Biến cố trong tháng
JOHN F. KERRY, "CHA GHẺ" của Cộng Sản Bắc Việt, đã bị đương kim tổng thống GEORGE BUSH "QUẬT NGÃ" trên chính trường
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
HOA KỲ: Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ ngày 2.11.2004 đã diễn ra thật sôi nổi. Đây là một trong các cuộc bầu cử tốn tiền nhất thế giới. Theo đài truyền hình BBC và CNN thì Ứng Cử Viên (ỨCV) George Bush đã quyên góp được trên 272.573.444 Mỹ-kim và John Kerry được 249.305.109 Mỹ-kim. Chỉ trong tuần chót trước ngày bầu cử các ỨCV đã quảng cáo 43.256 lần trên hệ thống truyền thông. Đây cũng là cuộc tranh cử gay go nhất, mà trước ngày dân đi bầu, người ta không thể nhận định chính xác được ai sẽ thắng cử. Các cuộc thăm dò dư luận tại Hoa Kỳ cho thấy tỉ lệ ủng hộ và chống đối giữa hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ không chênh lệnh nhau bao nhiêu.
Đối với thế giới thì đa số các chính trị gia, đặc biệt phần lớn các nhà lãnh đạo các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu, đều muốn John Kerry thắng cử. Theo cuộc thăm dò 113.000 người thuộc 119 quốc gia khác nhau của tổ chức bầu cử quốc tế năm 2004 (www.globalvote2004.org), kết quả cho thấy có 77% bầu cho John Kerry. Nếu lấy Đan Mạch làm ví dụ và theo kết quả thăm dò ý dân thì có trên 70% dân chúng thích bầu cho John Kerry.
Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan trước 50 ngày bầu cử đã trực tiếp lên án TT. George Bush về cuộc xâm lăng Iraq là bất hợp pháp. Ông ta cũng cảnh cáo Hoa Kỳ cần tôn trọng luật pháp quốc tế về chủ quyền của một quốc gia trước Đại Hội Đồng LHQ, họp ngày 15.9.2004. Cựu tổng thống Bill Clinton trước ngày bầu cử đã vận động quyên tiền cho quỹ tranh cử và sau khi giải phẫu đã hết mình hỗ trợ John Kerryï. Nhà tỷ phú George Soros đã chi hàng triệu Đô-la cho tổ chức MoveOn.org để đánh bại Bush. Các danh ca và ban nhạc nổi tiếng như: Bruce Springsteen, R.E.M, The Dixie Chicks, Pearl Jam, Eminem đã lợi dụng âm nhạc xen vào chính trị chống lại Bush. Đạo diễn Michael Moores muốn hạ bệ Bush qua việc thực hiện và phổ biến phim "Farenheit 6.11" nhằm vạch ra các yếu điểm của TT. Bush trong thời gian cầm quyền, và vào tuần chót trước ngày bầu cử, nhật báo có uy tín lớn nhất ở Mỹ, tờ Washington Post, cũng đã công khai ủng hộ John Kerry. Có thể nói "phần lớn thế giới" không thích George Bush!
Nhưng tại sao John F. Kerry vẫn bị thất cử?
Để trả lời cho thắc mắc này, chúng tôi xin trình bày một số dữ kiện sau đây:
I- ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ
Ứng Cử Viên (ƯCV) Tổng thống Mỹ, Thượng Nghị Sĩ (TNS) John Kerry tên thực là John Forbes Kerry, sinh ngày 11.12.1943 tại bệnh viện quân đội Fitzsimmons ở Denver, Tiểu bang Colorado, Hoa Kỳ. Ông đậu cử nhân tại đại học Yale năm 1966; sau đó tiếp tục đậu cử nhân luật tại đại học Boston năm 1976. Về quân sự: từ năm 1966 tới 1970, ông phục vụ trong quân chủng Hải quân và lực lượng trừ bị của Hải quân từ 1972-1978. Về dân sự: ông từng giữ chức vụ phụ tá luật sư tại quận Middlesex năm 1977-1979 và trở thành luật sư năm 1979-1982. Từ năm 1982- 84 ông là đại diện Thống đốc Massachusetts và đắc cử Nghị sĩ năm 84.
Về gia đình: ngày 23.5.1970, tại Philadelphia, John Kerry kết hôn lần thứ nhất với Julia Thorne, sinh được hai con gái tên Alexandra và Vanessa. Năm 1988, Kerry và Julia rơi vào tình trạng "cơm không ngon, canh không ngọt" nên kéo nhau ra tòa ly dị. Ngày 26.5.1995, tại Nantucket, John Kerry kết hôn lần thứ hai với Teresa Heinz, người phụ nữ đã một đời chồng và có ba con trai, sau khi nhà cầm quyền tuyên bố là Kerry đã xin phép Giáo hội Công giáo hủy bỏ cuộc kết hôn 18 năm về trước.
II- NGUYÊN TẮC BẦU CỬ CỦA HOA KỲ
Đi sâu vào vấn đề bầu cử của dân Mỹ, ai cũng công nhận rằng, Hoa Kỳ là một trong những quốc gia có nền dân chủ kỳ cựu nhất; nhưng luật bầu cử lại không giống các nước Tây Phương. Theo luật, cuộc bầu cử tổng thống sẽ diễn ra bốn năm một lần, vào ngày thứ ba, sau ngày thứ hai đầu tiên của tháng mười một. Tân Tổng thống, theo điều 20 của hiến pháp, sẽ nhậm chức vào trưa ngày 20 tháng 1 năm sau ngày bầu cử. Lương của tổng thống được ấn định là 200.000 Đô-la một năm, có đóng thuế và được tiêu xài miễn thuế 100.000 Đô-la cho việc di chuyển và 20.000 Đô-la cho tiệc tùng công cộng.
Về kỹ thuật thì cái rắc rối của luật bầu cử ở chỗ là cử tri không bầu phiếu trực tiếp cho Ứng Cử Viên Tổng thống mà bầu các vị Đại Diện Dân Cử (ĐDDC) của hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủû. Sau đó những người này sẽ trực tiếp bầu tổng thống trong giai đoạn hai. Số phiếu dân bầu tại mỗi tiểu bang sẽ quyết định ỨCV đảng Dân Chủ hay Cộng Hòa thắng toàn bộ số lượng ĐDDC ở tiểu bang đó, chứ không có chuyện chia số lượng này theo tỷ lệ số phiếu dân đã bầu.
Ví dụ: Tiểu bang IOWA có 7 ĐDDC
-TT.Bush được: 745.713 phiếu (50%)
-John Kerry được: 732.479 phiếu (49%)
TT. Bush chỉ hơn Kerry 13.234 phiếu, nhưng được hết 7 ĐDDC của tiểu bang này.
Ngoài ra, khi đi sâu vào vấn đề, người ta nhận ra cái khôi hài trong cuộc bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ là: "một ƯCV đạt được số phiếu nhiều hơn đối thủ không hẳn đã thắng cử."
Cựu Phó Tổng thống Al Gore thất cử năm 2.000 là một bằng chứng điển hình. Al Gore thắng George Bush trên toàn quốc hơn 500.000 phiếu mà vẫn thất cử. Lý do: tại tiểu bang quyết định cuối cùng Florida Al Gore chỉ thua George Bush có hơn 500 phiếu, nhưng mất tới 27 ĐDDC. Nhờ thế George Bush đã thắng cử.
* Theo luật bầu cử của Hoa Kỳ thì ỨCV nào đạt được nhiều Đại Diện Dân Cử trên toàn quốc hơn đối thủ sẽ thắng, chứ không phải tùy thuộc vào số lượng phiếu đạt được nhiều hay ít.
III- KẾT QUẢ BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ NĂM 2004
Kết quả của cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2004 trên toàn quốc tính đến ngày 4.11.2004 được ghi nhận như sau:
-TNS John F. Kerry được:
55.577.584 phiếu (48%) và 252 ĐDDC - TT. George W. Bush được: 59.117.523 phiếu (51%) và 286 ĐDDC (vì Bush thắng cả ở Iowa (7 ĐDDC) và New mexico (5 ĐDDC).
Tiểu bang quyết định kết quả cuộc bầu cử là Tiểu bang Ohio. Tại sao?
Lý do: Sau khi có kết quả của hầu hết các Tiểu bang, chỉ còn lại 3 Tiểu bang cuối cùng sẽ quyết định sự thắng bại. Đó là Tiểu bang Iowa (7 ĐDDC), New Mexico (5 ĐDDC) và Ohio (20 ĐDDC)
Theo qui định thì ỨCV nào đạt được 270 ĐDDC sẽ thắng cử.
-TT. Bush đạt 254 ĐDDC, nên chỉ cần 16 ĐDDC.
-John Kerry đã đạt 252 ĐDDC, nên chỉ cần 18 ĐDDC.
Hai Tiểu bang Iowa và New Mexico cộng lại chỉ có 12 ĐDDC nên không quan trọng. Ohio là tiểu bang quyết định, vì có 20 ĐDDC đủ tiêu chuẩn cho cả Bush lẫn Kerry. TT. Bush đã thắng cả ở hai tiểu bang Iowa và New Mexico (254 + 12 = 266 DDDC) và kết quả cuối cùng tại Tiểu bang Ohio được ghi nhận như sau:
-TT. Bush đạt được 2.658.108 phiếu (49%), dĩ nhiên được hết 20 ĐDDC và dư tiêu chuẩn thắng cử. (252 + 20 = 274 ĐDDC)
-John Kerry chỉ được: 2.658.108 phiếu (49%) nên không được một ĐDDC nào.
*- So sánh số phiếu trên toàn quốc TT. Bush hơn John Kerry tới mức kỷ lục: 4.539.639 phiếu.
*- So sánh số Đại Diện Dân Cử trên toàn quốc thì TT. Bush hơn John Kerry 34 ĐDDC.
Giả sử John Kerry có thắng thêm 12 ĐDDC ở hai Tiểu bang Iowa và New Mexico vẫn chưa đủ tiêu chuẩn thắng cử (252 + 12 = 264 ĐDDC). Do đó John Kerry đã phải bỏ ý nghĩ đòi kiểm phiếu lại tại Tiểu bang Ohio và chấp nhận thua cuộc.
IV- JOHN F. KERRY THẤT BẠI LÀ NIỀM VUI CHUNG CỦA DÂN VIỆT TỊ NẠN
4.1- Người Việt tại Hoa Kỳ Biểu Tình Chống John Kerry
Phần lớn người Việt tị nạn cộng sản, đặc biệt ở Mỹ, đều không muốn John Kerry thắng cử. Sự kiện này dĩ nhiên phải có những nguyên nhân. Lý do chính yếu mà dân tị nạn và các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chống đối John Kerry là:
-Trong quá khứ ông ta đã thân CSBV, chống chiến tranh VN và cầm đầu nhóm phản chiến;
-Trong thời gian tranh cử ông ta chống lại dự luật lên án CSVN không tôn trọng quyền tự do tôn giáo.
Các cuộc biểu tình của người Việt chống John Kerry đã xẩy ra tại Hoa Kỳ. Hình ảnh dười đây là một chứng minh cụ thể.
4.2- John F. Kerry đã phản bội các chiến sĩ Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa trong chiến tranh Việt Nam.
John Kerry đã trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Việt Nam. Với công trạng giết một VC và bị thương ba lần, Ông ta đã được chính phủ Mỹ tuyên dương và trao tặng ba Chiến Thương Bội Tinh và hai Anh Dũng Bội Tinh. Viện cớ ba lần bị thương, John Kerry xin giải ngũ, trở về hoạt động chính trị và tham gia vào phong trào phản chiến. Người "anh hùng" chống cộng nay trở thành tay phản chiến gộc, cùng với nữ tài tử Jane Fonda biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. Không chỉ thế, John Kerry còn vất huy chương qua hàng rào Tòa Bạch Ốc và trước Thượng Viện Hoa Kỳ; đồng thời tố cáo binh lính Mỹ là tội phạm chiến tranh.
Hành động thân cộng và phản chiến của John Kerry đã giúp cho Công Sản Việt Nam chiến thắng Hoa Kỳ. Sự kiện này đã được tướng VC Võ Nguyên Giáp xác nhận trong tập hồi ký của ông ta.
Theo nhà viết sử chiến tranh Oliver North kể cho đài truyền hình Fox News Channel thì trong quyển hồi ký viết năm 1985 về chiến tranh, Tướng Võ Nguyên Giáp viết rằng, "…nếu không có các tổ chức giống như tổ chức cựu chiến binh Mỹ chống chiến tranh, Hà Nội có thể đã phải đầu hàng Hoa Kỳ!"
Theo các cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại VN thì cái bẩn thỉu của John Kerry là trên bìa sách "Tân chiến binh" (The New Soldier), viết theo lối thân Cộng, đã in một tấm hình của nhóm tồi tệ Kerry có chủ đích bôi lọ Đài kỷ niệm Binh đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Quốc kỳ Mỹ trong hình đã bị nhóm Kerry vẽ ngược đầu! (tượng đài được thực hiện để kỷ niệm quân đội Mỹ chiến thắng Nhật tại hòn đảo chiến lược Iwa Jima trong Đệ II Thế chiến)
Hình ảnh dưới đây chứng minh CSVN biết ơn Kerry như thế nào.
John Kerry gặp gỡ Đỗ Mười, Tổng Bí thư đảng CSVN. Hình chụp nhân dịp John Kerry dẫn đầu phái đoàn Nghĩ sĩ và cựu chiến binh Mỹ sang thăm VN vào ngày 15-18.6.1993. Hình này được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh (the War Remnants Museum) tại Sài Gòn. Trước đây CSVN đặt tên là Bảo Tàng Viện Tội Phạm Chiến Tranh (the War Crimes Museum).
Vì luồn cúi Mỹ nên CSVN cũng đổi lại cái tên bảo tàng viện nêu trên để ông bạn Mỹ nghe đỡ chói tai! Vào tuần chót trước ngày bầu cử TT. Mỹ, theo báo chí ngoại quốc đăng tải, khi biết được John Kerry khó thắng cử, CSVN đã đem cất bức hình trên.
4.3- John Kerry đã nhẫn tâm ủng hộ kẻ chà đạp nhân quyền!
Không chỉ đâm sau lưng các chiến sĩ Mỹ, John Kerry còn cố tình ủng hộ CSVN qua hành động "ngâm tôm" việc đưa Dự Luật Nhân Quyền về VN (HR 2833) lên Quốc hội Mỹ để biểu quyết. Hành động này đi ngược lại với quyết định của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã liệt VN vào một trong 10 quốc gia trên thế giới không tôn trọng tự do tín ngưỡng. Bằng chứng thực tế cho thấy: 354 nhà nguyện Tin Lành của đồng bào sắc tộc Tây nguyên đã bị phá hủy, hơn 50 Mục sư và viên chức cao cấp của Hội thánh Tin Lành đã bị bắt giữ tại tỉnh Đak Lak và nhiều tín đồ biểu tình đòi tự do tôn giáo bị hành hạ, hàng trăm bị giết và bỏ tù vô cớ v.v… Tại sao John Kerry không lên án CSVN?
Đi sâu vào vấn đề, người ta mới hiểu rõ nguyên nhân John Kerry đã làm ngơ trước chính sách đàn áp tôn giáo của nhà cầm quyền CSVN, chỉ vì quyền lợi cá nhân và của thân nhân. John Kerry muốn tiếp tục buôn bán với Hà Nội, đồng thời thân nhân của ông ta là C. Stewart Forbes, giám đốc hành chánh công ty Colliers International muốn được đầu tư tại hải cảng Vũng Tàu một ngân khoản trên 905 triệu Mỹ-kim. Vì thế, nhà sử học Oliver North không ngần ngại phát biểu "Bàn tay John Kerry đã dính máu chiến binh của mình!"
4.4- Là giáo dân Công giáo, nhưng John Kerry đã không tôn trọng Điều Răn Thứ Sáu "Chớ giết người"
Tuy là tín đồ Công giáo, nhưng John Kerry lại ủng hộ phá thai tự do và chấp nhận hai người đồng tính luyến ái kết hôn tùy theo luật lệ của tiểu bang. Không chỉ thế, ông ta còn ủng hộ quyền lợi của nhóm này, kể cả việc nhận con nuôi và cho họ phục vụ công khai trong quân đội.
Theo hãng thông tấn Ritzau thì 72% cử tri nói rằng vấn đề hàng đầu của đa số cử tri Mỹ là một tổng thống phải chứng minh được giá trị đạo đức cao độ. Thống kê cho thấy: cứ mười người Mỹ có sáu người nói rằng tín ngưỡng là vấn đề quan trọng. Tính theo dân số thì có 1/3 số dân tham dự nghi thức phụng vụ của các tôn giáo và 2/3 dân số là tín đồ của các tôn giáo. Đây là một trong các điểm then chốt đưa tới sự thất bại của John Kerry.
4.5- John Kerry lại phản bội các chiến binh Mỹ trên chiến trường Iraq!
Ngày 17.10.2003, John Kerry đã bỏ phiếu chống chương trình tái thiết A Phú Hãn và Iraq. Ngày 17.3.2004, John Kerry lại bỏ phiếu chống ngân khoản 87 tỷ Mỹ-kim dùng để trang bị và bảo vệ quân đội Mỹ đang chiến đấu tại Iraq. Xét về phương diện lãnh đạo, người ta có quyền phê phán hành động của John Kerry chẳng khác gì kẻ "đem con bỏ chợ!" Trong cả hai trường hợp John Kerry tỏ ra là người thiếu khả năng trong vai trò lãnh đạo dân chúng và quân đội Mỹ.
Trên đây là một số lý do chứng minh tại sao đa số cử tri Mỹ nói chung, và dân Việt tị nạn tại Hoa Kỳ nói riêng, không ủng hộ John Kerry.
BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ NĂM 2004 LIỆU TỔNG THỐNG GEORGE W. BUSH CÓ THẮNG CỬ KHÔNG?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
"Huynh đệ chi binh",
TT. Bush tự bưng thức ăn tới binh lính Mỹ trong cuộc viêùng thăm bất ngờ Iraq vào dịp Giáng Sinh 2003
Mỗi khi có cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, hầu như cả thế giới đều chăm chú theo dõi. Lý do: sự thay đổi một tổng thống Mỹ có ảnh hưởng tới cục diện của thế giới. Thực tế cho thấy chính sách của bất cứ tổng thống Mỹ nào cũng nhằm dành quyền lợi tối hậu cho Hoa Kỳ. Cái khác biệt, nói theo quan niệm về kinh tế, thì tổng thống thuộc đảng Cộng Hòa đem lợi về cho Hoa Kỳ bằng sức mạnh của một siêu cường quốc; còn tổng thống thuộc đảng Dân Chủ thì vuốt ve và tỏ vẻ hòa hoãn với các quốc gia khác, kể cả địch thù, theo mánh khóe "mật ngọt chết ruồi!"
Để có nhận định khách quan về cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2004, chúng tôi lần lượt giới thiệu hai ứng cử viên tổng thống. Trong bài này, chúng tôi giới thiệu tổng thống đương nhiệm, George W. Bush
I- ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ
TT. Bush tên thực là George Walker Bush, sinh ngày 6.7.1946, tốt nghiệp đại học Yale (1968) và Harvard (1975). Về binh nghiệp, ông từng phục vụ trong Không Quân Phòng Vệ Quốc Gia (Air National Guard) trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Ông là sáng lập viên công ty dầu hỏa và khí đốt CEO (1975-1987), thành viên trong ban tổng quản trị đội bóng rổ tiểu bang Texas (1989-1998). Thắng cử Thống đốc tiểu bang Texas (1994-2000) và Tổng thống năm 2000. TT. Bush có vợ là Laura và hai người con gái song sinh Jenna (đại học Texas) và Barbara (đại học Yale).
II- SỰ THÀNH CÔNG CỦA TT. BUSH
Qua thành quả của hai cuộc chiến tại A Phú Hãn và Iraq, chính phủ Bush đã tạo được ảnh hưởng trực tiếp đối với các ‘quốc gia sỏ lá’ Iraq, Iran, Bắc Hàn mà TT. Bush đã cảnh cáo sau vụ khủng bố ngày 9.11.2001. Những thành công điển hình gồm:
2.1- Thành công trong chiến tranh chống đạo sĩ độc tài Mohammed Omar của Taliban và phá tan căn cứ địa khủng bố của Osama bin-Laden và Al Qaeda tại A Phú Hãn.
2.2- Thành công trong cuộc chiến lật đổ nhà độc tài Saddam Hussein của Iraq.
2.3- Thành công trong việc cưỡng bức Bắc Hàn chịu ngồi vào bàn hội đàm bốn bên gồm Hoa Kỳ, Nga Sô, Trung Cộng và Bắc Hàn, nhằm thảo luận việc hủy bỏ chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử.
2.4- Thành công trong việc làm áp lực Iran phải cộng tác với toán thanh tra của Cơ Quan Năng Luợïng Nguyên Tử Quốc Tế ‘IAEA’ (International Atom Energy Agency) về việc kiểm soát chương trình phát triển điện năng nguyên tử và kế hoạch chế tạo vũ khí giết người hàng loạt của nước này.
2.5- Thành công trong việc giảm thuế qua quyết định 51-49 của Thượng Viện chấp thuận giảm thuế 350 tỷ Mỹ-kim so với đề nghị của Hạ Viện là 550 tỷ.
2.6- Thành công trong chính sách trường kỳ chống khủng bố, qua các biện pháp cứng rắn gồm:
Thứ nhất: không bao giờ nhượng bộ hay thỏa hiệp với quân khủng bố.
Thứ hai: bằng bất cứ giá nào tìm bắt và đưa quân khủng bố ra trước công lý để đền tội.
Thứ ba: cô lập và gây sức ép đối với các nước bảo trợ quân khủng bố để buộc họ phải thay đổi chính sách. Bảy quốc gia được Hoa Kỳ xếp vào tội bảo trợ quân khủng bố là: Cuba, Iran, Iraq, Libya, Bắc Hàn, Sudan và Syria.
Thứ tư, trợ giúp và nâng cao khả năng chống khủng bố của những nước đang hợp tác với Hoa Kỳ và thỏa mãn các yêu cầu của họ.
Để khuyến khích, Hoa Kỳ sẽ trao thưởng 5 triệu Mỹ-kim cho những người cung cấp tin giúp ngăn chặn hoặc hóa giải các hành động khủng bố quốc tế chống người dân và tài sản của Hoa Kỳ trên thế giới, và 25 triệu đô-la cho ai cung cấp tin tức để tóm cổ Osama bin-Laden cũng như các thủ lãnh đầu sỏ của al-Qaeda.
2.7- Thành công trong việc bảo vệ nền móng gia đình bằng nghị định chống những người đồng tình luyến ái kết hôn. Quyết định của TT. Bush được 37 tiểu bang ủng hộ và duy trì luật lệ cấm đoán này.
III- PHẢN CHIẾN VÀ ĐỐI LẬP
3.1- TT. Bush bị chống đối ngay trong nội bộ.
Cựu Bộ trưởng Ngân khố Paul O’ Neill sau khi bị sa thải, đã sử dụng tài liệu mật viết sách chỉ trích chính quyền qua quyển sách có tựa đề ‘Cái giá của lòng trung thành’. Sách này được viết bởi cựu phóng viên Ron Suskind. O’ Neill chỉ trích Tổng thống Mỹ cùng các cựu đồng nghiệp trong các cuộc phỏng vấn. Cựu bộ trưởng Ngân khố tố cáo TT. Bush đã hoạch định chương trình chiếm Iraq, chỉ ít ngày sau khi lên nắm chính quyền. Ông cũng khẳng định với tư cách một thành viên trong ban an ninh quốc gia của tổng thống, ông chưa từng thấy một bằng chứng nào chứng minh Iraq đã hay đang tiến hành chương trình sản xuất vũ khí giết người hàng loạt. O’ Neill chỉ trích tư cách lãnh đạo của TT. Bush và miêu tả một cách quá đáng là trong cuộc họp nội các, Tổng thống chẳng khác gì như người mù giữa phòng toàn người điếc.
3.2- Michael Moore, Nhà Sản Xuất Phim Tài Liệu Chứng Minh Quyền Lực Truyền Thông Thời Nay Thật Đáng Kiêng Nể
Cả thế giới không lạ gì cuốn phim tài liệu "Fahrenheit 9.11" của Michael Moore đã đoạt giải ‘Nhành Dương Liễu Vàng’ tại đại hội điện ảnh Quốc tế ở Cannes, Pháp Quốc. Thực ra, các tài liệâu thời sự mà Moore trình làng không có gì mới mẻ. Nhưng các chi tiết về hành động và thái độ của TT. George W. Bush đã được nhà đạo diễn nhìn với góc cạnh sắc bén và moi móc một cách tinh quái hơn. Từ các bằng chứng này, người ta nhận ra được thái độ yếu kém của TT. Mỹ trước cuộc khủng bố vô tiền khoáng hậu tại Nữu Ước ngày 9.11.2001 và về các chính sách của ông trong thời gian qua. Chúng tôi xin nêu ra một trong các chi tiết nhỏ chứng minh cho nhận định trên. Ngày 9.11 theo chương trình thì TT. Bush đi thăm một vườn trẻ vào lúc 9 giờ sáng. Trong thời gian thăm vườn trẻ, nhân viên an ninh tới nói nhỏ vào tai TT. Bush là quân khủng bố đã tấn công Trung tâm Thương Mại Nữu Ước. Thay vì có phản ứng cấp thời, TT. Bush vẫn ngồi tỉnh bơ như không có chuyện gì xẩy ra. Chi tiết này đã không được các báo chí và đài truyền hình đề cập.
3.3- Các Ca Sĩ Nhạc Rock
Các ca sĩ nổi tiếng của Mỹ như: Bruce Springsteen, Dixie Chicks và hàng lô các ban nhạc thượng thặng khác như: Pearl Jam, R.E.M, Dave Mathews, the E Street, Bonnie Raith, Death Cab for Cutie, Johen Mellencamp, James Taylor và Jackson Browne… của Hoa Kỳ đã công khai chống lại TT. Bush qua các buổi Đại Nhạc Hội với khẩu hiệu "Bầu cử cho sự thay đổi" được trình diễn tại các Tiểu bang kể từ ngày 1.10.2004.
Các hoạt động của giới văn nghệ sĩ, truyền thông trên đây và các cuộc biểu tình chống chiến tranh Iraq, chẳng khác gì phong trào phản chiến thời chiến tranh Việt Nam, mà Janne Fonda là một biểu tượng. Nhìn bề ngoài nó ôn hòa, nhưng tiềm ẩn một mãnh lực bộc phát bất ngờ có thể thay đổi chính sách đối ngoại của chính phủ Mỹ và ‘quật ngã’ một chế độ. Việt Nam Cộng Hòa là một chứng tích đáng ghi nhớ muôn đời và đau buồn muôn thuở! Trải qua các dữ kiện trong quá khứ, một số nhà bình luận thời cuộc ngày nay không ngần ngại cho rằng: "quyền lực" của giới truyền thông và báo chí đóng vai trò khá quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp tới các chính sách của chính phủ.
IV- MỘT SỐ THẤT BẠI CỦA TT. BUSH
Bên cạnh những thành công đáng kể nêu trên, TT. Bush không tránh khỏi những thất bại trong thời gian cầm quyền. Những thất bại từ một số sai lầm trong quyết định tấn công Iraq và từ chính sách đối ngoại của một số quốc gia Đồng Minh được ghi nhận như sau:
- Không được Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ủng hộ cuộc chiến xâm lăng Iraq. Đặc biệt Đức, Pháp, Nga và Trung Cộng chống lại các quyết định của chính phủ Mỹ và Anh Quốc.
