Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Chúng ta đang sống mùa Chay thánh, mới đây con nghe nói rằng ai không xưng tội trong mùa Chay thì mắc tội trọng. Thưa cha, điều này có đúng không? - J. B., Ocala, Florida, Mỹ. Đáp: Câu trả lời nhanh cho câu hỏi này là không. Tuy nhiên, câu trả lời nhanh là không hề đơn giản, vì có một số điểm cần lưu ý.
Theo Giáo luật
"Điều 987
Để hưởng nhờ phương dược cứu độ của bí tích Sám Hối, người Kitô hữu phải được chuẩn bị thế nào để trở về với Thiên Chúa bằng cách từ bỏ các tội đã phạm và quyết tâm sửa mình.
"Điều 988
1. Sau khi đã xét mình kỹ lưỡng và ý thức được tội của mình, người Kitô hữu buộc phải xưng các loại tội trọng và số tội trọng đã phạm sau khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, mà chưa được quyền tháo gỡ của Giáo Hội tha trực tiếp và họ chưa xưng trong lần xưng tội riêng.
2. Khuyên các Kitô hữu cũng xưng cả những tội nhẹ nữa (CIS 901-902).
"Điều 989
Mọi tín hữu, sau khi đến tuổi khôn, buộc phải xưng các tội trọng của mình một cách trung thực, một năm ít là một lần (CIS 906 ; CIO 719) (Bản dịch Việt ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).
Tuy nhiên, Giáo Luật cũng nói như sau về việc Rước lễ:
"Điều 920
l. Sau khi đã rước lễ lần đầu, tất cả mọi tín hữu buộc phải rước lễ mỗi năm ít là một lần.
2. Phải chu toàn mệnh lệnh này trong mùa Phục Sinh, trừ khi phải chu toàn vào một thời gian khác trong năm vì một lý do chính đáng (CIS 859 ; CIS 860 ; CIO 708)” (Bản dịch, như trên).
Các luật này bắt nguồn từ Hiến chế 21 của Công đồng Latêranô thứ IV năm 1215. Xin đọc:
"Tất cả các tín hữu, sau khi đến tuổi khôn, phải xưng tất cả tội lỗi của mình một cách chân thành với linh mục của mình ít nhất một năm một lần, và chăm chỉ làm việc đền tội do linh mục đưa ra cho mình. Họ hãy cung kính Rước Thánh Thể ít nhất vào lễ Phục sinh, trừ khi họ nghĩ rằng, vì một lý do chính đáng và theo lời khuyên của vị linh mục, họ nên tránh rước lễ trong một thời gian. Nếu không, họ sẽ bị cấm không được bước vào một nhà thờ trong suốt cuộc đời của họ, và họ sẽ bị từ chối chôn cất theo nghi thức Công Giáo sau khi qua đời. Xin công bố thường xuyên sắc lệnh cứu độ này trong các nhà thờ, để không ai có thể tìm ra cái cớ cho việc không hiểu biết của mình. Nếu bất kỳ người nào muốn, vì các lý do tốt, xưng tội với một linh mục khác, người ấy phải hỏi ý kiến của linh mục của mình và xin phép ngài; nếu không, linh mục ấy sẽ không có quyền tha hoặc ràng buộc họ. Linh mục cần phải sáng suốt và thận trọng, để cho giống như một bác sĩ lành nghề, ngài có thể đổ rượu và dầu trên các vết thương của người bị thương. Linh mục cần cẩn thận hỏi về hoàn cảnh của hối nhân và tội, để ngài thận trọng phân định lời khuyên cần thiết và nên áp dụng sự chữa trị nào, sử dụng các phương thế khác nhau để chữa lành người bệnh. Tuy nhiên, linh mục cần chăm sóc tối đa, không phản bội tội nhân bằng lời nói, cử chỉ, hoặc bất kỳ cách nào khác. Nếu linh mục cần lời khuyên khôn ngoan, ngài cứ thận trọng tìm kiếm, nhưng không đề cập đến người có liên quan. Vì nếu ai giả định tiết lộ một tội lỗi mà mình đã biết khi ngồi tòa giải tội, chúng tôi tuyên sắc rằng ngài không chỉ bị đình chỉ tác vụ linh mục của mình, mà còn phải ở trong một tu viện kín để làm việc đền tội vĩnh viễn nữa".
Các nguyên tắc này cũng được nêu ra trong sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo:
"1389. Giáo Hội buộc các tín hữu phải tham dự thánh lễ vào các ngày Chúa Nhật và lễ trọng (x. OE 15) rước lễ mỗi năm ít là một lần vào mùa Phục Sinh, trừ khi có lý do chính đáng, có thể chu toàn vào mùa khác trong năm (x. CIC, khoản 920), trước đó phải chuẩn bị tâm hồn bằng bí tích Giao Hòa. Giáo Hội hết sức khuyến khích các tín hữu rước lễ vào các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng, hay thường xuyên hơn nữa, rước lễ hằng ngày” (Bản dịch Việt ngữ của Ban giáo lý, Tổng Giáo phận Sài Gòn).
Và sau đó:
"Các điều răn của Giáo Hội
"2041. Các điều răn Giáo Hội nhằm nâng đỡ một đời sống luân lý gắn liền với đời sống phụng vụ và được đời sống này nuôi dưỡng. Tính cách bó buộc của các luật thiết định do các mục tử ban hành này có mục đích bảo đảm cho các tín hữu mức cần thiết phải có trong tinh thần cầu nguyện, trong cố gắng sống hợp với luân lý, trong sự gia tăng lòng mến Chúa yêu người.
“2042. Ðiều răn thứ nhất (vào các Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, các tin hữu buộc phải tham dự thánh lễ và không làm những công việc nô dịch) đòi các tín hữu thánh hóa ngày mừng Chúa Phục Sinh, cũng như những lễ phụng vụ chính để tôn kính các mầu nhiệm của Chúa, của Ðức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc, của các thánh, trước hết bằng việc tham dự cử hành Bí Tích Thánh Thể, là bí tích qui tụ cộng đoàn, và tránh tất cả những công việc tự bản chất ngăn trở việc thánh hóa những ngày ấy (x. CIC, 1246-1248; CCEO 880, 3; 881).
“Ðiều răn thứ hai: (mọi tín hữu buộc phải xưng tội trong một năm ít là một lần) bảo đảm việc chuẩn bị rước Thánh Thể bằng việc chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa Giải, nối tiếp công việc hoán cải và tha thứ của bí tích Thánh Tẩy (x. CIC, 989, CCEO, 719)
“Ðiều răn thứ ba: (mọi tín hữu buộc phải rước Mình Thánh Chúa ít là một lần trong mùa Phục Sinh) bảo đảm mức tối thiểu trong việc rước Mình Máu Chúa Giêsu. Ðiều răn này phải được chu toàn vào mùa Phục Sinh, vì lễ Phục Sinh là nguồn gốc và là trung tâm của phụng vụ Ki-tô giáo (x. CIC, 920, CCEO, 708-881).
“2043. Ðiều răn thứ tư: (vào những ngày sám hối do Hội Thánh ấn định, các tín hữu buộc phải kiêng thịt và giữ chay) bảo đảm thời gian tu luyện và sám hối để chuẩn bị tâm hồn mừng các ngày lễ phụng vụ. Chay tịnh và hãm mình góp phần giúp chúng ta làm chủ được các bản năng và đạt tới tự do nội tâm (x. CIC, 1246, CCEO, 881,1,4; 880,3)).
“Ðiều răn thứ năm (các tín hữu buộc phải đóng góp cho các nhu cầu của Giáo Hội) dạy các tín hữu có bổn phận chu cấp cho những nhu cầu vật chất của Giáo Hội, tùy theo khả năng mỗi người (x. CIC, 222; CCEO 25)” (Bản dịch, như trên).
Từ các tài liệu này, chúng ta có thể suy luận rằng nghĩa vụ trước tiên là Rước lễ ít nhất một năm một lần, đặc biệt là trong mùa Phục Sinh. Nghĩa vụ phải đi xưng tội trước khi Rước lễ là liên quan đến nghĩa vụ Rước lễ vào mùa Phục Sinh, để chắc chắn rằng người ấy ở trong tình trạng ân sủng. Mặc dù đây là một suy luận theo luận lý học từ quan điểm thiêng liêng, nhưng phải nhận xét rằng Giáo luật điều 920 §2 qui định xưng tội mỗi năm một lần và không nói về mùa nào cả
Bộ Giáo luật hiện tại tạo điều kiện dễ dàng cho việc xưng tội, so với Bộ Giáo luật cũ, chẳng hạn loại bỏ yêu cầu phải xưng tội với chính cha xứ của mình để chu toàn nghĩa vụ.
Thời gian để hoàn thành nghĩa vụ mùa Phục Sinh, như đôi khi nó được gọi, có thể khác nhau giữa các nước. Tại Mỹ, thời gian này là từ Chúa Nhật thứ I Mùa Chay đến hết ngày Lễ Chúa Ba Ngôi; ở các nước khác, mùa có thể bắt đầu từ ngày thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào ngày Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên.
Tất nhiên, nghĩa vụ mùa Phục Sinh là một yêu cầu tối thiểu để động viên mọi người nhận lãnh các bí tích. Lý tưởng nhất, một người Công Giáo Rước lễ mỗi lần tham dự Thánh Lễ. Một người Công Giáo cũng nên đi xưng tội bất cứ khi nào mình nhận thức đã phạm tội trọng, và việc xưng tội thường xuyên là rất được khuyến khích, thậm chí nếu chỉ có tội nhẹ. Như Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta, điều răn này nói: "bảo đảm việc chuẩn bị rước Thánh Thể bằng việc chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa Giải, nối tiếp công việc hoán cải và tha thứ của bí tích Thánh Tẩy”.
Nếu các đề nghị này được tuân theo, mặc dù nghĩa vụ rước lễ trong mùa Phục Sinh vẫn còn, việc một người ta cần đi xưng tội trong Mùa Chay, hoặc ít nhất vào thời điểm nào đó trước khi Rước lễ vào mùa Phục sinh, sẽ không còn tồn tại, trừ khi người ấy có tội trọng.
Thánh nữ Têrêsa Avila nguyên là một nữ tu dòng Kín Cát minh. Ngài có lòng sùng kính thánh Giuse cách đặc biệt và ngài cho biết rằng thánh Giuse không bao giờ từ chối điều gì ngài cầu xin vào ngày lễ kính thánh nhân, ngày 19 tháng 3. Không lâu sau khi được tuyên khấn trở thành một nữ tu dòng Kín Cát minh, thánh Têrêsa bị mắc một chứng bệnh lạ. Khi bệnh trở nên nặng, thánh nữ rơi vào tình trạng hôn mê trong suốt 4 ngày. Mọi người đã nghĩ rằng thánh Têrêsa sẽ không qua khỏi. Sau khi tỉnh lại, thánh nữ bị liệt và phải nằm trên giường suốt 3 năm. Nhưng khi ngài cầu nguyện cùng thánh Giuse thì được chữa khỏi chứng bệnh mãn tính.
Thánh Têrêsa không bao giờ quên ơn huệ này, ngài đã luôn kêu gọi mọi người để ý đến quyền năng khẩn cầu đặc biệt của thánh Giuse. Theo thánh Têrêsa Avila, Chúa Giêsu đã vâng lời thánh Giuse khi còn ở dưới thế, trong mái nhà Nadarét và giờ đây, ở trên thiên quốc, Chúa vẫn lắng nghe những điều thánh Giuse yêu cầu. Giáo hội cũng mời gọi các tín hữu tôn kính thánh Giuse, đặc biệt là chạy đến cùng thánh Cả trong những cơn nguy nan khốn khó. Sau đây là 10 lý do các thánh giải thích sự cần thiết sùng kính thánh Cả Giuse.
1. Thánh Giuse là một vị thánh. Thánh Grêgôrio Nadariên nói: “Chúa đã làm cho thánh Giuse trở nên rạng ngời như được chiếu tỏa bởi ánh mặt trời, với tất cả ánh sáng và sự rực rỡ mà các thánh sở hữu.”
2. Thánh Giuse vâng theo kế hoạch của Thiên Chúa. Thánh Bernarđô thành Clairvaux nói: “Thánh Giuse được chọn giữa mọi người, để là người bảo vệ và canh giữ Đức Trinh nữ Mẹ Thiên Chúa; người bảo vệ và cha nuôi của Con Chúa, và là người cộng tác duy nhất trên trái đất và người tin tưởng vào sự bí mật của Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại.”
3. Thánh Giuse có thể giúp chúng ta mọi điều. Thánh Tôma Aquinô nói: “một số vị thánh được đặc ân gia tăng sự bảo trợ của các ngài đối với chúng ta khi ban cho chúng ta những ơn đặc biệt trong một số trường hơp khi chúng ta cần. Nhưng thánh Cả Giuse có quyền trợ giúp chúng ta trong mọi lúc, mọi sự cần thiết và mọi công việc.”
4. Thánh Giuse giúp đỡ chúng ta cách đặc biệt trong việc sống các nhân đức. Thánh Têrêsa Avila cũng nói: “Ước rằng tôi có thể thuyết phục mọi người sùng kính vị thánh vinh hiển này, vì tôi biết bởi kinh nghiệm lâu dài của mình những ân phúc nào ngài có thể xin Chúa cho chúng ta. Tôi chưa bao giờ biết bất cứ ai thật sự sùng kính ngài và vinh danh ngài cách đặc biệt mà không tiến triển trên đàng nhân đức: vì ngài giúp cách đặc biệt cho các linh hồn phó thác vào ngài.
5. Chúng ta đang chết… Thánh Anphongso nói: “Vì tất cả chúng ta phải chết, chúng ta nên trân trọng lòng tôn sùng đặc biệt với thánh Giuse để ngài xin cho chúng ta được chết lành. Vì nhiều lý do, mọi Kitô hữu xem thánh Giuse như đấng bầu cử cho người đang hấp hối. Trước hết vì Chúa Giêsu yêu thánh nhân không chỉ như người bạn nhưng như người cha và do đó thánh nhân là đấng trung gian hữu hiệu hơn mọi thánh khác. Sau là, thánh Giuse có quyền năng đặc biệt chống lại ma quỷ, những kẻ cám dỗ chúng ta gấp đôi khi chúng ta hấp hối. Và cuối cùng, sự trợ giúp mà Chúa Giêsu và Mẹ Maria dành cho thánh Giuse giúp thánh nhân có quyền bảo đảm cho các tôi tớ ngài chết cách thánh thiện và bình an. Do đó, nếu chúng ta cầu khẩn thánh nhân vào giờ hấp hối thì ngài sẽ không chỉ giúp chúng ta nhưng sẽ giúp chúng ta nhận được sự trợ giúp của Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
6. Thánh Giuse bảo vệ kẻ trong sạch và yếu đuối. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Mỗi ngày tôi cầu nguyện với lời kinh bắt đầu như thế này: ‘Thánh Giuse, là Cha và Đấng bảo vệ các trinh nữ’ … vì vậy tôi cảm thấy tôi được bảo vệ và hoàn toàn an toàn trước các hiểm nguy.
7. Ngài dạy chúng ta sống như Kitô hữu. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Thánh Giuse kiên trì trong sứ mạng với lòng trung thành và tình yêu. Cho nên Giáo hội giới thiệu thánh nhân với chúng ta như gương mẫu tuyệt vời trong việc phục vụ Chúa Kitô và với kế hoạch cứu độ mầu nhiệm của Chúa. Và Giáo hội cầu khẩn ngài như quan thầy và đấng bảo trợ đặc biệt của toàn thể gia đình các tín hữu. Một cách đặc biệt, thánh Giuse được giới thiệu với chúng ta như vị thánh mà Chúa muốn trao phó cho sự bảo vệ quyền năng của ngài những người và sứ vụ của những ai được gọi là “cha” và “người bảo vệ” giữa các Kitô hữu.” (Aleteia 19/03/2016)
Xin minh định ngay, bài này không nhằm tới bất cứ tôn giáo chính danh nào. Những điều bàn ở đây là về Dị Giáo, tức các tổ chức, cá nhân “có vẻ như Công Giáo”, hay “rất Công Giáo”, cùng niềm tin vào Thiên Chúa cũng như vào Chúa Giêsu, lấy Thánh Kinh làm nền tảng, và đang được hướng dẫn bởi một người không phải đại diện cho Giáo Hội, không thuộc phẩm trật Hội Thánh Công Giáo. Tuy nhiên, vị lãnh đạo này rất được sùng bái bởi cái được gọi là nắm giữ bí kíp vận mệnh tương lai, khả năng chữa bệnh vv...
Để nói đến dị giáo cho đủ thì phải dùng đến thật nhiều từ điển, trích dẫn bao la các sách thần học, triết học, xã hội học. Trên thực tế, người ta đã tốn kém rất nhiều giấy mực cho chuyện đó rồi. Ở đây, chúng ta chỉ ghi nhận một số hiện tượng đang xảy ra trong các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam, để ý thức hơn mà thôi.
