Tin Giáo Hội Việt Nam

Vatican News
Hiện diện trong buổi đặt tượng và làm phép còn có Đức Hồng y Giovanni Lajolo, nguyên Chủ tịch Phủ Thống đốc Thành Vatican và nguyên Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Thành Vatican, người đã giúp để việc đặt tượng thành hiện thực; và một số Giám mục Việt Nam: Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, Tổng Giám mục Hà Nội, Đức Cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng của giáo phận Phan Thiết, Đức Cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn của giáo phận Bà Ria, Đức Cha Luy Nguyễn Anh Tuấn của giáo phận Hà Tĩnh và Đức Cha Phêrô Kiều Công Tùng của giáo phận Phát Diệm; cùng một số linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Tại Vườn Vatican đã có nhiều ảnh Đức Mẹ của nhiều quốc gia khác nhau, được thực hiện bằng những phong cách nghệ thuật khác nhau; ví dụ như Đức Mẹ Guadalupe của Mexico, Đức Mẹ Lujan của Argentina, Đức Mẹ của Ba Lan, và mới nhất là Đức Mẹ của Hàn Quốc.
Tuy nhiên, Đức Mẹ La Vang là “tượng” Đức Mẹ thứ hai được đặt tại Vườn Vatican sau tượng Đức Mẹ của Hoa Kỳ. Tượng được đặt tại vị trí rất đẹp, gần với chuông Đại Năm Thánh 2000, và xa xa phía sau là mài vòm Đền thờ Thánh Phêrô.
Bởi thế, Đức Hồng y Lajolo đã nói rằng tượng Đức Mẹ La Vang này không chỉ là của người Việt Nam, nhưng còn là bổn mạng của mọi người sống trong khu vực này.
Trong nghi thức làm phép tượng, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng nói rằng “Chúng ta hy vọng rằng với sự hiện diện của tượng Đức Mẹ La Vang ở đây, thì sau này, từ Đức Thánh Cha, hay bất cứ ai đi ngang qua đây, cũng cảm thấy Đức Mẹ như là bổn mạng của khu vực này”.
“Chúng ta tin rằng Đức Mẹ ở nơi đây cũng sẽ chuyển cầu cho tất cả cộng đồng Giáo hội Việt Nam ở khắp nơi. Chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa và phó thác cho Đức Mẹ”.
Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng đã xông hương và làm phép tượng giữa lời ca nguyện kính Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa.
Công trình đặt tượng Đức Mẹ La Vang ở Vườn Vatican đã được Giáo hội Việt Nam thao thức từ lâu với mong muốn giới thiệu hình ảnh Đức Mẹ thân thương của dân tộc Việt Nam với Giáo hội hoàn vũ và cách đặc biệt, sự hiện diện của Đức Mẹ Việt Nam ở thủ đô Giáo hội diễn tả sự hiệp thông của Giáo hội tại Việt Nam với Giáo hội hoàn vũ, cũng như những lời kinh Kính Mừng dâng kính Đức Mẹ La Vang cũng là lời cầu nguyện cho Giáo hội hoàn vũ và cho Đức Thánh Cha.
Tượng Đức Mẹ La Vang bằng đá cẩm thạch trắng, xuất xứ từ Quỳ Hợp, Nghệ An, cao 1,6 mét, được đặt trên đế cao 0,6 mét, được điêu khắc tại Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, bởi nghệ nhân Giuse Trần Văn Giang, và chuyển bằng máy bay sang Roma
Nghệ nhân Giuse Trần Văn Giang đang điêu khắc tượng
Theo lời kể, Đức Mẹ hiện ra tại La Vang lần đầu tiên vào năm 1798 khi những cuộc bắt đạo, bách hại người Công giáo Việt Nam bắt đầu. Nhiều người Công giáo gần thị trấn Quảng Trị đã chạy trốn và tìm nơi ẩn náu trong rừng sâu của La Vang và phải đương đầu với đói khát, đau yếu, bệnh tật vì sống trong cảnh giá lạnh, nơi rừng thiêng nước độc và thú dữ luôn rình rập. Các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Thiên Chúa và Đức Mẹ. Họ thường tụ họp dưới gốc cây đa cổ thụ, cầu nguyện, lần hạt, an ủi và nâng đỡ nhau. Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng dài, tay bồng một trẻ nhỏ, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra đó là Đức Trinh Nữ Maria.
Đức Mẹ âu yếm, bày tỏ lòng nhân từ, và an ủi giáo dân biết vui lòng chịu khó. Mẹ dạy họ hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ chữa lành các chứng bệnh. Đức Mẹ lại hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn”. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn trong suốt một trăm năm bị bách đạo.

Nhìn lại lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam từ biến cố 30/04/1975, chúng ta không thể không nhận ra vai trò cột mốc của cuộc họp và Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980.
Hội Thánh hai miền Nam Bắc cùng nhau đi theo ánh sáng Công Đồng Vatican II
Công Đồng Vatican II diễn ra trong thời gian đất nước bị chia đôi, Nam Bắc cách ngăn. Trong khi các Giám Mục ở miền Nam đi tham dự Công Đồng thì các Giám Mục ở miền Bắc có khi thậm chí còn không biết là có Công Đồng đang diễn ra. Phải chờ tới khoảng năm 1972 các văn kiện của Công Đồng mới đến tay các Giám Mục ở miền Bắc. Nhưng không dễ để phổ biến và áp dụng các văn kiện của Công Đồng.
Suốt thời kỳ 1954-1975, Hội Thánh ở miền Bắc hoàn toàn bị ngăn cách với bên ngoài nên chỉ biết giáo huấn đã tiếp nhận trước đó trong thái độ đối với chính quyền. Minh hoạ cụ thể nhất của thái độ này là thư của các giám mục họp tại Hà Nội năm 1951. Bức thư này theo giáo huấn của Đức Thánh Cha Piô XI, kết án chủ nghĩa Cộng Sản vô thần và cấm người Công Giáo hợp tác với người cộng sản (thông điệp Divini Redemptoris, 19-3-1937).
Cần nhớ rằng trước năm 1975, có hai Nhà Nước ở hai miền Nam Bắc: miền Nam vẫn còn dưới quyền Nhà Nước “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lãnh đạo, và miền Bắc dưới quyền Nhà Nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Sau năm 1975, khi không còn “Nước Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” nữa, thì chỉ còn một Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, với thủ đô là Hà Nội. Tuy vậy quan hệ trao đổi thông tin và gặp gỡ giữa Hội Thánh ở hai miền Nam Bắc diễn ra rất chậm, vì việc giao thông liên lạc giữa hai miền Nam Bắc còn bị hạn chế cả về hành chánh lẫn phương tiện giao thông.
