Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Ruth 1:1, 3-6, 14b-16, 22; Mt 22:34-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa, yêu người.
Ngày xưa, khi còn ở Việt-nam, các con dâu rất sợ mẹ chồng và sợ làm dâu cho gia đình chồng, vì có những bà mẹ chồng rất khắc nghiệt. Họ quan niệm phải trả thù con dâu, vì ngày xưa khi làm dâu, họ cũng từng bị đối xử như vậy. Ngày nay, bên các xứ Âu Mỹ này, các mẹ chồng lại sợ con dâu, và nhiều còn gọi là "bà dâu." Họ sợ con dâu bầy ra những lý do để cho họ vào viện dưỡng lão, và nhất là sợ con dâu sẽ ly dị để con trai mình phải ở góa. Cả hai thái cực đều quá đáng, và cả mẹ chồng lẫn con dâu Công Giáo cần phải thay đổi thái độ. Khi đối xử với nhau xung khắc như thế, họ đã không giữ giới răn "mến Chúa yêu người" như Chúa dạy. Ngoài ra, họ còn đặt con trai hay người chồng của họ vào vị thế phải điên đầu chọn lựa giữa "bên tình, bên hiếu." Chọn bên nào cũng không được vì Thiên Chúa đòi phải chọn cả hai.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp các chất liệu cho mọi người, cách riêng mẹ chồng con dâu, những chất liệu để suy tư. Trong Bài Đọc I, tác giả cho chúng ta một mẫu gương tuyệt vời về mối liên hệ giữa mẹ chồng Naomi và con dâu Ruth. Bà Naomi phải cư xử với con dâu đặc biệt thế nào, đến nỗi khi con trai của Bà chết rồi mà nàng Ruth có thể thưa với Bà: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con." Trong Phúc Âm, khi một kinh sư đến hỏi thử Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng hai giới răn: Mến Chúa, yêu người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.
1.1/ Hoàn cảnh đáng thương của bà Naomi: Tác giả kể: "Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bethlehem miền Judah mà đến ở trong cánh đồng Moab. Rồi ông Elimelech, chồng bà Naomi, chết đi, còn lại bà Naomi và hai đứa con. Hai người này lấy vợ Moab, một người tên là Orpah, người kia tên là Ruth. Họ ở lại đó chừng mười năm. Rồi Mahlon và Chilion cả hai đều chết, còn lại bà Naomi mất chồng, mất con."
Không thể sống trong cảnh góa bụa nơi đất khách quê người, bà Naomi quyết định bỏ cánh đồng Moab để trở về quê hương là Bethlehem, vì Bà nghe nói là Đức Chúa đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn ở đó.
1.2/ Sự trung thành và kính mến mẹ chồng của bà Ruth.
(1) Lời khuyên của bà Naomi cho hai nàng dâu người Moab: Trước khi lên đường, bà Naomi gọi hai người con dâu tới mà nói với họ: vì hai con trai của Bà đã chết, và Bà cũng chẳng có người con trai nào nữa cho họ kết hôn; nên họ không có bổn phận phải đi theo Bà. Họ có thể ở lại quê hương của họ và tái hôn như lòng họ mong muốn.
(2) Phản ứng của hai nàng dâu ngoại quốc: Hai người con dâu lại oà lên khóc. Orpah ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Ruth thì cứ khắng khít theo bà. Bà Naomi nói: "Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!" Ruth đáp: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con."
Đây là một lời khuyên xứng đáng được người Do-thái cho vào lịch sử vì những lý do sau:
+ Tình cảm đặc biệt giữa mẹ chồng và nàng dâu: Mối liên hệ này thường không tốt đẹp. Để nàng Ruth có thể thốt lên những lời này, nhất là khi chồng nàng không còn nữa, đòi bà Naomi phải chiếm được cảm tình đặc biệt của con dâu mình.
+ Mối liên hệ giữa người Do-thái và người Moab: Truyền thống Do-thái có thói quen khinh thường mọi dân tộc khác; họ không muốn có liên hệ gì với những người dân ngoại. Để nàng Ruth có thể thốt lên câu "dân của mẹ là dân của con,'' đòi bà Naomi đối xử với con dâu mình như một người Do-thái. Hơn nữa, đây cũng là điềm tiên báo khi Đấng Cứu Thế đến, sẽ không còn chia cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại như thánh Phaolô mô tả.
+ Tình người giữa hai mẹ con dẫn nàng Ruth tới chỗ chấp nhận "Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con." Cuộc sống của bà Naomi đã trở nên gương sáng cho nàng Ruth biết và tin vào Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Hai điều răn quan trọng nhất
2.1/ Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự: Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Sadducees phải câm miệng, thì những người Pharisees họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong sách Luật Moses, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất."
