng một trong những mạch văn chứa đựng tính chất bi kịch trong toàn bộ Phúc Âm của thánh Gioan biểu lộ trong bước tiến chật vật từ cứng tin vươn tới đức tin. Người Do Thái sau này sẽ đứng tại chỗ với lòng cứng tin. Đức tin chỉ được vươn tới sau khi vượt thắng bao khó khăn trở ngại. Tôma thuộc hạng người ưa phản kháng, khó thuyết phục. Ta nhớ lại, ông đã từng xem việc Chúa đi thăm mộ Lagiarô như một việc liều lĩnh (Ga 11,16). Ông đã dám nói với Chúa rằng ông không biết cuộc phiêu lưu của Người rồi đây sẽ kết thúc ở đâu (Ga 14,5). Vậy mà chính ông đã tuyên xưng đức tin bằng một câu tuyệt vời nhất trong khắp Tân Ước. Đây là một kết quả cho thấy cùng một lúc lòng rộng rãi Chúa khi Người ban ơn đức tin, và lời đáp đơn sơ của một tâm hồn khó tính nhưng ngay thẳng.
Người ta sẽ nhận xét: Tôma dễ có được niềm tin vì may mắn được thấy Chúa. Phần chúng ta, chúng ta nhận định rằng các môn đệ khác cũng may mắn như Tôma. Tuy nhiên đã có một khoảnh khắc các ông nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhiều hơn là một người. Niềm tin của ông nằm trong quá trình các ông thừa nhận Đức Giêsu Thiên Chúa.
Chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta vượt lên trên những gì chúng ta biết về con người Giêsu lịch sử, để vươn tới niềm tin vào Đức Giêsu Thiên Chúa.
2) Đức tin là một sự “trở nên” liên tục, một sự tiến tới không ngừng. Không bao giờ người ta đạt tới hoàn hảo trong đức tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta và là Thiên Chúa chúng ta. Một trong những bản dịch có thẩm quyền nhất về câu 27, viết: Ngươi đừng trở nên cứng tin, mà là người thành tín. Cứng tin hay thành tín không phải là trạng thái bất động của nội tâm. Từ chối không tin, là khiến cho đức tin càng thêm khó. Ngược lại, chấp nhận tin và làm cho đức tin càng dễ được chấp nhận và sống động. Người ta tiến hóa trong đức tin. Người ta trở nên cứng tin hơn hoặc thành tín hơn.
Sự kiện này có một hệ quả. Đức tin sống động thiết lập trong con người một sự tăng trưởng thiêng liêng. Sau một thời kỳ tăng trưởng, cơ thể bị hao mòn dần rồi chết. Đức tin là một thực tại thiêng liêng lớn lên và tăng trưởng theo mức độ chúng ta muốn sống trong đức tin. Đức tin không hao mòn, nhưng phát triển và nảy nở không ngừng. Tại sao? Vì lẽ đức tin nối chúng ta vào Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch vô tận của sự sống. Tuy nhiên chúng ta có trở nên mỗi ngày một thành tín hơn hay không là tùy thuộc lòng ước muốn, thái độ ngay thẳng thực tiễn và cung cách chúng ta nghênh tiếp đức tin.
41.Dấu chứng Phục Sinh--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được mới tin.
Ngày 23 thánh 9 năm 1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa Giêsu. Những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ ràng ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu trên thập giá, những vết thương làm cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài được bao lại trong đôi gang tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình an.
Với một số người, câu chuyện của cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.
Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc biệt là cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động cho cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.
Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xẩy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính dấu đinh. Nếu chính Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn làm những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã, đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể làm chứng cho Chuá Phục Sinh một cách sống động nhất. Từ hơn 2000 năm nay, Thánh giá mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh hào quang. Chúa Kitô thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ” (Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị đóng đinh trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta như là “người” và là “Chúa” trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi, sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Nhưng thưa anh chị em,
Giáo hội nói chung và mỗi người tín hữu chúng ta nói riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả giá máu mà chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, nếu họ không nhìn thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm sao họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một, chuyện cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (X. Cv 4,32-35; 2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Đạo của anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của anh đi!
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
42.Dấu chân của Thiên Chúa--R. Veritas--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:
- Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
- Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
- Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
- Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:
- Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
- Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
- Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
- Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
- Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”. Lời này như được ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con đường của lòng mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa thường không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế này cho đến ngày được xuất hiện trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
43.Lạy Chúa Là Thiên Chúa Con--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người. Nhà phẫu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá. Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên. Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin. Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo. Đức tin của họ giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa đù. Chúng ta phải tực tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu chuyện hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại tí là như các anh em khác. Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại. Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài. Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém. Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.
Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh. Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đỏi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa. Ông nói: “Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.
Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống lại. Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.
Trong cuốn sách mang tựa đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện đám tù binh hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi. Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế. Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian bay ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma. Vậy thì chúng ta có thể làm gì?
Chúng ta có thể làm như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể tự cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta. Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin”.
Thưa anh chị em,
Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin. Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ. Không có các bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.
44.Đức tin của Tôma--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Từ lâu, gương mặt của Tôma đã cuốn hút nhiều người. Người ta thường đã nhìn thấy nơi ông, một con người hoài nghi và Gioan đã giải thích thái độ và cử chỉ của Tôma ra sao. Ông đã không có mặt khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, chiều ngày Phục Sinh và khi Ngài đã thổi hơi trên họ. Mặc dù các môn đệ kể lại cho ông điều họ đã nhìn thấy, ông vẫn không tin. Ông đáp: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Gn 20,25).
Trong thực tế, Tôma không phải là người hoài nghi, mà là người muốn tự mình cảm nhận tất cả. Ông không bằng lòng với những gì người khác kể lại. Ông còn phải thấy và tự mình sờ chạm và chỉ tin với điều kiện ấy mà thôi.
Gioan mời gọi chúng ta theo gót Tôma để tin vào sự Phục Sinh. Điều kiện mà Tôma đưa ra để tin, chất vấn mỗi người chúng ta.
Tại sao ông lại đặt nặng vấn đề các thương tích của Đức Giêsu, những dấu đinh trên bàn tay và vết đâm nơi cạnh sườn? Có lẽ ông cần đến bằng chứng rằng Đấng Bị Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh là một, vì thật lòng mà nói quả là rất khó tin rằng người chết trong những đớn đau khủng khiếp như thế, lại có thể sống lại một hai ngày sau đó. Ông khó lòng chấp nhận rằng Đấng Messia đã chết trên Thập Giá, một cách bất ngờ, khủng khiếp như vậy, cho nên ông cần một bằng chứng rõ ràng để tin vào một Đấng Phục Sinh. Chính vì vậy học giả Merrill Tenney đã nói như sau: “bất chấp việc các môn đệ khác nói đi nói lại rằng Đức Giêsu đã sống lại, Tôma vẫn không tin. Ông biết rõ cái chết của Đức Giêsu, nên ông không dễ tin vào những lời tường thuật về việc Đức Giêsu hiện ra, và khẳng định ông chỉ tin khi nào ông đụng chạm đến thân thể Người. Điều Tôma cần không gì khác hơn là những chứng cứ vật chất. Sự cứng tin của ông là bằng chứng cho thấy sự kiện hiện ra sau Phục Sinh không phải là ảo tưởng vì quá mong nhớ Thầy.”
Tuy bị coi là cứng lòng tin, nhưng Tôma lại đạt tới đỉnh cao của niềm tin Kitô giáo vì không những Tôma tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, mà còn ý thức được rằng Đức Giêsu chính là “Ngôi Lời” của Thiên Chúa, do đó ông đã tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa của con”. Không chỗ nào trong Tân Ước có được lời chứng mạnh mẽ về Đức Giêsu như ở đây. Qui nạp hai tước hiệu đó vào Đức Giêsu Kitô là điều cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo.
Bác sĩ C. Scott Harrison đã đồng cảm với Tôma trong niềm tin này khi thi hành nhiệm vụ của một bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bàn tay. Trong một bài báo được phát hành trên toàn quốc, ông viết rằng trong mọi cuộc giải phẫu, ở một điểm nào đó, ông đã phải kêu lên, "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!
Câu chuyện đàng công việc giải phẫu xảy ra trong thời gian ông ở Việt Nam. Một tối kia, sau khi mới tốt nghiệp y khoa, ông được gọi đến để lấy một viên đạn từ tay một người lính. Đã vậy, ông phải thi hành điều đó dưới ánh sáng của đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã làm ông cảm động đến nỗi, sau cuộc chiến, ông quyết định chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Vì sự chuyên môn này, nhà phẫu thuật rất thấu hiểu sự đau đớn khủng khiếp gây nên bởi vật gì đó, tỉ như viên đạn, xuyên xé qua xương, bắp thịt, và các thần kinh của bàn tay. Ông nói cứ mỗi lần ông nghĩ về sự đau đớn khủng khiếp mà Chúa Giêsu phải chịu khi bị đóng đinh trên Thập Giá thì ông lại phải nhăn mặt.
Nói về bài Tin Mừng hôm nay, bác sĩ cho biết ông nghĩ rằng lời kêu than của Tôma, "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con," không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà đó còn là lời sửng sốt bàng hoàng khi thấy các bàn tay của Chúa Giêsu bị xé nát và sứt sẹo biết chừng nào. Chỉ lúc bấy giờ Tôma mới thực sự nhận thức được sự đau đớn mà Chúa Giêsu đã chịu trên Thập Giá. Với khám phá này, bác sĩ nói, "vượt quá mức chịu đựng của thánh Tôma."
Bác sĩ C. Scott Harrison đã kết thúc bài viết với lời lẽ xúc động như sau: "mỗi lần tôi giải phẫu và nhìn vào bên dưới lớp da... của bàn tay con người, tôi được nhắc nhở rằng Đức Kitô đã hy sinh bàn tay lành lặn của Người vì tôi. Và, cùng với Tôma, tôi thân thưa, 'Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.'"
Tóm lại, chúng ta thấy nơi Tôma: ông nhất định không chịu nói là tin khi ông không tin, không bao giớ nói mình hiểu khi chưa hiểu. Ông không hề đè nán sự nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người chịu thông qua điều chưa hiểu. Ông muốn biết chắc mọi sự. Một người đòi hỏi chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ biết lặp đi lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến. Chính khi hoài nghi như thế cuối cùng đã đạt đến một đức tin chắc chắn và khi biết chắc, ông sẽ đi đến cùng. Ông nói: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.” Với Tôma không có chuyện nửa với. Ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc và khi biết chắc rồi, ông hoàn toàn vâng phục. Đây chính là điều chúng ta phải học nơi Tôma. Amen.
45.Lòng Chúa xót thương--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?".
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì "họ không biết việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn "Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ" như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao hơn năm trước".
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
46.Hãy học nơi Chúa Lòng Thương Xót--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi ta nói lòng thương xót, sự thương cảm, lòng trắc ẩn là ta muốn biểu lộ tình yêu của mình với những nỗi khổ đau cụ thể mà ta gặp trong cuộc sống. Có những lúc tự nhiên không kiềm được cảm xúc khi xem bộ phim hay đến nỗi nước mắt cứ ướt bờ mi. Có những lúc lòng không khỏi xót xa khi thấy cảnh cụ già lưng còng bán vé số giữa trời nắng chang chang. Có những lúc chạnh lòng nhớ cha mẹ gìa đang lam lũ vất vả vì con, khiến trong ta trỗi dậy lòng thảo hiếu muốn đền ơn đáp nghĩa.
Lòng thương xót là nhịp cầu để ta trao ban những nghĩa cử yêu thương đến người ta xót thương. Không có lòng thương xót con người sẽ mãi vô cảm trước những khổ đau, bất hạnh của anh em. Lòng thương xót còn là biểu lộ một trái tim từ tâm để có thể tha thứ cho kẻ làm hại mình, và còn cầu nguyện cho họ ăn năm sám hối.
Mới đây một linh mục đã được giải oan sau 8 năm oan ức trong tù về tội lạm dụng tình dục. Đó là Cha Adam Stanisław Kuszaj đã bị một thiếu niên 16 tuổi vu cáo lạm dụng tính dục.
Năm 2011, giáo quyền đã cấm cha Kuszaj thi hành tác vụ linh mục và cha bị trục xuất khỏi dòng. Cha cũng bị tòa dân sự kết án 6 tháng tù treo. Bị kỳ thị vì lời buộc tội nặng nề và bị bỏ rơi bởi hầu hết những người thân quen, cha chỉ có thể tự lo liệu cuộc sống của mình nhờ đi làm công nhân.
Năm 2016, vụ án đã được mở lại sau khi 3 người bạn của nguyên cáo khai rằng anh ta dựng lên những lời cáo buộc vì cha không giúp đỡ tài chính cho gia đình anh ta nữa. Nguyên cáo được thẩm vấn một lần nữa và các chuyên viên được tòa án hỏi ý kiến đã khẳng định rằng các lời tường thuật của người cáo buộc là không đáng tin. Toà án đã tuyên bố cha vô tội.
Giáo phận Ostrawa-Opava đã rút lại lệnh cấm cha Kuszaj thi hành thừa tác vụ. Về phần mình, cha không hề kết tội người làm hại mình, và cũng không buồn Giáo hội vì đã không tin mình, cha Kuszaj nói: “Tôi chỉ muốn phục vụ con người và Thiên Chúa. Tôi đã mất 9 năm nhưng tôi đã học được nhiều điều”.
Cha đã học được bài học của Lòng Thương xót để có thể chịu đựng sự xỉ nhục và lòng vẫn bình an nhờ luôn bao dung tha thứ.
Phúc âm hôm nay cho thấy dường như sau khi sống lại, Chúa Giê-su không bận tâm tới quá khứ của những người làm hại hay bỏ rơi Chúa. Chúa không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy trong đêm tối vườn Cây Dầu. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng theo lý luận thuần túy nhân loại. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Liệu rằng các ông có dám ngước mắt nhìn thẳng vào Thầy hay vẫn lấm lét, thẹn thùng đầy lo sợ, bất an như Adam năm xưa trong vườn địa đàng.Chúa đã sống lại và ban ơn tha thứ cho các tông đồ để từ đây các ngài sẽ ra đi rao giảng về Lòng Thương xót Chúa.
Chúa nhật 2 Phục sinh cũng là ngày kính nhớ “Lòng Thương Xót” của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta: hãy sám hối ăn năn vì những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Hãy tin vào tình thương tha thứ của Chúa để sửa đổi bản thân nên hoàn thiện hơn như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Xin đừng tiếp tục xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa. Xin đừng lợi dụng lòng thương xót của Chúa để tiếp tục sống buông thả trong những đam mê lầm lạc, những quan hệ bất chính, những thói đời gian dối hại người. Một cách đặc biệt là hãy dâng những hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về cùng Chúa. Đó là điều mà Chúa đang chờ đợi nơi mỗi người chúng ta. Vì thế giới hôm nay đang bị tục hoá bởi một trào lưu văn hoá phóng túng và sa đoạ. Người ta phạm tội nhưng không còn ý thức về việc mình làm là tội. Người ta dùng thân xác để kinh doanh kiếm tiền. Hàng đêm vẫn còn đó biết bao cô gái dùng thân xác của mình để đổi lấy đồng tiền dơ bẩn. Hàng đêm vẫn còn đó những chàng trai rải tiền trên thân xác người khác để thoả mãn thú tính của mình. Thế giới tục hoá đã đánh mất sự linh thánh nơi con người là “nhân linh hơn vạn vật”, nên dẫn đến tình trạng sát hại thai nhi như những anh đồ tể giết một con vật vô tri vô giác. Người ta ước tính hàng năm có hàng triệu thai nhi bị sát hại ngay trên quê hương với bốn ngàn năm văn hiến.
Có lẽ ngày nay Chúa đang cần những con người có tâm hồn thanh sạch lòng ngay. Chúa cần những con người như vậy để vì họ mà Chúa nguôi cơn thịnh nộ trút xuống địa cầu. Điều đó đã được Chúa mạc khải qua thánh nữ Faustina. Ngài muốn có nhiều người chấp nhận lòng thương xót vô bờ bến của Ngài để máu và nước đổ ra từ trái tim bị đâm thâu của Ngài có thể tẩy xoá, rửa sạch tội lỗi, và ban sự sống mới cho những ai tin nhận nơi Ngài. Ngài muốn có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina để thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con xin phó thác cuộc đời con, gia đình con và nhân loại hôm nay nơi lòng thương xót của Chúa. Chúng con xin dâng những hy sinh, lời cầu nguyện để bù cho những tội lỗi nhân gian”. Amen.
47.Phẫn nộ thì dễ--Tha thứ mới khó--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống luôn đối diện với những điều không vừa ý và với những người gây tổn thương cho chúng ta. Phản ứng thông thường là đáp trả, là ăn miếng trả miếng. Nhưng thực ra, giận dữ phản kháng, trả đũa chẳng hóa giải được điều gì có khi còn làm cho tình huống thêm căng thẳng thêm.
Trên chuyến xe búyt có một đôi tình nhân, chàng trai gắt gỏng, giận dữ nói cô gái: “Nói với em bao nhiêu lần rồi, em vì cái gì mà không nhớ rõ, em làm sao vậy hả?”.
Cô gái kéo áo chàng trai, nhỏ giọng nói: “Em xin lỗi! Anh đừng lớn tiếng trước nhiều người như vậy!”.
Không biết hai người đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hành động của chàng trai khiến mọi người đều phản cảm. Ở nơi công cộng mà nổi nóng như vậy thật mất lịch sự, thật thiếu văn hóa...
Một điều dễ thấy rằng, phẫn nộ thì dễ mà tha thứ lại rất khó khăn. Phẫn nộ thì phá hoại còn tha thứ là xây dựng. Tha thứ chính là hiện thân của tình yêu vĩ đại, của lòng bao dung và từ bi với nhau. Phải có tình yêu vĩ đại lắm mới tha thứ cho kẻ làm hại và gây đau khổ cho mình.
Chúa Ky-tô là hiện thân của tình yêu vĩ đại ấy! Sau cuộc khổ hình Ngài đã sống lại là tin buồn cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài. Ngài sống lại cũng mang lại những hoang mang lo sợ cho những môn đệ đã từng bỏ rơi Ngài để chạy trốn, đã từng chối Thầy đến ba lần... Thế mà sau cuộc phục sinh ấy Ngài không hề tìm đến hỏi tội hay kết án ai. Ngài còn đi bước trước trong tình yêu tha thứ khi trao bình an cho các môn đệ. Nhiều lần và nhiều nơi khi Chúa hiện đến với các môn đệ Ngài đều nói “bình an cho các con”. Ngài hiểu rằng nơi các môn đệ lúc này là tâm trạng hối hận vì việc mình đã làm với Thầy Giê-su. Ngài đã đi bước trước trong tình yêu là nói lời bao dung tha thứ. Có lẽ Chúa sẽ nói: “Ai mà không có lúc lỗi lầm. Hãy can đảm đứng dậy. Thầy không trách tội các con. Hãy vui vẻ bình an”.
Chúa Giê-su trong thân phận con người Ngài cũng hiểu bản tính yếu đuối của con người. Ai mà không lầm lỗi. Ai mà không một lần cần đến sự cảm thông tha thứ nơi anh em. Ai cũng cần sự tha thứ để sửa đổi, để làm mới lại tương giao với nhau. Sự tha thứ của Chúa phục sinh đã làm mới lại tương giao với các môn đệ, để từ đây các ông sẵn sàng chết vì Thầy. Sự tha thứ của Chúa đã làm cho các môn đệ yêu mến Chúa nhiều hơn đến nỗi chỉ vâng lời Thiên Chúa chứ không vâng lời cường quyền trần gian.
Giữa cuộc đời hôm nay cần lắm Lòng Thương Xót dành cho nhau. Nếu cuộc đời cứ “oán báo oán – oán sẽ chập chùng”, và sẽ biến thế giới thành hoang tàn đổ nát. Chỉ có tình yêu tha thứ và lòng bao dung mới xây dựng tình người và dựng xây thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Chúa Giê-su đã củng cố các môn đệ dựa trên Lòng Thương Xót. Nhờ Lòng Thương Xót ấy mà Ngài đã thay đổi các môn đệ từ nhút nhát và đầy yếu đuối trở thành người can đảm tận trung với Chúa. Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta hãy có lòng xót thương nhau. Xót thương ngay chính trong gia đình để hàn gắn những nghi kỵ, hiểu lầm, ghen tương. Xót thương ngay chính trong cộng đoàn xứ đạo để sống hiệp nhất cùng nhau loan báo Lòng Thương xót Chúa. Chính Lòng Xót thương sẽ mang lại cho chúng ta bình an hạnh phúc, bởi vì nuôi dưỡng hận thù chỉ tổn hại tâm can chính mình.
Ước gì chúng ta có trái tim bao dung của Chúa để có thể nói lời tha thứ cho nhau và đón nhận anh em chung sống trong hiệp nhất yêu thương. Amen.
48.Định nghĩa Lòng Thương Xót--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay lễ lòng thương xót Chúa. Thiết tưởng chúng ta cần hiểu lòng thương xót nghĩa là gì? Thương xót nghĩa là sự biểu lộ lòng xót xa đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn. Lòng thương xót đối với Chúa còn là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ đó. Như vậy, lòng thương xót của Chúa là sự biểu lộ tình thương trước những hoàn cảnh khó khăn của dân Chúa.
Lòng thương xót của Chúa không như con người. Vì con người thương xót nhưng có chọn lựa, có tính toán. Cùng hoàn cảnh nhưng chúng ta thương người này và có thể ghét người kia. Thế nhưng, lòng thương xót của Chúa thì trải rộng cho mọi người. Không toan tính. Không chọn lựa. Ngài yêu thương con người bất kể tình trạng luân lý của họ. Bởi vi, Chúa vẫn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thế nên, lòng thương xót của con người chúng ta thì giới hạn. Chúng ta có thể xót thương kẻ cơ hàn. Xót thương những người già yếu, bệnh tật bị bỏ rơi. Xót thương những trẻ nhỏ bị lạm dụng, bị bóc lột nơi cha mẹ hay người nuôi dưỡng. Và chắc chắn chúng ta sẽ chẳng bao giờ xót thương những phường tội lỗi như: trộm cắp, mại dâm, hay tham ô. Chúng ta thường không thương xót họ mà có khi còn nguyền rủa họ.
Lòng thương xót Chúa thì không giới hạn. Ngài yêu thương mà không cần nhìn xem họ là ai? Ngài chỉ bận tâm đến nhu cầu của con người và ra tay nâng đỡ. Thánh Kinh bảo rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được. Thế nhưng, Chúa đã không chấp tội con người, Ngài cũng không giáng phạt theo như tội ta đã phạm. Lòng thương xót của Chúa trải rộng trên con người. Trên người lành cũng như người dữ. Ngài luôn biểu lộ lòng thương xót cho bất cứ ai đến với Ngài. Lòng thương xót ấy không dừng lại ở nơi kẻ yêu Ngài mà còn dành cho cả kẻ ghét Ngài, xỉ nhục và kết án Ngài. Chính trong đau thương khổ nhục mà Ngài vẫn xót thương những kẻ đang hành hạ Ngài khi Ngài cầu nguyện cùng Cha: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.
Có lẽ với bản tính con người, chúng ta sẽ thù hận kẻ giết hại chúng ta một cách oan uổng. Có lẽ chúng ta cũng kinh tởm kẻ vô ơn, phản bội với chúng ta. Thế mà, Chúa Giêsu dường như không còn nhớ đến tội lỗi của con dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đã tha thứ cho kẻ làm nhục Ngài. Ngài cũng tha thứ cho những môn đệ đã bỏ Ngài trong tuần thương khó.
Vâng, khi Chúa sống lại Ngài không tìm ai để trách móc, kêu oan. Và dường như Ngài cũng không bận tâm đến lỗi lầm của các môn sinh. Ngài đã trao bình an cho các môn sinh mỗi khi hiện ra với họ. Ngài biết trong lòng các ông còn một nỗi buồn vì phản bội, vì bỏ rơi Thầy trong gian nguy. Ngài biết sau khi Chúa sống lại lòng các tông đồ còn rối bời hoang mang lo sợ, bất an vì mặc cảm tội lỗi, mặc cảm phản bội Thầy. Chúa đã biết điều đó nên đã đi bước trước để ban bình an cho các ông.
Sứ điệp lễ lòng Chúa thương xót là sứ điệp của yêu thương. Thiên Chúa vẫn tiếp tục xót thương dân Người. Lòng thương xót của Chúa không bị tội lỗi của con người cản trở mà vẫn đong đầy cho những ai đến với Ngài. Lòng thương xót Chúa vẫn xoa dịu những ai đang bất an vì tội lỗi. Lòng thương ấy vẫn đang chữa lành cho những ai đang đau khổ bệnh tật tâm hồn hay thể xác. Lòng thương xót ấy vẫn là căn tính của Thiên Chúa rất yêu thương và xót thương dân Người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tín thác vào lòng thương xót Chúa cho dẫu chúng ta còn mang đầy những vết thương của yếu đuối lỗi lầm. Hãy để cho lòng thương xót Chúa chữa lành những tật nguyền của chúng ta. Ước gì khi chúng ta đã hưởng nếm lòng thương xót vô bờ của Chúa thì cũng biết trao ban lòng thương xót ấy cho anh em. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng có một tấm lòng bao dung để gạt qua những thành kiến , những đố kỵ, ghen tương mà đón nhận nhau trong yêu thương chia sẻ. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở thành một chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa bằng tình yêu hiến dâng phục vụ tha nhân. Amen.
49.Bài học sự tha thứ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có những lúc chúng ta vô tình làm người khác bị tổn thương, dù muốn dù không chúng ta vẫn để lại một dấu ấn không đẹp trong lòng của họ. Nhưng điều quan trọng là: Có người khắc nó mãi mãi trong lòng, có người xua tan nó bằng sự bao dung và tha thứ. Thực ra, có bao dung tha thứ, lòng chúng ta mới thanh thản bình an. Có bao dung tha thứ, con người chúng ta mới sống bên nhau trọn đời.
