Giáo lý
- Viết bởi Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma. Hỏi: Trong lễ truyền chức các Phó tế vĩnh viễn, khi diễn ra cuộc rước, một số phu nhân của Phó tế bày tỏ ý tưởng của phu nhân, bằng cách cầm lễ phục của chồng, và bước đi bên cạnh hoặc đằng sau người chồng của họ, người sẽ được truyền chức Phó tế. Điều này dường như cho thấy một cách sống động sự hỗ trợ của phu nhân cho chồng Phó tế của họ, và tượng trưng cho tầm quan trọng chủ yếu của bí tích hôn nhân trong cuộc đời của một Phó tế vĩnh viễn đã kết hôn. Phần dẫn nhập của Nghi thứcTruyền chức Phó tế không nêu ra bất kỳ cơ hội nào cho phu nhân tham gia trong nghi lễ. Đây có phải là một dấu hiệu cho thấy phu nhân nên từ bỏ ý tưởng đã nêu ra ở trên chăng? – B. C., Houston, Texas, Mỹ.
Đáp: Các phu nhân là chắc chắn rất quan trọng, thực sự cần thiết, trong quá trình chuẩn bị các ứng viên đã lập gia đình để được truyền chức Phó tế vĩnh viễn. Theo Giáo Luật 1031,2, một ứng viên đã lập gia đình không thể được chấp thuận mà không có sự đồng ý của phu nhân.
Chẳng hạn chúng ta có thể xem các hướng dẫn cho việc đào tạo các Phó tế vĩnh viễn, do Hội đồng Giám mục Úc đưa ra vào năm 2005, và phản ánh sự thực hành chung:
"27. Nếu đã kết hôn, ứng viên phải có sự ủng hộ tích cực của phu nhân (và gia đình). Nếu chưa kết hôn, hoặc sẽ góa vợ trong tương lai, người ấy phải vui lòng cam kết sống độc thân cho đến mãn đời.
"35. Phu nhân của ứng viên sẽ được khuyến khích tham gia ít nhất một số khía cạnh của chương trình đào tạo này. Một số khóa học thêm nên được thực hiện cách đặc biệt cho phu nhân (và các thành viên gia đình) của ứng viên.
"36. Tại một thời điểm thích hợp trong chương trình đào tạo, và với sự đồng ý của phu nhân và những người đã giám sát chương trình đào tạo, ứng viên sẽ chính thức làm đơn gửi Giám mục để được chấp nhận như một ứng viên chính thức cho chức Phó tế. Cũng có dự kiến rằng, ở các giai đoạn nhất định trong chương trình đào tạo, ứng viên sẽ được Giám mục chính thức đưa vào các thừa tác Đọc sách và Giúp lễ. Một ứng cử viên sẽ tham dự khóa tĩnh tâm năm ngày trước khi được truyền chức Phó tế”.
Mặc dù có sự quan trọng của phu nhân như thế, thực sự không có vai trò qui định nào cho phu nhân Phó tế trong nghi lễ truyền chức cả.
Có lẽ có nhiều lý do thực hành cho việc này. Thí dụ, trong nhiều lần, các ứng viên cho chức Phó tế vĩnh viễn và Phó tế chuyển tiếp được truyền chức chung với nhau. Trong một số trường hợp, cũng có truyền chức Linh mục trong cùng môt buỗi lễ như vậy nữa. Do đó, sẽ là không thực tế khi làm nổi bật một số ứng viên trong các buổi lễ hỗn hợp như thế.
Tương tự như vậy, thứ tự của đoàn rước trong lễ truyền chức đã được qui định nhiều bởi các quy tắc phụng vụ, và người ta không được phép đưa thêm nhiều bổ sung. Các người tham gia đoàn rước thường là những người có chức năng phụng vụ chính xác trong buổi lễ, mặc dù có một số ngoại lệ đối với các quy tắc, do đặc quyền cổ xưa.
Tuy nhiên, có thể có một cách để giới thiệu vai trò của phu nhân mà không vi phạm các quy tắc phụng vụ.
Một mặt, thật là rõ ràng rằng người mặc áo cho Phó tế mới là một Phó tế hay một Linh mục. Như chữ đỏ của một sách nghi thức truyền chức mô tả như sau:
"Người nam, đã được truyền chức, mang lần đầu tiên dây Stola, mang phía vai trái và rủ chéo xuống, gắn chặt vào một bên. Lễ phục này, tượng trưng cho phận vụ Giáo Hội của mình, được đeo để phản ánh thừa tác vụ mà họ làm cho Thân Thể Đức Kitô, như là thầy dạy và sứ giả của Tin Mừng. Áo Phó tế (Dalmatic), một biểu tượng của Công lý, phản ánh thừa tác Bác ái, mà mọi Phó tế phải thi hành cho các người nghèo khổ nhất. Mỗi Phó tế được sự hỗ trợ của các thành phần Giáo sĩ, đích thân do mình chọn lựa”.
Việc mặc áo Phó tế cho tân Phó tế, do một Phó tế hay một Linh mục thực biện, và việc trao hôn bình an với Giám mục và tất cả các Phó tế hiện diện, là một dấu hiệu của sự chào mừng cho việc gia nhập hàng Phó tế, và do đó nó có chức năng phụng vụ rõ ràng.
Mặt khác, không có gì nói về cách thức dây Stola và áo Phó tế đến tay của Phó tế hoặc Linh mục, trước khi một trong hai vị này mang cho tân Phó tế cả.
Trong việc này, tập quán thay đổi khác nhau tùy theo phong tục địa phương, và các dịch vụ hậu cần thiết thực của buổi lễ. Trong một số trường hợp, ứng viên cầm sẵn lễ phục trên tay ngay từ đầu lễ. Thông thường hơn, lễ phục được chuẩn bị sẵn trên bàn, và các thừa tác viên phụ trách mang lễ phục cho tân chức sẽ nhận lễ phục từ vị Chưởng nghi hoặc thầy Giúp lễ, trước khi phần mang lễ phục bắt đầu tiến hành.
Tuy nhiên, có một tập tục lâu đời và phổ biến ở nhiều nước châu Mỹ Latinh, mà trong đó cha mẹ cầm lễ phục của ứng viên đến sát cung thánh, và tại đây thừa tác viên phụ trách mang lễ phục cho tân chức sẽ nhận lễ phục ấy. Đây là một dấu hiệu cụ thể của việc họ hỗ trợ cho ơn gọi của con trai họ.
Tập tục này có thể được giới thiệu, một cách có thể quan niệm được, bởi các Giám mục trong những nơi khác, bởi vì nó không đi ngược lại luật phụng vụ, và có thể chứa đựng rất nhiều ý nghĩa.
Cũng có thể tổ chức tốt trong các nghi thức hỗn hợp, mà trong đó cha mẹ cầm lễ phục cho phó tế chuyển tiếp, trong khi phu nhân có thể cầm lễ phục cho Phó tế đã lập gia đình. Tôi đoán rằng điều này đã xảy ra ở châu Mỹ Latinh, nhưng tôi không dám chắc.
Một nhược điểm nhỏ là nó có thể làm cho một buổi lễ đã dài lại dài lâu hơn một chút, nhưng một quyết định thực tiễn có thể được thực hiện dựa trên cơ sở từng trường hợp cụ thể. (Zenit.org 30-6-2015)
- Viết bởi Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Có bao giờ được phép trao hơn một Mình Thánh cho người Rước lễ được không? Câu hỏi nổi lên, bởi vì khi tôi đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân tại một nhà dưỡng lão, đôi khi một trong những người trong danh sách Rước lễ không Rước lễ được, vì nhiều lý do – không thể Rước lễ do một rối loạn dạ dày, hoặc rối loạn tâm thần đến nỗi họ không thể nhận ra Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Bởi vì thừa tác viên cho Rước lễ không thể đưa trở lại Mình Thánh về nhà thờ đã khóa cửa, liệu có được phép trao hai Mình Thánh cho người khác Rước lễ không? - G. D., Dayton, Ohio, Mỹ.
Đáp: Tôi có thể nói rằng không có qui định cụ thể về điểm này, và rằng một giải pháp cảm thức chung có thể được áp dụng.
Trong khi thường là trao một Mình Thánh cho một người Rước lễ, có thể có các thay đổi theo sự cần thiết đặc biệt.
Thí dụ, nếu số người xếp hàng lên Rước lễ là nhiều hơn số Mình Thánh được truyền phép và lưu giữ trong Nhà Tạm, thì linh mục hay thừa tác viên có thể quyết định bẻ Mình Thánh làm hai hay làm ba, để mọi người có thể Rước lễ. Tương tự như vậy, thật là khá phổ biến khi một thừa tác viên chỉ trao một phần Mình Thánh cho bệnh nhân khó nuốt.
Trong trường hợp như vậy, việc cho Rước lễ nên được trực tiếp đặt trên lưỡi, bởi vì một khi Mình Thánh được bẻ ra nhiều mảnh, các mảnh nhỏ sẽ dễ dàng rơi xuống.
Nguyên tắc thần học cơ bản ở đây là rằng Chúa Kitô hiện diện đầy đủ, thân xác, bửu huyết, linh hồn và thần tính, trong từng phần của Mình Thánh được bẻ ra để cho Rước lễ.
Nếu điều này là đúng cho một Mình Thánh được bẻ ra nhiều phần, thì nó cũng đúng cho hơn một Mình Thánh. Việc linh mục Rước lễ là không hơn việc giáo dân Rước lễ, bởi vì ngài Rước Mình thánh lớn hơn, hoặc tín hữu nào Rước hai Mình Thánh là cũng không kết hiệp với Chúa hơn người Rước một Mình Thánh.
Có thể có một kinh nghiệm chủ quan, mà trong đó một tâm hồn thánh thiện có thể cảm thấy ít thoải mái vì chỉ Rước nửa Mình Thánh, hoặc hân hoan hơn khi Rước hai Mình Thánh. Nhưng không hề có sự khác biệt trong lãnh vực ân sủng hoặc sự kết hiệp với Chúa.
Thông thường, nếu còn một ít Mình Thánh sau Hiệp lễ, và không có Nhà Tạm để lưu giữ Mình Thánh, thì linh mục sẽ Rước hết các Mình Thánh này trước khi tráng chén. Tuy nhiên, có một số tình huống mà trong đó linh mục trong thánh lễ có thể chọn cho mỗi tín hữu Rước nhiều hơn một Mình Thánh. Một thí dụ là nếu Thánh Lễ được cử hành tại một nơi không có Nhà Tạm, và ngài dự đoán trước khi cho Rước Lễ rằng số lượng Mình Thánh là quá nhiểu, và ngài không thể Rước hết được với sự kính trọng cần thiết đối với Thánh Thể. Một trường hợp khác là cần để Nhà Tạm trống hoặc gần như trống sau Thánh lễ, như trong Tuần Thánh để chuẩn bị cho Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa vào Thứ Năm Tuần Thánh, vốn cần được cử hành với một nhà tạm trống.