Đây là điều răn thứ nhất trong Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho người Do-thái qua ông Moses trên núi Sinai. Người Do-thái gọi điều răn này là Shema; và để cho khỏi quên, họ viết vào giấy rồi đeo nó trên đầu như thẻ kinh, và đựng vào hai cái hộp nhỏ để đeo trên hai cánh tay mỗi khi cầu nguyện. Ngoài ra họ còn dán trên cửa nhà và cửa thành, để nhắc nhở cho những ai qua lại phải nhớ. Một giới răn quan trọng và được dán khắp mọi nơi như thế, mà các kinh-sư và biệt-phái còn hỏi Chúa Giêsu! Chúng ta không tìm thấy lý do nào khác ngoài lý do họ khinh thường Chúa.
Điều răn này tuy dễ để nhớ, nhưng không dễ để thi hành, cho cả người Do-thái xưa lẫn các Kitô hữu ngày nay. Người Do-thái biết phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vẫn đúc bê vàng để thờ hay chạy theo các thần ngoai bang khác. Người tín hữu ngày nay vẫn đặt các thứ thần khác lên trên Thiên Chúa như các thần: tiền, danh vọng, chức quyền, khoái lạc ... Họ có thể bỏ lễ Chủ Nhật hay các việc thờ phượng để làm việc, coi football, đi du lịch ...
2.2/ Yêu người thân cận như chính mình: "Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Moses và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." Hai luật "mến Chúa, yêu người" không thể tách rời nhau, nhưng bổ xung cho nhau. Thánh Gioan tuyên bố: Ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối, và sự thực không có nơi người ấy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi con dâu thương mẹ chồng là nàng thương chồng. Điều răn thứ tư dạy phải thảo hiếu cả bố mẹ ruột lẫn bố mẹ chồng; đừng ích kỷ chỉ biết thảo hiếu bố mẹ ruột của mình mà thôi.
- Khi mẹ chồng thương con dâu là thương con trai mình. Các bà mẹ đừng bao giờ để con trai mình phải chọn giữa mẹ và vợ. Thiên Chúa muốn con mình vừa phải thảo hiếu cha mẹ, vừa phải trung thành với vợ cho đến chết.
- Kính mến Thiên Chúa là phải yêu thương tha nhân và giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 11:29-39a; Mt 22:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung tín giữ những gì đã thề hứa.
Con người ngày nay tìm đủ mọi lý do để không phải giữ những gì mình đã thề hứa: tại không biết những gì sẽ xảy ra, tại hoàn cảnh khó khăn, tại đương sự, tại gia đình ... Nhưng người quân tử là người giữ những lời mình đã thề hứa: "nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy," có nghĩa: một lời nói ra khỏi miệng, bốn con ngựa chạy theo cũng không đuổi kịp. Để giữ những gì mình thề hứa, con người cần có nhân đức anh hùng để vượt qua mọi trở ngại ngăn cản thi hành lời hứa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng hai sự thật trái ngược nhau. Trong Bài Đọc I, Sách Thủ Lãnh tường thuật sự trung tín và lòng can đảm của ông Jephthah, khi ông dám sát tế đứa con gái duy nhất để giữ trọn lời ông đã thề hứa với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, nhà vua tức giận vì các khách được mời dự tiệc đã không giữ lời hứa đến dự tiệc, nên đã sai các đầy tớ đi tru diệt các khách được mời, và sai các đầy tớ đi khắp các nẻo đường để mời mọi người vào tham dự tiệc cưới của con mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Jephthah giữ lời đã khấn hứa với Đức Chúa.
1.1/ Lời khấn kỳ lạ của ông Jephthah với Đức Chúa: Thủ Lãnh Jephthah khấn hứa với Đức Chúa rằng: "Nếu Ngài trao con cái Ammon vào tay con, thì - khi con đã thắng con cái Ammon mà trở về bình an - hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về Đức Chúa, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu." Ông Jephthah qua bên con cái Ammon để giao chiến với chúng, và Đức Chúa đã trao chúng vào tay ông. Ông đánh chúng tơi bời từ Aroer cho tới gần Minnith, tất cả là hai mươi thành, và cho tới Abelkeramim. Thật là một cuộc đại bại: con cái Ammon bị hạ nhục trước mặt con cái Israel.
1.2/ Ông Jephthah giết con gái để giữ trọn lời thề.
(1) Ông Jephthah không ngờ hậu quả của lời hứa: Khi ông Jephthah trở về nhà ông tại Mizpah, thì này con gái ông ra đón ông, vừa đánh trống vừa nhảy múa. Cô là con gái độc nhất của ông: ngoài cô ra, ông không có con trai con gái nào khác. Thoạt nhìn thấy cô, ông liền xé áo và nói: "Ôi, con gái của cha, thật con làm khổ cha rồi! Chính con lại ở trong số những kẻ gây bất hạnh cho cha! Cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Đức Chúa và không thể rút lại được." Thiên Chúa muốn thử đức tin của Thủ Lãnh Jephthah: thật là dễ dàng khi phải hy sinh người dưng nước lã, nhưng thật khó biết bao khi phải hy sinh máu mủ ruột thịt của mình, đưa con độc nhất mà ông có.