Có hai người bạn đang đi trên một con đường vắng vẻ. Họ trò chuyện. Họ tranh luận với nhau. Vì bất đồng quan điểm nên một trong hai người đã không kiềm chế được bản thân nên đã tát một cái thật mạnh vào má của bạn mình.
Người bạn kia rất đau nhưng không nói một lời nào, anh lặng lẽ viết lên cát dòng chữ "Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt của tôi"
Hai người vẫn tiếp tục đi, đến một con sông họ xuống tắm, anh bạn bị tát bị vọp bẻ và suýt chết đuối nhưng may nhờ bạn mình cứu kịp nên thoát chết.
Khi đã hết hoảng sợ, anh viết trên vách đá "Hôm nay người bạn thân nhất đã cứu sống tôi"
Anh chàng kia ngạc nhiên hỏi: "Tại sao khi tôi đánh anh , anh viết trên cát, còn khi tôi cứu anh anh lại viết trên đá??"
Mỉm cười, anh trả lời: "Khi một người bạn làm chúng ta đau, chúng ta hãy viết điều gì đó trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng với sự tha thứ... Và khi có điều gì đó tốt đẹp cho chúng ta, hãy khắc nó lên đá như khắc sâu vào ký ức của trái tim, nơi không ngọn gió nào có thể xoá nhòa được...”
Trong cuộc sống đã có bao nhiêu lần chúng ta ghi lên đá và bao nhiêu lần chúng ta ghi lên cát? Chuyện vui, chuyện buồn luôn xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Vui buồn đều sẽ qua đi mau chóng hay âm ỉ lâu dài cũng tùy thuộc vào cách chúng ta đón nhận chúng. Cách tốt nhất để có cuộc sống hạnh phúc là đừng để cuốn sổ ghi nợ cuộc đời chi chít bởi số lần người khác không làm mình hài lòng. Hãy xóa đi những gì người khác làm cho mình không vui, đừng lưu giấu sự giận giữ, cũng như sự hận thù trong lòng. Chúng ta càng cau có với người khác bao nhiêu thì cuộc đời sẽ cau có với chúng ta bấy nhiêu! Hãy sống và mở rộng lòng mình để gió cuốn đi những ký ức không vui và khắc mãi những điều tốt đẹp người khác đã làm cho mình.
Cuộc sống rất cần sự tha thứ. Tha thứ để sống chung dài lâu với nhau. Tha thứ để sống chung hòa bình với nhau. Sống chung có đụng nên sự tha thứ cần thiết để hàn gắn những đổ vỡ do hiểu lầm, nghi kỵ, ích kỷ gây ra sự rạn nứt tình người.
Tuy nhiên, tha thứ không phải là chuyện dễ. Người tha thứ thường phải trả một giá rất đắt. Lắm khi chúng ta phải quên mình, chịu thiệt thòi hoặc dẹp bỏ tính tự ái của mình để tha thứ cho nhau. Có bà vợ kia, tự ý lấy tiền để hàn hụp làm ăn với bạn. Sau đó bị bạn lừa gạt nên mất số tiền khá lớn. Người chồng biết được việc này thì rất giận vợ cô cùng, nhưng khi thấy vợ thật lòng hối hận và xin lỗi. Người chồng sẵn sàng tha thứ. Từ đó dù cuộc sống có chật vật hơn nhưng họ vẫn vui vẻ cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Gương tha thứ cao cả nhất mà chúng ta cần học hỏi chính là gương của Chúa Giê-su. Ngài đã tha thứ và tha thứ luôn mãi. Ngài đã tha thứ cho các môn đệ khi họ phản bội Ngài, chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ khi người ta xỉ vả, đóng đinh Ngài. Ngài vẫn tha thứ khi Ngài sống lại mà có người vẫn còn cứng lòng tin.
Tình thương tha thứ hôm nay được thể hiện qua việc Ngài chúc bình an cho các môn đệ. Ngài không oán trách các ông. Ngài không để bụng tội các ông. Ngài hiện diện không phải để kết án mà để trao ban bình an của sự tha thứ. Chính tình yêu tha thứ đó, Ngài đã củng cố niềm tin nơi các môn đệ để từ nay họ trở thành kẻ loan truyền tình yêu và sự tha thứ cho nhân trần.
Ước gì chúng ta hãy tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ khi biết lấy lòng yêu thương, chấp nhận những oan trái mà người khác đã làm cho chúng ta. Tha thứ thật là chấp nhận nhau, đón nhận nhau trong bao dung tha thứ. Tha thứ thật cũng có nghĩa là dù có quyền giận nhưng vẫn vui vẻ tha thứ, dù có quyền trách móc nhưng vẫn nhẫn nại nhịn nhục.
Ước gì chúng ta hãy tha thứ cho nhau vì chính chúng ta cũng có lầm lỗi. Hãy sẵn sàng tha thứ cho vợ, chồng mình, vì ai cũng có những lầm lỗi. Hãy tha thứ cho nhau. Một người luôn sẵn lòng tha thứ, thì không phá hỏng gia đình vì những giận hờn, ghen ghét , nhưng luôn biết dùng tình yêu để cải hóa nhau. Tha thứ cũng phải kèm theo tính nhẫn nại. Một anh chồng nghiện ma túy, người vợ biết tha thứ thì phải nhẫn nại chịu đựng một thời gian dài để anh ta cai nghiện dần dần… Một chị vợ “lắm điều”, ông chồng muốn tha thứ cũng phải chịu đựng một thời gian để chị vợ dần dần nhận thức ra tình yêu thương của chồng mà đổi tính dần dần. Tuy nhiên, hạnh phúc phải hệ tại ở mọi thành viên trong gia đình. Một người có lòng tha thứ thì người kia cũng phải bớt đi những lỗi lầm. Cả hai cùng tôn trọng và xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Xin Chúa giúp chúng ta biết thực hành lời Chúa là “hãy tha thứ cho nhau”. Xin cho chúng ta luôn biết đem lại bình an cho nhau. Xìn đừng để những tật xấu làm mất đi tình hiệp nhất với nhau. Xin giúp chúng ta biết noi gương Chúa luôn biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Amen.
50.Tôma, con người đa nghi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chúng ta gặp Tôma đầu tiên trong câu chuyện của Lagiarô chết. Lúc bấy giờ Chúa và các môn đệ đang ở ngoài vùng Giuđê là nơi mà người Do Thái quá khích tranh luận, đã hai lần ở vùng này đòi bắt giữ và ném đá Chúa, nhưng Chúa Giêsu đều lánh đi sang bên kia bờ sông Giordan. Bây giờ Chúa muốn trở lại Giuđêa để phục sinh La-gia-rô. Tôma thấy ngay sự nguy hiểm đang rình chờ. Ông liền quay lại nói với các tông đồ: “Nào cả chúng ta nữa, hãy đi qua đó để chết với Ngài” (Jn 11,16). Câu nói xem ra có tính cách nhiệt thành nhưng cũng tỏ lộ một nội tâm bi quan, buồn thảm nhìn vấn đề dưới khía cạnh mặt trái, đen tối thất bại... Tại sao ông không nghĩ đến Thiên Chúa uy quyền có thể biến giông tố im lặng, có thể tự cứu mình, mà lại nghĩ đến cái chết thất bại phải nhờ đến sự hỗ trợ của các tông đồ? Tại sao lại tắt đi hy vọng, cam chịu một định mệnh là bị dân chúng dồn vào chân tường?
Lần thứ hai chúng ta gặp Tôma bên bàn tiệc ly. Mọi người yên lặng vào nghe Chúa dạy: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy vững tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Thầy đã dọn sẵn cho các con rồi, Thầy sẽ đến đem các con đi. Thầy ở đâu các con ở đó. Thầy đi đâu các con biết đường đi rồi” (Jn 14, 1–4).
Tôma thấy khó hiểu, vấn đề nghe lạ tai. Một đàng Chúa tiên báo cái chết, một đàng lại nói đến chỗ ở, đường đi, sự sống... Tôma không thể im lặng được nữa nên phát biểu: “Lạy Thầy, chúng con nào biết đi đâu, thì làm sao biết được đường đi lối về” (Jn 14, 5–6). Một câu nói mang dáng dấp của đêm đen giăng kín, đến mức độ chẳng biết đường đi!
Lần thứ 3 là dịp Chúa Phục Sinh. Phúc âm kể rằng: mọi người đều ngồi nói chuyện với nhau về những lần Chúa hiện ra. Mọi người đều vui mừng vì Thầy đã sống lại. Tại sao chỉ một mình Tô-ma lại không tin. Ông không tin vì Chúa không hiện ra với ông? Ông không tin vì ông bỏ cộng đoàn? Sống một mình trong thất vọng, u sầu? Có lẽ đúng. Tôma đã bỏ cộng đoàn! Tôma có lẽ đã nghe cả thành xôn xao về sự kiện Chúa đã sống lại, nhưng lòng ông quá thất vọng nên không thể đón nhận niềm vui Chúa phục sinh. Có lẽ ông đã mang tâm trạng thất vọng, nên bỏ lỡ cơ hội nhận ra Chúa như hai môn đệ Emmau đã từng không nhận ra Chúa đang đồng hành với mình.
Phúc âm ghi lại: Chúa phục sinh đã hiện ra với các tông đồ, trừ Tô-ma. Tô-ma đã vắng mặt ngày hôm đó. Không rõ lý do tại sao vắng mặt, nhưng nếu có thể đoán với tính tình mau nản dễ bỏ cuộc của ông. Ông đã tách lìa công đoàn. Ông đã quá quen với những tin tức đen tối u buồn, cho nên những tin tức nào có tính cách đau thương, thất bại, bách hại thì ông mới tin. Ông không đủ lạc quan để tin vào niềm vui Chúa sống lại. Do đó, các tông đồ là những người xưa nay ông vốn kính trọng, vốn tín nhiệm, nay đưa tin Chúa Giêsu phục sinh, thì ông không tin được vì ông chưa thấy trong nhân loại có chuyện phục sinh bao giờ. Đức tin của ông đòi sự kiểm chứng. Ông đã hùng hồn tuyên bố: nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn, vào lỗ đinh ở tay, chân Chúa thì tôi không bao giờ tin. Rồi một tuần sau đó, cũng tại căn nhà tiệc ly. Tôma đã nấc nghẹn từng lời để thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Cuộc đời chúng ta đôi khi cũng đánh mất đi quá nhiều cơ hội, bỏ lỡ nhiều dịp may để hy vọng, để tin, để sống... Chúng ta bỏ lỡ đi sự hiện diện, cứu giúp của Chúa, ơn tha thứ của Chúa. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn chìm đắm trong đau khổ và thất vọng. Có một điều chúng ta phải học nơi Tôma là ông dám làm lại cuộc đời sau khi gặp được Chúa. Sau khi Chúa bảo Tôma “hãy tra tay sờ vào các lỗ đinh cạnh sườn...” Từ đó con người Tôma biến đổi hơn. Từ một con người thờ ơ lãnh đạm, nghi ngờ yếu đuối, ông trở thành một người tuyên xưng đức tin hùng mạnh: “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Tôma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những lúc chúng ta bước đi trong đêm tối của cuộc đời. Muốn buông xuôi. Muốn bỏ cuộc. Có những lúc chúng ta thất vọng muốn xa rời cộng đoàn, chẳng dám tin ai. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn. Sống trong cô đơn, thất vọng. Nhưng ông đã trở về với cộng đoàn. Ông bám vào cộng đoàn, nhờ đó mà ông tìm được niềm vui Chúa phục sinh.
Nguyện xin Chúa Phục sinh ban cho chúng ta ơn bình an và lòng tin mạnh mẽ để có thể tuyên xưng Chúa trong mọi biến cố vui buồn trong đời. Xin cho chúng ta đừng bao giờ rời xa cộng đoàn, nhưng luôn hiệp nhất với nhau trong một đức tin, đức cậy, đức mến nồng nàn. Amen.
51.Phục sinh không giết chết thập giá--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Có lần, một linh mục chia sẻ: Có một anh sinh viên gởi thư và nêu thắc mắc bao gồm một nỗi khổ rất lớn, liên quan dữ dội đến đức tin. Anh sinh viên hỏi rằng, "Thưa Cha, chỉ còn có ba tháng nữa, con sẽ tốt nghiệp đại học. Dù lúc này, ba con rất yếu, nhưng con cầu xin Chúa cho ba con được sống cho tới ngày con cầm được mảnh bằng tốt nghiệp về khoe với ba: "Thưa ba, đây là bằng tốt nghiệp của con". Cha có biết không, cái bằng tốt nghiệp đó, con đã phải chờ phải đợi biết là chừng nào. Ba con cũng thế, đêm ngày mong mỏi, cứ mong mỏi, cứ chờ đợi làm sao để nhìn thấy con tốt nghiệp đại học, y như là khi con đậu đại học là chính lúc ba con đậu đại học vậy. Cũng đúng thôi cha ạ. Vì mảnh bằng tốt nghiệp, nếu con đạt được thì đâu chỉ của riêng con mà là của cả hai cha con cộng lại. Đó là công lao nuôi dưỡng của ba con hai mươi mấy năm trời và công lao học tập miệt mài của con bao nhiêu năm mới có nó, vậy mà Chúa không nghe lời con xin. Cách nay một tuần, Chúa đã cất ba con. Ba con chết mà không nhìn thấy kết quả do mình tạo ra, và ngày đêm mong mỏi. Sao Chúa lại làm như vậy? Sao vậy cha?"
Và trong lá thư gởi theo địa chỉ mà anh sinh viên cho biết, vị linh mục trả lời:"Tôi cũng không biết nữa, không hiểu vì sao Thiên Chúa lại làm như vậy. Nhưng chắc Chúa có lý do của Ngài. Đọc thư anh, tôi thông cảm với anh, thông cảm nhiều lắm, vì tôi cũng đã từng gặp đau khổ tương tự như anh. Tôi cầu nguyện cho anh và dâng những đau khổ, dâng sự đồng cảm của hai chúng ta, để Chúa tìm cách bù cho anh trong kết quả thi tốt nghiệp sắp tới. Điều tôi quan tâm hơn hết, đó là anh còn tin Chúa nữa hay không?".
"Anh có còn tin Chúa nữa hay không?". Tôi nghĩ rằng, lời hỏi đó cũng rất cần thiết cho bạn và tôi. Có những lúc đau khổ tột cùng, những lúc tưởng như cuộc đời mình bế tắc, chính những lúc như thế, chúng ta có còn tin Chúa nữa hay không?
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay sẽ là câu trả lời quí giá về nỗi đau trong cuộc đời của bạn và của tôi. Vì hiểu được ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay, sẽ giúp ta vững tin hơn. Chỉ với một bài Tin Mừng không dài lắm, nhưng thánh Gioan có đến hai lần kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Có lẽ bạn sẽ thắc mắc: hôm nay Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của niềm vui, một niềm vui lớn. Đàng khác bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ, lại là một niềm vui không nhỏ. Vậy mà từ đầu tới giờ, tôi chỉ toàn nói đến đau khổ. Vì sao lại nói đến đau khổ giữa mùa Phục sinh? Là bởi vì Chúa không tự nhiên mà phục sinh. Nhưng Chúa phục sinh từ trong đau khổ. Chúa phục sinh từ trên thánh giá. Hôm nay, dù đã sống lại, đã chiến thắng khải hoàn, thân xác phục sinh chói ngời đã cùng quyền năng Thiên Chúa bước vào vô biên, bước vào vĩnh cửu# nhưng bây giờ hiện ra với các môn đệ, thân xác phục sinh rạng rỡ ấy vẫn còn y nguyên dấu của thập giá.
Cả hai lần trong bài Tin Mừng đều chứng minh Chúa hiện ra chỉ có cùng một kiểu như thế. Lần thứ nhất, thánh Gioan ghi nhận, ngay khi hiện ra" Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người". Bạn có biết điều gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem vậy? Vì nơi ấy, dấu thập giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay ấy và trên cạnh sườn ấy, còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chỉ sau khi xem tay và cạnh sườn bị thương tích như thế, các môn đệ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy "vui mừng vì xem thấy Chúa". Như vậy dấu của thập giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ.
Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt, nên thánh Tôma nhất quyết không tin. Bởi đó tám ngày sau, Chúa lại hiện ra một lần nữa, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn lần trước, dứt khoát hơn lần trước. Ngài không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục sinh còn lên tiếng nói: " Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin". Ví dụ có một ngày nào Chúa hiện ra và cũng nói với bạn những lời mà Chúa đã từng nói với thánh Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy thọc bàn tay con vào đây", bạn có còn dám nhìn Chúa nữa không? Chẳng những không dám nhìn, càng không dám đưa ngón tay đưa bàn tay, mà có khi run rẫy chết khiếp, bạc vía kinh hồn. Thánh Tôma cũng không hề là trường hợp ngoại lệ. Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: "Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin". Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thập giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi". Một lần nữa, thánh Gioan lại cho thấy, dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.
Mà dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin, nên trong mùa phục sinh, ta lại bàn đến vấn đề đau khổ, đó cũng là điều hợp lý. Chúa Phục sinh đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thập giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục sinh, lại làm cho các môn đệ, dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.
Người ta nói: "Lửa thử vàng, gian nan thử sức". Và tôi thêm, đối với người có đạo, đau khổ rèn luyện đức tin của họ. Đối với anh sinh viên, tôi tin rằng, nếu anh đọc và suy nghĩ Lời Chúa, suy nghĩ về cuộc đời của Chúa Kitô, về sự chết và sống lại của Ngài, chắc chắn anh sẽ vượt qua nỗi buồn mất cha, dù anh rất yêu cha của anh. Tôi cũng tin y như thế về các bạn và chính bản thân tôi. Nếu chúng ta để cho Lời Chúa thấm trong cuộc đời của mình, thì có nỗi đau nào bạn và tôi không vượt qua!
Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng một người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn. Hay con đường tương lai của mình, hay sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước mặt, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình như trường hợp anh sinh viên kia# những lúc bi đát đến cùng cực ấy, bạn và tôi hãy nhớ lại lời vị linh mục hỏi chàng sinh viên kia: "Tôi có còn tin Chúa nữa hay không?".
Chúng ta rất may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.
Sau hết tôi muốn mời bạn cùng tôi dâng lời cầu nguyện, chỉ một lời cầu nguyện thôi nhưng bằng tất cả tình yêu thẳm sâu tận hồn chúng ta: "Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn vững tin vào Chúa".
52.Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót--Bài Giảng cho Thiếu Nhi
Các em thiếu nhi thân mến! Hôm nay là Chúa Nhật II Phục sinh và cũng là ngày Chúa Nhật đặc biệt kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Nhưng mà Chúa đã làm gì cho chúng ta mà nói là Chúa thương xót mình vậy các em? Các em hãy trả lời dùm thầy 2 câu hỏi, rồi thầy sẽ cho các em biết Chúa đã làm cái gì để nói rằng Chúa thương xót các em:
- Câu 1: Chúa Nhật tuần trước là Chúa Nhật gì vậy? Trả lời: CN Phục Sinh. Chúa thương xót các em qua việc các em phạm tội, Chúa chịu chết, và Phục sinh để cứu chuộc tội cho các em, để tha tội cho các em.
- Câu 2: Trong bài Tin Mừng thầy vừa đọc, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói: các con lãnh lãnh nhận Đấng nào? Trả lời: Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa thương xót chúng ta qua việc sau khi cứu chuộc, Chúa còn ban Chúa Thánh Thần để hướng dẫn các em làm những điều tốt lành, tránh xa tội lỗi.
Tóm lại: Thiên Chúa thương xót các em ở hai chuyện: Thứ nhất, Chúa Giêsu chết và Phục sinh để chuộc tội cho mình. Thứ hai, Chúa ban Chúa Thánh Thần để giúp mình sống tốt. Chúa thương các em như vậy, Chúa đối xử tốt với các em như vậy, Chúa cũng muốn các em bắt chước Chúa mà đối xử tốt với người khác. Cụ thể hơn, Chúa muốn các em phải thương cha, thương mẹ của mình, phải trở thành một đứa con hiếu thảo.
Tại sao phải thương cha mẹ làm gì vậy? Có những chuyện mấy em còn nhỏ không biết được đâu. Có những lần mẹ đi chợ, thèm cái bánh muốn mua ăn nhưng không dám mua, để dành tiền cho con mình sáng đi học ăn sáng. Mẹ xách giỏ đi mua đồ ăn, muốn mua cà, mua mắm nấu nồi mắm kho vì thích ăn cái món này lắm nhưng nghĩ lại con mình nó ăn không được nó thích ăn thịt hơn, nên đành nhịn thèm mà mua thịt. Đi ngang chỗ bán quần áo mới, thích một kiểu áo đẹp, định mua mà nghĩ lại không mua để tiền sắm đồ mới cho con đi học. Còn ba thì làm quần quật cả ngày mệt lắm rồi, về nghe mẹ nói con nó sốt thì chưa ăn cơm ăn nước gì hết tức tốc chở con đi bác sĩ, rồi tối về, không dám ngủ, thức đêm để canh cho con, sợ con lại sốt cao, sợ con khát nước. Cha mẹ thương mình nhiều như vậy, hy sinh cho mình nhiều như vậy, dĩ nhiên mình phải biết thương cha thương mẹ mình. Nhưng phải làm cái gì để thương cha thương mẹ đây? Thầy sẽ liệt kê ra một số việc, và thầy sẽ hỏi lại, từng em sẽ nói cho thầy nghe em chọn việc làm nào để thương cha thương mẹ của mình nhe.
Đi học giáo lý chăm chỉ, không trốn học; Bớt đi chơi lại, cố gắng học hành cho giỏi dang; vâng lời cha mẹ dạy; nấu cho ba mẹ nồi cơm; quét dùm mẹ cái nhà; rửa thay mẹ đống chén; phụ lặt rau với mẹ; mua đồ dùm ba; hỏi ba khoẻ không khi ba đi làm về; Dọn cho ba bữa cơm; đọc 1 kinh kính mừng cầu nguyện cho ba mẹ hằng đêm....Kêu ba em và hỏi em chọn việc nào để nói lên em thương ba mẹ em?
Kính thưa OBACE! Để con cái mình biết thương cha thương mẹ thì người mẹ phải dạy nó thương cha, người cha phải dạy nó thương mẹ. Không phải dạy bằng roi đòn, la mắng mà dạy bằng gương sáng của mình. Chồng đi làm về, vợ hỏi: anh mệt lắm không anh, em nấu nước anh tắm nhe, dọn cơm anh ăn nhe, đồ dơ rồi, thay ra em giặt cho anh. Con nó thấy mẹ nó thương ba nó, nó cũng bắt đầu tập nói: ba đi làm về mệt không ba, con nấu nước ba tắm nhe, dọn cơm ba ăn nhe, giặt đồ cho ba nhe? Và rồi chồng đi làm về mệt lắm, định đi tắm cái cho khoẻ nhưng thấy vợ đang bận rộn công việc bếp núc chưa xong. Chồng săn tay áo lên giúp vợ lặt rau, nấu canh, kho cá. Thằng con trai đi học về, bình thường nó bỏ cái cặp lên bàn rồi đi đá banh, nhưng thấy bố nó còn phụ mẹ nó, nó nghỉ đá banh, vào lặt rau phụ mẹ chuẩn bị bữc cơm tối. OBACE thấy đó, dạy con hiệu quả nhất là dạy con bằng gương sáng của mình. Muốn con thương ba, vợ phải thương chồng. Muốn con mến mẹ, chồng phải yêu vợ.
Thưa OBACE! Thay cho lời kết, con nguyện xin Chúa cho mọi người biết noi theo lòng Chúa Thương xót mà yêu thương, quan tâm giúp đỡ nhau. Đặc biệt, xin cho các em thiếu nhi biết yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ mình bằng những việc làm cụ thể trong đời sống hằng ngày. Amen.
53.Tin là hồng ân…--Lm. Vũ Xuân Hạnh
Một giáo lý viên đã lớn tuổi thật thà chia sẻ: Trước kia, khi mới dạy giáo lý dự tòng, cầm cuốn giáo lý là ông dạy từ đầu đến cuối. Nhưng sau này, ông lại làm ngược lại: dạy phần cuối cùng trước, rồi đi lên dần. Có nghĩa là ông bắt đầu dạy các dự tòng cầu nguyện trước tiên, sau đó dạy về luân lý, cuối cùng mới là phần tín lý.
Ông cho biết lý do vì sao ông lại làm chuyện xem ra ngược đời ấy: “Vì tôi nghĩ, một người mới bắt đầu theo Chúa, họ phải được gặp Chúa trước, để từ đó họ sống với anh em. Vì nghĩ như thế, tôi giúp họ cầu nguyện trước”.
Từ đời sống cầu nguyện bắt đầu chớm nở đó, ông nói với họ về lòng Thiên Chúa yêu thương, về sự hiến thân của Đấng là Thiên Chúa làm người, lòng tha thứ Thiên Chúa dành cho con người…
Khi họ đã có thể hiểu một cách tương đối, ông nói với họ về Điều răn của Thiên Chúa, về tám Mối phúc của Chúa Giêsu.
Sau khi đã bắt đầu hình thành một đời sống Kitô hữu như thế, ông đưa họ vào các chân lý đức tin, qua việc giúp họ hiểu giáo lý, trong đó có niềm tin vào Chúa Phục sinh. Đó là những chân lý rất khó, sẽ càng khó đón nhận hơn, nếu không được chuẩn bị, ít là những điều cần thiết một cách cơ bản.
Ông bảo rằng, Thiên Chúa đã trợ lực cho ông. Chính Người dùng miệng lưỡi của ông mà nói với dân của Người. và cũng chính ơn của Chúa đã đồng hành với anh chị em, để những gì xuất phát từ môi miệng ông, anh chị em có thể hiểu được và tin.
Kể chuyện về người giáo lý viên nói trên để thấy rằng, chúng ta không phải là những kẻ dễ tin. Nhất là thời đại khoa học phát triển đến mức chóng mặt như hiện nay, người ta vịn vào khoa học để giải đáp mọi vấn đề, thì những chân lý đức tin, như vấn đề thân xác sống lại chẳng hạn, càng không dễ dàng chấp nhận.
