Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Kính Thánh Matthêu TĐ và Thánh Sử.
Bài đọc: Eph 4:1-7, 11-13; Mt 9:9-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy sống và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa.
Nhiều người, tuy chẳng tốt lành gì, nhưng hay tìm cơ hội để phê bình và luận tội tha nhân. Họ muốn giam hãm tha nhân trong quá khứ tội lỗi, và không cho tha nhân một cơ hội để làm lại cuộc đời. Án tử hình là một ví dụ. Ngược lại, Thiên Chúa luôn tìm cách tha thứ, và cho con người nhiều cơ hội để làm lại cuộc đời như trường hợp của: Phaolô, Phêrô, Matthew, Mary Magdalene, Augustin, và hầu như tất cả mọi người. Lý do đơn giản, vì tất cả mọi người đều là con của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta niềm hy vọng làm lại cuộc đời. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephesô hãy biết sống cho đúng với ơn gọi mà họ đã được kêu mời và trang bị. Họ cần biết bảo vệ sự hiệp nhất và xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô, theo như quà tặng đã được Thánh Thần ban cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chẳng những không kết tội và giam hãm Matthew trong ngục tù tội lỗi; Ngài còn cho ông cơ hội để làm lại cuộc đời và để trở thành môn đệ của Ngài. Khi bị chất vấn bởi các biệt-phái tại sao ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, Chúa thẳng thắn tuyên bố mục đích khi xuống trần gian của Ngài: ''Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy sống cho xứng đáng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em.
1.1/ Ơn gọi là Kitô hữu: Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Ephesô từ nơi lao tù: "Hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm nhường, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau."
(1) Bốn đức tính cần thiết để sống ơn gọi Kitô hữu: Để có thể sống chung với nhau, một người cần tập luyện để có những đức tính như sau:
+ Khiêm nhường (tapeinofrosune): để biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người không có đức tính này sẽ dễ dàng kiêu ngạo, khinh thường, và dễ dàng kết án anh chị em của mình.
+ Hiền từ (prauthe): để dễ dàng kiểm soát tính nóng giận của mình. Người tín hữu không tranh đua để dành phần thắng lợi cho mình; nhưng tìm mọi cách thích hợp để đưa mọi người về cho Thiên Chúa.
+ Kiên nhẫn (makrothumia): để chịu đựng những điều xảy ra trái với ý định của mình. Người kiên nhẫn không dễ nản chí khi gặp thử thách hay đòi phải nhìn thấy kết quả ngay; nhưng kiên trì chịu đựng trong gian khổ và cầu nguyện cho đến khi nhìn thấy kết quả.
+ Bác ái (agape): Đây là nhân đức đặc biệt chỉ có trong đời sống Kitô hữu. Với nhân đức này, người tín hữu có thể làm được những điều mà người ngoài Kitô Giáo không làm được, như: yêu thương và làm ơn cho kẻ thù, cầu nguyện cho những người bách hại mình, tha thứ không có giới hạn là bao nhiêu lần.
(2) Bảo vệ sự hiệp nhất: Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau." Người Kitô hữu có rất nhiều lý do để bảo vệ sự hiệp nhất trong Giáo Hội: Họ chỉ có một thân thể là Giáo Hội, Nhiệm Thể của Đức Kitô, một Chúa Thánh Thần, một niềm hy vọng là được sống đời đời. Họ chỉ có một Chúa và một niềm tin vào Đức Kitô, một phép rửa. Họ chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.
1.2/ Mỗi người được Thánh Thần ban cho quà tặng khác nhau để xây dựng Nhiệm Thể: Mỗi người tín hữu là chi thể của một thân thể là Đức Kitô, và lãnh nhận ân sủng khác nhau từ cùng một Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng thân thể của Đức Kitô. Ơn gọi làm Kitô hữu là ơn gọi chung của tất cả các tín hữu; tuy nhiên, mỗi tín hữu còn có những ơn gọi riêng khác nhau như: kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ.
Nhờ những ơn gọi khác nhau này, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô.
2/ Phúc Âm: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.''
2.1/ Chúa Giêsu gọi Matthew: Bỏ nơi ấy, Đức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Matthew đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người.
(1) Lý do Chúa Giêsu gọi Matthew: Trước khi gọi, Chúa biết Matthew đang hành nghề thu thuế, một nghề mà người Do-thái xếp loại tội nhân công khai; vì làm tay sai cho ngoại bang để bóc lột dân chúng của mình bằng việc thu thuế. Chúa biết nguy hiểm của dư luận khi thu nhận ông vào hàng ngũ tông-đồ. Tuy nhiên, Chúa không giam ông trong ngục tù tội lỗi; nhưng muốn cho ông một cơ hội để mời gọi ông hướng tới tương lai. Hơn nữa, Chúa còn biết sẽ dùng ông vào việc gì trong việc rao giảng Tin Mừng: ghi nhận các sự kiện và viết Tin Mừng truyền lại cho mọi người.
(2) Phản ứng của Matthew: Lập tức, ông đứng dậy đi theo Ngài. Ông có lẽ rất ngạc nhiên vì không ngờ Chúa Giêsu không khinh thường ông như những người Do-thái khác, lại còn can đảm kêu gọi ông làm môn đệ. Phản ứng của Matthew cũng không kém can đảm: ông quyết định bỏ một nghề hái ra tiền để đi theo một người không có gì bảo đảm vật chất cho đời mình.
2.2/ Tranh luận giữa Chúa Giêsu với các người Pharisees: Đức Giêsu không chỉ gọi Matthew, Ngài còn chấp nhận dùng bữa công khai tại nhà ông ấy, cùng với nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ.
(1) Phản ứng của những người Pharisees: Thấy vậy, những người Pharisees nói với các môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?"
Họ có lý do để chất vấn, như cha mẹ Việt-nam vẫn đề phòng con cái: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Làm bạn với phường tội lỗi không sớm thì muộn cũng lây những tội lỗi của họ.
(2) Câu trả lời của Chúa Giêsu: Ngài nói với họ: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."'' Hai điều chính Chúa muốn nhấn mạnh:
+ Sứ vụ của Ngài là đến chữa lành những tội nhân: Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. Chúa có đủ bản lãnh để hoán cải những tâm hồn chai đá.
+ Tất cả mọi người đều có tội và đều cần đến Chúa, chứ không phải chỉ có Matthew và bạn bè của ông. Các biệt-phái không chịu cẩn thận xét mình, nên họ nghĩ họ không cần Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng sống đúng với ơn gọi là Kitô hữu và ơn gọi riêng của mỗi người. Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta có bổn phận bảo vệ sự hiệp nhất của mọi thành phần.
- Chúng ta phải có lòng thương xót mọi người. Đừng bao giờ giam hãm anh/chị/em trong ngục từ tội lỗi; nhưng luôn cho họ cơ hội và mời gọi họ hướng tới tương lai.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 25 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 2:12, 17-20; Jas 3:16-4:3; Mk 9:30-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Có nhiều người muốn biết nhưng không chịu học; muốn được khen ngợi nhưng chẳng có gì để được khen ngợi; muốn được người khác yêu thương, thông cảm; nhưng chẳng bao giờ chịu yêu thương và thông cảm người khác; muốn làm lớn nhưng chẳng muốn làm gì cả. Những người này khi không được những điều mình muốn, họ tìm cách phá đám cho bỏ ghét, cho đỡ tức. Lẽ ra họ phải dùng trí khôn để tìm hiểu, xây dựng; họ lại dùng vũ lực để phá hủy, để tiêu diệt.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết thay đổi lối sống theo khôn ngoan của thế gian để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thay vì phải thay đổi cho phù hợp với lối sống của Thiên Chúa, kẻ gian ác muốn thử thách Thiên Chúa bằng cách bách hại người công chính. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê dạy các tín hữu: nếu muốn có bình an đích thực, họ phải từ bỏ lối sống theo tham vọng trần tục, để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, trong khi Chúa Giêsu chuẩn bị hy sinh để chết cho nhân loại trong Cuộc Thương Khó, các môn đệ tranh giành và cãi cọ xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa Giêsu gọi một em nhỏ tới và bảo các ông: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thử thách Thiên Chúa bằng cách bách hại người công chính.
1.1/ Kẻ gian ác bách hại người công chính: Có những người mù quáng chỉ tin vào sự khôn ngoan và sức mạnh của mình; nên từ chối học hỏi sự khôn ngoan và tiếp nhận những lời phê bình xây dựng của người khác.
+ Để biết sự thật, thay vì phải bỏ thời gian và nỗ lực để học hỏi và suy xét, kẻ gian ác lại ngông cuồng dùng vũ lực để tiêu diệt sự thật, bằng cách bách hại người công chính. Họ nói: "Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm ta nhức nhối: nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo."
+ Thay vì tìm hiểu lý do tại sao người công chính có thể hiền hòa và kiên nhẫn, họ lại chọn dùng vũ lực uy hiếp: "để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào."
1.2/ Kẻ gian ác thử thách Thiên Chúa: Vì không tin có Thiên Chúa, nên kẻ gian ác muốn người công chính cũng phải tin như vậy.
(1) Để tìm ra ý nghĩa của cuộc đời: Thay vì phải học hỏi nơi những mặc khải của Thiên Chúa trong Kinh Thánh và biết suy xét trên kinh nghiệm cuộc đời, họ lại chọn cách tiêu diệt người công chính để chứng minh không có Thiên Chúa. Họ nói: "Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào." Đối với họ, chết là hết.
(2) Để tìm ra sự hiện hữu của Thiên Chúa: Họ nghĩ: "Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm." Nếu Thiên Chúa không ra tay cứu, họ kết luận: chẳng có Thiên Chúa.
Đứng trước Thập Giá của Chúa Giêsu, nhiều thầy thượng-tế, kinh-sư, và biệt-phái đã nhạo báng Ngài: ''Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: "Ta là Con Thiên Chúa!" (Mt 27:43).
2/ Bài đọc II: Hãy từ bỏ lối sống tham vọng trần tục để sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
2.1/ Khôn ngoan của Thiên Chúa và của thế gian: Từ ngữ "sophía" là một từ không rõ ràng trong tiếng Hy-lạp; nó có thể áp dụng cho mọi khôn ngoan: Thiên Chúa cũng như con người, tốt cũng như xấu.
