Tin Thế Giới
Tin Thế Giới
- Viết bởi G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Theo Cao Ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc, số người tị nạn trên thế giới đã tăng gần gấp đôi trong vòng mười năm qua: từ 59,2 triệu trong năm 2014 lên 117,3 triệu trong năm 2023.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Ngày 20 tháng Sáu này là Ngày Thế giới về người Tị nạn, do Liên Hiệp Quốc ấn định từ năm 2001 để nhắc nhớ tất cả những người đã và đang trốn chạy các cuộc xung đột võ trang, bách hại, các vụ vi phạm hàng loạt các quyền con người.
Năm vừa qua, có 68,3 triệu người tản cư và 31,6 triệu người tị nạn, 5,8 triệu người khác được sự bảo vệ quốc tế, cho dù họ không có qui chế pháp lý của người tị nạn. Sau cùng, có 6,9 triệu người đang xin tị nạn. Ngoài ra, có hơn sáu triệu người tị nạn Palestine. Những người này được tổ chức Liên Hiệp Quốc trợ giúp người tị nạn Palestine, gọi tắt là Unrwa, săn sóc. Cơ quan này được thành lập năm 1949 để săn sóc họ.
Một dữ kiện tích cực trong phúc trình mới nhất của Cao Ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc, đó là trong năm qua (2023), có một triệu người tị nạn và hơn năm triệu người tị nạn nội địa có thể trở về nhà, vì đã có những điều kiện an ninh cần thiết và cuộc khủng hoảng khiến họ phải bỏ chạy đã được giải quyết.
Trong năm ngoái, đã nảy sinh và gia tăng cuộc khủng hoảng nhân đạo trầm trọng nhất trong lịch sử, do cuộc nội chiến bùng nổ tại Sudan hồi tháng Tư năm 2023 giữa hai tướng lãnh: họ tranh giành kiểm soát đất nước, khiến cho mười triệu tám trăm ngàn người phải bỏ gia cư đi lánh nạn, trong đó có hơn một triệu phải chạy sang các nước láng giềng của Sudan.
Quốc gia thứ hai có tình trạng trầm trọng về con số người tản cư là Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi mà bảy triệu người đã phải di tản từ nhiều năm mà không có hy vọng hồi hương, vì tình trạng bất an kéo dài ở miền đông nước này.
Đức Thánh cha đã nhiều lần nhắc nhở và kêu gọi các tín hữu quảng đại đón tiếp và giúp đỡ người tị nạn, lần mới nhất là vào cuối buổi Tiếp kiến chung, hôm thứ Tư, ngày 19 tháng Sáu vừa qua. Ngài nói: “Hôm nay là áp ngày Thế giới về người Tị nạn, ngày 20 tháng Sáu do Liên Hiệp Quốc đề xướng. Tất cả chúng ta đều được kêu gọi đón nhận, thăng tiến và đồng hành, hội nhập những người đến gõ cửa chúng ta. Tôi cầu nguyện để các nước nỗ lực đảm bảo cho những người tị nạn những điều kiện nhân đạo và tạo dễ dàng cho tiến trình hội nhập”.
(Sala Stampa 19-6-2024; La Bussola quotidiana 20-6-2024)
- Viết bởi G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tổ chức Nhi đồng quốc tế, Unicef, báo động rằng 53% các trẻ em nước này có những lối cư xử rủi ro nguy hiểm đối với các mìn và những bom đạn chưa nổ, mặc dù đã được thông báo về những nơi có những thứ nguy hiểm ấy.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trên đây là nội dung một nghiên cứu do một toán chuyên gia Unicef thực hiện nơi các trẻ em Ucraina, từ 10 đến 17 tuổi. Phúc trình của tổ chức Nhi đồng quốc tế này cho biết 62% người trẻ từ 14 đến 17 tuổi và các thiếu niên đến từ các vùng nông thôn cũng như từ các gia đình nghèo có những lối cư xử nhiều rủi ro nhất. Mặc dù 97% các em được phỏng vấn đều tuyên bố là đã biết về những quy luật an ninh liên quan đến mình, nhưng lối cư xử của các em vẫn có nhiều rủi ro nguy hiểm.
Các thiếu niên ở các vùng Zaporizhzhia, Kharkiv, Kherson, và Donetsk, và một phần miền Sumy, là những nơi đang xảy ra chiến tranh với Nga, chứng tỏ mức độ ý thức cao về vấn đề an ninh đối với mìn. Trái lại, các thiếu niên ở các vùng bị nhiễm mìn như Chernihov, Kiev và Zhytomyr tỏ ra ít biết hơn về những nguy hiểm ấy, giống như tại những vùng không bị chiến tranh.
(Sir 17-6-2024)
- Viết bởi G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Khi Đức Thánh cha Phanxicô đến viếng thăm Singapore, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Chín năm nay, một vị thủ tướng mới tại nước này sẽ đón tiếp ngài. Đó là ông Lawrence Wong, mới tuyên thệ nhậm chức hôm thứ Tư, ngày 15 tháng Năm vừa qua.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Ông Lawrence Wong, hay tên tiếng Hoa đầy đủ của ông là Hoàng Tuần Tài (Shyun Tsai), 51 tuổi, Thủ tướng thứ tư của Singapore. Cho đến nay, ông là Phó Thủ tướng, dưới thời ông Lý Hiển Long (Lee Hsien Loong), 72 tuổi, con của Thủ tướng Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yeu), người lập quốc và cai quản đất nước này trong 31 năm trời.
Singapore là một nước đa tôn giáo và chủng tộc. Tôn giáo lớn nhất tại đây là Phật giáo, tiếp đó là Ấn giáo, Hồi giáo và Kitô giáo. Tỷ lệ tín hữu Kitô tại nước này gia tăng từ 9,9% hồi năm 1980 và lên 18,9% trong năm 2020, sự tăng trưởng này do việc xin nhập đạo và số sinh trong các gia đình Kitô.
Thủ tướng Hoàng Tuần Tài là một chuyên gia thực tiễn, đã từng đứng đầu nhiều bộ trưởng. Trong những tháng tới đây, ông sẽ triển khai quan niệm của ông về tương lai của Singapore và có thể trong năm nay, ông sẽ triệu tập một cuộc bầu cử mới.