Anh chị em dự tòng đi học giáo lý, chắc Thiên Chúa phải ban ơn cho họ, để họ tin. Vì một người đã lớn khôn, đã có sự hiểu biết, rất bình thường về năng lực lý trí, bây giờ được nói tới những chân lý đức tin xem ra khá xa xôi, vậy mà họ có thể chấp nhận. Ít là có thiện chí để chấp nhận. Tôi nghĩ, Thiên Chúa phải chuẩn bị cho họ nhiều lắm.
Hôm nay suy niệm Tin Mừng về việc Chúa Phục sinh hiện ra với tông đồ Tôma, tôi thấy cả tôi cũng được Chúa chuẩn bị bằng ơn thánh của người.
Cũng giống như sự chuẩn bị cho các dự tòng và tân tòng, hoặc cũng giống như bản thân thánh Tôma, Chúa đã chuẩn bị cho thánh nhân đón nhận đức tin cách hoàn hảo khi đáp ứng yêu cầu “được xỏ vào lổ đinh, được thọc tay vào cạnh sườn” của Chúa. Để qua cuộc khám phá diện đối diện với Chúa Phục sinh của thánh Tôma, Chúa Phục sinh ban cho tôi một bằng chứng xác thực. Đó là sự chuẩn bị đức tin, Người dành cho tôi, để bây giờ tôi tin Người .
Có người trách thánh Tôma là cứng lòng tin. nhưng riêng tôi, tôi thầm cám ơn thánh Tôma. Cám ơn, vì nơi thánh nhân, tôi thấy chính mình. Bởi không dễ dàng gì, một sớm một chiều tôi tin Chúa sống lại. Tôi cám ơn thánh Tôma do hai lý do:
Lý do thứ nhất: để có được đức tin, chắc chắn tôi cũng sẽ đòi bằng chứng. Chúa Giêsu đã trả lời bằng một bằng chứng mạnh mẽ nhất: cho xem chính thân xác của Người. “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh trên tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy”.
Ngày xưa, với một bằng chứng xác thực, Chúa bảo đảm cho đức tin của thánh Tôma đã vậy, ngày nay đó cũng là một bảo đảm cho chính đức tin của tôi. Vì Chúa của tôi đã sống lại thật. Người trả lời cho tôi không phải bằng lời, nhưng bằng thân xác Phục Sinh đích thật của Người.
Lý do thứ hai: Nhờ sự đòi hỏi bằng chứng xác thực của thánh Tôma, tôi biết mình có phúc. Vì Chúa Phục Sinh đã nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Từ lời của Chúa Phục sinh, chúng ta vui mừng mà chúc phúc cho nhau: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh chị em, phúc cho các bạn là những người trẻ, phúc cho các bé thiếu nhi, phúc cho tôi, phúc cho tất cả chúng ta…, vì chúng ta không hề thấy nhưng lòng tin tưởng thì rất lớn lao.
Đặc biệt, trong những ngày này, chúng ta không thể quên các anh chị em tân tòng. Phúc thật, phúc lớn cho những anh chị em tân tòng, những người vừa mới đón nhận đức tin, đặt biệt những anh chị em mới đón nhận đức tin trong dịp lễ Phục Sinh. Họ cũng là những người giống như bạn, như tôi: đã không thấy mà tin.
Các bạn tân, dự tòng thân mến, Giáo Hội đã trao cho chúng tôi kho tàng đức tin. Giáo Hội cũng đã hoặc sẽ trao cho các bạn đức tin ấy. Nếu chúng tôi đã lãnh nhận kho tàng đức tin, đã sống và gìn giữ kho tàng quý giá đó suốt cả cuộc đời chúng tôi. Nếu chúng tôi đã tuyên xưng đức tin và hãnh diện nhận mình là người Công giáo, chúng tôi cũng mong muốn, và cả ước ao tha thiết nữa, các bạn sẽ bền tâm giữ đạo đến giây phút cuối cuộc đời. Vì đức tin mà các bạn vừa có được là do sự chọn lựa của chính các bạn. Chính các bạn quyết định lãnh nhận bí tích rửa tội để vào đạo, chứ không do bất kỳ ai thúc ép.
Tất cả chúng ta, dù là người đã đi đạo từ lâu, hay chỉ mới đi đạo, thậm chí mới được rửa tội đúng một tuần, hay đang là dự tòng, chúng ta mang trong lòng mình một niềm xác tín lớn lao về Chúa Kitô Phục sinh. Bởi đó, chúng ta cũng cưu mang niềm hy vọng phục sinh như Chúa của mình đã phục sinh.
Đức tin vào ơn Phục sinh là niềm xác tín của cả Giáo Hội nói chung. Nhưng rất đặc biệt, vì đức tin ấy cũng đã trở thành niềm xác tín của riêng từng người là con cái của Giáo Hội.
Chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng, tin vào ơn Phục sinh là một đức tin đã được chính Chúa chuẩn bị để ta có thể cưu mang và sống suốt cuộc đời của mình. Đức tin vào ơn Phục sinh cũng chính là lời chúc phúc trọng đại dành cho từng người, cho bạn cho tôi.
Bạn ạ, tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt, ra ngoài cái có thể thấy hay cảm nhận được. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu của thánh Tôma. Nhưng chúng ta, rõ ràng nhất là các tân, dự tòng, lại được thấy Chúa qua đức tin của thánh Tôma, của Giáo Hội và của biết bao chứng nhân trong Giáo Hội.
Thông thường, ta vẫn nghĩ thánh Tôma thật là diễm phúc vì được Chúa trả lời cho sự chất vấn về đức tin của thánh nhân. Thánh Tôma cũng như nhiều môn đệ khác, thật diễm phúc vì nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh cách nhãn tiền.
Nhưng nói cho cùng, tin mà vẫn không thấy, chúng ta vẫn là người có phúc, phúc lớn. Tin mà vẫn không thấy, đó là đức tin mạnh, mạnh vô cùng. Tin mà vẫn không đòi bằng chứng, chỉ cần lời giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta đáng hãnh diện về mình, một niềm kiêu hãnh thuộc về một giá trị tuyệt đối.….
54.Lạy Chúa là Thiên Chúa của con--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Ga 20: 19-31: Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng, theo ông, tiếng kêu "lạy Chúa là Thiên Chúa của con" của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xứng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu.
Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẩu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!". Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người. Nhà phẩu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng, theo ông, tiếng kêu "lạy Chúa là Thiên Chúa của con" của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xứng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá. Theo nhận định của nhà phẩu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: "Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con".
Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên. Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin. Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo. Đức tin của họ có giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì không đủ. Chúng ta phải tự tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẩu thuật trong câu chuyện hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại ít là như các anh em khác. Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại. Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài. Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém. Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.
Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh. Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đổi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa. Ông nói: "Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống".
Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống lại. Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu "chém đầu" vì lời rao giảng của mình.
Trong cuốn sách mang tựa đề "Ngang qua thung lũng sông Kwai", Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện đám tù binh Nhật ở cầu sông Kwai trong đệ nhị thế chiến. Nơi đây mười hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi. Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con".
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế. Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thối thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!". Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian bay ngược dòng lịch sử cách đây 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma. Vậy thì chúng ta có thể làm gì?
Chúng ta có thể làm như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể tự cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục Sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta. Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: "Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin".
Thưa anh chị em, khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: "Phúc cho ai không thấy mà tin" là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta cũng như với triệu triệu kitô hữu trong suốt dòng lịch sử. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin. Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ. Không có các Bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con".
(Theo Mark. Link, S.J. trong Illustrated Sunday Homilies)
55.Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Ga 20: 19-31: "Phúc cho những ai không thấy mà tin": Đức tin không dựa trên đôi mắt thể lý nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà các Kitô hữu kết hợp sâu xa với Đức Kitô phục sinh và được sống nhờ Người.
Đức Kitô đã phục sinh, Người đã sống lại ra khỏi mồ. Đây là tin mừng được ghi nhận trong Kinh Tin Kính, chúng ta được mời gọi liên kết vững chắc với Đức Kitô phục sinh trong ánh sáng của Thần Khí. Chính sự liên kết trong niềm tin này mang lại cho chúng ta khả năng quảng đại, phong phú của tâm hồn. Chính sự liên kết được chia sẻ trong Giáo Hội mang lại cho cộng đoàn Kitô hữu sức sống và sức mạnh của người đi chinh phục.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Tin mừng: Ga 20, 19-31
Qua sự hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu củng cố đức tin cho các ông đang còn bị lung lay, yếu đuối và trao phó cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng.
Ngay ở lần hiện ra đầu tiên vào ngày thứ nhất trong tuần (vào chiều ngày Phục sinh), Chúa Giêsu đã thuyết phục các môn đệ nhận biết rằng Người đã phục sinh và đang sống. Sau đó, trước khi rời các ông, Người trao cho các ông quyền tha tội.
Tám ngày sau, Người lại hiện ra với các ông lần nữa, tiến đến với Tôma, người đã vắng mặt ở lần trước và không tin lời các bạn mình nói Chúa đã sống lại. Người xác nhận với ông về điều này. Tôma đã tuyên tín: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Lời xác quyết long trọng này từ miệng của một người cứng tin nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh. Lời tuyên xưng này là chóp đỉnh của Phúc âm thứ tư. Ở đây hai tước hiệu ' Chúa' (Kyrios) và 'Thiên Chúa' được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu để nói lên thiên tính của Đức Kitô. Một công thức mang tính Kitô học.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin": Đức tin không dựa trên đôi mắt thể lý nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà các Kitô hữu kết hợp sâu xa với Đức Kitô phục sinh và được sống nhờ Người.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Từ kinh nghiệm thể lý đến xác quyết của đức tin: niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu của các môn đệ luôn chuyển từ một kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: Gioan tin khi thấy mộ trống, khăn liệm; Maria Mađalêna tin khi nhận ra going nói quen thuộc của Thầy; các tông đồ tin khi thấy lỗ đinh ở tay và cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu và cuối cùng đòi hỏi của Tôma cho thấy rõ, niềm tin của ông khởi từ mong muốn được thấy Chúa Phục sinh bằng đôi mắt khả giác. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm thể lý các Ngài đã tiến tới một bước dài trên hành trình đức tin, các Ngài đã can đảm làm chứng cho niềm tin của mình bằng cái chết. Để rồi từ đây dựa trên chứng cứ của các Ngài là những chứng nhân trực tiếp, đức tin của mỗi Kitô hữu không còn dựa trên cái nhìn khả giác, những kinh nghiệm thể lý nữa mà hoàn toàn là một cảm nghiệm thâm sâu của con tim và là sự dấn thân liều lĩnh bước theo tiếng gọi và ân sủng của Thiên Chúa. Ngày nay, chắc chắn không thể đòi hỏi như Tôma phải thấy Chúa bằng xương bằng thịt mới tin. Đã có cả truyền thống đức tin vững bền của Giáo Hội đủ để tạo nên thế giá cho niềm tin của chúng ta. Thực ra, tin không phải là điều dễ dàng khi mà chân lý đức tin luôn vượt quá trí hiểu của con người và tri thức khoa học của nhân loại. Tuy vậy, trong thực tế có những sự kiện người ta có thể hiểu rõ diễn biến của nó nhưng để chấp nhận lại đòi hỏi phải tin. Ai chẳng biết mỗi con người đều được sinh ra từ một người mẹ, tuy nhiên để khẳng định có là mẹ ruột của mình không thì lại dựa vào niềm tin là chủ yếu, nhất là dựa vào tình yêu. Cho dẫu ngày nay khoa học có thể thử máu, thử gène để biết chính xác, nhưng nếu như thế lại chứng tỏ sự nghi ngờ nào đó và có nguy cơ làm ran nứt tình cảm gia đình.
Với Kitô hữu hôm nay, chúng ta có thực sự tin vào màu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu Kitô theo giáo lý của Giáo Hội hay không? Nhiều người xem ra vẫn thích dựa vào những kinh nghiệm khả giác hơn là tin vào Kinh Thánh, vào lời giảng huấn của Giáo Hội, khi vẫn thích tìm kiếm phép lạ, vẫn thích đổ xô đến những nơi đựơc cho là Chúa Mạ hiện ra???
2. Từ Câu chuyện của Tôma đến cuộc khủng hoảng niềm tin của con người thời nay: Khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma vắng mặt, ông không tin lời của các bạn. Ông không tin là điều xem ra có vẻ hợp lý. Thấy mới tin mà, điều này rất dễ chấp nhận. Ông không thấy, nên ông nghi ngờ. Thế nhưng, khi ông đã thấy thì ông lại xác quyết đức tin của mình cách mạnh mẽ nhất, xem ra hơn cả các Tông đồ khác. Câu ông tuyên xưng hình như chưa có Tông đồ nào tuyên xưng cả: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Từ câu chuyện của Tôma ngày xưa nhìn đến con người ngày nay. Với sự tiến bộ vượt bậc của Khoa học kỹ thuật, nếp suy tư, nhìn nhận mọi biến cố cuộc sống theo tư duy khoa học đã ăn sâu vào trong suy tư của con người. Mọi việc đều phải có cơ sở khoa học, phải được chứng minh cụ thể rõ ràng mới có sức thuyết phục. Do đó, thuyết phục người ta tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu là điều có lẽ khó khăn. Ngay cả thời của Thánh Phaolô, khoa học chưa phát triển, nhưng triết thuyết Platon gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống thì chính Ngài cũng không thuyết phục được bao nhiều người của Thành Athène tin theo Chúa (Cv 17, 32-34). Có thể nói được rằng: trong xã hội ngày nay chúng ta đang chứng kiến một cuộc khủng hoảng niềm tin. Người chưa tin ngày càng gia tăng; người mất niềm tin trở nên khô khan nguội lạnh cũng ngày càng gia tăng. Khủng hoảng niềm tin vì nhiều lý do, nhưng có lẽ hơn hết vẫn là não trạng duy khoa học, duy lý trí khiến cho người ta khó tiếp cận được với chân lý đức tin, với mạc khải Kinh Thánh.
Người Kitô hữu hôm nay phải làm chứng cho niềm tin phục sinh của mình; phải nhận ra hoàn cảnh tri thức hiện tại và tâm thức con người hôm nay để có những cách thế phù hợp loan báo Tin mừng. Cách thế hữu hiệu vẫn là sự hiện diện và làm chứng bằng chính đời sống của mình để mọi người thấy được niềm xác tin mạnh mẽ của mình.
3. Từ Niềm tin đến hạnh phúc: Có nhiều người cho rằng Lời Chúa nói với Tôma: "Phúc cho những ai không thấy mà tin" là lời ngụy biện của những kẻ ngu dốt hay của những kẻ cuồng tín. Khi Chúa Giêsu nói câu này không phải Người không quan tâm gì đến việc phù hợp với lý trí và nhận thức của nhân loại, để rồi kêu gọi người ta tin một cách mù quáng. Ở đây Chúa đề cao tính hợp tình. Như trường hợp của Tám Mối Phúc Thật. Hạnh phúc mà Chúa chúc phúc xem ra trái nghịch với lẽ thường tình, với khao khát hạnh phúc của con người. Cũng thế, tin sẽ đưa con người ta đi vào hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa là bước vào sống thân mật với Người, yêu mến Người. Và yêu mến Người thì sẽ nhận đựơc hạnh phúc vì ở đời tình yêu luôn đi với hạnh phúc. Mối dây liên hệ giữa Tin, Yêu và hạnh phúc luôn là mối dây tương hỗ quyện lấy nhau. Niềm tin chứng tỏ tình yêu càng tin tưởng càng yêu thương, càng yêu thương càng thấy hạnh phúc. Người ta không thể sống mà không tin yêu. Không thể chuyện gì cũng phải thấy mới tin. Có nhiều chuyện không thấy mà vẫn tin: tin vào tình yêu, tin vào tương lai và tin vào tinh người…
Với Kitô hữu tin là cử ngõ đi vào cõi phúc. Tin để chứng tỏ tình yêu Chúa và yêu Chúa chính là hạnh phúc. Cảm nhận đựơc hạnh phúc bởi đức tin không phải bằng giác quan nhưng bằng con mắt đức tin. Đôi mắt xác thịt có thể tăm tối nhưng đôi mắt đức tin sáng tỏ sẽ nhận thấy niềm vui và hạnh phúc vô bờ nơi Thiên Chúa.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã phục sinh, Người đang hiện diện với chúng ta. Tin tưởng nơi Người chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh cho toàn thể thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các Đấng chủ chăn luôn vững mạnh trong đức tin, bền tâm trong đức cạy và sắt son trong đức ái, để trung thành đưa ánh sáng Tin mừng đến với thế giới và con người hôm nay.
2. "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em khô khan nguội lạnh, những người chưa tin nhận Chúa và chống đối sứ điệp Tin mừng được mở lòng mở trí biết thành tâm tìm kiến chân lý và lẽ sống cao đẹp.
3. "Lạy Chúa Con! Lạy Thiên Chúa của con". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn mạnh mẽ tuyên xưng đức tin của mình bằng chính đời sống chứng tá theo ánh sáng của Tin mừng.
* Lời Kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương hiện diện và đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống. Xin gia tăng đức tin cho mọi người chúng con để ai nấy đều cảm nghiệm từ thẳm sâu cõi lòng sự hiện diện yêu thương mang lại hạnh phúc của Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
56.Chỉ có trẻ nhỏ mới có thể đi vào cốt lõi của tin mừng phục sinh--Đam. Maria Cao Tấn Tĩnh
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật thứ II sau Phục Sinh, dù khác nhau ở các bài đọc 1 và 2, cũng có cùng bài Phúc Âm, bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan, bài Phúc Âm thuật lại biến cố 8 ngày sau là chính thời điểm của Ngày Chúa Nhật Thứ Hai sau Chúa Nhật Phục Sinh này. Nếu bài Phúc Âm, nhất là ở phần thứ hai, trình thuật lại việc Chúa Kitô tám ngày sau tỏ cho riêng tông đồ Tôma thấy những dấu vết tử giá của Người nhờ đó đã làm cho vị tông đồ này tin tưởng thế nào, thì bài đọc thứ hai theo Thánh Gioan cũng nhấn mạnh đến đức tin như vậy, một đức tin vào Chúa Giêsu là Đức Kitô để được Thiên Chúa tái sinh, và là một đức tin làm cho con người nhờ đó chiến thắng thế gian, vì họ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến bởi nước và máu. Còn bài đọc thứ nhất theo Sách Tông Vụ cho thấy lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô đây của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi được tỏ ra nơi việc họ tin tưởng Giáo Hội, tin tưởng vào thành phần đại diện cho Giáo Hội là các vị tông đồ, bằng cách dâng hiến tất cả mọi sự của riêng mình cho các vị để các vị tùy nghi phân phối theo nhu cầu của một cộng đồng hiệp thông hoàn toàn chỉ biết “đồng tâm nhất trí” với nhau.
Tuy nhiên, Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh này, từ ngày Chị Nữ Tu Faustina được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh ngày 30/4/2000, cũng là chính ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, đã trở thành Ngày Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, như được Giáo Hội qua Bộ Phụng Tự Và Bí Tích chính thức tuyên bố vào ngày 5/5/2000. Đó là lý do chúng ta thấy đức tin thần linh, đức tin Kitô Giáo (faith) ở đây không phải thuần túy chỉ là một đức tin (belief) theo thần học, theo tín điều, tức chỉ tin theo những khoản được liệt kê trong Kinh Tin Kính, như tin Thiên Chúa hiện hữu, tin Ngài đã nhập thể, tử giá và phục sinh nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô v.v., mà còn là và chính là tin tưởng (trust) vào lòng thương xót Chúa nữa. Nếu Kitô hữu chúng ta chỉ tin Thiên Chúa theo các khoản của Kinh Tin Kính thì ma quỉ và thành phần đã đời đời trầm luân hư đi cũng tin nhận như vậy, cũng biết có Thiên Chúa, Đấng “đã yêu thế gian đến ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con thì không phải chết song được sự sống trường sinh” (Jn 3:16). Đó là lý do chúng ta thấy, như ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói với Mai Đệ Liên trong Phúc Âm Thánh Gioan về “Cha của Thày cũng là Cha của các con, Thiên Chúa của Thày cũng là Thiên Chúa của các con” (Jn 20:17), Tin Mừng Phục Sinh không phải chỉ là tin mừng về Chúa Kitô sống lại, mà còn là tin mừng con người được cứu độ, được hiệp thông với Thiên Chúa, được tái sinh trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận Tin Mừng Phục Sinh không phải chúng ta chỉ tin rằng Chúa Kitô đã sống lại, mà còn tin rằng Người đã sống lại vì chúng ta (x 1Cor 15:13,15-16; Rm 4:25).
Bởi thế, chấp nhận Tin Mừng Phục Sinh thực ra chính là tin tưởng vào lòng thương xót Chúa, là chấp nhận tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng chẳng những đến với con người bằng cả nước, máu và Thần Linh (x 1Jn 5:6-8): bằng nước là nhập thể, bằng máu là tử giá, nhất là bằng Thần Linh sau khi Chúa Kitô phục sinh từ trong kẻ chết, để con người có thể nhờ Thần Linh của Đấng Phục Sinh nhận biết Ngài và yêu mến Ngài, đáp lại tình yêu nhân hậu của Ngài. Đó là lý do, theo Phúc Âm Thánh Ký Gioan và Luca, tin mừng phục sinh chính là tin mừng về lòng thương xót Chúa: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha…” (Jn 20:22-23); “Như có lời chép Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ và sống lại vào ngày thứ ba. Nhân danh Người, lòng thống hối để được xá tội phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước” (Lk 24:46-47). Đó cũng là lý do, theo tiến trình tu đức và cảm nghiệm sống đạo, Thiên Chúa luôn tỏ mình cho con người nói chung, nhất là Kitô hữu, để, với đức tin (faith) đã được lãnh nhận khi chịu phép rửa tội, họ tin tưởng (trust) vào Ngài hơn trong mọi nơi và mọi lúc, nhất là những khi gặp thử thách và trái ý, nhờ đó, họ mới có thể hoàn toàn nên giống Đức Giêsu Kitô Con Yêu Dấu đẹp lòng Ngài mọi bề (x Mt 3:17; 17:5). Và cũng chỉ khi nào con người Kitô hữu hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, họ mới thực sự và trọn vẹn hoan hưởng mối hiệp thông thần linh mà họ đã được ban cho khi họ trở nên con cái Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, nghĩa là họ mới cảm thấy Thiên Chúa và mới được Ngài bao chiếm bằng một đức ái trọn hảo, một đức ái khiến họ dám hy sinh tận tuyệt cho tha nhân.
Nếu “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16), một cảm nhận thần linh, một xác tín thần học cũng là một lời tuyên xưng đức tin của “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” (Jn 13:23; 19:26; 21:20), thì tình yêu chính là bản tính của Thiên Chúa, tức nếu không phải là tình yêu thì Thiên Chúa không còn là hay không phải là Thiên Chúa nữa, mà có thể là một hung thần, một bạo chúa, một quỉ vương v.v. Bởi vì, với quyền năng tuyệt đối trong tay, vị thiên chúa không phải là tình yêu này sẽ tác hành ra sao, nếu không phải dương oai tác quái, động một tí là sát phạt liền, như thực tế cho thấy nơi trường hợp của các bạo chúa trong lịch sử loài người từ trước tới nay. Ngược lại, nếu quả thực “Thiên Chúa là tình yêu” thì Thiên Chúa chẳng những là Đấng toàn năng mà còn là Đấng toàn thiện nữa. Vì “tình yêu” bao gồm cả hai phẩm tính toàn năng và toàn thiện của Đệ Nhất Hữu Thể là Thiên Chúa. Về phẩm tính “toàn năng” của “tình yêu”, con người đã chẳng cảm nghiệm và cho rằng “tình yêu” mạnh hơn sự chết là gì. Về phẩm tính “toàn thiện” của “tình yêu”, con người cũng đã chẳng thấy rằng chỉ khi nào họ có “tình yêu” hay có đức ái trọn hảo họ mới có thể hy sinh xả kỷ và rộng lượng thứ tha hay sao, đến nỗi, họ có thể hy sinh mạng sống cho tha nhân? Nếu “toàn thiện” cho thấy một “tình yêu” có thể thắng vượt sự dữ nơi đối tượng yêu và dám chết cho đối tượng yêu như thế thì “toàn thiện” bao gồm cả phẩm tính “toàn năng”, và “toàn thiện” đây có tính cách “nhân hậu”. Vậy, nếu “Thiên Chúa là tình yêu”, một tình yêu “toàn thiện”, thì “tình yêu” “toàn thiện” này phải là và chính là “tình yêu” “nhân hậu”. Và khi Thiên Chúa tỏ mình ra, tỏ bản tính thần linh của mình ra, chính là Thiên Chúa tỏ tình yêu nhân hậu của Ngài ra cho con người hèn yếu và tội lỗi.
Đúng thế, nếu Chúa Giêsu Kitô “là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Col 1:15), và là “hiện thân đích thực của bản thể Cha” (Heb 1:3), thì Người chính là tình yêu nhân hậu Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người. Và nếu Chúa Kitô đến là “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18) thì Người đến là để tỏ cho con người biết tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng “đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta ở chỗ đang khi chúng ta còn là những tội nhân thì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta” (Rm 5:8), tức Ngài “đã không tiếc Con Một Ngài song đã trao nộp Người vì chúng ta” (Rm 8:32). Vị Thiên Chúa Làm Người là Chúa Giêsu Kitô đã bày tỏ tình yêu nhân hậu của một Vị “Thiên Chúa là thần linh” (Jn 4:24) đến nỗi “Người đã yêu những ai thuộc về mình thì yêu cho đến cùng” (Jn 13:1), yêu đến “thí mạng sống mình vì chiên” (Jn 10:11), vì mỗi một con chiên (x Lk 15:4-7), bằng cả một tấm lòng rộng lượng bao dung tha thứ, chẳng những đối với những đứa con phung phá (x Lk 15:11-32), mà còn đối với cả thành phần ác tâm, được Người cho là vô tình, đóng đanh tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa nữa (x Lk 23:34).