Hội Đồng Giám Mục Miền Nam Việt Nam họp một lần vào mùa hè 1976 và một lần nữa vào năm 1978 tại Sài Gòn. Cuối năm 1977, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đi Roma họp Thượng Hội Đồng Giám Mục về việc giảng dạy giáo lý. Bài phát biểu của Đức Cha Bình mang tựa đề “giảng dạy giáo lý trong môi trường của một nước theo chủ nghĩa Mác-xít”, đã gây nhiều tiếng vang trong Hội Thánh.
Cuối tháng tư năm 1980, dịp kỷ niệm 5 năm biến cố 30 tháng tư, Hội Đồng Giám Mục toàn quốc họp lần đầu tiên tại Thủ Đô Hà Nội. Đây là một biến cố lịch sử. Cả phía Nhà Nước lẫn nội bộ Hội Thánh đều chờ đợi các Giám Mục đưa ra một giáo huấn cho cuộc sống của Hội Thánh trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa do Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
Vấn đề được một số người đặt ra cách quyết liệt là yêu cầu các Giám Mục phải rút lại bức thư của các Giám Mục họp tại Hà nội năm 1951 và đưa ra đường lối mới cho Hội Thánh.
Các Giám Mục họp nhau đã cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chứ không theo cách suy nghĩ phàm tục. Chúa Thánh Thần đã mở ra hướng đi mới cho “Hội Thánh trong thế giới hiện nay” qua Công Đồng kết thúc 15 năm trước đó và Hội Thánh ở khắp thế giới đang nỗ lực đi theo. Hướng đi mới này không chọn đối đầu nhưng là đối thoại, không đối nghịch nhưng là đồng hành. Hội Đồng đã thấy ngay con đường phải đi là đối thoại và đồng hành.
Người Công Giáo không có một nước riêng, không có một vùng đất riêng. Người Công Giáo sống trên cùng miền đất với dân tộc mình, cùng chung tay xây dựng đất nước, phục vụ đồng bào của mình, theo ánh sáng Phúc Âm mình đã lãnh nhận khi gia nhập Hội Thánh. Các Giám Mục đã vạch hướng đi cho người Công Giáo Việt Nam là “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” trong thư mục vụ ngày 1 tháng 5, 1980.
Bức thư này mang giá trị lịch sử không chỉ vì đánh dấu một biến cố, nhưng là một sự chọn lựa có giá trị làm ánh sáng soi đường, tiếp thu ánh sáng của Công Đồng Vatican II. Suốt 45 năm qua, bức thư này vẫn là điểm quy chiếu cho các cuộc trao đổi giữa Nhà Nước với người Công Giáo tại Việt Nam cũng như với Tòa Thánh ở Roma.
Những cột mốc trong quan hệ giữa Nhà Nước Việt Nam với đồng bào Công Giáo và với Tòa Thánh Roma.
Năm 1945, khi cuộc Thế Chiến II vừa kết thúc thì cuộc chiến tranh chống chế độ thuộc địa Pháp bùng nổ giữa một bên là quân đội Viễn Chinh của Pháp và phe quốc gia, một bên là Việt Minh do Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam mang tên là Việt Minh lãnh đạo. Cuộc chiến diễn ra chủ yếu tại miền Bắc Việt Nam.
Năm 1951, vào lúc cuộc chiến lên đỉnh cao, các Giám Mục họp tại Hà Nội đã công bố một bức thư vạch cho người Công Giáo thấy “Việt Minh” chính là Đảng Cộng Sản, và theo giáo huấn của Hội Thánh thì người Công Giáo không được cộng tác với người Cộng Sản.
Dĩ nhiên bức thư này làm cho người Cộng Sản nghi ngờ người Công Giáo Việt Nam là “theo Tây”, và chọn thái độ khắt khe đối với người Công Giáo sau Hiệp Định Genève 1954.
Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Miền Bắc dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, miền Nam dưới chế độ Quốc Gia. Thời hạn một năm được ấn định để người Việt Nam được tự do chọn sống ở miền Nam hay miền Bắc: người miền Nam “tập kết “ ra miền Bắc, người miền Bắc “di cư” vào miền Nam. Sau hai năm sẽ tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.
Chánh phủ Mỹ giúp phương tiện cho người miền Bắc di cư chuyển vào và định cư tại miền Nam.
Gần một triệu người, đa số là người Công Giáo, rời miền Bắc để vào Nam. Các trại di cư được thiết lập dọc theo các trục lộ chính: quốc lộ số 1; số 4 (từ Sài Gòn đi Miền Tây); số 14 (từ Sài Gòn đi Ban Mê Thuột); quốc lộ 19 (từ Sài Gòn đi Đà lạt). Nhiều trại di cư được thành lập tại Vùng cao nguyên Ban Mê Thuột, vùng Cái Sắn.
Đa số dân di cư là người Công Giáo. Họ qui tụ nhau theo gốc các giáo xứ miền Bắc, và các linh mục từ miền Bắc đi theo giáo dân vào miền Nam. Các sinh hoạt tôn giáo râm ran khắp các trại tạm cư. Các nhà thờ tạm mọc lên, nhiều quả bom không nổ thời chiến đã cung cấp vỏ để dùng làm chuông. Các giáo phận miền Bắc cũng cử các linh mục đại diện để coi sóc giáo dân của mình tại miền Nam. Nhiều giáo phận chuyển các chủng viện vào miền Nam, tiếp tục nhận chủng sinh theo gốc miền Bắc.
Điều khoản tổng tuyển cử và hồi hương trong hiệp định Genève sớm tan như giấc mộng.
Sáu năm sau, 1960, Tòa Thánh đã theo tình trạng thực tế, thành lập hàng Giám Mục Việt nam. Các Vị Giám Mục vốn là đại diện tông tòa trở thành Giám Mục chánh tòa, sáp nhập các trại tạm cư thành định cư dưới quyền các Giám Mục miền Nam, các linh mục cũng sáp nhập theo giáo dân, vài vị Giám Mục di cư được bổ nhiệm làm giám mục chánh tòa tại mấy giáo phận miền Nam (Đức Cha Hoàng Văn Đoàn, ở Qui Nhơn; Đức Cha Phạm Ngọc Chi, ở Đà Nẵng). Các chủng sinh gốc miền Bắc được tự do chọn gia nhập một giáo phận tại miền Nam. Các chủng viện miền Bắc di cư ngưng nhận người mới và tiếp trục sinh hoạt cho tới khi các lớp chủng sinh hiện thời hoàn tất chương trình huấn luyện.