Tuy có bầu cử, nhưng trong thực tế, Singapore vẫn là một nước độc đảng. Một hệ thống bầu cử được thiết kế để đảm bảo cho quyền hành của Đảng Hành động nhân dân trong nhiều thập niên qua. Vị lập quốc Lý Quang Diệu chịu ảnh hưởng mạnh của các giá trị Phật giáo. Với việc hợp pháp hóa các sòng bạc và đồng tính luyến ái trước khi kết thúc nhiệm kỳ, Thủ tướng Lý Hiển Long đã phá vỡ các nguyên tắc luân lý sắt đá của thân phụ.
Singapore là chặng chót trong chuyến tông du dài 11 ngày của Đức Thánh cha tại bốn quốc gia: Indonesia, Papua New Guinea và Đông Timor, sau cùng là Singapore, từ ngày 03 tháng Chín đến ngày 13 tháng Chín.
Singapore là một Tổng giáo phận trực thuộc Tòa Thánh, do Đức Hồng y William Ngô Thành Tài (Goh Seng Chye) cai quản. Theo Niên giám năm 2023 của Tòa Thánh, tại đây có 170.000 tín hữu Công giáo trên tổng số hơn năm triệu 450.000 dân cư, thuộc 29 giáo xứ với 79 linh mục giáo phận và 82 linh mục dòng, 160 nữ tu. Đức Hồng y cho biết phần lớn các thánh lễ bằng tiếng Anh, nhưng cũng có tiếng quan thoại, Tamil và các ngôn ngữ khác ở miền Đông nam Á và Âu châu cho các cộng đoàn tín hữu nhập cư.
(Tổng hợp KAP 15-5-2024)
- Viết bởi G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tổ chức Nhi đồng Quốc tế, Unicef, báo động rằng “tám phần mười các trường học tại Gaza bị tàn phá hoặc bị hư hại, như trường tại Khan Younis này. Cần thời gian dài trước khi các trường này có thể được tái thiết và các trẻ em có thể đi học lại. Trong khi đó, kết toán thật đơn sơ. Chỉ có một câu trả lời cho vấn đề này là hãy ngưng chiến”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trên đây là lời khẳng định của Unicef trong một Video được Văn phòng Trung Đông và Bắc Phi của Unicef, bàn về ảnh hưởng của cuộc xung đột hiện nay đối với sự giáo dục các trẻ em. “Các trẻ em ở Gaza không được đến trường học từ sáu tháng nay. Điều này có nghĩa là các em không được học, chơi đùa, không có thầy cô, không có các cơ cấu. Tình trạng này đặt các em nguy cơ lớn, dễ bị bóc lột và lạm dụng, lao động trẻ em, hôn nhân sớm và một loại những nguy hiểm khác”.
Nhân viên của Unicef cũng kể rằng: “Tôi đã gặp nhiều trẻ em ở Gaza, các em kể với tôi là muốn trở lại trường học, các em thiếu bạn bè... Còn các cha mẹ thì kể với tôi về ảnh hưởng của sự thiếu trường học trên sức khỏe tâm thần của các trẻ em thật là trầm trọng, trong khả năng học hỏi và trong sự phát triển”.
(Sir 20-5-2025)
- Viết bởi Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Tuần hành vì Sự sống ở Washington (March for Life 2015, Washington D.C.)| ©American Life League
cath.ch, Maurice Page, 2024-05-03
Ngày 1 tháng 5 năm 2024, lệnh cấm phá thai sau sáu tuần có hiệu lực tại Florida, tiểu bang trong số các bang nghiêm ngặt nhất về việc cấm phá thai ở Mỹ. Nhưng cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 11 có nguy cơ làm thay đổi tình hình.
Với lệnh cấm phá thai sau sáu tuần, Florida ở trong các bang hạn chế phá thai nhất ở Mỹ. Vì việc phá thai không còn được phép khi nhịp tim của em bé được ghi nhận, nên người ta nói đến “luật của nhịp tim” (Heartbeat bills). Lệnh này cũng bị cấm ở Georgia, Nam Carolina.
Các trường hợp ngoại lệ duy nhất trong luật này liên quan đến việc mang thai do lạm dụng tình dục, loạn luân hoặc trường hợp cấp cứu y khoa nguy hiểm đến tính mạng người mẹ.
Tháng 4 năm 2023, thống đốc Đảng Cộng hòa Florida Ron DeSantis đã ký luật, nhưng bị các nhóm ủng hộ phá thai phản đối trước Tòa án Tối cao Florida ở Tallahassee. Tòa án đã bác bỏ các kháng cáo này và cho phép thực hiện kể từ ngày 1 tháng 5 năm 2024.
Nhà Trắng chỉ trích: “Lệnh cấm cực đoan”
Những người ủng hộ sự sống ca ngợi đạo luật mới, cho đây là “lý do để ăn mừng”, trong khi những người ủng hộ phá thai gọi đạo luật này là “hạn chế khủng khiếp quyền sinh sản của phụ nữ”.
Nhà Trắng phản ứng gay gắt: Bà Karine Jean-Pierre, phát ngôn viên của Tổng thống Joe Biden nói đây là “lệnh cấm cực đoan”, bà lưu ý, nhiều phụ nữ còn không biết mình có thai sau 6 tuần.
Cho đến nay, Florida được cho là căn cứ của phụ nữ của một số bang lân cận phía nam, nơi lệnh cấm phá thai đã có hiệu lực. Hơn 6.000 phụ nữ từ Alabama và Georgia đến Florida mỗi năm để phá thai. Các phòng khám phá thai của bang cho biết ít nhất 40.000 người hiện nay có thể sẽ bị từ chối phá thai mỗi năm.
