Dân Chúa Âu Châu

BY: LM. THÊÔPHILÊ

Thưa cha,
Cuốn phim “Thương Khó Đức Giêsu” được trình chiếu, và cũng có người khen chê. Xin cha cho biết cuốn phim có thật sự theo sát sách Phúc âm cho 12 giờ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu dưới dương thế này không?
Một nhóm độc giả muốn biết.
Trước khi trả lời một cách chi tiết hơn, tôi xin nói chung chung cuốn phim do đạo diễn Mel Gibson thực hiện đã giữ được sự trung thực với các sách Tin Mừng về sự Thương khó của Đức Giêsu. Dĩ nhiên, đạo diễn không thể nào theo sát hết 100% được. Câu hỏi trên đây của quý vị có thể coi như xoay quanh vấn đề thương khó của Đức Giêsu trước lịch sử. Những tài liệu nào đã ghi lại biến cố trên? và hôm nay, chúng ta có thể biết rõ những điều gì đã xảy ra cho Đức Giêsu nhìn theo phương diện lịch sử.
1. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU NGOÀI TIN MỪNG.
Đó là những sử liệu đến từ Flavius Josèphe trong bộ “Do thái thời cổ đại” XVIII, 63 – 64: “Thời đó có một hiền nhân tên là Giêsu, nếu coi ông là người thì ông là một người thông thái. Ông đã làm nhiều phép lạ, là thầy dạy những ai vui nhận chân lý. Ông lôi cuốn được nhiều người Do thái và cả nhiều người Hy lạp. Ông là Đấng Kitô. Rồi khi ông bị Phi-la-tô phạt đóng đinh vào thập giá vì những lời tố cáo của các vị đứng đầu trong chúng ta, thì những người lúc trước đã yêu mến ông vẫn không bỏ cuộc. Vì sau ba ngày ông lại hiện ra với họ như người còn sống; các ngôn sứ của Chúa đã nói về những điều này và còn có hàng ngàn điều lạ lùng khác về ông nữa. Cho tới nay, nhóm người được gọi là Kitô hữu đã theo ông vẫn không biến mất” (Antiquités XVIII)”; chứng từ của Tacít khoảng năm 100 nói về cuộc hỏa hoạn khổng lồ xảy ra hơn một tuần lễ ở thành Rôma. Người ta cho rằng kẻ chủ mưu trong vụ hỏa thiêu chính là Hoàng đế Néron. Ông muốn xóa đi thành phố Rôma cổ xưa để xây dựng lại một thành phố mới mang tên của chính ông ta. Tiếng đồn vang dội và Néron không thể nào ngăn chặn nổi. Cuối cùng ông vu khống cho cộng đồng Kitô giáo ở Rôma đã gây ra cơn hỏa hoạn. Từ đó khai mào cuộc bắt bớ các Kitô hữu kéo dài hơn 3 thế kỷ. Họ bị bách hại và tra tấn khốc liệt (Sử Biên niên XV,44).Tiếp đến, chúng ta còn đọc thấy trong chứng từ đến từ “Talmud de Babylone”. Kinh Talmud thuộc truyền thống Babylone Do Thái giáo khoảng thế kỷ thứ II cũng có nói đến cái chết của Chúa Giêsu, với lý do là Ngài đã lừa dối dân và khiến họ lạc lối: “Truyền thống kể lại như sau: Trước hôm ngày lễ Vượt qua, người ta đã đóng đinh ông Giêsu. Một vị quan tuyên cáo đã đi trước ông trong vòng bốn mươi ngày nói: “ông sẽ bị ném đá chết vì ông đã thực hành ma thuật, lường gạt và làm cho Ít-ra-en lầm lạc. Hỡi những ai biết cách nào chống đỡ hãy đến và làm chứng cho ông.” Nhưng họ không tìm thấy một ai làm chứng cho ông và ông đã bị đóng đinh trước hôm ngày lễ Vượt qua.” (Talmud de Babylone Sanhédrin, 43a). Đọc Tin Mừng, chúng ta biết vụ kết án Đức Giêsu được diễn ra thật vội vã, nhưng theo chứng từ Talmud, việc này được sửa soạn tỉ mỉ với phiên tòa cùng các quan án. Đức Giêsu bị giết chết “trước ngày lễ Vượt Qua” lại trùng hợp với Tin Mừng theo Gio-an.