Thế là bộ mặt Hội Thánh tại Việt Nam thay đổi.
Hội Thánh tại miền Bắc mất đi khoảng phân nửa giáo dân. Một số Giám Mục cũng đã “di cư” vào Nam: các Đức Cha Lê Hữu Từ (Phát Diệm), Hoàng Văn Đoàn (Bắc Ninh), Trương Cao Đại (Hải Phòng), Santos Ubierna Ninh (Thái Bình), Phạm Ngọc Chi (Bùi Chu), Đức Cha Jacques (Lạng Sơn); hơn phân nửa số linh mục di cư theo giáo dân. Riêng bốn giáo phận Lạng Sơn, Thái Bình, Hải Phòng và Bắc Ninh vốn được trao cho dòng Đa Minh quản trị, thì bốn vị giám mục và tất cả các linh mục, tu sĩ dòng Đa Minh đều di cư vào miền Nam, một số linh mục thuộc các giáo phận này cũng di cư theo giáo dân, khiến các giáo phận này rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn về mọi mặt.
Trong khi đó thì tại miền Nam, số giáo dân cũng như số linh mục tăng vọt gấp đôi. Trên con đường 300 cây số nối Sài Gòn với Đà Lạt, trước kia chỉ có ba giáo xứ và nhà thờ Biên Hòa, Bảo Lộc, Di Linh thì nay mọc thêm hàng trăm nhà thờ và giáo xứ rải khắp hai bên đường ở Hố Nai, Gia Kiệm, Dốc Mơ, Bảo Lộc.
Quan hệ giữa chính quyền với người Công Giáo trong nước và với Tòa Thánh Rôma Tại miền Bắc
Ở miền Bắc, các nhà thờ vẫn được mở cửa, các linh mục vẫn được cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích. Nhưng không nơi nào được mở chủng viện để đào tạo linh mục.
Năm 1956 Đức Khâm Sứ Tom Dooley bị trục xuất. Mọi quan hệ với Tòa Thánh Rôma và Hội Thánh tại các nước bị cắt đứt. Hội Thánh tại miền Bắc hoàn toàn bị cô lập.
Tại Miền Nam
Người Công Giáo miền Bắc di cư vào miền Nam quy tụ theo các giáo xứ gốc ở miền Bắc nên không gây xáo trộn cho các giáo xứ địa phương, họ vẫn giữ nề nếp tập tục riêng.
Năm 1955 một cuộc trưng cầu dân ý đã truất phế quốc trưởng Bảo Đại, thiết lập chế độ cộng hòa với tổng thống Ngô Đình Diệm.
Ngày 15 tháng 02 năm 1956, Toà Thánh đặt Đức Cha Giuseppe Caprio làm Khâm Sai Toà Thánh tại Việt Nam Cộng Hoà. Quan hệ giữa chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa với người Công Giáo và với Tòa Thánh Roma bình thường cho tới 30/04/1975.
Ngày 6 tháng 8 1975, một nhóm người “nhiệt thành” đã xông vào Tòa Khâm Sứ đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre. Họ bạo hành túm áo Đức Khâm Sứ lôi ra cổng, đuổi xô Đức Khâm Sứ ra đường Hai Bà Trưng và dọn đường cho chính quyền trục xuất Đức Khâm Sứ còn nhanh chóng hơn thời kỳ 1956 tại miền Bắc nữa!
Tuy nhiên quan hệ giữa chính quyền với người Công Giáo và với Tòa Thánh Roma không vì thế mà bế tắc.
Trước ngày 30/04/1975, tiên liệu tình trạng sẽ bế tắc như với Trung Quốc sau năm 1950 và với miền Bắc Việt Nam sau năm 1954, Đức Thánh Cha đã ủy quyền cho các Giám Mục tại miền Nam được chọn và phong chức giám mục, khi thuận tiện sẽ thông báo cho Tòa Thánh sau. Nhưng sự ủy quyền này sớm trở nên không cần thiết, vì năm 1977 đại biểu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã có thể đi dự cuộc họp Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Roma, và năm 1980 các Giám Mục Việt Nam có thể đi viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô tại Roma và gặp Đức Thánh Cha (gọi là cuộc viếng thăm định kỳ “ad limina”, mỗi 5 năm một lần).
Dẫu vậy, quan hệ giữa Nhà Nước Việt Nam với Tòa Thánh còn phải chờ đến năm 1989 mới có chuyển biến: Đức Hồng Y Etchegaray được qua thăm Việt Nam với tư cách Đặc Sứ của Tòa Thánh. Cuộc viếng thăm này đã thật sự mở đường cho một hành trình kéo dài tới nay trong việc thiết lập bang giao giữa Nhà Nước Việt Nam với Tòa Thánh.
Từ năm 1993 bắt đầu có cuộc gặp gỡ định kỳ hàng năm giữa phái đoàn của Tòa Thánh với phái đoàn của Nhà Nước để bàn về các vấn đề liên quan giữa hai bên. Cuộc họp này diễn ra luân phiên tại Hà Nội và tại Roma.
Từ năm 2009 thì hai phái đoàn được gọi là hai “ban chuyên môn” để bàn về quan hệ giữa Tòa Thánh với Nhà Nước Việt Nam.
Năm 2011 có chuyển biến quan trọng là Tòa Thánh được cử một vị “Đại Diện thường trực không thường trú”, có thể ở tại Việt nam mỗi lần 30 ngày, không giới hạn số lần, hết 30 ngày thì ra khỏi Việt Nam, để hôm sau lại có thể trở lại.
Năm 2024 có bước chuyển biến mới là Vị Đại Diện thường trực thường trú tại Việt Nam. Với chức danh này thì Vị Đại Diện thường trực có thể làm tất cả công việc của một Sứ thần Tòa Thánh rồi.
Những cột mốc đáng kể nữa là các cuộc viếng thăm Vatican của thủ tướng chính phủ Việt Nam, Chủ Tịch Nước, Bí Thư Đảng, và cả các phái đoàn khác của chính phủ.
Điều gì còn chặn bước việc tiến tới trao đổi Đại Sứ và Sứ Thần Tòa Thánh?
Bao giờ Đức Thánh Cha có thể viếng thăm Việt Nam như các nước khác ở Châu Á Thái Bình Dương?