(1) Khôn ngoan của Thiên Chúa: Thánh Giacôbê dùng cả một câu dài để định nghĩa: "Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, cầu tiến, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình."
Trước tiên, khôn ngoan theo Thiên Chúa đòi con người phải thanh khiết, không có chút tà ý nào để mưu hại tha nhân. Kế đến, người khôn ngoan phải chú trọng đến việc xây dựng hòa bình, chứ không dùng thủ đoạn để gây chia rẽ và tranh chấp. Người khôn ngoan không ngoan cố giữ ý riêng mình; nhưng sẵn lòng mở rộng tâm hồn để đón nhận những điều hay ý đẹp từ người khác. Người khôn ngoan không dễ kết án tha nhân; nhưng luôn thương xót và tìm dịp để xây dựng cho mọi người. Sau cùng, người khôn ngoan biết đối xử công bằng với mọi người, và luôn sống thật lòng với Thiên Chúa và với tha nhân. Nói tóm, khôn ngoan theo Thiên Chúa bao gồm tất cả niềm tin cũng như thực hành những gì Thiên Chúa dạy.
(2) Khôn ngoan của thế gian: Khôn ngoan của thế gian là tìm mọi cách để có uy quyền, địa vị, danh vọng, và các lợi nhuận vật chất. Vì người khôn ngoan theo tiêu chuẩn thế gian muốn trổi vượt mọi người, nên họ sẽ dùng mọi thủ đoạn để có thể đạt được những gì họ mong muốn. Thánh Phaolô tóm gọn hệ quả như sau: "Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa."
2.2/ Làm sao để biết đâu là khôn ngoan thật: Thánh Giacôbê dạy các tín hữu hãy nhìn vào hậu quả:
(1) Hậu quả của lối sống khôn ngoan theo Thiên Chúa là sự bình an: ''Người xây dựng bình an thu hoạch được hoa trái đã gieo trong bình an, là cuộc đời công chính.'' Người công chính là người biết sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân, nên họ sẽ có bình an trong tâm hồn và sống hòa bình với mọi người.
(2) Hậu quả của lối sống khôn ngoan theo con người là sự bất an và chiến tranh: Thánh Giacôbê chỉ rõ: ''Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau."
3/ Phúc Âm: Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.
3.1/ Chúa Giêsu báo trước Cuộc Thương Khó của Ngài: Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu báo về Cuộc Thương Khó sắp tới của Ngài: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại." Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. Một số những lý do đàng sau thái độ im lặng này:
+ Các ông không dám đương đầu với sự thật: Lần đầu, Phêrô đã kéo Ngài ra một nơi để khuyên: "Xin những sự đó đừng xảy ra cho Thầy!" Chấp nhận sự thật là phải chấp nhận thay đổi lối sống, các ông chưa sẵn sàng để chấp nhận con đường phải hy sinh đau khổ.
+ Các ông sợ phải đương đầu với đau khổ: Như bao người Do-thái, các ông đang mong đợi một Đấng Thiên Sai uy quyền. Ngài sẽ dùng quyền lực để tiêu diệt kẻ thù và khôi phục địa vị ưu việt cho dân Do-thái.
3.2/ Tranh giành chức vụ và quyền lợi: Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Capernaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?"
Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Lý do các ông làm thinh, vì:
- Các ông biết Chúa thấu hiểu tà ý của các ông: Cuộc Thương Khó của Chúa sắp tới, là người môn đệ mà các ông không quan tâm để an ủi Ngài; nhưng lại chỉ để ý đến việc được quyền cao chức trọng. Các ông không những mong chức vụ, mà còn là một chức vụ lớn nhất. Điều này các ông sẽ bày tỏ rõ ràng hơn khi Chúa Giêsu tiên đoán Cuộc Thương Khó lần thứ ba. Ngay sau đó, mẹ của hai tông-đồ Giacôbê và Gioan mang hai con đến xin Chúa cho hai con, một người ngồi bên phải và một người ngồi bên hữu trong vương quốc của Ngài. Mười môn đệ kia tỏ vẻ bất bình với hai anh em về lời xin này.
Nghịch lý của con người là ở chỗ muốn làm lớn nhưng lại không muốn làm gì cả! Muốn quyền cao chức trọng, nhưng không chịu chiến đấu! Nếu các ông muốn chung phần vinh quang với Ngài, các ông cũng phải chung phần đau khổ với Ngài. Đàng này, các ông chỉ mong muốn vinh quang, và bỏ chạy hết để Chúa chịu đau khổ một mình trên Thập Giá. Chúng ta không bơi móc để trách cứ các tông đồ; nhưng muốn nhận rõ sự nghịch lý này nơi mỗi người chúng ta, với hy vọng sẽ giúp mỗi người thay đổi não trạng đã quá ăn sâu nơi con người. Các tông-đồ sau khi đã nhận ra tội lỗi của mình và tình yêu vô biên của Chúa Giêsu, đã thay đổi cuộc đời và sẵng sàng chịu mọi gian khổ, ngay cả cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
3.3/ Phục vụ là cách thức để trở nên lớn nhất:
(1) Bổn phận phải phục vụ: Khuynh hướng của nhiều người là thích ăn trên ngồi chóp, và được người khác phục vụ; Chúa Giêsu đảo ngược khuynh hướng này khi Ngài dạy các môn đệ: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." Nếu một người chịu suy xét Lời Chúa và đối chiếu với kinh nghiệm của cuộc đời, họ sẽ thấy sự hợp lý của Lời Chúa: chẳng ai thích người có thói quen ăn trên ngồi chóp; nhưng yêu mến những người sẵn sàng hy sinh và phục vụ tha nhân. Hơn nữa, người tín hữu đã lãnh nhận bổn phận phải phục vụ tha nhân trong ngày lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội, cùng với bổn phận tiên tri và tư tế.
(2) Phục vụ người cô thân, cô thế: Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy." Chúa Giêsu biết rõ con người thường có thói quen săn đón những người cao sang, quyền quí, với hy vọng sẽ được nhận lại sự giúp đỡ khi cần tới. Vì thế, Chúa dạy các môn đệ phải làm ngược lại, bằng cách phục vụ những người chẳng có gì để cho lại như trẻ nhỏ. Các em chẳng có gì để cho lại người lớn, nhưng cần người lớn cho mọi sự. Người lớn có lý do phải giúp đỡ trẻ nhỏ vì họ đã nhận được mọi giúp đỡ từ Thiên Chúa, cha mẹ, và thế hệ đi trước. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy: khi người môn đệ đón tiếp trẻ nhỏ là họ đón nhận Thiên Chúa, và chính Ngài sẽ trả công cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng học hỏi và thay đổi nếp sống của chúng ta cho phù hợp với đường lối của Thiên Chúa; chứ đừng ngông cuồng tìm dịp thử thách Ngài bằng cách thử thách và tiêu diệt những người đang sống theo đường lối của Thiên Chúa.
- Chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận lối sống theo sự khôn lanh của con người chỉ đưa đến ghen tị, tranh chấp, và bất an. Chỉ có lối sống theo sự khôn ngaon của Thiên Chúa mới đem lại bình an, trật tự, và xây dựng cho con người.
- Chúng ta có bổn phận, không chỉ phục vụ mọi người, mà nhất là những người cô thân, cô thế, không có gì để trả ơn lại. Đây là những con người cần được giúp đỡ hơn ai hết.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 24 TN1
Bài đọc: I Tim 6:13-16; Lk 8:4-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Thiên Chúa phải thực hành những gì Ngài dạy.
Tin một đàng làm một nẻo cũng như học mà không hành. Một đức tin như thế sẽ chẳng giúp gì cho con người tin cả đời này và đời sau. Ở đời này, sẽ không sinh hoa kết quả của niềm tin; ở đời sau, sẽ không được hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Nhưng nếu một người tin và thực hành Lời Chúa, người đó sẽ thu nhận được kết quả ngay từ đời này như: niềm tin tưởng vững mạnh nơi Thiên Chúa, cuộc sống hòa thuận vui vẻ, tâm hồn bình an, yêu thương mọi người; và đời sau sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay khuyên các tín hữu phải thực hành những gì mình tin tưởng và tuyên xưng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nhắc nhở cho Timothy biết những gì ông đã tuyên xưng vào Thiên Chúa. Mục đích là để Timothy biết giữ cẩn thận những gì Chúa đã truyền và để đạt được những gì Thiên Chúa đã hứa ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn "Người Gieo Giống" để nhắc nhở cho các môn đệ biết quí trọng và thực hành Lời Chúa trong cuộc đời; để họ có thể sinh hoa kết trái.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là vua và là Chúa.
1.1/ Nhìn lại những gì xảy ra trong quá khứ: Thánh Phaolô muốn Timothy nhìn lại hai điều xảy ra trong quá khứ:
(1) Lời tuyên xưng của Đức Kitô trước toà tổng trấn của Phongxiô Philatô: Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô bị mang ra trước tòa tổng trấn để xét xử. Người Do-thái phải tìm một lý do chính trị để bắt Philatô phải buộc tội Chúa Giêsu; chứ lý do tôn giáo sẽ không đủ để buộc tội. Họ bàn với nhau rồi tố cáo Chúa Giêsu với Philatô: "Người này đã xưng mình là vua; bất cứ ai xưng mình là vua, là chống lại Caesar."
Vì thế, quan Philatô hỏi Chúa Giêsu: "Ông là Vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó." (Lk 24:3). Người Do-thái không muốn nhận Đức Kitô là vua và là Chúa của họ; nhưng đó lại là kế-hoạch của Thiên Chúa: Đức Kitô sẽ là vua cai trị tất cả mọi người, Do-thái cũng như Dân Ngoại. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cắt nghĩa rõ ràng chức vụ vua của Ngài trong trình thuật Gioan: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Jn 18:37). Chức vụ vua người Do-thái của Chúa Giêsu được Philatô cho đóng trên Thập Giá bằng ba thứ tiếng Latin, Do-thái, và Hy-lạp, cho dù họ đã phản đối cách viết như thế.
(2) Lời tuyên xưng của Timothy khi lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội và khi lãnh nhận chức vụ Giám-quản: Timothy đã tuyên nhận Đức Kitô là vua, và là Chúa của lòng mình; như Đức Kitô đã tuyên xưng trước Phongxiô Philatô. Người tín hữu phải tin và tuyên xưng như thế mới được cứu rỗi (Rom 10:9, Phi 2:11).