Đọc chứng từ Talmud, chúng ta rút ra được những điều như sau:
* Vụ kết án Đức Giêsu là việc làm của người Do thái. Điều này chứng minh tác giả viết đoạn này đã không biết những điều ghi trong Tin Mừng. Ông chỉ lấy lại tin tức đến từ các Kitô hữu.
* Tác giả ghép tội Đức Giêsu làm Ma thuật theo truyền thống các phép lạ, như chúng ta thấy trong Máccô 3, 22 “bị quỷ vương ám”....
* Đức Giêsu đưa người Do thái theo con đường lầm lạc. Ý tưởng này được gợi hứng từ sách Đệ Nhị Luật 13, 2- 12.
* Đức Giêsu bị ném đá, hành quyết theo truyền thống người Do thái.
Nhưng cuối cùng Ngài bị treo trên thập giá. Trong đoạn này sách Talmud có điều tương phản. Tác giả hẳn muốn lấy điều lịch sử chấp nhận Đức Giêsu bị đóng đinh. Ông đặt vào trong một vụ án tương đương đến từ người Do thái. Đức Giêsu bị kết án lường gạt lẽ ra Ngài bị ném đá bởi người Do thái, nhưng vì việc Ngài bị đóng đinh theo truyền thống La mã, đều được ai ai cũng chấp nhận nên tác giả không thể chối bác được.
2. TÂN ƯỚC.
Nguồn sử liệu Kitô giáo như các Ngụy Thư như “Công vụ Philatô” hay “Tin Mừng theo thánh Phêrô” quy trách nhiệm cho người Do thái về vụ án Đức Giêsu. Nếu chỉ đọc Tân Ước, chúng ta cũng sẽ biết rất ít về vụ án như đã ghi trong Công vụ các Tông đồ và các thư của thánh Phaolô. Theo tác giả Công vụ và thánh Phaolô, chính người Do thái đã đóng đinh Đức Giêsu (1Thêxalônica 2, 15; Công vụ 2, 36; 3, 15; 4, 10; 5, 30). Thư thứ nhất gửi Ti-mô-thê (6, 13-14) ghi lại chứng từ của Đức Giêsu trước Philatô như sau: “Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Giêsu Kitô là Đấng đã làm chứng trước tòa tổng trấn Phongxiô Philatô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh em hãy giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta xuất hiện”.
3. TIN MỪNG.
Bốn cuốn Tin Mừng là những nguồn sử liệu duy nhất ghi lại nhiều chi tiết về vụ án và sự thương khó của Đức Giêsu từ khi Ngài bị bắt cho đến khi được chôn cất. Vấn đề đặt ra với câu hỏi Tin Mừng đáng cho chúng ta tin không? Đó là vấn đề sử tính của Tin Mừng. Muốn trả lời câu hỏi này một cách chín chắn cần phải tránh hai thái cực. Nhóm thứ nhất cho Tin Mừng chỉ là huyền thoại mang mục đích hộ giáo và thần học – nhóm thứ hai ngược lại, coi bộ Tin Mừng như những thiên phóng sự được ghi lại đúng những điều đã xảy ra.
Trình thuật Thương khó là một thể văn hoàn toàn khác biệt với các phần đầu của Tin Mừng. Trong đó những đoạn tiếp nối nhau đôi khi rất giả tạo. Soạn giả liên kết các trình??? vào với nhau cho phù hợp văn chương. Ngược lại, các trình thuật Thương khó theo rất sát thứ tự lịch sử: Đức Giêsu bị bắt, bị kết án và sau cùng bị đem đi giết.