Trong các trường hợp này, tốt hơn nên nói với các tín hữu trước rằng mỗi người sẽ Rước hai Mình Thánh, vì sự việc có thể gây đãng trí cho họ, nếu nó xảy ra bất ngờ và có thể làm ảnh hưởng đến sự sốt sắng của thời điểm Rước Lễ. Cũng đã xảy ra sự việc một số người nghĩ rằng vị linh mục đã có sự nhầm lẫn, và họ cố gắng trả lại Mình Thánh thứ hai cho bình thánh.
Trong tình huống bệnh viện và chăm sóc các bệnh nhân như độc giả của chúng tôi mô tả trên đây, nguyên tắc này được áp dụng cách cơ bản. Thừa tác viên có thể đưa hai Mình Thánh cho bất cứ người Rước lễ nào, nếu không tiện đưa trở lại Mình Thánh về Nhà Tạm. Một lần nữa, người ấy nên được nói cho biết trước, để tránh một phản ứng ngạc nhiên cho họ. (Zenit.org 23-6-2015)
Nguyễn Trọng Đa
- Viết bởi Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
Tôi thấy trên mạng có người đặt câu hỏi “tại sao ngày nay người ta hiểu “tạo vật” như là những vật được dựng lên, mà không phải là nghĩa “Đấng Tạo Hoá?” Người ta trả lời: “ Từ ‘tạo vật’ bị dùng sai, có lẽ do cách dùng sai trong tôn giáo”.
Nghe họ trả lời như thế, tôi cảm thấy rất buồn. Thật vậy, nhiều chỗ trong phụng vụ của Giáo Hội cũng dùng thuật từ “tạo vật” để chỉ con người hãy những vật được Chúa dựng nên. Có người thấy vậy lại giải thích: “Tạo vật” trước đây có nghĩa là Đấng Tạo Hoá, nay có nghĩa là “loài thụ tạo”. Vậy chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của hai thuật từ “tạo vật” và “thụ tạo”.
1. Nghĩa chữ tạo, thụ và vật:
1.1. Tạo: có mấy chữ Hán này là 造, 皂, 艁, 皁, 唣, 唕. Trong từ tạo vật là chữ造, chữ này có bộ xước (nghĩa là đi) và chữ cáo告 (nói cho người khác biết), cho nên nghĩa nguyên thuỷ của chữ tạo là làm việc thành công.
Chữ 造có nhiều nghĩa. (đt.) (1) Làm cho từ không có trở thành có và tồn tại. (2) Chế tác: Tu tạo. (3) Kiến thiết: Tạo phúc nhất phương (Kiến thiết phúc cho cả một phương). (4) Phát minh: Sai Luân tạo chỉ (ông Sai Luân chế tạo ra giấy trước nhất). (5) Sinh ra. (6) Làm ra. (7) Bịa đặt: Tạo dao sinh sự (bịa đặt ra lời nói phao để sinh sự). (8) Đi về phía trước. (9) Đến: Tạo phủ (tới hầu ngài). (10) Bồi dưỡng. (11) Thành tựu. (dt.) (12) Niên đại. (13) Tên tế tự. (14) Giờ, ngày, tháng, năm sinh của một người theo bói toán gọi là tạo. (15) Thăm hỏi. (16) Thời đại: Mạt tạo (đời cuối, cuối mùa). (17) Hai bên tố tụng: Lưỡng tạo (cả hai bên). (18) Mùa gặt: Nhất niên tam tạo (một năm ba mùa). (19) Họ Tạo. (20) May mắn. (21) Nhà bếp. (22) Tên tước hiệu. (pht.) (23) Vội vã: Tạo thứ (vội vàng). (24) Bắt đầu.
1.2. Thụ: Có những chữ Hán này: 樹,受,授,綬,裋,售,竪, trong trường hợp này là chữ 受, có nghĩa: (đt.) (1) Sử dụng: Hưởng thụ. (2) Tiếp nhận: Thụ lễ. (3) Được / thích hợp. (4) Bị : Thụ phê bình (bị phê bình). (5) Chịu cái dở: Thụ phạt (bị phạt). (6) Ráng chịu. (7) Thu mua. (8) Thu hồi. (9) Chứa đựng: Tiêu thụ (Hưởng dùng). (10) Tiếp thu. (pht.) (11) Hợp với giác quan: Thụ thính.
1.3. Vật: có ba chữ Hán: 物, 勿, 沕, trong từ tạo vật là chữ 物, có nghĩa: (dt.) (1) Cái có hình khối, tồn tại trong không gian, có thể nhận biết được: Phế vật (đồ bỏ). (2) Các loại sinh ở trong trời đất đều gọi là “vật” cả: Vật hoán tinh di (vật đổi sao dời). (3) Hoàn cảnh hay sự việc bên ngoài. (4) Người hay hoàn cảnh bên ngoài. (5) Nội dung: Ngôn chi hữu vật (lời nói có nội dung). (6) Màu sắc. (đt.) (7) Tìm tòi: Vật sắc.
Nghĩa Nôm: (1) Nói chung về muông thú: Các vật có vú. (2) Các thức chung quanh: Vật đổi sao dời.
2. Nghĩa thuật từ thụ tạo:
Thụ tạo như trên đã nói, thụ là được, bị, chịu… có nghĩa là được tạo thành, tức là vạn vật do Thiên Chúa tạo dựng lên.
3. Nghĩa thuật từ tạo vật:
Ta thử tìm ý nghĩa của thuật từ này trong các từ điển.
- Hán Ngữ Đại Từ Điển[1]: (1) Cách gọi đơn giản của “Đấng Tạo Vật”: “Sinh sinh đắc sở, sự sự duy tân, nguy nguy hô do tạo vật chi khúc thành dã” (Sự sống triển nở, mọi sự đổi mới, vĩ đại thay, như do Đấng Tạo Vật dựng nên) (Nguỵ Thư, Lý Bưu Truyện); (2) Vận may.
- Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ Điển[2]: (1) Người xưa cho rằng do Trời dụng nên, nên gọi Trời là Tạo Vật. (2) Số mệnh, vận may.
- Hán Ngữ Từ Điển[3]: Như Tạo Hoá, là trời.
- Từ Vựng[4]: Trời.
- Vương Vân Ngũ Đại Từ Điển[5]: Trời. Chính là Đấng tạo ra vạn vật.
- Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais, Eugène Gouin: tạo vật: Creation, Createur.
- Từ điển Việt - Hán hiện đại, NXB Khoa Học Xã Hội: tạo vật = tạo hoá
- Từ điển Hán Việt, Viện Ngôn Ngữ Học: Tạo vật = tạo hoá = Trời.
- Từ điển Việt – Anh, Nguyễn Sanh Phúc và nhóm cộng tác: Tạo vật = tạo hoá: The Creator.
- Petit Passe-Partout de la presse Sino-Annamite[6]: kẻ dựng vật.
- Việt Pháp Từ Điển[7]: Créer le monde, Créateur.
- Hán Việt Từ Điển[8]: Dựng ra vạn vật; trời; tạo hoá (createur).
- Dictionnaire Annamite-Chinois-Francais[9]: Création, Créateur.
- Ông Nguyễn Trường Tộ trong các Di thảo đều dùng “tạo vật” theo nghĩa Đấng Tạo Hoá.
4. Nhận xét
Hầu như tất cả các từ điển đều ghi rõ tạo vật là Đấng Tạo Hoá, duy nhất có “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn Ngữ Học (NXB Đà Nẵng, 2004) thêm hai nghĩa của “tạo vật”: (1) (cũ) như “tạo hoá”; (2) Những vật tồn tại trong thiên nhiên nói chung, coi là do tạo hoá tạo ra. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này, có lẽ vì người ta hiểu lầm cách tạo từ. Ví dụ: phế vật = vật bị bỏ đi, di vật = vật được để lại khi chết, cống vật = vật được đem đi dâng biếu, tặng vật = vật để tặng, vật được tặng. Cho nên người ta dễ liên tưởng “tạo vật” = vật được tạo ra.
Kết luận
Rõ ràng, tạo vật có nghĩa là Đấng Tạo Hoá, tức là Thiên Chúa, hoàn toàn không có nghĩa là vạn vật. Vạn vật là thụ tạo.
Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta phải trả lại ngữ nghĩa nguyên thuỷ cho từ tạo vật.
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
------------------------------------------------------------------
[1] La Trúc Phong (chủ biên), NXB Thế Kỷ, Thượng Hải, 2003, tr. 1268.
[2] Châu Hà (chủ biên), NXB Ngũ Nam, Đài Loan, 2004, tr. 1944.
[3] NXB Thương Vụ, Hồng Kông, 1968, tr. 985
[4] Lục Sư Thành (chủ biên) NXB Tập Thành, Đài Loan, 1972. tr. 1275
[5] Vương Vân Ngũ, Trung Quốc, 1936, tr. 573.
[6] G. Hue, Nxb Trung Hoa, Hà Nội, 1931, tr. 439.
[7] Đào Đăng Vỹ, Saigon, 1956, tr. 1119.
[8] Đào Duy Anh, Nxb Trường Thi, Saigon, 1957, tr. 237.
[9] Guslave Hue, NXB Trung Hoa, 1937.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hình Âm Nghĩa Tổng Hợp Đại Tự Điển, Đài Loan, 1970.
2. Từ điển Hán Việt, Trung Quốc, 1994.
3. Từ Điển Hán Việt, Viện Ngôn Ngữ Học, NXB TP.HCM, TP.HCM, 2002.
4. Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ Điển, Đài Loan, 2004.
5. Giúp đọc Nôm và Hán Việt, LM. Antôn Trần Văn Kiệm, 2004.
6. Hán Ngữ Đại Từ Điển, Thượng Hải, Trung Quốc, 2003.
7. Tìm Về Cội Nguồn Chữ Hán, Lý Lạc Nghị, NXB Thế Giới, 1997.
8. Từ Điển Việt – Hán Hiện Đại, Trương Văn Giới – Lê Khắc Kiều Lục, NXB Khoa Học Xã Hội, 2005.
9. Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais, Eugène Gouin, Saigon, 1957.
10. Việt Hán Từ Điển Tối Tân, nhà sách Chin Hoa.
11. Từ điển Việt – Anh, Nguyễn Sanh Phúc và nhóm cộng tác, NXB Thế Giới, 2000.
12. Từ Điển Tiếng Việt, Viện Ngôn Ngữ Học, 2005.
- Viết bởi Lm Nguyễn Hữu Thy
Nhân thân Đức Giêsu
Đời sống hoạt động công khai của Đức Giêsu
Theo trình thuật của Tân Ước, sau khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, Đức Giêsu đã đi đến miền Ga-li-lê-a và từ đây Người bắt đầu các hoạt động công khai, loan báo Tin Mừng Cứu Sống của Nước Trời, Người kều gọi: „Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.“(x. Mt 4,12.17).