1.2/ Những gì cần phải làm ở hiện tại: Tuyên xưng thế nào, phải sống như thế ấy. Thánh Phaolô truyền cho Timothy: "Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện." Cũng thế, khi người tín hữu tuyên nhận Đức Kitô là vua của lòng mình, họ phải giữ cẩn thận những gì Ngài dạy dỗ.
1.3/ Những gì sẽ xảy đến trong tương lai: Đàng sau lời tuyên xưng của Đức Kitô trước tòa Tổng Trấn và niềm xác tín của các tín hữu vào lời tuyên xưng này, là Thiên Chúa, Đấng sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy địa vị độc tôn của Đức Kitô vào đúng thời đúng buổi. "Ngài là Chúa Tể duy nhất, Đấng đáng chúc tụng, là Vua các vua, Chúa các chúa. Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn đời. Amen."
2/ Phúc Âm: Phải biết quí trọng và thực hành Lời Chúa.
2.1/ Chúa Giêsu thuật cho dân chúng nghe dụ ngôn "Người Gieo Giống:" Có người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, bốn trường hợp có thể xảy ra:
(1) Có hạt rơi xuống vệ đường: Những hạt này sẽ bị người ta giẫm lên và chim trời ăn mất.
(2) Hạt khác rơi trên đá: Những hạt này có thể mọc lên, nhưng bị héo đi vì thiếu ẩm ướt.
(3) Có hạt rơi vào giữa bụi gai: Những hạt này mọc lên, nhưng gai làm nó chết nghẹt.
(4) Có hạt lại rơi nhằm đất tốt: Khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm.
Nói xong, Người hô lên rằng: "Ai có tai nghe thì nghe."
2.2/ Chúa Giêsu cắt nghĩa dụ ngôn "Người Gieo Giống:" Các môn đệ không hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì, nên họ yêu cầu Ngài cắt nghĩa thêm về dụ ngôn. Chúa Giêsu cắt nghĩa: Đây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là Lời Thiên Chúa, chỗ hạt giống được gieo vào là tâm hồn mỗi người.
(1) Hạt rơi xuống vệ đường: Những kẻ bên vệ đường là những kẻ đã nghe, nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Họ nghe, nhưng không hiểu, vì không chú ý hay cho Lời Chúa là không quan trọng.
(2) Hạt khác rơi trên đá: Những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không đâm rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. Đây là những kẻ không chịu thực hành Lời Chúa, để làm cho đức tin nên vững mạnh.
(3) Có hạt rơi vào giữa bụi gai: Hạt rơi vào bụi gai là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Đây là trường hợp của những người không dành cho Lời Chúa địa vị ưu việt trong cuộc đời và cũng không tìm dịp để thi hành Lời Chúa.
(4) Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ khán giả cách thức để Lời Chúa có hiệu quả trong cuộc đời: Trước tiên, họ phải chuẩn bị tâm hồn trước khi lắng nghe và học hỏi Lời Chúa; khi tâm hồn chưa sẵn sàng, có nghe cũng chẳng hiểu. Kế đến, họ phải dành thời giờ để suy niệm và tìm cách cụ thể để áp dụng Lời Chúa trong cuộc đời. Sau cùng, Lời Chúa sẽ đòi họ phải hy sinh từ bỏ nếp sống hưởng thụ và theo tiêu chuẩn của thế gian; họ phải can đảm để sống theo đường lối của Thiên Chúa. Nếu họ chịu theo cách thức này, họ sẽ sinh hoa quả gấp bội cả đời này và đời sau.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải sống những gì chúng ta đã tuyên xưng vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô. Đừng tuyên xưng một đàng rồi làm một nẻo. Nếu đã tuyên nhận Ngài là vua và là Chúa, thì đừng để bất cứ ai hay bất cứ sự gì thay thế địa vị của Ngài trong tâm hồn.
- Là người tín hữu, phải biết quí trọng Lời Chúa trên hết mọi sự và luôn tìm dịp áp dụng trong cuộc sống. Khinh thường Lời Chúa sẽ không biết cách sống. Biết mà không thực hành Lời Chúa sẽ chẳng sinh ích lợi gì cho cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 24 TN1
Bài đọc: I Tim 6:2c-12; Lk 8:1-3.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Góp phần trong việc rao giảng Lời Chúa và loan truyền Tin Mừng.
Nhìn lại lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thấy sự cộng tác giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, trong việc đem Tin Mừng đến cho muôn người. Trước hết, Thiên Chúa bắt đầu mọi sự: Ngài sai các thiên sứ, các ngôn sứ, và chính Con của Ngài đến để mang Tin Mừng cho con người. Khi các thiên sứ, các ngôn sứ, và Chúa Giêsu, Ngôn Sứ Tối Cao đến, các ngài ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn lựa chọn và huấn luyện môn đệ để tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho con người. Mọi sự cứ tiếp tục như vậy, hết thời đại này đến thời đại kia, cho đến khi Tin Mừng được lan rộng đến mọi người trên toàn cõi đất.
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đến bổn phận phải góp phần vào việc loan truyền Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên môn đệ là Timothy phải chú trọng đặc biệt đến 3 điều quan trọng: (1) rao giảng giáo lý chân thật của Chúa thay vì chạy theo sự phù phiếm của nghệ thuật hùng biện; (2) sống đơn giản để có thời gian rao giảng Tin Mừng thay vì dành thời gian để tích trữ của cải thế gian; và (3) tập luyện để sống đời nhân đức thì mới có thể thắng vượt được mọi cạm bẫy nguy hiểm của ba thù. Trong Phúc Âm, sau khi đã được Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh tật xác hồn, Nhóm Mười Hai và nhóm phụ nữ đã đi theo Chúa. Họ hy sinh nghề nghiệp, gia đình, và của cải để góp phần vào việc rao giảng và loan truyền Tin Mừng cho mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời.
1.1/ Hãy giảng dạy Lời Chúa thay vì chạy theo những xảo thuật của ngành hùng biện: Khi đạo Công Giáo được loan truyền vào thế giới văn hóa của Hy-lạp và Rô-ma, các tín hữu thường xuyên bị đe dọa bởi các triết thuyết của Hy-lạp và nghệ thuật hùng biện của Rô-ma. Thánh Phaolô có kinh nghiệm cá nhân về điều này; nên Ngài khuyên môn đệ Timothy: "Nếu có ai dạy một giáo lý khác, không theo sát các lời lành mạnh, tức là các lời của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và không theo sát giáo lý phù hợp với đạo thánh, thì người ấy lên mặt kiêu căng, không biết gì cả, nhưng mắc bệnh ham tranh luận và thích cãi chữ." Phaolô biết rõ khôn ngoan của con người chỉ là tro bụi khi so với khôn ngoan của Thiên Chúa; nhưng rất nhiều con người, vì kiêu căng hay không biết, đã đặt những triết thuyết nhân loại lên trên giáo lý chân thật của Thiên Chúa.
Hậu quả là họ đi trật đường và phải lãnh bao hậu quả như: "ganh tị, tranh chấp, lộng ngôn, nghĩ xấu, đấu khẩu liên miên giữa những người đầu óc lệch lạc, mất cả chân lý và coi việc giữ đạo là một nguồn lợi."
1.2/ Hãy bằng lòng với việc có đủ cơm ăn áo mặc thay vì ham muốn giầu có.
(1) Sống ở đời này là để giữ đạo: cố gắng làm sao cho mình được cuộc sống đời đời: Khi nguyện kinh Lạy Cha, người tín hữu cầu xin cho được hằng ngày dùng đủ, để còn thời gian và có sức lực lo cho Nước Chúa trị đến, và ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Thánh Phaolô cũng dạy Timothy: "Đã hẳn, việc giữ đạo là nguồn lợi lớn đối với ai lấy cái mình có làm đủ. Quả vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ."
(2) Sống ở đời này không phải để làm giàu: Nhưng biết bao tín hữu cầu nguyện một đàng, nhưng thực hiện một nẻo trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã từng cảnh cáo: "Người giàu có, rất khó vào Thiên Đàng." Thánh Phaolô cũng đề phòng cho môn đệ Timothy: "Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh huỷ diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé." Lòng ham muốn tiền bạc không chỉ ảnh hưởng sâu rộng đến các tín hữu; nhưng còn len lỏi vào hàng ngũ tu sĩ, linh mục, và Giáo Hội.
1.3/ Hãy cố gắng sống cuộc đời nhân đức: Để diệt trừ những thói quen xấu ngăn cản con người trên bước đường đạt tới sự sống vĩnh cửu, Phaolô khuyên người môn đệ phải chú trọng đến việc tập luyện các nhân đức: "Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng."
2/ Phúc Âm: Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giêsu.
2.1/ Những người đi theo Chúa Giêsu: Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Trình thuật hôm nay liệt kê hai nhóm người chính mà Chúa Giêsu đã thu phục được.
(1) Nhóm Mười Hai: Tên dành đặc biệt để chỉ 12 Tông-đồ. Các ông được Chúa huấn luyện đặc biệt, để thay thế Ngài trong vai trò điều khiển Giáo Hội và làm cho Tin Mừng được lan rộng đến mọi nơi.
(2) Nhóm phụ nữ đã được Ngài trừ quỷ và chữa bệnh: Sống trong xã hội ở một thời mà vai trò của người đàn bà chưa được đề cao, Chúa Giêsu đánh đổ sự phân chia giai cấp và dành cho các phụ nữ một vai trò quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng. Trình thuật hôm nay tường thuật nhóm phụ nữ đi theo Chúa; các bà đi theo vì đã được chữa lành phần hồn hay phần xác.
+ Bà Maria: gọi là Maria Magdalene, người đã được Chúa giải thoát khỏi bảy quỷ. Cả 4 Tin Mừng đều đề cập đến Bà: là người đã đứng dưới chân Thập Giá, và được Chúa hiện ra đầu tiên khi Ngài sống lại từ cõi chết.
+ Bà Joanna: vợ ông Chuda quản lý của vua Herode. Chỉ có Luca đề cập đến Bà ở đây và trong trình thuật sống lại (Lk 24:10). Bà là người khá giả, nhưng biết dùng tiền của dư thừa để góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng.