Những câu hỏi hãy còn mở ngỏ…
Jos. Nguyễn Công Đoan, SJ

Với chủ đề “Những Người Lữ Hành Hy Vọng”, Năm Thánh gióng lên một hồi chuông tha thiết, kêu gọi mỗi người bước vào hành trình hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, và với nhau.
Hành trình của những người lữ hành hy vọng luôn phải băng ngang qua chặng đường của tha thứ và hoà giải. Người lữ hành hy vọng là người có khả năng hướng đến tương lai, chứ không để cho đời mình bị cột chặt vào những đổ vỡ đã xảy ra trong quá khứ.
Mang theo Thập Giá của đời mình, với vô vàn câu chuyện có thể đẫm đầy máu và nước mắt những người lữ hành bước vào cửa Thánh, để mở ra với chân trời thênh thang của hy vọng. Họ mở rộng những cánh cửa đã đóng kín trong chính tâm hồn mình, để tha thứ và đón nhận ơn tha thứ; để đón nhận người khác như chính mình đã được đón nhận, để được chữa lành và có thể ra đi làm những người chữa lành.
“Năm thứ năm mươi là Năm Thánh. Các ngươi hãy công bố lệnh ân xá cho toàn xứ và cho tất cả mọi người” (Lv 25,10).
Với người Việt ở khắp nơi trên thế giới, năm 2025 đánh dấu cột mốc năm mươi năm sau biến cố 1975. Sau 50 năm sống với gánh nặng của bất hoà và đổ vỡ, mất mát và đau thương… việc cử hành Năm Thánh trong Giáo Hội là dịp vô cùng thuận lợi để đồng bào người Việt hướng đến một tương lai bình an và mang nhiều màu sắc hy vọng hơn, cho chính mình và cho cả thế hệ con cháu của mình.
Ngang qua mọi thăng trầm đau khổ, những người có đức tin sẽ nhận ra rằng chính Chúa mới là chủ của mọi dòng lịch sử. Chính sự quan phòng của Thiên Chúa là cội nguồn của mọi niềm hy vọng. Với người Việt, dù sống trên đất nước Việt Nam hay ở khắp nơi trên thế giới, 50 năm là dịp đáng để nhìn lại, để suy gẫm, để tạ ơn, và để cho những vết thương của mình được chữa lành. Năm Thánh là cơ hội để những con người cùng dòng máu và nguồn cội có thể trao cho nhau sự tin tưởng và cùng hướng đến một tương lai hy vọng, cho chính mình và cho cả thế hệ con cháu.
Có lẽ phim tài liệu này phỏng vấn và có nguồn tư liệu về người Việt từ nhiều nước thuộc nhiều châu lục nhất từ trước đến giờ trong số các loại phim của Việt Nam.
Vatican News Tiếng Việt xin trân trọng giới thiệu với quý vị và các bạn phim tài liệu Lữ Hành và Hy Vọng.
Nguồn: VATICAN NEWS TIẾNG VIỆT
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tiến hành Hội nghị thường niên kỳ I năm 2025, tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Huế, từ chiều 21 đến ngày 25/4/2025. Sau đây là nguyên văn Biên bản Hội nghị.
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
HỘI NGHỊ THƯỜNG NIÊN KỲ I NĂM 2025
(21/4 - 25/4/2025)
BIÊN BẢN
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tiến hành Hội nghị thường niên kỳ I năm 2025, tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Huế, từ chiều 21 đến ngày 25/4/2025. Tham dự Hội nghị có đầy đủ 32 Giám mục đang phục vụ 27 giáo phận tại Việt Nam, cùng với sự hiện diện của Đức Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn và Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng.
Hội nghị lần này đã diễn ra trong tâm tình hiệp thông và cầu nguyện cách riêng cho Đức Thánh Cha Phanxicô mới về Nhà Cha. Hội đồng Giám mục đã dành phút tưởng niệm, cầu nguyện, dâng thánh lễ và gửi các thông báo để hướng dẫn cộng đoàn dân Chúa tại Việt Nam hiệp thông cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô.
Hội đồng Giám mục hân hoan chào đón Đức cha Giuse Vũ Công Viện, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội; Đức cha tân cử Phaolô Nguyễn Quang Đĩnh, Giám mục phụ tá Giáo phận Hưng Hoá tham dự Hội nghị lần đầu.
Hội đồng Giám mục chào đón Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski, Đại diện Toà Thánh thường trú tại Việt Nam và lắng nghe ngài chia sẻ một số công việc liên hệ với Toà Thánh và những thông tin về lễ An Táng Đức Thánh Cha Phanxicô.
Hội nghị cũng chào đón cha Vincent Sénéchal, Bề trên Tổng quyền Hội Thừa sai Paris (MEP). Cha Vincent bày tỏ lòng biết ơn Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đặt Bia Tri ân tại Trụ sở chính của Hội Thừa sai ngày 15/12/2024, và trình bày những hoạt động Loan báo Tin Mừng mà Hội đang thực hiện.
Trong Hội nghị lần này, Hội đồng Giám mục đã:
1. Lắng nghe chia sẻ về Văn kiện Chung kết Đại hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục và cùng thảo luận việc xây dựng Hội Thánh hiệp hành tại Việt Nam;
2. Biểu quyết và trao cho Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục giáo phận Phan Thiết, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, làm Trưởng Tiểu ban Hiệp hành trực thuộc Hội đồng Giám mục;
3. Lắng nghe Uỷ ban Loan báo Tin Mừng trình bày chương trình đào tạo Tác viên Tin Mừng phục vụ cho công cuộc Loan báo Tin Mừng từ nay đến năm 2033, kỷ niệm 500 năm Tin Mừng đến Việt Nam;
4. Lắng nghe Uỷ ban Phụng tự phổ biến sắc lệnh về Kỷ luật liên quan đến các ý chỉ Thánh lễ do Bộ Giáo sĩ ban hành ngày 13/4/2025;
5. Thảo luận, hoàn chỉnh và biểu quyết về một số điều trong bản Qui chế Hội đồng Giám mục Việt Nam;
6. Lắng nghe và thảo luận về Văn bản hướng dẫn việc Tôn kính tổ tiên của Uỷ ban Văn hoá và Uỷ ban Giáo lý Đức tin;
7. Lắng nghe và trao đổi về các nội dung:
- Định hướng mục vụ cho ba năm kế tiếp để xây dựng Hội Thánh hiệp hành và Loan báo Tin Mừng;
- Soạn thảo Niên giám của Giáo Hội Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập Hàng giáo phẩm Việt Nam (24/11/1960 - 24/11/2025);
- Khởi công xây dựng cơ sở của Học viện Công Giáo Việt Nam vào ngày 31/5/2025.