Ngoài ra, những trình thuật Thương khó mang nhiều chi tiết không thể nào các tác giả có thể tự mình bịa đặt ra như đoạn Đức Giêsu bị đánh đòn và bị đóng đinh; những nhân vật rất bình thường, không quan trọng như ông Simôn thành Cyrênê vác đỡ thập giá cho Đức Giêsu với hai người con trai là ông Alexandre và Rufus (Máccô 15, 21); có thêm nhân vật Giuse thành Arimathia đem xác Đức Giêsu đi chôn cất; các chi tiết khác như tên gọi những nơi: “Vườn Cây Dầu” (Máccô 14, 32); “Nền đá” được gọi là Gápbatha (Gioan 19, 13); “Núi Sọ gọi là Golgotha (Gioan 19,17; Máccô 15,22). Sau hết là tấm biển “Vua dân Do thái”. Đây là một tước hiệu tạm bợ, không đến từ các cộng đoàn Kitô giáo, nhưng dân thành Giêrusalem đều biết vì nó được treo cho mọi người thấy. Đọc Tin Mừng về sự Thương khó, chúng ta có cảm tưởng chỉ một mình Đức Giêsu bị đóng đinh. Thật ra Ngài bị đóng đinh chung với những người khác.
Những chi tiết vừa kể chắc chắn được lưu hành trong cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi ở Giêrusalem. Đối với họ vụ án Đức Giêsu thật khó quên. Vì thế, các sử gia cũng không thể nào bỏ qua được. Nói vậy không có nghĩa chúng ta cứ đọc các trình thuật thương khó như một bản tường trình mà không xem xét lại. Các trình thuật Thương Kùhó không thuần túy là thiên phóng sự vì cả 4 trình thuật không hoàn toàn giống nhau. Chúng ta cũng biết các tác giả Tin Mừng biên soạn theo mục đích riêng cho nên các ngài không làm phóng sự kể lại đúng như sự việc đã xảy ra.
Trước hết một vài Tin Mừng mang những chi tiết không thấy ghi trong các cuốn Tin Mừng khác. Những chi tiết này lại quan trọng như việc Đức Giêsu được đưa tới nhà Thượng tế Khanna vào lúc ban đêm. Một vài trình thuật nói về việc xảy ra ở đồi Canvê theo Tin Mừng Gioan 18, 12.19-24; 19, 25-37: Đức Giêsu bị trói; Đối đáp giữa Đức Giêsu và Thượng tế rồi Khanna cho giải Người đến thượng tế Caipha; Đức Giêsu với thân mẫu...
Có những đoạn các Tin Mừng đều nói tới nhưng không hoàn toàn giống nhau. Theo Gio-an, các bà “môn đệ” đứng dưới chân thập giá (Gioan 19,25). Theo Máccô họ đứng xa xa và nhìn lại (Máccô 15,40). Làm cách nào hòa giải hai thời biểu khác nhau giữa Nhất Lãm và Gioan. Theo Nhất Lãm, Đức Giêsu bị hành quyết đúng vào ngày lễ Vượt Qua. Trước đó Ngài đã dự Tiệc ly với các môn đệ (Máccô 14,12); Gioan cho Đức Giêsu chết và được chôn cất ngày Vọng Lễ Vượt Qua (18,28; 19, 31.42). Khác biệt không có nghĩa do các tác giả bịa đặt ra. Các sử gia cho rằng Tin Mừng Gioan gần sát với điều thật sự xảy ra hơn; và các dữ kiện đó đến từ các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi tại Palestine.
4.    ĐỂ TRẢ LỜI CHO MỘT NHU CẦU
Trình thuật Thương khó trong Tin Mừng giữ một chỗ quan trọng. Đó là dấu chỉ một lời mời gọi và một nhu cầu. Chúng ta sống ở thế kỷ XXI, thập giá mang một biểu hiệu hay vật đó là một vật dụng đạo đức. Đối với người thời xưa, thập giá gợi lên hình ảnh nhục nhã và ghê rợn. Thánh Phaolô trong thư 1Côrintô 1, 23 cho “là ô nhục không thể chấp nhận được và dân ngoại cho là điên rồ”.
