Dân Chúa Âu Châu

BY: LM. THÊÔPHILÊ

III. PHỤNG VỤ THÁNH THỂ:
2. Kinh Tạ ơn gồm tất cả 9 phần:
 Đây là toàn bộ những công thức giữa phần tiến lễ và Kinh Lạy Cha, đây cũng là phần chính của Thánh Lễ: Phần Tạ ơn hoặc hy tế. Theo truyền thống Đông phương, Kinh Tạ ơn còn gọi là anaphore (Nâng Lên) là một hành động biểu thị cử chỉ hiến tế. Truyền thống La tinh gọi là Canon (Lễ quy), tức là những điều ta phải tuân theo. Canh tân Phụng vụ dùng từ ngữ Kinh Tạ ơn thích hợp hơn cả. Cấu trúc Kinh Tạ ơn có nguồn gốc Do Thái Giáo. Kinh gần nhất là ”kinh Chúc Tụng Đấng Tạo Hóa” (Birkat Yotser) kèm theo lời kinh đọc hằng ngày ”nghe đây hỡi It- ra- en” (Shema Israel). Lời kinh bắt đầu với lời ngợi khen Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, một lời Sanctus và kết thúc với lời khẩn cầu. Trong sách Didache ở thế kỷ thứ hai cũng có một kinh rất gần với Kinh Tạ ơn.
a. Lời tiền tụng:
Chủ tế nhắc lại những việc kỳ diệu Thiên Chúa làm: Chúng ta tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc thật là chính đáng.
Tiếng La tinh prae (trước)- fari (nói) có nghĩa là lời nói đầu. Từ này có thể mang hai nghĩa: ”Điều mà ta nói trước khi làm” hoặc” Điều ta nói trước người nào đó” Giáo Hội cổ xưa giữ lấy nghĩa thứ hai này. Lời Tiền tụng mở đầu Kinh Tạ ơn, là phần mở đầu long trọng của việc tạ ơn Thiên Chúa Cha. Dẫn vào Lời Tiền tụng là lời đối thoại cổ xưa” Hãy nâng tâm hồn lên”, và tiếp theo là bài hát Thánh! Thánh! Thánh! Tất cả các Lời Tiền tụng đều theo cùng một mẫu cố định, chỉ có phần trung tâm có thay đổi vì tóm tắt lại về mầu nhiệm được cử hành. Vì thế, khi chúng ta thu thập lại các công thức riêng của khỏang 80 Lời Tiền tụng có trong sách Lễ Roma, chúng ta sẽ có được một bản tóm tắt phong phú về mầu nhiệm Giao ước mà Giáo Hội vẫn luôn cử hành. Cấu trúc Lời Tiền Tụng có:
1. Lời chúc tụng, tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô.
2. Lý do tạ ơn.
3. Dẫn vào kinh Thánh! Thánh! Thánh.
Ví dụ Lời tiền tụng cho lễ Phục Sinh I: Lạy Cha, chúng con tuyên xưng Cha mọi lúc và hân hoan ca tụng Cha vinh hiển, nhất là trong ngày này, thật là chính đáng và phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, khi Đức Giêsu tự hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con.
Chính Người là Chiên thật đã xóa tội trần gian. Người đã chết để diệt trừ sự chết nơi chúng con, và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con.
Vì thế, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu, lòng tràn ngập niềm vui ngày Chúa sống lại, đều mừng rỡ hân hoan. Đồng thời cả triều thần thiên quốc hát bài ca chúc tụng Cha vinh hiển và không ngừng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh!
 b. Thánh! Thánh! Thánh!
 Lời Tiền Tụng dẫn tới Kinh sanctus. Tiếng La tinh sanctus nghĩa là thánh. Kinh Thánh! Thánh! Thánh! là ba lần kêu cầu Thiên Chúa chí thánh. Kinh này là lời ca tụng của toàn thể cộng đoàn, làm bung nổ lời tạ ơn phát xuất ra không phải do những công việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, nhưng ngay vào việc chiêm niệm Thiên Chúa. Chúng ta hát mừng Thiên Chúa mà mầu nhiệm của Người bao phủ vũ trụ, cũng như Đấng mà Ngài gửi đến. Phụng vụ nơi đây đưa chúng ta vào phụng vụ của một dân tộc đi vào thế giới mới. Phần đầu Kinh Sanctus lấy lại thị kiến khai mào của ngôn sứ I- sa-i-a, ông đã nghe các thiên thần Seraphim tung hô: Thánh! Thánh! Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa! (6,3). Tiếp theo là: Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Đây là lời tung hô của người Do Thái ở Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành ngày Lễ Lá (Mát- thêu 21,9; Mác- cô 11,9; Lu-ca 19,38), đây cũng là bài ca của bốn con Vật trong sách Khải Huyền 4,8.
 Từ Hosanna là tiếng tung hô của người Do Thái, được ghép bởi mệnh cách của động từ hoshi ‘ ah nghĩa là cứu vớt và từ tố chỉ nghĩa ”Na” = van xin. Hoshi ‘ahna sát nghĩa là xin cứu vớt. Từ này xuất hiện thành văn trong câu 25 của Thánh vịnh 117. Thánh vịnh này tiêu biểu sự vượt qua, mô tả quang cảnh đón rước Đấng Mêsia dịp lễ đăng quang của Người (câu 19-27). Dân Do Thái hát bài ca này để chào mừng Đức Giêsu lúc Người tiến vào thành Giêrusalem (Mt 21,9). Sau này Hosanna mất đi ý nghĩa nguyên thủy để chỉ còn lại là tiếng hô vui mừng và chiến thắng. Hosanna được phụng vụ nhắc lại hai lần trong kinh Thánh! Thánh! Thánh! như lời tung hô của các tín hữu vào cuối Kinh Tiền Tụng để dâng lên Thiên Chúa. Vào phút giây hy lễ Thánh Thể sắp được tái diễn, ý nghĩa căn gốc của Hosanna lột tả trọn vẹn nội dung của mầu nhiệm: Xin cứu vớt. Đây là công trình của Đức Giêsu, Thánh Danh có nghĩa là Đức Gia- vê cứu vớt hoặc Thiên Chúa đã cứu vớt: Yehoshua.
c. Kinh hậu sanctus.