Hội đồng Giám mục ấn định Đại hội lần thứ XVI sẽ được tổ chức từ ngày 06 đến ngày 10/10/2025 tại Toà Giám mục Đà Lạt.
Hội nghị kết thúc bằng cuộc hành hương kính viếng Đức Mẹ La Vang, sau đó hiệp thông cùng Tống Giáo phận Huế trong ngày khánh thành, làm phép Toà Tổng Giám mục và Trung tâm Mục vụ.
Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Huế, ngày 25/4/2025
TM. Hội đồng Giám mục Việt Nam
Tổng Thư ký
(đã ấn ký)
+ Giuse Đỗ Mạnh Hùng
Giám mục Giáo phận Phan Thiết

Hồng Thủy - Vatican News
Phái đoàn của Hội đồng Giám mục Việt Nam gồm có Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Tổng Thư ký; Đức cha Luy Nguyễn Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký; Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Chủ tịch Uỷ ban Phụng tự; Cha Giuse Đào Nguyên Vũ, Chánh Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam; và Cha Gioan Đinh Công Lịch, Chủ tịch Liên Tu sĩ Việt Nam tại Roma.
Do thủ tục thị thực, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, không đến Roma kịp để kính viếng Đức Thánh Cha, nhưng ngài sẽ có thể hiện diện trong Thánh lễ an táng Đức Thánh Cha vào sáng thứ Bảy ngày 26/4/2025.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã về Nhà Cha trên trời vào lúc 7:35 sáng giờ Roma ngày 21/4/2025, thứ Hai sau Chúa Nhật Phục Sinh.
Từ khi Đức Thánh Cha qua đời, Giáo hội Việt Nam đã hiệp lòng cầu nguyện cho ngài được an nghỉ trong vòng tay yêu thương của Chúa Cha.
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gửi thông báo cho biết Giáo hội tại Việt Nam sẽ cùng cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho Đức cố Giáo hoàng vào các ngày
1. Thứ Bảy ngày 26/4/2025: các giáo xứ sẽ dâng Thánh lễ với bản lễ ngày Thứ Bảy tuần Bát Nhật Phục Sinh với ý cầu nguyện cho Đức cố Giáo hoàng Phanxicô;
2. Thứ Hai ngày 28/4/2025: các giáo xứ sẽ dâng Thánh lễ cầu cho tín hữu đã qua đời với bản lễ Cầu cho Đức Giáo hoàng.
Ngày 23/4, Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên đã chủ sự Thánh lễ sau Phụng vụ Giờ Kinh Sáng lúc 5g30. Thánh lễ Ngày Thứ Tư Tuần Bát Nhật Phục Sinh, cùng với toàn thể Giáo hội tại Việt Nam đổ chuông báo tử và tưởng niệm Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM) đã cầu nguyện cho Đức cố Giáo Hoàng và cầu xin thánh Giuse, bổn mạng Giáo hội Việt Nam, chuyển cầu cho Hội nghị.
Trong phiên họp đầu ngày, Hội nghị đã mừng đón Đức Tổng Giám mục (TGM) Marek Zalewski, Đại diện thường trú của Toà Thánh tại Việt Nam đến tham dự Hội nghị. Đức TGM Zalewski đã thông tin một số công việc thường xuyên cần cập nhật, chương trình tang lễ của Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô và địa chỉ tiếp nhận điện thư phân ưu của Văn phòng Đại diện thường trú tại Viêt Nam tại địa chỉ
Trong ba phiên họp còn lại trong ngày, quý Đức Cha đã nghe trình bày, cùng thảo luận và đón nhận các chia sẻ mục vụ, chương trình loan báo Tin Mừng và đào tạo. Đức Cha Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh đã trình bày một số vấn đề liên quan đến quy chế và giáo luật; Đức TGM Giuse Đặng Đức Ngân, Chủ tịch Uỷ ban Văn hoá HĐGM trình bày tài liệu Hướng dẫn việc tôn kính tổ tiên (bản hiệu đính ngày 20/3/2025). Hội đồng Giám mục cũng biểu quyết và ấn định Đại hội lần thứ XVI của HĐGM sẽ được tổ chức tại Toà Giám mục Đà Lạt từ ngày 6 đến 10 tháng 10 năm nay.
Trong ngày hôm nay, HĐGM đã nhận được Thư phân ưu của Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Tổng Lãnh sự quán Liên bang Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Bộ Dân tộc và Tôn giáo chia sẻ và tưởng nhớ Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô.
Ngày làm việc kết thúc với cử hành Chầu Thánh Thể và phụng vụ Giờ Kinh Tối.
Bài viết: Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ
Sáng 22 tháng 4, Hội nghị thường niên kỳ I/2025 của Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM) được bắt đầu với cử hành Phụng vụ Giờ Kinh Sáng lúc 5g30; sau đó, Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã chủ sự Thánh lễ Ngày Thứ Ba Tuần Bát Nhật Phục Sinh.
Mở đầu phiên họp thứ nhất lúc 8 giờ, Hội nghị đã lắng nghe Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng, Chủ tịch HĐGM chia sẻ một số thông tin về quản trị và mục vụ; Đức Cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Tổng Thư ký đã sơ lược chương trình và nội dung của Hội nghị lần này. Hội nghị đã dành thời lượng lớn của 4 phiên họp trong ngày làm việc đầu tiên để tiếp thu các nội dung từ “Tài liệu chung kết của Đại hội thường lệ lần thứ XVI Thượng Hội đồng Giám mục” và nghe phúc trình của hai Đức Cha tham dự tiến trình SYNOD: Đức Cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng và Đức Cha Luy Nguyễn Anh Tuấn. Hội nghị cũng bàn thảo một số hướng dẫn và các đề nghị thực hành hậu-SYNOD của Liên Hội đồng Giám mục châu Á (FABC) dành cho Giáo hội địa phương. Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn cũng trình bày và giải thích về sắc lệnh liên quan đến các ý chỉ Thánh lễ do Bộ Giáo sĩ đệ trình Đức Thánh Cha Phanxicô “chuẩn y sắc lệnh này theo cách đặc biệt” và đã công bố vào Chúa nhật Lễ Lá ngày 13 tháng 4 vừa qua.