Người Do thái hoàn toàn bác bỏ kỳ vọng của các môn đệ cho Đấng bị đóng đinh trên đồi Golgotha là Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa. Đó là điều phạm thượng. Phía dân ngoại, nhất là người Hy lạp lại càng không chấp nhận một đấng đại diện cho Thần Linh, một vị thần sự lại mang bản án của người nô lệ. Người đó lại cho mình là kẻ soi sáng thế gian, là điều không tương đối với đám dân chúng Hy lạp. Họ nhạy cảm về triết lý hơn là một điều lạ lùng đến từ Phương Đông.
Tin Mừng viết cho Kitô hữu qua hành động truyền giáo. Vì thế, họ không thể nào thuyết phục được kẻ khác vào đạo giáo của mình, nếu như chính họ không chắc chắn phù hợp theo chương trình của Thiên Chúa. Các trình thuật Thương khó là lời giảng huấn nên họ cần phải học hiểu.
5. THEO CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA PHÁC HỌA TRONG KINH THÁNH
Không một thánh sử nào có ý nghĩ phải loại bỏ sự nhục nhã và sự kinh rợn, cho dù đôi lúc các ông ngần ngại nhấn mạnh như việc Đức Giêsu bị đánh đòn. Họ chỉ nói phớt qua và không đi vào chi tiết tỉ mỉ. Dưới ánh sáng phục sinh, các tác giả nhấn mạnh nhân vật chịu đựng đau khổ không phải đồ chơi của một định mệnh đui mù. Đức Giêsu biết trước thân phận dưới trần thế. Các lời tiên báo về sự Thương khó đều cho biết như vậy (Máccô 8,31; 9,31; 10,33). Dầu vậy, Đức Giêsu không phải bị chịu đựng, nhưng chấp nhận hoàn toàn tùy phục Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi đọc toàn thể trình thuật Thương khó, chúng ta sẽ nhận thấy mọi cố gắng trình bày các biến cố xảy ra không như một thất bại, nhưng được vâng theo chương trình của Thiên Chúa diễn đạt trong Sách Thánh mà người Kitô hữu đã lãnh nhận từ Ítraen.
Lý chứng Kinh Thánh mang nhiều hình thức: Lời mời gọi dựa vào một đoạn trích dẫn Cựu Ước để giải thích một dữ kiện nào đó. Ví dụ việc mua thửa vườn của người thợ gốm (Mátthêu 27, 9-10); bắt thăm chia áo (Gioan 19, 24). Đôi khi sự trích dẫn nằm ngay trong một bài trình thuật. Tức là các tác giả vay mượn lời Kinh Thánh “Đây là máu giao ước” Máccô 4, 24); hay “Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Ngài lại bỏ con” (Máccô 15, 34). Đôi khi dự kiện được trình bày với một chút thay đổi cho phù hợp với lời Kinh Thánh - Theo Mátthêu 27, 34 “Đức Giêsu được uống rượu pha mật đắng” – “Mật đắng” do Mátthêu thêm vào (Máccô 15,22) cho phù hợp như lời Thánh vịnh 69, 22 như lời sấm về Đấng Thiên Sai.
6. THEO Ý HƯỚNG TỪNG TÁC GIẢ TIN MỪNG.
Các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai có biết và cho lưu hành những truyền thống về các trình thuật Thương khó. Khi biên soạn Tin Mừng, các tác giả lấy những tài liệu đó và áp dụng vào cho thính giả của mình. Họ nhấn mạnh đến những điểm muốn cho người nghe biết và hiểu. Về vấn đề thương khó, Mátthêu và Luca hoàn toàn dựa trên tài liệu của Máccô. Những điều các ông thêm vào cần phải được sử dụng rất cẩn thận về phương diện sử tính.
Những điều Mátthêu thêm vào:
- Bà vợ ông Philatô và một số khác can thiệp khi Đức Giêsu bị đưa ra tòa án La mã (27,19) - và khi Philatô rửa tay trước đám đông (27,24) chứng tỏ ông biết rõ truyền thống của người Do thái.