Thế nhưng, đối với kẻ mạnh, với thành phần người lớn thì dấu hiệu tột đỉnh của tình yêu nhân hậu được bộc lộ nơi tử giá là một thảm bại, bởi vì, theo lý luận thuần nhân, họ không thể nào hiểu được và chấp nhận được một vị Thiên Chúa toàn năng mà lại không thể nào xuống khỏi thập giá. Bởi vậy, tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa không phải là Bí Mật Nước Trời mà chỉ có những kẻ nào bé mọn nhất mới thấu biết và cảm nhận hay sao? (x Lk 10:21)
57.Suy niệm Chúa Nhật II Phục Sinh--Lm. Alfonso
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa nhật II Phục Sinh cũng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chỉ có lòng Chúa thương xót mới khiến chúng ta nhận ra Chúa, ơn lành của Chúa.
Suy niệm
“Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”. Các môn đệ Chúa sợ cũng phải thôi, vì biến cố khổ nạn và thập giá xảy đến cho Thầy làm các ông rất hoang mang và đau buồn. Hơn nữa, ngay đến Thầy là một người sống tốt, rao giảng đó đây, làm nhiều việc lành và được yêu mến vậy mà những thủ lãnh Do Thái còn đối xử án tử như thế, cho nên các môn đệ Chúa Giêsu khi phải đối diện với sự bách hại ấy càng mất bình an hơn. Các ông nghĩ cách tốt nhất để bảo vệ mình khỏi sự truy lùng của người Do Thái là đóng kín cửa, một số khác thì ẩn mình đi. Có lẽ vì lý do này mà Tôma đã không tụ họp chung với anh em đồng môn ngày hôm sau đó.
Chính trong cảnh tang thương của Thầy mình, các môn đệ tụ họp lại cùng cầu nguyện, an ủi và nâng đỡ nhau. Và Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra vào chiều ngày thứ nhất, đứng giữa các môn đệ và trao ban: “Bình an cho anh em!” Việc Người hiện ra đã xua tan nỗi lo âu và chán nản, bi quan và thất vọng nơi các môn đệ và để lấp đầy con tim bối rối của các ông bằng sự bình an của Đấng chiến thắng sự chết.
Đang lúc ấy, Tôma, còn được gọi với tên Đydimô, ông đi mô giữa lúc Chúa hiện đến giữa anh em nên ông không có được diễm phúc được chứng kiến Chúa phục sinh hiện ra, không nhận được lời Shalom chào chúc bình an của Chúa. Như câu chuyện bó đũa, một chiếc đũa tách riêng ra sẽ dễ bị bẻ gãy. Tôma tách rời ra khỏi anh em nên đức tin của ông đã bị chao đảo, ông cứng lòng tin mặc dầu nghe các bạn kể lại sự kiện Chúa phục sinh. Vì thế, ông vẫn khăng khăng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tôma muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, kinh nghiệm đối diện với người thật việc thật để có thể nhìn nhận Chúa phục sinh.
May phước cho Tôma là ông có một vị Thầy giàu lòng thương xót, nhẫn nại và từ bi nên đã chiều theo ý ông. Chúa Giêsu hiện ra lần nữa vào tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất để cho ông cơ hội được mãn nguyện, để củng cố đức tin cho cả ông là một trong số những người sẽ trở nên rường cột Hội Thánh sau này. Điều này cũng cho thấy ngày Chúa nhật có một vị trí quan trọng hơn hẳn các ngày. Người hiện ra và lần này bảo chính Tôma: “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Chúa mời gọi các môn đệ không những tin vì đã thấy mà còn cần phải tiến xa hơn: tin cho dù không được thấy.
Và quả thật, với kinh nghiệm đối diện với Đấng Phục Sinh, Tôma không chần chừ, đã tuyên xưng đức tin cá vị của chính mình: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Từ đây, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!" Đó là lời chúc phúc cho những môn đệ tương lai, là các Kitô hữu qua các thời kỳ.
Các môn đệ của Chúa được diễm phúc trở nên thị chứng nhân cho Chúa phục sinh. Niềm tin đó đã biến các ngài trở thành những chứng nhân bằng cả cuộc sống và thậm chí cả sự sống của mình. Đó là một sự kiện hiển nhiên mà đức tin Kitô Giáo chúng ta đã không sợ sệt khi đặt nền tảng trên sự thật này. Tuy nhiên, thời đại khoa học thực nghiệm ngày nay dường như khiến mọi thứ cần phải cân-đo-đong-đếm để xác nhận, được kiểm nghiệm mới đáng tin. Vậy chúng ta, những người Kitô hữu sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh 2000 năm, Liệu lời Tin Mừng hôm nay: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc” có còn hữu dụng không, khi lòng tin của chúng ta dựa trên chứng từ của các Tông đồ?
Nhà chú giải Kinh Thánh Dufour cho biết: “Kinh nghiệm mà những chứng nhân tận mắt được hưởng là kinh nghiệm làm nền và không thể được tái diễn: kinh nghiệm ấy được ban cho họ không chỉ vì họ mà thôi, nhưng còn vì những thế hệ tương lai mà lòng tin sẽ dựa vào lời chứng được truyền lại cùng với sức mạnh của Thánh Thần sẽ nối kết tất cả con cái Thiên Chúa nên một trong đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh”. Vâng, với ơn đức tin, chúng ta có thể cảm nhận Chúa Phục Sinh giữa cuộc sống thăng trầm của chúng ta. Con đường của lòng tin chúng ta ngày nay là con đường của lòng mến. Lòng tin và lòng mến biện chứng cho nhau, càng tin thì càng yêu mến, và càng yêu mến thì đức tin càng vững chắc. Thánh Tôma Aquinô cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin như Tôma được xem thương tích Chúa, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”.
Chúa nhật II Phục Sinh cũng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chỉ có lòng Chúa thương xót mới khiến chúng ta nhận ra Chúa, ơn lành của Chúa, ơn cứu chuộc bằng giá máu của Người để rồi chúng ta mới có thể biến đổi đời sống mình để có thể gặp gỡ được Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
58.Ý nghĩa các vết sẹo--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “Hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
1. Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần.Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây...”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi... Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
2. Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả
Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.
Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.
Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…
Chàng trai ngac nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.
Chàng trai thắc mắc:
- Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?
Ông cụ mỉm cười rồi nói:
- Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
- Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.
Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn...
3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh.Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.
Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh!
Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?".
Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.
Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người".
Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý đến họ."
Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.
59.“Bình an cho các con!”--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái. Chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an. Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi con người thì khao khát bình an.
Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36).
Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.
“Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Chúa Giêsu ban tặng”.
1. Bình an Chúa Giêsu là bình an trong tâm hồn.
Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức. Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.
- "Bình an cho các con". Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.
- "Bình an cho các con". Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng. Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại; bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an. Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống. Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm. Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ. Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm... Tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.
Bình an không giống như yên ổn. Yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
- "Bình an cho các con". Thế giới như đang sống trên một lò lửa. Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất… Thế gian chưa có bình an. Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống.
2. Hoa quả của Bình An.
Có nhân thì có quả. Có tranh chấp thì sinh ra hận thù. Có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết. Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.
Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại , nhịn nhục...
Tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh; chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình; dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến; sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình...
Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn.
Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.
Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Tâm hồn tràn ngập bình an là tâm hồn đạo đức. Đó là người hạnh phúc. Tâm hồn bình an khi hòa giải với Chúa, tin yêu Chúa. Tâm hồn bình an khi hòa giải với chình mình. Tâm hồn bình an khi hòa giải với mọi người sống chung quanh. Tâm hồn bình an khi không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét bất hòa. Tâm hồn bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Tâm hồn bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô để lại cho chúng ta.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc xao xuyến, âu lo, sợ hãi, thử thách, luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.
60.Thánh Tôma và Lòng Thương Xót Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Nhật II phục sinh Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: "Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta" (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được diễn tả qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
1. Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại: khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ: Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được'. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng 'lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi'. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình: "Lạy Thiên Chúa của con". Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói: "người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi". Nhà thần học Paul Tillich nói: "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin". Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: "Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững". Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
2. Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
3. Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người trong chúng ta, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công Giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: "Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa". Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thừơng để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
61.“Chúng tôi đã thấy Chúa”--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Cả bốn Tin mừng đều thuật lại những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh với những cá nhân (Ga 20,14-17; Mt 278,5-7; Lc 24,25-31; Mc 16,9-13) và những nhóm môn đệ khác nhau (Mt 28,16-20;Lc 24,36-49;Ga 21,1-23).
Tường thuật Chúa Phục Sinh đến với Nhóm Mười Hai vào ngày thứ nhất trong tuần có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhóm Mười Hai trở thành nền tảng của cộng đoàn Phục Sinh, thành những chứng nhân mắt thấy tai nghe về Chúa Phục Sinh, để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người (x. Cv 4,20).
Khi Chúa đến với Nhóm Mười Hai lần đầu tiên vào chiều ngày thứ nhất trong tuần thì Tôma vắng mặt. Các Tông đồ đã nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa"(Ga 20,25). Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là lời làm chứng về Chúa Phục Sinh. Những lời này có tác dụng chuẩn bị và khơi dậy đức tin đã phai lạt nơi Tôma.
Tám ngày sau,cũng trong cộng đoàn đó, Tôma tìm lại được đức tin của mình. Chính cộng đoàn đã thắp sáng lên niềm tin cho người anh em. Bởi đó, khi Chúa Phục Sinh với lời mời gọi yêu thương: "Tôma,hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh,hãy đặt bàn tay con vào cạnh sườn Thầy.Chớ cứng lòng nhưng hãy tin", lập tức Tôma được biến đổi từ bóng tối nghi nan sang ngời sáng niềm tin: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con"(Ga 20,28).
Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Tôma là ông đã tự tách rời khỏi các Tông Đồ khác, rời khỏi đời sống cộng đoàn. Trong sự choáng váng, thất vọng, chán nản, trong tâm trạng hoài nghi, đau khổ, ông đã tự nhốt mình trong cô đơn xa lánh anh em,tìm quên lãng trong phiền muộn nên đánh mất cơ hội gặp Chúa Phục Sinh. Chỉ đến khi tham gia trở lại với cộng đoàn, Tôma mới gặp gỡ Người và nhờ đó ông đã tìm lại được lòng tin mạnh mẽ, kiên trung.
Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn: vắng mặt, nghi ngờ và tuyên xưng đức tin. Một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng Tôma đã đến gần Chúa Giêsu hơn mọi anh em khác. Truyền thống Giáo hội kể lại, Tông đồ Tôma đã đưa Tin Mừng tới tận Ba Tư, Syria và Ấn Độ và chịu tử đạo ở đó.
Đức tin của người tín hữu được trao ban và nhận lãnh nơi cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn giáo xứ. Nơi cộng đoàn này, người tín hữu được nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin, hoặc tìm lại được niềm tin của mình.
Đức tin Kitô giáo vừa có chiều kích cộng đoàn vừa có chiều kích cá nhân. Đức tin cá nhân được cộng đoàn nuôi dưỡng và làm thành đức tin cộng đoàn. Cộng đoàn lớn lên và phát triển là nhờ đức tin cá nhân. Cộng đoàn làm cho đức tin cá nhân phong phú và độc đáo.
Lời Chúa được công bố giữa cộng đoàn Thánh Thể chính là Lời Phục Sinh. Mỗi tín hữu lắng nghe và chấp nhận cho riêng mình. Mỗi người, nhờ lòng tin và lòng mến mà Lời Chúa sẽ sinh hoa kết quả trong tâm hồn.
Mình Máu Chúa được trao ban cho mọi tín hữu trong cộng đoàn Thánh Thể, mỗi cá nhân tín hữu lại đón nhận với mức độ đức tin khác nhau. Người tín hữu phải đủ đức tin khi rước Thánh Thể của Đấng đã chết và sống lại. Không chỉ ăn uống Mình Máu Chúa mà còn là gặp gỡ riêng tư với Chúa Phục Sinh như Tôma vậy.Trong cuộc gặp gỡ riêng tư này, người tín hữu được đón nhận sự sống dồi dào vào tâm hồn mình.
Đời sống cộng đoàn thật quan trọng cho niềm tin người tín hữu. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Huấn "Người Kitô hữu giáo dân" đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ: mọi người được đón tiếp chân thành,được sống trong bầu khí bác ái,được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở,ai cũng cảm thấy mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin:Mọi người được bồi dưỡng đức tin,được kêu gọi sống đức tin,được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giáo lý,các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa, được Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng để người tín hữu hiểu biết những biến cố cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức: Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự,có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng tác và trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.
* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo: Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất,hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến với muôn dân.
Cộng đoàn phụng vụ ngày Chúa Nhật là điểm hẹn chính thức và thường xuyên của Chúa Phục Sinh với các tín hữu.Không nên lỗi hẹn với Chúa trong các cuộc họp cộng đoàn (x.Dt 10,25).Cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh. Người luôn có mặt để giải thích Kinh Thánh đồng thời mở lòng mở trí cho các tín hữu hiểu Lời Người (x.Lc 24,32.45) và hiến ban chính mình để nuôi sống người tín hữu chúng ta.
Cám ơn thánh Tôma. Nhờ ngài, các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Chúa. Nhờ ngài, Chúa Giêsu lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ ngài, chúng con có được mối phúc thứ chín: "Phúc cho ai không thấy mà tin"(Ga 20,29). Mối phúc này nghe như có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ thấy điều mình tin.
Mỗi tín hữu vững tin sẽ thấy điều mình tin để nói được rằng: "Tôi đã thấy Chúa"(Ga 20,18), nhờ đó cả cộng đoàn cũng đều nói lên: "Chúng tôi đã thấy Chúa"(Ga 20,25).
Thánh Tôma đã nhờ cộng đoàn anh em yêu thương nâng đỡ nên tìm lại được niềm tin.Nơi Tôma có cái gì đáng yêu đáng ngưỡng mộ, tuy cứng lòng tin nhưng lại dễ dàng khiêm nhường đón nhận những góp ý chân thành của cộng đoàn.
Chúa Kitô Phục Sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo. Đấng Phục sinh đã chọn "ngày thứ nhất trong tuần" làm ngày gặp gỡ các Tông Đồ. Như thế, "Ngày thứ nhất trong tuần" đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc "sáng tạo mới".
Xin cho mỗi ngày Chúa nhật trở thành ngày bồi bổ đức tin, bồi dưỡng tâm linh, bồi đắp tình huynh đệ, giúp mỗi tín hữu sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương...Nhờ đó, mỗi người trở thành chứng nhân cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục Sinh.
62.Tôma và con mắt thứ ba--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Cách xử sự của Tôma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì cân, đo, đong, đếm... được. Còn những gì người ta không thấy, bị xem như là không có. Khi tôi hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời thật đơn giản: "Có thấy đâu mà tin!"
Thế nhưng, có nhiều điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học (bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ... là những thực tại vô hình, không màu sắc, không trọng lượng, không khối lượng)... nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có.
Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như "ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung".
Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận thấy. Nhà văn Saint-Exupéry đã khám phá ra điều nầy, ông viết: "L'essentiel est invisible pour les yeux" (Thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được). Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý...
Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi. Nhờ con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy vi trùng và những siêu vi cực nhỏ... Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh sáng... Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát... Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.
Trong Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là 'huệ nhãn', giúp người ta thấy được những thực tại tâm linh siêu hình. Đối với Đức Giêsu, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ "Con Mắt Đức Tin", nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả ngục...
Tông đồ Tôma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay... mới là điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo anh: "Nầy Tôma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi", Tôma cho là chuyện đùa.
Cho dù Tôma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giêsu hiện về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn... thì anh mới tin! Chúa Giêsu không hài lòng với quan điểm đó. Ngài nói: "Tôma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin."
Như thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng con mắt thứ ba, "Con Mắt Đức Tin" để nhận ra Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì đó là con mắt tối cần giúp thấy được những thực tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ. Chúa luôn khiển trách các môn đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa buồn phiền vì dân chúng thiếu lòng tin. Chúa khiển trách Tôma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai mở cho chúng con con mắt thứ ba, con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và nhận biết Thánh Thần Chúa là Đấng thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người là anh em thật của chúng con trong Chúa Kitô. Amen.
63.Suy niệm Lễ kính Lòng thương xót Chúa--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Lòng thương xót Chúa được thể hiện qua mỗi Thánh lễ hằng ngày
Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Lòng thương xót Chúa dành cho nhân loại đạt tới mức cao nhất, lớn lao nhất vào lúc nào?
Tất nhiên là lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện đến mức cao nhất, tuyệt vời nhất và lớn lao nhất nơi cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Qua biến cố đau thương này, Chúa Giêsu đón nhận vô vàn đau thương khốn khổ để đền tội thay cho nhân loại và Ngài đã chết thay cho muôn người để họ khỏi phải sa hỏa ngục và mở cửa cho họ vào thiên đàng. Đỉnh cao của lòng thương xót Chúa là đây!
Và điều đáng ghi nhớ là cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu không chấm dứt cách đây hơn 2.000 năm, nhưng vẫn còn tiếp diễn, tiếp diễn không ngừng trong các Thánh lễ được cử hành liên tục từng giờ, từng phút suốt dòng lịch sử nhân loại. Giáo lý Hội thánh dạy rằng “Hy tế khổ giá của Đức Ki-tô trên đồi Can-vê kéo dài qua các thời đại cho đến tận thế” (GLHTCG số 1323), “Thánh lễ hiện tại hóa hy tế thập giá của Chúa Giêsu” (GLHTCG số 1366) hay nói dễ hiểu hơn “Hy tế của Đức Ki-tô trên đồi Can-vê năm xưa và Thánh lễ hôm nay chỉ là một, vì chỉ có một Lễ vật duy nhất là Đức Ki-tô; hôm xưa, chính Ngài tự dâng mình trên thập giá, hôm nay, Ngài lại dâng mình nhờ tay linh mục” (GLHTCG số 1323. 1367).
Như vậy, Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót bao la không bờ không bến của Ngài qua các Thánh lễ được hiến dâng mỗi ngày.
Thánh lễ là nơi Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót vô biên của Ngài qua 3 hồng ân lớn sau đây:
Thứ nhất, Bằng cuộc thương khó và tử nạn của mình được tiếp diễn trong Thánh lễ, Chúa Giêsu hiến dâng thân mình đền tội thay cho chúng ta, chết thay cho chúng ta… để tha thứ tội lỗi cho ta, nhằm cứu ta khỏi sa hoả ngục đời đời (GLHTCG số 1365 [1], 1367 [2] và 1366).
Như thế, qua Thánh lễ, lòng thương xót của Chúa dành cho chúng ta thật là vô biên, vô hạn.
Thứ hai, Vì yêu thương chúng ta vô biên vô hạn, Chúa Giêsu trao ban Thịt Máu Ngài làm lương thực cho ta, để nhờ đón rước Ngài vào lòng, chúng ta được hòa chung nên một với Chúa như giọt nước hòa trong chén rượu, như ao nước nhỏ hòa với đại dương… đúng như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy (Ga 6, 56). Nhờ đó, Chúa với ta không còn là hai mà chỉ là một và con người bụi đất hèn hạ này được nâng lên làm một với Đấng tối cao.
Thứ ba, Một khi chúng ta được nên một với Chúa qua việc rước mình thánh Ngài, Chúa Giêsu thông ban sự sống cao vời của ba Ngôi Thiên Chúa cho chúng ta; nhờ đó ta được mang sự sống của Thiên Chúa trong ta và được sống đời đời với Thiên Chúa như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54).
Như thế, chẳng còn ơn nào trọng hơn 3 hồng ân trên đây; không có gì cao quý bằng 3 hồng ân tuyệt vời này.
- Vậy thì chúng ta cần phải đến tôn vinh lòng thương xót Chúa ở đâu?
- Tất nhiên là đến với Thánh lễ hằng ngày, vì đây là nơi Chúa Giêsu thi thố lòng thương xót cao vời của Ngài cho tất cả chúng ta.
Vì thế, ai quay lưng lại với Thánh lễ là quay lưng lại với lòng thương xót Chúa; ai thờ ơ không tham dự Thánh lễ là không muốn đón nhận lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Không có tình thương nào lớn lao cho bằng tình thương của Ngôi Hai Thiên Chúa nộp mình chịu thương khó, chịu chết trên thập giá để đền tội cho những con người hèn mọn chúng con.
Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của Chúa khi trao ban mình máu thánh Chúa cho chúng con để chúng con được hoàn toàn nên một thân mình, một dòng máu với Chúa.
Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của Chúa là Đấng đã trao ban sự sống đời đời của Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con biết tìm đến tôn vinh lòng thương xót Chúa trong các Thánh lễ hằng ngày để đón nhận những hồng ân lớn lao phát xuất từ tình thương bao la của Chúa.
------------------
[1] “Trong Thánh lễ, Chúa Ki-tô ban chính thân mình đã tự hiến trên thập giá, ban chính máu Ngài đã đổ ra cho mọi người được tha tội”
[2] “Hy tế này (Thánh lễ) thực sự có giá trị đền tội”
64.Cuộc sáng tạo mới--Lm Ignatiô Trần Ngà
Ngày thứ nhất của nhân loại cũ
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên Ađam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không hề có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam (St 2,7), tức thì Ađam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống và được trở thành thuỷ tổ loài người đông đảo trên khắp trái đất.
Đó là ngày thứ nhất của lịch sử loài người, ngày khai sinh nhân loại cũ, khởi đi từ con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, thông ban sự sống và những phẩm tính cao đẹp của Ngài.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời nên Thiên Chúa phải thực hiện kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Ngày thứ nhất của nhân loại mới
Thế rồi, "vào ngày thứ nhất trong tuần - và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới - nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an!" (Ga 20, 19-22)
Kế đó, như thời khởi thuỷ, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ: "Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sức sống mới, các ông được hồi sinh, được trở nên can đảm mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo đường, hô vang Tin Mừng cứu độ.
Đó là ngày thứ nhất trong tuần đồng thời cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử của nhân loại mới.
Ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ
Vậy mà cho đến hôm nay, sau hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu khai sinh nhân loại mới, vẫn còn trong ta sự ương ngạnh của Ađam, muốn sống theo dục vọng của mình bất chấp lời giáo huấn của Thiên Chúa. Vẫn còn trong ta tính ù lì khiếp nhược của các tông đồ sau biến cố Thầy Giêsu thụ nạn, tự giam mình trong phòng kín như mộ địa tối tăm. Vẫn còn trong ta con người ích kỷ chỉ biết sống cho mình, cho gia đình mình mà chưa mở ra với tha nhân và lối xóm.
Thế nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng ta như Ngài đã thực hiện cho các tông đồ xưa, để chúng ta được hồi sinh, được vượt ra khỏi ngục tù do lòng tham lam ích kỷ dựng nên, thoát ra khỏi mộ địa do chính sự hèn yếu của chúng ta vây bọc.
Và nhờ đó, ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ được khai mở trong ta.
65.Phúc cho ai không thấy mà tin--An Phong
Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện ông Tôma cứng lòng tin; ông không chấp nhận lời chứng của các môn đệ khác và chỉ tin khi được "nhìn tận mắt, sờ tận tay"; đòi hỏi của Tôma cũng được chấp nhận, và ông đã thốt lên "Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa tôi!".
Trong đời thường, hẳn không thiếu những người như ông Tôma, tức là những người không dễ dàng chấp nhận điều mình chưa kiểm nghiệm. Xét cho cùng, điều đó cũng đúng thôi; vì đây không phải là chuyện vui chơi, đùa cợt, nhưng là điều có thể thay đổi tất cả cuộc đời mình.
Nhưng điều "đáng trách" của Tôma là ông đã "không có mặt" cùng các bạn hữu của mình trong những ngày "khó khăn" này. Khi người ta không "ở cùng nhau" thì chẳng những điều không hợp lý mà cả điều hiển nhiên rõ ràng cũng không dễ làm cho người ta chấp nhận.
Thái độ của Tôma có lẽ cũng "hợp lý", vì cuộc đời này còn quá nhiễu nhương, vì trong cuộc sống con người còn quá nhiều mưu mô lừa đảo.
Nhưng nếu như đối với một sản phẩm, một đồ vật, người ta có thể kiểm nghiệm được chất lượng một cách khá chắc chắn; thì trong mối tương quan con người với nhau, điều đó lại không bao giờ có thể thực hiện được. Thật tình với một người bạn, lựa chọn người bạn đời, sinh một đứa con… tất cả đều là một cuộc phiêu lưu mà không ai có thể nắm chắc được tương lai. Muốn có bạn, muốn có vợ (chồng), muốn có con, người ta phải chấp nhận tin bằng "con tim" của mình, chứ không thể "kiểm nghiệm chất lượng" một cách hoàn toàn chắc chắn. Đó là ý nghĩa điều Đức Giêsu đã nói: "Ai không thấy mà Tin mới là người có phúc".
Dầu vậy, Chúa Giêsu không bỏ rơi Tôma cũng như không bỏ rơi những người giống như Tôma sau này. Ngài lựa chọn một lần khác, khi mà "có mặt ông Tôma" cùng với các môn đệ khác của Chúa Giêsu để cho ông được "nhìn tận mắt, sờ tận tay"; để lời chứng của Tôma sẽ là một lời chứng rõ ràng hơn với chúng ta, những người sống trong một xã hội có đầy dẫy những điều điên đảo…; để "anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa; và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người".
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết sống cuộc đời này,
không những bằng lý trí suy xét khôn ngoan,
nhưng còn bằng con tim tràn đầy yêu thương nữa.
Để chúng con có thể nhận ra anh chị em,
và nhận ra Chúa vẫn đang ở giữa chúng con.