+ Bà Susanna và nhiều bà khác nữa: Bà Susanna cũng chỉ được đề cập tới trong Tin Mừng Luca. Ngòai ra, Luca cũng đề cập đến một số bà khác nữa.
2.2/ Hy sinh và đóng góp cho việc rao giảng Tin Mừng: Không chỉ bằng lòng với việc đi theo Chúa, "các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ."
+ Khi đã được hưởng lợi ích do Chúa Giêsu và Tin Mừng mang tới, mọi người đều có bổn phận góp phần vào việc loan truyền Tin Mừng cách khác nhau tùy quà tặng Thiên Chúa ban cho họ, chứ không nhất thiết là tất cả phải rao giảng. Các Tông-đồ được Chúa Giêsu huấn luyện để rao giảng Tin Mừng; các phụ nữ góp phần vào việc lo lắng cho Chúa Giêsu và các Tông-đồ ăn uống để có sức khỏe để rao giảng Tin Mừng. Cả hai đều được phần thưởng của người rao giảng.
+ Một cánh én không làm nên một mùa xuân; khi mỗi người đều góp phần theo khả năng và quà tặng mình nhận được, Tin Mừng được lan rộng ra khắp nơi: "Người ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giêsu."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải lấy đức tin để đáp trả đức tin, và lấy tình yêu để đáp trả tình yêu, mà Thiên Chúa, Đức Kitô, và những người đi trước đã gieo vào tâm hồn chúng ta.
- Chúng ta phải luôn nhớ: mục đích của chúng ta sống ở đời này, không phải thu tích của cải để làm giàu; nhưng là lo sao cho mọi người được hưởng ơn cứu độ.
- Đã nhận ơn là phải đền trả. Nếu chúng ta đã đón nhận mà không chịu góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng, chúng ta phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa và với tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 24 TN1
Bài đọc: I Tim 4:12-16; Lk 7:36-50
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy biết sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên Timothy hãy sống xứng đáng với ơn gọi làm Giám-quản mà Thiên Chúa và Hội-thánh đã trao phó: phải làm cho mọi người tin cậy mình trong lời nói cũng như trong hành động; xây dựng mọi sự trên nền tảng Lời Chúa; và luôn ý thức về sứ vụ mình phải chu toàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cư xử như một người Mục Tử Nhân Lành: Ngài tha thứ và ban bình an cho chị phụ nữ nổi tiếng tội lỗi, và kiên nhẫn sửa sai người Biệt-phái chỉ biết xét đoán cách hời hợt bên ngoài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các đức tính quan trọng của nhà lãnh đạo Công Giáo
1.1/ Nhà lãnh đạo là người chín chắn: Khi chọn nhà lãnh đạo, con người có khuynh hướng chọn những người lớn tuổi, đã chín chắn, và có nhiều kinh nghiệm. Trường hợp của Timothy là trường hợp ngoại lệ: làm Giám-quản khi tuổi vẫn còn trẻ. Vì thế, Phaolô khuyên: "Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ." Để tránh bị khinh thường, Timothy cần tập luyện để trở thành người đáng tin cậy trong:
(1) Lời nói: Phải biết cẩn thận trong lời nói và làm sao để các tín hữu tin những gì mình nói. Cần tránh nói một đàng làm một nẻo; đừng vội hứa, khi đã hứa phải giữ lời; đừng nói những chuyện nhảm nhí, tục tĩu, vô bổ. Nói có sách, mách có chứng; đừng nói mà không có bằng chứng kèm theo. Nói tóm, phải nói sự thật.
(2) Cách cư xử: Phải biết cách cư xử đúng với mọi người: kính trên, nhường dưới; cẩn thận trong việc tiếp xúc với phụ nữ.
(3) Đức ái, đức tin và lòng trong sạch: Yêu thương mọi người; trung thành trong ơn gọi và các mối liên hệ; và có tâm hồn trong sạch.
1.2/ Xây dựng cá nhân và cộng đoàn trên Lời Chúa: Mỗi khoa học hay nghề nghiệp đều có một lãnh vực để chuyên chăm và đào sâu, lãnh vực của nhà lãnh đạo Công Giáo là Kinh Thánh.
(1) Phải chú trọng đến việc học hỏi Kinh Thánh: Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa (St. Jerome). Nếu không biết Thiên Chúa, làm sao nói về Thiên Chúa cho các tín hữu của mình? Khi không am tường Kinh Thánh, nhà rao giảng có khuynh hướng rao giảng những gì mình biết mà chẳng có liên hệ gì đến Lời Chúa.
(2) Hiểu biết Kinh Thánh để dạy dỗ: Khi rao giảng, nhà lãnh đạo phải rao giảng Lời Chúa, chứ không rao giảng lời của mình hay của người nào khác. Phải dành địa vị ưu việt cho Lời Chúa, vì chỉ có Lời Chúa có uy quyền để giải thoát con người.
(3) Dùng Kinh Thánh để khuyên nhủ: Nhà lãnh đạo Công Giáo không phải là nhà tâm lý hay nhà xã hội, mặc dù những lãnh vực này giúp trong việc khuyên nhủ; nhưng trước tiên nhà lãnh đạo phải dùng lời khôn ngoan của Thiên Chúa qua Kinh Thánh để giúp giải quyết vấn đề.
1.3/ Ý thức ơn gọi của mình: Một sự xét mình thường xuyên sẽ giúp nhà lãnh đạo biết:
(1) Mình đã được thánh hiến: "Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh." Phải chú trọng đến việc thánh hiến mình trước khi có thể thánh hiến người khác.
(2) Phải nhiệt thành với ơn gọi của mình: "Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh.'' Cần phải thường xuyên xét mình để xem mình có còn sự nhiệt thành thuở ban đầu không, vì thời gian và nhiều va chạm dễ làm phai lạt sự nhiệt thành của nhà lãnh đạo.
(3) Phải làm gương sáng và chu toàn nhiệm vụ: "Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy." Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn. Cuộc sống chứng nhân là dấu chỉ hùng hồn để nhà lãnh đạo làm chứng cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
2.1/ Hai phản ứng khác nhau: Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ trong mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và những người Biệt-phái. Thường thường, chúng ta thấy luôn có sự đụng độ giữa Chúa Giêsu và họ; nhưng hôm nay, có người thuộc nhóm Biệt-phái mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Tuy nhiên, chân tướng họ dần dần lộ ra, và kết quả cũng chẳng khác gì những lần khác.
(1) Phản ứng chân thành của người phụ nữ tội lỗi: Trình thuật kể: "Có một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Biệt-phái, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên." Có nhiều điều khác thường trong cách cư xử của người phụ nữ: Thông thường, người ta chỉ rửa chân bằng nước và lau bằng khăn, chị rửa chân Chúa bằng nước mắt và lau bằng tóc; người ta tỏ dấu tình yêu bằng hôn má, chị tỏ bằng hôn chân như Chúa Giêsu hôn chân các môn đệ; người ta chỉ nhỏ vài giọt dầu thơm, chị dùng cả một bình bạch ngọc. Tất cả những điều này có ý muốn nói lên lòng ăn năn chân thành, sự can đảm, và tình yêu thâm sâu của chị dành cho Chúa Giêsu.
(2) Phản ứng của người Biệt-phái: Thấy vậy, ông Biệt-phái đã mời Chúa Giêsu liền nghĩ: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!" Ông không nhìn thấy tình yêu và lòng ăn năn thống hối trong tâm hồn người phụ nữ; nhưng chỉ nhìn thấy quá khứ tội lỗi và thái độ bất cẩn của Chúa Giêsu, để sẵn sàng kết án.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu: Biết những gì ông đang nghĩ, Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn tìm cách thuyết phục ông, bằng cách trước tiên đưa ra nguyên tắc ông phải chấp nhận, sau đó chỉ cho ông thấy sự kết án sai trái của mình.
(1) Đưa ra nguyên tắc: Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ về hai con nợ: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?" Ông Simon đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét đúng lắm."
(2) Áp dụng vào thực tế: Người nói với ông Simon: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
(3) Chúa tha tội cho người phụ nữ: Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Là những nhà lãnh đạo tinh thần, chúng ta hãy chứng tỏ cho mọi người thấy mình biết sống khôn ngoan, nhân đức, và trung thành hoàn tất sứ vụ được trao phó bởi Thiên Chúa.
- Đừng giam tha nhân trong quá khứ tội lỗi để kết án họ; nhưng hãy cho tha nhân một cơ hội để ăn năn trở về, như Thiên Chúa đã cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư, Tuần 24 TN1, Năm B
Bài đọc: I Tim 3:14-16; Lk 7:31-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải lấy sự thật để xét mình; chứ không lấy mình để xét sự thật.
Nhiều người cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ mà mọi sự phải quy về; vì thế, họ lấy tiêu chuẩn và cách thức suy nghĩ của họ để xét đoán Thiên Chúa và tha nhân. Hậu quả là họ không có bình an, vì họ sẽ chẳng bao giờ đạt được điều họ mong muốn. Để có bình an, con người cần học hỏi để tìm ra sự thật; rồi lấy sự thật mà xét mình, và nhất là, phải sống theo sự thật. Hậu quả của việc sống theo sự thật sẽ giải thoát con người khỏi sai lầm, và đạt được kết quả như lòng mong ước.
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở con người phải biết sống và hành động theo sự thật, chứ không lấy mình để xét đoán sự thật. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên môn đệ của Ngài là Timothy phải sống theo sự chỉ dẫn của Đức Kitô và Hội Thánh. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách mắng thế hệ của các kinh-sư và biệt-phái, vì họ lấy mình làm tiêu chuẩn để xét đoán và bắt người khác phải noi theo: Ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì họ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Chúa Giêsu đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì họ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải xoay cuộc đời mình chung quanh trọng tâm là Đức Kitô.
1.1/ Sống theo sự chỉ dẫn của Hội Thánh: Thánh Phaolô nhắn nhủ Timothy: "Tôi viết cho anh thư này, dù vẫn hy vọng sớm đến với anh. Nhưng nếu tôi chậm trễ, thì thư này sẽ cho anh biết phải ăn ở thế nào trong nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa hằng sống, cột trụ và điểm tựa của chân lý."
Phaolô nhiều lần dùng hình ảnh Đền Thờ của Thiên Chúa, và các tín hữu như một phần của Đền Thờ (I Cor 3:16-17; 6:19; 8:10; 9:13; II Cor 6:16; Eph 2:21; II Thess 2:4). Trong trình thuật hôm nay, Phaolô dùng 4 hình ảnh để khuyên các tín hữu phải cư xử thế nào trong Đền Thờ.