Theo Công Giáo, dị giáo là bất cứ tổ chức hay lý thuyết nào có niềm tin và lễ nghi đi ngược với truyền thống Giáo Hội. Chỉ những ai được rửa tội rồi mới có thể là dị giáo, bởi hoặc đã tin tưởng vào một tín lý khác với điều Giáo Hội tuyên xưng, hoặc không chấp nhận hiệp thông với Đức Thánh Cha nữa.
Nhìn vào thực trạng sống đạo hôm nay, chúng ta không thể không lo lắng khi có một số đoàn thể, cá nhân rất nhiệt thành, thậm chí “được xem là đạo đức”, đang có những biểu hiệu khả nghi về đời sống đức tin, trong tư cách là người Công Giáo. Ngay trong các xứ đạo truyền thống, đã có các nhóm âm thầm tham gia vào các hội đạo đức không được Giáo Hội nhìn nhận. Các hội này thường hoạt động mạnh mẽ nhưng không công khai, họ lượm lặt một số tin tức “bí mật” như là các tín điệp từ trời, như là các thị kiến tư nói là Chúa Giêsu hay Đức Mẹ gửi riêng, rồi phát tán khắp nơi. Với họ, những ai tin theo các điều ấy là được cứu độ, còn những người khác thì sống trong u mê lầm lạc. Những chuyện như rước lễ trên tay, chuyện “tôi là ai để phán xét người đồng tính” của Đức Thánh Cha Phanxicô, hoặc quan điểm của ngài khi “xét cho người ly dị tái hôn được rước lễ” vv… đều được họ lý giải theo cách riêng để rồi kết án Đức Thánh Cha là satan phá hoại Hội Thánh(!). Họ cố tình không hiểu việc không phán xét, kết án người có khuynh hướng đồng tính, rất khác với chuyện chấp nhận hôn nhân đồng tính, hành vi đồng tính luyến ái; họ cũng không hề nghiên cứu kỹ lưỡng tông huấn Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu Thương) để biết được đâu là các đáp ứng mục vụ thiết thực cho người đã ly dị và tái hôn, và để hiểu rằng hôn nhân theo Công Giáo vẫn luôn là bất khả phân ly.
Một vài gợi ý để nhận diện và cảnh báo nguy cơ dị giáo: 1. Các tin tức sai lạc đều có mẫu số chung: đó là bản tin luôn có vài điểm có thật, hầu như không ai phủ nhận, rồi khéo léo lồng trong đó một ý đồ đen tối. Dị giáo cũng vậy, họ có thể trích dẫn Thánh Kinh hay lời nói của một giáo sĩ nào đó trong một tình huống cụ thể, để rồi đưa ra các nguyên tắc chung rất sai trái cho vấn đề. a. Gần đây có vị linh mục trưng dẫn sách Sáng Thế 1,29: “Thiên Chúa phán: Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi”, để rồi tuyên bố bất cứ ai ăn thịt cá đều là phạm tội. Không biết vị linh mục này nghĩ sao khi Chúa làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, khi Người truyền bí tích Thánh Thể: “Đây là Mình Ta, các con hãy nhận lấy mà ăn”, hay khi Người hỏi “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc 24, 42-43). b. Cũng vậy, nếu không tìm hiểu, các tín hữu rất dễ bị lung lạc khi bị chất vấn: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Như thế, cả Giáo Hội Công Giáo lầm lạc sao? Sở dĩ Giáo Hội cho phép tạc tượng ảnh Chúa và các thánh vì quan niệm rằng: Chúng ta đã bước sang thời Tân Ước, đã được nhìn thấy Chúa Giêsu hữu hình, mà ai thấy Chúa Giêsu thì thấy Chúa Cha (x.Gioan 14,9), đồng thời chúng ta chỉ xem ảnh tượng Chúa và các thánh như một dấu chỉ vật chất để giúp lòng trí ta dễ dàng hướng về siêu nhiên. Tuy nhiên không thể phủ nhận là có những hình thức tôn sùng ảnh tượng thái quá nơi các tín hữu. Và Giáo Hội luôn dạy: tôn thờ ảnh tượng là nghịch với đức tin. 2. Các nhà sáng lập dị giáo cũng nhiều điểm giống nhau: a. Tự tôn mình lên thành siêu phàm: ảnh tượng đấng sáng lập cũng phải được bái chào, còn nếu trực tiếp đụng chạm đến ngài là một ân huệ khôn sánh. Người ta chạy theo ngài để cầu mong ơn huệ, vì chỉ có ngài mới có khả năng “kéo ơn trời” xuống cho; b. Tận dụng mọi phương tiện có được như mạng lưới nhân sự, internet, để quảng bá hình ảnh giáo chủ, giáo phái
i. Ngài có khả năng tiên đoán vận mệnh tương lai
Ngài biết trước ngày tận thế c. Khôn khéo gây quỹ qua việc từ thiện, tích điểm lập công cho đời sau, vẽ ra một thiên đàng hạ giới cụ thể nhằm huy động tài chính cho hạ tầng cơ sở và dễ dàng chiếm dung. 3. Điểm kỳ cục chung của dị giáo là: không hiểu sao những người chạy theo các nhóm này, sau bao nhiêu năm đi đạo, bao nhiêu bài học giáo lý, bao nhiêu lần nghe giảng dạy Thánh Kinh đều dễ dàng để gió cuốn bay, không để lại một chút dư âm gì. Trái lại, trước những mê dụ của dị giáo, họ như con nai tơ ngơ ngác lạc lối vội đi thẳng vào con đường đã được vạch ra. Họ giống như loại bệnh nhân không theo các hướng dẫn y khoa, nhưng vội vàng mù quáng tuân theo loại tin “share ngay kẻo trễ chữa hết ung thư chỉ với lá đu đủ”, hay “giảm ngay 10 kg chỉ trong một tuần” vv… 4. Các cá nhân dễ bị ảnh hưởng dị giáo là: những người bất mãn với cha sở, với giáo xứ; những người nhiệt thành tới mù quáng, hay nghiêm trọng hóa vấn đề, cực đoan trong đạo đức; đặc biệt những ai quá kiêu căng, ương bướng, thường được các nhóm dị giáo mơn trớn để họ quay lại thù hận tôn giáo gốc của mình.
Do vậy, quan điểm của tôi trong tư cách là một linh mục, không vội mừng vui khi thấy nhiều người đi hành hương, cầu kinh, xin lễ; khi thấy có ai quá nhiệt tình tham gia vào hầu hết các hội đoàn trong giáo xứ. Bởi họ rất có thể là người tốt nhưng cũng có thể họ thực hành các điều đó với tâm trạng sợ hãi hoặc với cao ngạo cho rằng mình thuộc thành phần ưu tú. Bên cạnh đó, các linh mục nên quan tâm hơn tới việc đào tạo Thánh Kinh trong giáo xứ, chịu khó đồng hành thiêng liêng với giáo dân của mình. Mọi tín hữu có quyền được biết: Ở đâu có tình thương, ở đó có Đức Chúa Trời; Ở đâu có Chúa Trời, ở đấy là thiên đàng. Họ không cần phải chạy theo các hội kín với các kiểu hành đạo lạ kỳ để có thể đạt được Nước Chúa. Họ có thể an vui hạnh phúc khi sống mến Chúa yêu người, khi cầu nguyện, làm phúc trong môi trường mình sống.
Dị giáo hôm nay đang tiềm ẩn rất lớn nơi các đoàn thể đạo đức. Đó là thách đố và cũng là cơ may để các linh mục thi hành chức năng người lãnh đạo phục vụ. Hãy nhớ rằng, đối với người Việt Nam giàu tình cảm, sự ấm áp thân thiện giữa cha xứ với giáo dân thì quan trọng hơn các chương trình mục vụ đao to búa lớn. Tuy nhiên, không thể biện minh việc dị giáo qua việc đổ tội hết cho hàng ngũ lãnh đạo. Mỗi người phải trưởng thành và chịu trách nhiệm về quyết định bản thân, về cuộc đời, về định mệnh của mình.
III. PHỤNG VỤ THÁNH THỂ: 2. Kinh Tạ ơn gồm tất cả 9 phần: Đây là toàn bộ những công thức giữa phần tiến lễ và Kinh Lạy Cha, đây cũng là phần chính của Thánh Lễ: Phần Tạ ơn hoặc hy tế. Theo truyền thống Đông phương, Kinh Tạ ơn còn gọi là anaphore (Nâng Lên) là một hành động biểu thị cử chỉ hiến tế. Truyền thống La tinh gọi là Canon (Lễ quy), tức là những điều ta phải tuân theo. Canh tân Phụng vụ dùng từ ngữ Kinh Tạ ơn thích hợp hơn cả. Cấu trúc Kinh Tạ ơn có nguồn gốc Do Thái Giáo. Kinh gần nhất là ”kinh Chúc Tụng Đấng Tạo Hóa” (Birkat Yotser) kèm theo lời kinh đọc hằng ngày ”nghe đây hỡi It- ra- en” (Shema Israel). Lời kinh bắt đầu với lời ngợi khen Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, một lời Sanctus và kết thúc với lời khẩn cầu. Trong sách Didache ở thế kỷ thứ hai cũng có một kinh rất gần với Kinh Tạ ơn. a. Lời tiền tụng: Chủ tế nhắc lại những việc kỳ diệu Thiên Chúa làm: Chúng ta tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc thật là chính đáng. Tiếng La tinh prae (trước)- fari (nói) có nghĩa là lời nói đầu. Từ này có thể mang hai nghĩa: ”Điều mà ta nói trước khi làm” hoặc” Điều ta nói trước người nào đó” Giáo Hội cổ xưa giữ lấy nghĩa thứ hai này. Lời Tiền tụng mở đầu Kinh Tạ ơn, là phần mở đầu long trọng của việc tạ ơn Thiên Chúa Cha. Dẫn vào Lời Tiền tụng là lời đối thoại cổ xưa” Hãy nâng tâm hồn lên”, và tiếp theo là bài hát Thánh! Thánh! Thánh! Tất cả các Lời Tiền tụng đều theo cùng một mẫu cố định, chỉ có phần trung tâm có thay đổi vì tóm tắt lại về mầu nhiệm được cử hành. Vì thế, khi chúng ta thu thập lại các công thức riêng của khỏang 80 Lời Tiền tụng có trong sách Lễ Roma, chúng ta sẽ có được một bản tóm tắt phong phú về mầu nhiệm Giao ước mà Giáo Hội vẫn luôn cử hành. Cấu trúc Lời Tiền Tụng có: 1. Lời chúc tụng, tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô. 2. Lý do tạ ơn. 3. Dẫn vào kinh Thánh! Thánh! Thánh. Ví dụ Lời tiền tụng cho lễ Phục Sinh I: Lạy Cha, chúng con tuyên xưng Cha mọi lúc và hân hoan ca tụng Cha vinh hiển, nhất là trong ngày này, thật là chính đáng và phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, khi Đức Giêsu tự hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con. Chính Người là Chiên thật đã xóa tội trần gian. Người đã chết để diệt trừ sự chết nơi chúng con, và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con. Vì thế, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu, lòng tràn ngập niềm vui ngày Chúa sống lại, đều mừng rỡ hân hoan. Đồng thời cả triều thần thiên quốc hát bài ca chúc tụng Cha vinh hiển và không ngừng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh! b. Thánh! Thánh! Thánh! Lời Tiền Tụng dẫn tới Kinh sanctus. Tiếng La tinh sanctus nghĩa là thánh. Kinh Thánh! Thánh! Thánh! là ba lần kêu cầu Thiên Chúa chí thánh. Kinh này là lời ca tụng của toàn thể cộng đoàn, làm bung nổ lời tạ ơn phát xuất ra không phải do những công việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, nhưng ngay vào việc chiêm niệm Thiên Chúa. Chúng ta hát mừng Thiên Chúa mà mầu nhiệm của Người bao phủ vũ trụ, cũng như Đấng mà Ngài gửi đến. Phụng vụ nơi đây đưa chúng ta vào phụng vụ của một dân tộc đi vào thế giới mới. Phần đầu Kinh Sanctus lấy lại thị kiến khai mào của ngôn sứ I- sa-i-a, ông đã nghe các thiên thần Seraphim tung hô: Thánh! Thánh! Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa! (6,3). Tiếp theo là: Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Đây là lời tung hô của người Do Thái ở Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành ngày Lễ Lá (Mát- thêu 21,9; Mác- cô 11,9; Lu-ca 19,38), đây cũng là bài ca của bốn con Vật trong sách Khải Huyền 4,8. Từ Hosanna là tiếng tung hô của người Do Thái, được ghép bởi mệnh cách của động từ hoshi ‘ ah nghĩa là cứu vớt và từ tố chỉ nghĩa ”Na” = van xin. Hoshi ‘ahna sát nghĩa là xin cứu vớt. Từ này xuất hiện thành văn trong câu 25 của Thánh vịnh 117. Thánh vịnh này tiêu biểu sự vượt qua, mô tả quang cảnh đón rước Đấng Mêsia dịp lễ đăng quang của Người (câu 19-27). Dân Do Thái hát bài ca này để chào mừng Đức Giêsu lúc Người tiến vào thành Giêrusalem (Mt 21,9). Sau này Hosanna mất đi ý nghĩa nguyên thủy để chỉ còn lại là tiếng hô vui mừng và chiến thắng. Hosanna được phụng vụ nhắc lại hai lần trong kinh Thánh! Thánh! Thánh! như lời tung hô của các tín hữu vào cuối Kinh Tiền Tụng để dâng lên Thiên Chúa. Vào phút giây hy lễ Thánh Thể sắp được tái diễn, ý nghĩa căn gốc của Hosanna lột tả trọn vẹn nội dung của mầu nhiệm: Xin cứu vớt. Đây là công trình của Đức Giêsu, Thánh Danh có nghĩa là Đức Gia- vê cứu vớt hoặc Thiên Chúa đã cứu vớt: Yehoshua. c. Kinh hậu sanctus. Kinh này có công dụng làm gạch nối giữa kinh Sanctus là kinh Epiclesis. Vì thế kinh này khởi đầu từ sau kinh Sanctus cho tới lời cầu xin Chúa Thánh Thần. d. Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần (epiclesis). Trong tiếng Hy Lạp Klesis (lời kêu gọi) và epi (ở trên). Đây là lời cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài đến và bằng hoạt động của Thiên Chúa, thánh hóa lễ vật Hội Thánh dâng lên trong Thánh lễ hầu trở thành Mình và Máu Chúa, và trên cộng đoàn để họ tham dự vào Thánh Thể một cách hiệu quả hơn. Trong kinh Tạ Ơn có hai kinh Epiclesis: Kinh thứ nhất gọi là Truyền Phép và được đặt trước tường thuật lập bí tích Thánh Thể, cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên lễ vật và thánh hóa lễ vật biến thành Mình và Máu Chúa Kitô. Kinh Epiclesis thứ hai gọi là hiệp lễ được đặt ở sau tường thuật lập bí tích Thánh Thể. e. Phần tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể và hiến thánh. Liên quan đến tường thuật lập bí tích Thánh Thể vấn đề đặt ra là giây phút truyền phép, nghĩa là khi nào thì bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô? Theo Đông phương thì Kinh Epiclesis chính là lời truyền phép biến bánh rượu thành Mình Máu Chúa Kitô. Theo Tây phương thì tường thuật lập bí tích Thánh Thể mới là lời truyền phép. Ai là người truyền phép? Người ta cho rằng linh mục là người truyền phép. Điều đó hoàn toàn không đúng. Kinh Epiclesis chứng tỏ vai trò của linh mục chỉ là đọc lời nguyện của cộng đoàn nài xin Chúa Cha sai Thánh Thần xuống trên lễ vật. Như vậy chính Thiên Chúa Cha nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà thánh hóa lễ vật và biến thành Mình và Máu Chúa Kitô chứ không phải linh mục. Cử chỉ vị linh mục nâng Bánh và Chén Thánh sau khi đọc lời truyền phép, đây chỉ là việc nâng Mình và Máu Thánh lên cho giáo hữu thờ lạy. Có nhiều mê tín dị đoan liên quan đến cử chỉ này, ví dụ người ta tin rằng ai ngước nhìn lên bánh và chén thì hôm đó sẽ không phải chết thình lình, nhà cửa và kho lẫm sẽ được bảo vệ khỏi hỏa hoạn. Vì thế khi linh mục nâng Chén và Bánh không cao đủ thì một số nguời than thở: xin nâng cao hơn! Ngày nay, việc nâng Chén nhằm mục đích mời gọi giáo dân biểu lộ niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể và tôn thờ Người cách thầm lặng. Có thể rung chuông và để tỏ lòng tôn kính sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể, có thể xông hương mỗi khi nâng Bánh và Chén lên. f. Tưởng niệm (Anamnesis). Đây là lời nguyện kế tiếp việc truyền phép. Sau lời tung hô của tín hữu: „Lạy Chúa chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến“, lời kinh này được ghép vào lệnh truyền phải lập lại tác động này, tức là câu kết của trình thuật thiết lập Thánh Thể: ”Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Vì là tưởng niệm Thánh Thể, tức kỷ vật tri ân của Hội Thánh, kinh này là lời gợi nhớ kỷ niệm mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô. g. Dâng tiến (kinh cầu xin cùng Chúa Thánh Thần lần hai). Kinh này cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên cộng đoàn để liên kết họ với nhau thành một thân thể duy nhất nhờ liên kết với Chúa Kitô. h. Chuyển cầu. Giáo Hội dâng những lời nguyện xin cầu cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục, linh mục và tất cả những ai dấn thân phục vụ dân Chúa. Cộng đồng cũng cầu xin cho những người đã ly trần. Sau cùng cộng đồng cầu nguyện cho những người hiện diện để họ được liên kết với Đức Maria và toàn thể các Thánh ở trên trời mà chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa. i. Vinh tụng ca. Theo tiếng Hy Lạp Doxa (vinh quang) logos là lời. Doxologia là lời về vinh quang, là một công thức cử hành vinh quang Thiên Chúa khi đọc hay hát lời vinh tụng, linh mục cũng cầm Bánh và Chén thánh nâng lên trong một cử chỉ hiến dâng. Cử chỉ này diễn tả tiến trình vũ trụ hướng về cõi vĩnh cửu của Thiên Chúa. Có thể nói đây là giây phút quan trọng nhất trong Thánh Lễ, các lời nói và cử chỉ đều diễn tả rõ rệt Đức Kitô chịu hiến tế là Đấng được Chúa Cha ban tặng đồng thời được dâng lại cho Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần để mưu ích cho toàn thể Hội Thánh: Chính nhờ Đức Kitô Cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến luôn thuở muôn đời.