66.Phục Sinh không phải điều tưởng tượng--Lm G. Nguyễn Cao Luật, OP
Chúng tôi đã thấy Chúa và vui mừng
Chỉ sau khi được gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, các môn đệ của Đức Giêsu mới tin rằng Người đã sống lại thật. Có thể nói, sau cái chết đau thương của Đức Giêsu, tất cả các ông đều sợ; các ông tụ họp nhau và đóng kín cửa. Trong bối cảnh đó, các ông cảm thấy tràn ngập vui mừng vì gặp lại Đức Giêsu vẫn đang sống, đang hiện diện giữa các ông. Các ông nhận ra Đức Giêsu bằng xương bằng thịt, chứ không phải là ma, cũng không phải do ảo giác. Các ông đã nhận ra Đức Giêsu với những thương tích trên mình: Người đã chết thật, nhưng đã sống lại. Các vết thương làm chứng Người đã chết; nhưng con người đang chịu những vết thương ấy bây giờ đang sống giữa họ đây. Người đã sống lại thật. Các môn đệ tin như thế.
Tin Mừng Phục Sinh quả là Tin Mừng đúng nghĩa, Tin Mừng lớn lao nhất. Có lẽ các môn đệ chưa hiểu được tất cả ý nghĩa sâu xa của biến cố này, nhưng ít ra trong lúc này, các ông cũng hiểu lờ mờ về những điều Đức Giêsu đã nói trước với các ông: Đức Kitô phải chịu đau khổ. "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi..." (Ga 12,24). Những điều ấy nay đã được thực hiện cách trọn vẹn.
Các môn đệ vui mừng vì cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa: thế lực thù nghịch Thiên Chúa và con người đã bị đánh bại; sự sống đã chiến thắng sự chết, tình yêu đã vượt lên trên hận thù, đem lại ơn tha thứ và sự sống mới. Nhờ cảm nhận được sức mạnh này, các ông sẽ can đảm dấn mình vào công trình cứu độ của Đức Giêsu, và làm cho công trình ấy nảy sinh kết quả nơi nhiều người.
Ngoài ra, các môn đệ vui mừng vì các ông được biến đổi để thành con người mới. Các ông đón nhận từ Đấng Phục Sinh một luồng khí mới, một luồng khí làm cho các ông trở thành những con người can đảm và hăng say làm chứng về Đấng Phục Sinh tại khắp mọi nơi trên thế giới.
Như thế, nhờ cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, các môn đệ bắt đầu một hành trình mới của lòng tin. Các ông sẽ dần dần gắn bó sâu xa hơn với Đức Giêsu: các ông tin Người là Chúa bởi vì Người đã chiến thắng sự chết, đồng thời sẵn sàng chia sẻ thân phận của Người. Các ông biết chắc rằng, sau khi đã cùng bước đi với Đức Giêsu trên con đường thập giá, các ông sẽ được tham dự vào cuộc chiến thắng của Người. Nói cách khác, các ông hiểu rằng chính mình cũng sẽ được phục sinh như Đức Kitô nếu như các ông chu toàn trách vụ được giao phó, dù có những gian truân, dù phải hy sinh mạng sống.
"Tôi chỉ tin... nếu..."
Niềm vui của các môn đệ, bằng chứng các ông đưa ra không thể thuyết phục ông Tôma, người môn đệ vắng mặt khi Đấng Phục Sinh hiện đến.
Thật ra, thái độ của ông Tôma cũng dễ hiểu. Tự nhiên ông cảm thấy mình thiệt thòi và thua kém. Trước đây, chính ông đã từng lên tiếng thúc giục các môn đệ: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy" (Ga 11,16). Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Đấng Phục Sinh, ít ra như mọi anh em, thế nên ông đã đưa ra điều kiện: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người... tôi chẳng có tin." Ông quả là một người chính trực và thẳng thắn.
Nhìn từ một góc cạnh khác, thái độ không dễ tin của ông Tôma lại là một cơ hội để mầu nhiệm Phục Sinh được chứng thực một cách rõ ràng hơn. Biết đâu các anh em muốn đùa với ông một chút, hay là câu chuyện các anh em kể lại chỉ là một thứ ảo giác tập thể. Vậy thì tốt hơn hết là khôn ngoan. Và nhờ vậy, người ta có dịp kiểm chứng về lời loan báo của các môn đệ.
Đàng khác, có lẽ ông Tôma là người duy nhất nghĩ đến việc tổ chức lại sinh hoạt cá nhân cũng như cộng đoàn sau khi Đức Giêsu chịu chết. Ông đã đi ra ngoài vì ông không sợ. Ông phản ứng dường như Đức Kitô đã rời bỏ trần gian và chỉ trở lại vào ngày cuối cùng. Trong khoảng thời gian này, ông nghĩ rằng cần phải sống điều được gọi là sự vắng mặt của Thiên Chúa. Do đó ông đã ra ngoài, đi đâu đó, và không có mặt cùng với các môn đệ trong căn phòng.
Cuối cùng, ông Tôma đã được gặp gỡ với Đức Kitô Phục Sinh và đang sống. Tám ngày sau, Người hiện đến và đáp ứng những yêu cầu của ông: "Đặt ngón tay... và hãy nhìn xem... Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin." Ông Tôma hẳn là cảm thấy mình kỳ cục khi Đức Giêsu sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi của ông. Ông chỉ còn biết lắp bắp thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con."
Trước chứng cớ rõ ràng, mọi nghi ngờ của ông đều tan biến, ông chỉ có thể bày tỏ sự thần phục của mình. Lời tuyên xưng phát xuất từ đáy lòng cho thấy tất cả niềm tin của ông vào Đấng Phục Sinh. Ông đã đi xa hơn các môn đệ khác về những bằng chứng làm nền tảng cho lòng tin, nhưng có lẽ ông cũng đã vượt lên trên thái độ vui mừng của các môn đệ, để đi đến một lòng tin sâu sắc: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con."
Lời tuyên xưng của ông đã trở thành khuôn mẫu, là tiêu biểu cho cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai cũng như sau này. Mọi người, mọi thế hệ cũng đều thưa lên như thế để bày tỏ niềm tin sống động vào Đấng Phục Sinh.
Như vậy, xét cho cùng, thái độ của ông Tôma chẳng có gì là đáng trách: ông có lý do để nghi ngờ, nhưng một khi đã được mặc khải, ông sẵn sàng tin và tin đến cùng.
Lòng tin bắt đầu từ cộng đoàn
Ngày nay, có khá đông tín hữu chấp nhận thái độ như ông Tôma. Họ thích lặp lại câu nói: Chúng tôi chỉ tin điều chúng tôi thấy. Hơn thế, người ta còn hành động như thể là đời sống trần gian này chỉ tuỳ thuộc vào con người mà thôi. Người ta vẫn quả quyết rằng Đức Giêsu Kitô đang sống, mỗi người vẫn đang tìm kiếm khuôn mặt của Người trong cuộc sống, trong cuộc gặp gỡ với người khác. Thế nhưng, khi hành động, người ta lại làm khác đi và từ tận đáy lòng vẫn vang lên câu hỏi: "Thiên Chúa của bạn ở đâu?"
Thật ra, những người này nên nhớ rằng cuộc gặp gỡ riêng tư giữa Đức Giêsu và ông Tôma, trong đó ông Tôma tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, đã diễn ra trong một cộng đoàn, khi các môn đệ đang tụ họp với nhau. Xưa cũng như nay, không khi nào Đức Kitô hiện diện mà không có chứng tá của những cộng đoàn làm nên Giáo Hội. Có Đức Kitô là phải có Giáo Hội.
Nhưng tại sao họ lại không tin vào lời chứng của cộng đoàn tín hữu?
Trong niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, đây là một đòi hỏi luôn có tính thời sự. Tin vào Đức Kitô Phục Sinh và đang sống là một hành vi riêng tư chiếm lĩnh toàn bộ con người. Tuy thế, hành vi này phải dựa trên lòng tin và chứng tá của một cộng đoàn tín hữu. Hơn nữa, hành vi này chỉ thực sự có ý nghĩa một khi nó được diễn tả qua việc loan báo Tin Mừng, vượt ra khỏi căn phòng đóng kín cửa. Vì vậy, nguy cơ lớn của thời đại hôm nay là người tín hữu muốn coi kinh nghiệm về Đức Giêsu là của riêng mình và muốn giữ riêng cho mình, đóng kín tâm hồn.
Tin vào Đức Kitô Phục Sinh là một niềm vui, đồng thời cũng là một cuộc phiêu lưu. Đó là người ta có thể tin vào điều không thể và đem hết nỗ lực làm cho điều ấy được thực hiện.
67.Phúc thay người không thấy mà tin--Martin Vũ Thái Hiệp, OP
Cộng đoàn thân mến!
Là thụ tạo bất toàn, loài người lắm khi còn nhìn và suy xét mọi sự theo lý trí rất con người. Và, ngày hôm nay môn đệ Tôma, người đã theo Đức Giêsu ba năm nhưng đứng trước biến cố phục sinh ông cũng không thể tin được. Đó quả là một sự lạ vượt quá lòng tin của ông. Đức Giêsu đồng cảm với lòng tin còn non yếu của Tôma, Người không trách móc ông nhưng yêu thương nói rằng: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Đọc đoạn Tin Mừng này, hẳn có không ít người đã trách móc lòng tin của thánh Tôma, nhưng Thánh Gregory Cả đã nói về thánh Tôma như sau: “Sự cứng lòng của thánh Tôma đã mưu ích cho đức tin của chúng ta hơn là đức tin của các thánh tông đồ khác. Khi thánh nhân chạm đến Chúa Kitô Phục Sinh và được cải hóa, thì mọi hoài nghi nơi ngài đều bị loại trừ và đức tin của chúng ta được củng cố.” Thật ra, chúng ta cũng nên cảm ơn thánh nhân vì nhờ thánh Tôma, chúng ta như cũng cùng được đụng chạm đến con người thật của Đức Chúa Phục Sinh và lòng tin của chúng ta thêm kiên vững hơn.
Xin nhìn đức tin ở một khía cạnh khác. Chuyện kể rằng có một thày tu khổ hạnh Ấn Độ tên là Sundar Singh (1889-1929), ông là một trong những gương mặt Sadhu nổi tiếng của Ấn Độ. Ông kể lại ngày ông còn trẻ, ông đã đốt Kinh Thánh. Ông dị ứng với niềm tin Kitô giáo. (X. Nguyễn Tầm Thường, Đường Đi Một Mình, t. 149)
Nhưng rồi một ngày nọ, ông lặng lẽ ngắm nhìn bầy chim non đang tranh nhau kêu líp nhíp, miệng há to khi nghe tiếng vỗ cánh của mẹ chúng bay về. Nhà tu khổ hạnh cứ ngày ngày nhìn bầy chim non bé bỏng há miệng đón mồi. Rồi một giây phút linh thiêng nọ, ông chợt bừng tỉnh. Ông thấy lạ quá. Bầy chim non chưa mở mắt. Cả thế giới chung quanh chúng vẫn tối đen mịt mùng, không ánh sáng, không sắc màu, thế mà nó vẫn há miệng đón mồi. Và nhờ vậy mà nó được sống dồi dào.
Ngày nay, trong chiều kích tục hoá đời sống tâm linh, con người có khuynh hướng buông thả mình trong những lý luận ngây ngô. Người ta muốn nhìn thấy, đụng chạm đến rồi mới tin. Xin hãy lặng người suy nghĩ xem, nếu bầy chim nhỏ nói trên không chịu ăn, nếu nó lý luận rằng nó chỉ ăn khi nó chứng minh được miếng mồi này có độc hay không, có phù hợp với nó không thì đời nó sẽ ra sao? Bầy chim non đã không đợi cho đến khi mở mắt, biết nhìn, biết lý luận, biết phân biệt mọi thứ rồi mới ăn. Vì lúc này nếu chúng không ăn thì chắc chắn là nó sẽ chết đói. Cũng vậy, chúng ta sẽ chết mất nếu lúc này cứ đóng chặt cửa lòng không tin vào Thiên Chúa. Vì thế, thánh Tôma Aquinô đã nói rằng: “Đức tin là nếm trước điều chúng ta sẽ được hưởng trong cuộc sống hạnh phúc mai sau”.
Một cách sâu xa, chúng ta vững tin vào mọi mặc khải của Thiên Chúa và Giáo Hội vì tin chắc rằng Ngài là Chúa Chiên Nhân Lành, Đấng trung tín và là người cha nhân hậu luôn muốn những điều tốt đẹp nhất cho ta. Nếu như cha mẹ ở trần gian còn yêu thương con cái rất mực, thì Cha trên trời còn yêu thương ta hơn bội phần như thế. Vì vậy, ta hãy cứ vững tin vào Thiên Chúa, và chắc chắn ta sẽ được no thoả. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho chúng ta tâm tình của một trẻ thơ, để ta hằng khiêm tốn tin nhận mọi mặc khải của Người và không do dự.
Trong thực tế, ân sủng của Thiên Chúa cần có niềm tin để đón nhận. Và một khi niềm tin rộng mở đón lấy ân sủng thì có phép lạ xảy ra. Trong hành trình rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chẳng làm phép lạ với những nơi, những người không tin vào Người. Bên cạnh đó, mỗi lần cứu chữa một bệnh nhân, Người lại nói: "Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17, 19). Một cách nào đó, Đức Giêsu đã khẳng định chính niềm tin của bệnh nhân đã mang lại hiệu quả chữa lành cho bệnh nhân. Trong thư gởi tín hữu Galát, thánh Phaolô đã đề cao vai trò của đức tin khi xác tín rằng: “Chúng ta được nên công chính nhờ đức tin.” (Gl 3,24)
Nguyện xin thánh Martinô - vị thánh khiêm nhường hằng vững tin vào Thiên Chúa, xin tổ phụ Abraham là "tổ phụ của tất cả những người tin", và nguyện xin Mẹ Maria là “người thể hiện lòng tin cách hoàn hảo nhất” cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng ta thêm lòng tin vào Thiên Chúa hơn. Và xin Chúa Giêsu Thánh Thể cho chúng con nhìn ngắm mọi sự bằng con mắt đức tin chứ không quá cậy dựa vào con mắt xác thịt, để chúng con một lòng cảm mến chân lý và tin tưởng tuyệt đối vào mặc khải của Người qua Giáo hội, hầu đón nhận được lời chúc phúc của Người, như lời Ngài đã hứa “phúc thay những người không thấy mà tin!”.
Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm 4 năm ngày Đức Bênêdictô XVI được bầu làm Giáo hoàng, chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho người cha kính yêu của chúng ta một lòng tin kiên vững hơn để ngài sáng suốt lèo lái con thuyền Giáo hội về bến Nước Trời đẹp tươi. Amen.
68.Tôma và vết thương lòng thương xót Chúa--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Nói đến vết thương, ai cũng rùng mình không muốn nhìn, chứ chưa nói tới đụng chạm vào. Vì sợ máu chảy cùng gây ra đau đớn. Nhưng Thánh Tông đồ Tôma lại nằng nặc đòi cho bằng được đụng chạm xỏ ngón tay vào vết thương của Thầy mình.
Một đòi hỏi táo bạo phiêu lưu mạo hiểm!
Thông thường thân xác hình hài diện mạo, tiếng nói, mầu da tóc cùng cá tính của một người là những đặc điểm giúp dễ nhận ra người đó hơn cả. Nhưng với Thánh Tôma lại khác. Theo Ông những vết thương nơi thân xác Thầy Giêsu mới là đặc điểm giúp Ông nhận ra Thầy mình.
Vì thế Ông qủa quyết với các Bạn Tông đồ:“ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không cỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.“ (Ga 20, 25.)
Một người có tầm nhìn suy nghĩ khác lạ không giống ai. Nhưng lại ẩn chứa một sự gì sâu xa bí nhiệm.
Vậy Ông Thánh Tôma là ai, và đòi hỏi cùng suy nghĩ khác lạ của Ông mang ẩn chứa sứ điệp đức tin gì?
1. Thánh Tôma Điđymô
Trong Hội Thánh Công giáo có nhiều Thánh cùng tên Tôma, như Thánh Tôma Aquino, Tôma Morus... Nhưng vị Thánh Tôma và vết thương Thầy Giêsu là một trong 12 Thánh Tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn kêu gọi ngay từ lúc đầu Ngài ra đi giảng đạo.
Thánh Tông đồ Tôma đã được học nghe Chúa giảng dậy, cùng chứng kiến những phép lạ Chúa làm, cùng sống trải qua cuộc đau thương khổ nạn của Chúa, được nhìn thấy Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa trở về trời và được tiếp nhận trực tiếp Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống ngày lễ Ngũ tuần.
Sau đó Thánh Tông đồ Tôma đã vâng mệnh Chúa Giêsu, sau khi Ngài trở về trời, ra đi rao giảng nước Thiên Chúa, thành lập Hội Thánh ở chân trời vùng Á Châu bên nước Ấn Độ.
Không có sử sách nào ghi chép về nơi chốn cùng ngày tháng sinh ra của Thánh Tôma. Chúa Giêsu kêu gọi Tôma làm Tông đồ ở Galilea nước Do Thái, khi đó Ông đang là một bác thuyền chài đánh cá ở sông hồ. Tên Tôma trong danh sách 12 Tông đồ Chúa Giêsu nơi ba Thánh sử Phúc âm Matheo (10,3), Maco (3,18) và Luca (6,15) được nói đến bên cạnh Thánh Tông đồ Matheo, còn trong sách Công vụ Tông đồ ở bên cạnh Thánh Philippus (Cv 1,13).
Tên Tôma có nguồn gốc từ tiếng Do Thái mang ý nghĩa là sinh đôi. Trong phúc âm theo Thánh Gioan Ông được gọi là Tôma Điđymô, theo tiếng Hylạp cũng có nghĩa là sinh đôi (Ga 11,16; 20,24)
Hội Thánh Công gíao Roma mừng lễ kính Thánh Tôma Tông đồ vào ngày 03.Tháng Bảy hằng năm. Giáo Hội Chính Thống mừng lễ Thánh Tôma vào Chúa nhật thứ hai sau lễ Chúa phục sinh.
Con đường theo làm môn đệ Chúa Giêsu của Tôma cũng đã trải qua giai đoạn phải quyết tâm chọn lựa cùng chia sẻ với Thầy mình, và đòi Thầy mình mạc khải cho biết Thầy mình là ai.
2. Con đường theo chân Chúa
Không biết khi Chúa Giêsu kêu gọi Tôma, và những vị khác làm thành nhóm 12 Môn đệ đầu tiên của Ngài, họ đã có ý nghĩ về con đường đời sống, cùng công danh sự nghiệp trong nước Thiên Chúa như thế nào?
Thánh Tôma khi nghe Chúa Giêsu nói đến nỗi đau khổ cùng nguy hiểm, Ngài sẽ phải gánh chịu trong đời sống khi lên Giêrusalem, Ông đã mạnh dạn nói cùng các anh em Tông đồ: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chịu chết với Thầy” (Ga 11,16)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. đã có suy tư về cung cách này của Thánh Tôma „ Đó là một qủa quyết của lòng trung thành một mực theo chân Chúa cho dù phải đi tới đâu. Đây là mộ ví dụ điển hình trong mối tương quan theo chân Chúa: cùng sống, cùng chết, cùng cư ngụ ở trong trái tim người như Người ở trong trái tim ta.“
Thánh Tôma khi nghe Chúa Giêsu thầy mình nói đến sự thương khó cái chết gần kề của Ngài, Ông một mặt nói ngay lời tuyên xưng lòng trung thành của mình. Thầy đi đâu, con theo tới đó (Ga 14,4) Và Ông cũng thắc mắc hỏi Thầy mình ngay, nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con có thể biết con đường đó?
Câu hỏi của Tôma, cũng theo Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. „tương đối ở bình diện hiểu biết thấp. Nhưng lại là dịp lúc Chúa Giêsu nói lên những lời mạc khải về chính Ngài, và những lời đó trở nên thời danh cho mọi thế hệ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống“ (Ga 14,6).
Rồi mỗi khi chúng ta nghe hay đọc những lời này, chúng ta có thể nghĩ rằng như đang đứng bên Thánh Tôma nghe Chúa Giêsu nói với mình như Ngài đã nói với Thánh Tôma khi xưa. Và chúng ta cũng được đặt ra câu thắc mắc của mình xin Chúa Giêsu cắt nghĩa cho hiểu, điều mình chưa hiểu. Đây là cung cách cầu nguyện với Chúa Giêsu trong sự tin tưởng cùng với sự giới hạn hiểu biết của mình.”
Xưa nay trong đời sống đạo Công giáo, khi nói đến Thánh Tôma Tông đồ không ai có thể quên bỏ qua mà không nghĩ tới, như tường thuật trong Phúc âm Thánh Gioan, về sự hoài nghi của Thánh Tôma - trong dân gian vẫn quen gọi là Tôma yếu kém lòng tin - , và từ sự hoài nghi đó dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
3. Vết thương lòng thương xót Chúa Giêsu
Anh em Tông đồ kể thuật lại cho Ông nghe về việc Chúa Giêsu sống lại hiện ra với họ. Nhưng Ông không tin vào những lời kể đó. Ông muốn chính mình phải được nhận ra Chúa Giêsu theo cung cách của Ông: Đụng chạm vào vết thương lòng thương xót của Thầy Giêsu.
Ông muốn được đụng chạm vào những vết thương của Thầy Giêsu.Vì với Ông đó là dấu ấn đặc điểm của Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập gía.
Ông không muốn đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh chỉ ở tầng bên trên. Nhưng cần phải đi sâu vào tận vết thương tình yêu của Chúa.
Với Ông, những vết thương đóng đinh nơi Chúa Giêsu là hình ảnh lòng thương xót của Ngài đối với con người, cùng quan trọng cho đức tin vào Chúa Giêsu.
Chúa Giesu hiện ra cho Ông được nhìn thấy những vết thương nơi thân thể Ngài, sự hoài nghi nơi Ông liền biến ngay. Và từ đó đã dẫn đưa Ông tới đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh qua lời tuyên tín và cũng là lời cầu nguyện thâm sâu: Lạy Chúa, lạy Chúa của con. (Ga 20,28)
Đức nguyên Thánh Cha Benedicto XVI. trong bài giáo lý về Thánh Tôma Tông đồ đã có suy tư: „ Trường hợp của Thánh Tông đồ Tôma với chúng ta có ít nhất ba điều quan trọng: Thánh Tôma mang lại niềm an ủi cho chúng ta trong những khi chúng ta gặp hoài nghi; Thánh Tôma chỉ cho chúng ta, hoài nghi có thể dẫn đưa tìm đến ánh sáng giúp vượt qua sự bấp bênh mù mịt, và như Thánh Tôma, những lời của Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta đến ý nhĩa chính thật của đức tin. Đồng thời cũng giúp chúng ta can đảm, cho dù có những khó khăn hoài nghi, tiếp tục trung thành theo Chúa.”
******************
Sách giáo huấn các Thánh tông đồ Didache viết vào thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh, cũng đề cập đến Thánh Tômas tông đồ đi truyền gíao ở bên Ấn độ và thành lập Giáo Hội ở đó.
Gíao phụ Origines viết tường thuật, Thánh tông đồ Tôma trước hết đi rao giảng Phúc âm ở Irak. Sau đó bước chân truyền giáo của Thánh nhân đi sang tới miền Nam Ấn Độ. Và vào khoảng những năm 70. của thế kỷ I. sau Chúa Giáng sinh ngài bị chết vì đức tin ở Mailapur.
Hội Thánh Công giáo bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa việc truyền giáo của Thánh tông đồ Tôma, ngày nay là một trong những Hội Thánh phát triển về nếp sống lòng đạo đức sầm uất, phát triển lớn mạnh cả về phương diện số giáo dân giữa lòng đất nước quê hương của Phật giáo và Ấn Độ giáo.
Hội Thánh Công gíao bên Ấn Độ, hoa trái kết qủa truyền giáo xây dựng đức tin của Thánh tông đồ Tôma đang có nhiều ơn kêu gọi tu trì.
Và Hội Thánh Công gíao ở đây góp phần đáng kể vào việc giáo dục, bác ái xã hội cho đời sống cho con người.
69.Lòng thương xót--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Giáo Hội dành Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh để kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các môn đệ và nói rằng: Bình an cho các con (Ga 20,19). Bình an là món qùa vô giá. Sự bình an sẽ xóa bỏ mọi nỗi lo âu, sợ hãi, áy náy, buồn phiền và chán nản. Chúa đã ban cho các tông đồ một sự bình an nội tâm. Sự bình an đích thực trong tâm hồn. Chúa Giêsu sống lại đã mở con đường cứu rỗi trong ánh sáng chan hòa. Chúa đã tiêu diệt bóng tối sự chết và sự dữ. Chúng ta không còn sợ hãi con đường cụt hay vực thẳm của cõi nhân sinh. Chúa Kitô chính là niềm hy vọng và là đường dẫn chúng ta đến sự sống thật. Chúa Giêsu đã hứa:Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (Ga 14,2).
Chúa Phục Sinh đã từng bước củng cố lại lòng tin yêu nơi các tông đồ. Ngài cảm thông sự yếu đuối, nỗi đau đớn và sợ hãi của các ông. Với lòng nhân hậu và khoan dung, Chúa không trách cứ về sự nghi ngờ và cứng lòng tin của các tông đồ. Tôma đòi hỏi được thọc ngón tay vào bàn tay Chúa, Chúa cho ông toại nguyện:Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."(Ga 20,27).Đức tin là nhân đức đối thần. Gọi là đức tin vì cần xác tín trong sự phó thác hoàn toàn. Các tông đồ đã nhìn thấy Chúa tận mắt, sờ tận tay và đối thoại trực tiếp với Chúa. Đây sự sự thật rõ ràng. Chúa Giêsu nói với Tôma rằng: Vì con đã xem thấy thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin. Các tông đồ đón nhận tin vui với niềm hân hoan vui sướng có Chúa ở cùng.
Khi hiện ra với các tông đồ, Chúa không kể lại sự thống khổ mà Chúa đã phải trải qua. Chúa hiện đến với các tông đồ và chúc bình an. Với lòng khoan dung nhân hậu, Chúa khởi lại từ đầu để qui tụ các tông đồ đang tản mác, an ủi khích lệ, củng cố niềm tin và sai các ông ra đi làm nhân chứng Chúa Kitô sống lại. Chúa không muốn khơi dậy sự yếu đuối hay hèn nhát của các ông. Chúa muốn các tông đồ hướng về phía trước và ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Lòng thương xót của Chúa vượt qua mọi biên giới tính toán hạn hẹp và ích kỷ của con người. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúa đã xóa sạch mọi vết nhơ tội lỗi, lầm lạc và yếu hèn của mọi người.
