Dân Chúa Âu Châu

BY: LM. THÊÔPHILÊ

1. «HIẾN LỄ TẠ ƠN» (EUSCHARISTIE) HAY THÁNH LỄ (MESSE)?
Hỏi: Trước đây, con được dạy là đi xem lễ, rồi tham dự Thánh Lễ. Rồi bây giờ lại nghe các cha nói là «hiến lễ tạ ơn». Vậy con phải dùng từ nào mới chính xác
Đáp: Từ ngữ «Hiến lễ tạ ơn» dịch từ nguyên ngữ Hy lạp «eucharistein» (tiếng Pháp là Eucharistie, và từ gần 20 năm nay chúng ta thấy thường dùng từ Eucharistie hay liturgie eucharistique = Phụng vụ tạ ơn thay cho từ Thánh lễ = Messe). Từ Eucharistein có nghĩa là hành động tạ ơn, ca tụng và vui mừng. Đây là một trong những từ xưa cổ nhất chỉ định bữa tiệc tạ ơn của người Kitô hữu. Đó là mục đích đầu tiên họ tụ họp lại để tưởng nhớ việc Thiên Chúa làm cho ta trong Chúa Giêsu Kitô và tạ ơn Ngài về việc ấy. Từ «hiến lễ tạ ơn» vì thế mang nhiều ý nghĩa đặc trưng hơn từ «Thánh Lễ». Từ ngữ «Thánh lễ» đơn giản đến từ cụm từ bằng tiếng La tinh «Acta missa, ite in pace» = những điều chúng ta làm đã hoàn thành, hãy ra về bằng an». Và từ thế kỷ thứ VI cụm từ «missa est = hành động đã hoàn thành» được chứng nhận như công thức giải tán kết thúc Thánh lễ; và hôm nay động tính từ (participe) missa trở thành danh từ chung là «La messe = Thánh Lễ».
Giáo Hội dùng từ này trở lại bằng nhiều cách. Chúng ta đều biết chẳng hạn như Thánh Lễ thường chia làm hai phần chính: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Phần Phụng vụ Lời Chúa bao gồm hai bài đọc, chen ở giữa bằng 1 Thánh Vịnh, bài Ha-lê-lui-a, rồi đến bài Tin Mừng kèm theo Bài giảng, và Phụng vụ Lời Chúa kết thúc với lời nguyện cho mọi người. Bài đọc 1 được trích ra từ Cựu ước; còn bài đọc 2 trích ra từ các sách Tân ước.
Riêng Phụng vụ thánh Thể được bắt đầu bằng phần Tiến lễ và kết thúc với lời nguyện Hiệp lễ. Ngoài ra trong phần Phụng vụ Thánh Thể, cha chủ tế có đọc một kinh nguyện dài, mà trong kinh này kể lại việc thiết lập «Hiến lễ tạ ơn». Kinh này được gọi là «Kinh Nguyện Thánh Thể». Bản Kinh Tạ ơn được khởi đầu bằng câu của Cha chủ tế: «Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta»; và cộng đoàn đáp: «Thật là chính đáng.» Kinh nguyện Thánh thể cũng thường bao gồm tất cả bảy phần như sau:
- Lời tiền tụng: Linh mục chủ tế tạ ơn Thiên Chúa Cha về công trình cứu độ.
- Lời cầu xin Chúa Thánh Thần cũng còn gọi là Epiclesis: Cha chủ tế xin Thiên Chúa Cha gửi Chúa Thánh thần xuống trên của Lễ đang được tiến dâng.
- Bài tường thuật lập bí tích Thánh thể và phần hiến thánh: Bằng sức mạnh Lời và hành động của Đức Kitô, hiệp cùng thể lực của Chúa Thánh Thần, thân thể và máu Đức Kitô hiện diện dưới hình thức bánh và rượu.
- Tưởng niệm (Anamnesis): cộng đồng tưởng nhớ cuộc khổ nạn, sự Sống Lại và Lên Trời của Chúa Giêsu.