Các Môn đệ Đức Giêsu
Ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống công khai của Người, Đức Giêsu đã kêu mời một số người tham gia cộng tác với Người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng (Mc 1,14-20). Họ quả thực là những người Môn đệ của Chúa, – ít nhất là bảy mươi hai người (Lc 10,1) –, những người đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt trong Giáo Hội buổi sơ khai. Và để thực hiện sứ mệnh tông đồ ấy, các Môn đệ cũng cần phải bắt chước Người là rời bỏ gia đình, nghề nghiệp và gia sản của cải (Mc 10,28-31) và cả vũ khí hay các phương tiện khác họ cũng không được mang theo khi đi rao giảng Nước Trời. Cũng như Người, các Môn đệ phải sống hòa đồng với hết mọi người dân thường, đặc biệt với những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân và những người bị bỏ rơi,v.v… để an ủi và giúp đỡ họ; chữa lành những người bệnh tật, xua đuổi ma quỷ ra khỏi những người bị chúng hãm hại dày vò và chúc lành cho mọi người. Khi vào thăm bất cứ nhà nào họ đều cầu chúc ơn trợ giúp của Thiên Chúa cho cả gia đình ấy qua lời chúc bình an „Shalom!“
Khi vâng lệnh Chúa đi rao giảng Nước Trời cho mọi người khắp nơi mà không hề mang theo tiền bạc của cải cũng như vũ khí trong người, lại chỉ cư xử nhã nhặn thân thiện với hết mọi người và chúc „Shalom“, chúc bình an cho họ như thế, các Môn đệ đã nhận được cảm tình và sự giúp đỡ về mặt vật chất của dân chúng.(35)
Theo nhà thần học và đông phương học Geza Vermes,(36) Đức Giêsu và các Môn đệ đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi „phong trào đặc sủng“ vào thời bấy giờ tại Ga-li-lê-a với những nhà „ngoại cảm“ rất đặc biệt. Chính ông Chanina Ben Dosa (khoảng 40-75), một người thuộc phong trào Chassidismus, một phong trào thuộc Do-thái giáo, chủ trương tuân giữ các luật lệ Tora một cách nghiêm nhặt, đã từng tổ chức việc săn sóc những người già cả neo đơn và những người vô gia cư nghèo khổ cũng như chữa bệnh một cách ngoại thường bằng sự cầu nguyện và công bố Kinh Thánh.(37)
Nhưng trong số các Môn đệ đã tự nguyện theo Người, Đức Giêsu đã trạch tuyển riêng ra mười hai vị để các ngài ngày đêm luôn sống sát cánh bên Người, đồng hành và chia sẻ với Người mọi vui buồn, mọi thao thức, mọi nhọc nhằn âu lo và nhất là mọi tin tưởng hy vọng vào sự an bài của Thiên Chúa trong sứ mệnh được giao phó. Người gọi nhóm Mười Hai này là Tông đồ. Người cho việc tuyển chọn này là một vấn đề vô cùng quan trọng, vì đây là mười hai cột trụ, là mười hai tảng đá góc tường cho tòa nhà Giáo Hội, mà Người sẽ xây dựng lên. Vì thế, Người đã thức cầu nguyện suốt cả đêm để thỉnh ý Chúa Cha trước khi quyết định. Tên các ngài gồm có: Ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.”(Lc 6,12-16.)
Theo ý kiến James H. Charlesworth, Mục sư Tin Lành thuộc giáo phái Mê-thô-đít và là giáo sư về ngôn ngữ Kinh Thánh, việc Đức Giêsu chọn nhóm mười hai Tông Đồ là muốn nhấn mạnh đến những đòi hỏi cải tổ chính trị và xã hội bất bạo động của Người trong xã hội Do-thái, những đòi hỏi mà vào lúc bấy giờ người ta thường gọi là „Thời đại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thứ hai“, không tách biệt khỏi các mục đích tôn giáo của người Do-thái. Vì theo Di Chúc của các Tổ Phụ và các sử liệu khác, việc Đức Giêsu lựa chọn mười hai trong số các Môn đệ làm Tông đồ là muốn nhắc đến mười hai Chi tộc Ít-ra-en. Những chi tộc đó sẽ thống trị trái đất, một khi Thiên Chúa tái thiết nền độc lập của con cái Ít-ra-en.(38)
Trong thực tế, ý kiến này không sai, nếu được hiểu theo quan điểm thần học, tức mười hai vị Tông đồ, đại diện cho mười hai Chi tộc con cái Ít-ra-en, đã được Chúa Thánh Thần thánh hóa và sai đi khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng Cứu Rỗi của Thầy Chí Thánh hầu thiết lập một nước Ít-ra-en mới, tức Giáo Hội, bao gồm mọi dân tộc trên toàn thế giới. Vâng, Giáo Hội của Chúa, nước Ít-ra-en mới, đã, đang và sẽ “thống trị” toàn thế giới, nhưng không bằng con đường chính trị đầy tham vọng theo cách thức trần thế, mà là bằng con đường dấn thân phục vụ vô vị lợi cho hết mọi người, không phân biệt, với tất cả sự công bình, tình yêu thương và lòng khoan dung của Nước Trời.
Tương quan với Gioan Tẩy Giả
Sự kiện Đức Giêsu được Gioan tẩy Giả làm phép rửa tại sông Gióc-đan là biến cố lịch sử, vì qua biến cố đó Người khởi đầu cuộc các hoạt động công khai rao giảng Nước Trời. Dựa theo trình thuật của Phúc Âm Thánh Mát-thêu (3,7-12) và Phúc Âm thánh Luca (3,7tt) người ta có thể cho rằng ông Gioan Tẩy Giả, vốn xuất thân từ một gia đình Tư Tế (Lc 1,5), là vị Ngôn sứ của những cảnh báo nghiêm khắc, của ngày thế mạt.
Chính bản thân ngài, Gioan Tẩy Giả cũng sống một đời khổ hạnh bất thường trong một nơi hoang địa (Lc 1,80), kiêng khem tất cả, không thịt thà, không uống các thứ nước có chất men, và cả đến râu tóc cũng không hề cắt xén.(39) Ngài rao giảng và làm phép rửa cho dân chúng để họ được tha tội, nhưng với điều kiện là họ phải xưng thú tội lỗi mình và cải thiện cuộc sống. Sử gia Josephus đánh giá phép rửa của Gioan Tẩy Giả mang tính cách nghi thức tẩy rửa quen thuộc của người Do-thái.(40)
Dựa theo trình thuật của Phúc Âm thánh Mác-cô (1,14tt) chúng ta biết được Đức Giêsu đã khởi sự công việc rao giảng Tin Mừng của Người sau khi ông Gioan Tẩy Giả bị bạo vương Hê-rô-đê cầm tù. Tuy Đức Giêsu hoàn toàn độc lập với ông Gioan Tẩy Giả, chứ không phài là người kế vị hay Môn đệ của ông này, nhưng nội dung Tin Mừng mà Người rao giảng cũng gần tương tự như sứ điệp thánh Gioan đã rao truyền trước đó. Người cũng kêu mời dân chúng hãy ăn năn, cải thiện cuộc sống, trở lại đường ngay lẽ phải,(41) cảnh cáo họ trước án phạt nặng nề sẽ dành cho những ai cố chấp sống trong tội lỗi, chứ không chịu phục thiện, cải tà quy chánh (Lc 12,49; Mt 3,10).(42) Nhưng khác với ông Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu không luôn luôn đòi hỏi các Môn đệ của Người nhất thiết phải sống đời chay tịnh và khổ chế một cách quá khắt khe; trái lại, Người thường ngồi chung bàn với cả những người Do-thái mà theo Luật Tora là tầng lớp „dơ bẩn“, không được hưởng ơn cứu rỗi.(Mc 2,16-19). Người cũng không sống trong hoang địa như ông Gioan Tẩy Giả, nhưng Người rảo khắp mọi nơi, đi đến với tất cả những người Do-thái cũng như ngoại kiều bị khinh bỉ, bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội và nói cho họ biết Thiên Chúa luôn yêu thương họ và luôn mở rộng vòng tay đón tiếp và cứu rỗi họ.(43)
Đức Giêsu đồng hóa Gioan Tẩy Giả với Ngôn sứ Ê-li-a (Mc 9,13), mà người Do-thái luôn mong đợi sự trở lại của vị đại Ngôn sứ này trước ngày phán xét chung, một cuộc phán xét đáng kinh sợ mà các vị Ngôn sứ của Chúa đã loan báo (Ml 3,1; Lc 7,24-28). Vì thế, Người cũng đồng ý là phép rửa của Gioan Tẩy Giả có tác dụng cứu vớt con người trước cuộc phán xét sau cùng ấy.44 (Jens Schröter: Jesus von Nazaret. Leipzig 2006, trang 133–140.)
Có lẽ Đức Giêsu cũng hay biết việc bạo vương Hê-rô-đê ra lệnh xử tử ông Gioan Tẩy Giả (Mc 6,17tt). Hơn nữa, theo truyền thống Kinh Thánh, thì một vị Ngôn sứ bị sát hại bởi các bạo quyền và kẻ ác là một điều hầu như không thể tránh, vì „nói thật mất lòng“ hay „trung ngôn nghịch nhỉ.“(45) Đây là một điều mà Đức Giêsu đã biết rất rõ. Vâng, Người biết rằng khi Người rao giảng Tin Mừng của tình yêu thương và sự thật Nước Trời, đồng thời gay gắt kết án sự bất công, giả dối và bạo lực, v.v… Người cũng sẽ không tránh được hậu quả tồi tệ như vị Tiền Hô của Người hay các vị Ngôn sứ khác đã phải trải qua (Lc 13,32-35; Lc 20,9-19)(46) Theo trình thuật của Phúc Âm thánh Mác-cô (Mc 11,27-33) thì sau đó không lâu, để khẳng định trước những đối thủ của Người ở Giê-ru-sa-lem là Người có toàn quyền tha tội cũng như việc Người xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đã liên kết với phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả như một điều kiện để họ nhận được câu trả lời của Người. Đồng thời qua đó, Người cũng muốn khẳng định giá trị phép rửa cũng như vai trò Ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả.(47)
Tương quan với nhóm Biệt Phái
Các nhóm Biệt Phái và Luật sĩ được đề cập tới trong các bản Phúc Âm thường được coi là những người ưa moi móc và phê bình chỉ trích quan điểm của Đức Giêsu và của các Môn đệ của Người. Họ bất bình trước việc Người tự quyền tha tội cho kẻ khác (Mc 2,7), họ phản đối việc Người ngồi ăn chung bàn với những người họ cho là „dơ bẩn“ mà họ cô lập khỏi các sinh hoạt xã hội, như những người làm nghề thu thuế và những người tội lỗi (Mc 2,16) và cả việc các Môn đệ Người ăn uống bình thường, chứ không ăn chay như họ (Mc 2,18). Do đó, họ tỏ thái độ coi khinh Người và ghép người vào thành phần „ăn nhậu.“ (Lc 7,31-35.)