(1) Nhà của Thiên Chúa (oikos): nơi mà mọi người sống chung, đoàn kết và yêu thương nhau; vì tất cả đều cùng có chung một chủ nhà là Thiên Chúa.
(2) Cộng đoàn của Thiên Chúa hằng sống (ekklesia): Cộng đoàn là tập hợp những người đáp trả tiếng mời gọi của Thiên Chúa, để cùng chung sức lo cho một sứ vụ là rao truyền Tin Mừng.
(3) Cột trụ của sự thật (stulos): Trong Đền Thờ, cột trụ là những gì nâng đỡ Đền Thờ. Trong Hội Thánh, sự thật nâng đỡ mọi hoạt động của Hội Thánh.
(4) Nền tảng của chân lý (edaioma): Nhà có vững chắc phải được xây trên một nền tảng vững chắc. Thánh Phaolô gọi nền tảng của Đền Thờ là các tông-đồ và các tiên tri, với Đức Kitô là Tảng Đá Góc (Eph 2:20). Trong trình thuật hôm nay, nền tảng của Đền Thờ là sự thật.
Nói cách khác, Phaolô khuyên các tín hữu phải xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng và cột trụ của sự thật, phải yêu thương mọi người, và phải góp phần vào công cuộc rao giảng Tin Mừng.
1.2/ Đức Kitô là trọng tâm: Thánh Phaolô xác tín: "Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm." Phaolô đồng nhất sự thật và mầu nhiệm của Hội Thánh với Đức Kitô trong thân xác con người; qua mầu nhiệm này, Ngài đã mang lại ơn cứu độ cho con người.
(1) Người được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính: Thánh Phaolô quả quyết không ai có thể tin vào Đức Kitô nếu không được Thánh Thần tác động (I Cor 12:3). Các tín hữu được thanh tẩy, thánh hóa, và công chính hóa là do bởi Đức Kitô và quyền năng của Thánh Thần (I Cor 6:11). Quan niệm này được diễn tả rõ ràng hơn trong Tin Mừng Gioan: Thánh Thần là Thần Sự Thật sẽ làm chứng những gì Đức Kitô nói là sự thật (Jn 15:26).
(2) Người được các thiên thần chiêm ngưỡng: Các thiên thần là loài thiêng liêng nên chắc chắn hiểu Kế Hoạch Cứu Độ được thực hiện qua Đức Kitô. Chúa Giêsu hứa với Nathanael, ông sẽ được nhìn thấy thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người (Jn 1:51).
(3) Người và được loan truyền giữa muôn dân, được thế giới tin kính, và được siêu thăng cõi trời vinh hiển: Phaolô có nhiều kinh nghiệm rao truyền Tin Mừng và làm cho muôn dân nhận biết và tin vào Đức Kitô.
2/ Phúc Âm: Không gì có thể làm hài lòng con người.
2.1/ Người ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình: Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu nhiều lần phải đương đầu với tính ích kỷ của các kinh-sư và biệt-phái; vì họ chỉ biết nghĩ đến mình, và từ chối đón nhận những mặc khải, cũng như những dạy dỗ của Chúa. Trong trình thuật hôm nay, Ngài trách mắng họ: Tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: "Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than."
Thay vì phải chung vui với cái vui của người khác; người ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình, và từ chối phải chung vui khi họ chẳng có gì để vui. Hay khi tham dự đám táng, họ từ chối chia sẻ nỗi buồn với người khác, vịn lý ho là họ không có gì để buồn. Chúng ta thử tưởng tượng cuộc sống con người sẽ thế nào khi chung quanh toàn những người vô cảm như thế! Người môn đệ Đức Kitô không được có thái độ vô cảm này, họ phải chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn với tha nhân trong cuộc sống.
2.2/ Lấy mình làm tiêu chuẩn để đoán xét người khác: Chúa Giêsu tiếp tục chỉ cho các môn đệ thấy tính ích kỷ của họ bằng một ví dụ cụ thể hơn:
(1) Họ không hài lòng với Gioan Tẩy Giả: Trong khi biết bao người chạy đến với Gioan Tẩy Giả để được nghe giảng và được làm phép rửa bởi ông, thì họ kiếm lý do từ chối và nói: "Ông ta bị quỷ ám!" vì không ăn bánh và không uống rượu như họ.
(2) Họ cũng chẳng hài lòng với Chúa Giêsu: Khi Chúa Giêsu đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì họ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi."
Nếu một người thắc mắc với họ: "Thế nào mới gọi là hoàn toàn?" Họ có lẽ cũng chẳng biết thế nào mới gọi là hoàn toàn, nhưng luôn muốn vạch lá tìm sâu để chê trách vì không muốn phục tùng ai cả. Chúa Giêsu cung cấp cho các môn đệ chìa khóa để biết cách nào nên theo: "Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho." Hậu quả sẽ chứng minh đâu là cách tốt nhất một người phải theo.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học hỏi và lấy sự thật từ nơi Thiên Chúa để xét mình, chứ không lấy suy nghĩ của chúng ta để xét sự thật.
- Sự thật phải theo là những lời chỉ dẫn của Đức Kitô và của Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Chúng ta đừng bao giờ tin vào sự khôn ngoan của xác thịt con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 24 TN1, Năm B
Bài đọc: I Tim 3:1-13; Lk 7:11-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành trong ơn gọi và bổn phận của mình.
Cả Thiên Chúa lẫn con người đều đề cao sự trung thành: Thiên Chúa đòi con người phải trung thành với nhau trong đời sống hôn nhân, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để tôn trọng và yêu thương nhau suốt đời. Chúa Giêsu cũng hứa với các môn đệ: "Ai trung thành đến cùng sẽ được cứu rỗi." Khi chọn người lãnh đạo, con người cũng muốn chọn những người khả dĩ có thể tin cậy được, như trung thành với quốc gia và những gì họ đã hứa khi tranh cử.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những trường hợp khác nhau của những người trung thành. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô liệt kê những điều kiện cần thiết để chọn Giám-quản và Trợ-tá để điều khiển các giáo-đoàn. Điều kiện quan trọng nhất là phải trung thành với Thiên Chúa, với những người trong gia đình, và với những người mà Thiên Chúa đã trao phó cho họ. Trong Phúc Âm, bà góa phụ thành Nain đã làm Chúa Giêsu thổn thức vì những tiếng khóc ai oán của Bà cho người con trai độc nhất. Bà nghĩ anh sẽ là người săn sóc và chôn cất Bà trong lúc tuổi già xế bóng; nhưng nay Bà phải chôn cất con, một điều Bà không ngờ có thể xảy ra. Chúa Giêsu đã an ủi Bà, và Ngài làm cho cậu con trai của Bà sống lại và trao lại cho Bà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giám quản phải là người không ai chê trách được.
1.1/ Điều kiện để trở thành Giám-quản (episcopoi): Thánh Phaolô liệt kê nhiều đức tính cần thiết phải có để trở thành Giám-quản, chúng ta có thể sắp xếp theo ba phạm trù sau:
(1) Trung thành với Thiên Chúa: Người Giám-quản không được là tân tòng, kẻo lên mặt kiêu căng mà bị kết án như ma quỷ. Đây là lời khuyên rất khôn ngoan, vì đức tin cần phải được thử thách bằng đau khổ và thời gian. Điều thánh Phaolô lo sợ nhất là sự kiêu căng, tự mãn, vì ma quỉ có thể dùng tính kiêu căng để phá hủy không chỉ cá nhân Giám quản, mà còn cả gia đình và cộng đoàn.
(2) Trung thành với gia đình: chỉ có một đời vợ, biết điều khiển tốt gia đình mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh; vì ai không biết điều khiển gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của Thiên Chúa được?
(3) Trung thành với tha nhân: không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, không hay gây sự, không ham tiền, phải nhã nhặn, hiếu khách, và có khả năng giảng dạy.
1.2/ Điều kiện để trở thành Trợ-tá (deacon): Vẫn theo 3 phạm trù trên, người Trợ-tá phải:
(1) Trung thành với Thiên Chúa: họ phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch và được mạnh dạn nhiều nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô.
(2) Trung thành với gia đình: phải là người chỉ có một đời vợ, biết điều khiển con cái và gia đình cho tốt.
(3) Trung thành với tha nhân: không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn, không bị ai khiếu nại, không nói xấu, và đáng tin cậy mọi bề.
2/ Phúc Âm: Chúa động lòng thương và cho con trai duy nhất của Bà mẹ Nain sống lại.
Đứng trước cái chết con người hòan tòan bất lực và hỏang sợ khi phải đương đầu với cái chết, nhất là những cái chết trẻ, nhiều người, và đột ngột. Như Bà mẹ Nain hôm nay, Bà đã góa chồng và chỉ có một con duy nhất là niềm hy vọng để nâng đỡ Bà trong cuộc sống trên dương gian; thế mà anh cũng vĩnh viễn ra đi. Chắc Bà không bao giờ nghĩ là Bà sẽ phải chôn con.
Người Hy-Lạp, nhất là những người theo chủ thuyết Khắc Kỷ, họ tin có Đấng Tối Cao; nhưng không tin Ngài có cảm xúc trước những đau khổ của con người. Họ lý luận: Nếu con người có thể làm cho Ngài vui hay buồn, tức là con người có ảnh hưởng trên Ngài; khi con người có ảnh hưởng trên Ngài là con người lớn hơn Ngài; nhưng không ai có thể lớn hơn Đấng Tối cao. Vì vậy, Đấng Tối Cao phải là Đấng không có cảm xúc. Niềm tin này hòan tòan ngược lại với niềm tin của người Công Giáo, Thiên Chúa cảm thương với nỗi đau khổ của con người. Thánh Luca tường thuật Chúa Giêsu chạnh lòng thương Bà mẹ góa chỉ có đứa con côi mà giờ đây cũng không còn nữa, Ngài an ủi: "Bà đừng khóc nữa!" Trước khi cho Lazarus sống lại, Gioan tường thuật "Chúa khóc" (Jn 11:35) và "Chúa thổn thức trong lòng" (Jn 11:38).
Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Trong Cựu Ước, chỉ có tiên tri Elisha làm cho con trai của Bà góa miền Shunem sống lại bằng cách kề miệng ông trên miệng nó (2 Kgs 4:34-37). Trong Phúc Âm, có ít nhất 3 lần Chúa làm cho kẻ chết sống lại: Cho con gái của ông trưởng hội đường Giaia sống lại (Mt 9:18-26, Mc 5:35-43, Lk 8:40-56); Chúa Giêsu làm cho anh thanh niên sống lại và trao anh lại cho bà mẹ Nain hôm nay (Lk 7:11-17); và Chúa cho Lazarus chết 3 ngày được sống lại (Jn 11:38-44). Khi chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa cho kẻ chết sống lại, con người kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải trung thành với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời: khi ấm no hạnh phúc cũng như lúc buồn thảm lệ rơi; vì chỉ có ai trung thành mới được cứu thoát.
- Thiên Chúa là Đấng thương xót những người bất hạnh, những mẹ góa con côi. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài trong những lúc gian lao khốn khó.
- Đức Kitô muốn chúng ta nhận Đức Mẹ như người Mẹ thiêng liêng của chính mình. Đây là điều lợi ích cho phần linh hồn. Chúng ta hãy đối xử với Đức Mẹ cho hết tình con thảo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Bài đọc: Num 21:4b-9; Phil 2:6-11; Jn 3:13-17
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quyền Lực của Thánh Giá.
- Thập Giá là một xỉ nhục đối với người Do Thái: Người Do-Thái thích tìm kiếm các phép lạ: muốn họ tin chỉ cần làm phép lạ như Phúc Âm đã tường thuật rất nhiều lần. Họ tin Đấng Thiên Sai sẽ đến và Ngài sẽ dùng quyền năng dẹp tan mọi quân thù của họ, và sẽ cai trị họ trong công lý đến muôn đời. Một Thiên Chúa chết đau khổ trên Thập Giá là yếu đuối, là không uy quyền. Đó là lý do tại sao đa số những người Do-Thái không thể chấp nhận Chúa Kitô cho đến ngày hôm nay.
- Thập Giá là một điên rồ cho những người Dân Ngọai: Triết gia Plato và đa số người Hy-Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan: muốn họ tin cần chỉ cho họ kiến thức làm sao tách biệt linh hồn ra khỏi xác vì họ tin thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Họ cho là một điên rồ vì tại sao đang khi họ tìm kiếm cách thóat khỏi thân xác thì có một Thiên Chúa lại muốn Nhập Thể để mang một thân xác hèn yếu của con người. Hơn nữa lại còn muốn chịu đau khổ bằng Cuộc Thương Khó và cái chết tủi nhục trên Thập Giá. Đó là lý do tại sao trong những thế kỷ đầu khi Kitô Giáo được truyền đến các quốc gia Hy-Lạp, Giáo Hội đã phải đương đầu với bao nhiêu lạc thuyết do những quan niệm sai lầm này đem lại: Có học thuyết như Docetism cho rằng Chúa Giêsu chỉ Nhập Thể một cách phớt qua cung lòng Đức Mẹ, và chỉ dường như chịu đau khổ. Có người cho rằng Chúa Giêsu nhập vào ông Simon và ông Simon thay Chúa chịu đóng đinh trên Cây Thập Giá. Tóm lại, họ không thể chấp nhận một Thiên Chúa lại muốn mang lấy thân xác hèn hạ của con người.
- Nhưng đối với các tín hữu, Thập Giá là sức mạnh, tình yêu, và khôn ngoan của Thiên Chúa. Các Bài đọc hôm nay muốn giải thích cho mọi người chúng ta sự cần thiết của đau khổ và quyền lực của Cây Thập Giá.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ với 6 câu ngắn ngủi, tác giả của Sách Dân Số đã mô tả cuộc đời con người là một hành trình qua sa mạc để được thanh luyện trước khi vào Đất Hứa.
(1) Hành trình qua sa mạc để được thanh luyện: Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh rất ngạc nhiên khi nghiên cứu bản đồ của các quốc gia vùng Cận Đông. Khỏang cách ngắn nhất từ Biển Đỏ tới vùng Đất Hứa là đi dọc theo bờ biển của Palestine; nếu đi bộ chỉ mất tối đa là vài tuần lễ. Thế mà ông Môsê lại dẫn dân Do-Thái đi con đường dài hơn, từ Biển Đỏ đi vòng hết các sa mạc vùng Delta, qua phía Đông của Biển Muối, vào đất Ammôn, rồi tới phía Đông của sông Jordan, vượt sông vào Đất Hứa qua việc tấn công thành Jericô của Joshua. Tất cả hành trình mất 40 năm!
Tại sao Thiên Chúa lại chọn cho dân con đường dài và đầy chông gai như thế mà không chọn con đường ngắn và dễ dàng hơn?
(2) Mục đích của Chúa là để thanh luyện dân. Sa mạc tự nó là chỗ thử thách: Người Do-Thái quan niệm sa mạc là nơi ở của quỉ dữ. Chúa Giêsu được Thánh Thần mang vào trong sa mạc để chịu cám dỗ. Sa mạc chỉ tòan đá và cát, rất ít sinh vật chịu được sự khắc nghiệt của khí hậu trong sa mạc vì rất nóng và hầu như không có nước. Đi trong sa mạc mà không mang theo nước là nắm chắc phần chết. Chúng ta có thể hiểu được nỗi đau khổ của dân: đường xa, mệt mỏi, bụng đói, miệng khát, gồng gánh nặng nề... Họ nhìn lại và tiếc những ngày còn ở Ai-Cập, tuy làm việc vất vả như nô lệ nhưng có đồ ăn, thức uống. Họ nhìn về tương lai: Đất Hứa thì xa xôi vạn dặm. Và họ mất kiên nhẫn nên họ than trách ông Môsê và Thiên Chúa: Tại sao các Người lại dắt chúng tôi vào đây để chịu đau khổ và chết đói chết khát trong sa mạc?
(3) Hậu quả của sự kêu trách Thiên Chúa là họ phải chết. Thiên Chúa cho rắn độc cắn ra cắn họ và nhiều người đã phải chết. Trong sa mạc có rất nhiều rắn độc; những vùng như Timnah gần Biển Chết dân chúng thờ thần rắn, là quan thầy của những người đi tìm đồng. Lúc ấy, họ lại chạy đến ông Môse cầu xin để Thiên Chúa xua đuổi rắn xa họ. Và ông Môsê cầu nguyện cùng Chúa cho dân. Thiên Chúa truyền cho Môsê làm con rắn bằng đồng và treo trên cột; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống. Mỗi khi nhìn lên con rắn, họ nhận ra tội lỗi của họ và không dám kêu trách Thiên Chúa và nhà lãnh đạo Môsê nữa.
Nếu chúng ta suy nghĩ về cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho tới bây giờ, thì quả thật cũng chẳng thua gì dân Do-Thái và cuộc hành trình của họ trong sa mạc. Đói có, khát có, tù đày có, vượt biên có, tị nạn có, đau khổ cũng không thiếu do cha mẹ, vợ/chồng, con cái, anh chị em, và đủ mọi người mọi nơi mang lại. Nhiều lúc chúng ta cũng giống như dân Do Thái kêu trách Chúa: Tại sao để cuộc đời chúng ta quá nhiều đau khổ như vậy?
2/ Bài đọc II: Hy vọng cho chúng ta qua cuộc đời của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vinh quang có được là bằng sự hủy mình ra không. Đàng sau Cây Thập Giá là sự Phục Sinh và khải hòan chiến thắng tội lỗi và sự chết, kẻ thù cuối cùng của con người.
(1) Sự hủy mình ra không (kenosis) qua sự khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối của Con Thiên Chúa: Cũng chỉ trong 6 câu ngắn ngủi, Thánh Phaolô đã lột tả được trọn vẹn kế họach cứu độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ: "Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, nhưng Ngài không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, và sống như người trần thế." Tại sao một Thiên Chúa vinh quang uy quyền như thế lại muốn hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, và sống như người trần thế? Hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự! Chắc chắn Thiên Chúa có thể cứu độ con người bằng uy quyền; nhưng Ngài muốn cứu độ con người qua con đường đau khổ vì muốn đồng cảm với tất cả những gì con người đã, đang và sẽ chịu. Cứu độ bằng uy quyền sẽ mang vào Nước Trời những con người vô cảm, vô trách nhiệm, và không hiểu giá trị của tình yêu.
(2) Vinh quang chiếm được nhờ sự hủy mình ra không: Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Danh hiệu tượng trưng cho công việc thực hiện của một người (Gioan Tiền Hô; Phaolô, Tông Đồ Dân Ngọai; Phêrô, Thủ Lãnh Giáo Hội). Danh được Thiên Chúa ban cho Chúa Kitô là Đức Giêsu, có nghĩa là Đấng Cứu Độ. Khi nào nghe Danh Thánh Giê-su, cả trên trời, dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa."
3/ Phúc Âm: Thập Giá Cứu Độ của Chúa Giêsu
Hậu trường phía sau những lời của Phúc Âm hôm nay là cuộc đàm thọai giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Chúa bảo ông: "Không ai có thể vào Nước Trời nếu không được tái sinh." Ông không hiểu và hỏi lại: "Làm sao một người lớn như ông lại chui vào lòng mẹ để tái sinh?" Điều Chúa muốn nói với ông là phải tái sinh bởi Nước Rửa Tội và Thánh Thần; nghĩa là được tái sinh trong Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa thì mới được vào Nước Trời.
(1) Con rắn trong sa mạc là hình ảnh báo trước của Thập Giá Đức Kitô: Biến cố Xuất Hành xảy ra khỏang 2000 năm trước Cuộc Tử Nạn của Đức Kitô; nhưng tất cả những gì đã xảy ra cho Đức Kitô là để làm trọn vẹn những gì đã xảy ra trong Cựu Ước. Con người đã phạm tội vì kêu trách Chúa trong sa mạc nhưng được cứu thóat nhờ biết ăn năn trở lại khi nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc. Từ đó đến nay con người vẫn phạm tội, làm sao con người có thể được cứu thóat? Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta cách được cứu thóat: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
(2) Thập Giá biểu lộ tình yêu Thiên Chúa cho con người: Một hình ảnh nữa của Cựu Ước luôn có sức để đánh động con người là hình ảnh của Abraham sẵn sàng cầm dao giơ lên định sát tế người con duy nhất của mình là Isaac. Có ai trong lịch sử lòai người dám làm như thế? Abraham không phải giết con vì Thiên Chúa đã hiểu niềm tin của ông dành cho Ngài; nhưng Thiên Chúa muốn dùng hình ảnh này để chuẩn bị trước cho con người để hiểu hình ảnh Cây Thập Giá. Như Gioan tường thuật hôm nay: "Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." Con người chưa bao giờ được xem thấy Thiên Chúa, nhưng mỗi khi nhìn Cây Thập Giá và đọc câu của Jn 3:16, con người tin chắc có Thiên Chúa và cảm nghiệm được tình yêu của cả 2 Cha-Con cho con người.