- Mátthêu 27, 52-53 “Mồ mả bật tung” - mang ý biểu tượng
Những điều Luca thêm vào:
- Đức Giêsu bị điệu ra trước Hêrôđê Antipas (23, 8-12). Các bà khóc trên đường lên Núi Sọ (23,27-31) với nhiều trích dẫn Cựu Ước. Luca mang xu hướng giúp thánh hóa và khích lệ cộng đoàn của ngài qua đoạn Người Trộm Lành (23,39-43). Lời kinh cuối của Đức Giêsu (23,46) “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” và đám dân sám hối (23,48).
MỘT VÀI VẤN NẠN.
Dù các trình thuật Thương khó trong Tin Mừng mang cùng một cấu trúc với một số nét rõ rệt, nhưng hôm nay cũng còn một vài vấn nạn xem chừng các sử gia vẫn chưa thấu hiểu rõ ràng. Những lý do chính để các thủ lĩnh Do thái quyết định ra lệnh bắt Đức Giêsu và trao cho quyền hành La mã giết rất mơ hồ. Đức Giêsu bị Philatô kết án về tội chính trị vì Ngài tự nhận mình là vua dân Do thái như ghi trên tấm biển treo ở đầu thập giá. Phía Do thái có thật sự mang cùng ý hướng này không?
Chúng ta cũng có thể nêu lý do tại vì Đức Giêsu đã chủ trương thay lề luật Môsê. Đọc kỹ Tin Mừng không thấy có đoạn nào chắc chắn về điều này để bắt Ngài và kết án chết. Ngoài ra có hai trình thuật cho thấy khá rõ các thủ lĩnh Do thái quyết định đi bắt Đức Giêsu: khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem và được dân chúng tung hô như một ông vua. Các sử gia cho rằng trình thuật này có thật nhưng không đồng ý ở điểm “dân chúng tung hô như một ông vua”, vì nếu có chắc rằng chính quyền La mã sẽ can thiệp vì họ không thể để cho dân làm một việc họ cho là khôi phục lại nền quân chủ Ítraen. Có chăng cũng chỉ là tiếng tung hô của một đám dân chúng nhỏ cộng thêm vào đó với các môn đệ.
Biến cố thứ hai đưa đến việc bắt Đức Giêsu là câu chuyện xảy ra tại Đền Thờ khi Ngài đuổi các con buôn đang bán súc vật cho việc hiến tế trong Đền Thánh, và các tay đổi tiền (đổi tiền La mã lấy đồng Do thái để dâng Đền Thờ).
Các sử gia theo cùng một ý như việc Đức Giêsu vào thành. Quân La mã giữ an ninh trật tự phía ngoài Đền thờ, nên không thể cho xảy ra một biến cố thật lớn như ta đọc trong Tin Mừng. Hành động của Đức Giêsu rất là giới hạn, và gợi lại việc các ngôn sứ chỉ trích nặng nề việc phụng tự bề ngoài không có bề sâu. Một việc phụng tự làm cho con buôn trở thành quan trọng vì phải có súc vật và đồng tiền dâng cúng. Ngoài ra còn có các lời của Đức Giêsu loan báo việc thiêu hủy Đền Thờ mà người Do thái lập lại trong vụ án (Máccô 14, 58).
Chúng ta thấy Đức Giêsu hành động và nói đều phù hợp với viễn tượng tương lai theo Ngài: Nước Thiên Chúa trên trần gian có cần đến của lễ toàn thiêu bằng súc vật để đền tội thế gian không? Các thủ lĩnh Do thái chắc chắn không hài lòng những việc Đức Giêsu làm, nhưng dân chúng cũng không mấy thiết tha theo ý Ngài vì họ rất gắn bó vào Đền Thờ và những nghi thức. Rất sớm các môn đệ và những Kitô hữu sơ khai đã gọi Đức Giêsu là Đấng Kitô (Phaolô vào khoảng năm 50). Dữ kiện này cho biết Đức Giêsu đã làm và có một thái độ như Đấng Thiên Sai.