Họ đã đặc biệt tức giận khi thấy Đức Giêsu chữa lành các kẻ tật nguyền đau ốm vào cả Ngày Sabbat, ngày Lễ Nghỉ của người Do-thái, và cho đó là một xúc phạm đến Ngày Thánh Sabbat của Thiên Chúa (Mc 3,1-4). Theo lệnh Chúa truyền cho ông Mô-sê, tội xúc phạm Ngày Sabbat sẽ bị xử ném đá. (Xh 31,14tt; Ds 15,32-35.) Vì thế, họ đã âm mưu với các đồ đệ của bạo vương Hê-rô-đê để ám hại Người. (Mc 3,6). Nhóm họ cũng đã từng tìm cách ném đá Đức Giêsu, khi nghe Người tự cho mình đứng trên cả ông Áp-ra-ham và ông Mô-sê, những vị Tổ phụ cao cả của họ. (Ga 8,59 và 10,31.39).
Nhưng nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng những trình thuật này thiếu tính cách lịch sử, vì trong thực tế nhóm Biệt Phái không bao giờ hòa hợp hay giao tiếp thân thiện với nhóm các Luật sĩ hay với các đồ đệ của Hê-rô-đê. Những bản văn trình thuật cuộc thương khó của Chúa cũng không hề nhắc đến những xung đột giữa Người và nhóm Biệt Phái về vấn đề Ngày Sabbat. Vì thế, họ cho rằng những trình thuật này có lẽ chỉ có liên quan đến những biến cố xảy ra tại Ga-li-lê-a, khi những đối thủ của Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem âm mưu sát hại Người. (Mc 11,18; 12,13; x. Ga 11,47; 18,3)(48)
Trong khi đó, những trình thuật khác của Tân Ước lại rất gần gũi với lịch sử, ví dụ trong Phúc Âm thánh Mác-cô (2,23tt) Đức Giêsu đã biện minh cho hành động các Môn đệ Người bứt lúa ăn vào Ngày Sabbat khi họ đi dọc đường và đói, vì trong trường hợp người ta quá đói thì việc làm đó được phép và không bị coi là lỗi Ngày Sabbat, vì theo Người việc cứu mạng sống con người quan trọng hơn việc giữ luật.
Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng không phải tất cả nhóm Biệt Phái luôn chống báng và tẩy chay Đức Giêsu. Nhiều người trong họ rất kính trọng và có cảm tình với các giáo huấn của Người, nên đã từng mời Người đến nhà mình dùng cơm. (Lc 7,36; 11,37.) Một Luật sĩ ở Giê-ru-sa-lem còn nhất trí với Người và cho rằng tất cả mọi Giới Răn Thiên Chúa được tóm tắt lại trong hai Giới Răn trọng yếu duy nhất là „mến Chúa và yêu người.“ Sự tóm lược này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Do-thái. Cả việc mong đợi Nước Thiên Chúa và niềm xác tín về sự sống lại của những người đã qua đời đều trùng hợp với quan điểm giáo lý của nhóm Biệt Phái. Hơn thế nữa, họ còn tìm cách cứu Đức Giêsu thoát khỏi sự lùng bắt của bạo vương Hê-rô-đê, (Lc 13,31-32) và nhất là một người trong họ đã lo việc táng xác Người. (Ga 19,39).
Theo nhiều nhà khảo cứu Kinh Thánh ngày nay cho rằng trên thực tế Đức Giêsu gần gũi với nhóm Biệt Phái nhiều hơn tất cả những đơn vị người Do-thái khác vào lúc bấy giờ. Tuy thế, họ vẫn được coi là những đối thủ của Đức Giêsu, và vấn đề được giải mã sau biến cố Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị quân Rôma phá hủy vào năm 70 SCN, vì sau đó nhóm Biệt Phái chính là những người giữ vai trò lãnh đạo trong Do-thái giáo. Người Do-thái và các Kitô hữu phân biệt lẫn nhau và cùng nhìn nhận điều đó qua những văn thư hay sách vở của họ trong quá khứ, chứ ngày nay cả hai phía cùng tiến gần và sát cánh với nhau đặc biệt trong các công trình nghiên cứu Kinh Thánh. Đó là một điểm son mà chắc chắn sẽ được Trời Cao chúc phúc.(49)
Tương quan với nhóm Xa-đốc
Những đối thủ nặng ký nhất của Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem là nhóm Xa-đốc, vốn được đào tạo theo văn hóa Hy-lạp và là tầng lớp giàu có. Với cương vị là những người thừa kế chức Tư Tế của Chi tộc Lê-vi, họ phụ trách việc trông coi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Như đã trình bày trong phần I về lịch sử Ít-ra-en, Chi tộc Lê-vi là Chi tộc duy nhất trong mười hai Chi tộc Ít-ra-en không được chia đất đai, nên việc dâng cúng vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, mà tất cả mọi người Do-thái đều phải tuân giữ, là nguồn thu nhập chính thức và hợp pháp của họ, và đồng thời là yếu tố kinh tế quan trọng cho toàn xứ Pa-lét-ti-na lúc bấy giờ.(50) Nhóm Xa-đốc đề cử vị Thượng Tế, tức người nắm giữ vai trò tối cao trong các quyết định thuộc lãnh vực tế tự trong Đền Thờ Thiên Chúa. (Đnl 17,8-13).
Nhưng từ thế kỷ VI SCN, vai trò những vị Thượng Tế đều do nhà cầm quyền Rôma đề cử, chỉ định hay truất phế. Vị Thượng Tế có trách nhiệm phải giúp đỡ nhà cầm quyền Rôma giữ gìn an ninh trong toàn xứ Giu-đê-a và Sy-ri-a. Bù lại họ được phép thu thuế Đền Thờ mà tất cả mọi người Do-thái đều phải nộp, quản trị việc tế tự trong Đền Thờ, được phép lập một đội quân canh giữ Đền Thờ có trang bị khí giới và được phép kết án những sai phạm trong vấn đề tế tự thuộc phạm vi Đền Thờ, nhưng không được phép kết án tử cho bất cứ ai, vì vấn đề này hoàn toàn thuộc nhà cầm quyền Rôma mà thôi.(51) Và tuy ảnh hưởng của họ trong xã hội Do-thái lúc bấy giờ tương đối khiêm tốn, nhưng họ cũng duy trì ổn định được vấn đề thu thuế cho Đền Thờ và các luật lệ tế tự.
Đối với Đức Giêsu, trên nguyên tắc Người không hề phủ nhận vai trò các vị Tư Tế trong Đền Thờ, trái lại Người luôn tôn trọng quyền bính của họ. Bằng chứng là khi chữa lành một bệnh nhân tại Ga-li-lê-a, Người đã sai người đó đến trình diện các vị Tư Tế theo luật dạy, để các ngài chứng thực người ấy đã lành bệnh và cho anh ta được tái hòa nhập vào cuộc sống xã hội.(Mc 1,44). Người cũng nhìn nhận công cuộc dâng cúng của dân chúng vào Đền Thờ qua việc Người đã khen ngợi hành động dâng cúng của một bà góa vượt trội hơn những gì mà các người giàu có đã làm cho Đền Thờ Thiên Chúa. (Mc 12,41). Tuy nhiên, đối với Đức Giêsu, việc tha thứ và sống hài hòa với những người khác trong cuộc sống hằng ngày còn quan trọng hơn cả việc dâng cúng của lễ vào Đền Thờ. (Mt 5,23-24.)
Tương quan với nhóm Xê-lốt
Đức Giêsu bước vào cuộc sống công khai trong một tình trạng xã hội đầy căng thẳng cả về mặt tôn giáo lẫn chính trị của đất nước vào lúc bấy giờ. Ở Ga-li-lê-a, cựu vương quốc Ít-ra-en phía bắc trước kia, đã từ bao thế hệ qua luôn có những nhóm giải phóng quân lập chiến khu chống lại chính quyền bảo hộ ngoại bang. Kể từ thế kỷ thứ VI sau Công Nguyên (SCN) khi nhóm Giu-đa Ga-li-le-út nổi lên chống việc nộp thuế cho chính quyền bảo hộ bị đánh dẹp, lại liên tiếp có nhiều nhóm dân quân giải phóng khác nổi dậy chống lại sự đô hộ của quân Rôma bằng tất cả mọi phương tiện. Họ căm thù chính quyền đô hộ và tìm cách phá bỏ cả những hình ảnh của hoàng đế Rôma, những biểu tượng của quân lính và của các quan chức đô hộ. Nhiều cảm tử quân còn dùng dao ám sát các quan chức Rôma. Ngày nay người ta gọi nhóm này là Xê-lốt (Zeloten) và có nghĩa là „những người nhiệt thành“, hay „những người quá khích“, còn xưa kia quân Rôma và nhà sử học thân Rôma Josephus lại khinh bỉ gọi họ là những „tên cướp“ hay những „kẻ sát nhân.“(52)
Giữa một bầu không khí ngột ngạt và đầy bạo động như thế, Đức Giêsu công bố cho tất cả mọi người Do-thái sứ điệp cánh chung về Nước Thiên Chúa đang đến gần. Qua đó, Người đã công khai kêu mời chấm dứt sự thống trị của bạo lực. Mọi hoạt động của Người đều nhằm thiết lập Nước Thiên Chúa, nhằm mang lại sự bình an cho tất cả mọi tâm hồn. Qua việc chữa lành các thứ bệnh tật cho dân chúng và việc truyền bá tinh thần bất bạo động cũng như việc thiết lập sự an bình trong cuộc sống xã hội, Đức Giêsu muốn hoán cải cả những bạo quyền chỉ biết áp bức và bóc lột dân (Mc 10,42).