- Dâng tiến: Giáo Hội dâng hiến lên Thiên Chúa lễ tế tạ ơn; tất cả mọi Kitô hữu được kêu mời tự dâng cuộc sống của họ cho Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.
- Lời Chuyển cầu: Hiến lễ tạ ơn được dâng lên kết hiệp với toàn thể Giáo Hội trên Trời cũng như dưới đất. Qua đó, chúng ta thổ lộ cho Thiên Chúa tất cả nguyện ước của mình.
- Vinh tụng ca: Vinh tụng ca kết thúc Kinh nguyện Thánh thể bằng một thể thức dâng hiến mình và máu của Đức Kitô cho Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Cộng đồng diễn đạt lòng tin và sự đồng ý bằng cách đáp với từ AMEN.
2. THÁNH LỄ CHÚA NHẬT VÔ ÍCH?
Hỏi: Con có bạn bè cho rằng Thánh lễ hằng ngày chẳng ích lợi gì. Có người còn nói chỉ đi lễ một năm 3, 4 lần mà rút tỉa được điều tốt còn hơn là đi lễ mỗi Chúa nhật vì luật buộc?
Đáp: Thái độ đó có thể đúng nếu như Thánh Lễ chỉ là một buổi cầu nguyện tùy ý. Tuy nhiên nó sẽ không có ý nghĩa gì nếu như người đó hiểu được vai trò trọng yếu của «Hiến Lễ Tạ ơn» và bí tích Thánh Thể trong đời sống của một người Kitô hữu.
Luật buộc tham dự Thánh lễ hàng tuần không phải là điều mới mẻ. Đọc lại lịch sử Giáo Hội thời sơ khai trước khi có «Luật Giáo Hội», chúng ta thấy người Kitô hữu thời đó mong mỏi tham dự «Hiến lễ tạ ơn» hàng tuần, một cách nào đó sự mong muốn của họ khẩn thiết hơn chúng ta ngày nay. Vào khoảng năm 150, ông Yustinô đã viết về việc cử hành «Hiến lễ tạ ơn» như sau:
«Ngày gọi là ngày Mặt Trời, tất cả người ở tỉnh cũng như thôn quê, tề tựu lại một nơi: thế rồi người ta đọc hồi ký các Tông đồ, cùng với những trước tác của các Ngôn sứ, dài bao lâu có thể. Khi độc viên đọc xong, vị chủ sự diễn giảng ít lời để khuyên cáo và nhủ dạy phải tuân hành những bài huấn dụ cao đẹp kia. Xong tất cả chúng tôi cùng đứng dậy và cùng nhau cầu kinh lớn tiếng.
Thế rồi... người ta đem bánh rượu và nước tới. Vị chủ tọa cất tiếng vọng lên trời những lời cầu, cùng với vô vàn kinh tạ ơn... Sau đó, đến việc phân phát và chia sẻ những bánh hiến. Sau cùng, người ta còn đem phần về cho cả những người vắng mặt...»
Trong trường hợp một thành viên cố ý vắng mặt trong buổi phụng vụ Tạ ơn hai ba lần liên tiếp, người đó kể như không còn là thành viên của Giáo Hội nữa. Nếu điều này có vẻ nghiêm khắc thì rõ là các tín hữu thời sơ khai đã tin điều gì đó ở Thánh lễ mà chúng ta đã đánh mất qua nhiều thế kỷ. Ầối với họ, không phải là vấn đề phạm tội trọng khi không tuân giữ luật buộc tham dự Thánh lễ, nhưng họ cho rằng người cố ý vắng mặt thực sự đã không hiểu và tin tưởng Thánh lễ là gì và do đó đã vắng mặt liên tục.
Ngày nay Giáo Hội giúp chúng ta tìm lại xác tín sau đây: Hy tế vào bàn tiệc Thánh Thể tức là tham dự vào hiến lễ của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha, và cùng nhau chúng ta lãnh nhận Mình Máu Thánh Ngài khi rước lễ. Đó là chìa khóa và là cách thức thiết yếu mà Ầức Giêsu có ý định dùng để liên kết mọi người vào với Ngài và thâu nhận họ vào gia đình của Ngài cho đến tận thế.