1. Chuẩn bị lễ phẩm a. Chuẩn bị bàn thờ. Bàn thờ được trải khăn trắng với nến sáng. Bàn thờ phải được phủ khăn biểu tượng là một bàn tiệc Thánh Thể, còn tấm khăn gợi lại tấm khăn liệm của Đấng chịu đóng đinh. Nến ở đây không phải để soi sáng nhưng là dấu chỉ Đức Kitô Phục sinh. Người là “ Ánh sáng thế gian”. Bình thường còn có một Thánh Giá ở trên bàn thờ. Riêng cuốn sách lễ ở một chỗ kín đáo, vì chỉ để giúp cho vị chủ tế đọc những kinh nguyện cộng đoàn. b. Tiền giỏ. Nhiều người nghĩ rằng xin tiền giỏ lúc này gây rối sự trang nghiêm, và nên tìm một lúc nào khác như ở phần cuối lễ hay trước khi ra khỏi thánh đường. Vậy tại sao phải xin giỏ vào lúc này? Vì xin giỏ được xem như tặng vật của người tín hữu góp phần vào đời sống vật chất của Giáo Hội. Ngoài những vấn đề như điện nước, sửa chữa... tiền giỏ còn giúp cho Giáo Hội trong sứ mệnh chia sẻ bác ái đến những người anh em cần thiết. Vì vậy đây là một hành động cụ thể tỏ tình huynh đệ. Trong Tân ước, Thánh Phaolô cũng đã quyên tiền cho Giáo hội ở Giêrusalem. Vì thế, tiền giỏ là một thành phần trong phụng vụ dâng lễ. Thế nhưng, cũng nên tránh không nên để giỏ tiền trên bàn thờ, nhưng một chỗ nào thích hợp hơn. Tiền bạc không phải là “chất” của bí tích Thánh Thể, dù đó là tặng vật mà ta muốn diễn đạt trọn đời sống kết hợp vào phần dâng bánh và rượu để trở thành Mình và Máu Thánh Chúa. c. Ca Dâng lễ khi rước lễ phẩm lên bàn thờ. Quan trọng nhất là bánh và rượu cần thiết cho Thánh lễ. Trong một vài trường hợp có thể đem các lễ vật khác lên bàn thờ như sản phẩm của thiên nhiên, ít nhiều mang tính cách biểu tượng. Khi kiệu dâng của lễ, cộng đoàn hát bài dâng lễ. Bánh và rượu là cái gì cần thiết cho cuộc sống của con người. Bánh là thức ăn chính yếu ở Tây phương. Bánh là biểu tượng của thực phẩm. Với ý nghĩa này, bánh được dâng lên Thiên Chúa như lễ vật. Trong bữa Tiệc Ly, theo truyền thống Do thái trong nghi thức lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lấy bánh không men. Tin Mừng chỉ ghi: Đức Giêsu cầm lấy bánh, nhưng không nói rõ phẩm chất của bánh là gì. Thuở ban đầu, các cộng đoàn Kitô hữu dùng bánh thông thường, và Giáo Hội trong 9 thế kỷ đầu cũng chỉ lấy bánh dùng cho các buổi tiệc. Đó là bánh hình tròn với hình Thánh giá ở trên. Từ thế kỷ thứ 9, người ta nghĩ đến bánh không men, vì loại bánh này giữ được lâu hơn để mang đến cho các bệnh nhân. Tới thế kỷ thứ 12, bánh được làm trong các khuôn tròn nhỏ do các linh mục mặc áo Alba vừa làm vừa đọc những kinh phụng vụ. Sau đó được trao lại cho các dòng tu thực hiện. Rượu là rượu đỏ của miền Trung Đông. Tới thế kỷ thứ 16, người ta dùng “ khăn lau chén lễ”( khăn này dùng để lau chén và lau tay linh mục vào những lúc tráng chén), và rượu đỏ để lại dấu vết khó giặt nên người ta dùng rượu vang trắng. Những khi không có rượu, người ta có thể lấy nho khô ngâm với nước. Quy chế tổng quát sách lễ Rôma tức là những quy luật về việc cử hành Thánh lễ ban bố năm 1969, số 284 ghi như sau: “Rượu dùng trong khi cử hành Thánh lễ phải là rượu nho (Luca 22,18), tự nhiên và nguyên chất, nghĩa là không pha trộn chất gì khác vào”.Bộ Giáo Luật 1983 ở điều 924 cũng ghi: “... rượu phải là tự nhiên từ trái nho và không bị hư chua”. Tóm lại, rượu phải được làm từ cốt nho nguyên chất cho nên dùng bất cứ loại rượu nào khác sẽ làm cho việc cử hành bí tích Thánh Thể trở thành bất hợp pháp, ngay cả trong trường hợp một số người muốn theo tập quán dân sự địa phương đã thay thế rượu nho nguyên chất bằng một loại rượu đặc chế nào đó. (Xem Lm Bùi Đức Tiến, Cẩm nang giáo luật thực dụng, trang 175). d. Lời nguyện trên bánh & Lời nguyện trên rượu. Những lời nguyện trên bánh và rượu phát nguồn từ lời chúc tụng người Do Thái khi vị gia trưởng cầm bánh và rượu rồi đọc lời chúc tụng trong bữa ăn. Đức Giêsu hẳn cũng đã đọc những lời nguyện này tại bữaTiệc Ly. Những lời nguyện này chúc tụng sự thánh thiện và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Nâng cao dĩa đựng bánh linh mục đọc: Lạy Chúa là chúa tể càn khôn, chúc tụng Chúa đã ban cho chúng con bánh này là hoa màu ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Chúa để bánh này trở nên bánh trường sinh nuôi dưỡng chúng con. Nâng cao chén Thánh linh mục đọc: Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con rượu này là sản phẩm từ cây nho và công lao của con người, xin dâng lên Chúa để rượu này trở nên của uống thiêng liêng cho chúng con. e. Pha nước vào rượu. Khi rót rượu và chút nước vào chén thánh, linh mục đọc thầm: Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tín Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con. Nước trong rượu. Tin Mừng không ghi lại sự kiện Đức Giêsu đổ thêm nước vào rượu hôm bữa tiệc ly, nhưng việc pha trộn nước và rượu là một tục lệ bình thường ở các nước thuộc miền Địa Trung Hải. Người Hy Lạp không bao giờ uống rượu mà không pha thêm chút nước vì thực ra rượu của họ rất mạnh và rất đậm, và uống rượu nguyên chất bị coi như người không có giáo dục. Tục lệ Palestin cũng vậy, ví dụ như loại rượu phát xuất từ đồng bằng Saron nằm ven biển giữa Jaffa và núi Carmel rất đậm vị nên khi dùng người ta đã pha một phần ba rượu và hai phần ba nước. Tục lệ pha trộn trên đã được lưu giữ trong phụng vụ Thánh Thể nhưng mang ý nghĩa biểu tượng thâm sâu. Khi pha chút nước vào chén rượu vị chủ tế đọc thầm: “Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con đượïc thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con”. Qua sự hòa hợp giữa nước và rượu, chúng ta được mời gọi nhận ra mầu nhiệm kết hợp chúng ta với Chúa Kitô. Rượu biểu tượng tình yêu, và máu chỉ định hy lễ của Chúa Kitô mà chúng ta chỉ có thể thêm vào một chút nước lạt lẽo. Nước mang hình ảnh loài người; và khi được pha trộn vào rượu là Chúa Kitô chúng ta không có hoài bão làm tăng thêm giá trị Ngôi Hai Thiên Chúa hiến sinh; chúng ta đến với cái nghèo hèn của loài người để bị tan loãng vào sự kết hợp với Thiên Chúa. Nước bị tan hòa trong rượu sẽ không còn là nước nữa nhưng giờ đây được biến hóa trở thành rượu. Giáo phụ Cyprianô thành Carthage (thế kỉ thứ III) nói: “ Nếu ai chỉ dâng hiến rượu mà thôi, máu của Chúa Kitô ra là không có chúng ta. Nếu chỉ có nước thì chỉ có dân chúng mà không có Chúa Kitô). f. Linh mục rửa tay. Biểu lộ lòng ao ước được thanh tẩy trong tâm hồn. Tiếng La tinh là Lavabo = tôi sẽ rửa, rút ra từ thánh vịnh 26 bằng tiếng La tinh. Linh mục rửa tay sau phần chuẩn bị lễ phẩm, trước lời nguyện tiến lễ. Trong khi rửa tay, linh mục đọc: “ Lạy Chúa xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm, xin Ngài thanh tẩy”. Theo các sử gia, trước đây, cử chỉ này cần thiết vì vị chủ tế bị bẩn tay khi nhận những hiện vật do các tín hữu mang đến. Sau này, cử chỉ này được giữ lại và được lồng vào ý nghĩa thanh tẩy như việc tẩy rửa trong các nghi thức bên Đông Phương. Tin Mừng Thánh Mác-cô cũng ghi: “ Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do Thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: Họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận”( 7,3). Chính Đức Giêsu cũng làm như thế theo truyền thống tẩy rửa của người Do Thái ( xem Mát- thêu 15,2-20; Mác- cô 7,12 và Lu- ca 11,38). g. Lời nguyện linh mục. Sau khi rửa tay, linh mục mời giáo dân cầu nguyện: Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha Toàn Năng chấp nhận. Giáo dân thưa: Xin Chúa nhận lễ vật bởi tay Cha, để ca tụng tôn vinh danh Chúa và mưu ích cho chúng ta cùng toàn thể Hội Thánh Người. Lúc đầu lời kêu gọi cầu nguyện này mà vị chủ tế kêu mời gởi đến các thừa tác viên để họ đến với Ngài, nhưng sau đó là lời gửi đến cộng đoàn. Sau này ở thế kỷ thứ 12, trong sách lễ của Giáo hoàng Piô V, người ta thêm một câu trả lời ngắn, và công đồng Vaticanô II lấy lại truyền thống đó làm nên lời đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn. Thánh lễ chúng ta dâng là lễ hiến tế của toàn thể Hội Thánh, vì vậy chúng ta không dâng lễ cá nhân nhưng được mời gọi đi vào hành động của toàn thể Hội Thánh tức chính hành động của Đức Kitô. Công đồng Vaticanô II trong hiến chế Tín lý về Giáo Hội nói: “ Khi tham dự Thánh lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống kitô giáo, họ dâng lên Thiên Chúa Lễ vật thần linh cùng với Lễ vật ấy họ tự dâng chính mình họ. Khi dâng lễ cũng như khi hiệp lễ, không phải cách hỗn độn, nhưng mỗi người một cách góp phần vào việc cử hành phụng vụ. Hơn nữa, được bổ dưỡng bởi Mình Thánh Chúa Kitô trong thánh lễ, họ biểu lộ cách cụ thể sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy được diễn tả đầy đủ và thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực trọng này”(11). h.Lời nguyện tiến lễ. Trải qua nhiều thế kỷ, chỉ có một lời nguyện duy nhất do linh mục đọc trên bánh và rượu, đó là “ Lời nguyện tiến lễ” kết thúc phần Dâng của lễ. Đây là lời nguyện thứ hai sau lời nguyện Nhập lễ. Linh mục giơ hai tay hướng về Thiên Chúa và cầu cùng Thiên Chúa Cha, nhờ Đức Kitô. Ví dụ Lời nguyện hiến lễ của Lễ Phục Sinh:"Lạy Chúa, xin thương nhận lời cầu và của lễ chúng con dâng tiến Chúa để lễ tế này, khơi nguồn từ mầu nhiệm Vượt Qua trở nên thần dược đem lại cho chúng con sức sống muôn đời. Chúng con cầu xin... " 2. Kinh Tạ ơn gồm tất cả 9 phần: Đây là toàn bộ những công thức giữa phần tiến lễ và Kinh Lạy Cha, đây cũng là phần chính của Thánh Lễ: Phần Tạ ơn hoặc hy tế. Theo truyền thống Đông phương, Kinh Tạ ơn còn gọi là anaphore ( Nâng Lên ) là một hành động biểu thị cử chỉ hiến tế. Truyền thống La tinh gọi là Canon ( Lễ quy ), tức là những điều ta phải tuân theo. Canh tân Phụng vụ dùng từ ngữ Kinh Tạ ơn thích hợp hơn cả. Cấu trúc Kinh Tạ ơn có nguồn gốc Do Thái Giáo. Kinh gần nhất là “kinh Chúc Tụng Đấng Tạo Hóa” ( Birkat Yotser ) kèm theo lời kinh đọc hằng ngày “nghe đây hỡi It- ra- en” (Shema Israel ). Lời kinh bắt đầu với lời ngợi khen Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, một lời Sanctus và kết thúc với lời khẩn cầu. Trong sách Didache ở thế kỷ thứ hai cũng có một kinh rất gần với Kinh Tạ ơn. a. Lời tiền tụng: Chủ tế nhắc lại những việc kỳ diệu Thiên Chúa làm: Chúng ta tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc thật là chính đáng. Tiếng La tinh prae ( trước )- fari (nói ) có nghĩa là lời nói đầu. Từ này có thể mang hai nghĩa: “Điều mà ta nói trước khi làm” hoặc “ Điều ta nói trước người nào đó” Giáo Hội cổ xưa giữ lấy nghĩa thứ hai này. Lời Tiền tụng mở đầu Kinh Tạ ơn, là phần mở đầu long trọng của việc tạ ơn Thiên Chúa Cha. Dẫn vào Lời Tiền tụng là lời đối thoại cổ xưa “ Hãy nâng tâm hồn lên”, và tiếp theo là bài hát Thánh! Thánh! Thánh! Tất cả các Lời Tiền tụng đều theo cùng một mẫu cố định, chỉ có phần trung tâm có thay đổi vì tóm tắt lại về mầu nhiệm được cử hành. Vì thế, khi chúng ta thu thập lại các công thức riêng của khỏang 80 Lời Tiền tụng có trong sách Lễ Roma, chúng ta sẽ có được một bản tóm tắt phong phú về mầu nhiệm Giao ước mà Giáo Hội vẫn luôn cử hành. Cấu trúc Lời Tiền Tụng có: 1. Lời chúc tụng, tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô. 2. Lý do tạ ơn. 3. Dẫn vào kinh Thánh! Thánh! Thánh. Ví dụ Lời tiền tụng cho lễ Phục Sinh I: Lạy Cha, chúng con tuyên xưng Cha mọi lúc và hân hoan ca tụng Cha vinh hiển, nhất là trong ngày này, thật là chính đáng và phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, khi Đức Giêsu tự hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con. Chính Người là Chiên thật đã xóa tội trần gian. Người đã chết để diệt trừ sự chết nơi chúng con, và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con. Vì thế, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu, lòng tràn ngập niềm vui ngày Chúa sống lại, đều mừng rỡ hân hoan. Đồng thời cả triều thần thiên quốc hát bài ca chúc tụng Cha vinh hiển và không ngừng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh! b. Thánh! Thánh! Thánh! Lời Tiền Tụng dẫn tới Kinh sanctus. Tiếng La tinh sanctus nghĩa là thánh. Kinh Thánh! Thánh! Thánh! là ba lần kêu cầu Thiên Chúa chí thánh. Kinh này là lời ca tụng của toàn thể cộng đoàn, làm bung nổ lời tạ ơn phát xuất ra không phải do những công việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, nhưng ngay vào việc chiêm niệm Thiên Chúa. Chúng ta hát mừng Thiên Chúa mà mầu nhiệm của Người bao phủ vũ trụ, cũng như Đấng mà Ngài gửi đến. Phụng vụ nơi đây đưa chúng ta vào phụng vụ của một dân tộc đi vào thế giới mới. Phần đầu Kinh Sanctus lấy lại thị kiến khai mào của ngôn sứ I- sa-i-a, ông đã nghe các thiên thần Seraphim tung hô: Thánh! Thánh! Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa! ( 6,3 ). Tiếp theo là: Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Đây là lời tung hô của người Do Thái ở Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành ngày Lễ Lá ( Mát- thêu 21,9; Mác- cô 11,9; Lu-ca 19,38 ), đây cũng là bài ca của bốn con Vật trong sách Khải Huyền 4,8. Từ Hosanna là tiếng tung hô của người Do Thái, được ghép bởi mệnh cách của động từ hoshi ‘ ah nghĩa là cứu vớt và từ tố chỉ nghĩa “Na” = van xin. Hoshi ‘ahna sát nghĩa là xin cứu vớt. Từ này xuất hiện thành văn trong câu 25 của Thánh vịnh 117. Thánh vịnh này tiêu biểu sự vượt qua, mô tả quang cảnh đón rước Đấng Mêsia dịp lễ đăng quang của Người (câu 19-27 ). Dân Do Thái hát bài ca này để chào mừng Đức Giêsu lúc Người tiến vào thành Giêrusalem (Matthêu 21,9 ). Sau này Hosanna mất đi ý nghĩa nguyên thủy để chỉ còn lại là tiếng hô vui mừng và chiến thắng. Hosanna được phụng vụ nhắc lại hai lần trong kinh Thánh! Thánh! Thánh! như lời tung hô của các tín hữu vào cuối Kinh Tiền Tụng để dâng lên Thiên Chúa. Vào phút giây hy lễ Thánh Thể sắp được tái diễn, ý nghĩa căn gốc của Hosanna lột tả trọn vẹn nội dung của mầu nhiệm: Xin cứu vớt. Đây là công trình của Đức Giêsu, Thánh Danh có nghĩa là Đức Gia- vê cứu vớt hoặc Thiên Chúa đã cứu vớt: Yehoshua. c. Kinh hậu sanctus. Kinh này có công dụng làm gạch nối giữa kinh Sanctus là kinh Epiclesis. Vì thế kinh này khởi đầu từ sau kinh Sanctus cho tới lời cầu xin Chúa Thánh Thần. d. Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần ( epiclesis ). Trong tiếng Hy Lạp Klesis ( lời kêu gọi ) và epi ( ở trên ). Đây là lời cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài đến và bằng hoạt động của Thiên Chúa, thánh hóa lễ vật Hội Thánh dâng lên trong Thánh lễ hầu trở thành Mình và Máu Chúa, và trên cộng đoàn để họ tham dự vào Thánh Thể một cách hiệu qủa hơn. Trong kinh Tạ Ơn có hai kinh Epiclesis: Kinh thứ nhất gọi là Truyền Phép và được đặt trước tường thuật lập bí tích Thánh Thể, cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên lễ vật và thánh hóa lễ vật biến thành Mình và Máu Chúa Kitô. Kinh Epiclesis thứ hai gọi là hiệp lễ được đặt ở sau tường thuật lập bí tích Thánh Thể. e. Phần tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể và hiến thánh. Liên quan đến tường thuật lập bí tích Thánh Thể vấn đề đặt ra là giây phút truyền phép, nghĩa là khi nào thì bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô? Theo Đông phương thì Kinh Epiclesis chính là lời truyền phép biến bánh rượu thành Mình Máu Chúa Kitô. Theo Tây phương thì tường thuật lập bí tích Thánh Thể mới là lời truyền phép. Ai là người truyền phép? Người ta cho rằng linh mục là người truyền phép. Điều đó hoàn toàn không đúng. Kinh Epiclesis chứng tỏ vai trò của linh mục chỉ là đọc lời nguyện của cộng đoàn nài xin Chúa Cha sai Thánh Thần xuống trên lễ vật. Như vậy chính Thiên Chúa Cha nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà thánh hóa lễ vật và biến thành Mình và Máu Chúa Kitô chứ không phải linh mục. Cử chỉ vị linh mục nâng Bánh và Chén Thánh sau khi đọc lời truyền phép, đây chỉ là việc nâng Mình và Máu Thánh lên cho giáo hữu thờ lạy. Có nhiều mê tín dị đoan liên quan đến cử chỉ này, ví dụ người ta tin rằng ai ngước nhìn lên bánh và chén thì hôm đó sẽ không phải chết thình lình, nhà cửa và kho lẫm sẽ được bảo vệ khỏi hỏa hoạn. Vì thế khi linh mục nâng Chén và Bánh không cao đủ thì một số nguời than thở: xin nâng cao hơn! Ngày nay, việc nâng Chén nhằm mục đích mời gọi giáo dân biểu lộ niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể và tôn thờ Người cách thầm lặng. Có thể rung chuông và để tỏ lòng tôn kính sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể, có thể xông hương mỗi khi nâng Bánh và Chén lên. f. Tưởng niệm (Anamnesis ). Đây là lời nguyện kế tiếp việc truyền phép. Sau lời tung hô của tín hữu: "Lạy Chúa chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến", lời kinh này được ghép vào lệnh truyền phải lập lại tác động này, tức là câu kết của trình thuật thiết lập Thánh Thể: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy“. Vì là tưởng niệm Thánh Thể, tức kỷ vật tri ân của Hội Thánh, kinh này là lời gợi nhớ kỷ niệm mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô. g. Dâng tiến ( kinh cầu xin cùng Chúa Thánh Thần lần hai ). Kinh này cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên cộng đoàn để liên kết họ với nhau thành một thân thể duy nhất nhờ liên kết với Chúa Kitô. h. Chuyển cầu. Giáo Hội dâng những lời nguyện xin cầu cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục, linh mục và tất cả những ai dấn thân phục vụ dân Chúa. Cộng đồng cũng cầu xin cho những người đã ly trần. Sau cùng cộng đồng cầu nguyện cho những người hiện diện để họ được liên kết với Đức Maria và toàn thể các Thánh ở trên trời mà chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa. i. Vinh tụng ca. Theo tiếng Hy Lạp Doxa (vinh quang ) logos là lời. Doxologia là lời về vinh quang, là một công thức cử hành vinh quang Thiên Chúa khi đọc hay hát lời vinh tụng, linh mục cũng cầm Bánh và Chén thánh nâng lên trong một cử chỉ hiến dâng. Cử chỉ này diễn tả tiến trình vũ trụ hướng về cõi vĩnh cửu của Thiên Chúa. Có thể nói đây là giây phút quan trọng nhất trong Thánh Lễ, các lời nói và cử chỉ đều diễn tả rõ rệt Đức Kitô chịu hiến tế là Đấng được Chúa Cha ban tặng đồng thời được dâng lại cho Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần để mưu ích cho toàn thể Hội Thánh: Chính nhờ Đức Kitô Cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến luôn thuở muôn đời.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA 5. Công bố Tin Mừng. «Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài» (thư gửi Do thái 1,1-2). Thiên Chúa qua Đức Kitô đã tỏ mình ra cho nhân loại không những một cách đầy đủ và trọn vẹn, nhưng bằng một hình thức cao cả là Thiên Chúa nói với loài người qua chính Con Yêu quý của Ngài. Vì thế, Phụng vụ dành những hình thức trang trọng và đặc biệt cho việc công bố Tin Mừng; «Trong tất cả các lễ nghi liên quan đến Phụng vụ Lời Chúa, phải hết sức lưu tâm dành cho Tin Mừng sự tôn kính đặc biệt. Ở đâu có sách Tin Mừng và được phó tế và người đọc sách mang theo trong cuộc rước đầu lễ, thì phó tế là người thích hợp hơn cả, và nếu không có phó tế thì chính linh mục chủ tế sẽ lấy sách từ bàn thờ và rước tới giảng đài. Những người giúp lễ cầm nến và bình hương đi trước». Theo chỉ thị trên, chúng ta có thể kết luận; a) Sách Tin Mừng và bàn thờ đều tượng trưng chính Thiên Chúa, nên trong cuộc rước đầu lễ người mang sách Tin Mừng sẽ đặt sách trên bàn thờ. Nơi nào không có sách Tin Mừng thì sau bài đọc 2, người đọc sách sẽ đem sách bài đọc đặt trên bàn thờ. Trước khi công bố Tin Mừng, phó tế hoặc linh mục chủ tế sẽ lấy sách từ bàn thờ rồi rước tới giảng đài. Việc này chỉ định Lời công bố Tin Mừng phát xuất từ chính Chúa Kitô. b)Về người công bố Tin Mừng: Những bài đọc khác do giáo dân đọc, nhưng để công bố Tin Mừng phải người có chức thánh. Nhiệm vụ công bố các bài đọc là phần vụ các thừa tác viên hơn là vị chủ tế. Vì thế, phó tế hoặc một linh mục khác công bố Tin Mừng thích hợp hơn vị chủ tế. Chỉ khi nào có một mình, chủ tế mới nên thi hành tác vụ này. Trước khi công bố Tin Mừng, thừa tác viên chào cộng đoàn nhưng không giang tay như thường lệ. Sau đó loan báo đoạn Tin Mừng sẽ được công bố, rồi làm dấu Thánh giá trên trán, trên môi và trên ngực, ngụ ý ám chỉ tâm trí, tâm hồn sẵn sàng đón nhận Lời Chúa, môi miệng sẽ tuyên xưng và tâm hồn sẽ yêu mến Lời Ngài. Mọi tín hữu đang có mặt cũng làm theo như vậy và có thể đọc thầm lời nguyện; «Xin Lời Chúa mở rộng lòng trí con, cho miệng lưỡi con biết công bố Lời Ngài, cho con biết giữ Lời Ngài trong tâm hồn con và thực thi Lời Ngài» (40 câu hỏi về Thánh Lễ, Lm Vũ thái Hòa, 1996 trang 27). c) Việc rước sách Tin Mừng phải được diễn ra cách hết sức trang trọng nói lên vẻ đẹp lễ nghi Phụng vụ và sự tôn kính xứng hợp đối với sách Tin Mừng tượng trưng cho Chúa Kitô. 6. Bài diễn giảng. Bài huấn từ do chủ tế, một linh mục khác hoặc một phó tế diễn giảng. Bài giảng tiếp ngay sau bài Tin Mừng mang mục đích hiện tại hóa các bài đọc mỗi ngày cho cộng đoàn,và giúp người tín hữu cử hành thánh Thể một cách đích thực hơn. Bài giảng thiết yếu của buổi Phụng vụ nên buộc phải giảng trong các lễ Chúa nhật và các lễ buộc. Mục đích bài giảng có thể tóm lược lại qua hai ví dụ điển hình sau đây; a) Vào khoảng năm 400 trước công nguyên, dịp lễ Lều, thầy tư tế Ezra giảng cho dân Do thái hồi hương từ Babylone về Giêrusalem; «Toàn dân tụ họp lại như một người tại công trường trước Cổng Nước... Ezra đã đọc sách Luật Thiên Chúa, vừa đọc vừa dịch và giải thích ý nghĩa. Nhờ vậy người ta hiểu được bài đọc» (Nkm 8,1-8). Ezra đọc bản văn nguyên thủy bằng tiếng Híp-ri hầu hết dân chúng hồi cư từ Ba-by-lon trở về không hiểu, vì thế ông phải dịch sang tiếng A-ra-mê được thông dụng thời bấy giờ cho dân chúng có thể hiểu được. Đó là một trong mục đích chính của bài giảng, giải thích ý nghĩa Lời chúa để họ hiểu sứ điệp Thiên Chúa muốn nói với họ. b) Một ví dụ điển hình khác nói lên mục đích bài giảng như Đức Giêsu đã làm tại hội đường Nazareth. Sau khi đọc sách ngôn sứ I-sa-ia, Đức Giêsu khởi đầu bài giảng bằng những lời; «hôm nay đã ứng nghiệm đoạn sách này nơi tai các ngươi» (Lc 4,21). Lời tuyên bố cho thấy bài giảng còn mang mục đích áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh cụ thể của cộng đoàn. Vị giảng thuyết mang nhiệm vụ giúp dân hiểu Lời Chúa và đề nghị những áp dụng thực hành cho Lời Chúa thấm nhuần vào đời sống. Nhiệm vụ người tín hữu phải suy niệm thấu đáo và thấm nhuần Lời Chúa đưa ra áp dụng trong đời sống hằng ngày. Về bản chất, dù bài giảng không thuộc Kinh bộ thánh Kinh nhưng cũõng được coi như Lời Chúa vì bài giảng diễn giải Lời Chúa, cho Lời Chúa một hình thức hầu người tín hữu có thể hiểu được. Như Ngôi Lời mặc lấy xác phàm và ở cùng chúng ta, Lời Chúa mặc lấy hình thức bài giảng đến với cộng đoàn. Chúa Thánh Thần biến đổi bánh của hoa mầu ruộng đất thành Bánh Hằng Sống từ trời xuống thế nào, Ngài cũng biến đổi tiếng nói con người ở bài giảng thành Lời Chúa như vậy. 7. Đáp ứng Lời Chúa. Sau khi Lời Chúa được công bố qua các bài đọc và được diễn giải qua bài giảng, cộng đoàn đáp lại bằng cách tỏ dấu chấp nhận qua việc Tuyên xưng đức tin, và biểu lộ mối quan tâm đến những nhu cầu của toàn thể nhân loại qua Lời Nguyện cho mọi người. 7.1. Lời tuyên xưng Đức Tin; Kinh Credo hay Kinh Tin Kính. Credo nguyên ngữ La tinh có nghĩa Tôi tin. Đây là từ đầu tiên của Kinh Tin Kính, một kinh nguyện tổng hợp các biểu thức đức tin, một hình thức cô đọng niềm tin Kitô giáo. Trong sách Lễ Rôma có hai Kinh Credo được đề nghị; a) Tín biểu các Tông đồ. Nguồn gốc kinh này đến từ Giáo Hội sơ khai tại Rôma. Kinh nguyện ngắn gọn và tóm tắt những ý chính. Nhiều tác giả cho kinh này do các Tông đồ biên sọan trước khi chia tay nhau tại Giêrusalem ra đi rao giảng Tin Mừng. Đó là truyền thuyết ẩn chứa huấn dụ như đức tin chúng ta tuyên xưng chính là đức tin của các Tông đồ. Cấu trúc Tín biểu được hoàn thành vào khoảng thể kỷ thứ 2 hoặc thế kỷ thứ 3 tại Rôma và được xử dụng kèm theo phép Rửa Tội. Ban đầu, Tín biểu mang hình thức cổ truyền như mẫu đối thoại giữa người dự tòng và vị chủ tế; - Con có tin Thiên Chúa là Đấng toàn Năng? - Thưa tin. - Con có tin Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa? - Thưa tin. - Con có tin Chúa Thánh thần? - Thưa tin. Và sau mỗi câu trả lời, người dự tòng được nhúng đầu vào giếng rửa tội. Trong nghi thức Vọng Phục sinh, khi nhắc lại lời tuyên tín Thánh tẩy, vị chủ tế cũng đặt những câu hỏi như vậy. Đến thế kỷ thứ 3, phần chính hình thức này thêm những điều về Chúa Kitô và nói rõ hơn về Chúa Thánh thần. Sang thế kỷ thứ 4, Tín biểu được đọc một mạch chứ không còn dưới hình thức đối thoại. Cuối cùng hoàng đế Charlemagne áp đặt trong toàn cõi đế quốc một văn bản dựa vào bản Tín biểu đến từ Rôma làm nên bản văn chung cuộc chính thức. 7.3. Kinh Tin Kính thứ 2 là Tín biểu Nicêa-Constantinople. Kinh này thêm vào “Tín biểu các Tông đồ “ những khẳng định đến từ Công đồng hội họp tại thành Nicêa vào năm 325, và Công đồng tại thành Constantinople vào năm 381. Hai Công đồng này nhóm họp bên Đông phương lên án những lạc giáo tức là những lầm lạc về đức tin đến từ việc các tông đồ rao giảng. Ví dụ, linh mục A-ri-us trình bày Chúa Kitô như một bản thể ở dưới quyền Thiên Chúa Cha. Lên án lạc thuyết này, Công đồng Nicêa khẳng định “Người là Thiên Chúa... đồng bản thể với Chúa Cha”. Tín biểu Nicêa-Constantinople được hoàn toàn chấp nhặn vào năm 450 tại Công đồng nhóm họp ở thành Chalcèdoine. Việc đọc kinh Tin Kính Nicêa-Constantinople trong thánh lễ chống lại các lầm lạc về Chúa Kitô như điều không nhìn nhận Người vừa là người vừa là Thiên Chúa. Kinh được đưa vào phụng vụ bên Đông phương trước rồi sau đó mới lan truyền vào phụng vụ Tây phương qua ngã Tây Ban Nha. Vào năm 1014, khi hoàng đế Henri II tới Rôma