Vì thế, cũng như nhóm Xê-lốt, Người đã gọi ông vua bù nhìn Hê-rô-đê An-ti-pát là „cáo già.“ Trong lần chữa lành một người bị quỷ ám tại thành phố Ghê-ra-sa, nơi có căn cứ quân sự vĩ đại của chính quyền đô hộ đồn trú, ma quỷ đã tự xưng mình là „binh đoàn“ và xin phép Người được nhập vào đàn heo đang lúc nhúc gần đó, nếu Người trục xuất nó ra khỏi người đang bị nó nhập, và rồi cả đàn heo đều nhảy xuống biển chết hết (Mc 5,1-20). Qua sự kiện đó, có lẽ Đức Giêsu muốn ám chỉ và cảnh cáo quân lính đô hộ Rôma rồi đây cũng sẽ bị tước đoạt mọi quyền lực.(53) Bởi vì, người Do-thái vốn coi loài heo là con vật dơ bẩn, còn người Rôma cùng thời lại sử dụng thịt heo để dâng cúng các vị thần linh của họ và họ cũng sử dụng hình ảnh con heo làm biểu tượng cho đạo binh của họ nữa.
Tiếp đến, tuy Đức Giêsu rao giảng sự bất bạo động, nhưng Người không phủ nhận quyền tự vệ chính đáng của mỗi người. Do đó, trước khi Người và các Môn đệ lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem và phải vượt qua hàng trăm cây số đường bộ với bao nguy hiểm đang rình rập, nên chẳng những Người cho phép các Môn đệ được sắm sửa một số khí giới tùy thân tối thiểu, mà Người còn bảo họ: „Ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua.“ (Lc 22,36.)(54)
Qua bài ca Ngợi khen Magnificat của Đức Maria (Lc 1,46-55.) và sự tung hô chào mừng của khách hành hương thập phương dành cho Đức Giêsu khi Người long trọng tiến vào thành Giê-ru-sa-lem (Mc 11,9-10), nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh đã cho rằng sự kiện đó mang một chiều kích chính trị tượng trưng hay gián tiếp của công cuộc rao giảng Nước Trời của Người.(55) Bởi vậy, một vài người trong số các Môn đệ của Người trước kia từng thuộc nhóm Xê-lốt, như Si-mon Xê-lốt (Lc 6,15).(56)
Nhưng hoàn toàn khác với nhóm Xê-lốt, Đức Giêsu kêu mời cả những người thu thuế, những người phục vụ cho chính quyền đô hộ Rôma, mà quan niệm người Do-thái lúc bấy giờ vẫn cho là những người „dơ bẩn“, làm Môn đệ của Người và Người cũng thường là khách mời của những người này. (Mc 2,14tt.) Dĩ nhiên với mục đích là để biến đổi cuộc sống cũng như thái độ của họ đối với những người nghèo khổ. (Lc 19,1-10).
Đồng thời cũng khác với những người chỉ muốn kết án những kẻ không đồng quan điểm với họ bằng bạo lực, Đức Giêsu lại mời gọi mọi người hãy thương yêu kẻ thù và cứu giúp cả những người làm hại mình. (Mt, 5,38-48.) Đây là điểm son của Tin Mừng Đức Giêsu, của tôn chỉ và giáo lý Kitô giáo, mà không một tôn giáo nào khác có được.
Đối với nhóm Xê-lốt, những đồng tiền đang lưu hành được chạm khắc hình hoàng đế Rôma là một xúc phạm đến luật cấm của Kinh Thánh trong việc vẽ, đúc hay tạc các tượng ảnh.(Xh 20,4tt.) Đó là lý do khiến họ từ chối việc nộp thuế cho Rôma. Trong khi đó, Đức Giêsu lại hành động rất hợp lý trong vấn đề thuế má. Người hoàn toàn chống lại tất cả mọi bất công và áp bức, nhưng Người lại luôn tôn trọng trật tự hiện hành của xã hội trần thế. Quan điểm của Đức Giêsu về vấn đề này được thể hiện trong một câu phát biểu vô cùng sâu sắc, hợp lý và thời danh của Người: „Của Xê-da hãy trả cho Xê-da; của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa.“ Mc 12,17.)
Qua câu nói của Người trong Phúc Âm thánh Mát-thêu: „Không ai có thể làm tôi hai chủ được, hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được“ (6,24), Đức Giêsu đòi hỏi toàn diện con người – linh hồn, thể xác, tư tưởng, lời nói và hành động, v.v… – phải hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Một số người cho rằng sự đòi hỏi này có thể được hiểu là sự từ chối nộp thuế cho hoàng đế, nhưng sự quyết định là của người nghe. Tuy nhiên, các Thánh Sử đã bác bỏ sự diễn giải câu nói của Chúa một cách tùy tiện như thế.(Lc 23,2tt.)(57)
Những hoạt động của Đức Giêsu có tạo ra những phản ứng mang tính cách chính trị hay không, thì chính cuộc tử nạn thập giá của Người vào một Ngày Đại Lễ của người Do-thái là câu trả lời cho sự thắc mắc đó. Một số nghiên cứu gần đây về các hoạt động của Đức Giêsu, thì cho rằng Người có tham dự một phần nào đó vào phong trào nổi dậy của nhóm Xê-lốt người Do-thái và qua đó họ cho rằng sự kết cục đầy đau thương của Người là một hậu quả tất yếu không thể tránh được cho các hành động của Người.(58) Nhưng đa số các nhà chuyên môn về Kinh Thánh Tân Ước người Đức kỳ cựu, thì quả quyết rằng những hoạt động của Đức Giêsu hoàn toàn không dính dáng gì đến chính trị. Việc xử tử Người với tội danh „tự cho mình là vua Do-thái“ là cả một bất công, một sự sai lầm lịch sử.(59)
(Trích trong: Lm JB. Nguyễn Hữu Thy: Tôi Đi Hành Hường Thánh Địa Ít-ra-en, Trier 2014, trang 91-107)
Chú thích
35. Gerd Theißen: Soziologie der Jesusbewegung. Ein Beitrag zur Entstehungsgeschichte des Urchristentums. (1977) Christian Kaiser, 7. Auflage. Gütersloh 1997 (1. A. 1979), ISBN 3-579-05035-4; được trích dẫn trong: Wolfgang Reinbold: Propaganda und Mission im ältesten Christentum: Eine Untersuchung zu den Modalitäten der Ausbreitung der frühen Kirche. Vandenhoeck & Ruprecht, Göttingen 2000, ISBN 3-525-53872-3, trang 226-240.
36. Geza Vermes (1924-2013) người Anh gốc Do-thái, cùng với cha mẹ ông đã trở lại đạo Công Giáo và ông đã được chịu chức Linh Mục. Nhưng vì bất mãn với Giáo Hội, ông đã không những rời bỏ Công Giáo nhưng còn đánh mất cả đức tin Kitô giáo và trở lại Do-thái giáo.
37. Géza Vermès: Jesus the Jew: a historian's reading of the Gospels. SCM Press, 1983, trang73ff.; Gerd Theißen, Anette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 278).
38. James H. Charlesworth: The Historical Jesus, An Essential Guide. Nashville 2008, trang 107.
39. H. H. Schader: Nasiraios. In: Gerhard Kittel (Hrsg.): Theologisches Wörterbuch zum Neuen Testament Bd. IV, Sp. 879–884.
40. Flavius Josephus: Antiquitates 18, 116–119; Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 184–191.
41. Josef Ernst: Johannes der Täufer: Interpretation, Geschichte, Wirkungsgeschichte. Walter de Gruyter, Berlin 1989, trang 156tt.
42. Martin Karrer: Jesus Christus im Neuen Testament. Göttingen 1998, trang 267.
43. Jürgen Becker: Jesus von Nazaret, Berlin 1996, trang 99.
44. Jens Schröter: Jesus von Nazaret. Leipzig 2006, trang 133–140.
45. x. bài viết với tựa đề Johannes der Täufer II. In: Theologische Realenzyklopädie Band 17, Walther de Gruyter, Berlin 1988, trang 177.
46. (Joachim Jeremias: Der Opfertod Jesu Christi. In: Bertold Klappert: Diskussion um Kreuz und Auferstehung, Aussaat Verlag, Wuppertal 1967, ISBN 3-7615-4661-0, trang 179tt).; Jens Schröter: Jesus von Nazaret. Leipzig 2006, trang 272 f.
47. Jostein Adna: Jesu Stellung zum Tempel: Die Tempelaktion und das Tempelwort als Ausdruck seiner messianischen Sendung. Mohr/Siebeck, Tübingen 2000, trang 292tt.
48. Lorenz Oberlinner: Todeserwartung und Todesgewißheit Jesu. Zum Problem einer historischen Begründung. Katholisches Bibelwerk, Stuttgart 1980, trang 64 tt.
49. Klaus Berger: Jesus als Pharisäer und frühe Christen als Pharisäer. NT30 1988), trang 231–262; John P. Meier: A Marginal Jew: Rethinking the Historical Jesus Band 3, Bantam Doubleday Dell Publishing Group, 2001, ISBN 0-385-46993-4, trang 289–388; Hyam Maccoby: Jesus the Pharisee, SCM Press, 2003, ISBN 0-334-02914-7.
50. Christoph Niemand: Jesus und sein Weg zum Kreuz. Stuttgart 2007, trang 234.
51. Peter Egger: „Crucifixus Sub Pontio Pilato“. Das „Crimen“ Jesu von Nazareth im Spannungsfeld römischer und jüdischer Verwaltungs- und Rechtsstrukturen. Münster 1997, trang 202.
52. Martin Hengel: Die Zeloten: Untersuchungen zur jüdischen Freiheitsbewegung in der Zeit von Herodes I. bis 70 n. Chr. Mohr Siebeck, 3., durchgesehene und ergänzte Auflage, Tübingen 2012, ISBN 3-16-150776-2, trang 390; Otto Michel, Otto Betz: Josephus-Studien. Vandenhoeck und Ruprecht, 1974, ISBN 3-525-53553-8, các trang 176 và 189.
53. Wolfgang Stegemann: Jesus und seine Zeit. 2010, trang 37.
54. Martin Karrer: Jesus Christus im Neuen Testament. 1998, trang 275.
55. Gerd Theißen: Die politische Dimension des Wirkens Jesu. trong: Gerd Theißen (Hrsg.): Jesus in neuen Kontexten, trang 118 tt.
56. Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 167.) và có lẽ cả Si-mon Phêrô và Giu-đa Ít-ka-ri-ốt. (Jürgen Moltmann: Der gekreuzigte Gott. München 1972, ISBN 3-459-00828-8, trang 132.
57. Martin Karrer: Jesus Christus im Neuen Testament. trang 268.
58. x. Samuel George Frederick Brandon: Jesus and the Zealots. 1967; Martin Hengel: War Jesus revolutionär?, 1970; Oscar Cullmann: Jesus und die Revolutionäre seiner Zeit, 1970; Hyam Maccoby: Jesus und der jüdische.