- Không tìm ra vũ khí giết người hàng loạt tại Iraq. Đây là nguyên nhân căn bản mà Hoa Kỳ và Anh Quốc tiến hành cuộc lật đổ chế độ độc tài Saddam Hussein. Một số nhà bình luận cho rằng sự chậm trễ của Liên Hiệp Quốc trong quyết định trừng phạt Iraq, đã giúp cho Saddam Hussein có đủ thời gian tiêu hủy hoặc chuyển các loại vũ khí này sang các nước đồng minh Ả Rập hoặc Hồi giáo Phi Châu.
- Không được đa số các quốc gia Đồng Minh gửi lực lượng quân sự bảo đảm an ninh và giúp đỡ tài chánh cho chương trình tái thiết Iraq.
- Không giảm thiểu được số lượng lính Mỹ chết tại Iraq. Tính đến khi bài này được viết, số lượng binh sĩ Mỹ bị giết tại Iraq đã lên tới cả ngàn người, lớn sấp sỉ 8 lần so với số tử thương trong cuộc hành quân lật đổ Saddam Hussein.
- Không vãn hồi an ninh trật tự sau hơn một năm giải phóng Iraq khỏi chế độ độc tài đảng trị Saddam Hussein.
- Không ngăn chận được sự thâm thủng ngân sách năm 2003, hụt tới 455 tỷ Mỹ-kim. TT. Bush đưa lý do là chương trình chống khủng bố và an ninh lãnh thổ đòi hỏi phải sử dụng nhiều tiền, kể cả chi phí cho chương trình tái thiết Iraq khoảng 100 tỷ Mỹ-kim, một ngân khoản lớn nhất kể từ sau Thế Chiến II. Đó là chưa kể trước đây Iraq còn nợ ngoại quốc khoảng 60 tới 100 tỷ Mỹ-kim, nay Hoa Kỳ phải tìm cách giải quyết và đề nghị các nước chủ nợ hủy bỏ hoặc giảm bớt số nợ này bằng cách nhận dầu xuất cảng của Iraq. Trong khi ngân sách đang thâm thủng, TT. Bush lại không ngần ngại cung cấp 800 triệu Mỹ Kim cho chương trình thám hiểm không gian và tái gửi người lên mặt trăng vào năm 2013
- Bị một số quốc gia Đồng Minh phản bội đầu hàng khủng bố bằng quyết định rút quân khỏi Iraq, để các nạn nhân bị bắt cóc không bị chặt đầu! Điển hình là hai nước Tây Ban Nha và Phi Luật Tân.
- Bị giảm uy tín tại chính trường quốc nội và trên thế giới. Lý do: binh lính Mỹ hành hạ các tù nhân người Iraq tại nhà lao Abu Ghraib. Hành động này vị phạm Hiệp định Genève 1954 về tù hàng tù binh.
V- TỔNG THỐNG GEORGE W. BUSH BỊ ÁM SÁT HỤT!
Sau chiến tranh xâm chiếm Kuwait và bị Đồng Minh đánh tả tơi không còn manh giáp vào năm 1992, Saddam Hussein phục hận bằng cách ra lệnh cho tình báo Iraq bằng bất cứ giá nào phải ám sát TT. George Bush cha. Tuy vậy, kế hoạch không thành công. Nay tới lượt TT. Bush con phải trả giá cho hai cuộc tấn công xâm lăng A Phú Hãn và Iraq. Theo tin tổng hợp mới được tiết lộ, ngày 8.2.2002, trùm khủng bố Osama bin-Laden và thủ lãnh Moham-med Omar cầm đầu nhóm Taliban của A Phú Hãn đã hai lần ra lệnh cho Mohammed Happani ám sát TT. George W. Bush.
- Lần thứ nhất: Thiếu tướng Hải quân Eugene Carrol, thuộc Ủy ban Tình báo Quốc hội Hoa Kỳ, tiết lộ kế hoạch mưu sát được tiến hành vào cuối tháng 7 năm 2001, khi TT. Bush tham dự Hội nghị các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến G.8 tại thành phố Genova của Ý Đại Lợi. Theo kế hoạch thì ngày 27.7, khi phi cơ ‘Air Force One’ chở TT. Mỹ cùng phái đoàn đáp xuống phi trường, một máy bay loại nhỏ chứa đầy chất nổ sẽ cất cánh từ một phi trường kế cận, bất ngờ lao vào Air Force One. Tuy nhiên, số mạng của TT. Bush còn lớn. Trước đó 24 giờ, phi cơ tình báo B-707 AWACS của Cơ Quan Hàng Không và Không Gian Hoa Kỳ (NSA) đã thu nhận thông điệp của trùm khủng bố Osama bin-Laden gửi cho các thành viên khủng bố Al-Qaeda, ra lệnh tiến hành vụ ám sát cảm tử này. Nhận được tin khẩn, lập tức chính phủ Ý ban lệnh báo động cấp thời trên toàn lãnh thổ. Các phi cơ cất cánh hay hạ cánh trong vòng bán kính 200 cây số quanh phi trường Genova bị cấm chỉ, cho tới lúc phi cơ chở TT. Bush đã đáp xuống an toàn.
- Lần thứ hai: Osama bin-Laden cùng Mohammed Haqqani soạn thảo kế hoạch ám sát khi TT. Bush đến Trung Quốc dự Hội nghị APEC, được tổ chức trong hai ngày: 20 và 21.10.01. Kế hoạch này rút kinh nghiệm từ cuộc ám sát thành công Tướng Ahmed Shah Masood, Tư lệnh Liên Minh Phương Bắc A Phú Hãn vào ngày 9.9.01. Kế hoạch được thực hiện do một số tên khủng bố cải trang thành phóng viên truyền hình, mang sẵn chất nổ chứa trong máy thâu hình. Khi TT. Bush tới thăm Trung Cộng và xuất hiện để trả lời các phóng viên trong cuộc họp báo, các máy thâu hình này sẽ được phóng thẳng vào TT. Mỹ. Tuy nhiên, âm mưu bị bại lộ. Tình báo Trung Cộng ‘GBU’ và phi cơ cùng nhân viên tình báo Mỹ phát giác kịp thời và giải mã được các tin tức trao đổi giữa nhóm khủng bố giả dạng phóng viên với trung tâm Al-Qaeda tại A Phú Hãn.
Lệnh báo động cấp tốc được ban hành khắp Thượng Hải, nơi Hội nghị APEC diễn ra. Trung Cộng tung tất cả nhân viên an ninh của mình kiểm soát gắt gao bất cứ cá nhân nào khả nghi và phụ tùng của họ mang theo tới Hội nghị. Sau hai cuộc ám sát TT. Bush bị thất bại, Osama bin-Laden đành treo giải thưởng 50 triệu Mỹ-kim cho bất cứ ai giết được TT. Bush.
VII- TỐN PHÍ TRANH CỬ
Không muốn làm Tổng thống một nhiệm kỳ như cha mình, TT. Bush con đã bất kể tốn phí, tung tiền vào ván bài tranh cử một ngân khoản lớn lao mà ít có ứng cử viên nào sánh bằng. Tính cho tới khi bài này được đúc kết, chi phí cho cuộc tranh cử của TT. Bush được ghi nhận như sau:
- Quỹ vận động tranh cử của TT. Bush gia tăng từ: 35.148.846,97 Mỹ-kim trong đệ nhị tam cá nguyệt năm 2003 lên 227.961.347,54 Mỹ-kim tính tới tháng 6/2004. Ứng cử viên John F. Kerry chỉ đạt tới 186.196.360,47 Mỹ-kim. TT. Bush đã tiêu hết 163.673.400,69 Mỹ-kim, so với John F. Kerry 148.940.592,91. Ngoài số tiền trợ giúp của các công ty và xí nghiệp, nếu so sánh sự ủng hộ từ các hiệp hội tư nhân thì số lượng hội cũng như tiền ủng hộ TT. Bush cao hơn, 1310 (1.837.244 MK) so với John Kerry chỉ có 442 (520.227 MK).
Theo Ủy ban Đăïc nhiệm Bầu cử Liên Bang thi quỹ của hai đảng gia tăng đáng kể so với các cuộc vận động bầu cử trước đây. Quỹ của Đảng Cộng Hòa tăng lên tới 464,7 triệu Mỹ-kim, tức 64%, trong thời gian từ tháng 1/1/2003 tới 30/6/2004. Quỹ của đảng Dân Chủ tăng 278,2 triệu Mỹ-kim, tức 112%. Nếu so với cuộc bầu cử năm 2000 thì quỹ của đảng Cộng Hòa tăng 96% và Dân Chủ 113%. Nếu cộng tất cả số tiền của hai đảng và hai ứng cử viên Tổng thống, người ta thấy một con số khổng lồ: "trên dưới 1 tỷ Mỹ-kim". Bằng chứng này xác định một điều: "không giầu, đừng hòng tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ!"
KẾT LUẬN
Liệu TT. George W. Bush có thắng trong cuộc bầu cử tháng 11 này không?
Chống khủng bố và an ninh quốc gia là hai vấn đề cốt lõi trong cuộc tranh cử của TT. Bush. Vì thế, một sự thành công nào đó về chống khủng bố, hay vấn đề an ninh lãnh thổ được bảo vệ cho tới ngày bầu cử… hoặc một tin tức bất ngờ bắt được trùm khủng bố Osama bin-laden và các thủ lãnh của tổ chức Al-Qaeda… sẽ gia tăng uy tính cho TT. Bush, người được gọi là Tổng thống chiến tranh. Ngoài ra, với phương tiện tài chánh dồi dào của cá nhân TT. Bush cũng như của đảng Cộng Hòa và với tài vận động tranh cử, TT. Bush vẫn còn hy vọng sẽ đạt thắng lợi cuối cùng.
TT. Bush cha được coi là anh hùng trong trận chiến giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lăng của Iraq. TT. Bush con được coi là anh hùng qua hai cuộc chiến lật đổ nhóm cầm quyền Taliban tại A Phú Hãn và Saddam Hussein, nhà độc tài của Iraq.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy TT. Bush cha đã thất bại trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ hai (1992-1996). Lý do: chiến tranh tạo nên tổn thất nhân mạng và các bệnh xẩy ra cho binh lính Mỹ sau chiến tranh, kinh tế Hoa Kỳ rơi vào tình trạng trì trệ, vấn đề y tế và an sinh xã hội không được cải tiến, thành thử dân nghèo dồn phiếu cho Bill Clinton, ứng cử viên Dân Chủ. Nay tới lượt TT. Bush con có rơi vào tình trạng giống cha như xưa không? Câu hỏi này, chúng tôi sẽ phân tích và nhận định trong bài viết tháng 10.2004 về đối thủ John F. Kerry.
TỔNG THỐNG RONALD REAGAN, NGƯỜI HÙNG CHỐNG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, NGƯỜI PHỤC HỒI DANH DỰ VÀ SỨC MẠNH CHO HOA KỲ ĐÃ TỪ TRẦN!
Ngày 5.6.2004, cả nhân dân Mỹ xúc động khi nghe tin cựu TT. Ronald Reagan từ trần và hàng triệu người trên thế giới đã thương tiếc người anh hùng chống cộng số một của Hoa Kỳ đã ra đi vĩnh viễn vào lòng đất mẹ. Để tìm hiểu tại sao cố TT. Reagan lại được mọi người cảm mến như vậy, chúng tôi xin trình bày một số dữ kiện về vị Tổng thống thứ 40 của Hiệp Chủng Quốc.
I- ĐÔI DÒNG VỀ CỐ TỔNG THỐNG RONALD WILSON REAGAN
Cố TT. Ronald Reagan sinh ngày 6.2.1911, tại Tampico, tiểu bang Illinois. Năm 1932, sau khi tốt nghiệp khoa kinh tế và xã hội tại trường Eurika, sinh viên Reagan theo nghề báo chí và thể thao. Năm 1937, nhà báo Reagan được hãng phim nổi tiếng Warner Bros mời ký hợp đồng đóng phim và ông đã đóng khoảng 50 cuốn phim. Năm 1940, tài tử Reagan kết hôn lần thứ nhất với nữ minh tinh Jane Wyman, nhưng đến năm 1947, mối tình đầu tan vỡ. Không để cho tình cảm bẽ bàng chi phối đời mình, tài tử Reagan quyết tâm tiến bước trong lãnh vực điện ảnh và trở thành Chủ tịch Hiệp hội Tài tử Điện ảnh.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, vì mắt yếu, tài tử Reagan không phải phục vụ trong các đơn vị chiến đấu. Ông được bổ sung vào đơn vị làm phim huấn luyện quân sự và xuất ngũ năm 1945 với cấp bậc Đại úy. Ngày 4.3.1952 tài tử Reagan kết hôn lần thứ hai với nữ minh tinh Nancy Davis (tên thực là Anne Frances Robbins). Nàng Nancy bước vào nghề điện ảnh năm 1949 do sự giới thiệu của người bạn cũ của mẹ là Spencer Tracy. Cha Nancy chuyên nghề bán xe cũ và mẹ cũng là một nữ tài tử. Cuộc tình xẩy ra giữa nam tài tử Reagan nổi tiếng chống phát xít, cộng sản và nữ minh tinh Nancy phản chiến, thân cộng là một sự kiện khó tin nhưng có thật! Hai người gặp nhau năm 1950, do môi giới của người bạn già là giám đốc Mervyn LeRoy. Khi tài tử Reagan làm chủ tịch Hiệp hội Tài tử Điện ảnh, thì Nancy yêu chàng. Vì vậy, Nancy đã nhờ người yêu sửa lại lý lịch của mình. Kể từ ngày "chiêu hồi về với chính nghĩa quốc gia", nàng Nancy luôn sát cánh và có ảnh hưởng khá nhiều đến sự nghiệp chống cộng của chồng. Họ yêu nhau say đắm và thường dùng tên gọi ngọt ngào. Chàng gọi nàng bằng "Mammy = má nó", nàng gọi chàng bằng "Ronnie"(tiếng lóng của Ronald). Tài tử Reagan có hai con với người vợ trước là Maureen và Mike. Nàng Nancy sinh cho chồng cũng hai người con là Patti (Patricia Ann) và Ron (Ronald Prescott). Hai người từng đóng chung trong phim "Hellcats of the Navy" vào năm 1957.
II- SỰ THÀNH CÔNG TRONG CÁC CHÍNH SÁCH CỦA CỐ TT. RONALD REAGAN
2.1- Về lãnh vực kinh tế
Khi TT. Reagan lên nhậm chức thì kinh tế Mỹ đang bị rơi vào tình trạng lạm phát gia tăng gấp hai, thất nghiệp nhiều và tiền lời vay mượn trong ngân hàng khá cao. Do đó, TT. Reagan đã thực hiện chương trình giảm thuế và giảm thiểu chi phí công quỹ. Thuế sẽ giảm 25% trong vòng 3 năm. Nhờ vậy tình trạng lạm phát ngưng lại. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ còn bị trì trệ khiến cho nạn thất nghiệp tiếp tục gia tăng và chương trình giảm thuế không thực hiện được ngay trong thời gian đầu. Để trấn an dư luận, TT. Thống Reagan đã phải kêu gọi dân chúng hãy bình tĩnh. Để tạo nên một ấn tượng tốt về tương lai, TT. Reagan đã đưa ra khẩu hiệu "Bình minh lại về trên đất Mỹ" (It’s morning again in America). Tới năm 1983 kinh tế Mỹ bắt đầu từ từ phục hồi và là nguyên nhân của sự thắng cử Tổng thống nhiệm kỳ hai, của ông già đã 73 tuổi, trên khắp các tiểu bang, ngoại trừ tiểu bang Min-nesota nơi cư trú của ứng cử viên Mondale.
2.2- Về lãnh vực chính trị và ngoại giao
Trước sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản vào thập niên 1940, một phần do ảnh hưởng của cha là đảng viên Dân Chủ, một phần được khích lệ bởi cái "anh hùng tính" của người trai thời chiến mà Tổng thống Franklin Delano Roosevelt là một biểu tượng; tài tử Reagan ngày càng có khuynh hướng thiên hữu, chống Phát-xít và Cộng-sản. Trong môi trường điện ảnh, tài tử Reagan đã khám phá ra khuynh hướng thiên tả và thân cộng ngay trong hiệp hội tài tử màn bạc của mình từ năm 1947.
Năm 1960, tài tử Reagan, nguyên là đảng viên Dân Chủ, nhưng đã vận động cho ứng cử viên tổng thống Richard Nixon thuộc đảng Cộng Hòa. Năm 1962 thì ông bỏ đảng Dân Chủ sang Cộng Hòa và liên tiếp thắng Pat Brown hai lần trong chức vụ Thống đốc tiểu bang California. Từ California, Thống đốc Reagan chuẩn bị con đường tiến vào Tòa Bạch Ốc bằøng chương trình cải tổ thiết thựïc nhất là: Giảm thuế và cắt giảm chi phí cũng như số lượng nhân viên trong guồng máy chính phủ. Một trong các hành động ưu tiên hàng đầu ngay sau khi lên nhậm chức của TT. Reagan là việc can thiệp cho các người Mỹ bị Iran bắt làm con tin. Họ được phóng thích sau khi chính quyền Iran được Hoa Kỳ thỏa mãn yêu sách mua vũ khí để chống Iraq. Một trong các hành động anh hùng chống cộng sản của TT. Reagan có thể chứng minh qua bức thư gửi Leonid Breznev, Tổng Bí thư Sô Viết, một lãnh tụ cộng sản sừng sỏ và hiếu chiến. Tháng 4/1981, sau khi bị ám sát và thoát chết, TT. Reagan đã gửi cho trùm cộng sản quốc tế một bức thư với lời lẽ cảnh cáo đanh thép mà chúng tôi xin tóm tắt ý chính như sau:
-Để cảnh cáo về cuộc xâm lược A Phú Hãn của Sô Viết, TT. Reagan viết: "…Liệu một gia đình trung bình người Nga có cuộc sống sung sướng hơn trong khi họ có hay biết gì chính phủ đã áp đặt ý đồ của mình lên nhân dân Afghanistan?"
-Để trả lời cho sự cáo buộc Hoa Kỳ cũng xâm lăng các nước khác, TT. Reagan đã trả lời Breznev một cách thẳng thắn: "…Trong thư của mình, ngài muốn nói rằng hành động của Sô Viết trở nên cần thiết vì mưu đồ và tham vọng đế quốc Mỹ là mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ, vì vậy, nó là sự đe doạ nền an ninh của Sô Viết... Nhưng, không bằng chứng nào chứng minh cho lời cáo buộc này, mà chỉ có bằng chứng rõ ràng rằng, Hoa Kỳ trong khi có khả năng bá chủ thế giới, dù không gặp nguy hiểm gì, đã không theo đuổi nỗ lực nào như Sô Viết... Khi Thế chiến II kết thúc, nước Mỹ là quốc gia duy nhất trên thế giới có nền công nghiệp không bị phá hủy. Sức mạnh quân sự đạt tới đỉnh cao và chúng tôi có cả vũ khí mạnh nhất, bom nguyên tử, cùng khả năng không cần phải tranh luận là có thể đem loại vũ khí này tới bất kỳ nước nào trên thế giới. Nếu chúng tôi muốn làm bá chủ thế giới, ai có thể chống lại chúng tôi? Nhưng nước Mỹ đã đi theo đường hướng khác - con đường độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại là chúng tôi sử dụng sức mạnh và sự phồn vinh của mình để xây dựng lại các nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, gồm cả các quốc gia đã từng là kẻ thù của chúng tôi…"
-Để nhấn mạnh về quyền làm người, TT. Reagan đã viết: "…Quả thật, các dân tộc trên thế giới, dù có dị biệt về chủng tộc và nguồn gốc sắc tộc, nhưng họ có nhiều điểm tương đồng. Họ muốn được quyền kiểm soát số phận mình. Họ muốn theo đuổi ngành nghề mình chọn và được trả công một cách công bằng. Họ muốn chăm lo gia đình trong hoà bình, không làm hại ai và cũng không muốn ai làm tổn hại mình. Các chính phủ thực tế có nhiệm vụ phục vụ lợi ích của dân chứ không phải ngược lại..."
Tuy vậy, dưới thời Leonid Breznev và Yuri Andropov vấn đề chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông và Tây vẫn còn căng thẳng. Mãi tới năm 1985, TT. Reagan mới gặp được lãnh tụ cộng sản có tinh thần hòa bình Mikhail Gorbachev. Quan hệ Mỹ-Nga được cải tiến qua cuộc họp thượng đỉnh tại Geneva. Thành quả của hội nghị đưa tới việc TT. Reagan và Chủ tịch Gorbachev ký kết hiệp ước tài giảm binh bị và hủy bỏ các loại hỏa tiễn tầm trung vào năm 1987.
Người ta còn nhớ trước đây TT. Reagan đã không ngần ngại gọi Sô Viết là "Đế quốc quỉ quái" (The Devil Empire); nay trong bài diễn văn lịch sử đọc tại cổng Brandenburg tại Bá Linh ngày 12.6.1987, ông lại nói: "Nếu ngài muốn mưu tìm hòa bình, nếu ngài muốn Liên Bang Sô Viết và Đông Âu phú cường, nếu ngài muốn tìm sự giải phóng thì hãy đến cổng này, mở cổng này và phá hủy bức tường này đi…" Lời kêu gọi này đã trở thành sự thực vào năm 1989 và nó đi vào lịch sử giống như lời tuyên bố lừng danh nói lên quyết tâm bảo vệ Tây Đức của TT. John F. Kennedy vào thập niên 1960: "Chỉ có một Bá Linh" (Es gibt nur ein Berlin).
2.3- Về lãnh vực quân sự
- Chính sách chính yếu trong nhiệm kỳ hai của TT. Reagan là chấm dứt chiến tranh lạnh. Mở đầu cho trận cuồng phong làm sụp đổ các chế độ cộng sản Đông Âu là: cuộc chiến tranh tâm lý qua hệ thống truyền thanh của "Đài Phát Thanh Tự Do Âu Châu" (Radio Free Europe), rồi đến chương trình chiến tranh các vì sao (Star Wars). Lực lượng chủ yếu có ảnh hưởng chính trị lan ra toàn khu vực là cuộc cách mạng của Công đoàn Đoàn kết (Solidarity) của Lech Waleza ở Ba Lan có tác động mạnh trong toàn khối cộng sản Đông Âu và đưa tới sự sụp đổ của bức tường Bá Linh ngày 9.11.1989. Sự kiện này xẩy ra sau nụ hôn cuối cùng của Tổng Bí thư Gorbachev dành cho Thủ tướng Đông Đức Erich Honecker.
Để đạt thành quả trong chính sách chống cộng của mình, TT. Reagan đã sử dụng hàng trăm triệu Đô-la cho chương trình chiến tranh tâm lý bằng hệ thống phát thanh hướng về Đông Âu. Đài "Tiếng Nói Hoa Kỳ" (Voice of America = VOA), "Đài Tự Do Âu Châu" (Radio Free Europe) hay "Đài Tự Do" (Radio Liberty) đã truyền thanh các chương trình khuyến khích dân chúng dưới các chế độ cộng sản thành lập các phong trào đòi tự do dân chủ. Song song với chương trình phát thanh, TT. Reagan khuyến khích công dân, chính trị gia, doanh thương Mỹ viếng thăm Tiệp Khắc và các nước cộng sản Đông Âu để tiếp xúc với những người tranh đấu cho tự do và các tổ chức đối lập. Jiri Dienstbier, người tù lương tâm của Tiệp Khắc trước đây đã kể lại cho hãng thông tấn AP rằng, nhờ có sự hỗ trợ từ bên ngoài các phong trào đấu tranh đòi dân chủ tự do mới tự tin và mạng sống của họ được bảo đảm hơn.
Cùng với chương trình đánh địch bằng chiến tranh tâm lý, TT. Reagan không ngần ngại trực tiếp can thiệp vào cuộc chống khủng bố ở Lebanon năm 1983, dẹp tan các cuộc bạo động do cộng sản gây ra ở Grenada, Nicaragua, El Salvador; oanh kích thủ đô Libya vì TT. Muammar Quadhafi chứa chấp và hỗ trợ khủng bố giết lính Mỹ ở Tây Đức vào năm 1986 và làm nổ phi cơ dân sự ở Scotland năm 1988.
Để phát triển quốc phòng, TT. Reagan phải giảm bớt ngân sách dành cho các lãnh vực xã hội, giáo dục và y tế. Muốn mạnh, Hoa Kỳ cần nhiều loại vũ khí tối tân hơn Sô-viết. Tuy nhiên, dân chúng Mỹ lại sợ một cuộc thi đua vũ trang sẽ đưa tới thảm họa chiến tranh. Nhiều cuộc biểu tình đã xẩy ra. Nhưng TT. Reagan vẫn cứng rắn. Ngân sách dành cho chương trình phát triển quốc phòng gia tăng lên tới 35%. Chiến lược phòng thủ bằng các màn chắn phi đạn địch hay còn gọi là "chiến tranh các vì sao" được nghiên cứu và thực hiện.
Để khống chế Sô Viết trên thế thượng phong về sức mạnh quân sự, TT. Reagan đã ban hành nghị định cho phép sử dụng một ngân sách lớn lao chưa từng có, hơn một ngàn tỷ Đô-la, nhằm phát triển chương trình phòng thủ chiến lược "SDF" (The Strategic Defense Initiative) hay (Star Wars) và đưa ra hai kế hoạch:
- Thành lập màn chắn hỏa tiễn tại Âu Châu.
Để thực hiện kế hoạch này, Hoa Kỳ sẽ xây dựng một số đài Radar tối tân tại Âu Châu. Hệ thống Radar này sẽ khám phá các hỏa tiễn của Sô Viết ngay từ khi thoát ra khỏi giàn phóng và tự động điều chỉnh hỏa tiễn chống hỏa tiễn của Mỹ phá hủy các hỏa tiễn địch ngay trên vùng trời địch. Như vậy chẳng khác nào Sô Viết tự hủy diệt bằng chính vũ khí nguyên tử của mình. (Nguyên tắc này đang được TT. George W. Bush quan tâm đối với Trung Cộng tại Á Châu. Dù Trung Cộng có mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự và dù có hàng ngàn hỏa tiễn mang đầu nổ nguyên tử đi chăng nữa, cũng sẽ rơi vào tình trạng tự hủy diệt, nếu nước này dở trò khiêu khích Hoa Kỳ và thế giới.)
- Thiết trí các dàn phóng hỏa tiễn nguyên tử tại Âu Châu.
Kế hoạch này có lợi điểm là rút ngắn một nửa thời gian tấn công từ Hoa Kỳ vào lãnh thổ Sô Viết. Sô Viết muốn tấn công trả đũa Hoa Kỳ sẽ không kịp, vì: -các vị trí chiến lược và chiến thuật quân sự của Sô Viết bị phá hủy trước tiên -thời gian bay của các hỏa tiễn tấn công Hoa Kỳ kéo dài gấp đôi và đa số các hỏa tiễn bị chặn đánh ngay sau khi thoát ra khỏi giàn phóng. Đúng là đòn thượng sách "Gậy ông đập lưng ông!" Dù chương trình Star Wars chưa được thực hiện toàn vẹn, nhưng TT. Reagan đã thắng Sô Viết mà không cần bắn một hỏa tiễn nào. Lý do rất dễ hiểu: Đế quốc Đỏ không đào đâu ra cả ngàn tỷ Đô-la để thi đua vũ trang với Hoa Kỳ, trong khi Mikhail Gorbachev đang chủ trương xét lại về kinh tế và xã hội để chống đói giảm nghèo. Kinh nghiệm lịch sử này chứng minh cho một thực tế là "nếu không mạnh hơn cộng sản", người ta không thể nói chuyện hòa bình với họ được.