(3) Chúa chết để cho con người được sống: Cả hai hình ảnh Cây Thập Giá và Ngày Phán Xét đều cần để hướng lòng con người về đời sau. Có những người dễ rung cảm vì tình yêu vô bờ của Thiên Chúa qua Cây Thập Giá. Có những người phải run sợ khi nhìn thấy uy quyền của Thiên Chúa khi Ngài phán xét con người. Nhưng tình yêu là lý do đầu tiên và trên hết tại sao Thiên Chúa tạo dựng, cứu độ, và thánh hóa con người; đúng như lời Thánh Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ." Nếu nhìn lên Cây Thập Giá mà con người vẫn không cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình mà ăn năn trở lại, họ tự kết tội họ và cũng không xứng đáng để hưởng ơn tha thứ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết lợi dụng hòan cảnh để tự kỷ luật và thanh thẩy những tính ươn hèn của xác thịt thì mới có hy vọng vượt qua mọi gian khổ khi phải đương đầu với chúng. Phàn nàn, kêu trách, và tìm con đường dễ dãi chỉ dẫn con người đi đến chỗ diệt vong.
- Chúa Giêsu dạy chúng ta: Vinh quang có được là nhờ sự hủy mình ra không bằng sự khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối: Thiên Chúa cho con người, mục tử cho đòan chiên, thầy cho trò, và cha mẹ cho con cái.
- Mẹ Giáo Hội đã yêu thương và thu xếp để mọi con cái có ngày hôm nay để nhìn lên và suy niệm về Mầu Nhiệm Thập Giá.
* Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để thấy, tất cả tội lỗi của mỗi người chúng ta là lý do Con Chúa chịu đóng đinh.
* Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để cảm nghiệm được tình yêu vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người.
* Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá để học bài học "tự hủy mình ra không" của Con Thiên Chúa, để rồi cũng biết tự hủy mình ra không để cứu sống đòan chiên và con cái Chúa trao phó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 24 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Isa 50:5-9a; Jas 2:14-18; Mk 8:27-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đau khổ là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang.
Cô P đang mang thai và sắp đến ngày sinh nở, mẹ cô đã qua đời để lại cha cô và 3 người em. Cô phải thay mẹ chăm sóc các em; nhất là người em gái còn trẻ mắc chứng bệnh "lupus" hiểm nghèo. Khi gặp một linh mục công giáo đến an ủi, cô rơm rớm nước mắt và thắc mắc: Tại sao một Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự và thương yêu con người, lại bắt cô, em cô, và gia đình cô phải chịu nhiều đau khổ như thế?
Các Bài Đọc hôm nay có thể giúp trả lời thắc mắc của cô P: mặc dù Thiên Chúa có uy quyền làm cho mẹ cô P sống và chữa lành em cô khỏi bệnh; nhưng Ngài chọn con đường đau khổ để mọi người trong gia đình cô P được hưởng ơn cứu độ muôn đời. Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah tiên báo những gì sẽ xảy ra cho Người Tôi Trung của Thiên Chúa: Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ; nhưng sẽ vượt qua tất cả vì một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa. Chính vì những đau khổ Ngài chịu, mà ơn cứu độ được dâng tặng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: đức tin của họ vào Thiên Chúa phải được bày tỏ qua hành động. Nếu họ yêu thương Thiên Chúa, họ cũng phải giúp đỡ tha nhân bằng những hành động cụ thể. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Trong Phúc Âm, khi Phêrô can ngăn Chúa Giêsu đừng chấp nhận con đường đau khổ, Ngài mắng Phêrô: "Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa
1.1/ Người Tôi Trung phải chịu đau khổ: Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước những gì sẽ xảy ra cho Đấng Thiên Sai và cho con người. Đấng Thiên Sai là Người Tôi Trung của Thiên Chúa sẽ giải thoát con người bằng cách chịu mọi cực hình và gian khổ: "Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.'' Những điều tiên đoán này đã xảy ra cho Đức Kitô khi Ngài được Thiên Chúa sai xuống trần để chuộc tội cho con người; nhất là trong Cuộc Thương Khó và cái chết đau khổ của Ngài trên Thập Giá.
1.2/ Niềm tin vững mạnh của Người Tôi Trung vào Thiên Chúa: Để vượt qua đau khổ, Người Tôi Trung cần có một niềm tin không lay chuyển vào Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài tới thế gian: "Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?"
Trong những phải đương đầu với đau khổ như cô P, không ai có thể giúp cô được, ngoại trừ một mình Thiên Chúa. Ngài để đau khổ xảy ra cho cô, không phải vì Ngài không thương cô hay muốn cô chịu đau khổ cho bỏ ghét; trái lại, Ngài muốn cô và mọi người trong gia đình nhận ra một sự thật: họ không thể sống thiếu tình thương của Thiên Chúa. Trong giai đoạn hiện tại, họ phải chịu gian khổ; nhưng trong tương lai, họ nhận ra tình thương của Thiên Chúa, của cha mẹ, của những thành phần trong gia đình. Những điều này sẽ giúp họ trung thành với Thiên Chúa và với nhau hơn. Hậu quả là họ sẽ cùng nhau đoàn tụ trong Nước Trời.
Nhưng giả sử nếu những điều này không xảy ra cho gia đình cô P, có thể cô P và những người trong gia đình quá bằng lòng với vật chất thế gian, mà không cần đến Thiên Chúa; điển hình là có vài phần tử trong gia đình cô đã không tham dự thánh lễ hàng tuần nữa! Đây là câu hỏi cho cô P phải suy nghĩ: Nếu mục đích của cuộc đời là được đoàn tụ với Thiên Chúa đời đời trên Thiên Đàng, điều nào đáng cho cô P mong ước hơn: chịu đau khổ tạm thời ở đời này hay chịu đau khổ và xa cách vĩnh viễn ở đời sau?
2/ Bài đọc II: Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.
2.1/ Ngụy biện của con người: Nhiều con người ngày nay đang đánh lừa chính mình và người khác bằng ngụy thuyết: con người được công chính hóa nhờ đức tin, chứ không nhờ bất cứ việc lành nào con người làm (Rom 3:28, Gal 2:16). Thánh Phaolô quả thực có lý do để nói điều này vì con người được cứu chuộc nhờ giá máu của Đức Kitô; nhưng không phải vì đó, mà con người sẽ được cứu chuộc bằng bất cứ giá nào. Chính thánh Phaolô cũng đưa ra bao điều con người phải thực hành để được cứu độ. Chúng ta có thể liệt kê ít là 3 ví dụ trong Thư Rôma:
(1) Trong Ngày Phán Xét: "Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm; những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời" (Rom 2:6-7).
(2) Hay nói về việc không được xét đoán, thánh Phaolô dạy: "mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để tránh gây cớ cho anh em mình phải vấp hay phải ngã" (Rom 14:12-13).
(3) Hay nói về việc chuẩn bị cho Ngày Phán Xét, ngài khuyên: "Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương" (Rom 13:12-13).
Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố thẳng thắn: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7:21). Thánh Giacôbê trong trình thuật hôm nay đưa ra một trường hợp cụ thể: "Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no," nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?"
2.2/ Đức tin phải biểu tỏ bằng hành động: Vấn đề ở chỗ không phải chọn có đức tin hay làm việc lành; nhưng ở chỗ có đức tin và làm việc lành, làm việc lành là dấu biểu tỏ người có đức tin. Vì thế, thánh Giacôbê kết luận: "đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết." Đức tin và làm việc lành như hai mặt của một đồng tiền; đã chọn đồng tiền thì phải làm cả hai. Mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm này: chúng ta không tin được những người chỉ yêu bằng môi miệng; nhưng nhìn vào những việc làm của họ, chúng ta có thể nhận ra họ yêu thương chân thành hay không. Hoàn cảnh đau khổ mà gia đình đang chịu sẽ giúp em cô P nhận ra tình thương của Thiên Chúa, của cô P, và của các thành phần trong gia đình. Sự cảm nhận này sẽ giúp em cô P tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của những người trong gia đình; chứ không sống ích kỷ như không có Thiên Chúa và không có ai trong cuộc đời.
3/ Phúc Âm: Thầy là Đấng Thiên Sai.
3.1/ Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Cuộc Thương Khó đã gần kề, Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Caesarea Philippi. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Elijah, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." Mỗi ý kiến trên đây đều dựa vào một trong những đặc điểm của Chúa Giêsu như nói năng thẳng thắn như Gioan Tẩy Giả, có uy quyền làm phép lạ như tiên tri Elijah. Nhưng tất cả những ý kiến này không diễn tả đúng nguồn gốc của Chúa Giêsu.
Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Đấng Kitô." Đấng Kitô có nghĩa là Đấng được xức dầu hay Đấng Thiên Sai mà Cựu Ước thường xuyên đề cập tới. Ngài có nguồn gốc từ Thiên Chúa và được sai tới để giải thoát con người. Trong Marcô, Đức Giêsu thường cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. Lý do, Ngài muốn họ hiểu biết đúng về Đấng Thiên Sai: Ngài không dùng uy quyền, nhưng chịu đau khổ để giải phóng con người.
3.2/ Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ: Sau lời tuyên xưng của Phêrô vào thiên tính của Chúa Giêsu, Người bắt đầu mặc khải cho các ông biết về cách thức cứu độ mà Đấng Thiên Sai phải trải qua: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại."