Vấn nạn ở chỗ Đức Giêsu bị người Do thái bắt vì tự coi và được coi như Đấng Mêsia, tại sao các môn đệ Ngài lại không bị họ đi truy lùng bắt giết. Khi biến cố vừa xảy ra tất cả các môn đệ đều bỏ trốn và không một ai bị truy lùng. Tới thời hoàng đế Hêrôđê Agrippa trị vì tại Giêrusalem, cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi mới bị bách hại (Cv 12,1-3).
BIẾN CỐ THƯƠNG KHÓ XẢY RA LÀM SAO?
1. Bị bắt.
Đám đông bắt Đức Giêsu tại vườn “Cây Dầu” được biết do “các Thượng tế, kinh sư và các kỳ mục sai đến” (Mc 14, 43), tức là do Hội đồng cộng tọa ở Giêrusalem. Tác giả nhấn mạnh ở điểm này nêu trách nhiệm vụ kết án giết chết Đức Giêsu đến từ người Do thái. Hội đồng cộng tọa là một nhóm, nhưng thật ra chính vị Thượng tế hoặc các Thượng tế cũ gồm những cựu Thượng tế và thân nhân các gia đình quý tộc thuộc dòng tư tế. Trong Hội đồng, nhóm này mới thật sự có quyền hành. Họ có quyền cho lính đi bắt giam dưới quyền hành trực tiếp của vị cai quản Đền Thờ. Ông này là nhân vật số hai sau Thượng tế. Đức Giêsu bị nhóm này bắt theo sự Giu-đa chỉ điểm vì ông này biết nơi Đức Giêsu và các môn đệ ngủ qua đêm.
2. Vụ án Do thái.
Đức Giêsu bị quân lính thuộc Đền Thờ bắt không cần quân đội La mã tham gia như Gioan ghi (18, 3.12). Theo Gioan, ngoài đám thuộc hạ thủ lĩnh La mã còn có viên chỉ huy và toán quân La mã. Những biến cố tiếp theo cho thấy Đức Giêsu bị nằm trong tay quyền hành của người Do thái.
Sau khi so sánh giữa Nhất Lãm và Gioan, chúng ta rút ra được kết luận như sau: Trước hết Đức Giêsu bị dẫn đến nhà riêng vị Thượng tế đã về hưu là ông Khanna, bố vợ Thượng tế năm đó là Caipha. Tại nhà Khanna có mặt một số thành viên Hội đồng cộng tọa và họ cùng quyết định những điều phải làm kế tiếp. Chính tại nơi nhà Khanna, Đức Giêsu bắt đầu bị hành hạ trong khi chờ đợi trời sáng.
3. Vụ án La mã.
Sáng hôm sau, Đức Giêsu bị đưa ra tòa án của Philatô. Ông là người thực sự có quyền kết án (Gioan 18,31). Theo các Tin Mừng, Đức Giêsu bị kết án vì tội chính trị. Có điều khá ngạc nhiên không thấy ông Philatô phản ứng khi Đức Giêsu nhìn nhận Ngài là “Vua dân Do thái”, vì đây là tội phản bội rất quan trọng.
Ở đây vai trò đám dân chúng cũng không có gì là sử tính cho lắm. Đám đông chỉ tham dự vào vụ án, theo Mátthêu và Máccô, đoạn có mặt ông Baraba thiếu sử tính vì là việc khá bất bình thường.
Trong Tin Mừng Gioan, Philatô đi qua đi lại và nói chuyện với đám dân chúng cũng không có nhiều sử tính vì trong cuộc trao đổi có quá nhiều biểu tượng cũng như đề tài thần học và tranh luận, nên cấu trúc như thể giả tạo.