III- NHỮNG CHỐNG ĐỐI
Thời nào cũng vậy: "nhân vô thập toàn". Chính sách cắt giảm trong lãnh vực xã hội, y tế và thi đua vũ trang là nguyên nhân đưa tới sự chống đối trong nước. Có thể vì thế mà khi xuất hiện trước khách sạn Washington, TT. Reagan đã bị John Jr. bắn gần trúng tim, nhưng thoát chết. Khi tỉnh, ông vẫn không quên cái tính khôi hài nói với bác sĩ, người đã gắp viên đạn ra khỏi lồng ngực mình, rằng: "tôi hy vọng bác sĩ sẽ là một đảng viên Cộng Hòa." Kẻ ám sát TT. Reagan sau đó khai rằng, hắn bắn ổng vì muốn được nữ minh tinh màn bạc kiều diễm Jodie Foster để ý tới mình!
-Năm 1982, TT. Reagan ban hành đạo luật Garn-St German nhằm điều chỉnh việc tiết kiệm và vay mượn trong lãnh vực kỹ nghệ, ngưng sử dụng số tiền thuế khoảng 8 tỷ Mỹ-kim vào các dự tính đầu tư. Theo một số chuyên gia thì đây là một quyết định không có lợi trong lãnh vực kinh tế.
-Năm 1985, bất chấp lời phê bình của Elie Eiesel, người được đề cử giải thưởng Nobel, TT. Reagan đến thăm Tây Đức và vẫn đặt vòng hoa tại nghĩa trang Bitburg, nơi chôn 2.000 binh lính Đức, trong đó có 49 mật vụ Đức Quốc Xã.
-Theo tường trình của ủûy ban điều tra dưới quyền thượng nghị sĩ John Tower thì TT. Reagan đã ra lệnh cho Trung tá Olivier North bán vũ khí cho Iran. Tiền lời sẽ dùng vào việc trợ giúp phong trào kháng chiến chống chính quyền thân cộng tại Nicaragua. Việc bán vũ khí cho Iran là bất hợp pháp, mặc dù để đổi lấy con tin người Mỹ.
IV- HAI LÃNH TỤ ĐỒNG MINH TRI KỶ NHẤT CỦA CỐ TT. REAGAN
4.1- ĐGH Gio-an Phao-lô II
TT. Reagan cùng với Đức Giáo Hoàng được kể là kiến trúc sư của chương trình xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản Đông Âu và ngăn chặn sự bành trướng của Sô Viết. Đức Giáo Hoàng với chiến thuật nổi dậy của Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan và TT. Reagan với chiến lược "Chiến Tranh Các Vì Sao" đã thực sự chôn vùi các chế độ phi nhân và tàn bạo tại Đông Âu.
4.2- Nữ Thủ Tướng Anh Quốc
Bà Magret Thatcher, một lãnh tụ Đồng Minh tri kỷ của TT. Reagan đã chân thành phát biểu:
"TT. Reagan đích thực là một anh hùng vĩ đại của Hoa Kỳ. Ông sẽ không chỉ được những người quen biết nhớ thương, vì tình yêu tổ quốc sâu xa và hãnh diện phục vụ đất nước mình, mà hàng chục triệu người ngày nay đang được sống trong tự do vì chính sách của ông. Ông có sách lượïc cao hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào trong việc đánh bại cuộc chiến tranh lạnh dành tự do mà không phải bắn một phát súng! ".
V- TT. RONALD REAGAN VÀ VIỆT NAM
TT. Reagan đã từng phê bình chính quyền Johnson lúc đó không cố gắng giải quyết vấn đề Việt Nam theo tinh thần bảo vệ tự do của Hoa Kỳ. Với ông, tự do của VN hay HK là một, và kẻ thù cộng sản VN hay Sô Viết cũng là một. Vì thế cuộc chiến chống CSVN cũng là cuộc chiến chống cộng sản toàn cầu. Ông không đồng ý leo thang chiến tranh theo kế hoạch đơn phương tấn công chầm chậm vào đối phương. Ông muốn giải quyết cuộc chiến dứt khoát từ đầu não Trung Cộng và Sô Viết. Ông cũng phàn nàn là giới truyền thông Mỹ đã phản bội cuộc chiến VN. Sau khi chứng kiến ký giả Walter Crokite tường thuật về chiến tranh VN trên đài truyền hình CBS vào tháng 12.1972, ông nói với TT. Nixon rằng: "nếu ở vào hoàn cảnh của thời Đệ Nhị Thế Chiến, đài này đáng bị truy tố về tội phản quốc". Đến khi TT. Gerald Ford tiếp đón người tị nạn VN thì đảng Dân Chủ chống lại bằng luận điệu "đón gà nhà!" Mãi tới khi phong trào "thuyền nhân tị nạn" bộc phát mạnh nhất vào năm 1979, người Mỹ mới động lòng trắc ẩn. Với quyền lực trong tay, TT. Reagan đã ra lệnh cho Bộ trưởng Ngoại giao George Shultz tiếp nhận người VN với mức độ nhiều hơn và cứu giúp các sĩ quan QLVNCH bị cải tạo. Sau đó chương trình "Ra Đi Trong Trật Tự"(ODP) và chương trình "Nhân Đạo" (HO) dành cho quân, cán, chính của VNCH được thực hiện có hiệu quả. Vì thế, đối với các sĩ quan QLVNCH thì TT. Reagan là một vị cứu tinh đáng ghi nhớ. Thực tế chứng minh rằng, nếu TT. Reagan cầm quyền trong thời kỳ chiến tranh VN thì có lẽ cục diện sẽ thay đổi theo chiều hướng chiến thắng cho Hoa Kỳ và VNCH!
VI- VĨNH BIỆT TỔNG THỐNG RONALD REAGAN
Trong các ngày 11, 12, 13.6.2004, hàng triệu người Mỹ đã ngậm ngùi thương tiếc cố TT. Ronald Reagan, khi viếng linh cữu tại tòa nhà Quốc hội, khi trực tiếp tham dự lễ cầu hồn tại Vương cung Thánh đường Quốc gia ở Hoa Thịnh Đốn hay chứng kiến lễ hạ huyệt tại Bel Air, California hoặc theo dõi các nghi thức tang lễ trên màn ảnh truyền hình. Những lời ca tụng sự nghiệp của cố Tổng thống Reagan nghe thật cảm động. Những điệu nhạc ai oán ngân nga trong thánh đường nghe xót xa. Những loạt đạn đại bác vĩnh biệt ròn rã vang dội trên bầu trời thủ đô Hoa Thịnh Đốn và ở khắp các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới nghe não lòng. Những giòng lệ tuôn rơi trên gò má phu nhân Nancy, của thân nhân và quần chúng chứng kiến cảnh bi ai, đã nói lên tâm tình thương mến sâu đậm đối với vị Tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ. Cả trăm triệu người trên thế giới được hít thở không khí "tự do" trong lành không khỏi ngậm ngùi nhớ thương vị anh hùng đã giải thoát họ khỏi chủ nghĩa cộng sản. TT. Ronald Reagan chắc chắn sẽ sống mãi trong tâm trí của những người chống cộng, những người yêu chuộng tự do và tôn trọng nhân quyền.
Như truyện thần tiên từ đảo Tasmania, Úc Châu
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
MARY ELISABETH DONALDSON BỖNG TRỞ THÀNH HOÀNG HẬU TƯƠNG LAI CỦA VƯƠNG QUỐC ĐAN-MẠCH.
Trong những ngày qua, tình hình Iraq tiếp tục bất ổn và Hoa Kỳ bị mất uy tín trên chính trường thế giới vì binh linh Mỹ đã hành hạ và làm nhục tù binh Iraq tại nhà lao Abu Ghraib. Hành động này vi phạm hiệp định Genève 1954 về tù binh chiến tranh. Từ đó, bọn khủng bố Al-Qaeda bắt cóc Nick Berg, một công dân Mỹ và bị trả thù bằng cách cắt cổ công khai trên màn ảnh truyền hình!
Để quên đi những hình ảnh hãi hùng và man rợ trong thời gian qua, chúng tôi mời quí độc giả hướng về cuộc hôn nhân vương giả đã diễn ra tại Vương quốc Đan Mạch ngày 14.5.2004.
I- ĐÔI DÒNG VỀ LỊCH SỬ VƯƠNG QUYỀN ĐAN MẠCH
Vương quyền Đan Mạch được coi là một trong các triều đại vua chúa lâu đời trên thế giới. Ngược giòng lịch sử, người ta có thể lấy mốc điểm năm 958, năm mở đầu triều đại Gorm den Gamle. Điểm đặc biệt của thời kỳ này là vua chúa được tuyển chọn. Mãi tới năm 1660-61 tập quán này bị hủy bỏ để thay thế bằng chế độ cha truyền con nối. Hoàng-tử trưởng nam được quyền kế vị. Tới năm 1665 thì công chúa trưởng nữ cũng có cơ hội được nối nghiệp vua cha. Chế độ Quân chủ coi như không còn toàn quyền lãnh đạo kể từ ngày 5.6.1849, khi Luật Căn Bản hay Hiến Pháp của Vương Quốc Đan Mạch chính thức ra đời sau cuộc cách mạng dân quyền không đổ máu giữa quần chúng và nhà vua. Tới năm 1953 Luật Căn Bản được sửa đổi để bảo đảm quyền kế vị vua cha của các Công-chúa, nếu Hoàng-hậu chỉ sinh toàn con gái. Nữ Hoàng Margrethe II hiện nay là người phụ nữ tiên khởi mở đầu cho truyền thống mới này. Vương quyền Đan Mạch nếu tính từ giòng họ Gorm den Gamle (936-958) đến thời Nữ-hoàng Margrethe II hiện nay (1972-...) đã có tất cả 53 triều đại.
II- ĐÔI HÀNG VỀ HOÀNG GIA ĐAN MẠCH
2.1- nữ hoàng Margrethe II
Vua Frederik IX, sinh ngày 11.3.1899, là Hoàng tử trưởng nam của vua Christian X và Hoàng hậu Alexandrine. Ngày 24.5.1933, Vua kết hôn cùng Công chúa Ingrid (1910), con gái của Hoàng Thái tử Gustav Adolf, sau trở thành vua Gustav 6. Adolf (1882-1973) của Thụy Điển. Vua Frederik IX và Hoàng hậu Ingrid sinh được 3 Công chúa là: Margrethe (II), Benedikte và Anne-Marie.
a- Công-chúa Margrethe Ale-xandrine Þorhildur Ingrid, trưởng nữ, sinh ngày 16.4.1940. Bà đã theo học các khoa: -triết học tại đại học Kobnhavn, -chính trị tại đại học Aarhus và Sorbone, Pháp quốc; -khảo cổ tại đại học Cambridge, -kinh tế tại trường kinh tế Luân Đôn, Anh quốc. Bà nói được các ngôn ngữ: Anh, Pháp, Thụy Điển và Đức.
Ngày 10.6.1967, Công chúa Margrethe kết duyên cùng Henri Marie Jean André greve de Laborde de Monpezat, nguyên là thư ký của toà đại sứ Pháp ở Luân Đôn. Cha mẹ của Henri là người Pháp, đạo Công giáo, có dinh thự tại Hà-nội. Cuộc tình giữa thư ký Pháp và Công chúa Đan Mạch xẩy ra trong thời kỳ Margrethe du học ở trường nội trú North Foreland Lodge tại Hampshire, Anh quốc. Công chúa Margrethe sinh được 2 Hoàng tử là: -Frederik André Henrik Christian, sinh 26.5.1968 và Joachim Holger Waldemar Christian, sinh 7.6.1969. Ngày 14.1.1972, sau khi vua cha Frederik IX băng hà, Công chúa Margrethe lên kế vị với tước hiệu Margrethe II.
b- Công chúa Benedikte Astrid Ingeborg Ingrid, thứ nữ, sinh ngày 29.4.1944, kết hôn với Hoàng tử Richard Zu Sayn-Wittgenstein Berleburg ngày 3.1.1968, sinh được Hoàng tử Gustav Zu-Sayn-Wittgenstein-Berleburg, Công chúa Alexandra Zu Sayn-Wittgenstein-Berleburg và Công chúa Nathalie Zu Sayn-Wittgenstein-Berleburg
c- Công chúa út, Anne-Marie Dagmar Ingrid, sinh ngày 30.8.1946, Công chúa kết hôn với vua Constantin II của Hy Lạp ngày 18.9.1964, sinh được Công chúa Alexia (1965), Hoàng tử Pavlos (1967), Nikolaos (1969) và Hoàng tử Philippos (1986). Vua Constantin bị nhóm Đại tá lật đổ vương quyền vào ngày 21.4.1967 và cả Hoàng gia phải sống đời tị nạn tại Anh quốc cho tới ngày nay.
2.2- phò mã Henri Marie Jean André greve de Laborde de Monpezat.
Ông Hoàng thực dân Pháp có cái tên dài 9 chữ lòng thòng sinh ngày 11.6.1934 tại Talence, Gironde, Pháp Quốc. Cha là André de Laborde de Monpezat (chết:1998) và mẹ là Renée de Mon-pezat (chết 2002). Thời gian 5 năm đầu cậu bé Henri đã được nuôi dưỡng tại Việt Nam, khi cha đưa gia đình đến để tiếp nối các hoạt động về kỹ nghệ do ông nội đã tạo dựng. Năm 1939 Henri trở về Pháp, ở Cayrou, Cahors và tiếp tục học trong trường nội trú của các thày Dòng Tên ở Bordeaux cho tới năm 1947. Năm 1948-1950 Henri học Trung học. Năm 1950 trở qua Hà-nội và tốt nghiệp Tú Tài Pháp năm 1952. Từ năm 1952-1957, Henri tiếp tục học luật và khoa học chính trị tại đại học Sorbone. Sau đó Henri học ngôn ngữ Á Đông về tiếng Tàu năm 1957 và tiếng Việt năm 1958 tại Sài Gòn. Cuộc đời trôi nổi đã đưa Henri tới Luân Đôn và làm thư ký trong tòa đại sứ Pháp ở Anh quốc. Tại nơi đây, với tài “galant” của một chàng trai 33 tuổi, Henri bất ngờ tán tỉnh được Công chúa Margrethe và hai người thành hôn ngày 10.6.1967. Henri thuộc gia đình Công giáo ngoan đạo, nhưng đã phải chấp nhận đạo vợ, Tin Lành, để trở thành Hoàng thân Henrik. Với cương vị “phò mã”, Hoàng thân Henrik không làm gì khác hơn là đỡ đầu cho khoảng 80 tổ chức và lẽo đẽo tháp tùng Nữ Hoàng công du ngoại quốc hay tham dự các nghi lễ tại quốc nội. Mỗi năm Hoàng thân Henrik lãnh lương khoảng 6 triệu Koner, tức 10% số tiền (58 triệu) mà Nữ Hoàng được chính phủ tài trợ. “Ăn no bò cỡi” như vậy mà Hoàng thân Henri chưa thỏa mãn lại còn sinh tật. Nguyên do xẩy ra vào ngày 4.1.2002, Nữ Hoàng Margrethe bị đau chân buốt đầu gối không thể chủ tọa nghi thức tiếp đón ngoại giao đoàn đến chúc mừng năm mới. Theo tập quán chính trị thì Hoàng Thái tử kế vị Frederik sẽ thay mặt Nữ Hoàng tiếp đón quan khách và Hoàng thân Henri phải đứng sau con mình. Nhưng cậy mình là chồng Nữ Hoàng và “bố vua tương lai”, Hoàng thân Henri bất mãn và than trách bị “coi rẻ!”. Thế là báo chí được dịp dậy cho Henri một bài học chính trị và chê bai ông Phò Mã đã ở Đan Mạch 37 năm mà tiếng Đan nói “mỏi tay!”. Cuối cùng Nữ Hoàng đành phải chiều lòng ông chồng già hay giở chứng. Sau vụ khủng hoảng nội bộ, bà đã phải chấp nhận để Hoàng thân Henri được đứng trước con trong nghi thức tiếp đón quan khách khi bà không thể có mặt.
III- TÌNH YÊU ĐẾN BẤT NGỜ
3.1- Hoàng Thái Tử Frederik (Frede - Pingo)
Không như các Hoàng tử của thời xa xưa, Hoàng Thái tử Frederik đã chuẩn bị cho mình một cuộc sống cân bằng giữa vương quyền và quần chúng. Vì thế, Frederik đã học chung với các học sinh và sinh viên ở trường Trung học Øregaard (1986), chính trị học tại đại học Aarhus (1990) của Đan Mạch, du học tại đại học Harvard Hoa Kỳ, tốt nghiệp cao học chính trị năm 1995. Ngoài ra, Frederik đã tham dự chương trình huấn luyện quân sự trong 3 quân chủng: Hải quân (đại úy năm 2002), Lục quân (cao đẳng quân sự năm 2001, thiếu tá trừ bị năm 2002) và Không quân (phi công đại úy trừ bị năm 2000). Từ khóa học người nhái (1995) Frederik có cái tên “Pingo” (ám chỉ loài chim Pingvin (Penguin) có thể lặn sâu dưới biển để bắt cá).
Cuộc sống tình cảm của Frederik: “Pingo” đã bắt được nhiều “nữ nhân ngư” Đan Mạch theo tục ngữ VN “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Nhưng than ôi! Pingo đã quậy đục 7 cái ao nhà mà duyên nợ không thành!
1- Mie Egmont Petersen, cô bạn gái cùng học Trung học đệ nhị cấp (Øregaard Gymnasium). Chàng gặp nàng trong lễ hội của trường được tổ chức tại TIVOLI, một Disney Land của Đan Mạch. Như bao mối tình học trò khác, Frede và Mie đã lặng lẽ từ giã nhau.
2- Birgitte Vollerlev: người đẹp kiểu mẫu đầu tiên đã len lỏi vào cuộc đời tình ái của Hoàng tử. Nhưng sau chuyến du học về rượu vang ở California của Frede, chàng và nàng cũng nhẹ nhàng “bye-bye” nhau.
3- Nina Klinker Jorgensen, người điều khiển chương trình truyền hình rất ăn khách tuổi trẻ, “HUGO” và “Elevaren” của đài TV2, đã chiếm được cảm tình của Frede khi nàng đang học đại học luật ở Aarhus và tiếng sét ái tình đã xẩy ra trong quán cà-phê của trường. Dù đã từng chụp hình chung và chia vui sẻ buồn trong những đêm dài lạnh lẽo; nhưng rồi tình yêu của cô sinh viên luật cũng không chinh phục được hoàn toàn trái tim của Hoàng tử hào hoa.
4- Malou Aamund: người con gái một lần ly dị đã gặp Frede vào mùa Thu 1990. Mối tình bất ngờ bị cắt ngang. Nguyên nhân: đêm Giao thừa 1992, sau khi cùng Hoàng tử uống rượu quá tiêu chuẩn (1,13), Malou không có bằng lái đã lái xe đưa người yêu cũng đã say mèn về nhà. Vì đi trong đêm tối và không có hộ tống nên xe của Frederik bất ngờ bị cảnh sát công lộ chận lại để kiểm soát. Nội vụ uống rượu say lái xe bị đổ bể và báo chí đã không ngớt lời phê bình Hoàng gia. Sau đó mối tình bị chìm vào bóng tối.
5- Katja Storkholm: người đẹp kiểu mẫu cho loại quần áo tắm đã làm Hoàng Thái tử ngất ngây, khi chàng học đại học Aarhus năm 1994. Năm 1995, báo Berlingske Tidende đã đăng hình hai người cùng nhau xuất hiện ở bãi biển nổi tiếng Mauritius. Trong lễ thành hôn của Hoàng tử Joachim và Alexandra nàng Katja cũng được mời tham dự. Vì thế, nhiều người nghĩ là Katja sẽ trở thành Hoàng hậu trong tương lai. Nhưng tới năm 1996, có lẽ Nữ Hoàng không muốn ngắm cái thân hình kiểu mẫu quá hở hang, nên qua luật sư, Katja tuyên bố “đường anh anh đi...” và hiện vẫn còn sống “đơn côi” tại thủ đô.
6- Bettina Louise Ødum:
Năm 1996, khi Frede đang tập sự ngành ngoại giao tại tòa đại sứ Đan Mạch ở Ba-lê, Bettina đón gặp chàng trong một quán cà-phê. Nàng làm việc tại Luân-đôn và cha mẹ có biệt thự ở miền Nam Pháp quốc, nơi Hoàng tử đã hơn một lần dừng chân. Sau cuộc cuộc thám hiểm Sirius ở Greenland, chàng và nàng đã xuất hiện tại bãi biển Costa Rica năm 2000. Nhưng sau đó nàng âm thầm từ giã vì biết mình không thể đứng đầu trong danh sách tuyển thê!
7- Maria Montell, ca sĩ nhạc POP với 2 bản nổi danh là “Svaert At Vaere Gudinde” và “Di Da Di”, và 2 bản tương đối ăn khách: “Think Positive” và “Børn har Ret”. Riêng bản Di Da Di đã bán cả triệu dĩa ở Trung quốc và được nghe nhiều trên các đài phát thanh và truyền hình Âu Châu trong những năm trước đây. Hoàng tử đa tình gặp nàng ca sĩ trong buổi nhạc hội ở Frederikberg và hai người đã “dung giăng dung giẻ” tại Việt Nam vào tháng 5.1997, khi Frede tới thăm ngôi nhà xưa của ông nội và cha mình tại Hà-nội. Lúc này Maria tiết lộ là hai người đã yêu nhau một năm rưỡi rồi. Nàng được Frede mời tới thăm biệt thự và vườn nho của cha mẹ ở Cahors miền Nam nước Pháp. Nữ Hoàng mua lâu đài và vườn nho này là do quà của toàn dân Đan Mạch tặng nhân dịp lễ thành hôn của bà. Maria Montell cũng một lần được Frede dẫn thăm Hoàng gia Tây Ban Nha. Nhưng cũng như các người đẹp trước đây, Maria Montell đã không có mặt trong tiệc mừng sinh nhật 30 tuổi của Hoàng tử và bản nhạc “Ôi chia ly từ đây...” đã ngân vang vào tháng 9.1998.
8- Mary Van Schuyler: Ngoài các người tình Đan Mạch, trong thời gian du học tại đại học Hardvard, Hoa Kỳ, Frederik cũng say mê Mary Van Schuyler, người đẹp làm việc tại Tòa Bạch Ốc, khi chàng vào thăm xã giao Tổng thống Bill Clinton.
Sau nhiều mối tình nửa tan vỡ, nửa lặng lờ trôi qua, và Frederik sắp bước vào cái tuổi 35, chắc chắn ai trong Hoàng gia cũng muốn cho Pingo phải chấm dứt cuộc phiêu du tình cảm. Cơ hội đã đến bất ngờ. Tháng 9.2000, Frederik cùng em là Joachim du-thăm Thế Vận Hội ở Sydney, Úc Châu. Trong một khách sạn gần biển, Frede được giới thiệu với người đẹp Mary Donaldson. Sự quen biết khu vực này một phần cũng vì trong thời gian học nông nghiệp, Hoàng tử Joachim đã chọn nơi đây để thực tập. Nhờ đó Joachim quen địa danh và dẫn anh mình tới đây vừa du chơi vừa tìm tiên hạ giới. Trong số 3 Hoàng tử hiện diện, Mary đã trao ánh mắt và nụ cười của mình cho Hoàng tử Đan Mạch. Thế rồi cuộc tình chớm nở và hai người đã được Lãnh sự Đan Mạch tại Úc khoản đãi nhân dịp kết thúc Thế Vận Hội ngày 1.10.2000 và đội bóng ném nữ của Đan Mạch đoạt được huy chương vàng. Tháng 11.2001 hai người chính thức xuất hiện trước công chúng và tháng 12.2000, Mary xin nghỉ việc, di chuyển về Luân Đôn và sau đó được Frede kín đáo đưa về thăm Đan Mạch mà báo chí không biết. Mãi tới tháng 1.2002, người ta mới thấy Mary ăn Tết với Frederik, đi tắm biển Mallorca và ra mắt vua Juan Carlos của Tây Ban Nha vào tháng 8.2002. Tháng 9.2002, để chuẩn bị cho Mary sống hợp pháp, nàng được sắp xếp làm cố vấn công trình cho hãng điện tử Navision của Microsoft ở Vedbaek và địa chỉ là căn phòng ở khu chung cư sang trọng tại cảng Langelilie. Tháng 1.2003, Frede chính thức tuyên bố Mary là người yêu và hôn má nàng công khai lần đâu tiên tại Tasmania. Tháng 9.2003, Nữ Hoàng Margrethe công bố lễ hứa hôn của Frederik và Mary sẽ cử hành ngày 24.9.2003.
3.2- Mary Elizabeth Donaldson
Mary từ đảo Tasmania đến Đan Mạch như một giấc mơ mà đa số các thiếu nữ đều mong ước. Đảo Tasmania do thương gia Hòa Lan, Abel Janszoon Tasman, lần đầu tiên khám phá vào ngày 24.11.1642. Thời gian đó dân bản xứ ở đây chỉ có khoảng dưới 10.000 người. Sau đó Anh quốc chiếm làm thuộc địa vào năm 1803. Năm 1804, chính quyền Anh dùng nơi đây làm chốn tù đày các phạm nhân có thành tích phạm pháp nghiêm trọng. Với thời gian, mảnh đất tù đày phát triển thêm dân cư và được tự trị năm 1856. Ngày 1.1.1901 Tasmania trở thành một Tiểu bang của Úc Đại Lợi. Tasmania có diện tích khoảng 68.330 km2 với số dân gần 500.000 người.
Cha mẹ của Mary nguyên gốc Scotland tới lập nghiệp tại Úc năm 1963 và trở thành công dân Úc 1965. Mary sinh ngày 5.2.1972 tại thủ đô Hobart của Tiểu bang Tasmania, mẹ là Henrietta Clark Donaldson (1942- chết 1997); cha là John Dalgleish Donaldson (1941), giáo sư toán và phụ tá viện trưởng Đại học Tasmania. Ông tái giá với nữ văn sĩ Susan Moody Donaldson. Mary có 2 chị: Jane Alison Stephens (1965), Patricia Anne Woods (1968) và người anh: John Stuart Donaldson (1970). Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật và thương mại (1994) tại đại học Tasmania, Mary rời bỏ nơi đây để làm cố vấn trong ngành quảng cáo tại Melbourne.
Trước khi thành hôn với Hoàng Thái Tử Frederik, Mary phải chấp nhận một số qui định theo luật lệ của vua Frederik IX đã ban hành:
- Điều 1: Vương quyền được thừa kế chỉ trong giòng tộc của vua Frederik X và Hoàng Hậu Alexandrine. --
Điều 5: Chỉ con cái sinh ra bởi vợ chồng hợp pháp mới được hưởng quyền kế vị. Ngoài ra, Mary cũng phải chấp nhận không được quyền thừa kế tài sản thuộc về vương quyền từ ngày thành hôn trở về trước và cả quyền chiếm con, nếu xẩy ra một cuộc ly dị. Lý do: con của Frederik sẽ nối nghiệp vua cha. Nếu Mary bắt con về Úc theo luật Đan Mạch dành ưu tiên cho người mẹ, thì một cuộc khủng hoảng vương quyền sẽ xẩy ra. Sau ngày cưới Mary sẽ hưởng lương khoảng 10% trong số 13 triệu kroner dành cho Frederik.
IV- LỄ THÀNH HÔN
Một tuần trước ngày hôn lễ các cuộc vui và những buổi trình diễn âm nhạc đã được tổ chức linh đình như sau:
-Ngày 5.5.2004: cuộc diễn hành và biểu diễn phi cơ tàu thủy của Hải, Lục, Không quân được tổ chức để chúc mừng Frederik và Mary. Ngày 7.5.2004: Chương trình đại nhạc hội Rock’n Royal vừa đề chào mừng Frede và Mary; vừa gây quỹ cho tổ chức cứu trợ nhi đồng “Red Barnet” được tổ chức tại sân vận động FCK. Có 40.000 người mua vé tham dự. Ngày 9.5.2004: một cuộc đua thuyền giữa Frede và Mary được tổ chức tại cửa cảng Kþbenhavn có quần chúng tham dự. Kết quả Mary đã thắng “oanh liệt”. Ngày 10.5.2004: chương trình ca nhạc với các loại nhạc cụ bằng gỗ được tổ chức tại Tivoli. Tối là tiệc do tòa lãnh sự Úc tổ chức để chúc mừng Frede và Mary -Ngày 11.5.2004: tiệc khoản đãi các nhân viên cao cấp trong chính phủ và quốc hội do Nữ Hoàng khoản đãi tại tòa nhà Christiansborg -Ngày 12.5.2004: Frede và Mary được tiếp đón nồng hậu tại Tòa Đô Chánh Kþbenhavn
-Ngày 13.5.2004: Tiệc chào mừng Frede và Mary tại Quốc hội -Ngày 14.5.2004: Lễ thành hôn được cử hành tại Vương cung Thánh đường Vor Frue Kirke.