Trưng cầu dân ý có thể dẫn tới thay đổi Hiến pháp
Tuy nhiên, tình trạng này không phải là dứt khoát. Tháng 11, người dân của Bang sẽ quyết định trưng cầu dân ý về tính khả thi của việc đưa vào Hiến pháp quyền phá thai cho đến khi thai nhi có thể sống sót, tức là tuần thứ 24 của thai kỳ (12 đến 14 ở các quốc gia châu Âu). Để thành công, cuộc trưng cầu dân ý này phải có đa số đủ điều kiện là 60% số phiếu bầu. Tuy nhiên, mức này được cho là cao nhưng không phải là không thể vượt qua. Nỗ lực ngăn chặn cuộc trưng cầu dân ý đã thất bại tại tòa án. Kể từ khi Tòa án Tối cao Hoa Kỳ vô hiệu hóa quyết định của Roe vs. Wade năm 1973 cho phép quyền phá thai trên khắp Hoa Kỳ, một số bang đã bỏ phiếu đưa quyền phá thai vào hiến pháp của họ (Roe kiện Wade: quyết định năm 1973, Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ quyền tự do của một phụ nữ mang thai được chọn phá thai mà không bị chính phủ hạn chế quá đáng). Những người ủng hộ việc phá thai luôn chiếm ưu thế, ngay cả ở những bang bảo thủ như Ohio. Trong hầu hết các trường hợp, không có giới hạn thời gian hoặc điều kiện cho việc phá thai.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
- Viết bởi G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Chi phí quân sự trên hoàn cầu đã đạt tới mức kỷ lục: thế giới ngày càng võ trang thêm, theo phúc trình mới nhất của Viện quốc tế nghiên cứu về hòa bình, gọi tắt là SIPRI, ở Stockholm, thủ đô Thụy Điển.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Chiến tranh nay được liệt kê vào doanh vụ mang lại nhiều lợi tức nhất trên thế giới, với những chi phí khổng lồ ở các miền trên trái đất. Thực vậy, chi phí cho võ trang đã leo thang liên tiếp trong chín năm nay, và nay lên tới đỉnh cao 2.443 tỷ Mỹ kim, trong đó 55% do Mỹ và khối NATO. Con số này tương đương với 2,3% tổng sản lượng thế giới.
Viện SIPRI nhấn mạnh rằng từ năm 2009, các cuộc đầu tư về quân sự đều gia tăng tại năm châu. Một trong số những động lực đẩy mạnh sự leo thang đặc biệt này phải kể đến chiến tranh tại Ucraina, một nhân tố đã hoàn toàn đảo lộn những viễn tượng của các nước Âu châu về an ninh. Sự thay đổi này được phản ánh qua việc ngày càng gia tăng tỷ lệ tổng sản lượng quốc gia cho chi phí quân sự.
Sự gia tăng ấy cũng diễn ra tại Á, Úc châu và Trung Đông. Rất tiếc là không có miền nào trên thế giới có sự cải tiến trong lãnh vực này.
Nga và Ucraina
Đặc biệt trong lãnh vực chi phí quân sự, Nga đứng thứ ba trên thế giới: nước này dành ngân khoản tương đương với 102 tỷ Euro, tức là 4,5% trên bình diện thế giới và mỗi năm tăng 24%, tức là 5,9% tổng sản lượng quốc gia. Ucraina đứng thứ tám trên thế giới về đầu tư trong lãnh vực võ khí. Nước này đã gia tăng chi phí lên 51%, tương đương với hơn 60 tỷ Euro, tức là bằng một phần ba tổng sản lượng quốc gia. Với gần 32 tỷ Euro viện trợ quân sự nhận được, Ucraina đã thu hẹp khoảng cách với Nga: tổng chi phí quân sự của Ucraina bằng 91% chi phí của Nga.
Mỹ và NATO
Trong bối cảnh thế giới trên đây, theo phúc trình của viện SIPRI, đứng đầu chính là Mỹ, với mức đầu tư là 2,3% tổng sản lượng quốc gia, tức là 860 tỷ Euro, và chiếm 37% chi phí quân sự của thế giới, và 68% chi phí quân sự của 31 nước thành viên khối NATO.
Trung Đông cũng gia tăng chi phí quân sự trong một thập niên, tức là tăng 9%, đứng đầu là Arập Saudi, tiếp đến là Israel gia tăng 24%, vì cuộc tấn công tại Gaza, sau cuộc khủng bố của Hamas, ngày 07 tháng Mười năm 2023.
Tại Viễn Đông, theo SIPRI, Trung Quốc chi gần 278 tỷ Ero, tức là tăng 6%, Nhật Bản chi 50,2% cho quân sự trong năm ngoái (2023), tức là tăng 11% so với năm 2022 trước đó. Cả chi phí của Đài Loan cũng tăng 11% trong năm ngoái, với 16,6 tỷ Mỹ kim.
Theo ông Maurizio Simonelli, Phó Giám đốc viện Nghiên cứu Quốc tế giải trừ võ trang, các dữ kiện trên đây cho thấy các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Đài Loan đang gia tăng võ trang, và Trung Quốc vẫn là nước đứng thứ hai trên hoàn cầu về chi phí quân sự, sau Mỹ. Thái Bình Dương tiếp tục là vùng căng thẳng cao: “Trung Quốc là nước cạnh tranh lớn với Mỹ. Nhưng chi phí quân sự của Trung Quốc chỉ bằng một phần ba so với Mỹ”.
Tại Liên Hiệp Âu châu, năm ngoái (2023), tất cả 27 nước đều gia tăng chi phí quân sự. Cuộc xung đột tại Ucraina càng làm cho quan hệ quốc tế căng thẳng, và hiện nay giữa Nga và các nước Tây phương không có chỗ cho đối thoại, và người ta chỉ nghĩ đến việc gia tăng ngân sách quân sự. Điều này bao hàm việc trở về thời chiến tranh lạnh hoàn toàn trong ngàn năm mới”.
Ông Simoncelli cũng nhận định rằng: “Thật là một ảo tưởng hoàn toàn khi nghĩ rằng các vấn đề quốc tế có thể được giải quyết bằng võ lực. Chúng ta đã thấy điều đó trong lịch sử: mỗi khi con người tìm cách giải quyết các vấn đề bằng bạo lực, thì lại tạo nên những tiền đề cho các cuộc chiến tranh mới và những oán ghét kéo dài trong nhiều thập niên”.