(2) Sự anh hùng của cô con gái: Đây là lời thề hứa của cha cô, cô có thể từ chối không cộng tác để cha thi hành lời hứa; nhưng cô là người biết kính sợ Thiên Chúa, nên cô đã anh hùng thưa với cha: "Thưa cha, cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Đức Chúa, thì cha cứ thi hành cho con như lời cha đã khấn hứa, vì Đức Chúa đã cho cha trả thù được con cái Ammon, kẻ thù của cha."
Cô chỉ xin cha cô một điều: "Xin cha cho con điều này là hoãn cho con hai tháng để con đi lang thang trên các núi đồi, mà khóc cho đời con gái của con cùng với các bạn con." Ông nói: "Con cứ đi," và ông để cho cô đi hai tháng. Cô ra đi cùng với các bạn, khóc cho đời con gái của cô trên các núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về với cha, và ông thi hành cho cô lời ông đã khấn hứa. Cô chưa biết đến việc vợ chồng.
Hành động anh hùng của cô đã nên gương sáng cho con cái Israel; mỗi năm, họ đều dành ngày này để kính nhớ cô, và đã thành một tục lệ trong Israel.
2/ Phúc Âm: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.
2.1/ Dân chúng không đáp trả lời mời của Đức Vua: Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!"
Theo truyền thống Do-thái, người ta có thói quen đi đến tất cả nhà các người quen để mời đến dự tiệc, chủ nhà sẽ báo cho các quan khách biết lý do, nơi chốn, và ngày giờ dự tiệc. Khi đã biết bao nhiêu người đến dự tiệc, chủ nhà sẽ chuẩn bị cho phần ăn cho bấy nhiêu người; rồi sai các đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời đến dự tiệc.
Nhà vua tức giận vì quan khách đã không giữ lời hứa. Họ chẳng những không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn; còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng.
2.2/ Quyết định của vua: Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới." Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
(1) Người không chịu mặc y phục lễ cưới: "Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít."
Nhiều người thắc mắc không hiểu lý do tại sao nhà vua bắt khách qua đường tham dự phải mặc y phục lễ cưới. Một người có thể trả lời ngược lại: tại sao bao khách qua đường khác lại có thời gian mặc y phục lễ cưới! Điều Chúa Giêsu có lẽ muốn nhấn mạnh ở đây là phải có những điều kiện tối thiểu để được vào Nước Trời, chứ không phải ai cũng vào được.
(2) Áp dụng của dụ ngôn: Nhiều nhà chú giải áp dụng dụ ngôn này cho người Do-thái: Họ là những quan khách được mời trước; khách gặp các nẻo đường là người Dân Ngoại. Vì người Do-thái từ chối không tham dự tiệc cưới Người Con của Thiên Chúa là Đức Kitô; nên ơn cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng đến mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải suy xét cẩn thận trước khi thề hứa bất cứ điều gì với Thiên Chúa: trong đời sống thánh hiến hay trong đời sống gia đình. Chúa muốn chúng ta trung thành với điều chúng ta đã khấn nguyện.
- Chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn và trở ngại, nhưng chúng ta phải cố gắng vượt qua, và Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để chúng ta có thể giữ trọn vẹn lời thề.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 9:6-15; Mt 20:1-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự khác biệt giữa Vua Trời và vua chúa trần gian
Vua chúa trần gian trước khi được lên ngôi hứa hẹn rất nhiều với dân chúng, nhưng một khi đã lên ngôi rồi, họ quên hết những gì đã hứa với dân chúng, hay nếu có thi hành, cũng chẳng được bao nhiêu. Trái lại, Thiên Chúa trung thành giữ tất cả những gì Ngài hứa với con người, cho dẫu con người không trung thành với những gì họ hứa. Hơn nữa, Ngài luôn tìm cách để giúp đỡ những người nghèo khó, tội lỗi, hay yếu kém hơn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo trần thế. Trong Bài Đọc I, Abimelech trở về quê hương để vận động những người đồng hương tôn mình lên làm vua, vì ông biết họ có khuynh hướng chọn những người đồng hương để có thể nhờ vả sau này. Một khi đã được làm vua, Abimelech quên hết ân nghĩa và thẳng tay trừng trị những người đã tôn ông lên làm vua. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ví Nước Trời như một gia chủ mướn thợ vào làm vườn nho của mình. Ông thỏa thuận với thợ lương công nhật là một đồng một ngày. Sau đó, ông trở ra và kêu gọi nhiều thợ nữa vào làm vườn nho với những giờ khác nhau. Chiều đến, khi trả công, các người làm việc sớm than trách vì ông trả những người đến làm sau bằng họ. Gia chủ tuyên bố ông đã công bằng trả cho họ những gì ông và họ đã thỏa thuận; họ không có quyền ngăn cản ông thương xót và rộng lượng cho những người làm việc sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.