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2000, trong dịp lễ phong thánh cho Dì Maria Faustina Kowalska, Tông đồ Lòng Thương Xót (1905-1938), Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã loan báo rằng Chúa Nhật sau Lễ Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa (Divine Mercy Sunday). Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời này tới đời kia. Mỗi một lời nói, hành động và ý muốn của Chúa đều diễn tả tình yêu nhân lành và lòng xót thương. Sự tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót được mọi người đón nhận một cách rộng rãi chân thành. Chương trình cứu độ của Chúa là một giao ước của tình yêu. Đây là tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân và tình yêu vô điều kiện. Không mấy ai có thể đáp trả tình yêu thương xót của Chúa cho cân xứng. Chúa chính là nguồn tình yêu tuôn đổ trong tâm hồn con người. Mọi người được ngụp lặn trong tình yêu lòng thương xót của Chúa.
Những tâm tình và lời cầu nguyện được gồm tóm trong lời kinh: Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, Linh hồn và Thần tính của Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu Cha, Chúa chúng con.Để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới. Chuỗi hạt Lòng Thương Xót:Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới. Kết thúc:Lạy Đấng Chí Thánh, là Thiên Chúa Toàn Năng Hằng Hữu. Xin thương xót chúng con và toàn thế giới.
Có nhiều người say mê cầu nguyện và tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót mỗi ngày. Những lời kinh đọc và những sự suy gẫm mang lại phần ích lợi cho tâm hồn chúng ta. Chúng ta cảm nhận được tình Chúa yêu thương. Trái tim bị đâm thâu luôn đầy ắp yêu thương, chúng ta chẳng cộng thêm điều gì cho Chúa. Điều quan trọng là chúng ta hãy sống những tâm tình từ bi, nhân hậu như Chúa đã đối xử đại lượng với chúng ta. Học nơi lòng thương xót của Chúa, chúng ta cũng phải trải rộng lòng xót thương của ta tới những người chung quanh. Chúng ta không chỉ ngồi chiêm ngắm, ca hát, suy gẫm, cảm thông, khóc than về cuộc khổ nạn đau thương và chịu chết của Chúa nhưng chúng ta hãy sống tinh thần xót thương. Chúa Giêsu đã dậy:Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương (Mt 5,7).
Chúa Giêsu chúc phúc cho ai biết xót thương người. Xót thương là biết cảm thông những nhu cầu cần thiết cả về tâm linh lẫn thể chất của người khác. Xót thương là muốn đem yêu thương hòa giải vào những nơi tranh chấp, oán ghét và hận thù. Xót thương là cùng chia xẻ cơm áo gạo tiền cho người đói khổ cùng khốn. Xót thương là sống thứ tha và rộng lòng quảng đại. Việc tốt luôn luôn là một hạt giống tốt. Thực hành một việc tốt, dù nhỏ mọn cũng sẽ sinh nhiều bông hạt tốt lành. Lòng xót thương cứ thế mà nhân lên và sinh xôi nẩy nở. Hãy nhớ việc bác ái cần có thái độ: Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh (Mt 6,3).Điều hạnh phúc nhất là chúng ta sẽ được Chúa xót thương.
Tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót, chúng ta tuyên xưng: Lạy Chúa, chúng con tín thác nơi Chúa (Lord Jesus, I trust in you). Tin tưởng và phó thác cuộc đời trong tay Chúa, chúng ta không còn sợ bị cô đơn hay bị sai lầm lạc lối. Chỉ nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ tìm ra lẽ sống và cùng đích của cuộc đời. Con đường Chúa đã mở ra cho chúng ta rất rõ ràng minh bạch. Chúa đã khuyên dạy chúng ta về bổn phận đối với Thiên Chúa, cách đối xử với tha nhân và thái độ sống nội tâm cầu nguyện, bác ái, tha thứ, chân thật và yêu thương. Lời Chúa là tin mừng và là lời hằng sống cho mọi người trong mọi thời. Hãy chú tâm học hỏi, suy gẫm và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống, chúng ta sẽ cảm nghiệm được lòng Chúa xót thương là dường nào.
Chưa từng có ai chạy đến xin ơn Chúa, mà Chúa chối từ. Thánh Matthêô diễn tả: Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt và Người đã chữa họ (Mt 4,24). Chúa Giêsu đã chữa lành cho từng người và từng tâm hồn. Chúa động chạm đến vết thương sâu kín riêng tư của họ. Chúa quan tâm đến đời sống tâm linh và nội tâm của từng người. Chúa chữa họ qua quyền năng của ý muốn, lời nói và cử chỉ hành động. Chỉ cần họ có lòng tin vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dậy: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7,7). Chúng ta hãycầu xin Chúa với lòng chân thành và tin tưởng. Chúa sẽ xót thương.
Chúng ta cùng cầu xin cho được ơn an bình, theo lời cầu của linh mục trong phần Hiệp Lễ: Chúa đã nói với các Tông đồ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con". Xin đừng chấp tội chúng con,nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa;xin đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con và xin nhậm lời chúng con khẩn nguyện.
70.Lm. Lã Mộng Thường
Bài Phúc Âm nêu lên khá nhiều điểm cần được để ý. Điểm thứ nhất, các môn đệ đang cầu nguyện trong nhà các cửa đều được đóng kín vì sợ người Do Thái và Chúa Giêsu hiện ra giữa các ông. Điểm này bao gồm hai điểm khác đó là tại sao các môn đồ sợ người Do Thái? Chúa Giêsu sau khi sống lại có thể đi xuyên qua vách tường hay cửa của căn nhà đóng kín. Điểm thứ hai nơi Phúc Âm đó là Ngài thổi hơi và phán bảo các môn đệ hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc. Điểm thứ ba nói về điều kiện để thánh Tôma tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, nhìn thấy vết đinh nơi tay Chúa Giêsu, thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn của Ngài. Điểm thứ tư, lời Chúa Giêsu nói, phúc cho những ai đã không thấy mà tin.
Thường khi đọc một câu truyện hay xem một cuốn phim chúng ta chỉ để ý tới cốt truyện để rồi có nhận định về những vai trò trong đó thế nào. Chúng ta đưa ra nhận xét về cá tính của diễn viên hay nhân vật nơi cốt truyện để rồi đưa ra kết luận người này nên như thế này hoặc nên như thế kia. Nếu ai đọc truyện hay coi phim ảnh và kết quả chỉ có thế, quả thật quá uổng phí thời giờ, công sức, và tiền bạc để tìm niềm vui trong một hai tiếng đồng hồ nếu không muốn nói là giết thời giờ... vì không biết nên dùng thời giờ để làm gì. Dẫu chỉ một phút thì đó cũng chính là phần thời giờ nơi cuộc sống của mỗi người. Như thế, vấn đề đáng được nói đến lại là chúng ta được sinh ra để làm gì? Chẳng lẽ để chờ chết? Bởi vậy, thời giờ nơi cuộc sống hữu hình này có giá trị đặc biệt của nó. Lãng phí thời giờ tức là lãng phí cuộc đời của chính mình. Và nếu chúng ta không lãng phí thời giờ thì mục đích đọc sách, đọc truyện, xem phim ảnh để làm gì. Ai cũng có thể nhận thức được rằng cuộc đời mỗi người là cơ hội để chúng ta thăng tiến cuộc sống tâm linh, để học hỏi những kinh nghiệm bồi bổ cho nghiệm chứng tâm linh và nhận ra mục đích tối hậu của cuộc đời mình đã được ban cho...
Tuy nhiên, đã nhiều lần tôi nghe thấy người ta dùng thánh Tôma làm đề tài, chẳng những bào chữa cho thói ỷ lại, không chịu suy tư, nghiệm chứng mà cốt chỉ để an tâm lãng phí cuộc đời. Tôi thử hỏi, đã bao nhiêu lần chúng ta lặp đi lặp lại câu, "Con cháu ông thánh Tôma." Nếu tôi không lầm, chúng ta thường dùng câu này với ý nghĩ, đến ngay cả thánh Tôma, môn đệ của Chúa mà còn không tin thì mình đâu cần biết gì... cứ vờ đi, bảo sao nghe vậy, các cha giảng sao thì giảng nào khác gì mười voi không được bát nước xáo, mình tin Chúa, đi nhà thờ, nhà thánh cho khỏi tội là đủ... Thực tâm tôi nghĩ, chúng ta đã được dạy dỗ như vậy... Không đi nhà thờ thì không bỏ tiền nhà thờ, không bỏ tiền nhà thờ thì ông cha chết đói nên luật giữ ngày chủ nhật phải được nhấn mạnh... Quả là dùng Chúa để cổ võ cho tổ chức thế tục quá ư thông minh, tuyệt vời.
Tôi đặt vấn đề, tại sao Phúc Âm lại viết truyện thánh Tôma có tính cách nghi ngờ rõ ràng như vậy. Phỏng bằng ấy người, thánh Tôma không tin được một ai sao. Điều rõ ràng Phúc Âm đã nói đó là các tông đồ chẳng hiểu biết gì về những điều Chúa Giêsu rao giảng. Thế nên, tôi đề nghị, hãy đặt mình vào vị thế thánh Tôma, chúng ta sẽ nhận được nhiều sự lạ rất bình thường nhưng chưa bao giờ để ý. Chúng ta nói rằng có đức tin, chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu, điều này có nghĩa là gì? Tại sao Chúa Giêsu nói, "Kẻ nào tin vào ta thì các việc Ta làm, kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Chúng ta nói tin vào Chúa Giêsu, phỏng chúng ta làm được gì như Ngài và hơn Ngài... hoặc thoạt mới nghe ai nói tới có quyền như Chúa Giêsu đã vội kêu tên cực trọng "Giêsu Maria Giuse phạm thượng." Chúng ta được dạy, chúng ta nghĩ, chúng ta lặp lại rằng tin vào Chúa, tin vào Chúa Giêsu như con vẹt, như chiếc máy thâu băng không biết mình nói gì, không cần biết Phúc Âm nói gì để rồi cho rằng bất cứ ai không nói giống chúng ta thì đều là sai. Nói cho đúng, những ai dám nói theo Phúc Âm, chúng ta đều cho là sai... Chúng ta không cần biết Phúc Âm nói gì, chúng ta chỉ muốn lặp lại những điều đã được dạy dỗ sai lầm, đối nghịch với Phúc Âm. Thí dụ, chúng ta hay nói câu, Chúa phạt hoặc Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Lời nói này, ý nghĩ này quả là chống nghịch lại Phúc Âm mà không ai thèm để ý. Nơi Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên chúng ta, "Hãy biết thương xót như Cha các con trên trời là Đấng hay thương xót... Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác" (Mt. 5;45); thế mà chúng ta nói Chúa phạt! Bao nhiêu đấng khôn ngoan cũng đã giảng Chúa phạt! Quả thực là quái lạ!
Tôi muốn nói, chúng ta nên học gương thánh Tôma; chúng ta cần thực chứng những gì được gọi là tin. Đưa trái ớt cho người không ăn được ớt hay đưa cho đứa nhỏ và bảo ăn ớt với bún bò huế ngon lắm thì coi chừng bị ăn đòn chứ đừng nói là ăn ngon. Thực tế, chúng ta không cho rằng ớt ngon nếu chưa bao giờ ăn ớt, và chỉ những người đã ăn ớt và thích ăn ớt mới thực sự nghiệm chứng được ớt ngon ngọt như thế nào. Ngược lại, chúng ta nói rằng tin vào Chúa, tin vào Chúa Giêsu mà lời Ngài nói nơi Phúc Âm chẳng thể nào áp dụng nơi cuộc đời chúng ta thì nghĩa là lý gì? Phúc Âm viết, "Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:22). Thử tự hỏi, đã bao giờ chúng ta lấy lòng tin để cầu nguyện và chúng ta đã được chưa? Vậy tin là thế nào? Nếu chúng ta cầu nguyện mà không được, chúng ta nên chân thành ít nhất là với chính mình mà nhận thực rằng chúng ta đã cầu mà không được, chúng ta đã chẳng biết tin là thế nào. Nơi Phúc Âm thánh Marcô có chép lời tuyên bố của Chúa Giêsu, "Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24). Vậy câu này có nghĩa gì và làm thế nào để chúng ta có thể thực hiện được. Thế nên, tôi thực lòng đề nghị với quý ông bà anh chị em, hãy thực chứng, hãy nghiệm chứng những lời Chúa Giêsu dạy trong Phúc Âm, chẳng nên nghe theo bất cứ ai, chẳng nên vội cho những lời tôi nói là đúng hay sai mà cần suy nghĩ, suy tư cho tới cùng, suy nghĩ cho tới khi nào áp dụng lời Phúc Âm trong cuộc đời của mình mới được gọi là tin vào Chúa, tin vào Chúa Giêsu.
Khi chúng ta đã thực chứng được những lời dạy của Chúa Giêsu nơi Phúc Âm, chúng ta sẽ cảm nhận được tại sao các môn đồ sợ người Do Thái. Chúng ta sẽ biết rõ ràng Chúa Giêsu hiện ra giữa nhà đóng cửa kín mít thế nào. Chúng ta sẽ thực chứng được ai có quyền cầm buộc, và ai có quyền tha... Và chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tại sao Phúc Âm nói phúc cho những ai đã không trông thấy mà tin.
Tóm lại, chúng ta nên học gương thánh Tôma mà thực chứng những lời Phúc Âm. Lời Chúa chẳng khác gì nước uống; ai uống sẽ hết khát; ai không uống dù có hiểu nước uống hết khát thì vẫn còn khát. Xin quý vị nhớ cho một điều; đó là khi khát, chúng ta cần uống nước. Nghe giảng giải về lợi ích của nước chẳng được ơn ích gì nếu chúng ta không uống. Lời Phúc Âm cũng thế, không ai có thể giải thích mà chính mỗi người cần tự thực chứng để áp dụng trong đời sống của mình.
71.Phúc cho những kẻ không thấy mà tin--Lm. Trần Thanh Minh
Sau khi Đức Chúa Giêsu Phục sinh, trước hết Người đã hiện ra bên mồ trống với thánh nữ Maria Mađalêna, và Người truyền cho bà đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ, nên bà được truyền thống gán cho danh hiệu là "tông đồ của các tông đồ". Sau đó, Chúa đồng loạt hiện ra với 2 môn đệ trên đường Emmaus và với 10 tông đồ nhưng vắng mặt Tôma. Các ngài đã tường thuật lại cho thánh Tôma, nhưng ngài vốn là con người có óc thực tế, không muốn tin những gì mà giác quan chưa kiểm chứng. Tám ngày sau, Đức Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ, lần này có cả thánh Tôma. Chúa bảo ông hãy dùng giác quan để kiểm chứng kẻo hoài nghi. Thế nhưng, khi đối diện với Chúa, Tôma như hồn xua phách lạc chỉ biết hốt hoảng thốt lên một câu tuyên xưng đức tin đầy ý nghĩa: "Lạy Chúa con và Lạy Thiên Chúa của con" Đức Chúa Giêsu liền phán với Tôma: "Vì con thấy Thầy nên con mới tin, phúc cho những kẻ không thấy mà tin hết lòng!"
Lời chúc phúc nầy, Đức Chúa Giêsu nhắm đến hàng hàng lớp lớp các thế hệ tín hữu hậu lai trong đó có chúng ta là những kẻ không thấy Chúa nhưng tin nhận Người qua lời rao giảng của Hội thánh. Đức tin là nền tảng của đời sống công giáo, là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho và là một trong 3 nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến; Thánh Phaolô nói: "Mai sau trên thiên đàng chỉ tồn tại đức Mến, vì khi đã thấy Chúa và đạt được mục đích thì đức tin và đức cậy không còn nữa!".
Chúng ta hãy nuôi dưỡng đức tin bằng đời sống cầu nguyện liên lỉ, siêng năng lãnh nhận các bí tích và chớ dùng lý trí để lý luận nhưng hãy dùng con tim để chấp nhận.
Đức tin rất quan trọng, vì khi làm phép lạ chữa bệnh cho ai Đức Chúa Giêsu đều nói: "Đức tin của con đã chữa con", và Người cũng từng phán: "Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi thì chúng con có thể chuyển núi dời non... và chúng con còn có thể làm những việc vĩ đại hơn thầy nữa"
Những kẻ ly giáo, lạc giáo đều là những kẻ đã đánh mất đức tin quý báu. Những việc thờ phượng, đạo đức chúng ta làm nếu không có đức tin chỉ là trò hề hoặc mê tín dị đoan mà thôi.
Trong phúc âm Đức Chúa Giêsu có phán một câu đáng chúng ta run sợ và tự kiểm điểm mình luôn: "Không biết ngày Con Người trở lại trần gian có còn tìm thấy đức tin nữa không?".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn đức tin cho những người lương giáo và xin tăng thêm đức tin cho những tín hữu chúng con, chớ gì tất cả chúng con được liệt vào số những kẻ đáng hưởng lời chúc phúc của Chúa ngày xưa: "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Amen.
72.Kính Chúa Tình Thương--Lm. Minh Vận, CRM
Chúa Nhật thứ hai sau Lễ Phục Sinh được mệnh danh là Lễ Kính Chúa Tình Thương, vì theo nguồn mạc khải cho Thánh Nữ Faustina, thì Chúa đã hiện ra với Chị Thánh, bày tỏ lòng Chúa khát khao được lập Lễ Kính Tình Thương Chúa vào Chúa Nhật thứ hai trong Mùa Phục Sinh. Tuy lễ này chưa được Giáo Hội chính thức thành lập, nhưng có nhiều Hội Dòng và cộng đồng đã đáp lại lòng Chúa khát mong, dùng ngày Chúa Nhật này để dâng Thánh Lễ biệt kính Tình Thương Chúa.
I. THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU THƯƠNG
Thánh Sử Gioan, một vị Tông Đồ được Chúa yêu thương, ngài đã được Chúa cho cảm nghiệm và xác tín Tình Yêu Thương của Chúa, nên Ngài đã quả quyết rất đúng khi nói với chúng ta rằng: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1 Jn 4:16). Vì thế, Thánh Nhân đã khuyên chúng ta: "Hỡi các con yêu dấu, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta như vậy, thì chúng ta cũng phải thương yêu lẫn nhau. Chẳng ai đã được xem thấy Thiên Chúa, nhưng nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở cùng chúng ta và tình yêu thương của Người được nên hoàn hảo nơi chúng ta" (1 Jn 4:11-12).
Tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế, từ khi nhập thể làm người trong lòng Mẹ, sinh ra trên trần gian và sống một cuộc sống như mọi người chúng ta, để cùng chia sẻ thân phận con người, cảm thông mọi yếu đuối, đồng chung lao lực vất vả của kiếp sống nhân sinh như chúng ta. Rồi trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa đã chỉ biết thi thố tình yêu thương, ban ơn giáng phúc cho nhân loại với bao nhiêu phép lạ, để cứu chữa vô số bệnh nhân, an ủi những người sầu khổ, xoa dịu vết thương đau của muôn người; nhất là Chúa đã dùng lời giảng dạy để mạc khải giáo lý Tình Thương của Chúa, chỉ cho chúng ta con đường đưa tới Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu. Hơn nữa, Chúa còn bày tỏ tình Chúa yêu thương chúng ta bằng cách tự nguyện lãnh nhận cuộc khổ nạn và cái chết đẫm máu vì yêu chúng ta.
II. NHỮNG DỤ NGÔN TỎ BÀY TÌNH THƯƠNG
Trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa đã dùng nhiều dụ ngôn để minh xác cho những kẻ kiêu căng luôn rình mò, bắt bẻ, hạch xách Chúa thấy rõ lập trường của Người; đồng thời, bày tỏ cho nhân loại biết tin tưởng vào tình thương yêu của Chúa dành cho họ: Khi thì Chúa nói tới dụ ngôn con chiên lạc, với thái độ yêu thương săn sóc và vui mừng tìm được, âu yếm vác lên vai đem về nhà. Lúc khác, Chúa lại nói tới niềm vui của người thiếu phụ tìm lại được đồng bạc kỷ niệm qúi giá đã bị mất. Lần khác nữa, Chúa lại đề cập đến dụ ngôn người con hoang đàng, sau khi phung phá hết gia tài, ăn chơi trụy lạc, hồi tỉnh trở về, đã được Cha Hiền thương yêu tha thứ, mở tiệc ăn mừng... Tất cả đều tỏ cho chúng ta thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta. Dù chúng ta có tội lỗi, ngỗ nghịch, vô ơn bội nghĩa đến đâu, Chúa cũng vốn sẵn lòng yêu thương tha thứ, nếu chúng ta biết sám hối trở về Chúa.
Ai trong chúng ta dám tự hào chúng ta là những người trong sạch thánh thiện; mà trái lại, tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình là tội nhân, đã bao lần sa ngã, yếu đuối; đã bao lần bội phản, vô ơn bất nghĩa với Chúa, nhưng Chúa vốn luôn yêu thương tha thứ. Chúng ta cần xác tín rằng: Chúng ta càng khốn nạn tội lỗi, Chúa càng có cơ hội để thi thố tình thương yêu tha thứ. Mục đích Chúa xuống trần gian cũng là để cứu chuộc chúng ta, để bày tỏ lòng nhân từ thương yêu chúng ta. Chính Chúa đã quả quyết: "Cha không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để cứu vớt những tội nhân hối cải trở về" (Mt 9:13). Chúa còn phán với những người Pharisieu là những kẻ kiêu căng luôn chống đối Chúa lời này: "Các ông hãy đi học cho biết ý nghĩa lời này: Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ" (Mt 9:13).
III. NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU THƯƠNG
Sau khi cứu chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền thống trị hỏa ngục, phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Chúa, qua ơn chúng ta được khi lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy, nhờ công nghiệp Cuộc Tử Nạn và sự chết đẫm máu của Chúa trên Thập Giá.
Chúa quá biết bản tính nhân loại chúng ta yếu đuối hay sa đi ngã lại, không thể đứng vững mãi trong tình trạng ơn thánh, có nghĩa với Chúa, nên Tình Thương Chúa đã sáng nghĩ ra một phương thế thần diệu, đó là Nhiệm Tích Xá Giải. Mỗi khi chúng ta sa ngã phạm tội phản nghịch Chúa, nếu chúng ta biết hối lỗi ăn năn, trở về làm hòa với Chúa, Chúa sẵn sàng tha thứ và quên đi tất cả mọi lỗi lầm, dường như chúng ta chưa bao giờ xúc phạm đến Chúa. Mỗi khi chúng ta phạm tội trọng là chúng ta đã chết phần linh hồn, trở nên kẻ nô lệ tội lỗi và chịu quyền thống trị của quỉ dữ hỏa ngục, thì nhờ Nhiệm Tích Xá Giải linh hồn chúng ta được phục sinh trong ơn thánh Chúa, chúng ta lại được phục hồi ơn làm con cái Chúa.
Nhiệm Tích Xá Giải là Nhiệm Tích Tình Thương của Chúa. Chúa chờ đợi chúng ta nơi đây, đón tiếp chúng ta trở lại giao hòa với Chúa, để được hưởng tình yêu thương lòng nhân từ của Chúa. Nơi Tòa Xá Giải, Chúa ẩn thân nơi vị đại diện Ngài, để:
Như Người Cha Nhân Từ, hằng khát khao chờ đợi, sẵn lòng thương yêu tha thứ, đón nhận con cái hối lỗi trở về.
Như Vị Thần Y, chữa lành mọi bệnh tật linh hồn, chỉ dẫn phương thế ngăn ngừa tội lỗi, tăng cường sinh lực, củng cố bình an tâm hồn, để con cái biết sống ngoan thảo hơn.
Như Vị Thẩm Phán, phân định tội phúc, tha thứ hay cầm buộc, nhưng không theo đức công bằng mà là theo lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
Vậy, như lời đáp ca chúng ta vừa lặp đi lặp lại: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở!" Chúng ta hãy cảm tạ tình yêu thương hải hà của Chúa đã dành cho chúng ta, để chúng ta biết sống xứng đáng ơn Chúa ban.
IV. CHIA SẺ LÒNG NHÂN TỪ CỦA CHÚA
Đứng trước một tin buồn: Jacques, cậu con trai yêu qúi vừa tử trận, nữ Bá Tước Littry vô cùng đau đớn và cảm thấy mất hết nghị lực, buồn nản đến tuyệt vọng; tuy nhiên chấn tĩnh lại, bà vẫn cố gắng tận tâm trong công việc phục vụ các bệnh nhân tại bệnh viện do chính bà sáng lập từ năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Epermy.
Ngày nọ, một thương binh người Đức được chở đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch, đã giết chết con trai của Bá Tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận cách vui vẻ. Khi đến xem xét đồ đạc y phục người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng vừa tức giận, bà Bá Tước chỉ biết thốt lên: "Đúng, đây là tên lính đã giết chết con trai tôi!" Nhưng rồi, một mảnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống. Bà Littry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đã làm rung động trái tim bà: "Mẹ yêu qúi, con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con bị tử trận, xin mẹ đừng quá đau buồn, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đựng đau khổ để cầu nguyện cho con..."
Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc tên lính Đức cách tận tình. Trên mặt y những giọt nước mắt của bà Bá Tước rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như những hạt sương mai!
Kết Luận
Để đáp lại tình yêu thương của Chúa, chúng ta hãy mặc lấy, hãy thấm nhuần, hãy biến đổi con người chúng ta trở nên Hiện Thân của lòng nhân từ, yêu thương và tha thứ của Chúa đối với tha nhân... Trước hết, nơi anh em cùng lý tưởng trong Hội Dòng, các phần tử thân yêu trong gia đình, các người thuộc quyền chúng ta đang phục vụ, và mọi người chúng ta giao tiếp, để tất cả đều có thể nhận ra chúng ta đích thực là Hiện Thân Lòng Nhân Từ của Chúa Kitô, Đấng đã chết vì yêu thương chúng ta.