(Vatican News 22-4-2024)
- Viết bởi G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tòa án Tối cao Phần Lan chấp nhận xét xử vụ kiện một cựu Bộ trưởng nước này bị cáo buộc về tội “xách động oán ghét”, vì truyền đi một tin nhắn, tweet, trưng dẫn Kinh thánh.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đó là bà Paivi Rasanen, 63 tuổi, nguyên là Bộ trưởng Nội vụ, Chủ tịch đảng Dân chủ Kitô và đại biểu quốc hội từ năm 1995, và nữ giám mục Tin lành Luther là bà Juhana Pohjola, cùng bị cáo về tội đó và đã được hai tòa án cấp dưới tha bổng hồi năm 2022 và 2023. Nay công tố viện kháng án lên tòa tối cao.
Hôm 19 tháng Tư vừa qua, Tổ chức nhân quyền quốc tế ADF ở Vienne, thủ đô Áo, cho biết các quan tòa của tòa án cao nhất ở Phần Lan đã chấp nhận xét xử vụ này.
Trong tuyên ngôn do tổ chức ADF phổ biến, bà Paivi Rasanen nói rằng: “Tôi vẫn an bình và sẵn sàng bảo vệ tự do ngôn luận và tôn giáo trước tòa án tối cao”. Bà cũng cho biết sẵn sàng nại tới tòa án nhân quyền của Âu châu nếu cần.”
Bà Rasanen bị cáo về tội tuyên truyền tín ngưỡng tôn giáo bảo thủ về hôn nhân và luân lý tính dục. Từ giữa năm 2019, bà đã bị cảnh sát Phần Lan điều tra. Trong tư cách là thành viên Giáo hội Tin lành Luther Phần Lan, bà đã tiếp tục với các vị lãnh đạo Giáo hội qua diễn đàn trực tuyến Twitter, và chất vấn phúc trình chính thức của Giáo hội về sự ủng hộ biến cố “Pride 2019” ủng hộ đồng tính luyến ái, chuyển giống và lưỡng tính, gọi là LGBT. Bà cũng đăng một hình với những câu trích từ thư thánh Phaolô gửi dân thành Roma. Những câu đó bị điều tra và đi tới tập tài liệu quảng cáo của bà Rasanen hồi năm 2014.
Hồi tháng Tư năm 2021, Tổng kiểm sát Phần Lan đã cáo bà Rasanen về tội “xách động chống một thiểu số”.
(KAP 20-4-2024)
- Viết bởi G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tổ chức Nhi đồng Quốc tế UNICEF cho biết trong gần 70 ngày chiến tranh Israel chống Hamas, ở Gaza, cứ mười phút thì có một trẻ em bị giết, hơn 12.000 em bị thương và chỉ có khoảng 3.500 người, nhất là các trẻ em được di tản ra nước ngoài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Những con số và tình trạng trên đây do bà Tess Ingram, chuyên gia truyền thông của tổ chức UNICEF, báo cáo sau sứ vụ thứ hai, dài hai tuần lễ tại Gaza. Bà đã được hướng dẫn tới các nhà thương, qua các đường phố, những nơi trú ẩn tạm bợ của dân chúng. Bà nói về con số rất cao các trẻ em bị thương trong cuộc xung đột, theo các dữ kiện từ các văn kiện của Bộ y tế Palestine, con số đó lên tới 12.000 em. Nhiều trẻ em bị giết, bị thương, bị cắt bỏ chân tay mà không có thuốc gây mê và đang chờ đợi các phẫu thuật để phục hồi. Các trẻ em mang một phần lớn những vết thương, vết sẹo của chiến tranh hiện nay ở Gaza. Bà Ingram kể rằng: các vị giám đốc một số trong mười một nhà thương ở Gaza còn hoạt động, nói với tôi là thiếu nhân viên y tế và vật dụng, kim chích, mũi khâu, thuốc mê... Sự thiếu thốn này ảnh hưởng tiêu cực đến sự chữa trị và săn sóc, nhất là những cuộc phẫu thuật.
Theo tổ chức Sức khỏe Thế giới, OMS, thật là khó xin được sự di tản y tế. Chỉ có một nửa số bệnh nhân đã làm đơn xin được di tản được chấp thuận: chỉ có 3.500 em được chấp thuận ra nước ngoài chữa trị, trong thời gian gần 20 ngày. “Những trường hợp y khoa khẩn cấp ở Gaza, các em bệnh nhân phải có thể được hưởng các dịch vụ y tế thiết yếu hoặc được phép di tản đi nơi khác. Các em bệnh nhân hoặc bị thương được di tản phải có một người thân trong gia đình cùng đi. Mỗi ngày, có ít nhất 70 em bị thương, cần làm sao để con số các cuộc di tản y tế cho các em bệnh nhân được gia tăng để các em có thể được chữa trị. Trước tình trạng cứ mười phút có một em bị giết hoặc bị thương, cần phải ngưng chiến, đó là cách thức duy nhất để ngăn chặn sự sát hại và gây thương tích cho các trẻ em.
(Sir 16-4-2024)
- Viết bởi Vatican News
![cq5dam.thumbnail.cropped.1500.844 66](/images/cq5dam.thumbnail.cropped.1500.844-66.jpeg)
Vatican News
Phát biểu tại một hội nghị ở Roma, bà Meloni gọi việc mang thai hộ là “vô nhân đạo” và cho rằng đó là việc “cho thuê tử cung”. Bà khuyến khích Thượng viện Ý thông qua luật quy định rằng việc người Ý thuê người ở nước ngoài làm người thay thế cha mẹ là phạm tội, một đề xuất đã được Hạ viện thông qua.
Theo luật hiện hành, việc mang thai hộ chỉ bất hợp pháp khi được thực hiện trong phạm vi biên giới của đất nước. Bà Meloni nhấn mạnh: “Không ai có thể thuyết phục tôi rằng việc thuê tử cung của một người là một hành động tự do. Không ai có thể thuyết phục tôi rằng việc coi trẻ em như một sản phẩm không cần kê đơn trong siêu thị là một hành động yêu thương. Tôi vẫn coi việc cho thuê tử cung là vô nhân đạo”.