1.1/ Lý do dân chúng Shechem tôn Abimelech lên làm vua: Abimelech là con của Thủ Lãnh Gideon với một nàng hầu mà chúng ta đã đọc ngày hôm qua. Gideon có nhiều vợ nên có rất nhiều con, tất cả hơn 70 người. Mẹ của Abimelech sinh ra ở Shechem. Đó là lý do Abimelech trở về quê hương để thuyết phục những người đồng hương tôn ông nên làm vua, với những lời lẽ như sau: "Xin bà con hỏi các thân hào Shechem xem điều nào tốt cho các vị: để cho 70 người, tức là tất cả các con ông Gideon (Jerubbaal) cai trị các vị; hay để một người cai trị các vị mà thôi? Xin các vị nhớ cho tôi là anh em ruột thịt của quí vị."
Abimelech rất khôn lanh vì biết dân chúng sẽ vì tình đồng hương mà tôn ông nên làm vua với hy vọng sẽ được hưởng những lợi nhuận sau này. Bấy giờ tất cả thân hào Shechem cùng toàn dân Bethmillo họp lại, kéo đến tôn Abimelech lên làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở Shechem. Abimelech dùng tiền thâu được của đồng hương Shechem, thuê du đãng đi giết các anh em cùng cha của mình tại Ophrah, tất cả là 70 người trên cùng một tảng đá; chỉ có Jotham là người con út của Gideon thoát khỏi.
1.2/ Ông Jotham vạch trần nguy hiểm của việc tấn phong này: Khi người ta báo tin ấy cho ông Jotham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gerizim, cất tiếng gọi và nói với những người kia rằng: "Hỡi các thân hào Shechem! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người." Sau đó, ông kể cho họ nghe một dụ ngôn về các cây cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Dụ ngôn được dùng để chỉ nói lên một điều quan trọng mà thôi. Trong dụ ngôn này, Jotham muốn ám chỉ vị vua đó chính là Abimelech, và cây cối chính là dân chúng ở Shechem. Abimelech được ví như một "bụi gai," có nghĩa là một người không xứng đáng và không tài đức, chỉ được tôn làm vua sau khi cây cối đã bị tất cả các cây khác từ chối lời mời làm vua. Jotham báo trước tai hại mà người Shechem sẽ phải lãnh nhận từ Abimelech, khi bụi gai nói với các cây cối: "Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Lebanon!" Sau khi Abimelech lên làm vua, ông đã thẳng tay trừng trị dân thành Shechem và họ cũng toa rập với nhau để chống lại ông.
2/ Phúc Âm: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn.
2.1/ Dụ ngôn các thợ làm vườn nho: Chúa Giêsu nói: "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình."
(1) Lương công nhật là một đồng: Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc.
(2) Thợ vào làm những giờ khác nhau: Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.
(3) Lý do tại sao vào làm trễ: Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" Những người này chỉ làm có một tiếng đồng hồ mà thôi.
2.2/ Cách trả lương của gia chủ: Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất." Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.
(1) Phản ứng của các thợ làm trước nhất: Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."
(2) Phản ứng của gia chủ: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?"
(3) Áp dụng của dụ ngôn: Nhiều nhà chú giải đã áp dụng dụ ngôn này cho:
+ Người Do-thái và Dân Ngoại: Mặc dù người Do-thái được Thiên Chúa chọn trước, nhưng ơn cứu độ được phân phối đồng đều cho cả người Do-thái lẫn Dân Ngoại.
+ Người đạo gốc và tân tòng: Người đạo gốc, cho dù đã theo Chúa lâu năm, cũng được Chúa thưởng đồng đều như người tân tòng mới trở lại đạo, dù chỉ một ngày.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn trung thành với những gì Ngài hứa. Chúng ta hãy đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài. Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế chẳng cứu nổi ai như Abimelech.
- Chúng ta đừng áp dụng tiêu chuẩn trần gian cho Chúa. Hãy để Chúa là Thiên Chúa khi Ngài rộng lượng thi ân cho tất cả mọi người.