59. Rudolf Bultmann: Das Verhältnis der urchristlichen Glaubensbotschaft zum historischen Jesus. 1960).
Lm Nguyễn Hữu Thy
- Viết bởi Lm Nguyễn Hữu Thy
Nhân thân Đức Giêsu
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Nhập Thể, nghĩa là Người vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Đó là niềm xác tín của Kinh Tin Kính Kitô giáo. Nhưng đã là người thật, thì Đức Giêsu cũng phải chịu những điều kiện của phạm trù thời gian và không gian như bao phàm nhân khác. Vì thế, Đức Giêsu cũng có cha có mẹ, đã được sinh, mang một tên gọi riêng, có một tổ quốc, có một quê hương, v.v…!
Thánh danh „Jesus“ – „Giêsu“
Tên „Jesus“ được la-tinh hóa từ tiếng Hy-lạp cổ Ἰησοῦς. Đó cũng là hình thức viết tắt từ „Jeschua“ (hay Jeschu) trong tiếng Arménien, được phiên dịch từ tiếng Do-thái „Jehoschua“, tên gọi của người Do-thái thuộc nam giới. Còn từ „Jehoschua“ được ghép lại bởi hai từ khác là „Jeho“ – tên Thiên Chúa JHWH – và động từ „jascha“ trong tiếng Do-thái và có nghĩa là giúp đỡ hay cứu vớt.(1)
Như vậy, tên „Jesus“ trong tiếng La-tinh hay được phiên âm ra thành „Giêsu“ trong tiếng Việt có nghĩa „Thiên Chúa là sự cứu rỗi“ hay „Thiên Chúa trợ giúp“ (x. Mt 1,21; Cv 4,12). Trong truyền thống Do-thái cổ, hình thức tên gọi như thế là một điều bình thường, chứ không cần phải bổ túc thêm bằng cách đặt thêm một tên gọi khác bằng tiếng Hy-lạp hay La-tinh hay đặt thêm một tên mới khác.(2)
Một vài chỗ khác trong Phúc Âm thay vì xưng tên „Giêsu“ người ta gọi Người là „Con ông Giuse“ (x. Lc 3,23; 4,22) hay „Con bà Maria“ (Mc 6,3; Mt 13,55), hay gọi Người là „người thành Na-da-rét“ để nói lên nơi Người xuất thân. (x. Mc 1,9; Mt 2,23). Phúc Âm ghi rõ:
„Ông (Giuse) đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.“(Mt 2,23).
Ngày sinh nhật và cuộc tử nạn của Đức Giêsu
Các Kitô hữu tiên khởi không hề đặt ra vấn đề về ngày tháng và năm sinh của Đức Giêsu. Việc hai thánh sử Mát-thêu (2,1tt) và Luca (1,5) trình thuật Đức Giêsu được sinh ra dưới thời Hê-rô-đê đại đế còn trị vì là một điều khả tín. Vì thế, Đức Giêsu rất có thể được sinh ra vào giữa các năm thứ 7 và 4 trước Công Nguyên (TCN).(3)
Những nỗ lực tìm cách xác định ngày tháng năm sinh của Đức Giêsu một cách chính xác dựa theo những trình thuật trong Phúc Âm hay theo khoa thiên văn học, thì nếu xét về mặt khoa học không phải là một bảo đảm chắc chắn.(4) Vì thế, việc tính năm sinh của Đức Giêsu theo niên lịch Kitô giáo, tức lấy năm sinh của Đức Giêsu làm năm thứ nhất của niên lịch như hiện nay là một sự nhầm lẫn.
Ví dụ:
Phúc Âm thánh Luca (2,2) ghi „đây là cuộc kiểm tra dân số, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Syria.“ Nhưng theo các nguồn sử liệu của Rôma, cuộc kiểm tra dân số chỉ được thực hiện vào năm thứ 6 hay thứ 7 sau Công Nguyên (SCN), còn một cuộc kiểm tra dân số sớm hơn là một điều không thể chứng minh được.(5) Vì thế, đa số cho rằng đoạn văn trình thuật của thánh sử Luca ở trên (2,2) là một sự ghi nhận niên biểu sai lầm, vì chỉ muốn khẳng định Bét-lê-hem là nơi Chúa sinh ra.(6)
Các bản Phúc Âm thường chỉ trình thuật từ năm thứ nhất cho tới ba năm cuối cùng của Đức Giêsu. Theo Phúc Âm thánh Luca (3,1), ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện „vào năm thứ 15 dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô.“ Theo sự dẫn chứng chính xác duy nhất về niên biểu trong Tân Ước, Đức Giêsu khởi đầu cuộc sống công khai của Người sớm nhất vào năm thứ 28, ngay sau khi ông Gioan Tẩy Giả bị cầm tù (x Mc 1,14). Và người ta cho rằng Đức Giêsu vào lúc bấy giờ vào khoảng 30 tuổi (Lc 3,23)(7)
Theo Kinh Thánh Tân Ước, dưới áp lực của các Thượng Tế và tầng lớp lãnh đạo Do-thái vào lúc bấy giờ, Pontiô Phi-la-tô, tổng trấn xứ Giu-đê-a từ năm 26 đến năm 36, đã ra lệnh xử tử Đức Giêsu vào ngày thứ sáu, một ngày trước ngày Sabbat trong thời gian mừng Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Đối với các Thánh Sử của Phúc Âm Nhất Lãm, biến cố xảy ra vào chính Ngày Lễ, sau buổi chiều trước Lễ Vượt Qua, tức vào ngày 15 tháng Nisan trong niên lịch Do-thái; còn theo Phúc Âm thánh Gioan, ngược lại biến cố xảy ra vào buổi chiều trước Lễ Vượt Qua, tức vào ngày 14 tháng Nisan. Vậy, nếu tính theo niên lịch và thiên văn học thì ngày 15 tháng Nisan thuộc các năm 31 và 34 SCN, còn ngày 14 tháng Nisan là một ngày thứ sáu thuộc các năm 30 và 33. Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh cho rằng xét về mặt lịch sử, niên biểu trong Phúc Âm thánh Gioan là khả tín.(8) Đa số cho rằng có lẽ năm 30 là năm Chúa chịu chết, vì thánh Phaolô thành Tarsus trở lại đạo vào giữa các năm 32 và 35 SCN.(9) Và cũng theo đó, Đức Giêsu vào trạc tuổi giữa 30 và 40.
Nơi sinh của Đức Giêsu
Dưới cái nhìn khoa học, thì những trình thuật về biến cố giáng sinh của Đức Giêsu trong Tân Ước (Mt 1-2; Lc 1-2) mang tính chất truyền kỳ, có nhiều điểm khác biệt nhau và chứa đựng nhiều đặc tính thuộc thần bí học, những điều mà người ta không tìm thấy trong Phúc Âm thánh Mác-cô.(10)
Trong những trình thuật ấy, các tác giả còn đề cập tới gia phả tổ tiên của Đức Giêsu (Mt 1; Lc 3), Thiên Thần loan báo biến cố giáng sinh (Lc 1,26), sự thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, sự đồng trinh của Đức Mẹ khi sinh con (Mt 1,18; Lc 1,35), sự kính viếng của các đạo sĩ phương đông (Mt 2,1) và ngôi sao lạ đã dẫn đường cho các ngài đến nơi con trẻ được sinh ra (Mt 2,2), việc Hê-rô-đê tàn sát các hài nhi (Mt 2,13; x. Xh 1,22) và cuối cùng là biến cố Thánh Gia Thất trốn sang Ai-cập. (Mt 2,16tt.)
Lưu truyền cho rằng Đức Giêsu giáng sinh tại Bê-lem (Mt 2,1tt; Lc 2,4), vì dựa theo lời tiên báo được ngôn sứ Mi-kha (5,1) ghi lại, thì Đức Giêsu „Con vua Đa-vít“ phải được sinh ra tại chính quê hương của vua Đa-vít là Bê-lem (1Sm 20,6.).(11) Đó là niềm xác tín của các Kitô hữu tiên khởi và qua đó họ khẳng định rằng Đức Giêsu quả thật là Đấng Mê-si-a, là Đấng Cứu Thế.(Rm 1,3)(12)
Còn các nhà sử học thường cho rằng Đức Giêsu được sinh hạ tại thành Na-da-rét và địa danh này cũng được coi là sinh quán của cha Người và cũng là trú quán của cả gia đình Người (x. Mc 6,1tt; Mt 13,54; Lc 2,39), đồng thời chính ở đây Người đã lớn lên và trưởng thành. (Lk 4,16.22) (13)
Theo khám phá mới nhất của khoa khảo cổ học về các nhà cửa và các đồ gia dụng, địa danh Na-da-rét với dân số tối đa khoảng chừng 400 người vào thời Đức Giêsu là một điều minh nhiên.(14)
Gia đình Đức Giêsu
Theo trình thuật của Phúc Âm thánh Mác-cô (6,3), Đức Giêsu là “Con đầu lòng của bà Maria.” Thánh Giuse không hề được đề cập tới trong bản Phúc Âm Mác-cô. Trong khi đó, bản gia phả của Người (Mt 1,16; Lc 3,23) đã nhấn mạnh đến dòng dõi phụ hệ nguyên thủy của Người và cho rằng Người là “Con ông Giuse.” Chính Mẹ Người và những cư dân xứ Ga-li-lê-a cũng gọi Người tương tự như thế. (Lc 2,48; Ga 6,42.).
Phúc Âm thánh Luca (Lc 2,21) cũng trình thuật Đức Giêsu chiếu theo luật Tora được cắt bì vào ngày thức tám và theo truyền thống Do-thái Người cũng sẽ được đặt tên theo tên gọi của cha Người, tức „Jeschua ben Josef“, như Phúc Âm Luca (4,22) đã chứng thực. Nhưng sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả ở sông Gióc-đan, các Thánh Sử của Phúc Âm Nhất Lãm không còn nói đến ông Giuse nữa.