Thông điệp chống việc mang thai hộ của Thủ tướng Ý phù hợp với những lập luận được đưa ra gần đây của Giáo hội Công giáo. Trong một văn kiện được Bộ Giáo lý Đức tin công bố vào ngày 08/4, Toà Thánh khẳng định rằng việc mang thai hộ vi phạm cả “phẩm giá của trẻ em” và “phẩm giá phụ nữ”. Văn kiện viết: “Phụ nữ bị tách khỏi em bé đang lớn lên trong mình và trở thành một phương tiện đơn thuần phục tùng lợi ích hoặc mong muốn độc đoán của người khác. Điều này trái ngược về mọi mặt với phẩm giá cơ bản của mỗi con người và với quyền của mỗi người luôn được thừa nhận một cách cá vị và không bao giờ trở thành một công cụ cho người khác”.
Ý và một số quốc gia khác ở Âu châu khác như Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Phần Lan, Na Uy, Áo và Thụy Sĩ, cấm mọi hình thức mang thai hộ. Chỉ một số quốc gia ở châu Âu cho phép mang thai hộ được trả tiền, chẳng hạn như Ucraina và Nga.
- Viết bởi Marta An Nguyễn dịch
Người đoạt huy chương vàng năm 2020 của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, CNRS, nhà vật lý thiên văn Françoise Combes giữ ghế chủ tịch “Thiên hà và vũ trụ học” tại Collège de France https://vi.wikipedia.org/wiki/Coll%C3%A8ge_de_France. Lớp học năm nay của giáo sư là về các ngôi sao và lỗ đen. Trang La Croix L’Hebdo gặp giáo sư tại văn phòng của bà ở Đài thiên văn Paris của bà, trung tâm nghiên cứu thiên văn học cao cấp được thành lập dưới thời Vua Lu-i XIV.
la-croix.com, Mikael Corre, 2024-03-23
Thưa giáo sư, sự sống đến từ đâu trong Vũ trụ?
Giáo sư Françoise Combes: Vũ trụ được tạo thành từ các chất khí, những đám mây khí chứa tất cả các thành phần cần thiết cho sự sống. Khi tôi bắt đầu vào nghề năm 1975, chúng tôi cố gắng tìm hiểu thành phần của nó. Theo một cách nào đó, chúng tôi là những “thợ săn phân tử”. Chúng tôi tự hỏi: chúng ta có thể quan sát được những nguyên tố nào trong chất khí giữa các vì sao cực kỳ loãng (gọi là hạt) này?
Để ông có thể hình dung, chất khí bao quanh chúng ta trong căn phòng này (giáo sư Françoise Combes chỉ không khí chung quanh bà) chứa 100.000 tỷ tỷ hạt trên mỗi xăng-ti-mét khối. Trong môi trường giữa các vì sao, nó chỉ có 10 hạt trên mỗi xăng-ti-mét khối. Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được, trong những điều kiện này, các nguyên tử có thể gặp nhau và tạo thành phân tử? Tuy nhiên, đây là những gì chúng tôi quan sát được từ những năm 1980 trở đi, làm chúng tôi ngạc nhiên!
Mặc dù mật độ thấp nhưng khí giữa các vì sao chứa các phân tử hydro, cũng như carbon, oxy, nitơ… Mọi thứ tạo nên sự sống trên Trái đất. Đó là những gì làm nên chúng ta.
Xin lỗi, nhưng làm thế nào chúng ta có thể “quan sát” các phân tử hydro, carbon monoxide hoặc oxy trong Vũ trụ?
Hầu hết các phân tử này không phát ra ánh sáng có thể thấy được, nên chúng ta không thể “nhìn thấy” chúng bằng kính thiên văn quang học. Nhưng chúng ta có thể bắt được sóng milimet mà chúng phát ra, miễn là chúng ta dùng đúng tần số.
Vào những năm 1970, kính thiên văn vô tuyến duy nhất có khả năng thực hiện được điều này là ở Hoa Kỳ. Vì thế chúng tôi phải vượt Đại Tây Dương, mang theo những chiếc vali rất lớn để đựng các bộ dao động – “klystrons”, như chúng tôi gọi chúng. Chúng tôi gặp khó khăn khi qua hải quan vì phải cần rất nhiều giấy chứng nhận để chứng minh đây là dụng cụ khoa học, chứ không phải bom! Sau đó, chúng tôi đến California, Arizona hoặc Texas, leo lên kính viễn vọng vào ban đêm với cờ-lê mỏ-lét, vặn klystron để thay đổi tần số. Mục đích là làm cho bộ dao động đập theo tín hiệu của bầu trời. Đó là thời của những người tiên phong.
Tôi nghĩ đây là cách mà nhóm của bà là những người đầu tiên xác định được carbon monoxide (CO) trong thiên hà Andromeda. Bà đã học được gì?
Đúng, đó là năm 1977 với kính thiên văn Arizona. Người Mỹ không thấy gì ở Andromeda vì họ nhìn vào trung tâm thiên hà. Chúng tôi tìm được ở một nơi khác ngoại vi hơn. Phát hiện này rất quan trọng vì CO giúp chúng ta có thể “theo dõi” (thu được các tín hiệu) các phân tử hydro, loại khí chính trong Vũ trụ!
Việc này giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về cách các ngôi sao được sinh ra. Chúng tôi nhận ra các phân tử như hydro không được phân bố đồng đều trên khắp Vũ trụ. Chúng tạo thành những đám mây, chúng sẽ tập trung lại dưới tác dụng của trọng lực của chính chúng và trở thành những đám mây lớn, bên trong sẽ hình thành những cục nhỏ (cụm vật chất). Và nó trở thành một cấu trúc có thứ bậc: các khối khác được tạo ra bên trong các khối, v.v., cho đến khi khối dày đặc nhất tự sụp đổ.
Trong sự sụp đổ, khí trở nên đậm đặc và rất nóng làm các phản ứng hạt nhân có thể được kích hoạt. Hydro sau đó kết hợp thành helium, phóng ra một năng lượng khổng lồ và tỏa ra bên ngoài. Một ngôi sao đã chào đời.
Đây có phải là cách mặt trời được sinh ra không?
Chắc chắn rồi, đó là mặt trời khi nó còn trẻ, cách đây 4,5 tỷ năm, đúng như vậy. Điều ấn tượng nhất là bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy các ngôi sao ở giai đoạn rất sớm này nhờ giao thoa kế Alma, được đặt ở sa mạc Atacama, Chi-lê.