Qua hình ảnh trước và trong lễ thành hôn, người ta cho rằng Mary Donaldson đã đánh bại tất cả các tình nhân trước đây của Frederik cả về tài năng, thân hình và sắc đẹp. Chính vì thế mà Hoàng Thái tử đã quá cảm động thành rướm lệ trong lúc chờ cha của Mary dẫn nàng tiên kiều diễm lên bàn thánh để cử hành hôn lễ.
Tốn phí và quà cưới
Để cưới được Mary, Frederik nói riêng và toàn dân Đan Mạch đã phải trả cái giá khá cao:
-Tốn phí các tiệc tùng, lễ hội: 153.000.000 Kroner, chưa kể sự tự nguyện - 3.000 cảnh sát giữ an ninh trật tự.
-Quà cưới do Quốc hội, chính phủ và các tỉnh tặng: 2.080.000 kr. -Quà của giới kinh doanh tặng: 1 xe Toyota Landcruiser trị giá 1.000.000 kroner -1 xe Mitsubishi Lancer Evolution VII 716.999 kr., 1 xe Mitsubishi Outlander 400.000 kr., 1 xe KIA Picanto 300.000 kr., 1 xe SAAB 9-3 Cabriolet 670.000 kr. -1 du thuyền trị giá 1.300.000 kr. -1 con ngựa cho Mary v.v...
V- CHỐNG ĐỐI VƯƠNG QUYỀN
Đa số dân chúng Đan Mạch vẫn còn muốn duy trì chế độ quân chủ và coi Hoàng Gia là biểu tượng quyền quý của dân tộc. Ngược lại, giới trẻ, các tổ chức đảng phái khuynh tả và người vô gia cư muốn hủy bỏ vua chúa để thay thế bằng Tổng thống. Những khẩu hiệu “Ikke en kroner til Frede & Mary = không một đồng cho Frederik và Mary”, “Eva+Ali = ulovlig” (ám chỉ 2 người ngoại quốc lấy nhau khi chưa đủ điều kiện là bất hợp pháp), còn “Mary+ Frederik =?” (thì sao) đã được nhìn thấy bất ngờ trong ngày lễ hứa hôn. Đêm 12.4.2004, trên đường Mary và Frede tới dự buổi đại nhạc hội dành cho các bạn bè thân thích thuộc giới trẻ dân sự và các Hoàng tử và Công chúa láng giềng, có một thanh niên đã uống rượu, ăn cắp xe và lái đâm thẳng vào xe chở Frederik và Mary. May mắn cảnh sát đã chặn kịp thời. Nếu không, ngày hôn lễ biết đâu trở thành ngày tang lễ? Trước giờ cử hành hôn lễ, một binh sĩ mang túi xách có chứa lựu đạn khói và đầu đạn súng cối bén bảng tới Vương cung Thánh đường. Cảnh sát khám xét và bắt giữ anh lính khả nghi này chỉ cách nơi hành lễ khoảng 100 mét. Cùng ngày cũng có khoảng 40 người biểu tình ở Trianglen, Þsterbro.
Ngày 14.5.2004, chuông thánh đường đổ vang từng hồi, cô dâu chú rể tiến lên bàn thánh tuyên hứa yêu nhau suốt đời. Nhẫn cưới trao cho nhau trong khung cảnh rừng người chào đón và hàng ngàn tiếng nhạc du dương. Chiếc vương-xa do 8 bạch mã kéo cùng với 88 kỵ binh danh dự đã đưa đôi tân hôn diễn hành qua trung tâm thủ đô, rồi tiến về khu lâu đài Hoàng gia Amalienborg. Không chỉ hàng triệu dân chúng Đan Mạch chăm chú theo dõi hôn lễ mà hàng chục triệu người trên thế giới cũng được các đài TV CNN (Mỹ), BBC (Anh), ABC, Channel Nine, Channel Ten (Úc), EU-TV; TF.1 (Pháp), APU + TV.1 + YLE (Phần Lan), ARD + Pro Sieben + NRD + RTL + ZDF (Đức), New Tang Dynasty (Trung Cộng), NHK + Nippon TV Network (Nhật), NRK + TV.2 + TV Norge (Na-uy), NTV (Nga), RAI (Ý), SVT + TV.4 (Thụy Điển), Tele.5 + TV Valencia + TVE (Tây Ban Nha), trực tiếp truyền hình đám cưới được coi là lớn và sang trọng thứ nhì, sau đám cưới của Hoàng Thái tử Charles và Diana vào năm 1981.
Sau khi vẫy tay chào và trao nhau nụ hôn ngày cưới trước biển cờ Đan-Úc và hàng chục ngàn người đã chờ đợi hàng giờ trước Hoàng cung, đôi tân hôn tiến về lâu đài Fredensborg tham dự tiệc cưới. Những thức ăn ngon từ Pháp, Úc và Đan Mạch, những chai rượu quí do cơ sở sản xuất rượu của Nữ Hoàng và Hoàng thân Henrik cung cấp, những lời chúc tụng đầy tình yêu đã diễn ra trong căn lều vương giả. Sau vũ điệu “valse”, ánh sáng của hàng trăm pháo bông đẹp lộng lẫy chiếu tỏa cả khung trời vào nửa đêm 14.5.2004. Những lời chúc thiết tha và điệu nhạc du dương đã thực sự tô điểm cho tình yêu của đôi tân hôn thêm thắm nồng. Nhưng có ai biết trong những căn phòng nhỏ, những tấm lòng thổn thức nghẹn ngào của Mie, Birgitte, Nina, Malou, Bettina, đặc biệt của Maria Montell mà âm thanh bản tình ca “Di Da Di” (nay có thể hiểu cách khôi hài là “Đời Đi Đái” rồi) của nàng đang ngân vang? Có ai biết được Katja ngồi tư lự bơ vơ than tiếc mối tình tan vỡ, như bức tượng “Nữ Nhân Ngư”, tại cảng Kþbenhavn, ngồi trông chờ trong tuyệt vọng hoàng tử của lòng mình đã bỏ rơi nàng đi cưới Công chúa láng giềng, mà 200 năm trước đây đại văn hào H.C. Andersen đã viết cho tuổi trẻ! Thế mới biết trong tình yêu “Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.” như Hồ Xuân Hương, nữ thi sĩ tài danh số một về “dâm thi” của VN đã hơn một lần than thở!
"Bỏ thì Vương, thương thì tội!" Iraq là khúc xương khó nuốt
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Sau một năm xâm chiếm Iraq, 09.04.2003-09.04.2004, chương trình ổn định tình hình và dân chủ hóa Iraq của chính phủ Hoa Kỳ đang gặp những khó khăn bất ngờ vì các lý do sau đây:
-An ninh lãnh thổ Iraq vẫn chưa được phục hồi
-Lính Mỹ và Đồng Minh bị phục kích và bị giết ngày một nhiều.
-Các đồn cảnh sát của Iraq thường xuyên bị tấn công bằng bom tự sát hay súng cối và hỏa tiễn.
-Người Tây phương bị bắt cóc làm con tin và bị thủ tiêu có khuynh hướng gia tăng.
-Phong trào đánh đuổi quân đội Mỹ và Đồng Minh ra khỏi lãnh thổ Iraq đang lên tới cao điểm.
Trước tình trạng khủng hoảng này, người ta không khỏi lo ngại về sự thất bại của Hoa Kỳ trong chương trình tái thiết và xây dựng một quốc gia Iraq tự do dân chủ theo cơ cấu tổ chức chính trị của Tây phương.
Ngày 6.4.2004, trong cuộc vận động cho ứng cử viên John F. Kerry thuộc đảng Dân Chủ tại Brookings Institution, Thượng Nghị sĩ Edward Kennedy, em ruột của cố Tổng thống John F. Kennedy, đã tuyên bố: “ Iraq là Việt Nam của Bush” (Iraq is George Bush ‘s Vietnam)
Để tìm hiểu nguyên nhân đưa tới tình trạng căng thẳng ngày nay tại Iraq, chúng tôi sẽ trình bày một số điểm sau đây:
I- ĐƠN PHƯƠNG QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG IRAQ KHÔNG CÓ BẰNG CHỨNG XÁC THỰC LÀ SỰ THẤT BẠI VỀ CHÍNH TRỊ CỦA HOA KỲ
Khi quyết định tấn công Iraq, chính phủ Anh-Mỹ đã dựa vào các nguyên nhân sau:
- Iraq không tôn trọng các thỏa hiệp và hợp tác với phái đoàn thanh tra của Liên Hiệp Quốc sau cuộc chiến xâm lăng Kuwait năm 1991-1992.
- Chế độ độc tài Saddam Hussein có liên hệ với tổ chức khủng bố al-Qaeda của Osama bin-Laden và cố tâm thi hành chính sách phát triển vũ khí giết người hàng loạt. Chương trình này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh khu vực Trung Đông.
Tuy nhiên, cho tới nay thì chính phủ Mỹ và Anh hầu như thất bại hoàn toàn trong việc tìm kiếm cơ sở sản xuất và kho chứa vũ khí bom nguyên tử, bom hóa học và bom vi trùng tại Iraq. Các tài liệu của C.I.A liên quan tới cơ sở sản xuất và dự trữ vũ khí giết người hàng loạt mà Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Colin Powell, trình bày trước Hội Đồng Bảo An LHQ vào tháng 11.2002 là những tài liệu không trung thực.
Không có bằng chứng và không được Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chấp thuận, quyết định xâm chiếm Iraq của chính phủ Anh-Mỹ, với sự hỗ trợ của một số quốc gia Đồng Minh, trở thành bất hợp pháp. Nhiều bất đồng đã xẩy ra giữa Liên Hiệp Âu Châu và Hoa Kỳ. Sự rạn nứt này là kẽ hở để tổ chức khủng bố al-Qaeda có cơ hội khai thác triệt để và tấn công vào Đồng Minh. Vụ khủng bố lớn nhất ở Âu Châu xẩy ra tại Tây Ban Nha vào ngày 11.3.2004 là một bằng chứng điển hình. Nhằm chia rẽ Hoa Kỳ và Đồng Minh, trùm khủng bố quốc tế Osama bin-Laden đã gửi thông điệp có nội dung hòa hoãn kiểu thỏa hiệp hòa bình với Âu Châu. Cuốn băng video này được đài truyền hình Ả Rập Al-Arabia chiếu ngày 15.4.2004. Ở đây chúng tôi xin ghi nhận một vài ý chính như sau:
- Osama bin-Laden chủ trương chia rẽ các chính quyền Âu Châu ủng hộ Hoa Kỳ với cử tri của họ. Vụ khủng bố các tuyến xe lửa ngày 11.3.2004 tại Tây Ban Nha là sự cảnh cáo đầu tiên đối với Âu Châu.
- Osama bin-Laden lên án Âu Châu im lặng trước cuộc xung đột giữa Do Thái và Palestina.
- Osama bin-Laden ve vãn cử tri và các chính quyền Âu Châu bằng đề nghị “sẽ chấm dứt toàn bộ các cuộc tấn công nhằm vào các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu nào rút quân ra khỏi Iraq và Afghanistan.”
- Osama bin-Laden lên án Hoa Kỳ và Do Thái đã ám sát thủ lãnh nhóm Hamas là Giáo Sĩ Sheik Ahmed Yassin ngày 22.3 vừa qua; và cảnh cáo rằng: “Hoa Kỳ sẽ bị trả đũa bằng nhiều cuộc khủng bố.”
II- TÌNH TRẠNG BẤT AN VÀ SỰ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ LÀ CỚ ĐƯA TỚI KHỦNG BỐ.
Nhìn vào tình trạng bất an tại Iraq ngày nay, người ta thấy nó phát sinh từ các yếu tố sau đây:
- Sự bất mãn của cả triệu binh lính, đảng viên Baath của Saddam Hussein và gia đình họ. Thành phần này bị thất nghiệp mà không được hưởng trợ cấp xã hội, nên trở thành lực lượng chủ động trong các cuộc tấn công quân Mỹ và Đồng Minh ở khu vực tam giác phía Tây Bắc thủ đô Baghdad. Đặc biệt nhất là tại thành phố Falluja, các tên khủng bố đã ném lựu đạn và bắn vào hai xe dân sự Mỹ. Kết quả là xe bốc cháy và 4 nhân viên bị thiêu sống trong khi đó một đám đông bu quanh chiếc xe đang bốc cháy reo hò mừng chiến thắng. Một vài tên cố lôi xác cháy đen của người Mỹ ra khỏi xe, rồi đem treo tòng teng trên thành cầu sông Eufrat. Một cảnh tượng trông dã man chưa từng có ở Trung Đông. Hình ảnh này gợi lại trong đầu óc mọi người về biến cố lính Mỹ bị giết và xác bị kéo lê trên mặt đường ở Somalia vào năm 1993. Cảnh tượng man rợ đó đã làm chấn động dư luận Hoa Kỳ đến mức Tổng thống Bill Clinton phải ra lệnh rút quân bảo vệ an ninh đồ cứu trợ của Liên Hiệp Quốc ra khỏi đất nước này.
- Một số thành phần quá khích của Lực lượng Shia Muslim muốn cướp quyền cai trị Iraq chứ không chịu đoàn kết trong Hội đồng Cai trị lâm thời do Mỹ thành lập. Điển hình cho nhóm này là đạo sĩ trẻ tuổi Moqtada al-Sard. Ông ta đã qui tụ được khoảng 6.000-10.000 tay súng cảm tử và hô hào toàn dân Iraq nổi lên đánh đuổi quân xâm lược Mỹ và Đồng Minh ra khỏi lãnh thổ. Vì thế, các cuộc bạo động, phục kích, bắt cóc dân sự ngoại quốc ngày một gia tăng. Tính đến ngày 14.04.04 đã có một số người ngoại quốc bị bắt cóc được ghi nhận như sau:
Ngày 4.4.2004: 3 người Nhật bị quân khủng bố bắt cóc và đưa lên truyền hình với lời cảnh cáo là nếu chính phủ Nhật không rút 300 lính khỏi Iraq, các con tin sẽ bị thiêu sống. Tuy vậy, 3 con tin này đã được thả ngày 15.4.04, mặc dù chính phủ Nhật không thỏa mãn yêu sách rút quân ra khỏi Iraq.
Ngày 8.4.04: 01 người Palestin và Gia Nã Đại bị bắt, vì quân khủng bố tình nghi họ làm gián điệp cho Do Thái.
Ngày 8.4.2004: 7 thày tu người Nam Hàn bị bắt cóc, nhưng được thả ra trong cùng ngày.
Ngày 9.4.2004: 01 người Mỹ bị bắt cóc.
Ngày 10.4.2004: 2 nhân viên an ninh dân sự Đức bị bắt cóc trên đường từ Jordan tới Iraq.
Ngày 11.4.2004:
- 01 kỹ sư người Anh bị mất tích, nhưng được phóng thích ngày 8.4.2004.
-8 tài xế xe vận tải gồm: 3 Pakistan, 2 Đức, 1 Ấn Độ, 1 Népal, 1 Phi Luật Tân được phóng thích.
- 7 người Tàu bị bắt cóc
- 2 người Tiệp Khắc trên đường đi Jordan bị bắt cóc ở phía Bắc Baghdad.
Ngày 12.4.2004: 7 nhân viên xây cất Mỹ được ghi nhận mất tích.
Ngày 13.4.2004: 4 người Ý bị nhóm “Tiểu đoàn Xanh” bắt cóc và được chiếu trên đài truyền hình al-Jazeera. Quân khủng bố đòi chính phủ Ý phải rút 3.000 lính khỏi Iraq. Sau khi Thủ tướng Silvio Berlusconi nhất quyết không thoả mãn yêu sách của chúng, nhân viên đài truyền hình cho biết 01 người đã bị giết hết sức dã man. Cảnh tượng máu me kinh hoàng đến nỗi họ không dám chiếu xác chết trên màn ảnh.
Ngày 15.04.2004:
-Vì tình hình bất ổn, chính phủ Nga ra lệnh rút tất cả công nhân viên khỏi Iraq.
-Một người Đan Mạch được thông báo mất tích ở Iraq.
Sau khi được tăng cường bằng chiến xa và phi cơ trực thăng, quân đội Mỹ chuẩn bị mở cuộc tổng tấn công vào sào huyệt Najaf, nơi đạo sĩ al-Sadr đang trú ẩn. Binh lính Mỹ được lệnh bắt sống hoặc giết chết đạo sĩ này, vì chính ông ta là kẻ chủ mưu tấn công quân đội Đồng Minh và chống lại chương trình tái thiết và xây dựng dân chủ cho Iraq.
Để tránh thiệt hại lớn lao cho dân chúng, chính phủ Mỹ đã liên lạc ngoại giao với các nhà lãnh đạo Iran nhằm thuyết phục đạo sĩ al-Sadr giải giới. Với sự khuyến cáo của đạo trưởng Ayatollah Ali al-Sistani, người có ảnh hưởng lớn nhất đối với cộng đồng Shia Muslim tại Iraq, người đã từng phản đối việc chống Mỹ bằng bạo lực; hy vọng đạo sĩ al-Sadr sẽ đồng ý thương thuyết vô điều kiện với Mỹ. Trước đây al-Sadr chỉ đồng ý ngưng chiến và thương thuyết với điều kiện là quân Mỹ phải rút khỏi khu dân cư Najaf, đồng thời thả tất cả các thành viên của Sadr. Tới khi bài này được viết, ngày 16.4.2004, đạo sĩ al-Sadr tuyên bố không chịu giải giới lực lượng quân sự của mình và cảnh cáo nếu Hoa Kỳ bắt hoặc giết ông ta, toàn dân Iraq sẽ trả đũa khốc liệt.
Phía Hoa Kỳ cho biết chỉ đồng ý không bắt hoặc giết chết đạo sĩ al-Sadr, nếu ông ta nhận tội tạo nên khủng hoảng và tấn công giết hại quân lính Mỹ trong những ngày vừa qua. Phía Hoa Kỳ muốn đưa đạo sĩ al-Sadr ra tòa án về tội giết chết một thủ lãnh cấp tiến của Shia Muslim vào năm ngoái. Theo cố vấn của đạo sĩ này thì al-Sadr chịu ra tòa, nhưng phải là tòa án hợp pháp và dân chủ của Iraq. Có hơn 2.500 binh lính Mỹ đang bao vây chặt chẽ thành thánh Najaf và sẽ tấn công nếu các cuộc thương thuyết không đạt được kết quả.
III- MOQTADA AL-SADR LÀ AI?
Moqtada al-sadr là một đạo sĩ trẻ, nay mới 30 tuổi. Không như các đạo sĩ Shia-Muslim khác, al-Sadr chủ trương bất cộng tác với Hội Đồng Cai Trị lâm thời, vì hội đồng này do Hoa Kỳ dựng nên. Al-sadr hô hào toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của Hoa Kỳ và khích động tấn công vũ trang vào quân đội Mỹ và Đồng Minh. Lực lượng chính của al-Sadr là vùng dân cư Shia-Muslim tại Baghdad và một số tỉnh phía Nam
Al-Sadr là con út của đạo sĩ Muhammed Sadiq Sadr, một đạo sĩ cao cấp của Shia-Muslim bị ám sát năm 1999. Trước cuộc tấn công của quân đội Mỹ vào tháng ba năm ngoái, al-Sadr chỉ là một đạo sĩ bình thường. Khi đảng cầm quyền Baath bị tan rã, al-Sadr trở thành người có quyền lực nhờ tiếng tăm của cha mình đã sáng lập Hội Từ thiện Shia. Thành phố Saddam được đổi tên là thành phố Sadr, nhằm mục đích vinh danh ông chú của al-Sadr là Muhammed Bakir al-Sadr, một thánh tử đạo chống lại Saddam Hussein. Vào tháng 6.2003. Al-Sadr đã thành lập một nhóm quân sự có tên “Quân đội Mehdi” để bảo vệ và kiểm soát các khu hành chính của thành thánh Najaf. Ông ta cũng tuyên bố thành lập một chính quyền đối lập với Hội Đồng Cai Trị Iraq do Hoa Kỳ chỉ định. Al-Sadr ra tờ tuần báo có tên al-Hawza, nhưng bị nhà cầm quyền Mỹ đóng cửa vào ngày 28.3.2004. Lý do: tờ báo có chủ trương bạo động chống Mỹ, đề cao luật Islam và niềm tự hào của Iraq.
Ngay sau khi thủ đô Baghdad bị thất thủ vào tháng 4.2003, thuộc hạ của al-Sadr bị tố cáo đã ám sát Abdul Majid al-Khoei, một thủ lãnh cấp tiến Shia, người đã từng cộng tác với Anh quốc và Hoa Kỳ trong thời gian tị nạn ở ngoại quốc. Moqtada al-Sadr cực lực phủ nhận bất cứ vai trò nào trong vụ ám sát. Thủ hạ của al-Sadr cũng xung đột với nhóm ủng hộ đạo trưởng Ayatollah Sistani, người giữ vai trò trọng yếu trong kế hoạch Mỹ trao lại quyền hành cho Iraq vào ngày 30.6.2004. Al-Sadr còn bị tố cáo có dính líu trong vụ khủng bố văn phòng Trung ương của Liên Hiệp Quốc tại Baghdad vào tháng 8.2003.
Sau khi chế độ Saddam Hussein bị lật đổ, đạo sị al-Sadr đã qua thăm Iran và gặp gỡ các viên chức cao cấp của nước này. Al-Sadr tự coi mình là một nhà lãnh đạo quốc gia của đa số Shia-Muslim và muốn đạo trưởng Sistani phải rời khỏi Iraq. Theo quan chức Mỹ thì thuộc hạ của al-Sadr theo khuynh hướng Ayatollah Kazem al-Haeri, thủ lãnh dân Shia-Muslim từ căn cứ tị nạn của dân Iraq tại Iran.
Tuy nhiên, al-Sadr tự tin là mình sẽ phải được xếp vào hàng Mirjah, một danh vị quyền lực tối cao về tôn giáo và luật pháp của Shia-Muslim. Tên tuổi của cha, chú và al-Sadr được kể vào hàng tử đạo và được hát trong cuộc hành hương tới thánh địa Karlaba trong tháng ba vừa qua. Al-Sadr không nghĩ mình quá trẻ để nhận lãnh quyền lãnh đạo tinh thần. Ông ta cho rằng cha mình cũng đạt tới chức vụ Mujtahid vào năm 25 tuổi. Một học giả và thân nhân quan trọng khác là Muhammed Bakir al-Sadr đạt tới chức vị Mirjah vào năm 22 tuổi. Al-Sadr nói rằng: “Tôi không phải là một mujtahid, nhưng không còn bao lâu nữa tôi sẽ trở thành một mujtahid”
Theo giới chức Mỹ thì đạo sĩ al-Sadr có tham vọng trở thành một Saddam Hussein của dân Shia-Muslim và Iraq. Người ta lo ngại rằng, nếu kế hoạch dân chủ hóa Iraq của Hoa Kỳ không thành công, Iraq biết đâu lại trở thành một Iran thứ hai, có nghĩa quyền hành chính trị sẽ nằm trọn trong tay các đạo sĩ Shia-Muslim. Tuy nhiên, muốn độc chiếm quyền lực, al-Sadr phải loại được hai đạo sĩ cao cấp có nhiều uy tín với dân chúng Iraq là Ayatollah Ali al-Sistani và Abdul-Aziz al-Hakim, một thành viên có uy quyền trong Hội đồng Cai trị lâm thời. Đạo sĩ này đã tự ý liên kết với đạo trưởng al-Sistani và đứng đầu trong Hội Đồng Tối Cao Cách Mạng Hồi Giáo chống Saddam Hussein từ trung tâm tị nạn tại Iran. Đạo sĩ al-Hakim được hỗ trở bởi lực lượng quân sự riêng của mình có tên “Binh đoàn Sadr” đang giữ an ninh tại một số tỉnh phía Nam và thành thánh. Anh cả của al-Hakim là Ayatollah Mohammed Baqir al-Hakim bị thuộc hạ của a-Sadr ám sát năm ngoái.
Vì thế, sự tranh dành quyền lực giữa các đạo sĩ sẽ còn căng thẳng và có thể phát sinh nhiều cuộc đụng độ đẫm máu trong tương lai. Một cuộc nội chiến Iraq có thể xẩy ra vào bất cứ vào lúc nào. Nhận định này được dựa trên biến cố khích động người Sunni-Muslim chống Shia-Muslim của thủ lãnh Musab al-Zarqawi.
Musab al-Zarqawi mang quốc tịch Jordan đã bị kết án tử hình sau vụ giết chết một công dân Mỹ làm việc thiện nguyện vào năm 2002. Chính phủ Mỹ đã treo giải thưởng 10 triệu Đô-la cho ai cung cấp tin tức để bắt tên khủng bố này. Al-Zarqawi được coi là cánh tay đắc lực của tổ chức khủng bố al-Qaeda tại khu vực Trung Đông. Trong cuốn băng video dài 33 phút được chiếu trên đài truyền hình Ả Rập, al-zarqawi tuyên bố “người Iraq theo hệ phái Shia không phải là các tín đồ Islam thực sự. Người Sunni-Muslim hãy nhận chìm kẻ xâm lăng”. Al-zarqawi cũng xác nhận đã chủ động các cuộc tấn công đẫm máu vào quân đội Mỹ tại Iraq trong thời gian vừa qua.
IV- TẠI SAO CÓ NẠN BẮT CÓC NGƯỜI NGOẠI QUỐC LÀM CON TIN?
Chiến dịch bắt cóc ở Trung Đông không mới mẻ gì. Nó đã được thực hiện trong những năm vừa qua tại nhiều khu vực như:
-Tại Li-băng (Libanon) vào thập niên 1980, khi quân khủng bố tại nước này bắt nhiều người Do Thái, Tây phương và Mỹ với yêu sách đòi quân đội Mỹ phải rút khỏi khu vực và Do Thái phải rút khỏi đồi Golan.
-Tại Iran: sau cuộc cách mạng Hồi Giáo do dạo sĩ Ayatollah Ruhollah Khomeini lãnh đạo thành công trong việc lật đổ Vương quyền Shah vào ngày 1.2.1979, các sinh viên và lực lượng cách mạng đã bắt cóc hàng chục nhân viên viên Mỹ và đòi chính phủ Hoa Kỳ chấm dứt việc ủng hộ lực lượng phản cách mạng.
-Tại Iraq: trong cuộc chiến Bão Tố Sa Mạc năm 1991-1992, Saddam Hussein cũng đã bắt giữ nhiều người ngoại quốc, kể cả trẻ em, để làm bia đỡ đạn và bảo vệ các cơ sở quân sự quan trọng trước các cuộc không tập của phi cơ Mỹ và Đồng Minh.
Ngày nay chiến thuật bắt cóc lại được quân du kích và khủng bố áp dụng để làm áp lực đòi quân đội Mỹ và Đồng Minh rút khỏi Iraq. Tuy vậy, phản ứng của dân Mỹ và Tây phương không còn quá khủng hoảng như trong những thập niên vừa qua. Người dân Mỹ hiểu được rằng trong chiến tranh chống độc tài và khủng bố, dĩ nhiên sẽ có những người bị hy sinh. Người ta phải chấp nhận rằng, hàng trăm chiến sĩ đã phải ngã gục vì lý tưởng tự do dân chủ, thì một số con tin không thể làm cản trở hay hủy hoại cả một công trình xây dựng dân chủ ở bất cứ quốc gia nào.