- Thiên Chúa luôn công bằng, nhưng cũng rất nhân từ và khoan dung. Chúng ta trông cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa hơn là đòi hỏi Ngài phải công bằng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 6:11-24a; Mt 19:23-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
Tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa khác hẳn tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Trong khi thế gian chọn những kẻ tài giỏi, khỏe mạnh, giầu có; Thiên Chúa lại chọn kẻ ít tài, yếu đuối và nghèo khó. Hơn nữa, Đức Kitô còn mặc khải tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét: "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cách chọn lựa của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa chọn Gideon làm Thủ Lãnh, một người trẻ nhất trong gia đình, thuộc một chi tộc nhỏ nhất của Israel, chi tộc Manasseh, để giải phóng dân chúng khỏi tay những người Midian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn 12 tông-đồ: đa số là nghèo khó, yếu đuối và thất học; để huấn luyện các ông trở nên những người rao giảng Tin Mừng. Tiêu chuẩn chọn lựa này chứng tỏ: tất cả thành công hay vinh quang con người có được là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, chứ không đến từ con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn Gideon là Thủ Lãnh cứu dân khỏi tay quân thù Midian.
1.1/ Thiên Chúa chọn ông Gideon: Khi con cái Israel quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo thờ phượng các thần ngoại bang; nên Thiên Chúa không bảo vệ họ nữa, và để cho quân thù Midian bắt họ làm nô lệ cực khổ. Nhưng vì tình yêu trung thành, Thiên Chúa muốn chọn một vị Thủ Lãnh, để lãnh đạo và giải phóng con cái Israel khỏi ách nô lệ của quân thù.
Sách Thủ Lãnh kể: Sứ Thần của Đức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Ophrah. Cây này là của ông Joash, thuộc gia đình Abiezrite. Con ông là Gideon bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Midian. Sứ Thần Đức Chúa nói với Gidion: "Chào chiến sĩ can trường! Đức Chúa ở với ông." Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Ôi, thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Đức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Đức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Midian." Ông Gideon có lý do để nghi ngờ vì ông chỉ nghe thế hệ cha ông nói về những gì Thiên Chúa đã làm cho con cái Israel; nhưng chưa bao giờ ông chứng kiến Thiên Chúa tỏ uy quyền, mà chỉ thấy trước mắt cảnh dân Israel phải làm nô lệ cho người Midian.
Sứ thần Đức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu Israel khỏi tay quân Midian. Không phải chính Ta sai ngươi sao?" Ông Gideon tỏ vẻ nghi ngờ: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Israel? Này giòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Manasseh, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con." Đức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Midian như đánh có một người."
1.2/ Ông Gideon xin sứ thần một dấu chỉ để biết chắc chắn sự chọn lựa của Thiên Chúa.
Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
Ông Gideon đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Sứ Thần Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.
Sứ thần của Đức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Sứ Thần Đức Chúa biến khỏi mắt ông. Khi ông Gideon nhận ra đó chính là Thần sứ Đức Chúa, ông kêu lên: "Chết tôi rồi, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Đức Chúa nhãn tiền!" Nhưng Đức Chúa phán với ông: "Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu."
2/ Phúc Âm: Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được.
2.1/ Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa: Trình thuật của Matthew hôm nay tiếp nối cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với chàng thanh niên giầu có. Khi chàng thanh niên buồn bã bỏ đi rồi, bấy giờ Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu?"
Các môn đệ ngạc nhiên vì các ông đã quá quen tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Có lẽ vì các môn đệ nghĩ rằng: giầu có được Thiên Chúa chúc phúc, nên mới sửng sốt khi Chúa Giêsu tuyên bố như vậy. Chúng ta cần hiểu quan niệm về sự sống đời sau của người Do-thái thời đó chưa rõ nét cho lắm. Nhiều người Do-thái quan niệm hạnh phúc cho những người tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa được sống lâu, con đàn cháu đống, và được sung túc về của cải chỉ ở đời này. Phải đợi tới khoảng thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy nói về sự sống đời sau qua Sách Daniel và Maccabees. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho các môn đệ cách rõ ràng về sự sống đời sau và điều kiện để được vào Nước Trời.
Tại sao Chúa Giêsu dạy "người giàu có khó vào Nước Trời." Chúng ta có thể dẫn chứng những lý do sau đây:
(1) Người giầu có tin ở mình: thay vì họ phải tin ở tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa.
(2) Người giầu có không khôn ngoan: họ yêu của cải hơn Đấng dựng nên của cải.
(3) Người giầu có không biết tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: hoàn toàn là do tình thương và ơn thánh của Thiên Chúa, chứ không do cố gắng của con người, như Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."
2.2/ Phần thưởng Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ: Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp."
Mục đích của Thiên Chúa khi cho chúng ta vào cuộc đời này không phải để nỗ lực làm giầu; nhưng biết sống làm sao để đạt tới Nước Trời và giúp cho tha nhân cũng đạt được mục đích đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tập làm quen và sống theo những tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa, thay vì sống theo các tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian.