Trong phiên họp thứ tư, ngay sau khi Toà Thánh thông báo tổ chức Thánh lễ an táng Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô vào lúc 10 giờ sáng ngày 26 tháng 4, Đức Tổng Chủ tịch HĐGM đã cập nhật thông tin với toàn thể Hội nghị. Cùng với các nội dung sinh hoạt sắp tới tại Vatican, Đức Cha Tổng Thư ký HĐGM cũng thông báo về chương trình đặt và làm phép tượng đài Đức Mẹ La Vang tại Vườn Vatican để ghi niệm 65 năm thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Lúc 20 giờ, Hội nghị đã quy tụ trong Nhà Nguyện Trung tâm Mục vụ để cử hành Chầu Thánh Thể do Đức Cha Đaminh Nguyễn Tuấn Anh chủ sự trước khi tham dự Phụng vụ Giờ Kinh Tối. Sau đó, quý Đức Cha chia nhóm họp theo Giáo tỉnh và kết thúc ngày làm việc.
Bài viết: Linh mục Giuse Đào Nguyên VũChiều Thứ Hai Tuần Bát Nhật Phục Sinh, ngày 21 tháng 4 năm 2025, toàn thể Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM) đã quy tụ tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Huế để khai mạc Hội nghị thường niên kỳ I/2025. Cũng chiều hôm nay, Toà Thánh loan tin Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã về Nhà Cha lúc 7g35 (giờ Roma – 12g45 giờ Việt Nam). Trước khi đại diện các thành phần Dân Chúa của Tổng Giáo phận Huế chào mừng HĐGM khai mạc Hội nghị, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Tổng Giám Mục Huế, đã cử hành phút tưởng niệm Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô.
Vào lúc 20g15, tất cả các vị Chủ chăn của 27 giáo phận, cùng với Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Đức Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng và quý Cha Ban Thư ký, đã cử hành Chầu Thánh Thể và Phụng vụ Giờ Kinh Tối. Tối hôm nay, di ảnh của Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô đã được đặt trang trọng gần Cung Thánh của Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Huế. Uỷ ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã phổ biến “Lưu ý Phụng vụ trong thời gian Tông Toà trống ngôi”. HĐGM cũng sẽ thông báo đến toàn thể Dân Chúa về biến cố này.
Hội nghị thường niên diễn ra từ ngày 21 đến 25 tháng 4 tại Trung tâm Mục vụ - Toà Tổng Giám mục Huế. Ngay sau Hội nghị, đoàn đại diện HĐGM sẽ đi Roma để tham dự lễ tang của Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô. Theo chương trình làm việc đã chuẩn bị từ cuối năm ngoái, Ban Thường vụ HĐGM đã có lịch được Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiếp kiến vào sáng ngày 28/4 và các buổi làm việc với các Bộ, Cơ quan tại Toà Thánh từ 28/4 đến ngày 3/5.
Xin cộng đoàn Dân Chúa cùng với HĐGM cầu nguyện cho Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô và cũng cầu nguyện cho Hội nghị được đầy ơn Chúa Thánh Thần.
Bài viết: Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ
ỦY BAN GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
trực thuộc
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
THƯ GỬI SINH VIÊN, HỌC SINH CÔNG GIÁO
NHÂN DỊP MỪNG LỄ CHÚA PHỤC SINH 2025
Các con thân mến,
Trong Sứ Điệp Mùa Chay năm 2025 của Đức Thánh Cha Phanxicô với chủ đề: “Chúng ta hãy cùng nhau bước đi trong hy vọng”, cha đọc thấy nơi những lời mở đầu một đoạn như sau: “Chúa Giêsu Kitô, đã chịu đóng đinh và sống lại, là trung tâm đức tin của chúng ta và là bảo đảm cho niềm hy vọng của chúng ta vào lời hứa trọng đại của Chúa Cha, lời hứa đã được thực hiện nơi Con yêu dấu của Người: sự sống đời đời (x. Ga 10,28; 17,3)” (x. Tông thư Dilexit nos (24/10/2024), 220). Những lời này xác định Chúa Giêsu Kitô Phục sinh là nền tảng trọng tâm của đức tin Kitô giáo chúng ta.
Hành trình thiêng liêng của Mùa Chay thánh sắp kết thúc, chúng ta đang chuẩn bị long trọng cử hành các nghi thức tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Cùng bước đi với Giáo hội trong những ngày trọng đại này, cha muốn chia sẻ với các con một vài ý tưởng mà cha đọc thấy nơi những suy tư về mầu nhiệm mà chúng ta sốt sắng cử hành trong ít ngày sắp tới: Mầu Nhiệm Phục Sinh.
1. Chúa Kitô phục sinh đối với sự sống của thân xác.
Theo Lịch Phụng Vụ Giáo Hội Công Giáo, Tam Nhật Vượt Qua bắt đầu với Thánh lễ tưởng niệm Bữa Tiệc Ly của Chúa và sẽ kết thúc bằng giờ Kinh Chiều Chúa Nhật Phục Sinh. Đó là diễn biến để chào mừng sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Phục sinh là sự vinh quang của Đấng Mêsia. Như Đức Thánh Cha nói Chúa Giêsu Kitô đã sống lại, đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta. Biến cố Phục sinh này không được chứng minh bởi những kiểm chứng khoa học, nhưng nó được bảo đảm bởi các nhân chứng về những lần Chúa Phục sinh hiện ra (x. Mc 16, 9-20; Mt 28: 9-20; Lc 24: 13 -53; Ga 20: 11 -23; Cv 1:6-11). Từ đó, ta có thể nói rằng: với các Kitô hữu, Chúa Giêsu sống lại là một niềm tin, nhưng với các Tông đồ, đó luôn là một sự thật.
Trong niềm vui ấy, thật ý nghĩa khi hiểu thêm rằng, tiếng chuông của đêm vọng Phục sinh cũng chào đón cả những người đã và đang sống lại trong ân sủng của Bí tích Rửa tội mà họ đã lãnh nhận, dấu chỉ hữu hình cho một người sẽ quyết tâm chết cho con người cũ và sống lại con người mới cùng với Chúa Phục sinh: “Anh em đã chỗi dậy cùng Đức Kitô, thì hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (x. Cl 3, 1-2).