Xin Mẹ Maria, Mẹ đã đồng công với Chúa Kitô thể hiện tình yêu thương tha thứ đối với toàn thể nhân loại, xin Mẹ dạy chúng biết noi gương Mẹ, cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ Chúa đã thực hiện.
73.Bình an cho các con--Lm Thu Băng, CRM
Năm 1899, hai nước Chile và Argentina đã đưa đến oán thù xuýt đưa đến cuộc chiến tranh ác liệt. Sự chuẩn bị kéo dài cho tới năm 1900, hai bên đã sẵn sàng giao tranh với nhau.
Trong Tuần thánh năm ấy, Đức Giám Mục Buenos Aires của Argentina tha thiết kêu gọi đôi thôi chiến tranh để tái lập nền hòa bình giữa hai nước. Sứ điệp của ngài lập tức được truyền sang nước Chile và các Đức Giám Mục của nước Chile cũng đồng tình hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi hòa bình. Thế rồi hai Giáo Hội của hai nước đã áp lực để hai chính phủ ngồi lại với nhau qua trung gian của vua Edward thứ 7 của Anh quốc.
Không mấy chốc, một hoà ước đã được ký kết. Để nói lên thiện chí xây dựng hòa bình, quân đội của hai nước đã gom góp chung một số vũ khí để đúc thành một bức tượng khổng lồ Chúa Giêsu hòa bình cao 48 thước. Với cánh tay phải mở rộng ban phép lành cho hai nước, còn tay trái cầm thánh giá phục sinh. Tượng được xe lửa chuyên chở đến chân núi để chính phủ hai nước trục lên đặt trên đỉnh núi Andres, nơi đã gây ra cuộc xung đột giữa hai quốc gia. Dưới chân tượng đề hàng chữ: Bình an cho các con, để chính Chúa chứng giám cho nền hòa bình miên viễn của họ. Trên mặt khác của tượng, ghi lời Thu của thành Ephêsô như sau:Chính Ngài là sự bình an của chúng ta. Ngài đã làm cho sự chia rẽ của đôi bên nên một.
Người trần gian mỗi khi đem được hòa bình trở lại thì người ta ca tụng và trao thưởng cho một giải thưởng Hoà Bình, như năm 1990, Tổng Thổng Gorbachow của Liên Sô được thế giới tự do ban tặng Giải thưởng Hòa Bình trong việc đạp đổ được bức tường Bá Linh. Mẹ Têrêsa cũng được Thế Giới tự do trao tặng giải thưởng Hòa bình, vì Mẹ đã có công trong việc xóa bỏ nạn đói trên thế giới, đã khiến những nước giầu có để ý đến người nghèo. Đức Giám Mục Buenos Aires của Argentina cũng đáng được lãnh giải thưởng Hòa Bình giữa hai nước hiềm khích. Và cả những người khác nữa đã đem vãn hồi được sự hòa bình trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ thực sự có hòa bình khi những bức tường xấu xa, tội lỗi, căm thù...... được ngăn chặn lại.
Chúa Giêsu sau khi đã chiến thắng thần chết, Ngài không con bị kiềm chế trong xác thịt nữa, ngài đã hiện đến với nhiều người để loan báo sự vinh thắng và ban bình an cho nhiều người, để những ai đi theo đường chân lý và lời mời gọi của Ngài thì sẽ được bình an, được chiến thắng.
Phúc cho ai có thiện chí gây tạo hòa bình.
74.Lòng Chúa Thương Xót--Huệ Minh
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa"
Đức Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng, nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông. Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để chúng ta tin.
Đức Kitô phục sinh đã đem đến cho các tông đồ niềm vui, ơn tha thứ của Chúa Thánh Thần… Người Kitô hữu phải làm tỏa sáng niềm vui, an bình bằng đời sống Chứng Nhân Tin Mừng Phục Sinh trong gia đình và xã hội bằng những việc đạo đức, cuộc sống lương thiện và công bằng. Chỉ có niềm tin gắn bó với Đức Kitô phục sinh mới có thể vượt qua mọi khó khăn, cản trở để gặp Chúa và anh em trong tương quan hài hòa và thân mật.
Và rồi trong những lần hiện ra cái gì đã giúp cho những người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xảy ra theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Sự bình an mà Đức Giêsu trao tặng, chính là một ơn cao trọng, biểu lộ tình yêu và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, để nở hoa tình yêu và kết trái tha thứ. Thế nên, bản chất của nó khác xa một lời chào hay một nghĩa cử xã giao. Điều này chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14, 27).
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông một lần nữa, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong trường hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói tiếp: "Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (c. 21). Chỉ là một chuyển động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất quan trọng: tất cả những gì các môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng làm theo lệnh Đức Kitô.
Khi bình an của Đức Giêsu được trao ban và những ai được đón nhận, thì sự bình an ấy sẽ sinh hoa trái và làm cho người đón nhận được biến đổi. Điều này ta thấy diễn biến của tâm trạng Tôma, từ một người cứng lòng tin, đến nỗi ông thách thức luôn cả Đấng Phục Sinh!!!
Tuy nhiên, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi yếu đuối của ông, bởi vì qua biến cố Ngài chịu khổ nạn, tinh thần của Tôma đang hoảng loạn và hoài nghi mọi chuyện, nên Đức Giêsu một lần nữa đem lòng quý mến ông, thương xót ông, nên đã hiện ra và đáp ứng nhu cầu hiếu tri của người môn đệ cứng tin. Tôma đứng trước Đấng đầy lòng thương xót và được nghe thấy Thầy của mình không trách móc, nhưng lại yêu thương và mời gọi ông, cho ông được đặc ân sỏ ngón tay và lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn... Đến lúc này, Tôma đã đụng chạm được vào tận căn của lòng thương xót nơi Thầy mình, vì thế, ông đã thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, "hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước". Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến Bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (Ga 3, 5; 4, 14).
Lễ "Lòng Thương xót Chúa" mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!" Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa" (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
75.Suy niệm các ngày trong tuần 2 PS--Jos. Vinc. Ngọc Biển
THỨ HAI - Đức tin sẽ giúp ta nhận ra phép lạ
(Ga 3,1-8)
Ngày nay, chúng ta vẫn thường nghe, hay chứng kiến đây đó những phép lạ nhờ sự can thiệp của đấng này hay đấng nọ... Tuy nhiên, phép lạ có cần thiết cho đức tin của chúng ta hay không? Có phải do phép lạ mà chúng ta mới có đức tin hay nhờ đức tin mà chúng ta nhận ra phép lạ? Đây là điều chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài Tin Mừng hôm nay.
Thánh sử Gioan trình thuật câu chuyện giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô. Sau khi Nicôđêmô chân nhận uy quyền của Đức Giêsu và tuyên xưng Ngài là Đấng bởi Thiên Chúa, ngay lập tức, Đức Giêsu đã dẫn ông từ những cảm nghiệm bên ngoài qua các dấu lạ đến việc đưa ông vào trọng tâm, nội dung và hệ quả của niềm tin.
Vì thế, điều cần đối với Nicôđêmô ở đây không phải là dừng lại ở những dấu lạ hay đưa ra một vài lời nhận định về Đức Giêsu, bởi những thứ đó chẳng đi đến đâu nếu không dẫn ông đến mầu nhiệm Nước Trời qua việc tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Tái sinh để trở về với một cuộc sống mới, lối suy nghĩ và hành xử mới. Nhất là cần có một tâm hồn thánh thiện, đơ sơ của trẻ thơ.
Tại sao Đức Giêsu lại đòi hỏi Nicôđêmô một điều kiện lớn lao như vậy? Thưa, bởi vì ông vốn là một Pharisêu, vì thế, cần phải đi đến hành động cách chân thực, chứ không chỉ có niềm tin khơi khơi trên giấy tờ, sách vở như các đồng môn của ông!
Như vậy, điều cần đối với Nicôđêmô lúc này là: nhạy bén để nhận ra Chúa và thi hành những điều Ngài truyền dạy chứ không phải chỉ là người đứng bên ngoài để nhận định về những phép lạ cũng như những lời dạy của Ngài. Đồng thời, cần khám phá ra ý nghĩa sâu xa nơi các phép lạ và thay đổi đời sống, chứ không dừng lại ở những chuyện phi thường trước mắt.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cốt lõi về Bí tích Thánh Tẩy. Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên tạo vật mới nhờ mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Ngài. Đây là điều hãnh diện cho mỗi chúng ta. Tuy nhiên, điều làm nên hạnh phúc lại không phụ thuộc hoàn toàn dựa trên dấu chỉ bề ngoài cho bằng một cuộc sống đạo thực sự được thúc đẩy từ bên trong nơi lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con ơn can đảm để dám sống theo tinh thần của Chúa, và xin cho chúng con được ơn biến đổi từng ngày để xứng đáng là con Chúa và trở nên anh chị em với nhau. Amen.
THỨ BA - Tin để hiểu
(Ga 3, 7b-15)
Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua, vì thế, vẫn trong bối cảnh giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô xoay quanh câu chuyện tái sinh và sự sống đời đời.
Thật vậy, vấn đề sự sống đời đời là một chủ đề lớn và vấn nạn ấy khiến cho con người ở mọi thời không ngừng suy tư!
Thấy được Nicôđêmô là một người chân chính, lòng dạ ngay thẳng, không có gì gian dối, nên khi ông chân thành đến với Đức Giêsu và tin tưởng Ngài là vị thầy tâm linh sẽ giúp ông đạt được điều mà ông hằng thao thức! Đức Giêsu đã không ngần ngại để mặc khải cho ông biết phải làm gì và phải làm như thế nào để đạt được sự sống ấy. Ngài nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời”. Nói như thế, Đức Giêsu đã mặc khải thiên tính của Ngài cách cụ thể, để như một con đường và mời gọi Nicôđêmô đi trên con đường ấy thì được cứu độ.
Tiếp theo, Đức Giêsu muốn củng đức tin thêm cho ông, nên Ngài khẳng định: “Thật, tôi bảo thật ông: ‘Chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy”.
Con đường cụ thể mà Đức Giêsu đề ra cho Nicôđêmô là con đường sinh lại từ ơn trên, nghĩa là cần được tái sinh, đổi mới nhờ Thần Khí. Ai đi trên con đường ấy là đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mà đường lối của Chúa Thánh Thần chính là đường lối từ trên cao, con đường Gongotha, con đường thập giá, con đường cứu độ bằng cái chết...
Qua cách thức của Đức Giêsu, Ngài đã dẫn Nicôđêmô từ chuyện cố hiểu để tin, sang tình trang tin để hiểu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để Lời Chúa được thấm vào trong tâm hồn của mình. Bởi vì nếu không khiêm tốn, thì hồng ân đức tin không thể đến với những người kiêu ngạo.
Sự sống đời đời được trao ban là do phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không phải do kiến thức mà ta có được. Vì thế, cần phải sám hối để đón nhận mạc khải của Chúa và trung thành đi theo đường lối ấy thì mới mong được cứu độ.
Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người, đó là: hiểu biết điều nào phải tin; hiểu biết điều nào phải ước ao; và hiểu biết điều nào phải thực hiện. (Thánh Thomas Aquinas)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho mỗi người chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và sẵn sàng đi trên đường lối cứu chuộc mà Chúa mạc khải cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi hằng ngày để được trở nên con người thánh thiện nhờ được ơn Chúa thanh tẩy. Amen.
THỨ TƯ - Thiên Chúa là tình yêu
(Ga 3, 16 – 21)
Khi yêu nhau, người ta có thể làm mọi việc vì nhau và cho nhau. Họ sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu của người mà họ thương để mong sao người yêu được hài lòng. Như vậy, yêu là chấp nhận tất cả vì người mình yêu.
Thiên Chúa cũng vậy, Người yêu thương con người bằng một tình yêu trọn vẹn. Vì thế, Người chấp nhận tất cả để cho con người được hạnh phúc.
Điều này đã được Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta biết khi nói:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Đây là một mạc khải quan trọng, cốt lõi, vì nó tóm gọn nội dung của Tin Mừng.
Mạc khải này vượt lên trên những suy tư triết học hay lý luận của con người, bởi vì chỉ nhờ mạc khải của Đức Giêsu, Ngài là Con Một Thiên Chúa, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và là hiện thân của tình yêu mới giúp cho chúng ta hiểu thấu được.
Thật vậy, thế gian là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, vì thế, Người không chỉ yêu thương có một lần trong quá khứ, nhưng Ngài vẫn còn yêu thương luôn mãi, Qua cuộc đời nhập thể làm người của Đức Giêsu, nhất là nơi cái chết và sự phục sinh của Ngài, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với con người cách trọn vẹn. Nhưng không chỉ có thế, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện với con người trong suốt dòng lịch sử, nhất là qua các Bí tích, để làm bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ước gì chúng ta luôn cảm nhận và tin tưởng vào tình thương của Chúa, và sẵn sàng đi trên cùng một con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã đi.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con mặc lấy tâm tình của Chúa, để chúng con sống và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa ngay trong cuộc sống của chúng con hằng ngày. Amen.
THỨ NĂM - Giữ lấy bản sắc của mình
(Ga 3, 31-36)
Ngày nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta gần như có mặt hầu hết nơi các quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!
Trong các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì!
Tại sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách quân bình khi người ta còn giữ được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Nếu không, họ là một người thiếu trưởng thành!
Là người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Nói cách khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Vì thế, bổn phận của chúng ta phải làm sao cho Đức Kitô được hiện tại hóa trong lời nói, hành động và cử chỉ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải khước từ những gì không phù hợp với bản chất của mình.
Hôm nay, vẫn trong trình thuật giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, nhưng câu chuyện ngày càng đi sâu vào cốt lõi của vấn đề, đó là, Đức Giêsu cho Nicôđêmô biết được bản chất của Ngài và những công việc Ngài làm do được lãnh nhận từ Chúa Cha, Ngài nói: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3, 34 - 35).
Với câu chuyện trên, qua Nicôđêmô, Đức Giêsu mở rộng ra cho mọi người thấy được tầm quan trọng và giá trị cho những ai được hạnh phúc thuộc về Đức Giêsu, đồng thời cũng mạc khải cho biết hậu quả của những kẻ không tin: “Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời dời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3, 36.
Xin Chúa ban cho chúng ta biết luôn luôn ý thức mình thuộc về Đức Kitô và phải có trách nhiệm làm cho Đức Kitô lớn lên và rạng ngời ngang qua cuộc sống của chúng ta. Amen.
THỨ SÁU - Phép lạ do tình thơng
(Ga 6,1-15)
Trong bài hát “để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”.
Thật vậy, trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc con người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện “nơi ăn không hết, chỗ lần không ra”.
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi từ lòng thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’" (Ga 6, 5).
Tiếp theo là tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”, và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của em để kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).
Ai nấy đều được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chia cơm sẻ bánh cho nhau, tức là sống với nhau trong tinh thần liên đới, trách nhiệm. Đạo Công Giáo không bao giờ chấp nhận chuyện mạnh ai nấy sống. Sống như thế là ích kỷ, là chỉ biết đến cái bụng mà không hề làm cho trái tim lớn lên trong tình yêu.
Bên cạnh đó, chúng ta còn học được bài học tin tưởng, phó thác nơi Chúa, vì có Chúa là có tất cả, không chỉ vậy, mà còn dồi dào. Hình ảnh các môn đệ “thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” có ý muốn nói và củng cố cho chúng ta về lòng tín thác nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống quảng đại, biết nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến bản thân mình. Biết sống tình bác ái huynh đệ để trở thành môn đệ của Chúa đích thực. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con luôn vững tin vào quyền năng Chúa. Amen.
THỨ BẨY - “Thầy đây đừng sơ ý”
(Ga 6, 16-21)
Ai đã từng chứng kiến cảnh biển động hay nhất là khi nó dậy sóng mà vẫn ở ngoài khơi, thì mới thấy sự sợ hãi là dường nào!
Thật vậy, nếu chẳng may đi biển mà gặp phải bão tố, cảnh biển gầm sóng thét, con người mới thấy giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau bằng gang tấc!
Những lúc như thế, ta thấy mình quá nhỏ bé và mong manh trước sự hùng vĩ của thiên nhiên... mạng sống của con người lúc này được ví như: “Ngàn cân treo sợi tóc”; hay “chỉ mành treo chuông”.
Tin Mừng hôm nay cũng trình thuật việc các Tông đồ gặp phải hiểm nguy khi đang lênh đênh trên biển.
Cuộc đi biển của các ông lần này không có Đức Giêsu hiện diện, bởi lẽ Ngài đã đi trước một mình vì dân chúng đang muốn tôn Ngài lên làm vua theo ý của họ.
Đang đi theo lộ trình và khi trời đã tối, họ bị trận cuồng phong bất ngờ ập tới. Tuy các ông là những người có nhiều kinh nghiệm về biển cả, họ là những tay nghề lão luyện trong giới thủy trình. Ấy vậy, khi sóng gió nổi lên, họ cũng trở thành bé nhỏ và yếu ớt trước sức mạnh của cuồng phong. Sự sợ hãi đó được cộng thêm với hình bóng của Đức Giêsu đi trước mặt thuyền mà họ không biết... Vì thế, trong đầu các ông đang hốt hoảng, hoang mang, và ai nấy đều run sợ, thì Đức Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Thầy đây đừng sợ”.
Đọc lại bài Tin Mừng này trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: cuộc đời lữ thứ trần gian của mỗi người như một hành trình của các thuyền nhân đi biển. Sống lênh đênh trên biển, mới thấy mình nhỏ nhoi. Đối diện với bão táp phong ba mới thấy mình bất lực, và được Chúa yêu thương, hiện diện thì ngay lập tức được bình an.
Xét về góc độ luân lý, cho phép chúng ta liên đới với đời sống đức tin của mình để nhận ra rằng: có những lúc trong cuộc đời, chúng ta gặp không ít khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, nhất là do tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo gây nên. Những khó khăn đó được khởi đi từ lòng mến lạnh nhạt của chúng ta với Chúa, làm cho đức tin bị hao mòn, lòng trông cậy bị lung lay. Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho mình được bình an nhờ nhận ra có Chúa hiện diện trong cuộc đời mình.
“Thầy đây, đừng sợ” chính là điều mà chúng ta phải xác tín trong cuộc sống hiện tại của mình.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của Giáo Hội luôn gặp phải những sóng gió do ma quỷ gây nên. Con thuyền cuộc đời của chúng con cũng vậy. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tín thác vào Chúa để lời Chúa nói với các Tông đồ khi xưa: “Thầy đây đừng sợ” cũng là niềm an ủi cho chúng con hôm nay. Amen.
- Viết bởi Mc 6, 45-52
Chúa Giêsu đi trên mặt biển.
Thứ Tư sau lễ Hiển Linh.
"Họ thấy Người đi trên mặt biển".
LỜI CHÚA: Mc 6, 45-52
(Khi năm ngàn người đã được ăn no), Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng.
Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện.
Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất.
Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: "Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ". Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối.
- Viết bởi Mc 6, 34-44
Phép lạ Bánh hóa nhiều.
Thứ Ba sau lễ Hiển Linh.
"Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri".
LỜI CHÚA: Mc 6, 34-44
Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều.
Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: "Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn".
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi". Họ thưa Người: "Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn".
Người nói với họ: "Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem". Khi biết được rồi, họ thưa: "Có năm cái bánh và hai con cá".
Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no.
Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai nấy được no nê
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trên thế giới hiện nay có gần một tỷ người đói ăn,
Và nhiều nơi ở châu Phi vẫn có bao trẻ thơ chết đói.
Có người coi tôn giáo là duy tâm, sống lơ lửng với những ý tưởng đẹp,
và loay hoay với chuyện cứu rỗi linh hồn.
Nhưng Thiên Chúa ta gặp trong Kinh Thánh
lại là một Thiên Chúa để ý đến cái đói của thân xác con người.
Thiên Chúa ấy đã cung ứng manna, thịt chim cút và nước uống
cho dân Người trong cuộc hành trình tiến về Đất hứa,
mà Đất hứa này là vùng phì nhiêu, nơi chảy sữa và mật.
Thiên Chúa ấy được coi là người mục tử
dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối nước trong lành.
Đức Giêsu cũng chẳng làm khác với Cha của Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài tỏ mình ra như người mục tử.
Khi thấy đoàn dân bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt,
Ngài qui tụ họ lại bằng cách dạy dỗ họ nhiều điều.
Nhưng khi chiều xuống, Ngài cũng biết họ cần ăn.
Lo cho chiên được no là nhiệm vụ của người mục tử.
Đức Giêsu đã muốn các môn đệ cộng tác trong việc nuôi ăn này:
“Chính anh em hãy cho họ ăn !”
Với tất cả những gì môn đệ có, vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá,
năm ngàn người đã được ăn no và còn dư mười hai thúng đầy.
Chiều hôm đó, cỏ như xanh hơn vì lòng người vui rộn rã.
Qua phép lạ lớn này, Đức Giêsu tỏ mình ra cho đám đông dân chúng.
Đây là phép lạ của sự bẻ ra và được nhân lên.
Chẳng phải Thầy Giêsu mới là người bẻ ra và trao đi cho các môn đệ.
Chính các môn đệ cũng đã làm như thế cho đoàn dân.
Bẻ ra và trao đi là điều kiện để giải quyết nạn đói của thế giới hôm nay.
Chỉ có thể xóa nạn đói nghèo bằng sẻ chia và liên đới.
Đừng sợ nếu bạn chỉ có ít cá và bánh, ít thời giờ, tiền bạc, khả năng.
Hãy trao vào tay Chúa tất cả những gì bạn có và để Người định liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa là tình yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là Tình Yêu hi vọng. Ta còn gì hi vọng ở những công thức, tính toán, những phán xét khô khan, khắc nghiệt, những tổ chức quá hợp lý đến lạnh lùng? Thiên Chúa là ơn cứu độ đem lại cho thế giới niềm hi vọng được sống vui tươi, bình an và hạnh phúc.
Thiên Chúa là Tình Yêu chứng nghiệm. Chẳng phải là định nghĩa lý thuyết nhưng đã được chứng nghiệm. Vì yêu nên đã đi bước trước. Tạo dựng nên con người. Và còn yêu thương hơn nữa, cứu chuộc con người hư hỏng, phản bội.
Thiên Chúa là Tình Yêu trao ban. Ban chính Con Một của Ngài. Ban cho ta chính bản thân Ngài. Chẳng còn tình yêu nào lớn lao cao quí hơn nữa. Đó là ban hết những gì có thể, chẳng còn có thể ban cho ta gì khác nữa.
Thiên Chúa là Tình Yêu cảm thương. Chẳng phải một trái tim sắt đá vô cảm, nhưng một trái tim biết cảm thương. Chúa Giêsu đã ‘chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đoàn lũ dân chúng tất tưởi bơ vơ.
Thiên Chúa là Tình Yêu cụ thể. Bằng những thể hiện. Trước hết là dậy dỗ. Yêu thương nên quan tâm nói những lời an ủi, khai sáng tâm trí, mặc khải chân lý. Chỉ có trái tim yêu thương mới dành thời giờ trò chuyện, quan tâm dậy dỗ như thế.
Thiên Chúa là Tình Yêu hành động. Chẳng phải chỉ nói suông mà còn hành động. Lo cho người đói ăn, dù số lượng vượt sức khả năng hạn hẹp của các tông đồ và hoàn cảnh giữa nơi hoang địa. Lập tức đi tìm. Không chỉ sai bảo, chính Chúa Giêsu trực tiếp vào cuộc, cầm lấy bánh và cá, làm phép, bẻ ra, trao cho môn đệ.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu thương mới hiểu được Thiên Chúa. Không phải yêu bằng bất cứ cách nào, nhưng phải yêu như Chúa yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có ai yêu thương mới ở trong Thiên Chúa, mới sống trong Thiên Chúa và mới làm cho Thiên Chúa sống trong thế giới, trong anh em.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Người xuống trần mở ra một thời kỳ mới. Thời kỷ yêu thương và tha thứ. Ta hãy cùng Người tiến hành thời kỳ Tân Phúc-âm-hóa trong yêu thương, tha thứ, quan tâm, sửa chữa, nâng đỡ lẫn nhau. Đó là xây dựng một thế giới mới
Suy Niệm 3: Bánh hóa nhiều lần thứ nhất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã tỏ lộ chính cõi lòng của Ngài, cõi lòng của một mục tử: khi thấy dân chúng đông đảo, Chúa động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn.
Việc Chúa tỏ mình bao giờ cũng nhằm làm cho con người được sống và sống hạnh phúc. Chúa đến với con người không phải để đè bẹp hay để làm con người phải sợ hãi, nhưng Ngài đến để yêu thương, để cứu độ con người. Thật vậy, khi Chúa tỏ lộ tấm lòng mục tử của Ngài, thì cảnh bơ vơ lạc lõng của người ta không còn nữa. Tấm lòng mục tử của Ngài không dửng dưng trước nỗi bi đát của con người. Tấm lòng ấy đã làm mọi sự vì con người và cho con người. Và qua tấm lòng ấy, người ta còn nhìn ra chính tấm lòng của Thiên Chúa: Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Đứng trước sự tỏ lộ đầy yêu thương ấy, chúng ta hãy có thái độ biết ơn và vui mừng, cố gắng trở nên những con chiên ngoan hiền bên vị Mục tử nhân hậu và cùng với Ngài tỏ lòng cảm thương những con chiên bơ vơ lạc lõng.
Suy Niệm 4: Yêu thương thật lòng
“Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết!”. Đây chính là câu nói của triết gia Thomas Carlyle khi ông được một vị linh mục trong xứ đến hỏi về điều cần làm cho giáo xứ của ngài lúc này.
Thật vậy, con người ngày nay, ai ai cũng biết là có Thiên Chúa, nhưng tin trên lý thuyết đã chiếm đa số, kể cả những người Công Giáo, còn tin trong sự cảm nghiệm thì không biết được bao nhiêu %, có lẽ không đáng kể!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại một hình ảnh đẹp của chính nhà giảng thuyết lẫn thính giả:
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương và dạy dỗ họ nhiều điều, thì một đám đông say mê nghe lời giảng của Đức Giêsu đến quên cả ăn.