Nếu người dân của bất cứ quốc gia nào cũng quan niệm như vậy, thì chính sách bắt cóc người ngoại quốc làm con tin của quân khủng bố sẽ không đạt được kết quả mỹ mãn. Sự thực cho thấy: chả lẽ siêu cường Hoa Kỳ và các cường quốc Âu Châu lại phải quì gối trước bạo lực khủng bố?
V- LẬP TRƯỜNG CỦA CHÍNH PHỦ HOA KỲ
Dù tình hình Iraq vẫn còn bất ổn, nhưng hôm 6 và 15.4.2004, Tổng thống Mỹ, George W. Bush, đã tái xác nhận sẽ trao quyền hành cho Hội Đồng Cai Trị vào ngày 30.6.2004. TT. Bush cũng hứa hẹn sẽ đập tan tổ chức làm loạn của al-Sadr. Bộ trưởng Quốc phòng Ronald Rumsfeld tuyên bố quân đội Mỹ sẽ tiếp tục giữ an ninh thêm 3 tháng nữa, kể từ sau ngày bàn giao quyền lực.
Để chuẩn bị cho cuộc tranh cử Tổng thống vào tháng 11.2004, và để bảo đảm chương trình tái thiết và xây dựng Iraq không bị trì trệ và phá hoại, trong cuộc họp báo bất thường ngày 15.4.2004, TT. George W. Bush tuyên bố cần có một quyết định mới của Liên Hiệp Quốc về Iraq. Lời tuyên bố này chứng tỏ chính phủ Mỹ chịu nhượng bộ và dành vai trò chủ động cho Liên Hiệp Quốc về vấn đề Iraq.
Ngày 16.4.2004, Thủ tướng Anh Tony Blair đã gặp Tổng Thư ký LHQ, Annan Kofi, để bàn về vai trò của LHQ sau ngày chuyển giao quyền lực cho Iraq vào 30.6.2004. Thủ tướng Anh đã hội đàm với TT. Mỹ. Trong cuộc họp báo ngày 16.4.2004, hai nhà lãnh đạo cám ơn sự nhận lãnh trách nhiệm của LHQ trong việc điều hành và ổn định tình trạng chính trị của Iraq trong tương lai.
Tuy nhiên, trước sự khủng bố, tấn công và bắt cóc người ngoại quốc đang xẩy ra tại Iraq, người ta lo ngại không biết có bao nhiêu quốc gia sẽ tình nguyện đưa quân tới đất nước này, dù dưới cờ Liên Hiệp Quốc?
Thực tế cho thấy vấn đề Iraq là một bài học “xương máu” của chính phủ Mỹ và cũng là tấm gương soi chung cho các quốc gia về lãnh vực tôn giáo, khi hướng về một trật tự mới của thế giới và chương trình “Toàn Cầu Hóa” của nhân loại.
Tây Ban Nha bạo lực khủng bố Al-Qaeda đã lật đổ một chính quyền?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Ngày thứ năm, 11.3.2004,
hàng loạt bom nổ trên các toa xe lửa tại Thủ đô Madrid, Tây Ban Nha, đã giết chết 200 người và khoảng 1.500 người bị thương. Cuộc khủng bố làm cho dân chúng Tây Ban Nha vô cùng xúc động và kinh hoàng. Cả thế giới đều hướng về Madrid và nhiều câu hỏi được đặt ra:
- Nếu đây là hành động của tổ chức al-Qaeda nhằm trả đũa Hoa Kỳ và Đồng Minh Tây Phương can thiệp vào Iraq, thì quốc gia nào sẽ là mục tiêu kế tiếp của Osama bin-Laden và đồng bọn?
Để trả lời cho thắc mắc này, mời quí độc giả cùng hướng về Tây Ban Nha.
I- ĐÔI DÒNG VỀ TỔ CHỨC KHỦNG BỐ “ETA”
Ngay từ đầu, Thủ tướng Aznar đổ tội ngay cho tổ chức khủng bố ETA chủ mưu trong các vụ nổ ngày 11.3.2004. Tại sao?
Để quí độc giả có thể hiểu rõ hơn về lời cáo buộc của Thủ tướng Juan Maria Aznar, chúng tôi xin trình bày qua về tổ chức ETA.
-1937: Tướng Francisco Franco lên nắm chính quyền và chiếm đóng xứ Basque, phần đất phía Bắc Tây Ban Nha và phía Nam nước Pháp. Các cuộc đấu tranh đòi độc lập của người dân miền Basque đều bị trừng trị thẳng tay. Dưới thời cai trị của Francisco Franco, ngôn ngữ Basque bị cấm, trí thức và chính trị gia có tinh thần đấu tranh bị bắt giam, tra tấn và thủ tiêu.
-1959: ETA, một tổ chức ly khai có vũ trang do sinh viên thành lập đã tiến hành chiến dịch đòi độc lập 4 tỉnh lớn ở miền Bắc Tây Ban Nha: Vizcaya, Guipuzcoa, Alava, Navarra và 3 tỉnh miền Tây Nam Pháp: Labourd, Basse-Navarra, Soule.
ETA là chữ viết tắt của tiếng địa phương “Euskadi Ta Azkatasuna”, có nghĩa “Tổ Quốc Basque Tự Do”. Để đạt được mục đích, ETA đã phát động một chiến dịch với các hành động khủng bố như đánh bom, ám sát, bắt cóc tống tiền...
Tổ chức ETA có một bộ phận đại diện về chính trị của mình là đảng Herri Batasuna, cơ quan ngôn luận của ETA ra đời vào năm 1986. Muốn đạt được mục tiêu, ETA đã thực hiện các cuộc khủng bố trên toàn Tây Ban Nha. Những cuộc khủng bổ điển hình được ghi nhận như sau:
-1961: ETA mở cuộc khủng bố đầu tiên vào xe lửa chở các cựu chiến binh Tây Ban Nha.
-1968: ETA ám sát cảnh sát trưởng tại Villabora thuộc tỉnh San Sebastian.
-1973: Thủ tướng Luis Carrevo Blanco, người sẽ kế nghiệp Franco bị giết chết trong vụ xe cán lên mìn nổ ở Madrid.
-1974: ETA đặt bom nổ tại quán cà phê ở thủ đô khiến cho 12 người chết.
-1975: Nhà độc tài Franco từ trần. Tây Ban Nha bước qua giai đoạn tự do dân chủ.
Cái chết của tướng Franco đã đem lại những biến chuyển tốt đẹp cho hơn hai triệu dân Basque. Đó là những qui chế chính trị ưu đãi dành cho dân tộc này như: vùng Basque được hưởng quy chế tự trị: có nghị viện, lực lượng cảnh sát, hệ thống giáo dục và thuế khóa riêng. Tuy vậy, tổ chức ETA và những người ủng hộ tổ chức này vẫn đòi độc lập hoàn toàn cho xứ sở của mình.
-1980: ETA thực hiện một trong các vụ khủng bố bằng bom lớn nhất khiến cho 118 người chết.
-1986: Một Phó Đô đốc bị ETA giết ở Madrid bằng lựu đạn tay. Trong cùng thời gian, 12 cảnh sát bị tử thương vì xe chứa bom nổ tại Zaragora.
-1987: ETA đặt bom nổ ở siêu thị ở Barcelona gây cho 21 người chết.
-1991: ETA đặt bom nổ ở một đồn lính khiến cho 9 chết, 45 bị thương.
-1995: José Maria Aznar, năm đó là thủ lãnh Quốc Dân đảng thoát chết trong vụ ETA đặt bom dưới xe. Cùng năm này, vua Juan Carlos thoát chết trong một cuộc ám sát.
-1996: 9 bom nổ tại các khu du lịch và 35 du khách Anh bị thương vì bom nổ ở phi trường Tarragona.
-1997: Một nhân viên trong Hội Đồng thành phố vùng Basque bị bắt cóc và sau hai ngày bị giết, vì yêu cầu di chuyển tù nhân về vùng Basque của ETA bị từ chối.
-1998: ETA đặt chất nổ trong xe giết chết luật sư biện hộ Manuel Zamarreno. Cùng năm này ETA tuyên bố ngưng chiến.
-1999: Tháng sáu, Chính phủ tuyên bố muốn thảo luận với ETA về ngưng chiến. Tháng tám ETA cắt đứt cuộc dàm phán và tuyên bố hủy bỏ việc ngưng chiến vào tháng 12.
-2000: 18 ký giả, chính trị gia và nhân viên chính phủ bị tử thương vì ám sát và bom nổ. Cùng trong năm, ETA khủng bố bằng 4 xe chứa chất nổ đưa tới kết quả: 4 người chết và 30 bị thương.
-2001: 2 chính trị gia và một quan tòa bị giết. Cùng thời gian này xẩy ra nhiều vụ bom nổ khiến cho 100 người bị thương.
- 2002: Đảng Batasuna bị cấm hoạt động vì dính líu tới các cuộc khủng bố của ETA
-2003: ETA đặt 2 bom nổ ở Anicante vài xe chứa bom nổ tại Sanguesa và Benidorm khiến cho 13 người bị thương.
-2004: ETA tuyên bố ngưng chiến tại Catalonia. Ngày 29.1.2004, cảnh sát bắt được một xe chở 500 ký thuốc nổ. Đây là dữ kiện mà chính phủ Tây Ban Nha không ngần ngại qui trách cho ETA nhúng tay vào vụ khủng bố lớn nhất ngày 11.3.2004.
II- TẠI SAO CHÍNH PHỦ TÂY BAN NHA CỨ NHẤT QUYẾT ĐỔ TỘI CHO ETA?
- Vì các hoạt động trong quá khứ của ETA
Như đã trình bày ở trên, các hoạt động khủng bố đã tạo nên ấn tượng xấu về ETA đối với chính phủ và dân chúng Tây Ban Nha trong suốt 30 năm qua. Chính vì vậy mà bất cứ cuộc khủng bố nào xẩy ra trên lãnh thổ, ETA luôn bị lên án là kẻ chủ mưu.
- Vì chính sách ủng hộ Hoa Kỳ của chính phủ Aznar trong cuộc chiến tranh Iraq.
Cuộc khủng bố xẩy ra vào ngày thứ năm, 11.3.2004, ba ngày trước cuộc bầu cử Quốc hội của Tây Ban được tổ chức vào ngày Chúa Nhật, 14.3. 2004. Trước cuộc chiến Iraq, đa số dân chúng không tán thành quyết định của chính phủ Mỹ về vấn đề Iraq. Sau cuộc chiến, dân chúng cũng chống lại quyết định của Thủ tướng Aznar đưa quân tới Iraq, vì Al Qaeda từng cảnh cáo sẽ trả thù các quốc gia ủng hộ Hoa Kỳ.
Để tránh bị thất bại trong cuộc bầu cử và bào chữa cho quyết định đứng chung chiến tuyến với Mỹ, chính phủ Aznar đã lái dư luận và sự phẫn nộ của quần chúng về phía ETA. Mặc dù ngay ngày 11.3.2004, đảng Herri Batasuna của ETA, qua Arnold Ortegi đã tuyên bố với đài phát thanh, truyền hình và nhật báo Gara là ETA không nhúng tay vào vụ khủng bố trên các tuyến xe lửa ở Madrid. Ortegi cũng quả quyết là ETA luôn báo trước về hành động của mình. Lỗi ở đây có thể tìm ra nơi mạng lưới của người Ả-rập.
Kế hoạch chuyển hướng dư luận và sự thiếu thành thật của chính phủ trong các vụ điều tra nhằm đưa ra ánh sáng các thủ phạm là nguyên nhân đưa tới sự bất mãn của cử tri. Kết quả cuộc bầu cử ngày 14.3.2004 đã chứng tỏ dân chúng, vì sợ bị khủng bố, đã “khai tử”õ đảng Bảo Thủ (PP) cầm quyền và dồn phiếu cho đảng Xã hộI (PSOE).
Kết quả bầu cử Quốc hội ngày 14.3.2004 được ghi nhận như sau:
-Đảng Xã Hội (PSOE): 43% = 163 ghế
-Đảng Nhân Dân (PP): 38% = 148 ghế (mất 37)
-Đảng xứ Calatan (CiU ): 3%
-Đảng Cánh Tả Cộng Hòa Catalonia (ERC): 2,5%
-Đảng Cánh Tả Đoàn Kết (IU): 5%
Số ghế trong Quốc hội: 350
Muốn đạt được đa số trong Quốc hội, đảng muốn nắm chính quyền phải chiếm được 176 / 350 ghế, hoặc liên kết với các đảng khác để có đủ số phiếu ấn định.
III- CÓ PHẢI AL-QAEDA LÀ THỦ PHẠM?
3.1- Nguồn tài liệu từ Viện Nghiên cứu Quốc phòng của Na Uy
Dựa vào một tài liệu bằng tiếng Ả-rập trên Internet đầu năm 2004 của tổ chức Truyền Thông Islam Toàn Cầu (Global Islamisk Medier), Brynjar Lia, trưởng ban nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quốc phòng Na Uy, cho biết cuộc khủng bố Tây Ban Nha sẽ xẩy ra vào dịp bầu cử quốc hội. Khủng bố sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả bầu cử, đảng Xã hội sẽ thắng và rút quân khỏi Iraq. Lý do của sự nhận định là Tây Ban Nha có nhiều yếu điểm so với các Đồng Minh khác của Hoa Kỳ tại Âu Châu.
3.2- Nguồn tin của chính phủ Tây Ban Nha
Ngày 11-13.3.2004, trong khi khám nghiệm hiện trường, cảnh sát phát hiện 7 kíp nổ cùng một cuốn băng ghi âm kinh Koran trên một chiếc xe tải tại Alcala, nơi xuất phát của 3 trong số 4 chuyến tàu bị đặt bom. Bằng chứng này chứng tỏ tổ chức al-Qaeda chủ mưu trong vụ khủng bố.
Tuy vậy, Bộ trưởng Nội vụ Angel Acebes vẫn khẳng định tổ chức ETA là đối tượng tình nghi số một. “ETA lâu nay vẫn tìm cách gây ra cuộc thảm sát, lần này không may chúng đã thành công”. Theo Acebes, sự kiểm chứng cho thấy thuốc nổ dùng trong vụ tấn công là loại dynamite thường được ETA sử dụng.
Ngoài ra, Bộ trưởng Nội vụ cũng tuyên bố cảnh sát đã tìm được một bom không nổ tại khu chứa hành lý của xe lửa. Nguồn tin từ văn phòng thủ tướng còn cho hay, những kẻ đánh bom đã sử dụng titadine, một loại thuốc nổ dynamite nén. Đây cũng là chất nổ tìm thấy trong một xe vận tải chứa bom trên đường tới Madrid bị chặn bắt hồi tháng trước. ETA đã bị quy trách nhiệm cho vụ tấn công bất thành đó.
Ngày thứ sáu 12.3.2004, đài phát thanh Cadena Ser lại cho rằng các bom nổ được điều chỉnh bằng điện thoại lưu động (mobil) và một bộ phận kích nổ không phải là loại mà ETA thường dùng.
Sau nhiều cuộc điều tra có sự phối hợp với cơ quan an ninh của Ma-rốc, Do Thái và Âu Châu, cảnh sát Tây Ban Nha cho biết nhóm quá khích Islam gây ra vụ khủng bố ở Cassablanca, Ma-rốc, là thủ phạm. Vụ khủng bố bằng bom tự sát vào mùa Xuân năm ngoái ở Cassablanca nhằm vào người Tây phương và Do Thái, đã gây cho 44 người chết, trong số này có cả 13 tên khủng bố.
Theo báo El Mundo thì tên chủ chốt người Ma-rốc có liên quan tới tổ chức khủng bố thế giới al-Qaeda. Khi cảnh sát lục soát tư gia của các nghi can, họ đã tìm thấy điện thoại và phim video khuyến khích thánh chiến (Jihad). Ngày 16.3.2004, do sự nhận diện của hai nạn nhân sống sót trong cuộc khủng bố, cảnh sát đã bắt được Jamal Zougam, tên chủ chốt thuộc nhóm khủng bố Salafia Jihadia. Qua kế hoạch kiểm soát hệ thống truyền thông, cảnh sát Tây Ban Nha biết thêm được Yazkas, thủ lãnh của nhóm này ở Tây Ban Nha, từng liên lạc bằng điện thoại cho đồng bọn ở Aarhus và Greve, Đan Mạch, nhằm quyên tiền và tuyển mộ thanh thiếu niên Islam tình nguyện vào đoàn quân “Thánh chiến”.
3.3- Nguồn tin của tổ chức khủng bố Al-Qaeda
Báo al-Quds ở thủ đô Luân Đôn nhận được bức thư dài 5 trang được coi là của al-Qaeda xác nhận họ đã chủ động trong vụ khủng bố. Trong thư bọn khủng bố nói là để trả đũa các cuộc “Thập Tự Chinh”õ và Đồng Minh Hoa Kỳ trong chiến tranh chống lại Islam. Thư được ký tên dưới danh hiệu “Binh đoàn Abu Hafs al-Masri”õ. Binh Đoàn lấy tên của thủ lãnh al-Qaeda bị phi cơ Mỹ oanh kích chết tại A Phú Hãn vào năm 2001. Trong thư có đoạn cảnh cáo trực tiếp thủ tướng Juan Maria Aznar:
“Aznar, giờ người Mỹ đâu rồi. Ai sẽ bảo vệ các ngươi khỏi tay chúng ta, Anh quốc, Úc, Ba Lan, Ý Đại Lợi và các nước khác...?”
Tòa báo này cũng nhận được các thư tương tự của Binh Đoàn liên quan tới các vụ bom nổ giáo đường của Do Thái ở Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 11.2003 và cuộc khủng bố văn phòng chính của Liên Hiệp Quốc tại Iraq trong tháng 8.2003.
IV- LÃNH ĐẠO ÂU CHÂU LÊN ÁN VỤ ĐÁNH BOM MADRID
-Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nhận định rằng: “ Cuộc tấn công không thể biện minh, là sự xúc phạm tới Thiên Chúa “.
-Bertrand Ramcharan, quyền chủ tịch Cao ủy LHQ về nhân quyền, nhấn mạnh: bọn khủng bố cần biết rằng, với những cuộc tấn công chết chóc như vụ đánh bom Madrid không thể hủy hoại luật pháp quốc tế và quyền con người mà cộng đồng quốc tế đã xây dựng từ bấy lâu nay.
-Thủ tướng Anh Tony Blair nhận định: “Cuộc tấn công khủng khiếp này làm nổi bật mối nguy cơ bị khủng bố mà chúng ta phải đối diện tại nhiều quốc gia. Đó là lý do khiến tất cả chúng ta cần phải hợp tác trên bình diện quốc tế, để bảo vệ dân chúng trước những cuộc tấn công tương tự, và đánh bại chủ nghĩa khủng bố”.
-Tổng thống Pháp Jacques Chirac khẳng định: “Không gì có thể biện minh cho hành động vô trách nhiệm này và dù dựa trên bất cứ quan điểm nào, nó vẫn bị lên án.”
-Tổng thống Bồ Đào Nha Jorge Sampaio gửi lời chia buồn tới vua Juan Carlos và cho rằng hành động khủng bố là chống lại dân chủ và nền hòa bình của thế giới.
-Tổng thống Mỹ, George W. Bush, tuyên bố là quân khủng bố giết hại dân lành với mục tiêu làm cho thế giới co cụm lại vì sợ hãi. Đồng Minh của Hoa Kỳ hãy đoàn kết chống khủng bố và tân chính phủ của Tây Ban Nha hãy tiếp tục duy trì lực lượng quân sự tại Iraq.
V- CUỘC BIỂU TÌNH VĨ ĐẠI TẠI THỦ ĐÔ MADRID NHẰM PHẢN ĐỐI QUÂN KHỦNG BỐ
Vào ngày thứ bẩy, 13.3.2004, có tới hơn 2 triệu người tham gia vào cuộc biểu tình chống khủng bố tại các quảng trường của thủ đô Madrid và khu vực xung quanh nhà ga Atocha. Dẫn đầu đoàn biểu tình có Hoàng gia Tây Ban Nha gồm thái tử Felipe, công chúa Elena và Cristina, Thủ tướng Jose Maria Aznar.
Chia sẻ niềm đau của dân chúng và chính quyền Tây Ban Nha, các nhà lãnh đạo châu Âu gồm Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi, Thủ tướng Pháp Jean-Pierre Raffarin, Thủ tướng Ái Nhĩ Lan Bertie Ahern, Chủ tịch Ủy ban Đặc nhiệm Liên hiệp Âu Châu Romano Prodi, Phó thủ tướng Anh John Prescott và các Bộ trưởng Ngoại giao của các nước trong Liên Hiệp đã cùng tham dự cuộc biểu tình nhằm nói lên sự đoàn kết và quyết tâm chống chủ nghĩa khủng bố.
VI- ẢNH HƯỞNG TAI HẠI SAU CUỘC KHỦNG BỐ Ở TÂY BAN NHA
6.1- Chính phủ George W. Bush mất một Đồng Minh
Sau cuộc bầu cử Quốc hội ngày 14.3.2004, đảng Xã Hội chiếm đa số, sẽ thành lập chính phủ. Chính sách của tân Thủ tướng José Luis Rodriguez Zapatero đã được xác định trước cuộc bầu cử và tái khẳng định sau cuộc bầu cử với đài phát thanh Cadena Ser là: “Lực lượng Tây Ban Nha sẽ rút về nước, nếu Liên Hiệp Quốc không đảm nhiệm việc kiểm soát Iraq từ ngày 1.7.2004”õ.
Sự kiện này có ảnh hưởng bất lợi cho Tổng thống Bush trong cuộc bầu cử vào tháng 11-2004. Nó cũng ảnh hưởng phần nào tới sự liên kết giữa các quốc gia Đồng Minh Tây phương và Hoa Kỳ.
6.2- Sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và Đồng Minh có thể bị rơi vào một cuộc khủng hoảng.
Ngoài đảng Xã Hội Tây Ban Nha, các đảng Cánh Tả của Đan Mạch, điển hình là Holger K. Nielsen, đảng trưởng đảng Dân Xã cũng đòi rút ngay 500 lính Đan Mạch về nước. Nhìn vào sinh hoạt chính trị của Liên Hiệp Âu Châu, người ta nhận thấy các đảng phái có chiều hướng hợp tác hoặc liên minh xuyên quốc gia, đặc biệt là hai khối Dân Chủ Xã Hội và Bảo Thủ. Sự kiện này có thể kiểm chứng qua cuộc chiến Iraq vừa qua. Đảng Xã Hội Tây Ban Nha thắng cử có ảnh hưởng tới các cuộc bầu cử khác và chính sách của các chính phủ trong Liên Hiệp Âu Châu, đặc biệt về lãnh vực đối ngoại.
Người ta thấy cái nực cười của nhiều quốc gia là họ chống Hoa Kỳ can thiệp vào Iraq. Nhưng khi Sađam Hussein bị lật đổ và bị bắt, họ lại hân hoan chúc mừng chính phủ Mỹ và chắc chắn không nước nào muốn thả nhà độc tài này ra.
6.3- Tổ chức al-Qaeda thắng lợi và sẽ làm chủ tình hình thế giới trong tương lai, nếu Đồng Minh chia rẽ và nhiều người sợ bị khủng bố.
Sự kiện Tây Ban Nha đưa tới hậu quả khá nguy hại sau đây:
-Người dân Anh, Ba Lan và Ý Đại Lợi, 3 Đồng Minh lớn của Mỹ ở Âu Châu, bị rơi vào tình trạng lo sợ không biết bao giờ đến lượt mình bị khủng bố?
-Chương trình tiến đến một trật tự mới của thế giới, nhiều hay ít, có thể sẽ bị cản trở. Thay vì hợp tác, người ta lại có khuynh hướng sợ chết, “đèn nhà ai nấy rạng! “õ.
- Nếu vì một sự bất mãn nào đó, Hoa Kỳ không trực tiếp can dự vào nhiều chương trình vãn hồi hòa bình và trật tự trên thế giới, liệu Liên Hiệp Quốc có đủ tài chánh và quyền lực khuất phục các nhà độc tài và tổ chức khủng bố không?
Qua biến cố Tây Ban Nha, người ta thấy hậu quả gì đã xẩy ra ngay sau vụ khủng bố? Phải chăng đó là:
- sự giảm giá trên thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu và nhiều quốc gia Á Châu.
- sự khủng hoảng tài chánh của các hãng hàng không dân sự và du lịch.
- sự bất ổn trong chương trình phục hồi kinh tế và đầu tư.
-sự sợ hãi bị khủng bố của những người yếu bóng vía làm phát sinh phong trào phản chiến “đầu hàng khủng bố!”
- sự bất tuân lệnh của Liên Hiệp Quốc có thể xẩy ra. Trong tuần qua, Iran vừa từ chối sự kiểm soát của Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Thế giới là một bằng chứng điển hình.
Chính vì vậy mà Hoa Kỳ và Đồng Minh phải xét lại chính sách ngoại giao và chống khủng bố. Nếu không, một cuộc chiến tranh tôn giáo trong tương lai sẽ không thể tránh khỏi.
Nếu vấn nạn khủng bố dựa vào tôn giáo không thể giải quyết được, đến một lúc nào đó người ta phải khoanh vùng cho các tôn giáo và một cuộc trục xuất hàng triệu người biết đâu sẽ chẳng xẩy ra.
Nguyễn Cao Kỳ có triển vọng thành cháu ngoan Bác Hồ
Cho tới khi bài này được viết, việc chống đối T-Kỳ vẫn còn mạnh mẽ ở khắp nơi, đặc biệt tại Hoa Kỳ hàng ngàn người Việt đã biểu tình chống đối tại California. Tuy vậy, vẫn có một số người ủng hộ hành động của T-Kỳ như dư luận cho biết trong chuyến về VN lần này, T-Kỳ mang theo một danh sách cả chục tướng lãnh, thuộc loại tráo trở dưới mọi chế độ, để “xin xỏ” Hà Nội cấp visa về nước! Thật là “nhục quốc thể VNCH!”
Để có một cái nhìn khách quan, chúng tôi sẽ phân tích sự kiện dựa trên nhiều tài liệu khác nhau. Việc chỉ trích hay ủng hộ T-Kỳ, chúng tôi xin nhường quyền quí độc giả.
I- NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ CÔNG KHAI LÀM LỢI CHO CỘNG SẢN CỦA T. KỲ SAU KHI VỀ NƯỚC
Qua báo chí, truyền hình và đài phát thanh trong cũng như ngoài nước, chúng tôi được biết T-Kỳ có công an bảo vệ an ninh trong chuyến du hành. Điều này chứng tỏ CSVN có mời T-Kỳ theo kế hoạch đã trù liệu. Các tin tức liên quan tới những lời tuyên bố của T-Kỳ nhằm tâng bốc chế độ CS được báo chí trong nước ghi lại khá đầy đủ. Ở đây, chúng tôi xin trích dẫn một vài đoạn tượng trưng như sau:
-Thông tấn xã VN có loan tin (TTXVN): “Trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc vừa qua, theo nguyện vọng của ông Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Thủ tướng và nguyên Phó tổng thống chính quyền Sài Gòn trước đây, hiện đang sống tại Mỹ, Nhà nước ta đã cho phép ông cùng gia đình được về nước ngày 14.1.04.
Trong thời gian này, ông Nguyễn Cao Kỳ cùng gia đình đã thăm thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội, nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử Hạ Long, Sơn Tây, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang, đồng bằng sông Cửu Long… Tại Hà Nội, ông Nguyễn Cao Kỳ và gia đình đã được ông Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ông Nguyễn Phú Bình, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, phụ trách Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài tiếp...”