2. Chúa Kitô phục sinh đối với sự sống danh dự.
Chúa chúng ta phục sinh đã hình thành nên một niềm danh dự rất lớn trong đời sống Kitô giáo. Về điều này, cha đã chia sẻ ở những năm trước. - Năm 2023, danh dự ngôi mộ của Chúa chúng ta. Ngôi mộ của một người bị đóng đinh trên thập giá là trung tâm, là điểm hành hương hằng năm cho hàng triệu người trên thế giới… - Năm 2024, danh dự từ cây Thánh giá của Đấng Phục sinh. Thánh giá có mặt ở khắp nơi, Thánh giá trên đỉnh các Nhà thờ. Thánh giá trở nên một sức mạnh phi thường cho các Thánh tử đạo…
Năm nay 2025, cha muốn chia sẻ với các con một niềm danh dự khác, đó là sự ảnh hưởng của Chúa Phục sinh lan rộng trong nhiều lãnh vực khác nhau. Ảnh hưởng trong tư tưởng, trong những tác phẩm văn học nghệ thuật tôn giáo, trong những phong tục tập quán của nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Ảnh hưởng ngay cả trên những người khẳng định không phụ thuộc vào Ngài, vẫn còn sống xa Ngài, những người tấn công Ngài, nhưng vẫn tôn vinh Ngài theo cách riêng của họ cho dù chúng ta không thấy bên ngoài.
Là người Kitô hữu, chúng ta hãy nâng cao danh dự của Chúa Phục sinh. Chúng ta hãy để Ngài ngự trị trên chúng ta, xung quanh chúng ta. Chỉ có Ngài mới có phương thuốc chữa trị các bệnh tật tội lỗi của chúng ta. Ánh sáng Phục sinh đã mang lại niềm an ủi và hy vọng, sức mạnh và sự phấn đấu, chữa lành và phục hồi cho những ai đặt niềm tin vào Chúa.
3. Chúa Kitô phục sinh đối với sự sống của trái tim.
Trái tim của con người đối với Chúa Kitô Phục sinh dẫn chúng ta đến những câu hỏi “Tại sao”: - Tại sao lại có những người vui mừng bỏ hết mọi sự để trở thành những bậc chân tu nghèo khó trong Giáo hội? - Tạo sao lại có những người can đảm nhận lấy sự chết nơi những bản án tử đạo đầy khắc nghiệt vì tin vào Chúa Kitô Phục sinh? Chỉ có duy nhất một câu trả lời. Đó là tình yêu dành cho Chúa Kitô Phục sinh. Cha muốn chia sẻ thêm một câu chuyện mang tựa đề Dù sao cũng…Alleluia, với những trích đoạn như sau: “…. Khi bạn nhận được lá thư này thì tôi đã ở trong tù rồi. Tôi sẽ ở tù vào ngày 14 tháng này. Đừng quên ngày vinh quang này. Một số người bạn của tôi đã phản bội tôi. Hãy cầu nguyện cho họ và làm việc sám hối thay cho họ. Hầu hết các Giám mục và Linh mục mà bạn biết đều đã bị bắt. Hãy cầu nguyện cho các ngài để các ngài có được lòng can đảm tử đạo. Gia đình là mối quan tâm duy nhất của tôi. Khi cha mẹ tôi đọc thấy tên tôi trên báo, các ngài gặp tôi, quỳ xuống yêu cầu tôi bỏ đạo (bội giáo). Chúa ơi! Lần đầu tiên tôi cảm thấy đau đớn. Đối với bạn và những người anh chị em đã yêu thương tôi rất nhiều, tôi không có gì để lại ngoài tình cảm của mình. Hãy nói với các bạn khác trước khi tôi chết. Bị kết án, tôi thà chấp nhận cái chết tồi tệ nhất trên trần gian còn hơn là cái chết đời đời và sự bội giáo. Hãy hát cùng tôi: Alleluia!”.
Thật cảm kích trước một phản ứng đầy công chính và hợp lý của một Kitô hữu về đức tin và tình yêu dành cho Chúa Kitô Phục sinh. Người nào bị bách hại vì lòng thù hận Chúa Kitô và chết như một vị tử đạo thì chắc chắn sẽ biết được niềm hạnh phúc không thể diễn tả được của sự Phục sinh với Chúa Kitô. Vì vậy, hãy luôn luôn hát... Alleluia!
4. Sự phục sinh của Chúa Giêsu, nền tảng đức tin của chúng ta.
Khi đã trở thành người rao giảng Chúa Phục sinh cho anh chị em mình, Thánh Phaolô xác quyết rằng: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cor 15, 14), vì trong tất cả các phép lạ nhằm chứng minh quyền năng của Thiên Chúa, thì không có một phép lạ nào lớn hơn việc tự mình hồi sinh bằng chính sức mạnh của mình đúng vào kỳ hạn đã tính trước (x. Mc 8, 31). Về vấn đề nầy, Thánh Phêrô trong Thư thứ nhất xác định nền tảng đức tin vào sự phục sinh : “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô.... Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (x. 1 Pr 1, 19-21). Mặc dù Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta những chứng cứ lịch sử về sự kiện cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, sự Sống lại của Ngài, Ngôi mộ trống, những lần hiện ra, các Tông đồ làm chứng, nhưng biến cố này phải luôn được chúng ta đón nhận bằng đức tin, vì nó không thuộc phạm vi khoa học của con người.
Các con thân mến! Ước mong rằng tất cả những điều cha chia sẻ với các con, góp phần tạo nên một niềm vui mới, một niềm hy vọng mới trong đời sống Kitô hữu của mình. Với Chúa Nhật Lễ Lá, và Tuần Thánh chúng ta từng bước đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh. Cha tin rằng chúng ta sẽ nhận được một niềm vui sâu sắc và bình an từ Chúa Phục sinh. Hình ảnh của chiếc neo thật ấn tượng trong Logo của Năm Thánh 2025 luôn nhắc nhở chúng ta rằng: Chúa Kitô Phục sinh sẽ luôn là chiếc neo vững chắc là hướng đi tốt nhất cho hành trình sống đạo của chúng ta. Vậy, trong mọi nơi mọc lúc, dù vui hay buồn, các con hãy luôn là những người sống và thể hiện niềm hy vọng, học cách sống yêu thương và tha thứ như Chúa. Theo tinh thần Sắc chỉ Năm Thánh 2025 “Hy vọng không làm thất vọng” (Rm 5, 5) của Đức Thánh Cha Phanxicô, cha cầu chúc các con và những người thân yêu một cuộc sống tràn ngập niềm vui, tình yêu và niềm hy vọng vào Chúa Phục sinh: Alleluia.
Vĩnh Long, ngày 13 tháng 4 năm 2025.
Phêrô Huỳnh Văn Hai
Giám mục Giáo phận Vĩnh Long
Chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công giáo
ucanews, phóng viên UCA News, 2025-03-05
Chị Đậu Kiều Giang (áo dài trắng), các tân tòng khác và Nữ tu Têrêxa Hồ Thị Vinh, người hướng dẫn. Ảnh chụp ngày 25 tháng 2 tại Giáo xứ Cam Lộ. (Ảnh: UCA News)
Sự cởi mở và yêu thương của cộng đồng công giáo đã giúp một cựu đảng viên Đảng Cộng sản tìm về Giáo Hội.