Nói cách khác, Thánh lễ trên hết là nơi chúng ta học tập tinh thần và sứ điệp của Chúa Kitô. Qua việc nghe Lời Chúa, qua ngôn ngữ và cử chỉ trong phụng vụ Thánh Thể, chúng ta tiếp tục tỏ ra như là chi thể của Ngài. Vì Ngài, chúng ta nhận ra ai là anh em và cam kết sống với nhau trong sự khích lệ và tương trợ. Hiểu theo nghĩa rộng này, thì ngay cả trong một nhà thờ đông 500 người, sự có mặt hay vắng mặt của một người ảnh hưởng thật sự đến mọi người kể cả của chính đương sự.
Nếu nói về Thánh Lễ như thế mà bị coi là xa lạ thì thật đáng tiếc; có lẽ đó là một trong những giá phải trả một khi chúng ta xem việc bỏ lễ Chúa nhật như một tội trọng. Sự thật là ngay khi cả không có một luật buộc nào thì chúng ta vẫn được kêu gọi phải có mặt trong phụng vụ tạ ơn «ngày Mặt Trời», chỉ vì ta là một thành viên của gia đình Chúa Kitô. Chúng ta là một Kitô hữu.
3. Ý NGHĨA VÀI CỬ CHỈ NGHI THỨC TRONG THÁNH LỄ
Hỏi: Cha có đề cập đến «cử chỉ trong phụng vụ»; con muốn biết rõ hơn. Ngay con là một người tạm gọi là «bổn đạo gốc», nhưng khi dự Thánh Lễ có nhiều cử chỉ con làm vì thói quen nhiều hơn!
Đáp: Thật vậy, trong Thánh lễ chúng ta có một số cử chỉ đi theo nghi thức phụng vụ. Mỗi cử chỉ đều có ý nghĩa sâu xa. Chúng ta cần hiểu rõ và làm với lòng sốt sắng chứ không phải như máy móc.
Làm dấu Thánh Giá
Khi làm dấu Thánh giá, chúng ta nên ý thức là mình ghi trọn dấu Thánh giá trên thân thể hơn là chỉ ghi nơi trán, nơi ngực và nơi hai vai. Cử chỉ này gợi lại dấu Thánh giá ngày chúng ta được nhận lãnh bí tích rửa tội. Vì vậy, khi ghi dấu Thánh giá, chúng ta cần làm chậm rãi và từ tốn đọc: «Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần» cho dấu chỉ mang trọn ý nghĩa mầu nhiệm Phục sinh. Dấu Thánh Giá nhìn nhận ta là Kitô hữu, nói lên mối gắn bó của ta vào Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Kitô đến biểu lộ: Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con và Chúa Thánh Thần tức là Thiên Chúa Ba Ngôi. dấu Thánh Giá còn nhắc nhở ơn cứu độ được thể hiện nơi cây thập giá tức là nơi mà tình yêu của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối.
Dấu Thánh giá mang ý nghĩa quan trọng, nên chúng ta bắt đầu và kết thúc Thánh lễ bằng một dấu ghi đó. Khi nhập lễ, dấu Thánh Giá như biểu hiệu chúng ta nhìn nhận nhau. Tất cả đều cùng gia đình và chúng ta đến đây đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Dấu Thánh Giá còn được làm ở cuối lễ như lời cầu chúc. Thiên Chúa tụ họp chúng ta lại thì giờ đây Người phái ta đi nhân Danh Người làm nhân chứng những gì chúng ta vừa sống qua. Người đồng hành cùng chúng ta trên mọi nẻo đường.
Đấm ngực
Thời xa xưa, người ta dùng tay và có khi dùng cả hòn đá đấm vào ngực nói lên lòng hối hận. Ngực là chỗ thiết yếu của tim và hơi thở. Tim lại là trung tâm của tình cảm, nên khi đấm vào lồng tim có nghĩa là ta đau buồn vì những việc đã làm. Từ ngữ «ăn năn» đến từ tiếng La tinh «contritus corde» có nghĩa là «dày nát con tim» hay làm «tan vỡ con tim». Vì vậy, đấm ngực là chúng ta thú nhận mình là người tội lỗi ao ước được Thiên Chúa tha thứ.