- Vào Nước Trời không do nỗ lực và công lao của con người; nhưng do tình yêu và ơn thánh Chúa ban. Chúng ta cần biết khiêm nhường đón nhận và sống theo sự chỉ dạy của Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 6:11-24a; Mt 19:23-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
Tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa khác hẳn tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Trong khi thế gian chọn những kẻ tài giỏi, khỏe mạnh, giầu có; Thiên Chúa lại chọn kẻ ít tài, yếu đuối và nghèo khó. Hơn nữa, Đức Kitô còn mặc khải tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét: "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cách chọn lựa của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa chọn Gideon làm Thủ Lãnh, một người trẻ nhất trong gia đình, thuộc một chi tộc nhỏ nhất của Israel, chi tộc Manasseh, để giải phóng dân chúng khỏi tay những người Midian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn 12 tông-đồ: đa số là nghèo khó, yếu đuối và thất học; để huấn luyện các ông trở nên những người rao giảng Tin Mừng. Tiêu chuẩn chọn lựa này chứng tỏ: tất cả thành công hay vinh quang con người có được là do sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, chứ không đến từ con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn Gideon là Thủ Lãnh cứu dân khỏi tay quân thù Midian.
1.1/ Thiên Chúa chọn ông Gideon: Khi con cái Israel quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo thờ phượng các thần ngoại bang; nên Thiên Chúa không bảo vệ họ nữa, và để cho quân thù Midian bắt họ làm nô lệ cực khổ. Nhưng vì tình yêu trung thành, Thiên Chúa muốn chọn một vị Thủ Lãnh, để lãnh đạo và giải phóng con cái Israel khỏi ách nô lệ của quân thù.
Sách Thủ Lãnh kể: Sứ Thần của Đức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Ophrah. Cây này là của ông Joash, thuộc gia đình Abiezrite. Con ông là Gideon bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Midian. Sứ Thần Đức Chúa nói với Gidion: "Chào chiến sĩ can trường! Đức Chúa ở với ông." Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Ôi, thưa Ngài, nếu Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Đức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Đức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Midian." Ông Gideon có lý do để nghi ngờ vì ông chỉ nghe thế hệ cha ông nói về những gì Thiên Chúa đã làm cho con cái Israel; nhưng chưa bao giờ ông chứng kiến Thiên Chúa tỏ uy quyền, mà chỉ thấy trước mắt cảnh dân Israel phải làm nô lệ cho người Midian.
Sứ thần Đức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu Israel khỏi tay quân Midian. Không phải chính Ta sai ngươi sao?" Ông Gideon tỏ vẻ nghi ngờ: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Israel? Này giòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Manasseh, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con." Đức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Midian như đánh có một người."
1.2/ Ông Gideon xin sứ thần một dấu chỉ để biết chắc chắn sự chọn lựa của Thiên Chúa.
Ông Gideon thưa với Sứ Thần: "Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
Ông Gideon đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Sứ Thần Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.
Sứ thần của Đức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Sứ Thần Đức Chúa biến khỏi mắt ông. Khi ông Gideon nhận ra đó chính là Thần sứ Đức Chúa, ông kêu lên: "Chết tôi rồi, lạy Đức Chúa là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Đức Chúa nhãn tiền!" Nhưng Đức Chúa phán với ông: "Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu."
2/ Phúc Âm: Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được.
2.1/ Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa: Trình thuật của Matthew hôm nay tiếp nối cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với chàng thanh niên giầu có. Khi chàng thanh niên buồn bã bỏ đi rồi, bấy giờ Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu?"
Các môn đệ ngạc nhiên vì các ông đã quá quen tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian. Có lẽ vì các môn đệ nghĩ rằng: giầu có được Thiên Chúa chúc phúc, nên mới sửng sốt khi Chúa Giêsu tuyên bố như vậy. Chúng ta cần hiểu quan niệm về sự sống đời sau của người Do-thái thời đó chưa rõ nét cho lắm. Nhiều người Do-thái quan niệm hạnh phúc cho những người tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa được sống lâu, con đàn cháu đống, và được sung túc về của cải chỉ ở đời này. Phải đợi tới khoảng thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy nói về sự sống đời sau qua Sách Daniel và Maccabees. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho các môn đệ cách rõ ràng về sự sống đời sau và điều kiện để được vào Nước Trời.
Tại sao Chúa Giêsu dạy "người giàu có khó vào Nước Trời." Chúng ta có thể dẫn chứng những lý do sau đây:
(1) Người giầu có tin ở mình: thay vì họ phải tin ở tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa.
(2) Người giầu có không khôn ngoan: họ yêu của cải hơn Đấng dựng nên của cải.
(3) Người giầu có không biết tiêu chuẩn để được vào Nước Trời: hoàn toàn là do tình thương và ơn thánh của Thiên Chúa, chứ không do cố gắng của con người, như Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."
2.2/ Phần thưởng Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ: Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?" Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp."