Tôi nhớ, năm 2012, lần đầu tiên chúng tôi quan sát thấy một trong những tiền sao này (“ngôi sao bé”). Đó là một đĩa có các vòng, như những cái chúng tôi đã làm trên máy tính. Chúng ta có thể phân biệt sự hình thành của ngôi sao, ở trung tâm của đĩa và các hành tinh ở trong phần rỗng của các vòng.
Vậy các hành tinh được tạo ra cùng thời điểm với ngôi sao của chúng?
Đúng. Sau đó, sự phối hợp tiếp tục trong suốt cuộc đời của ngôi sao. Sự hình thành các nguyên tố mới tiếp tục cho đến ngày ngôi sao, nếu nó đủ lớn, sẽ phát nổ thành siêu tân tinh và các nguyên tử mới sau đó là các phân tử carbon, oxy hoặc nitơ được tạo ra sẽ bị ném vào Vũ trụ. Đây là những yếu tố tạo nên sự sống trên Trái đất. Đó là lý do vì sao nhà thiên văn Canada Hubert Reeves (1932- 2023) nói rằng chúng ta là bụi sao.
Bà có nghĩ có sự sống trong Vũ trụ ngoài Trái đất?
Chắc chắn có. Tôi nghĩ chúng ta không đơn độc. Sẽ không thể có việc chỉ có một hành tinh trong Vũ trụ như Trái đất đáp ứng các điều kiện để tạo ra một dạng sống. Hãy nghĩ về số lượng hành tinh chúng ta đã phát hiện được kể từ năm 1995 khi Michel Mayor và Didier Queloz (các nhà vật lý thiên văn tại Đại học Geneva) phát hiện ra hành tinh ngoài hệ mặt trời đầu tiên, tức là một hành tinh quay quanh một ngôi sao khác ngoài Mặt trời!
Ngày nay chúng ta biết tất cả các ngôi sao đều có một, hai, ba, bốn, tám hành tinh. Bây giờ, trong Dải Ngân hà có bao nhiêu, 200 hay 300 tỷ ngôi sao? Và chúng ta chỉ đang nói về một thiên hà, nhưng có tới 2.000 tỷ thiên hà giống như của chúng ta! Những con số này làm xác suất có những hành tinh tương đương với Trái Đất gần bằng 1.
Vấn đề là những Trái đất nhỏ như của chúng ta, ở khá xa ngôi sao của chúng rất khó phát hiện. Nhưng chúng ta sẽ đến đó. Hiện tại, chúng ta có phương tiện để phát hiện cái mà chúng ta gọi là siêu Trái đất, “Sao Mộc nóng”. Đây là những hành tinh lớn, rất nóng, rất gần với ngôi sao của chúng.
Nếu chúng ta phát hiện được sự sống trên một hành tinh khác, nếu tôi không lầm, tôi có thể nói đó là dấu vết của một đời sống đã qua.
Đúng, chắc chắn như thế. Ánh sáng phải mất một thời gian mới đến được với chúng ta và những vật thể chúng ta đang nói đến ở rất xa. Hàng chục ngàn năm ánh sáng tách một số ngôi sao ra khỏi Dải Ngân hà. Giữa các thiên hà, nó được đo bằng hàng triệu tỷ năm ánh sáng. Vì vậy, khi quan sát các vật thể trong Vũ trụ, chúng ta thực sự chỉ nhìn thấy hình ảnh đã qua của chúng. Theo một cách nào đó, chúng tôi là những nhà khảo cổ học. Đây là vấn đề: nếu chúng ta tìm thấy sự sống ở đâu đó, chắc chắn nó sẽ ở rất xa chúng ta và có lẽ đã tuyệt chủng.
Nhưng chúng ta cũng đang tìm gần Trái đất hơn, trong hệ mặt trời. Chúng ta biết chung quanh Sao Mộc có các vệ tinh như Europa, Ganymede hay Callisto là băng giá – chúng còn được gọi là các mặt trăng băng giá của Sao Mộc. Tuy nhiên, khi đi gần, một số vệ tinh nhân tạo (Galilê, Juno, v.v.) đã nhìn thấy các mạch nước phun. Người ta tin có lực thủy triều làm vỡ băng, bên dưới lớp băng đó sẽ có những đại dương khổng lồ. Vì thế tháng 7 năm 2023, Cơ quan Vũ trụ châu Âu đã phóng vệ tinh Juice (Jupiter Icy Moons Explorer). Và nó sẽ chỉ đến Sao Mộc năm 2031. Nhưng nó sẽ cho chúng ta xem xét được thành phần của loại nước này.
Đi tìm thực vật nổi trên Sao Mộc?
Theo một cách nào đó. Vấn đề sẽ là xem liệu có vi khuẩn nào, có tàn dư nào của sự sống hay không. Sao Mộc ở rất gần, đó là lý do vì sao chúng tôi tới đó. Nhưng chúng tôi không từ bỏ việc đi tìm những dấu vết sự sống ở xa hơn. Seti (Tìm kiếm trí thông minh ngoài Trái đất, Search for Extra-Terrestrial Intelligence, một viện của Mỹ) cũng tìm cách thu thập các tín hiệu có thể có ngoài Trái đất. Nhưng nếu một thông điệp từ nền văn minh khác phải mất 100.000 năm mới đến được với chúng ta thì sẽ rất khó để trả lời… (Cười.)
Đó là mối quan hệ với thời gian ở một quy mô hoàn toàn khác, nhưng bà tiếp chúng tôi ở văn phòng của bà ở Đài thiên văn Paris, nơi bà làm việc. Đó là ngôi nhà có lịch sử lâu đời…
Đúng. Đài thiên văn được thành lập năm 1667 dưới thời vua Lu-i XIV. Phải mất vài thập kỷ sau khi phát minh ra kính viễn vọng thiên văn, điều này mang đến những tiến bộ đáng kể!
Cũng vài chục năm sau khi Giáo hội công giáo lên án Galilêô năm 1633. Giáo sư nghĩ gì về các tiến trình của Đức Gioan-Phaolô II năm 1992 khi ngài muốn phục hồi nhà khoa học vĩ đại này.