làm lễ đăng quang, ông muốn trong Thánh Lễ phải đọc Kinh Tin Kính. Người ở Rôma thấy họ đâu cần thiết phải đọc Kinh này vì Giáo hội tại đó không đối phó với vấn đề lạc giáo. Vua Henri II làm áp lực với ĐGH Bênêdictô VIII đưa Kinh Tin Kính vào Thánh Lễ tại Rôma, và đến thế kỷ thứ 12, Kinh Tin Kính mới được chấp nhận trong Thánh Lễ Chúa nhật và những lễ Kinh Tin Kính có nhắc đến. Kinh Credo phải được cộng đoàn cùng đọc vì mang hình thức biểu lộ đức tin đáp lại Lời Chúa công bố qua các bài đọc và bài diễn giảng. Qui chế Tổng quát số 43 ghi; “Kinh Tin Kính hay việc tuyên xưng đức tin trong Thánh Lễ có mục đích giúp giáo dân tỏ dấu chấp nhận và đáp ứng Lời Chúa được công bố qua các Bài Đọc, và được diễn giảng qua bài giảng, đồng thời cũng giúp họ nhớ lại những chân lý đức tin trước khi khởi đầu cuộc ử hành Thánh Thể”. Thật ra, Kinh Tin Kính Nicêa-Constantinople mang nhiều từ thần học nguyên ngữ La tinh khó hiểu. Những bản dịch ra tiếng phổ thông cũng không dễ dàng, vì vậy Kinh Credo thường được đặt ra nhạc và thành bài hát do ca đoàn hát một mình đến nỗi làm lu mờ Kinh Nguyện Thánh Thể tức là lời Kinh mang mục đích tuyên xưng đức tin và “mầu nhiệm đức tin” về sự hiện diện của Chúa Kitô sống lại. Công đồng Vatican II trở lại việc đọc bình thường Kinh Tin Kính với hai văn bản tùy ta chọn lựa. 8. Lời Nguyện chung. Lời nguyện chung hay lời nguyện “đại đồng” là một trong những cải tổ thành công nhất do Công đồng Vatican II đề xướng. Quy chế Tổng quát sách Lễ Rôma số 45-46 ghi như sau: “Trong lời nguyện cho mọi người, cũng gọi là lời nguyện tín hữu, chính dân Chúa thực hiện chức vụ tư tế của mình, mà cầu cho hết mọi người... Những ý nguyện thường là cho các nhu cầu của Giáo Hội, cho các người trong chính quyền, và cho toàn thế giới được ơn cứu độ, cho các người đang gặp bất cứ khó khăn nào, cho cộng đoàn địa phương”. Lời nguyện chung là gia sản đến từ truyền thống Do thái giáo. Người Do thái thường tiếp nối các kinh nguyện chúc lành bằng lời cầu nguyện xin. Nối tiếp truyền thống, các tín hữu sơ khai cũng kết thúc Phụng Vụ Lời Chúa bằng những lời nguyện tương tự. Trong thư thứ nhất gửi ơng Ti-mô-thê, thánh Phaolô viết như sau; “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta. Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (2,1-4). Qua những cải cách phụng vụ trong quá khứ, Lời nguyện chung dần dần biến mất và vào khoảng thế kỷ thứ 6 hoàn toàn không còn thấy trong nghi lễ Rôma. Sau 14 thế kỷ, Lời nguyện Chung mới được Công đồng Vatican II phục hồi. Lời nguyện Chung còn mang nhiều tên khác như Lời Nguyện giáo dân vì ngày xưa các dự tòng chỉ được dự Thánh Lễ từ khởi đầu đến hết Kinh Tin Kính thôi. Họ ra về trước khi khởi đầu Lời Nguyện Chung dành cho giáo dân nên các dự tòng không được tham dự, cho nên mới được gọi là Lời Nguyện giáo dân. Ngoài ra còn gọi Lời Nguyện Chung hay Lời Nguyện Phổ Quát vì lời cầu xin cho những nhu cầu và nhân danh toàn thể ở khắp nơi. Nhập đề sách Bài Đọc đề cập đến Lời Nguyện Chung như sau; “Sau khi được soi sáng bằng Lời Chúa, toàn thể cộng đoàn tín hữu đáp lại bằng lời cầu xin cho những ý chỉ phổ quát. Theo nguyên tắc thì phải cầu cho những nhu cầu chung của Giáo Hội phổ quát, cho cộng đoàn địa phương, cho ơn cứu độ của thế giới, cho những người bị đàn áp bởi bất cứ quyền lực nào, và cho những nhóm đặc biệt” (#30). Lời Nguyện Chung phải được phát nguồn từ Lời Chúa vừa được công bố, và mang hình thức cộng đoàn đáp ứng Lời Chúa vừa được lãnh nhận. Lời nguyện nhắm vào những nhu cầu tổng quát của Giáo Hội và cộng đoàn nhân loại. Thánh Lễ trở nên lời nguyện chung của Giáo Hội và cho Giáo Hội. Tuy nhiên cũng có thể thêm vào đó những ý chỉ đặc biệt cho các nhu cầu riêng của địa phương, hoặc các nhóm hay cá nhân. Những điều cần biết khi soạn Lời Nguyện Chung; Cấu trúc Lời Nguyện Chung gồm 3 phần; 1. Lời mở đầu do vị chủ tế mời gọi cộng đoàn đi vào các ý nguyện. 2. Các ý nguyện do một thừa tác viên đọc, nhưng không bao giờ bắt đầu các ý nguyện bằng từ; “Lạy Chúa... “, như thế ý nguyện trở nên lời nguyện. Hai điều này khác nhau; Ý nguyện gợi ý cho cộng đoàn cầu nguyện; còn Lời nguyện do vị chủ tế nhân danh cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa 3. Lời nguyện kết thúc do chủ tế thay mặt cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa, cũng gồm có 3 phần; lời xưng lên Chúa Cha hay Chúa Con; Lời nài xin và Câu Kết thúc. (Lm Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, Giải đáp các vấn nạn về Phụng vụ theo các văn kiện của Giáo Hội, tập 1, Việt Nam 2001, trang 174-175). Khi soạn Lời Nguyện Chung cần nhớ có ba nguồn cảm hứng; 1. theo ý chính những “Bài Đọc” cho Thánh Lễ ngày hôm đó. 2. theo dõi thời sự Giáo Hội và thế giới. 3. những gì Cộng đoàn đang sống và mang ý nguyện muốn dâng lên Thiên Chúa. Những điều nên tránh; - ngỏ lời với Chúa Cha mà nguyện xin với Ngôi Con hoặc Ngôi Ba. - Ý nguyện phải ngắn gọn, đơn sơ, quá 10 vần mà câu chưa ngắt vì người nghe không có bản văn trước mắt. Hai câu đơn hay hơn môït câu dài, cầu kỳ và lòng thòng. - Đừng xin cho những ý tưởng chung chung dù thật hay như hòa bình, công lý... ý nguyện phải thực tế cầu cho người nào đó, đang bị bất công cụ thể... - Coi chừng giọng văn cảnh cáo, dạy đời và thanh toán nhau một cách trá hình. - Cố tránh cách xin “Chúùa làm thay con”, ví dụ như “xin Chúa cho người đói ăn no”...
II. PHỤNG VỤ LÒI CHUUA Phụng vụ Lời Chúa (PVLC) là phần thứ hai của Thánh Lễ sau phần Nhập Lễ. Chúng ta thấy trong phần đầu mọi người được mời gọi kết thành cộng đoàn và sửa soạn đón nhận Lời Chúa. Phụng vụ Lời Chúa không còn là giai đoạn sửa soạn vào nghi lễ tiếp theo nhưng thuộc thành phần quan trọng trong Thánh lễ. Công đồng Vatican II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh nói; «Trong việc cử hành Phụng Vụ, Thánh Kinh giữ vai trò tối quan trọng... Trong Phụng Vụ, Thiên Chúa nói với dân Ngài; Chúa Kitô vẫn còn rao giảng Tin Mừng. Phần dân chúng thì đáp lại Thiên Chúa qua tiếng hát lời kinh» (24.33). Các tín hữu không tạo ra Phụng vụ Lời Chúa, nhưng từ ngàn xưa phần này nằm ngay trung tâm điểm trong các nghi lễ phụng vụ. Trong Tin Mừng Lu-ca, tác giả ghi Đức Giêsu lên hội đường vào ngày Sa-bát như Người vẫn quen làm (4,16). Khi đi truyền giáo, thánh Phaolô cũng thường vào các cuôïc hội của người Do thái trong các hội đường để rao giảng (Cv 13,4-5; 13,42-44; 14,1;17,1-3-10; 17,16-17). Các tín hữu tiên khởi lấy lại một phần cấu trúc phụng vụ tại hội đường, và họ thêm vào phần PVLC các văn bản Tân ước. Công đồng Vatican II mong muốn; «để bàn tiệc Lời chúa được thêm phần phong phú cho các tín hữu, cần phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn, để trong một số năm ấn định, dân chúng được nghe hầu hết những phần cốt yếu của Thánh Kinh» (Hiến chế Phụng vụ 51). Theo lời Công đồng, các chuyên gia phụng vụ đã cho phát hành Sách bài đọc ngày 25.5.1969, và được toàn thể Giáo hội chính thức dùng vào chúa nhật thứ nhất mùa Vọng 30.11.1969. Sách bài đọc gồm các bài đọc soạn sẵn cho các buổi lễ. Người ta phân biệt sách bài đọc Chúa nhật và ngày trong tuần, sách bài đọc cho các nghi lễ Rửa Tội, Hôn Phối, An táng... và sách bài đọc xử dụng cho giờ Kinh Sách. Các bài đọc chia thành hai chu kỳ: các Chúa nhật và ngày thường. Các bài đọc Chúa nhật được phân phối ra thành ba năm chỉ định bằng các mẫu tự A, B, C, và thường gọi Bài đọc năm A, năm B hoặc năm C. Cách chia này lấy lại Phụng vụ trong hội đường. Người Do thái nghe đọc Cựu ước (thường là sách về Lề Luật và các Ngôn sứ) và tiếp theo có bài giảng dạy (Cv 13,5). Truyền thống đến từ Pa-lét-tin chia các bài đọc này ra thành chu kỳ 3 năm. Ngày thường của mùa thường niên chia thành hai gọi là năm Chẵn và năm Lẻ. Cách tính năm Chẵn-Lẻ cũng đơn giản thôi vì theo số đơn vị chẵn lẻ của năm dân sự; ví dụ năm 2000, 2002, 2004... đọc bài theo năm chẵn, còn như 2001, 2003, 2005... đọc theo năm lẻ. Theo cách chia hiện thời, các Chúa nhật thường niên năm A chúng ta nghe Tin Mừng Mát-thêu; năm B Tin Mừng Mác-cô và năm C Tin Mừng Lu-ca. Tin Mừng Gio-an được đọc trong mùa Phục sinh và một số bài trong mùa Chay. Ba trình thuật: Người đàn bà Sa-ma-ra-ti-nô, Người mù từ khi sinh và La-da-rô sống lại được đọc lại mỗi mùa Chay từ trước đến nay, vì ba trình thuật này dùng sửa soạn cho người dự tòng. Chương 6 Tin Mừng Gio-an về Bánh hằng Sống được đọc vào mùa hè năm B vì Tin Mừng Mác-cô là Tin Mừng ngắn không đủ cho hết trọn năm. 1. Bài đọc 1 trích từ Cựu ước. Mùa Phục Sinh lại trích từ sách Công vụ các Tông đồ. Bài đọc 1 thường được lựa chọn theo tiêu chuẩn có liên hệ nào đó với bài Tin Mừng; ví dụ bài Tin Mừng có trích dẫn một vài câu của Cựu ước, hay ứng nghiệm sấm ngôn đề cập đến cùng chủ đề hoặc chủ đề tương phản với bài Tin Mừng. Công bố Cựu ước nhằm mục đích nói đến mối liên hệ giữa chúng ta với dân Do thái. Chúng ta cùng chia sẻ một lịch sử ơn Cứu độ nhưng thuộc hai giai đoạn khác nhau. Tân ước và Cựu ước đều là Lời Chúa và cả hai đều thưộc thành phần lịch sử ơn cứu độ duy nhất. Trong mùa Vọng, bài đọc 1 thường trích ra từ sách Ngôn sứ I-sa-ia hoặïc các sấm ngôn đến từ các ngôn sứ khác. Trong mùa Chay, bài đọc 1 được trích dẫn khác nhau cốt ý tóm tắt giúp các tín hữu biết về lịch sử ơn cứu độ. Trong mùa phục Sinh, sách Công vụ Tông đồ thay thế bản văn Cựu ước. 2. Thánh vịnh Đáp ca. Trước khi tìm hiểu về ý nghĩa phần đáp ca sau bài đọc 1, thiết tưởng cần nói sơ qua ý nghĩa Thánh vịnh. Nguyên từ Psalmos đến từ động từ Hy-lạp psallein diễn đạt hành động chạm vào một sợi dây làm cho nó rung lên. Thoạt tiên, từ Thánh vịnh nói đến việc xử dụng các nhạc khí bằng dây, rồi đến các điệu nhạc được diễn tấu, và sau cùng là bản nhạc được hát với nhạc khí đệm. Trong Cựu ước, Đa-vít chơi đàn cithare điêu luyện (1 Sm 16,16-23) và sáng tác thơ (2 Sm 1,17-27). Đa vít coi như người khai phá loại thơ tôn giáo được hát có nhạc đệm và được gọi là Thánh vịnh. Truyền thống coi sách Thánh vịnh trong Cựu ước với 150 bài thơ là của Đa-vít, mặc dầu chỉ phân nửa Thánh vịnh mang tên ông trong tựa đề. Thật ra, các Thánh vịnh được sáng tác khoảng giữa thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ V trước công nguyên. Thiên Chúa nói với dân tuyển chọn qua những việc kỳ diệu do Ngài thực hiện. Dân chúng đáp lại bằng cách cử hành công cuộc vĩ đại đó. Khi Thiên Chúa dẫn đưa dân Do thái vượt qua Biển Đỏ, My-ri-am đáp lại bằng những lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Đấng xô đẩy chiến mã cùng kỵ binh của Pha-ra-on xuống lòng biển cả (Xh 15,1 và 21). Khi Thiên Chúa giải thoát bà Anna khỏi nỗi tủi nhục son sẻ và ban cho bà một người con; bà Anna cũng đáp lời ngợi khen Đấng làm cho phụ nữ son sẻ sinh con bảy lần (1 Sm 2,5). Khi Thiên Chúa giải thoát ông Tô-bi-a khỏi cảnh đui mù, ông chúc tụng Đấng tỏa sáng trên Giê-ru-sa-lem và nơi tâm hồn Tô-bi-a (Tb 13,11). Trong Tân ước, khi Thiên Chúa cho Đức Maria trinh thai, tâm hồn ngài đã nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ ngài. Những ví dụ vừa nêu trên diễn đạt ý nghĩa Đáp ca. Sau khi nghe Lời Chúa tường thuật những kỳ công do Thiên Chúa thực hiện, cộng đoàn đáp và cử hành những kỳ công đó qua lời chúc tụng ngợi khen. Tuy nhiên, lời đáp ứng do chính Chúa Thánh Thần mạc khải như trường hợp ông Da-ca-ria được đầy Thánh Thần và ca ngợi «Chúùc tụng Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, vì Ngài đã thăm viếng và cứu chuộc dân Ngài» (Lc 1,67-68). Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô còn viết; «Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa». Với ý nghĩa tạ ơn nên Đáp ca thường trích từ Thánh Vịnh hay Thánh Thi vì đó là lời Thánh thần linh hứng. Đáp ca là Lời Chúa. Khi đề cập đến Đáp Ca, Qui chế tổng quát số 36 ấn định; «tiếp theo Bài đọc 1 là Đáp ca hay Ca tiến cấp, đây là một thành phần của phụng vụ Lời Chúa... Người hát Thánh Vịnh thì hát những câu Thánh vịnh ở giảng đài hay tại một nơi xứng hợp, trong khi dân chúng ngồi nghe, và theo luật thì họ phải tham dự bằng cách hát những câu đáp ca, trừ khi Thánh vịnh được hát liên tục mà không có câu đáp ca». Nhập đề sách bài đọc cũng viết; «Đáp ca cũng gọi là Ca tiến cấp, có một ý nghĩa lớn lao về phụng vụ cũng như mục vụ. Vì đây là một thành phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Bởi thế dân chúng phải được tiếp tục giáo huấn bằng cách thấu hiểu Lời chúa phán dạy qua các thánh vịnh và biến các Thánh vịnh này thành lời Đáp ca sau bài đọc 1: hát đối đáp hoạc hát liên tục. Hát đối đáp là hình thức đáng khuyến khích hơn hết: Người hát thánh vịnh thì hát những câu của Thánh vịnh, rồi toàn thể cộng đồng hát câu Đáp ca. Hát liên tục là không có câu đáp ca xen vào giữa các câu của Thánh vịnh: người hát thánh vịnh có thể hát tất cả và cộng đồng lắng nghe, hoặc toàn thể cộng đồng cùng hát... Hát Thánh vịnh có một tác dụng lớn lao giúp ta thấu hiểu và suy niệm ý nghĩa thiêng liêng của Thánh vịnh» (# 19, 20, 21). Từ những huấn thị trên, chúng ta có thể rút ra một vài kết luận như sau; a) Đáp ca là một thành phần thuộc Phụng Vụ Lời Chúa. Thiên Chúa tiếp tục phán dạy và giáo huấn dân Ngài như các bài đọc nhưng dưới hình thức khác. Vì thế không nên để cộng đoàn hát hay đọc, nhất là không nên chia cộng đoàn thành hai bè đọc Đáp ca. Lời Chúa phán dạy qua Đáp ca cũng phải được công bố như các bài đọc khác, nghĩa là do một người hát hay đọc Thánh vịnh và toàn thể cộng đoàn đáp lại bằng câu Đáp ca. Người đọc hay hát Đáp ca phải đứng ở giảng đài như khi công bố các Bài đọc khác, và nên chỉ định một người khác hơn là cùng một người đọc bài đọc 1 vừa đọc Đáp ca. b) Có thể chọn Thánh vịnh đã được phổ nhạc sẵn, nhưng phải phù hợp với chủ đề các bài đọc, đồng thời toàn thể cộng đoàn cũng có thể hát liên tục. Tuy nhiên hình thức này không đáng khuyến khích, vì Đáp ca là một hình thức khác Chúa dùng để phán dạy và giáo huấn. Thái độ xứng hợp hơn cả dân chúng lắng nghe Lời Chúa do người khác đọc Thánh vịnh rồi cộng đoàn đáp ứng bằng câu đáp ca. 3. Bài đọc 2 trích từ Tân ước. Trong các Chúa nhật và lễ trọng có thêm bài đọc hai. Bài đọc này thường ngắn hơn và trích từ các Thánh Thư, sách Công vụ các Tông đồ hoặc sách Khải Huyền. Thánh Thư từ nguyên Hy-lạp Epistolè gợi việc một sứ điệp được gửi đi do người phu trạm chuyển đi; Thánh thư được gửi cho một người hay một cộng đoàn. Trong Tân ước có rất nhiều thư; nhiều nhất là thư của thánh Phaolô, Gia-cô-bê, Gio-an, Phêrô, Giu-đa... Thời xưa bài đọc 1 trong Thánh lễ thường trích các thư này, nên người ta đã dùng cụm từ «bài thánh thư» chỉ bài đọc này. Ngày nay không mấy đúng lắm vì bài đọc 1 thường trích từ Cựu ước. Bình thường bài đọc 2 không trình bày cùng chủ đề với bài đọc 1 hay bài Tin Mừng; và trong các chủ nhật thường niên bài đọc 2 hầu như tiếp nối liên tục với nhau. Tuy nhiên vào những mùa phụng vụ quan trọng, bài đọc 2 thường có liên quan tới mầu nhiệm cử hành: trong mùa phục sinh, các Thánh thư thường trích ra từ sách Khải Huyền, các thư của thánh Phêrô (ứng dụng Phép rửa trong Chúa Kitô) hoặc thư của thánh Gio-an; trong mùa Vọng, mùa Giáng sinh hay mùa Chay, bài đọc 2 được chọn theo ý hoặc bài đọc 1 hoặc bài Tin Mừng; Còn trong mùa thường niên, bài đọc 2 rút ra từ các thư của thánh Phaolô và thánh Gia-cô-bê khá liên tục. 4. Alleluia! Alleluia nguyên ngữ Híp ri Hallelu Yah có nghĩa «Chúc tụng Giavê». Alleluia là lời mời gọi ca tụng thường xuyên xuất hiện trong Cựu ước nhất là trong các thánh vịnh (Tv 146-150). Từ Alleluia cũng thấy trong bài ca của các Thiên Thần trong phụng vụ ở trên trời ghi trong sách Khải Huyền 19,1.3.4.6. Phụng vụ Kitô giáo xử dụng từ Alleluia từ lâu và trở thành biểu hiệu niềm vui, đặc biệt niềm vui Phục sinh. Trong Phụng Vụ Lời Chúa, cộng đoàn hát Alleluia chúc tụng Chúa Phục Sinh, Đấng sẽ nói với dân Ngài qua bài Tin Mừng. Vì Alleluia biểu lộ ý nghĩa phục sinh nên trong mùa Chay, Alleluia được thay thế bằng lời tung hô thích hợp khác. Alleluia không phải là câu Đáp ca nên không cùng ý nghĩa như Thánh vịnh sau bài đọc 1. Alleluia biểu lộ niềm vui và thái độ sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa. Alleluia là lời tung hô nên phải được hát chứ không nên đọc. Ngoài ra, hát Alleluia còn mang công dụng kèm theo cuộc rước sách Bài đọc Tin Mừng (Quy chế số 94 và 131). Linh mục chủ tế lấy sách Tin Mừng biểu hiện Lời Chúa từ bàn thờ biểu hiện Thiên Chúa để kiệu ra đến giảng đài rồi công bố đến cộng đoàn. (kỳ tới phần II. Phụng vụ Lời Chúa từ công bố tin mừng đến lời nguyện chung)
Sau khi nói qua vài câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ, Trang hỏi để sống đạo đi tìm ý nghĩa những phần trong Thánh Lễ. I. NHẬP LỄ: PHÂN TÁN TỪ MUÔN PHƯƠNG TÌM VỀ TỤ HỌP 1. Rước vào lễ: Sau khi được qui tụ lại thành một cộng đoàn, những người dâng lễ bắt đầu tiến vào trước tôn nhan Chúa để lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Đó là ý nghĩa và mục đích cuộc rước đầu lễ, chứ không phải rước vị chủ tế như người ta lầm tưởng. Cộng đoàn tiến vào nhan Chúa và đoàn rước là đại diện. 2. Ca nhập lễ: tiếp đón và chung lời ca tụng. Ca hát làm tăng vẻ long trọng cho buổi lễ và biểu lộ một cộng đoàn hiệp nhất như huấn thị về « âm nhạc trong phụng vụ » quả quyết: « Sự hiệp nhất tâm hồn được thể hiện cách sâu xa nhờ đồng thanh với nhau ». Ca nhập lễ làm tăng tính cách long trọng cuộc cử hành, đồng thời biểu lộ sự hiệp nhất hữu hình giữa các tín hữu với nhau. Ca nhập lễ phải mang tính cách cộng đoàn với mọi người cùng hát. Ca đoàn có thể hát những tiểu khúc. 3. Cử chỉ đầu tiên: hôn bàn thờ. Cử chỉ đầu tiên khi vị chủ tế tới cung thánh tỏ lòng cung kính bàn thờ. ngài cúi mình hoặïc bái gối rồi tiến lên hôn kính bàn thờ. Người Do thái cho bàn thờ ý nghĩa như nơi tế lễ, chỗ thiết tiệc, nơi con cái Thiên Chúa được nuôi dưỡng và giải khát. Bàn thờ không những là "trung tâm tạ ơn", nơi cử hành "bữa ăn tối của Chúa " (1Cô-rin-tô 11,20), còn mang dấu chỉ Chúa Kitô hiện diện giữa cộng đoàn. Giáo hội tiên khởi coi bàn thờ như mộ các vị tử đạo, và đặt trên đó di tích các ngài, nhắc nhở cho ta họ hiến cuộc đời trong sự chờ đợi ngày sống lại. Bàn thờ mang dấu chỉ Chúa Kitô và hiến lễ tạ ơn chúng ta sẽ cử hành. Hôn bàn thờ biểu lộ thái độ cung kính, tôn thờ yêu mến đối với Chúa Kitô. Vị chủ tế sắp sửa cử hành phụng vụ, nhưng tiên vàn trước mặt toàn thể cộng đoàn, ngài nói lên lòng tôn thờ mến yêu đối với Chúa Kitô. Dấu chỉ này đôi khi còn được kèm theo việc xông hương cho ta biết tất cả đều hướng về Chúa Kitô. 4. Dấu thánh giá Khi làm dấu Thánh giá, chúng ta nên ý thức ghi trọn dấu Thánh giá trên thân thể hơn chỉ ghi nơi trán, nơi ngực và nơi hai vai. Dấu Thánh giá gợi lại ngày chúng ta nhận lãnh bí tích rửa tội. Vì vậy, chúng ta cần ghi dấu thánh giá một cách chậm rãi và từ tốn đọc: "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" cho dấu chỉ mang trọn ý nghĩa mầu nhiệm Phục sinh. Dấu Thánh Giá nhìn nhận Kitô hữu, nói lên lòng họ gắn bó vào Thiên Chúa được Chúa Giêsu Kitô đến biểu lộ Thiên Chúa Ba Ngôi: Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dấu Thánh Giá còn nhắc nhở ơn cứu độ thể hiện nơi cây thập giá, nơi tình yêu Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối. Dấu Thánh giá mang ý nghĩa quan trọng, nên chúng ta bắt đầu và kết thúc Thánh lễ bằng một dấu ghi đó. Khi nhập lễ, dấu Thánh Giá biểu hiệu chúng ta nhìn nhận nhau. Tất cả đều cùng gia đình và chúng ta đến đây đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi. Dấu Thánh Giá còn được làm ở cuối lễ như lời cầu chúc. Thiên Chúa tụ họp chúng ta lại thì giờ đây Người phái ta đi nhân Danh Người làm nhân chứng những gì chúng ta vừa sống qua. Người đồng hành cùng chúng ta trên mọi nẻo đường. 5. Lời chào Cha chủ tế: Thiên Chúa mời và tiếp đón chúng ta Tiếp theo dấu thánh giá, cha chủ tế chào cộng đoàn với một trong ba hình thức sau đây: 1.hình thức thứ nhất trích từ câu kết thư thứ hai của thánh Phaolô gửi tín hữu Cô-rin-tô 13,13: "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em". 2. Hình thức thứ hai phát xuất từ sách bà Rút 2,4: "Chúa ở cùng anh chị em". 3. Hình thức thứ ba mượn lời thơ thánh Phaolô gửi tín hữu Ê-phê-xô 1,2: "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh chị em được đầy ân sủng và bình an". Lời chào biểu lộ sự chúc phúc nhìn nhận Chúa Kitô hiện diện giữa cộng đoàn diễn tả mầu nhiệm về Đức Giêsu, Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" (Mt 1,23). Khởi đầu cuốn Tin Mừng, thánh sử Mát-thêu đã nhấn mạnh như thế, và kết thúc cuốn Tin Mừng, tác giả lại quả quyết thêm lần nữa về mầu nhiệm này. Đức Giêsu nói: "Và này Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Toàn thể cuộc đời cũng như toàn thể sứ điệp Đức Giêsu rao giảng được tóm lược qua Đấng Emmanuel hiện diện. Cũng vậy, khi nói Người hiện diện lúc đầu lễ và kết lễ, phụng vụ ám chỉ rõ ràng cuộc cử hành thánh lễ dựa vào Đấng Emmanuel, và cộng đoàn dâng lễ khi được trở thành Thân mình Chúa Kitô sẽ là Emmanuel mới cho thế giới. Ý tưởng này cho thấy người cử hành thánh lễ không phải chỉ một mình linh mục, nhưng cộng đoàn với linh mục. Mỗi người dâng thánh lễ theo thứ bậc của mình, và chính Chúa Kitô chủ tế. 6. Nghi thức sám hối Trọng tâm nghi thức sám hối không phải thú nhận tội lỗi, nhưng nhận ơn tha thứ và lòng Thiên Chúa từ bi thương xót. Sám hối ca ngợi tình thương và nói lên lời tán tụng tạ ơn Thiên Chúa cứu độ. Nghi thức sám hối không như bản xét mình liệt kê các tội lỗi ta phạm, nhưng làm nổi bật lòng thương xót và sứ mạng Chúa Kitô giao hòa. Sách lễ Rôma đưa ra một số hình thức khác nhau như những kiểu mẫu chứ không mang tính cách bắt buộc. Chủ tế có thể lựa chọn một trong những hình thức này hoặc có thể tự sáng tác với những qui luật như sau: 1. Lời cầu phải qui về Chúa Kitô, không qui về Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ hay bất kỳ một vị Thánh nào khác. 2. Lời cầu phải ngắn gọn. 3. Nội dung dựa trên nền tảng Kitô học thích ứng với Mùa lễ, ngày Lễ hay bài Tin Mừng đọc hôm đó. 4. Lời cầu không phải bản xét mình liệt kê các tội xin ơn tha thứ nhưng phản ảnh lời cảm tạ chúc tụng Chúa Kitô. Có 4 nghi thức được đề nghị: A. Kinh Sám hối: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa... B. - Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã được sai đến để cứu chữa những tâm hồn sám hối: Xin thương xót chúng con. - Lạy Chúa Kitô, Chúa đã đến trần gian để kêu gọi những người tội lỗi: Xin thương xót chúng con. - Lạy Chúa, Chúa đang ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng con: Xin thương xót chúng con. C. Kinh thương xót: Kinh này mang ý nghĩa ca tụng Thiên Chúa, nói lên lòng Thiên chúa nhân lành xót thương đối với toàn thể nhân loại. D. Một hình thức khác của nghi thức sám hối có thể xử dụng trong các Chúa nhật là rẩy NướcThánh. Việc này nói lên đặc điểm Vượt Qua của ngày Chúa nhật tưởng niệm Chúa Kitô phục sinh khải hoàn, đồng thời nhắc nhở bí tích Rửa tội. Ta đã chết cho tội lỗi nhưng giờ đây được sống lại với Chúa Kitô trong đời sống mới. Khi rẩy Nước Thánh, vị chủ tế liệu sao để mọi người thấy nhận được Nước Thánh trên thân mình. Trong khi đó, cộng đoàn hát những bài thích hợp đề cập đến Phép Rửa, sự thanh tẩy, ý nghĩa của Nước và công cuộc canh tân đời sống mới. 7. Kinh Vinh Danh: Là một lễ tiệc nên ta ca ngợi vinh quang Thiên Chúa. Kinh Vinh Danh được sáng tác bằng tiếng Hy lạp dựa trên tư tưởng các thánh Vịnh. Người ta không biết ai là tác giả, nhưng Kinh Vinh Danh đã thấy xuất hiện trong Kinh buổi Sáng bên Đông phương vào thế kỷ thứ IV. Kinh Vinh danh thuộc trong những bài ca cổ kính nhất của Kitô giáo và cũng còn được gọi là "Ca vịnh Thiên Thần". Khởi đầu chính các Thiên Thần hát mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh. Kinh còn được mang tên "Lời đại tán tụng" phân biệt với lời tán tụng: Vinh danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thường dùng kết thúc khi hát các bài Thánh Vịnh. Giáo hội đoàn tụ trong Chúa Thánh Thần hát Kinh Vinh Danh tôn vinh Chúa Cha và cầu khẩn với Chúa Con. Kinh Vinh Danh được hát hay đọc vào phần đầu thánh Lễ Chúa nhật (trừ mùa Vọng và mùa Chay), trong các lễ Trọng và lễ Kính. Câu khởi đầu Kinh Vinh Danh thường do vị chủ tế xướng, nhưng không bó buộc; vì vậy phó tế, ca trưởng hay bất cứ người nào cũng có thể xướng câu khởi đầu này. 8. Lời Nguyện Nhập lễ. Nghi thức nhập lễ kết thúc bằng lời Tổng Nguyện được cấu tạo như sau: Vị chủ tế mời gọi tất cả cùng cầu nguyện. Sau đó mọi người thinh lặng dâng ý chỉ riêng lên Thiên Chúa, và chủ tế tổng kết mọi ý chỉ riêng vào trong cùng một lời nguyện duy nhất. Câu kết mang ba dạng thức: 1. Nếu lời nguyện qui về Chúa Cha: "Chúng con cầu xin nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa là Thiên Chúa và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời". 2. Nếu lời nguyện qui về Chúa Cha, nhưng ở cuối nhắc đến Chúa thì kết: "Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời". 3. Nếu lời nguyện qui về Chúa Giêsu: "Chúa hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời". Khi chủ tế vừa kết mọi người cùng thưa Amen cho lời nguyện thành lời nguyện của mình. Amen từ ngữ Híp-ri có thể ở dạnh tĩnh từ hay trạng từ. Khi Amen ở dạng tĩnh từ có nghĩa chân thật, trung tín; ví dụ ngôn sứ I-sai-a gọi Thiên Chúa là Amen (65,16) = Thiên Chúa chân thật và hằng trung tín. Đấng ta có thể đặt hết niềm tin tưởng. Khi Amen ở dạng trạng từ mang nghĩa thật như vậy, chớ gì được như vậy. Thời Cựu ước, người Do thái thường kết thúc lời cầu nguyện bằng từ Amen. Chúa Kitô cũng xử dụng, không những lúc Người cầu nguyện nhưng ngay cả lúc giảng dạy để nhấn mạnh làm nổi bật chân lý: "Amen thật, Ta bảo thật các ngươi... ". Chúng ta thường gặp ngôn thức này trong Tin Mừng. Khi thưa Amen tỏ bày muốn được như vậy và còn xác nhận một điều chắc chắn. Đó là trường hợp khi chủ tế cho Rước lễ nói: "Mình Thánh Chúa Kitô", và ta thưa lại "Amen" có nghĩa "Vâng! tôi xác tín Chúa Kitô đến ngự trong tôi dưới hình bánh này". Thưa Amen sau lời Tổng Nguyện không chỉ diễn tả ước muồn lời cầu nguyện được chấp nhận, nhưng còn nói lên lời nguyện đó là của chính tôi và tôi muốn tháp nhập hết tâm tình vô trong đó. Hơn nữa, Amen diễn đạt đức tin của toàn thể cộng đoàn vào sự trung tín của Thiên Chúa. Người sẽ nhậm lời những gì cộng đoàn cầu xin với niềm tin tưởng. Khi thưa Amen ta tung hô Thiên Chúa trung tín như lời thánh Phaolô: "Xin Thiên Chúa là Đấng trung tín chứng giám cho rằng lời nói của chúng tôi đối với anh em, không phải là vừa "Có " lại vừa "Không". Quả thế, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng mà chúng tôi đã rao giảng nơi anh em, (...), nơi Người chỉ là "Có" mà thôi. Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên Chúa đã thành "Có" ở nơi Người. Vì thế nhờ Người mà chúng tôi hô lên lời Amen tôn vinh Thiên Chúa" (2 Cr 1,18-20). (Kỳ sau: Phần II: Phụng vụ Lời Chúa)