Mục đích của Thiên Chúa khi cho chúng ta vào cuộc đời này không phải để nỗ lực làm giầu; nhưng biết sống làm sao để đạt tới Nước Trời và giúp cho tha nhân cũng đạt được mục đích đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tập làm quen và sống theo những tiêu chuẩn chọn lựa của Thiên Chúa, thay vì sống theo các tiêu chuẩn chọn lựa của thế gian.
- Vào Nước Trời không do nỗ lực và công lao của con người; nhưng do tình yêu và ơn thánh Chúa ban. Chúng ta cần biết khiêm nhường đón nhận và sống theo sự chỉ dạy của Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 20 TN1, Năm B
Bài đọc: Judg 2:11-19; Mt 19:16-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người bội phản.
Đọc lịch sử Do-thái, chúng ta phải ngạc nhiên trước tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa dành cho họ; dẫu họ đã bất trung phản bội Ngài không biết bao nhiêu lần. Nhìn vào mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên vì Thiên Chúa luôn trung thành, dù biết bao nhiêu lần chúng ta phạm tội phản bội Ngài trong cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng tình yêu trung thành của Thiên Chúa dù cho con người bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần của thế gian. Bài Đọc I tường thuật con cái Israel đã lìa bỏ Đức Chúa để làm tôi thần Baal và các nữ thần Ashtaroth; hậu quả là họ bị bại trận mỗi khi ra quân và phải làm nô lệ cho các dân tộc chung quanh họ. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn gởi những nhà lãnh đạo đến để giải phóng họ khỏi tay quân thù. Trong Phúc Âm, khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu về con đường để trở nên trọn lành, Chúa trả lời hãy về bán các tài sản chàng có và giúp người nghèo khó, rồi trở lại theo Chúa. Chàng thanh niên buồn bã bỏ đi vì chàng có nhiều của cải.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự phản bội của con cái Israel và tình thương của Thiên Chúa.
1.1/ Sự bất trung của con cái Israel: Đọc Sách Thủ Lãnh, một người có thể nhận ra "bổn cũ tái diễn" của con cái Israel như trình thuật hôm nay:
(1) Con cái Israel đã lìa bỏ Đức Chúa để chạy theo các thần ngoại bang: "Họ đã lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung quanh. Họ sụp lạy các thần ấy và chọc giận Đức Chúa.
Họ đã lìa bỏ Đức Chúa để làm tôi thần Baal và các nữ thần Ashtaroth."
(2) Hậu quả con cái Israel phải lãnh nhận: "Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Israel và đã trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ bóc lột; Người đã trao họ vào tay kẻ thù chung quanh, nên họ không thể đương đầu nổi với kẻ thù. Cứ mỗi lần họ xuất trận là tay Đức Chúa giáng hoạ trên họ, như Đức Chúa đã phán và thề với họ. Họ lâm cảnh khốn cùng."
(3) Tình thương Thiên Chúa: "Bấy giờ Đức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giải thoát họ khỏi tay những kẻ cướp phá họ... Khi Đức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Đức Chúa ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì Đức Chúa động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp."
(4) Tiếp tục phản bội: "Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó. Họ vội từ bỏ con đường cha ông họ đã đi, là tuân giữ mệnh lệnh của Đức Chúa; họ đã không noi gương các ngài."
1.2/ Tại sao con cái Israel tiếp tục phản bội Thiên Chúa? Nhìn lại lịch sử của Israel rồi nhìn lại con người mình, chúng ta có thể thấy sự phản bội của mỗi người chúng ta cũng chẳng thua kém gì con cái Israel, vì mỗi khi chúng ta phạm một tội trọng là mỗi lần chúng ta phản bội Thiên Chúa. Tại sao chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa? Có phải vì chúng ta không tin Thiên Chúa? Không! Chúng ta tin Thiên Chúa; nhưng vì yếu đuối con người, nên chúng ta rơi vào chước cám dỗ của ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Có phải vì chúng ta không yêu Thiên Chúa? Không! Mỗi khi chúng ta chạy đến tòa cáo giải là chúng ta ăn năn hối hận, vì đã phản bội tình yêu Ngài dành cho chúng ta.
Sự thật là tự con người chúng ta không đủ sức để thắng vượt được những chước cám dỗ của ba thù, chúng ta cần có sức mạnh của ơn thánh đến từ Chúa, mới có thể thắng vượt được. Bài học của con cái Israel giúp chúng ta tin tưởng nơi tình yêu trung thành của Thiên Chúa, để đừng bao giờ thất vọng mỗi khi bị sa ngã; ngược lại, hãy biết can đảm đứng lên thú tội với Thiên Chúa và làm lại cuộc đời.
2/ Phúc Âm: Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi.
2.1/ Điều kiện để được hưởng sự sống đời đời.