Thật tốt khi Giáo hội làm được điều này, nhưng chúng tôi tự hỏi vì sao Giáo hội không làm sớm hơn. Giữa chúng tôi, năm 1992, Galilêô đã được phục hồi cho tất cả mọi người, kể cả ở Vatican, nơi có các nhà thiên văn học, họ cũng có đài thiên văn ở Arizona.
Một lần tôi được mời đến Vatican để dự một hội nghị và tôi thấy linh mục Dòng Tên José Gabriel Funes, người đứng đầu đài thiên văn, năm 2015 thầy Dòng Tên Guy Consolmagno kế nhiệm ngài) là người rất cởi mở. Hơn nữa, chính một trong những người tiền nhiệm của ngài, linh mục Georges Lemaître (nhà thiên văn học người Bỉ, chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng từ năm 1960 đến năm 1964), là người đầu tiên nói về “nguyên tử nguyên thủy”. Đây là điều mà Fred Hoyle, một người hay gièm pha lý thuyết của linh mục, sau này gọi là “vụ nổ lớn”. Chính cái tên này vẫn còn, nhưng chính Lemaître – người biết đến thuyết tương đối vừa được Albert Einstein khám phá – là người đã nhìn thấy không gian đó giãn nở. Và nếu chúng ta quay ngược thời gian, toàn bộ Vũ trụ xung quanh chúng ta ban đầu ở trong một điểm, đó là nguyên tử nguyên thủy.
Linh mục Lemaître đến nói chuyện này với Đức Piô XII để nói với ngài đừng đề cập đến nguyên tử nguyên thủy, vì ngài tuyên bố trong một thông điệp năm 1951: “Khoa học đích thực, càng tiến bộ thì càng khám phá ra Thiên Chúa. Vụ nổ lớn này thật tuyệt vời, có lẽ đó là Tạo dựng.” Và linh mục Lemaître trả lời: “Không, không, điều đó không liên quan gì cả.”
Theo giáo sư, liệu có thể có đối thoại giữa thiên văn học và tôn giáo?
Giả sử đây là hai thái độ hoàn toàn khác nhau. Khoa học cần bằng chứng. Khoa học chỉ tin vào những gì có thể nhìn thấy, phát hiện, đo lường được… Tôn giáo là đức tin. Chúng ta phải tin mà không cần bằng chứng. Đây là hai cách tiếp cận cần phải được phân biệt rõ ràng. Sau đó, một số nhà khoa học như linh mục Lemaître và những người khác ngày nay vẫn còn, là những người có đức tin…
…Đây có phải là trường hợp của giáo sư không?
Không, đây không phải là trường hợp của tôi. Nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta có cái nhìn nhân văn. Phải mất vài tỷ năm, hành tinh của chúng ta mới có thể sinh sống được, các sinh vật nhỏ, amip đơn bào, thực vật, cá sấu và con người xuất hiện dần dần. Phải mất một thời gian dài. Và tôi nghĩ chúng ta vẫn đang còn tiến.
Vậy, sự phát triển của sự sống trên trái đất trong tương lai sẽ như thế nào? Tôi không thể nói, nhưng nếu chúng ta tránh được thảm họa, tôi nghĩ chúng có thể rất tích cực. Tôi lạc quan.
Nếu Vũ trụ chỉ được tạo thành từ các hành tinh và đá thì đó sẽ là một Vũ trụ hơi buồn phải không? Sự phát triển của cuộc sống là một điều gì đó rất tươi sáng. Một cái gì đó mang lại ý nghĩa.
Quan điểm của giáo sư về tiến bộ khoa học trong những thập kỷ gần đây là gì?
Sự tiến bộ đã tăng theo cấp số nhân. Chúng tôi đã khám phá ra rất nhiều điều. Phải nhận ra. Trong vũ trụ học, năm 1929, chúng ta đã xác định Vũ trụ đang giãn nở. Chưa đầy bảy mươi năm sau, năm 1998, chúng tôi phát hiện, nó không chỉ đang giãn nở mà còn đang tăng tốc.
Chúng ta phải tưởng tượng sự tiến bộ mà điều này tạo nên trên quy mô thế kỷ. Trong những năm 1920, một trong những tranh luận khoa học chính là: liệu các thiên hà bên ngoài Dải Ngân hà có tồn tại không? Trước đó người ta cho rằng các thiên hà không tồn tại. Rằng Dải Ngân hà là toàn bộ Vũ trụ. Nhưng Dải Ngân hà là dải màu trắng chúng ta nhìn thấy trên bầu trời. Khi chúng tôi nhận ra, trên thực tế Dải Ngân là một thiên hà, chúng tôi đã đặt tên cho tất cả những thiên hà khác theo tên của chúng tôi (trong tiếng hy lạp, galaxías có nghĩa là “Dải Ngân hà”).
Giáo sư có nghĩ rằng sự tiến bộ sẽ tiếp tục với tốc độ này?
Có thể chúng sẽ vẫn theo cấp số nhân, chỉ cần nhìn vào thập kỷ vừa qua. Lấy lỗ đen làm ví dụ. Vào thế kỷ 18, các nhà khoa học John Michell và Pierre-Simon Laplace có trực giác cho rằng có những vật thể nén đủ, để vận tốc thoát lớn hơn vận tốc ánh sáng, cái mà ngày nay chúng ta gọi là những lỗ đen (chúng có màu đen vì ánh sáng không đến được để làm cho chúng thoát ra). Kể từ năm 2019, chúng tôi chắc chắn chúng tồn tại vì chúng tôi đã thu được hình ảnh về bóng của chúng.
Và cũng tương tự với sóng trọng lực (dao động cong của không-thời gian). Nhà bác học Albert Einstein đã dự đoán chúng năm 1916, cùng thời điểm với thuyết tương đối, nhưng ông nói: “Nó quá yếu, chúng ta sẽ không bao giờ có thể phát hiện ra chúng.” Năm 2015, chúng tôi đã phát hiện được một số trong số chúng. Đó là một kỳ công tuyệt vời! Và hôm nay, chúng tôi đã xác định được hàng trăm trong số này.