4. Nơi Pháp đình.
     Vụ án xảy ra trong dinh còn gọi là pháp đình nơi viên tổng trấn cư ngụ mỗi lần ông lên Giêrusalem, nhất là vào thời điểm các lễ lớn của người Do thái. Các nhà khảo cổ tranh luận xem hôm nay dinh thự đó nằm ở nơi đâu. Một số người cho là pháo đài Antonia nằm ở phía Tây Bắc Đền Thờ. Một số khác cho là dinh thự của Hêrôđê trên một ngọn đồi hướng Tây thành Giêrusalem tức là phía Nam hiện tại cửa Joffa. Giải pháp thứ hai hiện thời được các sử gia coi như chắc hơn.
Césarée nơi ở thường trực của quan tổng trấn là dinh thự cũ của Hêrôđê cả. Dinh thự ở Giêrusalem mang điểm thuận lợi nằm trên cao, rất lý tưởng để canh giữ, dò xét mọi việc xảy ra trong thành phố và tại Đền Thờ. Hai ông Philon và Josèphe có những dữ kiện thấy gần giống như vậy. Trong Tin Mừng Gioan 19, 13 nơi quan tổng trấn ngồi xử án có tên gọi bằng tiếng Aramê là Gápbatha (nền đá). Gốc của nó chỉ định một cái gì cao. Những chi tiết này đưa dinh thự Hêrôđê gần sát với thực tế hơn thành lũy Antonia.
5. Quyết định của vụ án.
Vụ án trước quan tổng trấn Philatô kết thúc bằng việc kết án tử hình. Người ta không thấy rõ được tâm trạng của Philatô vào lúc đó. Một đàng, ông dường như có cảm tình với Đức Giêsu nên ông do dự. Nhiều sử gia cho rằng điểm này do một tác giả Kitô giáo viết lên với mục đích lên án chính người Do thái muốn giết Đức Giêsu, vì ngay cả người La mã cũng mang cảm tình đối với Đức Giêsu. Trong lịch sử khi viết về Philatô các sử gia thường đưa ra hình ảnh một Philatô rất cứng rắn. Ông Philon còn đi xa hơn cho rằng Philatô là một người rất bạo động, thích tra tấn và có nhiều vụ hành quyết mà không được xử án trước. Chung chung Philatô ít nhân nhượng trước người Do thái.
Đức Giêsu rất có thể được xử án chung cùng một lúc với một số người khác, nhất là Tin Mừng ghi còn có hai người khác bị đóng đinh với Ngài (Máccô 15, 27). Nhưng điều gì đã đưa Philatô đi đến quyết định giết Đức Giêsu? Philatô đã làm theo ý của các thủ lĩnh tư tế vì ông thấy có lợi ích chính trị và giữ được trật tự công cộng. Như vậy các thủ lĩnh tư tế Do thái thấy thiện chí của Philatô; cả đôi bên thường đồng ý với nhau.
Ngoài ra, còn trình thuật kể câu chuyện Đức Giêsu bị đưa qua gặp Hêrôđê Antipas, tiểu vương vùng Galilê nhưng lại có mặt tại Giêrusalem vào lúc đó. Trình thuật này có thể đến từ một ký ức xa xưa được lưu hành trong cộng đoàn tiên khởi. Các sử gia cho rằng Lu-ca thêm vào trong phần Thương khó với mục đích biện giáo: Đức Giêsu là một người bị kết án vô tội (Lc 23, 14-15).
6. Đóng đinh.
Đức Giêsu bị Philatô kết án đóng đinh. Người Hy lạp hay người Do thái cũng có đóng đinh tội phạm, nhưng việc này thường coi như truyền thống của người La mã. Ông Philatô giao Đức Giêsu cho lính. Họ thuộc một nhóm riêng biệt gồm những thành phần đến từ các tỉnh nhưng không phải là người Do thái. Nhiệm vụ nhóm này hành tội đánh đập tội nhân trước khi đưa đi đóng đinh.