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương khi thấy đám đông “như bầy chiên không người chăn dắt”, thì đám đông vui mừng vì gặp được chủ chiên của họ cách đích thực, không phải trên lý thuyết!
Thật vậy, thấy đám đông dân chúng, phản ứng đầu tiên của Ngài chính là chạnh lòng thương!
Vì chạnh lòng thương, Đức Giêsu đã trao ban lương thực cả phần hồn lẫn phần xác cho dân chúng.
Phần hồn, Ngài dạy dỗ họ nhiều điều; phần xác, Ngài đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng.
Trong xã hội hôm nay, điều làm cho chúng ta không khỏi suy nghĩ, đó là của cải trên thế giới lại nằm trong tay một số hay một vài nhóm người, khi họ nắm tài nguyên của thế giới! Trong khi đó, nhiều nước vẫn trong tình trạng báo động về nghèo đói, nhiều người vẫn đang quằn quại đối chọi với cái đói, cái khát, rồi nạn thất nghiệp, chiến tranh, khủng bố ngày càng lan rộng.
Nguyên nhân dẫn đến vấn nạn trên, chúng ta thấy mấu chốt của vấn đề: đó chính là thiếu lòng bao dung, tình thương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm thông, liên đới và trách nhiệm với anh chị em mình. Hãy biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa đã thương yêu ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết quên mình để lo cho anh chị em xung quanh như Chúa. Xin cũng ban cho chúng con luôn biết tìm đến Chúa để được hạnh phúc đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Thiên Chúa cần con người cộng tác
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Những công việc của con người tự nó không có giá trị siêu nhiên, nhưng khi cộng tác với Thiên Chúa, nó sẽ trở thành hành động cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước sự kiện Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, con đã tự hỏi: Chúa chỉ cần phán một lời là có thể làm phép lạ. Nhưng tại sao Chúa không làm thế, mà Chúa lại cần đến năm chiếc bánh và hai con cá?
Lạy Chúa, Chúa không làm như con nghĩ. Chúa cần con cộng tác. Chúa cần con người góp công chung sức để mưu ích cho nhau. Sự đóng góp của các môn đệ, chẳng thấm vào đâu, nhưng từ đó, Chúa đã thực hiện một bữa ăn no nê cho dân chúng.
Thánh Âu-tinh đã nói: để tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người. Nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác.
Lạy Chúa, nhìn vào thế giới hôm nay, con tin chắc chắn rằng: Chúa cũng đang chạnh lòng thương xót nhân loại đang đau khổ vì đói khát, vì bệnh tật, vì dốt nát, vì chiến tranh. Chúa cũng có thể làm mọi sự để cứu độ loài người. Nhưng Chúa cần con cộng tác, tuy dù nhỏ bé và âm thầm.
Xin Chúa giúp con luôn biết mở rộng trái tim trước nhu cầu của anh chị em. Xin dạy con biết mở rộng bàn tay dâng hiến cho Chúa và cho tha nhân. Dù sự đóng góp của con chẳng đáng kể là gì so với nhu cầu của thế giới, nhưng con tin Chúa đang chờ đợi đón nhận và nhân lên gấp bội. Xin Chúa dạy con biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ cho nhau, để nhân loại khỏi bị diệt vong vì ích kỷ, nhưng luôn phát triển phong phú khi biết quảng đại sẻ chia. Amen.
Ghi nhớ: ”Hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri”.
Suy Niệm 6: Hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống ...)
Phúc Âm thánh Marcô trình bày tiếp hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu. Những hoạt động của Chúa Giêsu đã thu hút dân chúng đi theo Ngài rất đông. Họ say mê Ngài đến nỗi quên ăn quên uống.
- Trông thấy họ, “Chúa động lòng thương xót” (x. Mc 6,34). Ngài động lòng vì thấy họ thiếu thốn: thiếu vật chất và nhất là thiếu tinh thần.
- Do động lòng thương xót dân chúng, Chúa Giêsu muốn làm một việc gì đó để giúp họ. Việc đầu tiên Ngài làm là ...”Ngài bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều” (x. Mc 6,34): theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, sự đói khát tinh thần cấp bách hơn sự đói khát của ăn, cho nên việc đầu tiên Ngài làm là giảng dạy họ.
- Tiếp đó Ngài mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn. Mà phép lạ này cũng là hình bóng tiên báo Bí Tích Thánh Thể và sự phục vụ của Giáo Hội.
B- Suy gẫm ( ... nẩy mầm)
1. “Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ” (x. Mc 6,34): phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là yêu thương. Khi thấy những kẻ Ngài yêu thương “như chiên không người chăn giữ” thì Ngài thương đến nỗi “động lòng”. Con người của Chúa Giêsu thật tuyệt vời, tấm lòng của Ngài cũng thật tuyệt vời. Xin cho con cũng được giống Chúa.
2. Khi động lòng thương xót dân chúng, việc đầu tiên Chúa làm là “giảng dạy họ nhiều điều” (x. Mc 6,34). Được biết Chúa là điều quan trọng nhất và là nguồn mọi hạnh phúc.
3. Một chiều đông lạnh lẽo, triết gia Thomas Carlyle đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách. Cửa mở, cha xứ mới của giáo xứ bước vào. Sau mấy câu xã giao, cha xứ hỏi: “Theo ngài, lúc này giáo xứ mình cần cái gì nhất?” Không chút ngập ngừng, triết gia đáp ngay: “Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết. ” (Góp nhặt).
4. “Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
5. “Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ” (x. Mc 6,34)
Bởi động lòng thương xót nên Ngài đã hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài không chỉ quan tâm đến cái đói thể xác nhưng còn muốn ban phát tình thương, của ăn mà nhân loại đang thiếu. Thực vậy, một trong những nghịch lý của thế giới hôm nay là thiểu số người giàu chia nhau đa phần tài nguyên thế giới, là sản lượng của các nước phát triển không ngừng gia tăng; bên cạnh hàng loạt các nước thuộc thế giới thứ ba vẫn mãi nghèo đói. Nạn đói lan tràn, chiến tranh tiếp diễn, thất nghiệp gia tăng… cứ như điệp khúc của bản tin thời sự mỗi ngày. Cái thiếu thốn của thế giới hôm nay chính là tình thương, lòng nhân ái.
Bản thân tôi cũng lãnh nhận nhiều hơn là cho đi, nhưng vẫn luôn thoái thác như các tông đồ xưa: “Làm sao thỏa mãn những nhu cầu của kẻ khác, một khi sức mình có hạn?”
Xin cho con hiểu rằng chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. (Epphata)
Suy Niệm 7: Phép lạ hóa bánh ra nhiều
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Thấy dân chúng kéo theo đông đảo, Chúa Giêsu rất cảm động. Người thương họ vì thấy không ai lo lắng dạy bảo họ. Và mãi đến chiều tối mà họ vẫn ở lại nghe Chúa giảng dạy. Thấy vậy, các môn đệ xin Chúa cho họ đi mua thức ăn. Chúa bảo các ông lo cho họ ăn, nhưng các ông thưa không thể lo nổi vì các ông chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Người bảo các ông cho họ ngồi từng nhóm rồi cầm lấy năm chiếc bánh với hai con cá ngước mắt lên cầu nguyện với Chúa Cha, rồi trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng ăn. Mọi người đều ăn no nê mà còn dư được mười hai thúng đầy.
Chúa thoả mãn nhu cầu vật chất của con người.
Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dày của họ cũng phải nổi loạn, khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn ở trong nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và hai con cá. Bằng ấy thực phẩm nhằm nhò gì với một biển người như vậy! Nhưng Chúa cứ bảo cho họ ngồi xuống thảm cỏ cho Người làm việc. Thánh Mátthêu kể: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người thu lại được 12 giỏ đầy”.
Chúa thoả mãn nhu cầu tinh thần con người.
Lời giảng của Chúa đã làm cho dân chúng say mê. Lời Chúa là thức ăn nuôi dưỡng và bồi bổ cho linh hồn. Tuy thế, Chúa không quên thoả mãn nhu cầu vật chất cho họ, vì họ là con người có hồn có xác, phải được nuôi dưỡng đầy đủ. Như vậy Chúa thực hiện lời khuyên: “Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Ngài sẽ thêm cho”.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuốn đến với Chúa mong Người tái diễn phép lạ ấy, nhưng Người đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của thánh Gioan, Người còn nói với họ: “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”. Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Chúa muốn chúng ta cộng tác với Người.
Các Tông đồ chỉ kiếm cho Chúa được có 5 cái bánh và 2 con cá. Thật là một đóng góp quá nhỏ nhoi, nhưng thực ra, chỉ cần bằng ấy đã quá đủ đối với Chúa. Chúa không muốn làm phép lạ tự không mà có bánh cho họ ăn, nhưng Chúa muốn cho con người đóng góp một chút để cộng tác với Chúa. Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là kết quả của sự kết hợp giữa quyền năng vô biên của Chúa với sự cộng tác nhỏ bé của con người.
Khi cộng tác với Chúa, Chúa không đòi hỏi chúng ta những tài năng, tiền của và những phẩm tính mà chúng ta không có. Ngài bảo chúng ta: “Hãy đến với Ta bằng con người thật của ngươi, dù nó nghèo nàn, hãy mang đến Ta điều gì ngươi có, dù ít ỏi, và Ta sẽ sử dụng nó một cách lớn lao trong công việc của Ta”.
Thi sĩ Amado Nervo, một đại thi sĩ và cũng là một nhà huyền bí, người Mễ Tây Cơ tóm tắt sứ điệp và tinh thần bài Tin mừng hôm nay trong bài thơ:
“Con chỉ là một tia lửa,
Xin biến con thành ngọn lửa.
Con chỉ là một sợi dây,
Xin biến con thành chiếc đàn.
Con chỉ là ngọn đồi cỏn con
Xin biến con thành ngọn núi.
Con chỉ là một giọt nước,
Xin biến con thành một dòng suối.
Con chỉ là một cọng lông,
Xin biến con thành chiếc cánh.
Con chỉ là gã ăn mày,
Xin biến con thành một ông vua.
Truyện: Người chạnh lòng thương
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng nữ tu Bác ái Truyền giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9000 người. Bởi đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
- Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ trả lời:
- Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp:
- Ở Ấn Độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao các con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng?
Họ thưa:
- Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Mở đầu bài tưởng thuật hôm nay, thánh Marcô viết: “Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì chạnh lòng thương xót họ, vì họ bơ vơ như chiên không có người chăn giữ” (Mc 6,34)
Vâng, chính vì lòng thương xót đối với những đàn chiên không có người chăn giữ này, mà Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, đã dấn thân phục vụ. Tin Mừng cho biết “Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”. (Mc 6,34)
Chúa Giêsu giảng dạy. Đây là công việc chính yếu trong cuộc đời công khai của Chúa.
Một chiều đông lạnh lẽo, triết gia Thomas Carlyle đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách. Cửa mở, cha xứ mới của giáo xứ bước vào. Sau mấy câu xã giao, cha xứ hỏi: “Theo ngài, lúc này giáo xứ mình cần cái gì nhất?” Không chút ngập ngừng, triết gia đáp ngay: “Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lý thuyết”. (Góp nhặt).
“Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lý thuyết”. Cần phải làm cho mọi người thấy được Thiên Chúa là Đấng không phải ở mãi đâu xa mà ở ngay trong cuộc sống của mình.
Vào dịp thánh Phanxicô sang Tòa Thánh để xin Đức Thánh cha phê chuẩn luật dòng Anh Em hèn mọn của mình, Đức Thánh cha đã thân mật hỏi thánh Phanxicô:
- Con có bao giờ thấy Chúa chưa?
- Có, con vừa thấy đêm qua.
- Người có nói gì với con không?
- Người và con ở bên nhau suốt đêm không nói gì. Tuy nhiên, cứ mỗi lúc con nói “Cha” với Người thì Người lại trả lời lại với con “Con Ta”. Cứ thế chẳng có gì hơn cho đến lúc trời sáng.
Vâng! Nói về một Thiên Chúa gần gũi với con người đó là nhiệm vụ hàng đầu của những người rao giảng Tin Mừng.
2. Thế nhưng, giảng dạy mới chỉ là thoả mãn được một mặt của những nhu cầu mà những con chiên không người chăn giữ đang khao khát. Ngoài nhu cầu tinh thần đó ra, những chiên này còn cần đến cả những nhu cầu vật chất nữa. Vì thế, để tỏ ra là một mục tử nhân lành, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi những người đã đi theo Chúa và nghe Ngài giảng dạy.
Lòng thương xót của vị mục tử nhân lành ở đây là lòng thương xót phát xuất tự bản chất của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa, theo như lời của Thánh Gioan trong đoạn thư thứ I, được trích đọc hôm nay cho biết: chính là “TÌNH YÊU”.
Vâng! Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu ấy được thể hiện qua sự quan tâm, chăm sóc, quan phòng và xếp đặt cho mọi sự trở nên tốt đẹp cho mọi người. Hãy mở rộng lòng để đón nhận tình yêu đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sự kỳ diệu của Tình yêu Chúa dành cho chúng ta.
Moses Mendelssohn là tổ phụ của nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức Felix Mendelssohn. Bề ngoài của ông rất bình thường, ngoại trừ tướng ngũ đoản (mình và tứ chi đều ngắn), ông còn là một người có cái lưng gù kì quái rất buồn cười.
Một ngày nọ, Moses Mendelssohn đến Hamburg để viếng thăm một thương nhân. Thương nhân này có một cô con gái rượu tên là Fossey. Moses yêu cô ấy một cách cuồng nhiệt, nhưng vì chê vẻ bề ngoài của ông nên cô ta từ chối tình cảm của Moses.
Đến lúc phải rời xa nơi đó, Moses lấy hết dũng khí có được, ông đi lên phòng của Fossey, bắt lấy cơ hội cuối cùng này để bày tỏ với cô ấy. Đối diện trước vẻ mặt thánh thiện của cô, ông trở nên rụt rè, Fossey đã thẳng thừng cự tuyệt ông.
Qua nhiều lần thử tìm cách để bày tỏ cùng cô ấy, nhưng không thành, cuối cùng ông xấu hổ nói: “Nàng có tin vào duyên trời định không?”
Cô nhìn thẳng vào ông và nói: “Tôi tin”. Sau đó cô hỏi lại ông: “Còn ông, ông có tin vào điều đó không?”
Ông đáp: “Tôi nghe nói, mỗi người con trai trước khi được sinh ra thì Thượng Đế gọi đến và hỏi anh ta muốn một người vợ tương lai như thế nào? Khi tôi sinh ra, tôi chưa được lựa chọn người vợ tương lai cho mình mà chỉ được Thượng Đế nói cho biết người vợ tương lai của tôi là một cô gái gù”.
Khi đó tôi mới van xin thượng đế rằng: “Thưa Thượng đế, một người phụ nữ mà lại mang trên mình cái lưng gù thì quả là bi kịch, xin người hãy chuyển cái lưng gù ấy sang cho con, hãy để cho người vợ của con là một người phụ nữ xinh đẹp”.
Lúc đấy Fossey nhìn thẳng vào đôi mắt của Moses, quên đi hết những suy nghĩ lúc trước về anh trong sâu thẳm trái tim mình. Cô ấy đưa đôi tay về phía anh, sau đó, cô trở thành người vợ chân thành nhất của ông.
Lev Tolstoy đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống”.
Tình yêu là tất cả mọi điều. Đó là chìa khoá cuộc đời và ảnh hưởng của tình yêu làm lay động cả thế giới.
Lạy Chúa,
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình. Amen. (Mẹ Têrêsa).
Suy Niệm 9: Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều
(Lm. Micae Võ Thành Nhân)
Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng theo Chúa nghe Chúa rao giảng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay xuất phát từ tình yêu và lòng thương xót của Chúa: “Chúa thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn, và người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều” (Mc 6, 34).
Như vậy, qua đó, chúng ta thấy Chúa thương hết tất cả mọi người qua mọi thời đại . Bởi thế mà Chúa rất cảm thông ngày của năm xưa ấy dân chúng theo Chúa thì vất vả lắm. Thức khuya dậy sớm, nắng nôi khó nhọc, nhịn ăn nhịn uống để có một chỗ trong đám đông theo Chúa. Và Chúa cũng biết rõ là họ không ngần ngại hy sinh thời giờ công việc, sức khỏe, vượt thắng đau ốm bệnh tật để đến với Chúa, mở lòng mở trí say mê nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, và tận mắt nhìn thấy Chúa làm các phép lạ. Dường như chúng ta thấy khi màng đêm buông xuống, họ cũng không muốn về nhà. Khi đói khi khát họ cũng không muốn dành chút thời giờ để ăn để uống vì họ sợ mất thời gian, mất cơ hội, làm lo ra chia trí để mà nghe Lời Chúa. Họ sợ Lời Chúa rao giảng qua đi mà không đọng lại một chút gì trong trái tim, trong suy nghĩ của họ. Vì thế họ cứ mãi theo Chúa và Chúa đã xót thương những thiện chí tốt lành của họ.
Ngày hôm nay, Chúa cũng thương xót chúng ta là những người theo Chúa. Chúa biết. Chúa thông cảm cho chúng ta khi chúng ta giữ đạo Chúa. Giữ đạo Chúa thì rất vất vả, phải hy sinh đủ thứ trong cuộc sống thì mới có thể đến với Chúa được. Hằng ngày, chúng ta phải lo làm việc vì cuộc sống. Chúng ta mệt nhọc từ sáng đến chiều tối mà chưa chắc đủ ăn đủ uống. Nhất nữa, xã hội ngày hôm nay là một xã hội cạnh tranh, dành giật, hơn thua nhau, không nhường nhịn nhau… đã làm cho con người ta khép kín, không muốn cho đi mà chỉ muốn vun vén, hương thụ. Đàng khác, còn biết bao nhiêu việc trong gia đình như hướng dẫn, dạy dỗ con cái, giúp cho con cái cũng như mọi thành viên trong gia đình sống tốt, sống đẹp lòng Chúa. Bên cạnh đó còn có những mối dây quan hệ với bà con hàng xóm làng giềng sao cho phải phép nữa. Nhưng quan trọng hơn hết là sắp xếp thời gian đến nhà thờ để gặp Chúa, sống xa lánh các tội lỗi và luyện tập các nhân đức, làm thăng tiến đời sống tâm linh. Hai vai gánh nặng của người con cái Chúa là như vậy đó, có lúc phải hụt hơi, phải đuối sức, chưa kể những mất mát, có khi là rất to lớn các món lợi trong xã hội mà vì lời Chúa dạy chúng ta không được làm, không được nhận lãnh, phải tránh đi, phải nhường nhịn….. Nhưng dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta tin rằng Chúa sẽ xót thương chúng ta như là Chúa thương dân chúng theo nghe Chúa rao giảng ngày xưa. Chúa sẽ quan tâm lo lắng cho chúng ta. Chúa sẽ ban ơn cứu chúng ta để chúng ta không phải đói khát bần cùng đâu. Chúa không lám phép lạ cho chúng ta giàu có dư thừa. Chúa cho chúng ta hàng ngày dùng đủ. Nhất là Chúa nuôi chúng ta bằng Mình và Máu thánh Chúa để chúng ta được sống đời đời với Chúa sau này. Một điều quan trọng chúng ta đừng quên là Chúa sẽ ban hơn những gì chúng ta mơ tưởng tới: “Và tất cả đều ăn no. Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người” (Mc 6, 44). Do đó chúng ta đừng lo, đừng chùng bước, đừng bỏ cuộc, cứ mãi theo Chúa thì Chúa sẽ tính toán cho chúng ta.
Lạy Chúa quyền năng nhưng đầy lòng thương xót của chúng con, chúng con dám hy sinh từ bò tất cả mọi sự và bước trên con đường theo Chúa, nhưng đôi khi vì yếu đức tin cho nên chúng con so đo tính toán thiệt hơn mà chưa dứt khoát mạnh dạn bước đến với Chúa, cho nên chưa lãnh được nhiều ơn của Chúa ban. Xin Chúa thương xót và tiếp tục ban ơn giúp chúng con đừng tính toán với Chúa nữa mà cứ bước theo Chúa và mọi sự khác Chúa sẽ ban cho chúng con: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ cho thêm” (Mt 6, 33). Amen.
Suy Niệm 10: Đức Giêsu tỏ mình là ngôn sứ
(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba sau Lễ Hiển Linh, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin ý thức rằng: Chúng ta đã nhận biết Đức Kitô Con Một Chúa, xuất hiện như người phàm, và mặc lấy thân xác giống hệt chúng ta, xin Chúa làm cho tâm hồn chúng ta được đổi mới và trở nên giống hình ảnh Người.
Đổi mới và trở nên giống hình ảnh Đức Kitô, Vị Ngôn Sứ đem Tin Mừng giải thoát đến cho mọi người, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia cho thấy ơn cứu độ đã đến gần: Người ta thường nói đến Thành Thánh để ám chỉ Dân Chúa. Dân này được hưởng một số phận may mắn, tốt đẹp. Bài ca mừng hôn lễ giữa Con Chiên và Giêsusalem mới, được tác giả sách Khải Huyền ghi lại. Bài ca đó đã được ngôn sứ Isaia báo trước trong bài đọc hôm nay. Muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Chúa đặt cho. Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.
Đổi mới và trở nên giống hình ảnh Đức Kitô, Vị Ngôn Sứ làm phép rửa bằng Thánh Thần để cứu độ loài người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Hipôlytô nói: Chúa Con bất tử tức Ngôi Lời xuống trần gian; Người đến với con người, lấy nước và Thần Khí mà thanh tẩy họ, cho họ được tái sinh để hồn xác họ khỏi hư vong… Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng: Người là Con Thiên Chúa. Chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa bằng nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí hiện xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần.
Đổi mới và trở nên giống hình ảnh Đức Kitô, Vị Ngôn Sứ luôn biết chạnh lòng thương, ra tay cứu giúp kẻ nghèo hèn , như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Gioan nói: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 71, vịnh gia đã cho thấy: Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài. Núi đem lại cảnh hòa bình trăm họ, đồi rước về nền công lý vạn dân. Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ, ra tay cứu độ kẻ khó nghèo.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô cho thấy: Khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu tỏ mình là ngôn sứ. Đức Kitô chính là Vị Ngôn Sứ, được Chúa Cha sai đến để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Vị Ngôn Sứ có mặt khắp nơi và không vắng mặt nơi nào, Vị Ngôn Sứ các thiên thần không hiểu thấu và loài người không nhìn thấy được, lại đến lãnh phép rửa của ngôn sứ Gioan. Vị Ngôn Sứ là Con Một, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa theo thần tính, vì thế, Người đói lả, nhưng lại, nuôi cả ngàn người; Người vất vả, nhưng lại, làm cho người vất vả được nghỉ ngơi; Người không có nơi tựa đầu, nhưng lại, có đầy đủ mọi sự; Người chịu khổ, nhưng lại, chữa lành mọi khổ đau; Người ngã vì bị tát, nhưng lại, ban tự do cho muôn người; Người bị đâm thấu cạnh sườn, nhưng lại, chữa lành cạnh sườn của Ađam. Chúng ta hãy chạy đến với Vị Ngôn Sứ, chạy đến nguồn mạch ban sự sống, và ngắm nhìn nguồn mạch chữa lành các vết thương: Người lấy nước và Thần Khí mà thanh tẩy chúng ta; Người thổi sinh khí vào chúng ta và mặc cho chúng ta áo giáp không thể hư hoại. Ai tin mà lãnh phép rửa ban ơn tái sinh này, thì từ bỏ ma quỷ và kết hợp với Đức Kitô, mặc lấy ơn làm nghĩa tử. Chúng ta đã nhận biết Đức Kitô Con Một Chúa, xuất hiện như người phàm, và mặc lấy thân xác giống hệt chúng ta, ước gì tâm hồn chúng ta được đổi mới và trở nên giống hình ảnh Người. Ước gì được như thế!
- Viết bởi Mt 4, 12-17. 23-25
Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến.
Thứ Hai sau lễ Hiển Linh.
"Nước trời đã đến gần".
LỜI CHÚA: Mt 4, 12-17. 23-25
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
- Viết bởi Mt 2, 1-12
Từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua.
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH.
"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Lời Chúa: Mt 2, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người".
- Viết bởi Ga 1,35-42
Gặp Ðấng Cứu Thế.
Thứ Bảy đầu tháng, trước lễ Hiển Linh.
"Chúng tôi đã gặp Ðấng Cứu Thế".
LỜI CHÚA: Ga 1,35-42
Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?"
Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?"
- Viết bởi Ga 1,29-34
Ðấng xóa tội trần gian.
Thứ Sáu đầu tháng, trước lễ Hiển Linh.
"Ðây Chiên Thiên Chúa"
LỜI CHÚA: Ga 1,29-34
Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình thì nói: Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian. Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel.
- Viết bởi Ga 1,19-28
Gioan làm chứng về Chúa Giêsu.
Thứ Năm đầu tháng, trước lễ Hiển Linh – Thánh Baxiliô Cả và thánh Grêgôriô Nazianzênô. Lễ nhớ.
"Có một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"
* Thánh Baxiliô sinh tại Xêdarê miền Capađôxia năm 330, trong một gia đình Kitô giáo. Vốn là người tinh thông văn học lại nổi tiếng nhân đức, ban đầu thánh nhân chọn cuộc đời đan tu. Đến năm 370, người được cắt đặt làm giám mục cai quản nơi người sinh trưởng. Người tích cực chống lại giáo phái Ariô, viết nhiều tác phẩm. Đặc biệt, người đã soạn thảo những quy luật cho đời sống đan tu, mà cho đến bây giờ, nhiều đan sĩ đông phương vẫn còn tuân giữ. Người hết sức chăm lo cho người nghèo. Người qua đời ngày 1 tháng Giêng năm 379.