1. «HIẾN LỄ TẠ ƠN» (EUSCHARISTIE) HAY THÁNH LỄ (MESSE)? Hỏi: Trước đây, con được dạy là đi xem lễ, rồi tham dự Thánh Lễ. Rồi bây giờ lại nghe các cha nói là «hiến lễ tạ ơn». Vậy con phải dùng từ nào mới chính xác Đáp: Từ ngữ «Hiến lễ tạ ơn» dịch từ nguyên ngữ Hy lạp «eucharistein» (tiếng Pháp là Eucharistie, và từ gần 20 năm nay chúng ta thấy thường dùng từ Eucharistie hay liturgie eucharistique = Phụng vụ tạ ơn thay cho từ Thánh lễ = Messe). Từ Eucharistein có nghĩa là hành động tạ ơn, ca tụng và vui mừng. Đây là một trong những từ xưa cổ nhất chỉ định bữa tiệc tạ ơn của người Kitô hữu. Đó là mục đích đầu tiên họ tụ họp lại để tưởng nhớ việc Thiên Chúa làm cho ta trong Chúa Giêsu Kitô và tạ ơn Ngài về việc ấy. Từ «hiến lễ tạ ơn» vì thế mang nhiều ý nghĩa đặc trưng hơn từ «Thánh Lễ». Từ ngữ «Thánh lễ» đơn giản đến từ cụm từ bằng tiếng La tinh «Acta missa, ite in pace» = những điều chúng ta làm đã hoàn thành, hãy ra về bằng an». Và từ thế kỷ thứ VI cụm từ «missa est = hành động đã hoàn thành» được chứng nhận như công thức giải tán kết thúc Thánh lễ; và hôm nay động tính từ (participe) missa trở thành danh từ chung là «La messe = Thánh Lễ». Giáo Hội dùng từ này trở lại bằng nhiều cách. Chúng ta đều biết chẳng hạn như Thánh Lễ thường chia làm hai phần chính: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Phần Phụng vụ Lời Chúa bao gồm hai bài đọc, chen ở giữa bằng 1 Thánh Vịnh, bài Ha-lê-lui-a, rồi đến bài Tin Mừng kèm theo Bài giảng, và Phụng vụ Lời Chúa kết thúc với lời nguyện cho mọi người. Bài đọc 1 được trích ra từ Cựu ước; còn bài đọc 2 trích ra từ các sách Tân ước. Riêng Phụng vụ thánh Thể được bắt đầu bằng phần Tiến lễ và kết thúc với lời nguyện Hiệp lễ. Ngoài ra trong phần Phụng vụ Thánh Thể, cha chủ tế có đọc một kinh nguyện dài, mà trong kinh này kể lại việc thiết lập «Hiến lễ tạ ơn». Kinh này được gọi là «Kinh Nguyện Thánh Thể». Bản Kinh Tạ ơn được khởi đầu bằng câu của Cha chủ tế: «Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta»; và cộng đoàn đáp: «Thật là chính đáng.» Kinh nguyện Thánh thể cũng thường bao gồm tất cả bảy phần như sau: - Lời tiền tụng: Linh mục chủ tế tạ ơn Thiên Chúa Cha về công trình cứu độ. - Lời cầu xin Chúa Thánh Thần cũng còn gọi là Epiclesis: Cha chủ tế xin Thiên Chúa Cha gửi Chúa Thánh thần xuống trên của Lễ đang được tiến dâng. - Bài tường thuật lập bí tích Thánh thể và phần hiến thánh: Bằng sức mạnh Lời và hành động của Đức Kitô, hiệp cùng thể lực của Chúa Thánh Thần, thân thể và máu Đức Kitô hiện diện dưới hình thức bánh và rượu. - Tưởng niệm (Anamnesis): cộng đồng tưởng nhớ cuộc khổ nạn, sự Sống Lại và Lên Trời của Chúa Giêsu. - Dâng tiến: Giáo Hội dâng hiến lên Thiên Chúa lễ tế tạ ơn; tất cả mọi Kitô hữu được kêu mời tự dâng cuộc sống của họ cho Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần. - Lời Chuyển cầu: Hiến lễ tạ ơn được dâng lên kết hiệp với toàn thể Giáo Hội trên Trời cũng như dưới đất. Qua đó, chúng ta thổ lộ cho Thiên Chúa tất cả nguyện ước của mình. - Vinh tụng ca: Vinh tụng ca kết thúc Kinh nguyện Thánh thể bằng một thể thức dâng hiến mình và máu của Đức Kitô cho Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Cộng đồng diễn đạt lòng tin và sự đồng ý bằng cách đáp với từ AMEN. 2. THÁNH LỄ CHÚA NHẬT VÔ ÍCH? Hỏi: Con có bạn bè cho rằng Thánh lễ hằng ngày chẳng ích lợi gì. Có người còn nói chỉ đi lễ một năm 3, 4 lần mà rút tỉa được điều tốt còn hơn là đi lễ mỗi Chúa nhật vì luật buộc? Đáp: Thái độ đó có thể đúng nếu như Thánh Lễ chỉ là một buổi cầu nguyện tùy ý. Tuy nhiên nó sẽ không có ý nghĩa gì nếu như người đó hiểu được vai trò trọng yếu của «Hiến Lễ Tạ ơn» và bí tích Thánh Thể trong đời sống của một người Kitô hữu. Luật buộc tham dự Thánh lễ hàng tuần không phải là điều mới mẻ. Đọc lại lịch sử Giáo Hội thời sơ khai trước khi có «Luật Giáo Hội», chúng ta thấy người Kitô hữu thời đó mong mỏi tham dự «Hiến lễ tạ ơn» hàng tuần, một cách nào đó sự mong muốn của họ khẩn thiết hơn chúng ta ngày nay. Vào khoảng năm 150, ông Yustinô đã viết về việc cử hành «Hiến lễ tạ ơn» như sau: «Ngày gọi là ngày Mặt Trời, tất cả người ở tỉnh cũng như thôn quê, tề tựu lại một nơi: thế rồi người ta đọc hồi ký các Tông đồ, cùng với những trước tác của các Ngôn sứ, dài bao lâu có thể. Khi độc viên đọc xong, vị chủ sự diễn giảng ít lời để khuyên cáo và nhủ dạy phải tuân hành những bài huấn dụ cao đẹp kia. Xong tất cả chúng tôi cùng đứng dậy và cùng nhau cầu kinh lớn tiếng. Thế rồi... người ta đem bánh rượu và nước tới. Vị chủ tọa cất tiếng vọng lên trời những lời cầu, cùng với vô vàn kinh tạ ơn... Sau đó, đến việc phân phát và chia sẻ những bánh hiến. Sau cùng, người ta còn đem phần về cho cả những người vắng mặt...» Trong trường hợp một thành viên cố ý vắng mặt trong buổi phụng vụ Tạ ơn hai ba lần liên tiếp, người đó kể như không còn là thành viên của Giáo Hội nữa. Nếu điều này có vẻ nghiêm khắc thì rõ là các tín hữu thời sơ khai đã tin điều gì đó ở Thánh lễ mà chúng ta đã đánh mất qua nhiều thế kỷ. Ầối với họ, không phải là vấn đề phạm tội trọng khi không tuân giữ luật buộc tham dự Thánh lễ, nhưng họ cho rằng người cố ý vắng mặt thực sự đã không hiểu và tin tưởng Thánh lễ là gì và do đó đã vắng mặt liên tục. Ngày nay Giáo Hội giúp chúng ta tìm lại xác tín sau đây: Hy tế vào bàn tiệc Thánh Thể tức là tham dự vào hiến lễ của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha, và cùng nhau chúng ta lãnh nhận Mình Máu Thánh Ngài khi rước lễ. Đó là chìa khóa và là cách thức thiết yếu mà Ầức Giêsu có ý định dùng để liên kết mọi người vào với Ngài và thâu nhận họ vào gia đình của Ngài cho đến tận thế. Nói cách khác, Thánh lễ trên hết là nơi chúng ta học tập tinh thần và sứ điệp của Chúa Kitô. Qua việc nghe Lời Chúa, qua ngôn ngữ và cử chỉ trong phụng vụ Thánh Thể, chúng ta tiếp tục tỏ ra như là chi thể của Ngài. Vì Ngài, chúng ta nhận ra ai là anh em và cam kết sống với nhau trong sự khích lệ và tương trợ. Hiểu theo nghĩa rộng này, thì ngay cả trong một nhà thờ đông 500 người, sự có mặt hay vắng mặt của một người ảnh hưởng thật sự đến mọi người kể cả của chính đương sự. Nếu nói về Thánh Lễ như thế mà bị coi là xa lạ thì thật đáng tiếc; có lẽ đó là một trong những giá phải trả một khi chúng ta xem việc bỏ lễ Chúa nhật như một tội trọng. Sự thật là ngay khi cả không có một luật buộc nào thì chúng ta vẫn được kêu gọi phải có mặt trong phụng vụ tạ ơn «ngày Mặt Trời», chỉ vì ta là một thành viên của gia đình Chúa Kitô. Chúng ta là một Kitô hữu. 3. Ý NGHĨA VÀI CỬ CHỈ NGHI THỨC TRONG THÁNH LỄ Hỏi: Cha có đề cập đến «cử chỉ trong phụng vụ»; con muốn biết rõ hơn. Ngay con là một người tạm gọi là «bổn đạo gốc», nhưng khi dự Thánh Lễ có nhiều cử chỉ con làm vì thói quen nhiều hơn! Đáp: Thật vậy, trong Thánh lễ chúng ta có một số cử chỉ đi theo nghi thức phụng vụ. Mỗi cử chỉ đều có ý nghĩa sâu xa. Chúng ta cần hiểu rõ và làm với lòng sốt sắng chứ không phải như máy móc. Làm dấu Thánh Giá Khi làm dấu Thánh giá, chúng ta nên ý thức là mình ghi trọn dấu Thánh giá trên thân thể hơn là chỉ ghi nơi trán, nơi ngực và nơi hai vai. Cử chỉ này gợi lại dấu Thánh giá ngày chúng ta được nhận lãnh bí tích rửa tội. Vì vậy, khi ghi dấu Thánh giá, chúng ta cần làm chậm rãi và từ tốn đọc: «Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần» cho dấu chỉ mang trọn ý nghĩa mầu nhiệm Phục sinh. Dấu Thánh Giá nhìn nhận ta là Kitô hữu, nói lên mối gắn bó của ta vào Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Kitô đến biểu lộ: Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con và Chúa Thánh Thần tức là Thiên Chúa Ba Ngôi. dấu Thánh Giá còn nhắc nhở ơn cứu độ được thể hiện nơi cây thập giá tức là nơi mà tình yêu của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối. Dấu Thánh giá mang ý nghĩa quan trọng, nên chúng ta bắt đầu và kết thúc Thánh lễ bằng một dấu ghi đó. Khi nhập lễ, dấu Thánh Giá như biểu hiệu chúng ta nhìn nhận nhau. Tất cả đều cùng gia đình và chúng ta đến đây đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Dấu Thánh Giá còn được làm ở cuối lễ như lời cầu chúc. Thiên Chúa tụ họp chúng ta lại thì giờ đây Người phái ta đi nhân Danh Người làm nhân chứng những gì chúng ta vừa sống qua. Người đồng hành cùng chúng ta trên mọi nẻo đường. Đấm ngực Thời xa xưa, người ta dùng tay và có khi dùng cả hòn đá đấm vào ngực nói lên lòng hối hận. Ngực là chỗ thiết yếu của tim và hơi thở. Tim lại là trung tâm của tình cảm, nên khi đấm vào lồng tim có nghĩa là ta đau buồn vì những việc đã làm. Từ ngữ «ăn năn» đến từ tiếng La tinh «contritus corde» có nghĩa là «dày nát con tim» hay làm «tan vỡ con tim». Vì vậy, đấm ngực là chúng ta thú nhận mình là người tội lỗi ao ước được Thiên Chúa tha thứ. Làm ba dấu Thánh giá trước khi nghe Tin Mừng. Cử chỉ này trở nên hời hợt nếu như chúng ta chỉ làm như máy móc. Hành vi ghi ba dấu Thánh giá là một lời cầu nguyện, xin cho Lời Tin Mừng chúng ta sắp nghe ở mãi trong trí, trên môi miệng và trong cõi lòng. Ý nghĩa lời nguyện như sau: «Xin cho Tin Mừng thấm tràn tri thức để con hiểu, vào miệng để con công bố và vào tim để con yêu mến». Nhìn Bánh Thánh và Chén Thánh. Khi cha chủ tế giơ bánh Thánh và Chén Thánh, rất nhiều người trong chúng ta kính cẩn cúi đầu. Cử chỉ này sai hẳn ý nghĩa ban đầu, vì thật ra cha chủ tế giơ lên là để chúng ta nhìn ngắm. Dấu chỉ này được khai sinh từ thế kỷ thứ XIII. Vì thế, khi cha chủ tế giơ cao thì chúng ta phải nhìn ngắm trước, rồi sau đó mới cúi mình kính cẩn thờ lạy cùng một lúc với cha chủ tế. Kinh Lạy Cha Kinh Lạy Cha là Kinh Nguyện của Chúa vì đây là kinh duy nhất do chính Đức Giêsu đã truyền dạy cho các môn đệ. Trước đây, trong phụng vụ Thánh Lễ chỉ một mình cha chủ tế mới có quyền đọc mà thôi. Trong cấu trúc Thánh lễ ngày nay thì mọi người được kêu gọi cùng nhau cầu nguyện với chính lời do Đức Giêsu để lại. Nếu như cha chủ tế dang tay khi đọc Kinh Lạy Cha, thì người tham dự Thánh Lễ cũng có thể dang tay cầu nguyện. Chúc Bình An Chúng ta nên nhớ không phải mình chia sẻ bình an của mình đến người khác, nhưng chúng ta chia sẻ đến người anh em bình an của Chúa Kitô. Dấu bình an mà Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ ngày Phục Sinh (Gioan 20,19). Chúng ta phải ý thức chứ không nên gật đầu như máy, nhưng làm với cử chỉ thật lòng; còn nếu như bắt tay thì đừng bắt hững hờ xã giao nhưng nắm chặt tỏ cử chỉ thật tâm thân thiện. «Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau» là lời cha chủ tế hay thầy phó tế mời gọi người tín hữu trao đổi một dấu chỉ bình an. Cử chỉ này được mời gọi chia sẻ khi cha chủ tế vừa van nài cùng Đức Kitô ban bình an cho Giáo hội, cho thế giới như khi xưa Người đã hứa cùng các thánh Tông đồ. Lời chúc bình an được chia sẻ giữa vị chủ tế và cộng đồng. Sau đó, mọi người hiện diện trao đổi với nhau và ta biết rằng nguồn bình an đó đến từ Thiên Chúa. Khi trao đổi bình an, người tín hữu diễn tả lòng ao ước làm lớn lên lòng hiệp nhất của họ mà chút nữa đây họ sẽ lên nhận lãnh mình Thánh Chúa. Vì vậy, lời chúc bình an diễn đạt rõ ràng tình yêu giữa những người tín hữu với nhau. Cúi đầu Cử điệu cúi đầu tỏ dấu đưa cả toàn thân tham dự vào việc cầu nguyện. Những lúc nào nên cúi đầu: - Khi làm dấu Thánh giá bắt đầu Thánh Lễ, cũng như lúc nhận phép lành cuối lễ. - Khi chúng ta đọc Kinh sám hối: «Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa..» - Khi đọc Kinh Tinh Kính đến đoạn: «Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người», để diễn đạt lòng tôn kính sự nhập thể của Đức Chúa khai mào mầu nhiệm cứu chuộc.