(1) Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cứu độ con người: Dĩ nhiên, Thiên Chúa có uy quyền để cứu độ con người theo cách thức con người mong muốn; nhưng đó không phải là cách thức Ngài mong muốn, mà là qua con đường đau khổ. Nhiều người chất vấn tại sao Thiên Chúa làm như thế? Câu trả lời trước tiên là con người không khôn ngoan hơn Thiên Chúa: khi Thiên Chúa chọn cách nào, đó là cách thức tốt đẹp nhất cho con người. Nếu đầy tớ không thể chất vấn người chủ tại sao phải làm cách này mà không làm cách kia, con người cũng không có quyền chất vấn Thiên Chúa. Thứ hai, theo kinh nghiệm, con người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa khi họ bị đau khổ; khi con người sung sướng, hạnh phúc, rất ít người nhớ tới và yêu thương Thiên Chúa. Sau cùng, con người yêu thương sâu xa những ai đã hiến mình vì họ; mỗi lần nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận tình thương vô biên Thiên Chúa dành cho họ.
(2) Con người trốn tránh đau khổ: Phản ứng của Phêrô cũng giống như phản ứng của cô P ở trên, và cũng giống như truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền. Họ không chấp nhận một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Đó là lý do ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.
Nhưng khi Đức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách ông Phêrô: "Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Lời nói của Chúa Giêsu xác nhận tư tưởng của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người: thay vì phải chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa; Phêrô muốn Chúa Giêsu làm theo ý của mình. Đó là lý do Chúa mắng ông là Satan, vì Satan luôn cản trở ý định của Thiên Chúa. Đó là lý do Chúa đuổi ông ra đàng sau, vì bổn phận của môn đệ là theo Thầy; chứ không bắt Thầy phải theo mình.
Rồi Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Hãy chấp nhận những lời dạy dỗ khôn ngoan của Thiên Chúa, cho dù những dạy dỗ này hoàn toàn ngược với ý muốn của chúng ta.
- Con đường đau khổ là con đường khôn ngoan Thiên Chúa dùng để cứu độ con người. Ngài muốn Con Một Ngài chịu đau khổ để cứu chuộc con người và Ngài cũng muốn dùng đau khổ để con người nhận ra: họ không thể sống thiếu Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô.
- Để trở thành môn đệ Đức Kitô, chúng ta phải từ bỏ ý riêng mình và vác thập giá theo Chúa. Một cuộc sống dễ dãi sẽ làm chúng ta xa lánh Chúa và không đạt được mục đích của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 23 TN1
Bài đọc: I Tim 1:15-17; Lk 6:43-49.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải thực hành Lời Chúa dạy.
Tiếng Việt-nam rất chính xác khi ghép chữ "học hành." Đã học hỏi, phải hành động, thì mới sinh lợi ích cho bản thân và tha nhân. Nếu học mà không hành, mớ kiến thức một người có được sẽ vô dụng, vì không sinh ích lợi gì.
Các Bài Đọc hôm nay nhằm mục đích khuyên con người phải thực hành những gì Chúa dạy. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô dựa theo kinh nghiệm cá nhân và dạy: "Thiên Chúa thương xót con người đang khi con người vẫn còn là tội nhân." Vì thế, con người hãy mạnh dạn chạy đến với Thiên Chúa để được hưởng ơn cứu độ muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố con người không phải chỉ nghe mà còn phải thực hành Lời Chúa, thì mới có thể sinh quả tốt và đứng vững trước bao sóng gió của cuộc đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thương xót khi con người vẫn còn là tội nhân.
1.1/ Phải nhận ra sự thật: Biến cố trên đường đi Damascus giúp Phaolô thấu hiểu một sự thật: Thiên Chúa tỏ lòng thương xót khi con người đang là tội nhân. Ngài thú nhận tội của mình và tuyên xưng lòng thương xót của Chúa: "Đây là lời đáng tin cậy và đáng được đón nhận hoàn toàn; đó là: Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những kẻ tội lỗi, mà người đầu tiên là tôi." Hai sự thật mà con người cần nhận ra:
(1) Con người có tội: Tất cả mọi người, từ cặp vợ chồng đầu tiên, Adong và Evà, đều phạm tội. Thánh Gioan xác quyết: Ai nói mình không có tội là kẻ nói dối, và sự thật không có trong người ấy. Ai nói mình không có tội, người đó biến Đức Kitô thành kẻ nói dối; vì chính Đức Kitô đến thế gian để chuộc tội cho mọi người. Rất nhiều con người ngày nay tuyên bố họ không có tội! Những người này đã biến Đức Kitô thành kẻ nói dối, và một cách ngầm chỉ: họ không cần được cứu độ.
(2) Con người không thể tự giải thoát mình: Khi đã mang thân phận tội lỗi, con người không thể tự giải thoát mình khỏi tội. Làm sao một tội nhân có thể tuyên bố mình không còn tội nữa? Đó là lý do Đức Kitô đến để gánh tội cho con người, và hòa giải con người với Thiên Chúa.
1.2/ Phải chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa:
Bản dịch của Nhóm PVCGK dịch không chính xác câu 16 trong trình thuật hôm nay, chúng tôi xin dịch: "Đó là lý do tôi được thương xót: vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày sự kiên nhẫn hoàn hảo của Người với tôi là kẻ đầu tiên, để làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời."
(1) Thiên Chúa thương xót con người không phải vì sự tốt lành, việc làm, hay nhân đức con người có. Thiên Chúa thương xót Phaolô khi ông vẫn còn là tội nhân, đang hăng say bách hại đạo thánh Chúa. Xét theo kiểu con người, Phaolô xứng đáng lãnh nhận án tử hình. Xét theo kiểu Thiên Chúa, Ngài chứng tỏ lòng kiên nhẫn
(2) Mọi tội nhân đều có thể được cứu độ, nếu họ biết tin tưởng vào lòng thương xót Chúa; không cần biết họ tội lỗi nhiều và to lớn đến đâu. Thánh Phaolô có ý nói: nếu Thiên Chúa có thể tha thứ cho tôi, một người đang nhiệt thành bách hại Ngài; Ngài sẽ ban cuộc sống đời đời cho tất cả những ai biết chạy đến với Ngài.
2/ Phúc Âm: Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình.
2.1/ Cây nào sinh quả đó: Tục ngữ Việt-nam dạy: "xem quả, biết cây." Chúa Giêsu dạy: "Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra."
Trong tiến trình trở nên tốt, con người trải qua các thứ tự như sau:
- Bắt đầu từ sự hiểu biết: Để làm đúng, con người cần phải hiểu biết đúng. Lời Chúa là sự thật, sẽ chỉ dạy con người biết đường lối phải theo. Nếu hiểu biết sai lầm, sẽ không thể làm đúng.
- Cố gắng mang ra áp dụng: Đã học, phải hành; nếu không nó chỉ là mớ lý thuyết mà không sinh ích lợi cho con người.
- Thực tập lâu ngày thành thói quen tốt: Các nhà luân lý gọi thói quen tốt là nhân đức, cũng như thói quen xấu là tội. Một khi đã có nhân đức nào, con người cũng tránh được tội ngược lại với nhân đức ấy; ví dụ, khi một người đã có nhân đức khiêm nhường, người ấy cũng tránh được tội kiêu ngạo.
Chúa Giêsu có ý muốn nói: Cả hai, tội và nhân đức, đều ẩn giấu trong con người; khi cơ hội tới, chúng sẽ phát ra. Nếu lòng một người chỉ toàn nhân đức, họ không thể làm điều xấu; và ngược lại, nếu lòng một người đầy tội, họ không thể làm việc lành.
2.2/ Phải thực hành Lời Chúa: Để cảnh cáo những người nghĩ: chỉ cần tin Thiên Chúa mà không cần làm các việc lành, Chúa Giêsu chất vấn: "Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà anh em không làm điều Thầy dạy? Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai."
(1) Người nghe và thực hành Lời Chúa: "Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc." Để xây nhà trên đá, một người cần:
- Biết tiên liệu những gì sẽ xảy ra trong tương lai như: mưa, gió, bão, lụt lội.
- Hy sinh bỏ nhiều thời gian: để xây dựng một nền nhà vững chắc.
- Chấp nhận tốn phí: để mua những vật liệu tốt và lâu bền.
Tương tự như thế trong việc xây dựng cuộc đời. Để có một cuộc đời vững chắc, cần:
- Được soi sáng và hướng dẫn bởi Lời Chúa.
- Hy sinh bỏ nhiều thời gian để tập luyện tất cả nhân đức, cách riêng ba nhân đức đối thần, sao cho có được một đức tin sắt đá, một lòng trông cậy vững bền, và một tình yêu không bao giờ nhạt phai.
- Lợi dụng cơ hội khi bị thử thách để luyện các nhân đức ngày càng vững mạnh.
(2) "Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành." Đây là trường hợp của những người:
- Ngây thơ, không biết tiên liệu những gì sẽ xảy đến trong tương lai.
- Ngại khó khăn và muốn có kết quả ngay.
- Sợ tổn phí nên mua những vật liệu hào nhoáng và tạm thời bên ngoài.
Trong lãnh vực tinh thần, đây là những con người:
- Khinh thường hay không chịu học hỏi Lời Chúa.
- Không chịu mang Lời Chúa ra thực hành, vì sợ khó khăn. Họ thích sống cuộc đời dễ dãi, và những gì mang lại kết quả tức khắc.
- Khi bị thử thách cám dỗ, họ sẽ rơi vào bẫy của ba thù ngay lập tức.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận mình có tội, không thể tự cứu mình; nhưng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc gởi Đức Giêsu Kitô đến để chuộc tội cho chúng ta.
- Để sinh hoa quả tốt lành trong đời sống, chúng ta cần lắng nghe, học hỏi, và thực hành Lời Chúa dạy; nhất là cố gắng luyện tập các nhân đức.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 11/9 Hãy học biết Thiên Chúa và biết chính mình
- 10/9 Bắt chước Đức Kitô để sống đời trọn lành
- 09/9 Sống như Đức Kitô đã dạy
- 08/9 Đức Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế
- 07/9 Bổn phận của các tín hữu là xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô
- 06/9 Hãy để Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi bệnh tật hồn và xác
- 05/9 Cần chú trọng đến những gì là chính yếu
- 04/9 Cần biết trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của mình
- 03/9 Phải khôn ngoan tìm ra và trung thành làm theo thánh ý Thiên Chúa
- 02/9 Mỗi người cần đóng góp một tay cho việc rao giảng Tin Mừng