Đánh đòn bằng roi là một việc làm man rợ: Tội nhân bị đánh trước đám công chúng. Đức Giêsu bị đánh đòn ngay tại nơi Ngài bị xử án. Rồi từ đó lính mới mang Ngài đến nơi bị đóng đinh. Có một chi tiết đến từ ký ức cộng đoàn sơ khai ở Giêrusalem: Đức Giêsu yếu quá để mang thanh gỗ ngang, nên lính đã bắt một ông tên là Simon quê ở Kyrênê. Khi Máccô cho biết ông này còn có hai người con là Alexandre và Rufus (Máccô 15, 21), tác giả cố ý cho độc giả biết hai nhân vật này được các Kitô hữu tại Rôma biết tới. (Tin Mừng Máccô được biên soạn tại Rôma).
7. Núi Sọ (Golgotha) ở đâu?
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu và hai người khác bị đóng đinh ở một nơi mang tên Golgotha, một ngọn đồi có hình dáng một cái sọ. Ngày nay có một Vương Cung Thánh đường gọi là “Mộ Thánh” được xây cất từ hồi đầu thế kỷ thứ IV. Tin Mừng Gioan nói ở gần đó có một thửa vườn. Từ dinh thự Philatô đi thẳng lên tới Golgotha chỉ khoảng chừng 400 thước.
8. Phút cuối cùng.
Tại nơi xử tử, họ cho Đức Giêsu uống rượu pha với mộc dược theo truyền thống Do thái. Đức Giêsu bị đóng đinh hoàn toàn trần truồng vào thanh gỗ ngang trước rồi mới được đưa lên gắn vào thanh gỗ đứng. Một tấm biển có thể được gắn trên đầu thập giá, nhưng cũng có thể treo trên cổ tội nhân. Đối với Đức Giêsu, tấm biển ghi là “Vua dân Do thái”. Tin Mừng Gioan cho tấm biển được ghi bằng ba thứ tiếng mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là sự thật. Vương triều của Đức Giêsu là cho toàn thế giới (18, 37), vì ai đi qua đó cũng có thể đọc và hiểu.
Sau đó lính cho Đức Giêsu uống dấm. Do thái gọi là posca tức là một thứ nước trộn với dấm và trứng. Thứ dấm này thường được các quân lính và nông dân dùng. Cho tội nhân uống dấm hiển nhiên làm cho họ đỡ khát nhưng còn làm cho cái chết chậm lại. Đức Giêsu chết nhanh hơn hai người tội nhân kia vì Ngài không bị đập xương chân. Bình thường các quân lính đập bể hai ống xương chân để tội nhân chết ngay.
9. Chôn cất.
Theo luật La mã, một khi kẻ bị đóng đinh chết họ cứ để trên thập giá. Trường hợp Đức Giêsu, một số nhà quý tộc Do thái xin phép Philatô hạ xác xuống trước khi ngày Sa-bát bắt đầu. Philatô đồng ý. Ngoài ra theo Tin Mừng, người chôn cất Đức Giêsu có tên là Giuse thành Arimathia, còn được biết dưới tên Ramathaim. Thành này nằm ở phía Tây Bắc Giêrusalem khoảng 30 cây số, là quê hương của ngôn sứ Samuen (1Samuen 1,1). Giuse không là môn đệ của Đức Giêsu nhưng thuộc thành phần quý tộc Do thái (Máccô 15, 43; Luca 23, 50).
Lòng đạo đức đã thúc giục ông tuân giữ Lề Luật (Đệ nhị luật 21, 22-23) chôn cất tội nhân trước khi mặt trời lặn. Luật Mishna ghi rõ những điều phải làm khi chôn cất và cũng có ghi trong Cựu Ước (1Vua 13, 22; Giêrêmia 22, 18 – 19; 26, 23). Bị đóng đinh cũng không được chôn cất trong phần mộ của gia đình. Đó là trường hợp của Đức Giêsu. Theo Mác-cô, Đức Giêsu không được rửa xác và cũng không được xức dầu. Xác được quấn vào trong một khăn liệm và đặt vào trong một ngôi mộ nào đó. Tảng đá chận trước cửa để khỏi bị súc vật chạy vào.
Lễ Vượt qua là một ngày nghỉ, người ta chỉ đi đứng tối thiểu theo Luật đã ghi. Xác Đức Giêsu được đặt rất gần nơi bị đóng đinh.