Vào một ngày cuối tháng hai, tại Giáo xứ Cam Lộ, cùng các tân tòng khác trong tà áo dài trắng, chị Đậu Kiều Giang chụp hình bên cạnh Nữ tu Têrêxa Hồ Thị Vinh, nữ tu đã đồng hành và hướng dẫn họ trên hành trình đức tin. Hình ảnh này là minh chứng sống động của câu chuyện cảm động trên hành trình tìm về với Chúa của một cựu đảng viên Đảng Cộng sản.
Chị Đậu Kiều Giang là người vô thần, chị chuẩn bị lãnh nhận bí tích rửa tội trong Đêm Vọng Phục Sinh tại một giáo xứ của tỉnh Quảng Trị. Hành trình này bắt đầu từ giây phút đặc biệt năm 2021 khi chị chăm sóc các bệnh nhân bị Covid tại một bệnh viện công ở tỉnh Quảng Bình.
Trong những ngày tháng chống chọi với đại dịch, chị chăm sóc một em bé 5 tuổi đang trong tình trạng nguy kịch, em phải cách ly hoàn toàn. Một hôm, mẹ của em là chị Lucia Vũ Thanh Nhàn tha thiết xin Nữ tu rửa tội cho con mình. Chị kể: “Nữ tu giải thích chỉ cần đổ nước lên trán con, làm dấu thánh giá và đọc: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, mẹ rửa tội cho con.”
Lúc đó chị còn là đảng viên, chị từ chối ngay lập tức. Chị nói với trang USA news: “Lúc đó tôi nghĩ đây là chuyện mê tín. Nhưng tâm hồn tôi đau nhói khi thấy đứa bé vật lộn với từng hơi thở, lòng tôi nhói lên một nỗi xót xa khó tả. Tôi nghĩ đứa bé đang mơ thấy mẹ đang ở bên cạnh vỗ về, an ủi mình. Và tôi quyết định làm theo lời khẩn cầu của người mẹ, hy vọng có thể mang lại chút bình an cho em bé trong giây phút sinh tử này.”
Ngay khi vừa đổ nước và làm dấu thánh giá trên trán em bé, chị bị người giám sát bắt gặp.
Dù Giáo luật (Điều 861) cho phép bất kỳ ai có ý hướng ngay lành được làm phép rửa tội trong trường hợp cấp bách, nhưng ban quản lý bệnh viện “khép chị vào tội lợi dụng chức vụ để truyền bá mê tín. Họ không chấp nhận lời giải thích của tôi, tôi chỉ muốn an ủi em bé và gia đình.”
Khi đại dịch kết thúc năm 2022, bệnh viện thuyên chuyển nữ tu đến một bệnh xá xa xôi gần biên giới Lào. Một hình thức kỷ luật được ngụy trang dưới danh nghĩa điều động công tác.
Để đến nơi làm việc mới, chị phải đi xe máy hơn 100 cây số đường núi non hiểm trở. Cuộc sống thiếu thốn và khí hậu lạnh triền miên làm chị kiệt sức. Sau vài tháng, chị bỏ công việc điều dưỡng.
Sau khi bỏ việc, chị về Đông Hà làm ở tiệm giặt ủi. Nhưng sau hai tháng không được trả lương, chị lại rơi vào cảnh thất nghiệp. Cũng trong thời gian này, chị quyết định ra khỏi Đảng Cộng sản, khép lại một chương cũ của cuộc đời.
Một ngày nọ, trong một đám cưới, chị bất ngờ gặp lại gia đình em bé năm xưa. Biết được hoàn cảnh khó khăn của chị, họ giúp chị mở một cửa hàng mỹ phẩm nhỏ để sinh sống.
Chị Nhàn, mẹ của em bé chia sẻ: “Tôi muốn đền đáp những gì Giang đã làm cho con trai tôi. Giang đã phải chịu nhiều mất mát, bị sỉ nhục, bị trừng phạt, bị mất việc chỉ vì Giang đã rửa tội cho con tôi. Tôi không thể để Giang một mình.”
Nhanh chóng một tình bạn giữa hai người được nảy sinh. Chị Nhàn giải thích cho chị Giang hiểu về đức tin công giáo và sự khác biệt giữa đạo công giáo và các giáo phái kitô khác, chị hướng dẫn giáo lý cho chị Giang.
Những lời chia sẻ chân thành đã khơi dậy trong tâm hồn chị Giang một khao khát tìm hiểu đức tin: “Tôi quyết định tìm hiểu và bắt đầu học giáo lý.”
Tháng 12 năm 2024, chị theo học khóa giáo lý năm tháng do các nữ tu địa phương hướng dẫn. Cùng với bốn dự tòng khác, học giáo lý công giáo, đạo đức và lịch sử cứu độ.
Sr Têrêxa Vinh, người trực tiếp hướng dẫn chị, nhận xét: “Chị Giang học thuộc nhiều lời cầu nguyện và luôn khao khát đọc Kinh Thánh. Chị tràn đầy niềm vui, tích cực tham gia các buổi cầu nguyện và chầu Thánh Thể.”
Đêm Vọng Phục Sinh sắp tới, chị Giang sẽ lãnh nhận Bí tích Rửa tội tại Nhà thờ Giáo xứ Cam Lộ, chị Nhàn là mẹ đỡ đầu. Chị Giang xúc động nói: “Tấm lòng bao dung và sự giúp đỡ vô điều kiện của các giáo dân công giáo đã chạm đến trái tim tôi. Họ dạy tôi, khi chúng ta giúp người đang gặp khó khăn là chúng ta đang giúp chính Chúa.”
Cảm nhận sâu sắc về đức tin, chị nói thêm: “Tôi trải nghiệm được Chúa luôn hiện diện trong trái tim tôi, hướng dẫn tôi làm việc tốt, tha thứ và sống trong bình an.”
Nhưng chị vẫn chưa nói cha mẹ về quyết định này. Chị sợ việc công khai đức tin sẽ làm gia đình bị sốc. Nhưng với một niềm tin mạnh mẽ, chị khẳng định: “Tôi tin rằng nếu Chúa đã đưa tôi đến với Giáo hội, thì Ngài cũng sẽ tìm cách để dẫn dắt gia đình tôi đến gần Ngài hơn.”
Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch
Nguồn: phanxico.vn