-T-Kỳ sẵn sàng hô to khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản muôn năm!”
Theo báo Thanh Niên, ngày thứ ba 27.01.2004, thuật lại thì sau khi được Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (MTTQVN) tiếp đãi tại Hà Nội, T-Kỳ đã tỏ lòng biết ơn và không ngần ngại cúi đầu nịnh hót CSVN như sau:
“Sau khi tận mắt chứng kiến những đổi thay của quê hương… Nếu như Đảng thực hiện được những chính sách đường lối đề ra, đưa đất nước phát triển, làm cho dân giàu nước mạnh, tôi sẵn sàng đứng lên hô: Đảng Cộng sản muôn năm”.
Lời tuyên bố dị hợm của T- Kỳ chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về lịch sử. Liên bang Sô-Viết, một thời bá chủ thế giới CS và làm khiếp đảm Tây phương cũng như Hoa Kỳ; nhưng đất nước Sô-Viết, dù phát triển kỹ thuật cả về khoa học không gian lẫn quân sự trước Mỹ quốc; nhưng tại sao lại sụp đổ? Tại sao ngày nay Nga Sô và các nước Đông Âu phải thay đổi đường lối chính trị và kinh tế để xây dựng đất nước trên cơ sở tự do dân chủ? Giả sử đảng CSVN đạt được mức tiến như Liên-Sô ngày xưa đi nữa, mà tự do dân chủ không có và nhân quyền không được tôn trọng thì sự phát triển đó có lợi gì cho dân tộc VN không? Cũng có thể T-Kỳ lật lọng, “chơi chữ” chăng? Giả sử trong vài chục năm tới CSVN có đạt tới mục tiêu đó đi nữa, thì T-Kỳ đã về nằm với giun dế rồi còn miệng đâu để hoan hô cộng sản muôn năm?
-T-Kỳ tán đồng chủ trương làm nô lệ,
“triều cống Trung Cộng”.
T-Kỳ đã chứng tỏ là một con người vong bản khi lì lợm tuyên bố: “Nếu tôi là lãnh đạo của Việt Nam, tôi sẽ nói với Bắc Kinh rằng tôi sẽ chấp nhận làm thằng em trai (younger brother). Mỗi năm một lần tôi sẽ đến Bắc Kinh để dâng triều cống cho hoàng đế. Nhưng tôi sẽ không bao giờ đồng ý để làm một tỉnh của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc đòi hỏi điều đó, tôi sẽ đến với đại ca (big brother) Hoa Kỳ!”.
-T-Kỳ có thể về VN sinh sống lâu dài?
Theo Điện báo Mạng Mưới Việt Nam, ngày 29.1.2004, trả lời cho phóng viên, T-Kỳ xác định ý muốn trở về gửi nắm xương tàn trên quê hương theo câu tục ngữ người xưa để lại “cóc chết ba năm quay đầu về núi?”
“Tôi sẽ trở về nước nhiều lần nữa, chuyến đi gần nhất có thể là vài tháng tới... Cũng có thể tôi sẽ về Việt Nam sinh sống lâu dài”.
-T-Kỳ, Con Phật đi lễ chùa!
Sau khi thăm Sài Gòn, chơi golf với Võ Viết Thanh, cựu chủ tịch thành phố Sài Gòn; T-Kỳ tiếp tục ra Hà Nội, rồi về thăm nơi chôn nhau cắt rún, tỉnh Sơn Tây. Tại đây, T-Kỳ, vợ, con, cháu và hai người bạn thân (cùng học trường Bưởi Hà-nội năm xưa) đã đi lễ chùa Mía, đã đứng trước bàn thờ Phật dâng hương. Không biết có phải sau khi cho ra đời tác phẩm “Con Phật” (Buddha’s child) viết chung với Marvin J Wolf, T-Kỳ đương nhiên ngoi lên hàng con Phật chính tông, vượt qua các Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức v.v… và bỗng nhiên trở thành người ngoan đạo đáng làm gương cho các tín đồ?
Nhưng nghiệm lại thì thật tội nghiệp cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong nước và ngoài nước. Các Hòa Thượng Quảng Độ, Huyền Quang vẫn còn bị quản chế. Đại Đức Thích Chân Hỷ đã phải tự thiêu vì đạo pháp. Các đoàn thể của phật tử đang tranh đấu cho tự do tôn giáo, đang tố cáo trước dư luận thế giới về việc CSVN đàn áp Phật giáo. Nay thế giới bất ngờ được chứng kiến cảnh cựu Phó Tổng thống VNCH về thăm quê hương và đi lễ chùa tự do như vậy, nếu chỉ nhìn bề ngoài, người ngoại quốc hay đám người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” lại biện hộ cho chế độ Hà-nội là “có gì là đàn áp Phật giáo đâu?”. Hành động của T-Kỳ không chỉ gây bất lợi cho dân, quân, cán chính VNCH, nhưng còn giết chết, một phần hay toàn phần, phong trào đấu tranh của Phật giáo trong cũng như ngoài nước nói riêng và các tôn giáo khác nói chung!
II- Ý KIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT TRONG NƯỚC ĐỐI VỚI T-KỲ
2.1- Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, nhà địa vật lý, người đang đấu tranh cho dân chủ phản đối T-Kỳ về hành động hỗ trợ chính sách của Nhà Cầm quyền Hà-nội chỉ muốn phát triển kinh tế, nhưng vẫn duy trì sự kiểm soát đối với những người khác biệt quan điểm chính trị. TS Giang phát biểu với hãng thông tấn Pháp AFP:
“Bất cứ xã hội nào muốn phát triển đều phải tiến bước cả về kinh tế và chính trị. Nếu quí vị chỉ nhắm về một tiểu điểm quí vị sẽ sớm muộn gì bị thất bại. Nếu quí vị chỉ phát triển kinh tế và quên cải tổ chính trị, xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng què quặt và thiếu thốn”.
2.2- Ông Hoàng Minh Chính trong phần phát biểu với đài phát thanh Á Châu Tự Do, cũng tố cáo T-Kỳ đã “bán rẻ lương tâm… các chiến hữu và dân chúng Việt Nam”. Ông Hoàng Minh Chính nói: “tôi yêu cầu ông Nguyễn Cao Kỳ hãy đối diện với thực tế Việt Nam ngày nay, hãy gặp dân chúng, nói chuyện với người nghèo để hiểu được họ có ủng hộ hay không ủng hộ những gì ông Kỳ đã nói… Ông Kỳ không nói sự thật có thể vì ông ta muốn làm vừa lòng nhà cầm quyền Việt Nam và đảng cộng sản với mục đích bảo đảm cho sự cư ngụ của mình trong thời gian còn lại của đời ông”.
TS. Nguyễn Thanh Giang và ông Hoàng Minh Chính, hai nhân vật quan trọng này, ngày 22.12.2001, đã ký tên trên “Đơn chất vấn và yêu cầu của các cử tri công dân về Hiệp định Biên giới và lãnh hải Việt-Trung” để phản đối Nhà Cầm quyền quyết định nhượng đất và lãnh hãi VN cho Trung Cộng.
2.3- Ngoài dân chúng và báo chí CS cũng nêu lên những bất mãn của dư luận trong nước:
“Sao Nhà Nước lại cho cái con người đã từng tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa chống lại dân tộc, gây ra bao nhiêu đau thương tang tóc cho nhân dân Việt Nam, mặc dù cuộc chiến tranh ấy đã lùi xa, về thăm quê được?”.
Lịch sử thế giới và VN đã chứng minh rằng các chế độ cộng sản khát máu không thua gì Hitler. T-Kỳ lại coi Hitler là thần tượng thì đúng là tri kỷ rồi. Báo Los Angeles Times có viết: “… Kỳ là Tướng Không quân Miền Nam Việt Nam làm Thủ tướng năm 1965 sau cuộc đảo chánh quân sự. Các viên chức Mỹ đã lo ngại về Kỳ, người có sở thích rượu chè, cờ bạc, trai gái và phát biểu rất hung hăng. Có lần khi được hỏi ông ta ngưỡng mộ ai nhất, Kỳ nêu ngay Hitler!” Chính vì vậy mà một viên chức ngoại giao Mỹ gọi Kỳ là: “Một hỏa tiễn không hướng dẫn!” Có thể hiểu nôm na theo người Việt là “Bò điên!”
III- PHẢN ỨNG CỦA NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI
-Ngoài các tổ chức, đoàn thể, đảng phái đã ra tuyên cáo lên án T-Kỳ, ngày 17.1.2002, cựu Chủ tịch Hạ Viện và Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn đã phát biểu như sau:
“Lẽ ra không nên nói vì ông Kỳ đã chứng tỏ ông là người thế nào đối với bạn bè, đàn em và đồng bào cũng như đồng đội nhiều rồi. Nhưng vì khi về Việt Nam ông đã tuyên bố vung vít và đã được giới truyền thông báo chí quốc tế loan tải. Điều đó có thể gây hiểu lầm đối với nhân dân và chính quyền các nước trên thế giới cũng như của phong trào nhân dân trong và ngoài nước đã từng ủng hộ và trực tiếp tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.”
- Hòa Thượng Thích Tâm Châu, một trong các nhà lãnh đạo có uy tín nhất của Phật giáo VN hải ngoại cũng tuyên bố: “Tất cả chúng ta là người tỵ nạn Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã thấy, đã hiểu về chủ nghĩa ấy và một ngày nào đó chủ nghĩa ấy sẽ không còn. Chúng ta không nên trái với ý nghĩa ty nạn của chúng ta và chúng ta không dại gì làm nô lệ cho cộng sản, để chúng kéo dài sự thống trị tàn ác đối với đồng bào ruột thịt của chúng ta tại trong nước.”
Quí vị muốn biết rõ lập trường của Phật Giáo chính tông chống CS, hãy vào mạng lưới Internet: radio octm.com/program/0ht_ttchau.ram để nghe Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Châu nói gì trong Thông điệp Mùa Xuân 2004?
IV-VAI TRÒ T-KỲ TRONG TƯƠNG LAI
Chúng tôi ghi nhận có một số biến cố quan trọng đã xẩy ra mà các nhà phân tích thời cuộc cho rằng nó có ảnh hưởng một phần hay toàn phần tới chuyến về thăm quê hương của T-Kỳ.
1- T-KỲ là con bài của Mỹ?
Khi T-Kỳ về VN, đã có nhiều câu hỏi là có bàn tay của chính phủ Mỹ nhúng vào hay không? Để trả lời cho thắc mắc này, chúng tôi xin trích dẫn nguồn tin đăng trên tờ Nữu Ước Thời Báo (New York Times):
Báo New York Times ra ngày 26.1.2004 có viết: “Chuyến về thăm của Kỳ được nhà cầm quyền Hà-nội chấp thuận vì họ muốn cải thiện mối quan hệ với Hoa Kỳ, đặc biệt giữ cán cân thăng bằng đối với Trung Quốc, láng giềng của Việt Nam và một lần là kẻ xâm lược… Chuyến đi của ông Kỳ, dù không chính thức, sau sân khấu có sự khuyến khích từ chính phủ Bush. Năm ngoái, một viên chức Mỹ đề nghị với chính quyền ở đây rằng cố gắng sửa lại hàng rào ngăn cách với ông Kỳ như là cách thức giúp Việt Nam làm đẹp bộ mặt tại Hoa Kỳ. Nắm ngay ý tưởng này, Thứ trưởng Ngoaiï giao, Nguyễn Phú Bin đã tới San Francisco vào mùa Xuân vừa qua và gặp mặt ông Kỳ. Ông Bin giờ là đại sứ Việt Nam tại Pháp quốc, đã đề nghị chuyến về thăm Việt Nam…”
Theo báo Los Angeles Times, T-Kỳ về thăm quê hương được công an bảo vệ an ninh và cùng tháp tùng trong chuyến đi có cả hai Tướng hồi hưu người Mỹ, Corbin Cherry và Wayne Hoffman. Hai Tướng này nguyên là Tuyên úy Tin lành của quân đội Hoa Kỳ. Hai ông gặp T-Kỳ ở California năm ngoái và cùng chơi golf với nhau. Tướng Corbin Cherry tuyên bố một cách ví von khôi hài: “sự trở về của một ông vua” (the return of a king).
Báo này viết “Kỳ nói ông ta tin rằng đất nước mình đang xa dần dần đường lối cai trị độc đoán. Chủ nghĩa cộng sản không còn. Đó là lý do mà tôi muốn chứng minh trong chuyến du lịch của tôi”.
Lời phát biểu này chứng tỏ T- Kỳ chưa đọc hay cố tình không muốn hiểu gì về hiến pháp của CSVN vẫn duy trì chế độ độc tài đảng trị và “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa!”
2- T-Kỳ là con bài của CSVN?
Người ta không còn ngạc nhiên khi nhận ra rằng, trước khi T-Kỳ về VN, nhà sách Công An Nhân Dân đã xuất bản một quyển sách nói về T-Kỳ với tựa đề và lời giới thiệu như sau:
Tướng Râu Kẽm (A General with a “Zin Moustache” của Ha The Dung:
“Nguyễn Cao Kỳ từng là không quân, Thủ tướng, Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn. Cùng với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ là hai kẻ đồng lõa mở cửa cho năm mươi vạn quân viễn chinh Mỹ kéo vào miền Nam. Ngày nay ranh giới đúng sai, công tội đã rõ. Tập truyện này không nhằm phê phán tội lỗi do Nguyễn Cao kỳ và đồng bọn gây ra thảm họa đối với dân tộc mà chỉ đề cập vài nét tính cách, đặc biệt là vận hội của Kỳ (Kỳ đi chệch khỏi con đường lựa chọn ban đầu theo Việt Minh chống ngoại xâm)”. Công An Nhân Dân – 2002
Phải chăng con bài Nguyễn Cao Kỳ đã được chuẩn bị ném vào bàn cờ “Hòa hợp Hòa giải” từ năm 2002? CSVN tha tội cho T-Kỳ hay chính ông “thú tội vì lầm đường?” Cả hệ thống CS Liên Sô và các nước Đông Âu đã thú tội theo chủ nghĩa cộng sản là sai lầm. Nay T-Kỳ và CSVN lại hành động ngược lại lịch sử và trào lưu tiến hóa của nhân loại!
Phải chăng đã đến lúc CSVN ý thức được đề nghị đổi mới là hợp lý? Tưởng nên nhắc lại về sự kiện hai cán bộ cao cấp của CSVN đã bị cách chức vì có tư tưởng “đổi mới”! Cách nay hơn 10 năm Trần Xuân Bách, ủy viên Bộ Chính Trị Đảng kiêm thường trực Ban Bí Thư Trung Ương Đảng bị cách chức vào năm 1990, vì chủ trương đa đảng và Nguyễn Cơ Thạch, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao bị bắt buộc phải từ chức, về hưu năm 1991, vì đã tuyên bố trước Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 10 năm 1990 như sau:
“...mục đích của chúng tôi là xây dựng một xã hội vì dân, nhưng trên thực tế đây là một xã hội của nhà nước và do nhà nước. Rõ ràng là việc xây dựng một xã hội của dân, do dân và vì dân đòi hỏi phải đổi mới không chỉ về kinh tế mà trên mọi lãnh vực bao gồm kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị...”
Kể từ đó, không còn nhân vật cao cấp tiến bộ nào của CSVN dám đòi hỏi đổi mới về chính trị. Không biết ngày nay CSVN đã thực sự hiểu được sự cấp thiết này chưa và có phải T-Kỳ được sử dụng trong ván bài này?
3- Các sự kiện đáng quan tâm khác khiến cho người ta tin tưởng có sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ về vấn đề Việt Nam:
-Chiến hạm USS Vandercrift bất ngờ tới thăm Sài Gòn ngày 11.11.2003.
-Bộ trưởng Quốc phòng CSVN, Tướng Phạm Văn Trà thăm Hoa Kỳ từ ngày 9 tới 14 tháng 11.2003 và hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Ronald Rumfeld, về vấn đề an ninh khu vực và thế giới.
-Cùng trong thời gian này, Phó Thủ tướng Việt Cộng, Vũ Khoan, qua Mỹ thắt chặt tình thân hữu và bàn bạc với Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Colin Powell về vấn đề xin gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới (WTO) vào năm 2005
-Phái đoàn tham mưu cao cấp của Quốc hội Mỹ do chủ tịch ủn ban Tham mưu, Eric Eikenberg, hướng dẫn đã tới thăm Sài Gòn trong thượng tuần tháng hai.
-CSVN dựa hơi Hoa Kỳ trong ván bàn lươn lẹo với Trung Cộng về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Vì thế, cùng thời điểm T-Kỳ thăm quê hương, có các cuộc thương thảo giữa Việt Cộng và Trung Cộng về nhượng lãnh hải. Người ta thắc mắc vì lý do gì mà bảo tàng viện Đà Nẵng lại “Trưng bày tư liệu lịch sử về quần đảo Hoàng Sa ngày 29.01.2004” như bản tin dưới đây:
Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng Hà Phước Mai cho biết: Bảo tàng Đà Nẵng đã mở cửa phòng trưng bày “Những tư liệu lịch sử về huyện đảo Hoàng Sa-Đà Nẵng, lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại số 78 Lê Duẩn, quận Hải Châu, Đà Nẵng. Những tư liệu lịch sử này bao gồm 100 loại bản đồ, sơ đồ, bút tích, bản trích, mô hình, tư liệu gốc... khẳng định chủ quyền lãnh thổ của VN. Theo các tư liệu này, từ lâu Hoàng Sa, cũng như Trường Sa, đã thuộc lãnh thổ VN với tên gọi Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa). Quần đảo Hoàng Sa gồm 30 đảo (đá san hô và bãi cạn) nằm ở khu vực biển giữa vĩ độ 15o45’B - 17o45’B và kinh độ 111oĐ - 113oĐ trên vùng biển rộng cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) khoảng 140 hải lý. Diện tích toàn bộ phần đất nổi của quần đảo khoảng 10km2 và đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất với 1,5km2.
Dưới triều Nguyễn, quần đảo Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Nam; năm 1938 thuộc tỉnh Thừa Thiên. Năm 1961, Hoàng Sa được gọi là xã Định Hải, quận Hoà Vang thuộc tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng. Sau khi Đà Nẵng trở thành TP trực thuộc TW theo quyết định số 07/CP ngày 23.11.1996 của Chính phủ, Hoàng Sa trở thành một trong bảy quận, huyện của TP Đà Nẵng.
-Ngày 9.2.2004, Thượng tướng Phùng Quang Thạnh đã tiếp đô đốc Thomas Fargo Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Phải chăng có sự đi đêm nào đó giữa Việt Cộng và Hoa Kỳ trong ván bàn cầm chân Trung Cộng tại biển Đông và vấn đề chủ quyền VN trên Hoàng Sa và Trường Sa?
-CSVN muốn thay đổi chính sách thân Mỹ theo chân Trung Cộng? Nhiều người lấy làm lạ: năm 1989, sinh viên Tầu biểu tình đòi tự do dân chủ trước quảng trường Thiên An Môn đã bị nhà cầm quyền Trung Cộng đem xe tăng nghiền nát hàng trăm người, khiến cho cả thế giới đều lên án. Nhưng đối với Nhà Nước Trung Cộng thì ngược lại! Ngày 11.9.2002, họ đã mời cựu Tổng thống Mỹ, Jimmy Carter sang thuyết trình về dân chủ tại đại học tổng hợp Bắc Kinh, nơi mà 4 năm trước đã phát động cuộc tranh đấu hào hùng! Điều này chứng tỏ đảng cộng sản Trung Quốc đã đi trước VN trong vấn đề thân thiện với Hoa Kỳ. Như vậy tại sao Nhà cầm quyền VN không qua mặt đàn anh Tầu, trực tiếp bắt tay với Mỹ để cải tổ và phát triển đất nước mà cứ phải bám đít Trung Cộng?
4- T-Kỳ “có thể” được đề cử vào chức vụ Cố vấn Thủ Tướng CSVN, trong “Ban Nghiên Cứu”, hoặc một chức vụ trong tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc VN?
Cho tới khi bài này được viết, chúng tôi chưa có tài liệu của Nhà Cầm quyền CSVN công bố chính thức mời T-Kỳ vào một chức vụ. Nhưng qua báo Lao Động dưới đây, chúng tôi xin dè dặt tạm đưa ra lời tiên đoán như trên.
“Việt kiều có thể làm chuyên gia tư vấn cho Thủ tướng
Thủ tướng vừa ban hành Quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và quy chế hoạt động của Ban nghiên cứu của Thủ tướng. Theo đó, một số chuyên gia người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đang làm việc ở các cơ quan khác hoặc đã nghỉ hưu, không thuộc biên chế chính thức của Ban có thể làm chuyên gia tư vấn, cộng tác viên…”
Dù thế nào đi nữa, T-Kỳ hãy coi gương cựu Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh, Tiến sĩ kinh tế học, chồng tài tử màn mạc Thẩm Thúy Hằng. Năm 1975, Thủ tướng Oánh không di tản đi ngoại quốc mà ở lại quê hương để cố vấn CSVN phát triển kinh tế. Thực tế chứng minh gì? TS Oánh chỉ là kẻ “sai đâu làm đấy” và tên tuổi bị lu mờ luôn cả ở trong nước lẫn ở ngoại quốc. Việt Nam vẫn “nghèo rớt mùng tơi” vì ai?
Đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống VNCH một ngày, ra lệnh cho toàn quân buông súng đầu hàng ngày 30.04.1975, để rồi được CSVN ban cho cái gì? Một cái chết âm thầm như kẻ vô danh?!
KẾT LUẬN
Để kết luận, chúng tôi xin mượn lời Bà Đặng Tuyết Mai (qua Internet), vợ thứ hai đã cùng T-Kỳ “Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi”, phát biểu như sau:
“Ông Kỳ nhà tôi có một biệt tài là tự thắt giây thòng lọng rồi đưa cổ mình vào!”
Liệu T-Kỳ có thành công về vai trò “Tráng sĩ Kinh Kha” hay lại trở thành đứa con phản phúc “Từ Thứ qui Tào” trong ván bài tháu cáy giữa CSVN, Trung Cộng và Hoa Kỳ
Cựu Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ. Một Tay Chống Cộng Sừng Sỏ Nhất, Nay Đầu Hàng Cộng Sản!!
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Ngày 14.1.2004, như một trái bom nổ trong cộng đồng người Việt hải ngoại, Tướng Kỳ, cựu Phó Tổng thống VNCH đã về thăm quê hương. Sự trở về của ông ta làm chấn động nhiều người, đặc biệt các chiến hữu cùng chung giới tuyến chống cộng sản trong chiến tranh Việt Nam. Tại sao T. Kỳ tự muối mặt và làm mất danh dự mình, cũng như làm hại thanh danh của tập thể Quân, Cán, Chính VNCH, chỉ vì quyền lợi cá nhân thấp hèn?
Vì T. Kỳ là nhân vật quan trọng thứ hai của chế độ VNCH, một nhân vật quần chúng, mà mỗi việc làm không hợp lý của ông ta, dù với tư cách cá nhân, cũng không ít thì nhiều làm tổn thương đến tập thể người Việt tỵ nạn. Vì thế, chúng tôi sẽ lần lượt trình bầy các điểm sau đây:
I- ĐÔI HÀNG VỀ T. KỲ
Theo người dân cùng quê Sơn Tây kể thì ông Nguyễn Cao Hiếu (hay còn gọi là cụ giáo Hiếu) sinh được 2 gái đầu và cậu con trai tên Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ sinh năm 1930, học ở Sơn Tây hết lớp 4 rồi được cha gửi ra Hà-nội học tại trường Bưởi (Chu Văn An ngày nay). Sau đó ông bị Pháp bắt đi lính và được học trường Sĩ quan Trừ bị khóa I Nam Định; rồi được gửi qua Pháp học lái máy bay tại căn cứ Không quân Marrakech ở Ma-rốc.
Nói đến T. Kỳ, nguyên Tư lệnh Không quân, Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và Phó Tổng thống, người ta liên tưởng ngay tới một ông tướng đã được giới báo chí và chính trị Miền Nam tặng cho cái biệt hiệu “cao bồi, ba hoa chích choe”. Đa số chính trị gia đều nhận định rằng: T. Kỳ chỉ thích hợp trong vai trò thi hành trách nhiệm về quân sự. Còn về chính trị thì ông ta không thể là một lãnh tụ. Tuy nhiên “thời thế” đã tạo nên con người Nguyễn Cao Kỳ.
Như mọi người biết, sau khi TT. Ngô Đình Diệm bị một số tướng lãnh phản nghịch, theo lệnh C.I.A, lật đổ và giết chết trong biến cố 1.11.1963; tình hình chính trị Miền Nam trở nên bất ổn từ nông thôn tới thị thành. Các cuộc đảo chánh, chỉnh lý và bạo động; xung đột giữa Công giáo và Phật giáo đã xẩy ra liên tục. Tướng Nguyễn Khánh từ Quân đoàn II về Sài Gòn chỉnh lý và cướp quyền lực từ Tướng Dương Văn Minh. Để tiếp tục tổ chức guồng máy quốc gia, Thượng Hội Đồng Quốc Gia (THĐQG) đượïc thành lập, do cụ Phan Khắc Sửu làm chủ tịch, tức Quốc Trưởng, và Chính phủ đầu tiên do Thủ tướng Trần Văn Hương lãnh đạo ra mắt ngày 4.1.1964. Tuy vậy, Tướng Nguyễn Khánh muốn dành quyền hành cho Hội Đồng Quân Lực nên đã giải tán THĐQG vào ngày 20.12.1964.
Ngày 17.1.1965, Tướng Nguyễn Khánh tuyên bố bất tín nhiệm QT. Phan Khắc Sửu và TT. Trần Văn Hương. Bị áp lực từ nhiều phía, Tướng Khánh phải lưu nhiệm ông Phan Khắc Sửu và đề cử luật sư Phan Huy Quát vào chức vụ Thủ tướng. Nội Các Phan Huy Quát ra đời ngày 27.1.1965. Tuy nhiên đường lối của Phan Huy Quát vừa tạo nên xung đột với Quốc trưởng Phan khắc Sửu, vừa gây chia rẽ tôn giáo. Vì thế đồng bào Công giáo tại Sài Gòn, Chợ Lớn và vùng lân cận đã phát động các cuộc biểu tình chống đối mạnh mẽ. Cuộc xung đột tôn giáo và sự bất ổn xã hội là nguyên nhân đưa tới cuộc họp ngày 11.5.1965, trong đó T. Kỳ đã yêu cầu ông phan Khắc Sửu trao quyền lãnh đạo quốc gia lại cho Hội Đồng Quân Lực. T. Kỳ bất ngờ nổi danh trong giai đoạn này, vì ông từng tuyên bố sẽ dùng không quân đập tan các cuộc chỉnh lý và cách mạng v.v…
Ngày 19.6.1965, Hội Đồng Quân Lực chính thức ra mắt như một cơ quan tối cao nắm quyền lãnh lạo Việt Nam Cộng Hòa. Ngày này sau đó được chọn làm “Ngày Quân Lực”. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu được đề cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG) và Trung tướng Nguyễn Chánh Thi được đề cử vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTƯ), chức vụ Thủ tướng với danh xưng mới. Tướng Thi từ chối. T. Kỳ không bỏ lỡ cơ hội, nhẩy ra “hy sinh” gánh vác việc “kinh bang tế thế”.
Ngay sau khi đảm nhiệm chức vụ, T. Kỳ đã hăng say đưa ra một số biện pháp cứng rắn như sau:
-Lập “Tổng đoàn thanh niên trừ gian” để điều tra và đem ra ánh sáng những thành phần tham nhũng, gian thương.
-Lập “pháp trường cát” để xử tử Việt cộng nằm vùng và các tay đầu cơ tích trữ lũng đoạn thị trường. Vụ án tử hình Tạ Vinh là một ví dụ.