Hiện tượng im lặng này đã gây ra nhiều suy diễn khác nhau. Học giả Bruce Schilton, một nhà chuyên môn về Kitô giáo và Do-thái giáo, đã dựa theo Phúc Âm thánh Mát-thêu 1,18 để cho rằng Đức Giêsu đã được thụ thai trước khi hôn nhân giữa Maria và Giuse chính thức thành sự và ông Giuse đã qua đời sớm. Bởi vậy, trước mắt những người đồng hương của Người ở Na-da-rét, Đức Giêsu bị coi là con ngoại hôn (tiếng Do-thái: ממזר, mamzer) và không được quyền thừa hưởng gia tài (x. Ga 8,41). Hơn nữa, ông Giuse qua đời sớm, nên không một ai có quyền chứng thực quyền làm cha của ông.(15)
Về phía người Do-thái cũng đã từng có những châm biếm chống lại giáo huấn của Giáo Hội về việc Đức Giêsu được sinh ra bởi mẹ đồng trinh. Trong tác phẩm minh giáo „Contra Celsum“ của ông, Origenes gay gắt chống lại triết gia thời cổ đại Aulus Cornelius Celsus, người luôn lên tiếng phê bình và thóa mạ Kitô giáo một cách vô bằng cứ(16) và cho rằng Đức Giêsu là con ngoại hôn của người yêu của Mẹ Người có tên là „Panthera“.(17)
Trong khi đó, nhiều nhà chú giải chân chính về Tân Ước cho rằng cương vị làm cha của ông Giuse là điều tất yếu và ngài vốn xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít.(18)
Theo Phúc Âm thánh Mác-cô 6,3, Đức Giêsu có bốn người anh em – Gia-cô-bê, Gio-xết, Giu-đa và Si-mon – và một vài người chị em gái không được nêu tên. Tên của những người anh em của Chúa được gọi theo tên của một vài người trong mười hai người con của ông Gia-cóp và việc Đức Giêsu với tư cách là con trai đầu lòng đã được dâng hiến cho Thiên Chúa trong Đền Thờ đúng theo luật Tora (Lc 2,23) đã nói lên rằng gia đình của Người là một gia đình Do-thái đạo hạnh. Còn cụm từ „anh em“ hay „chị em“ được dùng ở đây không hẳn là anh chị em ruột, nhưng theo cách thức sử dụng ngôn ngữ của Kinh Thánh, thì cụm từ „anh em“ hay „chị em“ cũng được hiểu là anh chị em họ.(xem Google „Geschwister Jesu.“ Lối giải thích này biện minh cho tín điều „Đức Maria trọn đời đồng trinh“ của Giáo Hội Công Giáo Rôma và của Giáo Hội Chính Thống.(19)
Theo tất cả bốn bản Phúc Âm, cuộc sống hoạt động công khai của Đức Giêsu đã gây ra bất bình giữa Người với anh em bà con của Người, vì họ cho rằng Người đã không chu toàn Điều Răn Thứ Bốn của Thập Giới Điều của Thiên Chúa „Ngươi hãy thờ cha kính mẹ“ (Xh 20,12; Đnl 5,16) đối với Mẹ Người và dòng họ Người, vì Người đã bỏ gia đình để đi giảng đạo khắp mọi nơi trong nước. Sự diễn giải và hiểu biết Kinh Thánh thời bấy giờ cho rằng những đứa con trai đầu lòng là phải ở nhà lo cho cha mẹ và dòng tộc của mình, chứ không được tự do đi xa gia đình làng xóm. (20) Vì thế, những người bà con họ hàng của Người đã tìm cách giữ Người ở lại trong gia đình và khi dự định của họ bất thành thì họ cho rằng Người bị điên khùng (Mc 3,21).
Nhưng một trong những điều kiện theo Chúa là phải từ giã gia đình và những người thân thuộc của mình (Mt 10,37; Lc 14,26). Đây là điều kiện mà người ta cho rằng chính những người sống trong cộng đoàn Qumran (tương tự một Dòng Tu) vào thời bấy giờ cũng thực hành. Và cũng như họ, Đức Giêsu đã công khai đòi hỏi những người muốn sống theo lý tưởng của Người cũng phải sống „vô gia đình“, không lập gia đình riêng. Bằng cứ là các Môn đệ đầu tiên của Người bỏ lại cha mình cùng những người làm công cho họ để đi theo Người (Mc 1,20).(21)
Điều kiện ấy vẫn tiếp tục được áp dụng trong Giáo Hội Công Giáo cho tới ngày nay: Tất cả những ai muốn sống đời Tu Dòng hay vào hàng Giáo Sĩ đều buộc phải sống độc thân với ba lời khấn. Đức Giêsu muốn các Môn đệ của Người phải từ bỏ gia đình và sự ràng buộc máu mủ tự nhiên để lập nên một gia đình mới, gia đình „siêu nhiên“ hay cũng được gọi là „linh tông“, gồm những kẻ chỉ tìm kiếm Nước Trời và sống theo Phúc Âm, như Người đã giải thích cho họ: „Ai thực thi thánh ý Thiên Chúa là anh, là chị và là mẹ của tôi“ (Mc 3,35), chứ không phải để loại bỏ hay giảm thiểu giá trị thể chế gia đìnhTrong khi đó, các thầy Kinh sư Do-thái cũng đòi hỏi sự tuân phục đối với luật Tora, tức tuân phục đối với cha mẹ mình, nhưng họ lại không đòi hỏi phải hoàn toàn tách rời khỏi gia đình. (22) Chúng ta cũng đừng vội lầm tưởng rằng Đức Giêsu loại bỏ Điều Răn Thứ Bốn. Không bao giờ. Chẳng những Người không loại bỏ mà còn đòi buộc người ta phải chu toàn luật thảo hiếu đối với cha mẹ mình một cách đúng đắn (Mc 7,8-12), chứ không vì bất cứ lý do gì, kể cả những lời thề hứa này nọ để có thể miễn trừ khỏi phải thảo hiếu với cha mẹ mình được.(23)
Vì các người đồng hương Na-da-rét hoàn toàn chối từ các giáo huấn của Người và tẩy chay Người (Mc 6,1-6), nên Đức Giêsu không còn trở lại đó nữa. Nhưng bù lại, có những phụ nữ đạo đức quen biết lo lắng giúp đỡ Người và các Môn đệ của Người, và họ còn trung thành tin tưởng vào Người ngay cả sau cuộc khổ nạn của Người. (x. Mc 1,31; 15,41). Còn đối với Mẹ Người, Người luôn kính yêu và cả ngay khi còn hấp hối trên thập giá Người vẫn tìm cách lo lắng cho Mẹ Người trong những năm tháng kế tiếp (x. Ga 19,26tt). Riêng các anh em họ hàng của Người, tuy „họ không tin vào Người“ (Ga 7,5), nhưng sau khi Người qua đời, một số trong họ đã cùng với Mẹ Người hợp tác với các Tông đồ để lập nên giáo đoàn tiên khởi. (Cv 1,14; 1 Kor 9,5; Gal 1,19). Và về sau, chính ông Gia-cô-bê, người đã được chứng kiến Đức Giêsu phục sinh (1 Cr 15,7), đã trở thành người điều khiển giáo đoàn tiên khởi Giê-ru-sa-lem này (Gl 2,9).
Trong một trích dẫn của nhà giáo sử Eusebius từ các sử liệu của thánh Hegesippus (100-180), một nhà giáo sử thời danh thuộc thế hệ các Kitô hữu tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem, trong cuộc bắt đạo và tàn sát các Kitô hữu của ông ta vào năm 90 SCN, hoàng đế Domitian đã ra lệnh giam cầm cả những người cháu chắt của Chúa Cứu Thế và tra khảo họ. Và trong cuộc khảo cung này, có lẽ những người bà con của Chúa đã khai ra họ là hậu duệ của dòng tộc vua Đa-vít, nhưng có lẽ vì những tham vọng chính trị của ông cũng như nhìn thấy tình trạng cuộc sống nông dân nghèo nàn của những người này, hoàng đế Domitian đã phủ nhận điều họ khai và ông đã ra lệnh thả tự do cho họ. Sau đó, chính những người bà con cháu chắt này của Chúa đã trở thành những thành phần nòng cốt của giáo đoàn tiên khởi. Điều đó cũng muốn nói rằng sự khẳng định Đức Giêsu là hậu duệ của vương triều Đa-vít là một điều khả tín.(24)
Ngôn ngữ và nghề nghiệp của Đức Giêsu
Là người Do-thái sống ở xứ Ga-li-lê-a, tất nhiên ngôn ngữ thông dụng hằng ngày của Đức Giêsu vào lúc bấy giờ là tiếng Arménienne hay Aramäisch thuộc phía tây. Điều này được phần Kinh Thánh Tân Ước chứng thực qua một vài trích dẫn những lời phát biểu bằng tiếng Aramäisch của Đức Giêsu. Mặc dầu người ta có thể chuyển ngữ những kiểu nói và phát biểu trong tiếng Hy-lạp sang tiếng Aramäisch, nhưng qua những khám phá của Joachim Jeremias, nhà thần học Tin Lành và là nhà chuyên môn về đông phương học, từng đã sống và làm việc tại Giê-ru-sa-lem, người ta có được tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt được „sự chính xác“ giữa những lời phát biểu của Đức Giêsu và những diễn giải của các Kitô hữu tiên khởi. (25)
Một điều chúng ta cũng không nên quên là ở Palestina vào thời Đức Giêsu người ta hầu như không còn nói thứ tiếng Do-thái như được sử dụng trong Kinh Thánh nữa. Tuy nhiên Đức Giêsu vẫn có thể đọc và hiểu được tiếng Do-thái cổ ấy, dẫn chứng là Người đã từng đọc Kinh Thánh Tanach (tiếng Do-thái: תנ״ך TNK) bằng thứ tiếng ấy trong các Hội đường Do-thái ở Ga-li-lê-a và còn diễn giải cho những người có mặt trong Hội đường nghe nữa. Hơn thế nữa, Người còn có thể đọc được những bản văn Kinh Thánh từ những bản dịch từ tiếng Aramäisch (Targumim).(26) Còn câu hỏi là liệu Đức Giêsu có nói được tiếng Koine, một loại tiếng Hy-lạp mà các dân cư xưa kia ở phía Đông đế quốc Rôma sử dụng hằng ngày, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những giả thiết khác nhau, vì thiếu dẫn chứng trong Tân Ước. Vì thế, có người cho là rất có thể, (27) có người lại cho là không thể.(28)
Về thủa thiếu thời của Đức Giêsu thì Kinh Thánh Tân Ước chỉ ghi lại biến cố khi Người mới 12 tuổi đã ngồi diễn giải Kinh Thánh cho các Luật Sĩ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và đã khiến cho các nhà thông luật này phải kinh ngạc trước sự thông minh phi thường của Người (Lc 2,46tt.). Nhưng nhiều nhà chuyên môn cho rằng biến cố này mang tính cách truyền kỳ, với mục đích là muốn khẳng định sự thông biết Kinh Thánh của Đức Giêsu.(29) Vào thời bấy giờ hầu như tất cả các con cái của những gia đình Do-thái nghèo cũng đều có thể biết đọc và biết viết, hầu chúng có thể đọc được Kinh Thánh. Trường hợp vì nhà nghèo nên không có các cuộn băng Kinh Thánh ở nhà thì chúng học ở các trường Tora hay ở các Hội đường.