Thưa cha, Theo lịch Phụng vụ, ngày 25 tháng 1 hàng năm có lễ gọi là Lễ Thánh Phaolô Tông đồ trở lại. Xin cha cho biết tại sao có ngày lễ này và ý nghĩa lễ đó là làm sao?
T. Hương (Việt nam)
Nguồn gốc lễ này đến từ xứ Gaule (Pháp) ở thế kỷ thứ VI, và xuất hiện tại thành Rôma vào thế kỷ thứ XI. Trước đây trong lịch Phụng vụ ngày 25 tháng 1 là lễ lập Tông tòa Thánh Phêrô, và lễ này hôm nay được đặt vào ngày 22 tháng 2. Việc thay đổi ngày lễ không quan trọng lắm, nhưng cả hai ý lễ đều được giữ lại trong lịch Phụng vụ Công giáo: Phaolô được xem như thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý, còn Phêrô là đá tảng cho Giáo hội. Sau đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa ngày lễ Thánh Phaolô Tông đồ trở lại đến từ biến cố xảy ra trên đường Đa mát. Chúng ta đọc chuyện xảy ra được kể tất cả 3 lần trong sách Công vụ tông đồ nơi các chương 9,1-30; 22,3-21 và 26,9-20.
1. BIẾN CỐ TRÊN ĐƯỜNG ĐA MÁT: PHAOLÔ ĐƯỢC ƠN TRỞ LẠI! Đó là điều chúng ta thường nghe nói; Một tác giả cuốn sách viết bằng tiếng Việt có tựa đề: «Thánh Phaolô trên đường truyền giáo», đặt tựa cho chương nói về đoạn đời này của thánh Phaolô như sau: «chó sói trở nên chiên lành «. Trước đó, tác giả lại ghi việc Phaolô đi bắt người Kitô hữu bằng cụm từ «con chó sói đói tìm mồi». Tác giả lấy lại những từ này trong các bài giảng về thánh Phaolô của thánh Augustinô. Ở đây, chúng ta cùng nhau suy tư xem Phaolô thực sự trở lại bằng cách nào, có đúng với hình chó sói trở nên chiên lành hay không? Người nào trung thành theo lề Luật biết rằng họ sống trong tình thương Thiên Chúa. Tình thương này được trao ban cho người công chính, nếu như họ sống trung thành cho tới chết. Thánh Phaolô sẽ thay đổi niềm tin trên nguồn gốc ơn huệ đến từ Thiên Chúa, nhưng ngài không hề thay đổi về vấn đề Lề Luật: một là tuân giữ trọn Lề luật hay là không (Ga lát 5,3): «một lần nữa, tôi xin khẳng định với bất cứ ai chịu phép cắt bì là: người ấy buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật». Thánh Phaolô đã giữ vững niềm xác tín này là ngày sau cùng mỗi người sẽ phải bị ra trước tòa Thiên Chúa: «công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người» (1 Cr 3,13). Trên một số điều khác, thánh Phaolô lại cắt đứt với phái Pharisêu, như việc chỉ cần kêu gọi ý chí cá nhân để họ có thể từ bỏ tội lỗi. (Ý chí cá nhân: đúng! nhưng cũng phải được ơn thánh nữa, chứ chỉ duy ý chí cá nhân thôi cũng chưa đủ). Thánh Phaolô đã thay đổi tư tưởng trên không theo ý nhóm Pharisêu, khi bàn về vấn đề tội lỗi, nhất là sau khi trải qua biến cố trên đường Đa mát vào khoảng năm 32. Biến cố này thường được nhiều tác giả thần học, tu đức gọi là trở lại hay hoán cải. Thế nhưng, khi nói hoán cải hay trở lại, bình thường chúng ta kể lại việc một người nào đó đi từ cái xấu qua cái tốt, hay một người nào đó từ bỏ một tôn giáo để vào một tôn giáo khác. Tất cả điều này không đúng lắm áp dụng cho trường hợp thánh Phaolô. Ngược lại, cuộc đời Phaolô cho đến giai đoạn này là một cuộc sống thành công. Ngài là một công dân thế giới, hội nhập đúng theo nền văn hóa đế quốc. Phaolô lại còn là mẫu gương lý tưởng một người Pharisêu: ngài tranh luận rất giỏi, dẫn chứng rõ ràng bằng ký ức Lề Luật Torah, và chú giải Kinh Thánh như một vị rabbi. Chính Phaolô cũng tự nói nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi (Pl 3,6). Đúng vậy, cuộc đời đó không ai có thể trách được. Và hình ảnh một Phaolô thất bại, bị dằn vặt cho mình thiếu thốn và thất bại trước lý tưởng trong sạch đến do lịch sử sau này, với hai nhân vật nổi tiếng là thánh Augustinô vào thế kỷ thứ IV, và ông Martin Luther với Phong trào cải cách Tin Lành ở thế kỷ thứ XVI. Phaolô không ngần ngại nhận mình đã đạt đến mức cao nhất theo lòng đạo đức Pharisêu, và vì thế ngài đã bách hại Kitô hữu. Kitô giáo thời đó chỉ là một giáo phái bị gạt bỏ bên lề Do thái giáo. Vì vậy, Phaolô đi thành Đa mát để chống lại tư tưởng những người nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Và trên đường Đa mát, Phaolô đã bị rớt từ trên cao xuống đất, nhưng không phải rớt từ trên ngựa xuống đất. Trong một số bức họa, chúng ta đã thấy được vẽ như thế. Điều chắc chắn là trong văn bản không nói đến ngựa, nên không có chuyện bị té ngựa! Những bức họa cho thấy việc té ngựa chỉ xuất hiện ở thế kỷ thứ XII, trong thời đại cổ võ các chàng hiệp sĩ. Ở đây, câu chuyện chỉ ghi, bỗng nhiên, giữa giờ ngọ, Phaolô nhận được mạc khải, thật nhanh chóng và toàn diện. Một luồng ánh sáng từ trời bao phủ; một luồng ánh sáng làm ngài mù mắt và mặc lấy hình một tiếng gọi trong tâm hồn. Phaolô ngã xuống đất, nhìn ánh sáng, nghe một tiếng nói bằng tiếng Híp ri: «Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ ta?» (Cv 9,4). Tất cả bắt đầu với luồng ánh sáng và tiếng nói đó. Luồng ánh sáng làm Phaolô mù mắt, giúp ngài nhìn vào trong tâm hồn, đưa ngài mượn con đường «của Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức Kitô» (2 Cr 4,6). Tiếng nói mạnh mẽ hơn lề luật cha ông, cũng như những khí giới của người đi bách hại. Một tiếng nói «sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi» (Dt 4,12). Tiếng gọi vang dội trong thân thể Phaolô ngả nghiêng, một tiếng gọi nhưng không và chính Thiên Chúa là tác giả. Phaolô cảm nhận từ giây phút đó một sự hiện diện không diễn đạt được, thấy ẩn hiện hình hài một khuôn mặt tranh tối tranh sáng. Phaolô đáp lại tiếng nói bằng câu trả lời: «Thưa Ngài, ngài là ai?». Và tiếng Nói đáp trả: «Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ» (9,5). Tất cả đã được nói lên. Đức Giêsu bị đóng đinh vẫn còn sống động trong con người của Têphanô, trong những người Kitô hữu đang rao giảng về sự sống lại. Và Phaolô nhận thức mình đã bách hại Người khi mình đi bách hại những người đó. Tâm hồn Phaolô tỉnh thức về Đức Kitôâ. Và giờ đây cả hai chỉ còn là một trong cùng một tình yêu: «Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người» (1 Cr 6,17). Qua dấu chỉ ánh sáng và tiếng nói, Phaolô đi từ đêm tối về tới ánh sáng. Toàn thân ngài nhảy mừng và cảm nhận Thiên Chúa hành động trong mình. Phaolô bị Đức Giêsu, Đức Kitô, Đấng Thiên Sai, Đấng được xức dầu, Đấng là lẽ Sống và là Con Thiên Chúa nắm lấy, và từ đó Phaolô quả quyết: «vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi» (Ph 1,21). Phaolô sẽ yêu Đức Kitô Giêsu hết tâm hồn, và phục vụ cho Người. Giờ đây Phaolô gắn bó vào Đức Kitô như thể gắn bó vào một cuộc hôn nhân thiêng liêng cho đến ngày Phaolô được nhìn thấy Người tận mắt: «mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi» (1 Cr 13,12). Tất cả những niềm tin Phaolô mang trong lòng bị vất rơi rụng từ trên cao xuống đất. Phaolô phải kết tụ lại và phải xây dựng lại tất cả. Ngài phải định lượng lại một các khác hẳn. Giờ đây, Phaolô nói về Thiên Chúa không phải học từ kẻ khác, nhưng Thiên Chúa đã thuộc cho riêng ngài.
2. PHAOLÔ: NGƯỜI CHỨNG PHỤC SINH. Phaolô con người mang hai nền văn hóa trong mình. Phaolô người con Ítraen, Pharisêu toàn thiện, người yêu chuộng, si tình Lề Luật và tự cho mình như người giữ cửa cái trong sạch cho dân chúng. Phaolô người dân thành Tác xô, được dạy để tranh luận và đọc diễn từ, một nhà trí thức cao rộng. Thế nhưng, con người đó một ngày đã bị Chúa Kitô bắt giữ. Như chúng ta lược sơ qua phần trên, chưa bao giờ Phaolô nói ngài bị thất bại vì lòng đạo đức theo Pharisêu. Trong thư gửi Ga lát, Phaolô còn khẳng định: «Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông» (Gl 1,14). Vì vậy, nếu sự hoán cải chỉ là trở lại từ cái xấu qua cái tốt, từ cái thất bại đi đến thành công, thì điều đó không đúng với trường hợp Phaolô. Ngài không thất bại. Phaolô trên đường đi Đa mát chỉ để đánh đuổi những kẻ mang danh Kitô hữu, nhưng chính Phaolô cũng nhận định việc đó như sau: «nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô» (Pl 3,7-8). Vậy nghĩa là làm sao: Phaolô khám phá ra sự thành công xưa nay đưa ngài rời xa Thiên Chúa thay vì kéo ngài về gần đến bên ngài hơn. Đó là sự Phaolô trở lại ly kỳ, sự cắt đứt trong cuộc sống làm đảo lộn những giá trị. Vì vậy, nếu nói hoán cải thì chính Thiên Chúa đã hoán cải Phaolô. Hoán cải không vì Phaolô chán chường với lối sống đạo đức Pharisêu hay chối bỏ Lề Luật Thánh Do thái giáo, nhưng điều làm cho Phaolô trở lại chính là Thiên Chúa. Từ đây, Phaolô được hướng dẫn một cách khó khăn, để mở rộng cái nhìn mới về Thiên Chúa. Điều gì trước đây đúùng trở thành sai, và xưa kia sai nay là đúng. Những lá thư Phaolô viết tiềm ẩn câu chuyện thiêng liêng bị gãy đôi. Và trước khi viết hay nói ra những lời đó, Phaolô đã ghi khắc vào da thịt mình. Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu trên đường Đa mát ghi lại trong người Phaolôâ như một biến cố chỉ đạo. Phaolôâ được soi sáng, và biến hình mãi mãi. Phaolôâ múc lấy từ nơi biến cố đó như múc nguồn suối làm vang lên trong tâm hồn nước hằng sống hy vọng. Đó là một kinh nghiệm huyền bí gợi lại những biến cố thần hiện đã xảy ra trong Cựu ước, như Thiên Chúa mạc khải cho tổ phụ Ápraham, Môsê, cho ngôn sứ Samuel, và Elia bằng cách gọi tên từng người một. Phaolô đặt cuộc gặp gỡ này trong những lần Đấng Sống Lại đã hiện ra cho các môn đệ. Phaolô tự cho mình là người chứng cuối cùng của biến cố Phục Sinh. Ngài truyền đạt lại những gì đã lãnh nhận, những gì đã thấy tức là Đức Kitô «đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các tông đồ. Sau hết, Người cũng hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non» (1 Cr15,6-8). Biến cố trên đường Đa mát là một cuộc gặp gỡ cá nhân với Đấng Sống Lại, một kết hiệp huyền bí với Đức Kitô được biểu lộ bằng sự thay đổi cuộc sống hơn là một lật đổ những giá trị. Kinh nghiệm này tựa như cuộc kết hợp biến đổi trong Đức Kitô, cho nên từ giờ trở đi mọi sự trước mặt Phaolô dường như đều mất lợi «vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô» (Pl 3,8). Điên dại vì Đức Kitô, Phaolô xác định với người Côrintô: «tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa» (1 Cr 3,22-23). Biến cố trên đường Đa mát là kinh nghiệm mầu nhiệm Phục sinh. Qua đó, Phaolôâ khám phá những hiệu quả hành động Thiên Chúa trong ngài. Phaolô tự mình truất quyền sở hữu để chỉ nhắm vào Đức Kitô. Ngài chấp nhận mất tất cả hầu được Đức Kitô. Phaolôâ, con người hoàn toàn trong việc thực thi lề luật, vững vàng trong sự thật, đã trở lại bằng ân sủng mầu nhiệm Phục sinh. Phaolô hoàn toàn buông xuôi vào Đức Kitô, muốn trở nên giống như Người: «vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết» (Ph 3,10-11). Bị chói lòa trước vẻ đẹp Đấng Sống lại, Phaolô không còn mang cùng cái nhìn về chính mình, về thế giới, về sự thánh thiện và về Thiên Chúa. Phaolôâ chấp nhận vì danh Đức Giêsu trở nên nhỏ bé, nghèo hèn, mong manh, khiêm nhường, không hoàn hảo, lấy làm vinh dự không ngừng trong những yếu đuối «vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh» (2 Cr 12,10). Nơi đây Phaolô đi đúng trung tâm điểm Tin Mừng, với lời Đức Giêsu kêu gọi những người tội lỗi như Maria Mađalêna, như ông Da Kêu, như người trộm lành, «vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất» (Lc 19,10). Khi nhận ơn Phục sinh trở lại, Phaolô được dẫn đi trên con đường Đức Kitô và loài người: «Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu» (Pl 3,13-14). Phaolô trở thành vị tông đồ hăng say về mầu nhiệm Thánh giá Đức Kitô, và từ đó kéo theo biết bao nhiêu chứng nhân theo ngài. Đức Hồng Y Carlo Maria Martini, Tổng giám mục thành Milan nói như sau: «Trong Tân ước, tôi rất thích thánh Phaolô bởi vì ngài có tính năng đi đến tận cùng của vấn đề, về cái triệt để của ngài, đã đảo lộn và đốt cháy tôi». Lễ Thánh Phaolô, tông đồ trở lại được đặt kính sau lễ Hiển Linh, có ý giúp chúng ta hiểu rõ thêm mầu nhiệm Chúa Kitô hiện diện và sống động trong lòng Giáo hội. Chính Đức Giêsu mạc khải Qua Giáo hội. Trên đường Đa màt, Người không nói «Saul Saul, tại sao ngươi bắt bớ các môn đệ ta? nhưng lại nói: Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ ta?. Điều đầu tiên Phaolô khám phá trên đường Đa mát là Chúa Kitô hiện diện trong Giáo hội.