 Kinh này có công dụng làm gạch nối giữa kinh Sanctus là kinh Epiclesis. Vì thế kinh này khởi đầu từ sau kinh Sanctus cho tới lời cầu xin Chúa Thánh Thần.
d. Kinh cầu xin Chúa Thánh Thần (epiclesis).
Trong tiếng Hy Lạp Klesis (lời kêu gọi) và epi (ở trên). Đây là lời cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài đến và bằng hoạt động của Thiên Chúa, thánh hóa lễ vật Hội Thánh dâng lên trong Thánh lễ hầu trở thành Mình và Máu Chúa, và trên cộng đoàn để họ tham dự vào Thánh Thể một cách hiệu quả hơn.
 Trong kinh Tạ Ơn có hai kinh Epiclesis: Kinh thứ nhất gọi là Truyền Phép và được đặt trước tường thuật lập bí tích Thánh Thể, cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên lễ vật và thánh hóa lễ vật biến thành Mình và Máu Chúa Kitô. Kinh Epiclesis thứ hai gọi là hiệp lễ được đặt ở sau tường thuật lập bí tích Thánh Thể.
e. Phần tường thuật việc lập bí tích Thánh Thể và hiến thánh.
 Liên quan đến tường thuật lập bí tích Thánh Thể vấn đề đặt ra là giây phút truyền phép, nghĩa là khi nào thì bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô? Theo Đông phương thì Kinh Epiclesis chính là lời truyền phép biến bánh rượu thành Mình Máu Chúa Kitô. Theo Tây phương thì tường thuật lập bí tích Thánh Thể mới là lời truyền phép.
 Ai là người truyền phép? Người ta cho rằng linh mục là người truyền phép. Điều đó hoàn toàn không đúng. Kinh Epiclesis chứng tỏ vai trò của linh mục chỉ là đọc lời nguyện của cộng đoàn nài xin Chúa Cha sai Thánh Thần xuống trên lễ vật. Như vậy chính Thiên Chúa Cha nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà thánh hóa lễ vật và biến thành Mình và Máu Chúa Kitô chứ không phải linh mục.
 Cử chỉ vị linh mục nâng Bánh và Chén Thánh sau khi đọc lời truyền phép, đây chỉ là việc nâng Mình và Máu Thánh lên cho giáo hữu thờ lạy. Có nhiều mê tín dị đoan liên quan đến cử chỉ này, ví dụ người ta tin rằng ai ngước nhìn lên bánh và chén thì hôm đó sẽ không phải chết thình lình, nhà cửa và kho lẫm sẽ được bảo vệ khỏi hỏa hoạn. Vì thế khi linh mục nâng Chén và Bánh không cao đủ thì một số nguời than thở: xin nâng cao hơn! Ngày nay, việc nâng Chén nhằm mục đích mời gọi giáo dân biểu lộ niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể và tôn thờ Người cách thầm lặng. Có thể rung chuông và để tỏ lòng tôn kính sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể, có thể xông hương mỗi khi nâng Bánh và Chén lên.
f. Tưởng niệm (Anamnesis).
 Đây là lời nguyện kế tiếp việc truyền phép. Sau lời tung hô của tín hữu: „Lạy Chúa chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại đến“, lời kinh này được ghép vào lệnh truyền phải lập lại tác động này, tức là câu kết của trình thuật thiết lập Thánh Thể: ”Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Vì là tưởng niệm Thánh Thể, tức kỷ vật tri ân của Hội Thánh, kinh này là lời gợi nhớ kỷ niệm mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô.
g. Dâng tiến (kinh cầu xin cùng Chúa Thánh Thần lần hai).
 Kinh này cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên cộng đoàn để liên kết họ với nhau thành một thân thể duy nhất nhờ liên kết với Chúa Kitô.
h. Chuyển cầu.
 Giáo Hội dâng những lời nguyện xin cầu cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục, linh mục và tất cả những ai dấn thân phục vụ dân Chúa. Cộng đồng cũng cầu xin cho những người đã ly trần. Sau cùng cộng đồng cầu nguyện cho những người hiện diện để họ được liên kết với Đức Maria và toàn thể các Thánh ở trên trời mà chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa.
i. Vinh tụng ca.
 Theo tiếng Hy Lạp Doxa (vinh quang) logos là lời. Doxologia là lời về vinh quang, là một công thức cử hành vinh quang Thiên Chúa khi đọc hay hát lời vinh tụng, linh mục cũng cầm Bánh và Chén thánh nâng lên trong một cử chỉ hiến dâng. Cử chỉ này diễn tả tiến trình vũ trụ hướng về cõi vĩnh cửu của Thiên Chúa. Có thể nói đây là giây phút quan trọng nhất trong Thánh Lễ, các lời nói và cử chỉ đều diễn tả rõ rệt Đức Kitô chịu hiến tế là Đấng được Chúa Cha ban tặng đồng thời được dâng lại cho Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần để mưu ích cho toàn thể Hội Thánh:
Chính nhờ Đức Kitô
Cùng với Đức Kitô
và trong Đức Kitô
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến luôn thuở muôn đời.