Làm ba dấu Thánh giá trước khi nghe Tin Mừng.
Cử chỉ này trở nên hời hợt nếu như chúng ta chỉ làm như máy móc. Hành vi ghi ba dấu Thánh giá là một lời cầu nguyện, xin cho Lời Tin Mừng chúng ta sắp nghe ở mãi trong trí, trên môi miệng và trong cõi lòng. Ý nghĩa lời nguyện như sau: «Xin cho Tin Mừng thấm tràn tri thức để con hiểu, vào miệng để con công bố và vào tim để con yêu mến».
Nhìn Bánh Thánh và Chén Thánh.
Khi cha chủ tế giơ bánh Thánh và Chén Thánh, rất nhiều người trong chúng ta kính cẩn cúi đầu. Cử chỉ này sai hẳn ý nghĩa ban đầu, vì thật ra cha chủ tế giơ lên là để chúng ta nhìn ngắm. Dấu chỉ này được khai sinh từ thế kỷ thứ XIII. Vì thế, khi cha chủ tế giơ cao thì chúng ta phải nhìn ngắm trước, rồi sau đó mới cúi mình kính cẩn thờ lạy cùng một lúc với cha chủ tế.
Kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha là Kinh Nguyện của Chúa vì đây là kinh duy nhất do chính Đức Giêsu đã truyền dạy cho các môn đệ. Trước đây, trong phụng vụ Thánh Lễ chỉ một mình cha chủ tế mới có quyền đọc mà thôi. Trong cấu trúc Thánh lễ ngày nay thì mọi người được kêu gọi cùng nhau cầu nguyện với chính lời do Đức Giêsu để lại. Nếu như cha chủ tế dang tay khi đọc Kinh Lạy Cha, thì người tham dự Thánh Lễ cũng có thể dang tay cầu nguyện.
Chúc Bình An
Chúng ta nên nhớ không phải mình chia sẻ bình an của mình đến người khác, nhưng chúng ta chia sẻ đến người anh em bình an của Chúa Kitô. Dấu bình an mà Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ ngày Phục Sinh (Gioan 20,19). Chúng ta phải ý thức chứ không nên gật đầu như máy, nhưng làm với cử chỉ thật lòng; còn nếu như bắt tay thì đừng bắt hững hờ xã giao nhưng nắm chặt tỏ cử chỉ thật tâm thân thiện.
«Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau» là lời cha chủ tế hay thầy phó tế mời gọi người tín hữu trao đổi một dấu chỉ bình an. Cử chỉ này được mời gọi chia sẻ khi cha chủ tế vừa van nài cùng Đức Kitô ban bình an cho Giáo hội, cho thế giới như khi xưa Người đã hứa cùng các thánh Tông đồ. Lời chúc bình an được chia sẻ giữa vị chủ tế và cộng đồng. Sau đó, mọi người hiện diện trao đổi với nhau và ta biết rằng nguồn bình an đó đến từ Thiên Chúa. Khi trao đổi bình an, người tín hữu diễn tả lòng ao ước làm lớn lên lòng hiệp nhất của họ mà chút nữa đây họ sẽ lên nhận lãnh mình Thánh Chúa. Vì vậy, lời chúc bình an diễn đạt rõ ràng tình yêu giữa những người tín hữu với nhau.
Cúi đầu
Cử điệu cúi đầu tỏ dấu đưa cả toàn thân tham dự vào việc cầu nguyện. Những lúc nào nên cúi đầu:
- Khi làm dấu Thánh giá bắt đầu Thánh Lễ, cũng như lúc nhận phép lành cuối lễ.
- Khi chúng ta đọc Kinh sám hối: «Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa..»
- Khi đọc Kinh Tinh Kính đến đoạn: «Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người», để diễn đạt lòng tôn kính sự nhập thể của Đức Chúa khai mào mầu nhiệm cứu chuộc.