Theo Phúc Âm thánh Luca 4,16, Đức Giêsu đọc Sách Thánh Tora trong Hội đường Do-thái ở Na-da-rét trước khi Người cắt nghĩa đoạn Kinh Thánh cho các người hiện diện. Còn theo Phúc Âm thánh Mác-cô 6,2, các người hiện diện trong Hội đường đã quá ngạc nhiên về bài giảng của Người và nhận thấy cách thức diễn giải Kinh Thánh của Người khác với lối diễn giải truyền thống quen thuộc. Trong khi đó theo Phúc Âm thánh Gioan 7,15, những người có mặt trong Hội đường đã tự hỏi nhau: „Ông này không hề học Kinh Thánh, tại sao nay ông ta lại có thể thông thạo được như vậy?“ Còn khi đối thoại hay tranh luận với các người Do-thái, Đức Giêsu thường lặp lại: „Các ông chưa đọc…sao?“ (Mc 2,25; 12,10.26; Mt 12,5; 19,4 ) và lại tiếp tục trích dẫn Kinh Thánh. Còn trước câu hỏi là liệu Đức Giêsu có thể viết được hay không, câu trả lời là không chắc chắn. Phúc Âm thánh Gioan 8,6.8 có trình thuật một lần kia Đức Giêsu đã dùng ngón tay viết hay vẽ trên mặt đất, chỉ có thế thôi.
Còn hình thức giảng dạy hay lý luận của Đức Giêsu còn chịu ảnh hưởng phương pháp của các giáo sĩ Do-thái giáo (Halacha và Midraschim). Vì thế các Môn đệ đầu tiên của Người thường gọi Người là „Rabbi“ („Thầy“, Giáo sĩ Do-thái) (Mc 9,5; 11,21; 14,45; Ga 1,38.49; 3,2; 4,31) hay „Rabbuni“ („Sư Phụ „): Mk 10,51; Joh 20,16). Cách xưng hô trong tiếng Aramäisch như thế tương đương với tiếng Hy-lạp διδάσκαλος và có nghĩa là „Thầy giáo.“ Các Môn đệ xưng hô với Đức Giêsu như thế là tỏ ý tôn kính Người và coi Người cùng cấp bậc với các Kinh Sư và các Thầy Pha-ri-sêu, những người tự coi mình là người diễn giải và cắt nghĩa Luật Mô-sê. (Mt 13,52; 23,2.7 tt.) Do cách thức cắt nghĩa luật Tora trong Sách Thánh Do-thái Tanach của Đức Giêsu hoàn toàn tương tự như cách thức của các Rabbi xưa kia sử dụng, giáo sư Pinchas Lapide (1922-1997), người Đức gốc Do-thái, đã cho rằng chắc chắn Đức Giêsu đã từng theo học tại trường Tora.(30)
Còn nghề nghiệp thì theo Phúc Âm Mác-cô 6,3 và Mát-thêu 13,55 gọi Người là „bác thợ“, tức nghề thủ công bằng chân tay của thánh Giuse, (tiếng Hy-lạp: τέκτων) và người ta thường nhầm lẫn dịch là „nghề thợ mộc.“(31) Từ τέκτων được cho là một nghề có liên quan đến những chất liệu rất cứng như gỗ hay đá, v.v…và nói chung là nghề thủ công, chứ không hẳn là nghề thợ mộc. Người ta phỏng đoán là Đức Giêsu cũng như đa số các thanh thiếu niên Do-thái đã học nghề của cha mình. Mặc dù nghề thủ công xưa kia đối với một Rabbi là một điều bình thường, Kinh Thánh Tân Ước không hề đề cập tới.(32) Sự hiểu biết về nghề thủ công của Đức Giêsu đã biểu lộ qua các dụ ngôn Người nêu lên, như trong Luca 6,47-49 và Mác-cô 12,10. Theo nhiều nhà chuyên môn khi cắt nghĩa các phát biểu của Người (như Luca 5,1-7; Gioan 21,4-6) đã cho rằng Đức Giêsu rất có thể làm nghề chăn chiên, canh nông hay chài lưới.(33)
Thành Na-da-rét nằm cách thành Sepphoris vào khoảng 7 cây số, là nơi vua Hê-rô-đê An-ti-pát đã cho xây dinh thự của ông ta và là nơi có rất nhiều đại điền chủ ở. Vì thế, Sepphoris có thể đã thu hút nhiều dân cư ở các làng kế cận đến sinh nhai kiếm sống. Tuy nhiên Kinh Thánh Tân Ước không nhắc đến thành phố này và cho rằng Đức Giêsu đã không được sai đến với các dân ngoại.(34)
(Trích trong: Lm JB.Nguyễn Hữu Thy: Tôi đi Hành Hương Thánh Địa Ít-ra-en, Trier 2014, trang 75-91)
(Còn tiếp)
Chú thích
1. Werner Foerster, Art. Ἰησοῦς, trong: ThWNT III, Stuttgart/Berlin/Köln 1990, ISBN 3-17-011204-X, trang 290.
2. Martin Karrer: Jesus Christus im Neuen Testament. Vandenhoeck & Ruprecht, Göttingen 1998, trang 46tt.
3. Eduard Lohse, Anton Vögtle: Geschichte des Urchristentums. In: Thomas Kaufmann, Raymund Kottje, Bernd Moeller, Hubert Wolf (Hrsg.): Ökumenische Kirchengeschichte 01: Von den Anfängen bis zum Mittelalter. Wissenschaftliche Buchgesellschaft, Darmstadt 2006, ISBN 3-534-15804-0, trang 7.
4. Gerd Theißen, Anette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. 2001, trang 149-151; Eduard Schweizer: Jesus Christus I, ThRE, trang 710.
5. Jürgen Roloff: Jesus. 2011, S. 36; Max Küchler, Rainer Metzner: Die Prominenten im Neuen Testament: Ein prosopographischer Kommentar. 2008, trang 226; Geza Vermes: Anno Domini: Ein Who's Who zu Jesu Zeiten. 2008, trang 314.
6. Michael Wolter: Theologie und Ethos im frühen Christentum: Studien zu Jesus, Paulus und Lukas. 2009, trang 339; John Dominic Crossan: Who was Jesus? 1999, trang 18.
7. Leonard Goppelt: Zur Chronologie Jesu. In: Theologie des Neuen Testaments, Göttingen 1978, trang 71.
8. (Michael Theobald: Das Herrenmahl im Neuen Testament. In: Theologische Quartalsschrift 183/2003, trang 261: verweist u.a. auf Johannes P. Meier, Jürgen Becker, Gerd Theißen/Annette Merz, Wolfgang Schrage, Martin Dibelius.
9. Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 152 tt.
10. Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 150.
11. x. Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 158.
12. Jens Schröter: Jesus von Nazaret. Leipzig 2006, trang 72 tt.
13. Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 158 tt.
14. James F. Strange: Nazareth. ABD 4, trang 1050 tt.; Jens Schröter: Jesus von Nazaret. Leipzig 2006, trang 76; Israel News, 23. Dezember 2009: House from Jesus' time excavated.
15. x. Bruce Chilton: Jesus, le mamzer (MT 1.18). New Testament Studies, Cambridge University Press, 2001, ISSN 0028-6885, trang 222–227.
16. Gegen Celsus, griech. ΚατὰΚέλσου Kata Kelsou, lat. Contra Celsum, là một tác phẩm mang tính cách minh giáo của văn sĩ và thần học gia Kitô giáo Origenes chống lại những sách vở của triết gia ngoại giáo thời cổ đại là Celsus, gồm tám cuốn, được biện soạn vào năm 248.
17. Peter Schäfer: Jesus im Talmud. Mohr/Siebeck, Tübingen 2007, ISBN 978-3-16-149462-8, trang 37-39.
18. Walter Gerwing: Die Gottesherrschaftsbewegung Jesu. Lit Verlag, 2002, ISBN 3-8258-6299-2, trang 22; Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 200, trang 183tt.
19. x. Lorenz Oberlinner: Historische Überlieferung und christologische Aussage. Zur Frage der 'Brüder Jesu' in der Synopse. Stuttgart 1975; zurückgewiesen von Rudolf Pesch: Das Markusevangelium Band 1, HThK NT II/1, Herder, Freiburg u.a. 1976, trang 323; Joachim Gnilka: Das Evangelium nach Markus, Evangelisch-Katholischer Kommentar zum Neuen Testament II/1, Neuenkirchener Verlag, Neukirchen-Vluyn 1978, ISBN 3-7887-0576-0, trang 234.
20. Harry Jungbauer: „Ehre Vater und Mutter“, Der Weg des Elterngebots in der biblischen Tradition. Mohr/Siebeck, Tübingen 2002, trang 80 tt.; Cornelis Houtman: Das Bundesbuch: ein Kommentar, Brill, Leiden 1997, trang 131 tt.
21. Rudolf Pesch: Das Markusevangelium. Bd. 1, HThK NT II/1, Herder, Freiburg 1976, trang 223.
22. Joachim Gnilka: Das Matthäusevangelium. HThK NT I/1, Herder, Freiburg 1986, trang 396.
23. Rudolf Pesch: Das Markusevangelium. Band 1, trang 374 tt.
24. Hans Conzelmann: Geschichte des Urchristentums. Göttingen 1978, trang 150.
25. Guido Baltes: Hebräisches Evangelium und synoptische Überlieferung: Untersuchungen zum hebräischen Hintergrund der Evangelien. Mohr/Siebeck, Tübingen 2011, ISBN 3-16-150953-6, trang 35.
26. Gerd Theißen, Annette Merz: Der historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 318 tt.
27. x. Rainer Riesner: Jesus als Lehrer: eine Untersuchung zum Ursprung der Evangelien-Überlieferung. (1981) Mohr/Siebeck, Tübingen 2005, ISBN 3-16-146119-3, trang 206tt.
28. x. Gerd Theißen/Anette Merz: Der historische Jesus, 4. Auflage 2001, trang 162.
29. Jens Schröter: Jesus von Nazaret. Leipzig 2006, trang 77, Anmerkung 82.
30. Pinchas Lapide: Er predigte in ihren Synagogen. Jüdische Evangelienauslegung. Gütersloher Verlagshaus 1980, ISBN 3-579-01400-5.
31. Menge-Gütling: Griechisch-deutsches Wörterbuch. Langenscheidt, München 2001, ISBN 3-468-02030-9.32. Michael Schäfers: Prophetische Kraft der kirchlichen Soziallehre? Armut, Arbeit, Eigentum und Wirtschaftskritik. Münster 1998, trang 87 tt.
33. James H. Charlesworth: The historical Jesus. An essential guide. Nashville 2008, trang 69–71.
34. Wolfgang Stegemann: Jesus und seine Zeit. Stuttgart 2010, S. 249; Gerd Theißen, Annette Merz: Der Historische Jesus. Ein Lehrbuch. Göttingen 2001, trang 159.
Lm JB.Nguyễn Hữu Thy