Vì chúng ta đang nói về tiến bộ, tôi mong giáo sư phản ứng với tình trạng phụ nữ vẫn là thiểu số trong hầu hết các lãnh vực nghiên cứu khoa học. Giáo sư nghĩ điều này sẽ thay đổi?
Trong vật lý thiên văn, chúng tôi có 30% là phụ nữ, còn hơn ở trong khoa toán học và vật lý lý thuyết. Nhưng những khác biệt này với nam giới là do định kiến. Tôi rất ngạc nhiên khi đọc một nghiên cứu gần đây về trẻ em học lớp một. Đầu năm, con gái cũng giỏi toán như con trai. Và sáu tháng sau, nghiên cứu cho thấy có một em bỏ học. Thật ngạc nhiên khi thấy nó nhanh như thế nào… Tôi nghĩ điều đó phụ thuộc vào các giáo viên, những người xung quanh, những người sẽ cho rằng toán học ít thu hút các bé gái hơn và thuyết phục các em về chuyện này.
Nhìn rộng hơn, tôi nghĩ mọi thứ đang đi đúng hướng. Ở đây cũng vậy, chúng ta phải thấy sự tiến bộ. Ở Pháp, phụ nữ chỉ mới được vào đại học từ đầu thế kỷ 20. Trước đó, họ không thể học ngành y, một nghề ngày nay chủ yếu là nữ. Thật điên rồ khi chúng ta nghĩ về vấn đề này, nhưng trường Bách Khoa (École Polytechnique) chỉ mới mở cửa cho phụ nữ năm 1972. Viện Hàn lâm Khoa học cũng vậy, thời đó họ đã từ chối không cho bà Marie Curie vào… Việc ứng cử của bà đã tạo một tranh luận lớn giữa tất cả các Học viện, họ nói: “Ồ không, không thể có phụ nữ được!” Và bà có hai giải Nobel…
Vậy giáo sư có lạc quan không?
Có, vì sau đó nó tiến triển giống như đường cong của thị trường chứng khoán, đôi khi có những bước thụt lùi nhỏ. Nhưng tôi nghĩ chúng ta không nên tuyệt vọng về điều này. Bà Yvonne Choquet-Bruhat, vật lý gia phụ nữ đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học năm 1979, bà vẫn còn sống, bà đã 100 tuổi.
Nhưng cũng có vấn đề về bạo lực tình dục và giới tính trong môi trường nghiên cứu, không phải là không liên quan. Tôi rất ngạc nhiên trước kết quả của một cuộc khảo sát gần đây do Quỹ L’Oréal ủy quyền làm trên toàn cầu. 49% nhà nghiên cứu nữ được khảo sát cho biết họ đã từng bị quấy rối tình dục. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là trong phần lớn các trường hợp, những tình huống này đều bị giấu kín và bưng bít. Nhưng tôi nghĩ về vấn đề này, làn sóng #MeToo đang giúp tiếng nói. Và thật hạnh phúc!
Cuộc đời
1952 Sinh ra ở Montpellier.
1975 Giảng dạy tại École Normale Supérieure (ENS).
1989 Nhà thiên văn học tại Đài thiên văn Paris.
2004 Nhà thiên văn học nữ đầu tiên gia nhập Viện Hàn lâm Khoa học.
2014 Giữ ghế chủ tịch Thiên hà và vũ trụ học tại Collège de France.
2020 CNRS trao Huy chương Vàng của cho công trình nghiên cứu về sự phát triển của các cấu trúc thiết yếu của Vũ trụ.
Một nơi
Grenada
“Chính xác hơn là kính thiên văn Iram, Viện Thiên văn Vô tuyến Millimetric, Institut de radioastronomie millimétrique), đặt tại Sierra Nevada, Tây Ban Nha, ở độ cao 2.800 mét. Đây là kính thiên văn vô tuyến ăn-ten đơn nhạy nhất thế giới. Nhạy cảm đến mức nó cho phép chúng ta “nhìn xuyên suốt vụ nổ lớn” và quan sát thấy, bất kể khoảng cách về thời gian hay không gian, chúng ta luôn tìm thấy những phân tử giống nhau. Điều này có nghĩa là, nếu có sự sống ở nguồn gốc của Vũ trụ, thì đó sẽ là sự sống tương tự như của chúng ta.”
Một nhân vật tuyệt vời
Bà Margaret Burbidge và bà Vera Rubin
“Không thể lựa chọn giữa hai nhà vật lý thiên văn đầy cảm hứng này. Khi nhà thiên văn học người Anh gốc Mỹ Margaret Burbidge (1919-2020) bắt đầu làm việc cùng với chồng vào giữa thế kỷ 20, phụ nữ bị cấm vào các phòng thí nghiệm của Mỹ. Bà phải đấu tranh để có thể quan sát được. Còn bà Vera Rubin (1928-2016), người tôi đã có dịp nói chuyện, bà là một trong những phụ nữ đầu tiên quan sát đường cong quay của các thiên hà và phát hiện ra vật chất tối.”
Một nghệ thuật
Tranh sơn dầu
“Tôi vẽ rất nhiều, gần đây thì ít hơn một chút. Đây là niềm đam mê lớn của tôi. Tôi treo khắp nơi, trong văn phòng và ở nhà. Đó là những bản sao của những tên tuổi lớn của trường phái ấn tượng, Renoir, Monet, nhưng cũng là những hình ảnh đại diện cho các thiên hà và các đám mây giữa các vì sao.”
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
- Sáu tháng chiến tranh Gaza: 35.000 người chết và 9.100 tên lửa được phóng đi
- Trung Đông: 7 nhân viên nhân đạo thiệt mạng trong cuộc đột kích
- Tình hình bất ổn nghiêm trọng ở Haiti
- Thảm trạng nhân đạo bi thảm tại Ucraina
- Hãng tin Asia New: Tại Hong Kong có 1.788 Navalny
- Chào đón người nhập cư của gia đình Calo ở Ý
- Thế giới có thêm 66 triệu dân cư
- Gaza: 22 ngàn người Palestine thiệt mạng từ khi bắt đầu cuộc chiến
- Trào lưu bài Do thái nơi dân Đức tăng mạnh
- Những vụ bài Do thái ở Đức tăng 320%