Một trong các quyết định dứt khoát và mạnh mẽ của T. Kỳ được ghi nhận trong giai đoạn này là dẹp loạn Miền Trung. Tình hình tại Quân khu I ngày càng trở nên căng thẳng sau khi hai làng Công giáo Thanh Bồ và Đức Lợi bị nhóm quá khích tấn công đốt phá. T. Kỳ đã bí mật điều động Nhẩy Dù và Thủy quân Lục chiến ra Trung dẹp tan quân phản loạn; đồng thời phá hủy toàn bộ mưu đồ biến Miền Trung thành khu tự trị có lợi cho cộng sản Bắc Việt! Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cách chức Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I.
Tuy nhiên, sự tranh dành quyền lực giữa T. Thiệu và T. Kỳ ngày một trầm trọng vào thời kỳ 1967, trước cuộc tranh cử Tổng thống Đệ II VNCH. Để tránh hai liên danh quân đội bị thất bại trước các liên danh dân sự, trong đó Luật sư Trương Đình Du là một đối thủ nặng ký nhất, Hội Đồng Tướng Lãnh áp lực T. Thiệu và T. Kỳ phải đứng chung một liên danh tranh cử. T. Thiệu ứng cử viên Tổng thống và T. Kỳ Phó.
Sau Tết Mậu Thân 68, TT. Thiệu muốn nắm trọn quyền lực bằng cách thay thế Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh sát Quốc gia, và nhiều tay chân bộ hạ khác của PTT. Kỳ trong cơ cấu cảnh sát và quân đội. PTT. Kỳ. Sau đó coi như chỉ ngồi chơi xơi nước và trở về quân đội khi nhiệm kỳ Phó Tổng thống chấm dứt.
Trong những ngày cuối của tháng 4.1975, khi quân cộng sản đánh tới Quân đoàn III, người ta thấy Tướng Kỳ lại tái xuất giang hồ. Mặc đồ chiến sĩ và xuất hiện ở các vùng đông giáo dân Thiên Chúa Giáo. T. Kỳ kêu gọi đừng di tản, phải ở lại, đoàn kết chống cộng. Thế nhưng, sau đó ông ta chuồn êm bằng phi cơ trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội Mỹ!
II- HOẠT ĐỘNG CỦA TƯỚNG KỲ SAU KHI THÁO CHẠY KHỎI MIỀN NAM
Hành động “bỏ của chạy lấy người” của T. Kỳ trong ngày 30.4.1975 đã đi ngược với những khẩu hiện “Bắc Tiến, chiến đấu tới cùng..” do chính ông đưa ra và là sự phản bội đối với các chiến sĩ VNCH.
Qua tới Mỹ, T. Kỳ vẫn không tổ chức được một hội cựu chiến sĩ VNCH nhằm mục tiêu giúp đỡ các chiến binh và gia đình chạy tỵ nạn. Ông ta cũng chẳng màng tới việc trợ giúp cho các thương phế binh tại Việt Nam theo tinh thần “huynh đệ chi binh”.
Một số hoạt động của T. Kỳ tại hải ngoại được ghi nhận như sau:
-Từ trại tỵ nạn Pendleton ra lập nghiệp, T. Kỳ mở quán rượu ở Long Beach; nhưng bị phá sản! Đặng Tuyết Mai, người vợ từng là nữ chiêu đãi viên hàng không dân sự VNCH, nhan sắc “chim sa cá lặn”, cũng đành bỏ ông và đem trái tim vàng trao cho một trung sĩ! Sau đó T. Kỳ di chuyển qua Tiểu bang Louisianna, tá túc tại nhà một chiến hữu làm nghề đánh cá. Thay vì cùng bạn câu cá ngoài sông hay trên biển, T. Kỳ lại câu ngay cá của bạn! Thế là “tin bạn mất vợ”, người xưa nói quả không sai. Người vợ mới này nghe đâu có người con gái đang làm mê mẩn quí tử của Thủ tướng CSVN Phan Văn Khải, nên mới có nhiều chuyện xẩy ra làm đảo lộn tình thế. Vì lệnh bà, người ta không lạ gì các đây vài năm, T. Kỳ tuyên bố muốn làm “đại sứ lưu động ngoại vận” cho Hà Nội!
-Ngày 7.5.1992, trong buổi nói chuyện tại câu lạc bộ của Không quân Hoa Kỳ tại Eagles & Anchors Club, T. Kỳ đã kêu gọi Hoa Kỳ hủy bỏ Lệnh Cấm Vận đối với VN. Ông từng tuyên bố: “ø… Chúng tôi và cả các ông nữa, mọi người đều đã lầm. Chúng ta cần phải quên đi cái quá khứ. Hãy quên Hồ Chí Minh, quên Đỗ Mười và quên cả Nguyễn Cao Kỳ.. để chúng ta có thể cùng bắt tay nhau tạo nên sự đổi thay và xây dựng lại quê hương…”.
Thực tế cho thấy: sau 12 năm, nhà cầm quyền cộng sản VN chả quên Hồ Chí Minh và Đỗ Mười! Chỉ có Nguyễn Cao Kỳ tự quên mình, rời bỏ hàng ngũ Quốc gia, để xin phép CS cho về thăm quê hương. CSVN thừa biết T. Kỳ là tay không quân (có nghĩa tay không) thì ai thèm bắt tay lo chuyện đại sự?
-Ngày 31.8.1997, tại Denver, Tiểu bang Colorado, trong Đêm Không Gian của Không Quân, T. Kỳ lại kêu gọi “hòa hợp hòa giải với Cộng Sản và cho rằng chỉ có mô hình độc đảng của những nước Singapore, Nam Hàn, và Đài Loan trước năm 1990 mới có thể đưa đất nước thoát cảnh nghèo đói”.
Lời phát biểu của T. Kỳ nếu tìm hiểu kỹ, nó không đúng với thực tế lịch sử Đài Loan, Nam Hàn và Tân Gia Ba. Ba quốc gia này xây dựng đất nước trên căn bản tự do dân chủ, khác với CSVN “Yêu nước phải yêu chủ nghĩa xã hội!”. Ngoài ra, lời phát biểu của T. Kỳ có vẻ phản ảnh chủ trương của Trần Bạch Đằng, một lý thuyết gia hàng đầu của cộng sản gốc miền Nam. Chủ trương này được nhà cầm quyền CSVN biện luận cho vai trò độc đảng của mình trước chính quyền Nam Hàn và Đài Loan vào năm 1989. Nó cũng được Nhà nước CSVN cho các đảng viên học tập để thấu triệt tình hình và đường lối của đảng. Mục tiêu duy nhất là chỉ có thể phát triển đất nước trong ổn định chánh trị nhờ duy trì độc đảng và xóa bỏ hận thù.
III- TẠI SAO T. KỲ VỀ VIỆT NAM?
Sự trở về của T. Kỳ đã được chuẩn bị trước. Năm 2002, T. Kỳ đã dành cho ký giả David De Voss một bài phỏng vấn được đăng trên tập san Asia Inc., số tháng 9-2002 có tựa đề:
“Welcome back! Former premier and anti-communist Nguyen Cao Ky is going home with a team of expatriate business investors at the invitation of Hanoi.”
(Chào mừng trở về! Nguyễn Cao Kỳ, Cựu Thủ tướng và người chống cộng sẽ về thăm quê hương với một toán đầu tư thương mại lưu vong do lời mời của Hà-nội)
“Early next year, Nguyen Cao Ky will return home to his native country. Kỳ, 73 now but still very active, says he is going home on his terms, as an invited guest of the communist government, not just a tourist.”
(Vào đầu năm tới Nguyễn Cao Kỳ sẽ trở về quê hương. Ông Kỳ hiện đã 73 tuổi nhưng vẫn còn năng động, nói rằng, ông về Việt Nam với những điều kiện riêng của ông, như một khách được mời của chính quyền cộng sản, chứ không hẳn là một du khách).
Ông Kỳ nói tiếp: “There used to be fanatic anti-communism, but today the anti-communists are nothing.”
(Trước kia có chống cộng cực đoan, nhưng bây giờ thì những người chống cộng chẳng là gì cả).
Lời phát biểu của T. Kỳ chứng minh:
-Ông ta đầu hàng và chịu cộng tác với CSVN!
-Ông ta chửi lại những chiến sĩ chống cộng!
Toàn bộ lộ trình hướng về VN của T. Kỳ đã xẩy ra vào đầu năm 2004. Theo tin tức của báo VnExpress thì ông Kỳ tự ý làm đơn xin về thăm quê hương như bản tin dưới đây:
Thứ sáu, 9.1.2004, 15:42 GMT+7
Ông Nguyễn Cao Kỳ về Việt Nam ăn Tết
Lần đầu tiên sau gần 30 năm kết thúc chiến tranh, Tết Giáp Thân này, cựu phó tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Cao Kỳ sẽ đón năm mới ở quê hương. Hôm nay, ông đã lên máy bay đi Bangkok và đến 14/1 sẽ tới TP HCM. Bộ Ngoại giao cho biết, ông Kỳ sẽ được đón tiếp như một Việt kiều bình thường và được đảm bảo an ninh.
Ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài, cho biết, các con của ông Nguyễn Cao Kỳ đã về thăm quê và làm ăn trong nước nhiều năm nay, vẫn liên hệ với ủy ban. Gia đình nhân vật đặc biệt này đã liên hệ và nhờ phía ủy ban giúp đỡ. Dự kiến cơ quan sẽ cử người đón tiếp ông Kỳ. Ông Thắng nói: “Bất cứ kiều bào nào, khi về nước có đề nghị thì chúng tôi đều giúp đỡ”.
Dự kiến, sau khi ăn Tết với người thân, thăm bạn bè trong Nam, ông Nguyễn Cao Kỳ sẽ ra thăm quê, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây. Ông Kỳ sinh ra và lớn lên ở đây cho đến khi đi lính, ông nhập học tại trường không quân Marrakech của Pháp tại Marốc. Nguyễn Cao Kỳ nay 74 tuổi, có 3 vợ, 6 con, từng là tướng lĩnh cao cấp quân đội Sài Gòn, sau đó là thủ tướng, phó tổng thống. Ông di tản sang Mỹ từ trước ngày 30/4/1975. Đến cuối năm 2003, ông đã nộp đơn xin về thăm quê hương và được cơ quan xuất nhập cảnh Việt Nam chấp thuận. (Nghĩa Nhân)
Tuy nhiên, bản tin của báo cộng sản ẫm ờ và không che dấu được sự thực đã phơi bày trong bài phỏng vấn của ký giả David De Voss nêu trên. Ngoài ra, theo nguồn tin từ Internet mà chúng tôi nhận được thì ông Nguyễn Cao Kỳ khoe về VN là do lời mời của CSVN, như bản tin duới đây:
Sent: thứ Năm 14.01.04 2:35:50PM
“Theo lời cựu PTT VNCH Nguyễn Cao Kỳ, vào tháng 7.2003, Thứ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Đình Bin trong bữa tiệc có mời ông về thăm lại VN và ông Kỳ đã nhận lời…”
Theo VietnamNet thì:
Trong không khí hân hoan của Việt kiều về quê ăn Tết, hôm nay, tại TP.HCM, ông Nguyễn Cao Kỳ đã có cuộc trò chuyện. Ông bày tỏ quan điểm không nên khơi lại quá khứ và hy vọng sự có mặt của mình phần nào nói lên ý muốn hòa hợp dân tộc của cá nhân ông.
- Ông suy nghĩ gì về chính sách đại đoàn kết dân tộc của Nhà nước Việt Nam?
- Không cần phải suy nghĩ nữa, đây là chính sách hoàn toàn đúng đắn, sự hòa hợp dân tộc sẽ tập hợp được sức mạnh trong và ngoài nước. Số người Việt Nam đang sống ở nước ngoài khá nhiều và nhiều người cũng thành đạt, họ cũng đã tiếp nhận được khoa học kỹ thuật của thế giới. Chính phủ phải làm sao lôi kéo họ về phục vụ đất nước.
- Xin ông cho biết cảm giác của ông khi về đến Việt Nam.
- Tôi mới về được hai hôm, còn mới quá, chưa thể phát biểu được gì. Tuy nhiên trước ngày ra đi tôi không hề nghĩ mình sẽ đi. Tôi đã khóc khi phải xa quê hương. Lần thứ hai tôi khóc chính là lúc trên máy bay trở về Việt Nam, khi sắp hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất. (VTV)
IV- T. KỲ ĐÃ NỐI GIÁO CHO GIẶC BẮN SAU LƯNG CHIẾN SĨ VNCH
Dù với tư cách cá nhân đi nữa, T. Kỳ đã tự bôi bẩn đời mình, tự hủy hoại danh dự của một chiến sĩ chiến đấu cho tự do dân chủ. Từng là Tướng, Thủ tướng và Phó Tổng thống VNCH mà T. Kỳ lại lên án cuộc chiến VN là cuộc chiến bẩn thỉu! Như vậy suốt 20 năm chiến đấu cho Miền Nam, T. Kỳ chiến đấu cho lý tưởng nào?
-Nguyên nhân cuộc chiến “huynh đệ tương tàn” do ai gây nên? Cộng sản hay Quốc gia?
-Tại sao Cộng sản Bắc Hàn không tấn công Nam Hàn?
-Tại sao Đông Đức thống nhất với Tây Đức mà không ngược lại?
-Tại sao Liên Sô và các quốc gia Đông Âu lại bỏ chủ nghĩa cộng sản để gia nhập Liên Hiệp Âu Châu và khối NATO?
-Các quốc gia trên giờ đây có cần “độc đảng” mới thành công trong chương trình đưa đất nước vươn lên ngang hàng với các quốc gia trong vùng không?
-Tại sao CUBA, độc đảng và người dân “yêu nước phải yêu chủ nghĩa xã hội” mà vẫn “khố rách áo ôm” và lạc hậu?
Muốn “Hòa giải Dân tộc” để xây dựng đất nước phú cường và nhân dân chóng được hạnh phúc ấm no… phải dựa trên nền tảng nào?
-Tự do hay Cộng sản?
-Lời Hồ Chí Minh: “không có gì quí hơn Độc-lập Tự-do”. Nhưng tại sao “yêu nước lại phải yêu Chủ nghĩa Xã hội?”ø và tại sao ĐHY Phạm Minh Mẫn lại tuyên bố:
“Nhân quyền tại Việt Nam chỉ có trên giấy tờ”. -“Nhà nước viết trên hiến pháp tất cả các quyền tự do của công dân, hoặc nhân quyền, nhưng trong thực tế cuộc sống hàng ngày, dân chúng phải xin phép để làm bất cứ cái gì.”
ĐHY Phạm Minh Mẫn, vị Hồng Y tân cử, phát biểu như vậy trong cuộc phỏng vấn Ngài dành cho Nhật Báo Boston Globe ngày 28.12.2003 vừa qua, khi Ngài được hỏi là Ngài có đóng vai trò vận động để có thêm tự do tôn giáo ở trong nước không. Dịp này, Ngài nói tiếp rằng:
“Tôi đã nói với nhà cầm quyền rằng quyền tự do mà người dân Việt Nam muốn có nó to bằng cái bàn, trong khi cái tự do chúng tôi có ở Sài Gòn nó nhỏ như cái đĩa.”
Thiết tưởng lời phát biểu của Hồng Y Phạm Minh Mẫn đủ mở mắt cho T. Kỳ và những kẻ “ăn cơm Quốc gia thờ ma CS”.
V- PHẢN ỨNG CỦA CÁC TỔ CHỨC NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA TỴ NẠN CỘNG SẢN
Sự trở về của một cựu Phó Tổng thống VNCH ít nhiều gì cũng có tác hại tới tinh thần chống CS. Trên báo chí, đài phát thanh và Internet, người quốc gia chân chính, các tổ chức chính trị, hội đoàn, đảng phái VNCH đã lên án sự trở về và ca tụng chế độ CS của T. Kỳ. Vì giới hạn của bài báo, chúng tôi không thể kê ra đây toàn bộ các tổ chức, chỉ xin đưa ra 2 tổ chức tiêu biểu là:
1-TẬP THỂ CHIẾN SĨ VNCH do Bác học Không gian, Giáo sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, hiện là Chủ tịch Hội Đồng Chỉ đạo và Tướng Lê Minh Đảo, cựu Tư-lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh, người hùng của trận chiến Xuân Lộc, Chủ tịch ủy ban Điều hợp Trung Ương.
2-Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại do ông Phạm Quang Trình làm chủ tịch.
KẾT LUẬN
Thế mới biết; Dân, Quân, Cán, Chính, Tướng … thời nào cũng vậy và ở đâu cũng có người hùng và kẻ hèn và “có thức khuya mới thấy đêm dài - Có cháy nhà mới lò ra mặt chuột!”
Năm Khỉ Nói Chuyện Việt Nam
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
I- ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ
Nhân dịp Lễ Giáng Sinh và Tết Nguyên Đán, nhiều Việt Kiều từ các quốc gia tự do trên thế giới lại nô nức trở về thăm quê hương với nhiều mục đích khác nhau: thăm gia đình, làm ăn, chơi bời trụy lạc và khoe khoang cái hào nhoáng giả dối của mình. Nếu chỉ nhìn bề ngoài với con mắt thờ ơ của một khách bàng quang trước thời cuộc, trước cảnh tượng "áo gấm về làng!", người ta thấy Việt Nam có vẻ như đã có những thay đổi. Nhưng thực chất chứng minh rằng đó chỉ là "cái mả tô vôi!"
Khách quan mà nói, Nhà Cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã thành công qua cái gọi là nối lại "khúc ruột ngàn dậm” nhằm "móc túi Đô-la" và khai thác "chất xám" của Việt kiều. Thực ra đây chỉ là sự lập lại chính sách vuốt ve Hoa kiều của nhà cầm quyền Trung Cộng đã thực hiện từ nhiều năm qua. Cộng sản Việt Nam đã "đánh cho Mỹ cút", nay lại hớn hở chào đón và xách cặp cho thủy thủ Mỹ, khi khu trục hạm USS Vandergrift ghé thăm Sài Gòn từ ngày 1.1.2003 tới 22.11.2003. Kể từ khi cựu Tổng thống Bill Clinton, một sinh viên trốn quân dịch, tới thăm Việt Nam năm 2000 đã mở đầu cho giai đoạn lịch sử mới: "Ngụy Sài Gòn" nay chỉ còn là bóng mờ và "Ngụy Hà Nội" đang bắt đầu viết trang sử "hoan ca với Mỹ?!"
II- VIỆT NAM 29 NĂM DƯỚI CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI CỘNG SẢN
Dù người cộng sản đã cướp được quyền lực và cai trị Việt Nam được 29 năm, nhưng một đất nước dân chủ tự do và phú cường vẫn chỉ là khẩu hiệu rỗng tuếch! "Không có gì quí hơn Độc lập Tự do", cái khẩu hiệu của ông Hồ thực tế chỉ là cái "bánh vẽ".
-Tôn giáo vẫn không được tự do! Tài sản của Giáo Hội vẫn bị cướp đoạt là một bằng chứng. (*Xin xem Thư Giám Mục Huỳnh Văn Nghi trong tin Giáo Hội VN)
-Nhân quyền vẫn bị chà đạp và những người tranh đấu cho tự do dân chủ vẫn bị tù đày!
-Việt Nam vẫn còn nghèo đói và chậm tiến!
Hình ảnh dưới đây là một bằng chứng cụ thể:
2.1-Chính sách dụ Việt Kiều yêu nước và về thăm quê hương
Theo thống kê của Sở Du Lịch, số khách tới thăm Việt Nam được ghi nhận như sau:
Năm 1995 2000 2002
Số người: 1.351.300 2.140.100 2.628.200
Du lịch: 610.000 1.138.900 1.138.900
Công việc: 419.600 400.000 445.900
Thăm thân nhân: 308.000 432.700 425.900
Mục đích khác: 181.600 294.900
Tính trung bình một năm có trên 400.000 Việt Kiều về thăm quê hương. Không kể vé máy bay khứ hồi khoảng trên dưới 2.000 Đô-la, một người mang về trung bình 3.000 Đô-la sẽ đem lợi về ngoại tệ cho CSVN là: 400.000 x 4.000 = 1.200.000.000 Đô-la (một tỷ hai trăm ngàn Đô-la).
Nếu so với số tiền của chính phủ Mỹ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa trong những năm chót của cuộc chiến là 5-600.000.000 Đô-la, chúng ta thấy số tiền Việt Kiều gửi và đem về VN nhiều gấp đôi.
2.2-Chính sách "nắm đầu" người Việt tại ngoại quốc.
Nhà cầm quyền cộng sản VN, tuy không nói ra, nhưng đã, đang và còn căm tức dân Việt tỵ nạn. Họ tức là phải, vì các cuộc công du của Thủ tướng, Bộ trưởng hay cán bộ cao cấp của Nhà Cầm quyền Hà Nội đã không được dân Việt đón tiếp một cách nồng nhiệt tại những nơi có cộng đồng Việt Nam tỵ nạn. Thay vì phất cờ đỏ sao vàng, người Việt hải ngoại lại giơ cao "Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ" mới cay! Hiện tượng này nổi bật nhất ở Hoa Kỳ. Tính đến nay đã có các thành phố, thị xã của nhiều tiểu bang Mỹ, nơi có đồng bào VN tỵ nạn cư ngụ như: thành phố San Jose, Garden Grove, Westminster, Sata Clara, Milpitas thuộc Tiểu Bang (TB) California; thành phố Holland TB. Michigan; Houston TB. Texas; Saint Paul TB. Minnessota; Falls Church TB. Virginia; Quận Hạt Pierce, thành phố Olympia, Tacoma, Sittle, Lywood, Puyallup, Anburn, Lakewood, Pomona TB. Washington v.v… đã công nhận "Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ" là biểu tượng tự do dân chủ của người Mỹ gốc Việt.
Chính vì vậy mà "đỉnh cao trí tuệ" Hà Nội mới thay đổi chính sách. Người Việt tỵ nạn ngày nay dưới con mắt của các ông trùm cộng sản không hẳn là "Ngụy quân, Ngụy Quyền hay thành phần bất hảo bỏ nước ra đi" nữa, mà là Việt Kiều "dễ thương". Tội nghiệp cho những đứa con cùng Mẹ Việt Nam nay phải sống cuộc đời lang thang nơi xứ lạ quê người. Nhưng thực thế thường đảo ngược. Tình thương của người cộng sản thay đổi như mây gió và có lẽ người ta phải hiểu đó là thứ tình cảm "mẹ chồng và nàng dâu!". Về mặt nổi về tình cảm thì như thế, còn về mặt chìm thì người cộng sản đã đưa ra chính sách "nắm đầu" Việt Kiều để:
-Móc túi Đô-la bằng khuyến khích Việt kiều về thăm quê hương,
-Lập ra các Hội Việt Kiều Yêu Nước qua các danh xưng: Hội Việt Kiều Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Đan Mạch v.v… Bên ngoài mệnh danh là hợp tác và phát triển văn hóa. Bên trong thì "gài bẫy" cho những ai vì quyền lợi cá nhân và gia đình lọt vào một lần rồi coi như đời tàn. Những nạn nhân vô tình hay cố ý này sẽ mất hết danh dự và niềm tự hào là người Việt tự do tỵ nạn cộng sản và không còn tư cách lãnh đạo trong một tổ chức người Việt hải ngoại.
-Phát động phong trào từ thiện nhằm kêu gọi Việt Kiều giúp đỡ các chương trình tu sửa trường học, mở mang bệnh viện và cải tiến xã hội v.v… Biết bao Việt kiều mang danh tỵ nạn CS đã hoan hỉ đóng góp để được trở thành "ân nhân". Họ hành động như vậy với hy vọng khi về thăm quê hương sẽ không bị "lạnh cẳng!". Thực tế thì số tiền quyên góp rơi vào tay ai?
-Đầu tư chất xám bằng chiêu bài mời gọi các chuyên gia về hợp tác xây dựng đất nước. Theo báo Thanh Niên CS thì ngoài lãnh vực du lịch, 994 công ty Việt Kiều, các trí thức, doanh gia, từ các quốc gia: Bỉ, Gia Nã Đại, Hòa Lan, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Pháp, Thụy Sỹ, Úc Đại Lợi v.v… đã đầu tư vào thành phố Sài Gòn một ngân khoản gần 2.000.000.000.000 (2 ngàn tỷ đồng = khoảng 134.000.000 Đô-la). Trong 10 tháng đầu năm, số lượng tiền của Việt Kiều gửi vào hệ thống ngân hàng được ghi nhận là 1.244.000.000 Đô-la (1,244 tỷ) và dự kiến sẽ đạt tới 1.700.000.000 Đô-la (1,7 tỷ) vào cuối năm 2003. Đồng thời có khoảng 300 trí thức Việt Kiều đang tham gia giảng dậy và đào tạo về lãnh vực khoa học và chuyển giao công nghệ tại quê nhà! Đúng là thành phần "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản"?
-Xâm nhập vào hàng ngũ quốc gia nhằm gây chia rẽ và vô hiệu hóa lực lượng chống đối chế độ CSVN. Hiện tượng này có thể nhận thấy ngay tại ngoại quốc. Mỗi khi có tổ chức đấu tranh chống CS nào được thành lập, ngay sau đo,ù sẽ có các thư, lời đồn, các bài báo, sách vở moi móc đời tư và xuyên tạc hành động của các nhân vật lãnh đạo và tổ chức v.v…
Các sự kiện trên cho thấy số lượng "Việt Kiều yêu nước trong các tổ chức của CS hay tiếp tay cho CS " hầu như đã và đang giết chết lực lượng tôn giáo, chính trị và quân sự chống CSVN! Sự kiện này cũng chứng tỏ rằng, gần 30 năm nay, các tổ chức mệnh danh là "kháng chiến, phục quốc v.v…" đa số chỉ có danh trên giấy tờ và nặng phần quảng cáo!
III- KINH TẾ CỦA CHẾ ĐỘ CSVN
Nhằm ngóc đầu lên để theo kịp đà phát triển của các quốc gia trong vùng, Nhà cầm quyền CSVN, hơn một thập niên qua, đã đau lòng vứt bỏ cái khuôn mẫu kinh tế lỗi thời của chủ nghĩa xã hội, để khoác bộ áo mới "kinh tế thị trường tư bản!". Từ coi Đế quốc Mỹ là thù địch, ngày nay CSVN đã trải thảm đỏ mời gọi người Mỹ và Đồng Minh tới đầu tư vào các cơ cấu kinh tế. Một số trường hợp điển hình được ghi nhận như sau:
3.1- Đầu tư về du lịch
Trong những năm trước đây, người ngoại quốc đã gặp nhiều trở ngại trong vấn đề đầu tư vào VN, vì tệ nạn tham nhũng hối lộ và luật pháp bất nhất. Đa số các nhà đầu tư ngoại quốc, nếu muốn, đều nhắm vào các dịch vụ "ăn xổi ở thì", không có chương trình dài hạn. Du lịch là một nghiệp vụ tiêu biểu cho chủ trương này.
-Tân Gia Ba có 42 dự án, tư bản hợp pháp: 494.540.250 Đô-la.
-Đài Loan: có 23 dự án, tư bản ký thác: 1.410.531.140, tư bản hợp pháp: 638.968.398
-Hồng Kông: 63, tư bản hợp pháp: 654.517.169
-Nam Hàn: 15 dự án, tư bản hợp pháp: 197.26.74
-Đảo Virgin: 24 dự án, tư bản hợp pháp: 217.321.589
-Nhật bản: 23 dự án, tư bản hộp pháp: 239.695.686
-Mã Lai: 9, tư bản hợp pháp: 98.715.030
-Pháp: 14 dự án, tư bản hợp pháp: 93.956.060
-Thái Lan: 11dự án, tư bản hợp pháp: 69.120.304
-Hòa Lan: 6 dự án, tư bản hợp pháp: 51.078.417 (theo Sở kế hoạch và đầu tư).
3.2- Tệ nạn tham nhũng
Theo tổ chức Quan sát Tham Nhũng Quốc tế ICW (International Corruption Watch), thì sau Nam Dương và nhiều quốc gia Trung Mỹ, Việt Nam và Mễ Tây Cơ là những quốc gia có tệ nạn tham nhũng tồi tệ nhất. Đối với Nam Dương, tổ chức ICW và tổ chức vô chính phủø NGO (Non-Governmental Organization) cho biết có từ 5,5 tới 8 tỷ Mỹ-kim hàng lậu thuế nhập vào nước này, vì tình trạng hối lộ của cơ quan thuế vụ. Đối với VN chúng tôi không có con số thống kê chính thức. Nhưng ai đã một lần về VN hoặc đọc báo cộng sản thì chắc không còn lạ gì cái tài hối lộ dưới chế độ CS. Chỉ cần dựa vào danh sách hàng ngàn du học sinh "con ông cháu cha" từ VN qua Mỹ, Nga, Âu Châu v.v... người ta có thể khám phá ra ai tham nhũng và hối lộ?
3.3- Tình trạng thất nghiệp và nghèo đói
Năm 1996: 5,88%; 1997: 6,85%; 1998: 7,40 %; 1999: 6,01%; 2000: 6,44%; 2001: 6,28%; 2002: 5,85%.
Tình trạng thất nghiệp trung bình là 6% hàng năm, đã đưa tới sự mất quân bình về mức giầu nghèo tại Việt Nam.Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) cho biết trong vòng 10 năm vừa qua, sự chênh lệch giàu - nghèo tại Việt Nam đã gia tăng từ 6 tới 8 lần.
-Sự chênh lệch chi tiêu giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất đã tăng từ 4,97 lần năm 1993 lên đến 6,03 lần năm 2002. Nếu sử dụng các số liệu đã được điều chỉnh cho những trường hợp báo cáo thấp hơn thì tỉ lệ này có thể lên tới 8,84 lần.
-WB cho rằng, người nghèo ngày càng phải chi nhiều hơn "tiền túi” của mình cho các dịch vụ xã hội, y tế. Đây là một trong những nguyên nhân khiến họ ngày càng ít dám sử dụng các dịch vụ y tế chuyên nghiệp mắc tiền.
-WB ước tính đến năm 2010 Việt Nam vẫn còn 21% dân nghèo và khoảng 37% những người nghèo lúc đó vẫn sẽ là những người sống ở các vùng xa xôi hẻo lánh và dân tộc ít người.
3.4- Tình trạng ăn cắp của công, làm đồ giả và bạc giảû
Chúng tôi xin đan cử một vài trường hợp tiêu biểu được báo chí cộng sản loan tin như sau:
-Trộm cắm mủ cao su làm thiệt hại công quỹ 200 tỷ đồng mỗi năm
Theo Tổng Công ty cao su Việt Nam, bình quân mỗi năm toàn ngành bị mất khoảng 10.000 tấn mủ cao su, chiếm khoảng 5% tổng sản lượng, thiệt hại ước tính lên tới gần 200 tỷ đồng. Theo Công ty cao su Đồng Nai, từ đầu năm đến nay doanh nghiệp đã phát hiện trên 1.000 vụ trộm cắp mủ cao su với trên 2.000 cây cao su bị cạo trộm, tương ứng 83.000 kg mủ. Đối tượng trộm cắp mủ cao su thường là các nhóm thanh niên không nghề nghiệp, khi trộm cắp mủ cao su có mang theo dao, mác, gậy gộc, sẵn sàng tấn công lại lực lượng bảo vệ.
-Gian dối trong việc buôn bán xăng
Nhiều cột xăng đã vi phạm đo lường. Theo báo Tuổi Trẻ thì nguyên tại Nghệ An, nhân viên nhà nước đã tịch thu 15.000 lít xăng giả.
-Làm tiền giả
Theo CSVN, để tránh tình trạng làm tiền giả và để gia tăng chất lượng tiền giấy, từ ngày 17.11.2003 đến cuối năm 2003, nhà nước sẽ cho lưu hành khoảng 200 triệu tiền giấy mới. Đặc biệt kỳ này có hai loại tiền giấy 50.000 và 500.000 ngàn đồng. Bạc cắc có loại 5.000, 1.000 và 200 đồng. Theo nhà cầm quyền cộng sản thì tờ 50.000 đồng hiện đang lưu dụng bị làm giả khá nhiều, nên phải thay thế bằng tờ 50.000 đồng mới, được làm bằng chất liệu polymer và với kỹ thuật cao rất khó làm giả mạo.
3.5- Xuất cảng lao động
CSVN thường vỗ ngực tư khoe con người cộng sản là "đỉnh cao trí tuệ" và có lẽ vì thế mà họ đã xuất cảng nhân công đi làm việc tại một số quốc gia tại Á và Âu Châu để chứng minh sự thông mình của con người XHCN chăng?
Ai cũng biết rằng: ngày nay, các công ty sản xuất hàng hóa trên thế giới phải cạnh tranh nhau rất gắt gao trên thị trường. Ngoài vấn đề tư bản (vốn), vật liệu và nguyên liệu sản xuất, người ta còn phải kiếm thị trường lao động rẻ tiền để giảm phí tổn sản xuất. Loại thị trường lao động này không đâu bằng tại các nước kém mở mang hay đang trên đà phát triển. Trung Cộng và Việt Nam là một ví dụ. Tuy nhiên, khi đầu tư tại Việt Nam chẳng hạn, trước đây các công ty ngoại quốc đã gặp phải cảnh "dở khóc dở cười" với chế độ CSVN như:
-Luật pháp bất nhất, "phép vua thua lệ làng!"
-Chưa có Luật lao động và các qui định về quyền lợi và bổn phận của người lao động lẫn người làm chủ.
-Nạn tham nhũng hối lộ xuất hiện từ thượng tầng kiến trúc tới hạ tầng cơ sở
-Nạn ăn cắp vật liệu sản xuất.
-Chính sách tài chánh không phù hợp với các quốc gia tự do và có nhiều hạn chế về quyền chuyển ngoại tệ ra khỏi Việt Nam.
-Không được ưu tiên quyền lợi và giảm thuế trong thời gian đầu khai thác và thiết lập cơ sở.
-Không có chốn ăn chơi giải trí v.v…
Xuất cảng lao động có thể nhìn với góc cạnh khác là sự thất bại của nhà cầm quyền CSVN trong chương trình khuyến khích người ngoại quốc đầu tư vào VN và chương trình cải tổ kinh tế thị trường. Chính vì thế mà hàng chục ngàn nhân công VN đã bị bán rẻ đi lao động cho Nam Hàn, Nhật Bảøn, Mã Lai, Đài Loan và Anh quốc v.v…
Chính sách xuất cảng lao động của Nhà Cầm quyền VN lại như "gậy ông đập lưng ông". Cái gọi là "Thiên đường cộng sản", thực tế chỉ là "địa ngục trần gian", nên đã không hấp dẫn được người dân lao động. Khi có dịp xuất ngoại, nhiều lao công từng là cháu ngoan Bác Hồ đã trốn luôn. Đa số không muốn trở về quê hương yêu dấu nữa!
Chúng tôi xin đơn cử một số trường hợp tuyển dụng nhân công đi làm nước ngoài và bị trả về, đểà chứng minh đâu là sự thực về chương trình xuất khẩu lao động của CSVN:
-Theo báo Sài Gòn Giải Phóng, 01/12/2003, thì công ty Traenco, công ty xây dựng và thương mại thuộc Bộ Giao Thông - Vận Tải đưa ra nhu cầu tuyển 4.000 lao động đi tu nghiệp sinh, làm việc tại Nhật Bản, Malaysia và Đài Loan.
-Theo báo Tuổi Trẻ, hiện có khoảng 130 nghìn lao động bất hợp pháp trên toàn Hàn Quốc. VN có khoảng 20 nghìn, trong đó số thuộc diện phải về nước hẳn chiếm khoảng 3.000 người.
-Theo báo Thanh Niên, ngày 17/11, Bộ Lao Động - Thương Binh - Xã Hội đã quyết định tạm đình chỉ việc cung ứng lao động sang làm việc tại Đài Loan trong thời hạn 2 tháng, kể từ ngày 20/11/2003 đối với 35 doanh nghiệp có tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng cao (trên dưới 10%). Trong số này, có những doanh nghiệp lớn từng có nhiều thành công trong lĩnh vực xuất khẩu lao động như Tổng Cty Xuất nhập khẩu xây dựng VN (Vinaconex), Tổng Cty Thủy tinh và gốm xây dựng (Viglacera), Cty Xây dựng, dịch vụ và hợp tác lao động (Oleco), Servico HN...
-Theo báo Tiền Phong, 20.11.2003, sẽ có những lao động xuất khẩu đầu tiên sang Anh quốc. Những hợp đồng đầu tiên đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại Anh quốc vừa chính thức được Cục Quản lý lao động ngoài nước chính thức cho phép. Công ty du lịch dịch vụ dầu khí Việt Nam (OSC) và Tổng công ty cơ khí Việt Nam (Transinco) sẽ thực hiện những hợp đồng này.
KẾT LUẬN
Trên đây chỉ là một số trường hợp điển hình được đề cập một cách khách quan nhằm chứng minh rằng: sau 29 năm, người cộng sản VN vẫn chưa chứng minh được Chủ nghĩa Xã hội là "Ưu việt".
Không cần phải biện luận cho chủ nghĩa tự do tư bản giầu sang phú quý, cứ nhìn vào thực tế xã hội của các nước cộng sản còn cố tình ôm ấp cái chủ nghĩa xã hội lỗi thời, người ta cũng biết được chủ nghĩa nào "Ưu việt?"
Thế mà hơn 1/ 4 thế kỷ qua, CSVN vẫn còn u mê trong cái thế giới Duy Vật Cộng Sản coi "Khỉ là tổ tiên" và bắt dân "Yêu nước phải yêu Chủ nghĩa Xã hội!" Thảo nào đất nước vẫn toàn rừng rú và người dân Việt vẫn chưa ngóc đầu nổi!
PHÁP LỆNH TÔN GIÁO LÀ XIỀNG XÍCH SIẾT CỔ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM
Kể từ mùa Hè 2004 đến nay, cái gọi là "Pháp Lệnh Tôn Giáo" của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã và đang trở thành mối ưu tư của Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và Giáo Hội Công Giáo VN. Nó cũng là mục tiêu chống đối của các tổ chức chính trị và những người tị nạn VN yêu chuộng tự do, công bình và dân chủ.
-Tại sao người ta lại chống đối cái quyết định quái gở này?
Để vấn đề được sáng tỏ, chúng tôi xin trình bày một số dữ kiện liên quan tới văn bản ngược đời và phản lại trào lưu tiến hóa của nhân loại trong thế kỷ 21.
I- NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ PHÁP LỆNH TÔN GIÁO NHẰM MỤC ĐÍCH GÌ?
Sau 29 năm chiếm được miền Nam VN, người cộng sản đã không gặp một sự kháng cự nào đáng kể, cả về lãnh vực quân sự lẫn chính trị. Các phong trào mệnh danh cách mạng hoặc giải phóng chỉ có trên lý thuyết và hầu như chỉ còn tồn tại trên giấy tờ. Không một đảng hay phong trào nào ở ngoại quốc có sức mạnh đủ để tạo nên một thành tích đáng kể, (dù cỏn con), khiến chế độ cộng sản Hà Nội phải kiêng nể. Bên cạnh đó, phong trào trở về thăm quê hương ngày càng đông, thậm chí cả cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, một số tướng tá và công chức v.v… cũng đã "xóa mờ" cái căn cước tị nạn cộng sản của mình để trở về VN vì chính sách mời gọi ngọt ngào "khúc ruột ngàn dặm" của đối phương.
Qua thời gian, người ta nhận thấy rằng sự trở về thăm quê hương như một con dao hai lưỡi mà người cộng sản đã nắm được cán dao.
-Sự trở về có thể bất lợi cho chế độ cộng sản, nếu người về biết lợi dụng thời cơ chính trị để lập chiến khu, để tổ chức cơ sở nằm vùng, tuyên truyền và chờ ngày tổng nổi dậy.
-Sự trở về có thể bất lợi cho chế độ cộng sản, nếu số tiền khổng lồ trên dưới 3-4 tỷ Đô-la mà Việt kiều gửi hoặc đem về nước mỗi năm, được dùng vào mục tiêu nuôi kháng chiến quân, mua quân dụng và chiến cụ để lật đổ chế độ cộng sản.
Nhưng than ôi! 29 năm đã qua đi, hàng trăm ngàn người Việt về thăm quê hương, hàng trăm tỷ Đô-la đã gửi hay đem về, vẫn không đạt được một mục tiêu chính trị và quân sự nào! Cái cán dao mà CSVN nắm được là ở chỗ đó.
Về chiến thuật, khi người cộng sản không bị tấn công và bị thương, họ sẽ thừa cơ thắng thế áp đảo đối phương bằng những đòn độc, mà nếu chỉ nhìn bề ngoài, những người không am hiểu sẽ tưởng nó vô hại!
II- ĐÒN PHẢN CÔNG CỦA CSVN
Khách quan mà nói, các lực lượng chống đối có cơ hội làm cho cộng sản kiêng nể là:
- Các đảng phái và phong trào chính trị có uy tín trong quần chúng ở hải ngoại.
- Các thành phần bất mãn người miền Nam, kể cả các cán bộ đã tỉnh ngộ và bị cho về vườn ở trong nước.
- Các quốc gia ngoại bang thù nghịch với CSVN.
- Các tôn giáo lớn tại VN.
2.1: Các Đảng Phái và Phong Trào chính Trị
Như phân tích ở trên, cho tới nay, chưa có một tổ chức chính trị hay cách mạng nào có thể coi là đối thủ của CSVN. Một số tổ chức kháng chiến hay giải phóng của người Việt tị nạn đã tan rã hay đang ngụy trang và biến thể để hợp tác với nhà cầm quyền CSVN qua chính sách "Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc". Sự kiện này đưa tới Nghị Quyết 36 mà mục tiêu chính yếu là nhằm chinh phục, rồi khống chế tập thể người Việt tị nạn để:
- "Cải tạo" họ thành "Việt Kiều Yêu Nước" qua chiêu bài "Đại Đoàn Kết Dân Tộc", một hình thức giống như mặt trận Việt Nam Đồng Minh Hội (VIỆT MINH) thời kháng Nhật vào những năm đầu của thập niên 1940,
- Khai thác tài năng (chất xám) của Việt kiều qua chiêu bài trở về "xây dựng quê hương". Một số Việt kiều đã trở về hay đang làm tay sai cho CSVN tại ngoại quốc là bằng chứng điển hình.
- Che dấu sự thất bại về kinh tế và sự yếu kém về an sinh xã hội, bằng cách moi tiền người Việt ở hải ngoại. Chương trình từ thiện "quyên góp giúp đồng bào nghèo" đã và đang được phát động rộng rãi cả ở trong và ngoài nước. Chương trình này do Mặt Trận Tổ Quốc và các tòa đại sứ CSVN chủ động. Một số người "ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản" đã, đang và sẽ xuất đầu lộ diện tại các quốc gia Tây phương và Hoa Kỳ.
* Đường lối trên của CSVN đã trực tiếp hay gián tiếp chiến thắng rất dễ dàng các tổ chức kháng chiến của người Việt tị nạn cộng sản. Sự chiến thắng phát sinh từ thành quả trong thời gian qua:
-số lượng Việt kiều về thăm quê hương đông gấp hàng trăm, ngàn lần số đảng viên hay thành viên của các tổ chức chống cộng,
-số người chống cộng còn lại bị cô lập, vì nhìn quanh mình không còn bao nhiêu người tiếp tục chí hướng!
2.2- Các Thành Phần Bất Mãn, Kể Cả Các Cán Bộ Cộng Sản Đã Về Vườn
Nếu nói sự trở về thăm quê hương của Việt kiều không đem lại lợi ích gì, thì có vẻ hơi quá đáng. Thực ra, sự trở về của hàng trăm ngàn Việt kiều mỗi năm đã "tuyên truyền" được một chút gì đó về tự do, dân chủ và nếp sống sung túc của các quốc gia Tây phương. Những câu chuyện có tính cách gia đình và thân hữu về nếp sống Âu-Mỹ, đối với CSVN, là hình thức "đầu độc tư tưởng dân chủ tự do" vào đầu óc người Việt trong nước. Kết quả của sự kiện này, tạm cho là, làm phát sinh một một vài tổ chức nho nhỏ. Một số trí thức, văn thi sĩ, cán bộ và chiến sĩ về hưu đã xuất đầu lộ diện, trực tiếp phê bình tệ nạn tham nhũng của đảng, đòi cải tổ một số luật lệ v.v... Tuy nhiên, các tổ chức này nếu có, chung qui chỉ là vấn đề muốn cải thiện Đảng chứ không phải lật đổ Đảng! Sự vô hiệu của các tổ chức này có thể kiểm chứng qua cái nhìn thực tế khách quan. Cứ dựa vào hành động từ chối vòng hoa có ghi chữ "Tướng Trần Độ" của đại tướng Võ Nguyên Giáp đem tới tang gia phúng điếu người bạn mới qua đời, người ta cũng hiểu được là các cán bộ đã về vườn, dù là "thần tượng" Võ Nguyên Giáp đi nữa, cũng chỉ là những người bình thường không còn ảnh hưởng gì đối với đảng CSVN.
Những cán bộ lão thành có "phản tỉnh" và có hành động gì đó, mà Việt kiều vội hân hoan coi là thành phần chống đối chế độ, thực tế cho thấy đa số chỉ là những con bài cũ. Đó là tình trạng bộc phát do một sự bất mãn nào đó, chứ không hẳn là sự chống đối nhằm dẹp bỏ chủ nghĩa CS!
Các hoạt động gọi là phản tỉnh đã xẩy ra nhiều năm, nhưng các cán bộ về vườn vẫn chỉ là những người đứng bên lề xã hội, tiếng nói của họ giống như tiếng kêu trong sa mạc.
2.3- Các Quốc Gia Ngoại Bang Thù Nghịch
Ngày nay, nhà cầm quyền CSVN chỉ e ngại một quốc gia thù địch duy nhất đó là Hoa Kỳ. Chính vì vậy mà họ đã bằng mọi cách "đầu tư" vào cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, dù về tinh thần, để làm sao John F. Kerry thắng cử. Một thủ lãnh phản chiến đã đem lại chiến thắng cho CS Bắc Việt 29 năm trước đây, nay trở thành tổng thống Hoa Kỳ, thì Việt Cộng còn lo sợ gì Mỹ sẽ can thiệp vào nội tình VN?
2.4- Các Tôn Giáo
Vấn đề then chốt ngày nay đối với CSVN là các tôn giáo, những tổ chức khá qui củ và tín hữu rất trung thành với Giáo Hội. Tuy Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội thuộc các tôn giáo khác không "lợi dụng" tôn giáo như là nền tảng xây dựng các hoạt động chính trị; nhưng CSVN vẫn lo sợ. Sự lo sợ của họ dựa vào lịch sử. Dù đồng ý hay không, thực tế khách quan đã chứng minh Giáo Hội Công Giáo có ảnh hưởng khá quan trọng trong bất cứ thời kỳ trôi nổi và bối cảnh chính trị nào của đất nước. Lực lượng Công Giáo tuy không lớn, chỉ bằng khoảng 10% dân số; nhưng Giáo Hội Công Giáo có sự hậu thuẫn thế giới lớn lao gấp hàng trăm lần.
Đối với CSVN, lực lượng duy nhất còn lại có cơ hội làm rung chuyển chế độ CS là các tôn giáo. Muốn tránh bị tiêu diệt, CSVN phải nắm được các thủ lãnh tôn giáo, tìm cách lũng đoạn và chia rẽ các tôn giáo bằng nhiều hình thức khác nhau. Pháp Lệnh Tôn Giáo là một đòn phép.
III- PHÁP LỆNH TÔN GIÁO, MỘT "QUÁI THAI" CỦA CSVN
Bản chất của người CS là nói một đàng làm một nẻo. Hiếp pháp của CSVN công nhận quyền tự do tôn giáo. Pháp Lệnh Tôn Giáo (PLTG), dựa theo Nghị Quyết ngày 26-11-2003 của Quốc Hội, do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành ngày 18.6.2004, có hiệu lực kể từ ngày 15.11.2004, cũng lập lại các qui định bịp bợm như sau:
Điều 1: Pháp Lệnh Tôn Giáo long trọng tuyên bố: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy…"
Tuy nhiên, thực tế ra sao?
Nghiên cứu nội dung của Pháp Lệnh Tôn Giáo, chúng tôi nhận thấy có những qui định thiếu dân chủ. Sự thành hình Mặt Trận Tổ Quốc VN (MTTQVN) là một bằng chứng. Cái tổ chức mệnh danh của quần chúng lại tụ họp toàn những thành phần làm, nói và thi hành theo lệnh của Đảng! Từ cái tổ chức bình phong dị hợm này, MTTQVN, qua PLTG, lại được trao trọng trách khá quan trọng là nắm quyền quyết định về lãnh vực tôn giáo. Các điều khoản sau đây chứng minh sự độc tài của CSVN về lãnh vực tôn giáo:
Điều 7 của PLTG có ghi rõ quyền hành của MTTQ như sau:
1. Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
a) Tập họp đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
b) Phản ảnh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, người có tín ngưỡng, các tổ chức tôn giáo và nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo;
d) Tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan nhà nước chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc tuyên truyền, vận động và thực hiện các chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo."
Điều 11 và 25:
CSVN hạn chế hoạt động của các Giáo Hội qua qui định độc đoán chỉ cho phép các nhà tu được hành lễ và truyền giáo tại các thánh đường, thánh thất và chùa chiền v.v... Nếu lễ nghi tôn giáo tổ chức bên ngoài các cơ sở đã được qui định thì phải xin phép trước và chỉ được thi hành khi có sự chấp thuận của nhà cầm quyền địa phương.
Cái pháp lệnh khôi hài ở chỗ là không ai được tự do làm lễ cầu siêu tại gia, tại nghĩa trang, kể cả các lễ nghi khác ở ngoài trời… nếu CS vô thần không cho phép!
Điều 12:
CSVN xâm phạm vào nội bộ các Giáo Hội qua quyết định bắt buộc các Giáo Hội phải nộp chương trình hoạt động hàng năm. Các hoạt động bất thường, dù nằm trong phạm vị nội bộ của tôn giáo, cũng phải có phép của nhà chức trách.
Điều 13:
Để "treo chén" các Giám mục và Linh mục, CSVN cấm tù nhân lương tâm đã bị kết án hay quản chế hành chánh không được hành đạo, truyền giáo và quản trị tổ chức tôn giáo. Như vậy, Lm Nguyễn văn Lý đương nhiên bị tước đoạt quyền hành đạo và sẽ bị đối xử như một người dân thường.
Điều 16:
CSVN vẫn nhai lại cái giọng điệu cũ rích: "Yêu nước phải yêu Xã Hội Chủ nghĩa", nói trắng ra là yêu Đảng CS. Qui định rằng các tổ chức tôn giáo phải "gắn bó với dân tộc và phục vụ lợi ích của dân tộc" chỉ là điệp khúc cũ kỹ từ nửa thế kỷ nay.
Điều 22:
CSVN muốn quốc doanh hóa và kìm kẹp tất cả tôn giáo, nên đã ban hành quyết định: "các Giáo hội phải đăng ký và được chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo, về sinh hoạt, việc bầu cử, bổ nhiệm, phong chức theo đúng hiến chương, nội qui, điều lệ. "
Muốn được chịu chức, Linh mục hay tu sĩ phải được sự chấp thuận của CSVN. Như vậy có khác gì Linh mục quốc doanh? Kẻ vô thần lại có quyền phong chức và bổ nhiệm tu sĩ thì đúng là đã tới thời kỳ Satan tái thế!
Điều 24:
Để nhồi sọ và bóp méo lịch sử, CSVN bắt buộc phải giảng dạy môn lịch sử Việt Nam trong những lớp đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo. Lịch sử này dĩ nhiên phải có thành tích của ông Hồ đã được các cháu ngoan của Đảng nâng lên ngang hàng các anh hùng trong lịch sử dân tộc; và Đảng CS, dù đã lỗi thời trên thế giới, dù bất tài sau gần 30 năm thống trị đất nước, vẫn tiếp tục đè đầu cỡi cổ nhân dân.
Điều 32:
Để độc quyền tư tưởng, CSVN qui định các tác phẩm tôn giáo như kinh bổn, sách báo, tạp chí v.v... sẽ phải được nhà cầm quyền kiểm soát. Cho đến nay Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vẫn chưa được cấp giấy phép ấn hành tờ thông tin mục vụ.
Điều 33:
CSVN khuyến khích các Giáo hội và hội đoàn tôn giáo "ăn cơm nhà, vác ngà voi cho Đảng" bằng cách tham gia và hỗ trợ các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện, nhân đạo. Nhưng trơ trẽn thay, Đảng lại không cho tư nhân và các hội đoàn mở các trường tư thục hay cơ sở hoạt động văn hóa, xã hội đúng nghĩa!
Điều 39:
Hiếp pháp CSVN công nhận quyền tự do tín ngưỡng, nhưng Đảng lại không chấp nhận các giáo hội khác, ngoài các giáo hội quốc doanh Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành và Ủy ban Đoàn Kết Công Giáo do Đảng nắm đầu!
IV- PHẢN ỨNG CỦA GIÁO HỘI LA MÃ, GIÁO HỘI VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
-Ngày 5.7.2004. ĐHY Phạm Minh Mẫn, Tổng giáo phận Sài Gòn đã lên tiếng cho rằng "Cái Pháp Lệnh mới tồi tệ hơn cái cũ và nó không nên được ban hành thì hơn… nếu đảng CSVN khôn ngoan thì hãy ngưng ngay việc thi hành Pháp Lệnh Tôn Giáo hủ lậu, phản văn minh, phản tiến bộ của họ …"
-Ngày 9.7.2004, hãng thông tấn của Tòa Thánh cũng đã phê phán Pháp Lệnh Tôn Giáo của nhà cầm quyền CSVN không phù hợp với tinh thần tự do tín ngưỡng.
- Ngày 17.5.04, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phổ biến bản phúc trình đặc biệt về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo ở VN. Chính phủ Mỹ đã tốn rất nhiều thời giờ và công sức đối thoại với CSVN mà không thấy tự do tôn giáo và nhân quyền được cải thiện. Một tháng sau thì CSVN cho ra đời Pháp Lệnh Tôn Giáo có phải để trả đũa Hoa Kỳ chăng?
- Ngày 15.7.2004, Phong Trào Giáo Dân VN Hải Ngoại phản ứng mạnh mẽ qua lời kêu gọi "Tẩy chay Pháp Lệnh Tôn Giáo". Lời kêu gọi này đã được gửi tới đồng bào và giới truyền thông khắp nơi trên thế giới.
- Ngoài ra, còn khá nhiều tổ chức chính trị và tôn giáo của người Việt tị nạn ở khắp nơi trên thế giới đã phổ biến Tuyên ngôn phản đối chính sách về tôn giáo của nhà cầm quyền CSVN.
KẾT LUẬN:
Nhà cầm quyền CSVN coi như đã nắm được cán dao và họ sẽ không còn lo sợ nhiều, nếu John F. Kerry thắng cử. Pháp Lệnh Tôn Giáo có hiệu lực vào ngày 15.11.2004 hoặc sẽ phải sửa đổi nhiều hay ít, còn tùy thuộc vào cuộc bầu cử tổng thồng Mỹ vào tháng 11.2004. Nếu người Công Giáo nói riêng và các tín đồ của các tôn giáo khác nói chung, không nhiệt tình đấu tranh cho Giáo Hội của mình, thì CSVN sẽ phớt tỉnh và tiếp tục xâm phạm vào nội bộ tôn giáo