(1) Đấng Tốt Lành và điều tốt: Chàng thanh niên đến thưa Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?" Đức Giêsu đáp: "Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi."
Câu hỏi của chàng thanh niên nhấn mạnh vào điều tốt phải làm để kiếm điểm cần thiết vào Nước Trời. Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng tốt của Cha Ngài. Được hưởng sự sống đời đời, trước tiên, không phải là do công lao của con người lập được; nhưng là do bởi sự tốt lành của Thiên Chúa.
(2) Phải tuân giữ các giới răn: Thứ đến, Chúa nói với anh ta: "Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn;" rồi Chúa liệt kê ra 5 giới răn sau cùng của Thập Giới liên quan đến con người, và nhấn mạnh đến nguyên lý "ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." Điều làm nhiều người ngạc nhiên trong câu trả lời của Chúa là Ngài không đá động gì đến 3 giới răn đầu tiên liên quan đến Thiên Chúa cả. Có thể giải thích điều này như sau: Tất cả Thập Giới có thể thu gọn vào trong hai giới răn: "mến Chúa, yêu người." Hai giới răn này không thể tách rời nhau: nếu một người mến Chúa, người đó phải yêu người. Ai nói mình mến Chúa mà không yêu thương anh em là kẻ nói dối, và sự thật không có nơi người ấy (I Jn 4:20). Chúa chỉ cần thử xem anh có yêu người là biết anh có mến Chúa hay không.
2.2/ Mãnh lực của thần tiền: Người thanh niên ấy nói: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không?" Đức Giêsu mời gọi chàng thanh niên: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Phân tích câu trả lời của Chúa Giêsu và phản ứng của chàng thanh niên này, chúng ta thấy có những điều sau đây:
(1) Anh đã đặt của cải lên trên Thiên Chúa: Điều này vi phạm trầm trọng giới răn thứ nhất: vì yêu của cải hơn yêu Chúa, nên anh đã buồn rầu bỏ đi. Chúa cảnh cáo chúng ta: "Anh em không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn của cải."
(2) Anh không "yêu đồng loại như yêu chính mình" như Chúa Giêsu đòi hỏi; vì anh không dám hy sinh của cải anh có để bố thí cho người nghèo.
(3) Anh không hiểu hay không tin Chúa Giêsu khi Ngài bảo anh: nếu anh bán tài sản và cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Anh không hiểu "kho tàng trên trời" có nghĩa gì hay anh không tin Chúa có thể làm được việc đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự phải là nguyên lý hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đừng bao giờ đặt bất cứ con người nào hay sự vật gì trên Thiên Chúa.
- Mỗi khi yếu đuối phạm tội bất trung với Thiên Chúa, chúng ta đừng nản lòng; nhưng luôn biết trông cậy vào tình yêu trung thành của Thiên Chúa.
- Một điều sẽ giúp chúng ta là cần học hỏi để biết tình thương, uy quyền, và những ơn lành Chúa đã làm cho chúng ta trong cuộc đời; để chúng ta biết đáp đền cho xứng đáng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủ Nhật 20 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Pro 9:1-6; Eph 5:15-20; Jn 6:51-58.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khao khát được "trường sinh bất tử."
Con người khôn ngoan không bao giờ muốn chết, nhưng muốn được sống "trường sinh bất tử;" nhưng cái chết là một thực tại và nó luôn đe dọa mạng sống con người. Tại sao khao khát trường sinh có thể nói là một bản năng của con người mà cái chết lại cướp đi bản năng đó. Con người có hy vọng gì để đạt được nỗi khao khát trường sinh không?
Hy vọng lớn lao và may mắn cho con người: Niềm tin và đạo lý Công Giáo dạy: (1) Nỗi khao khát trường sinh là một khao khát có thật vì Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người, muốn con người được trường sinh bất tử. (2) Vì tội lỗi mà con người phải chết; nhưng Thiên Chúa đã có sẵn Kế Hoạch Cứu Độ để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh nỗi ước ao được sống trường sinh của con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Châm Ngôn nhân cách hóa sự khôn ngoan và nêu lên một điều kiện để con người được sống: phải "ăn bánh và uống rượu" do khôn ngoan làm ra. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephesô phải biết sống như những người khôn ngoan bằng cách theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho con người bí quyết để được trường sinh bất tử: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế!
1.1/ Đức Khôn Ngoan chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng: Tác giả Sách Châm Ngôn đã nhân cách hóa khôn ngoan như một người phụ nữ, bằng cách diễn tả các đặc tính của khôn ngoan như sau:
+ Khôn ngoan luôn chắc chắn và bền vững: "Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột." Nhà được dựng bằng 7 cột là nhà chắc chắn, không gì có thể lay chuyển được.
+ Khôn ngoan chuẩn bị bữa ăn sẵn sàng bằng cách: "hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn." Khách được mời tham dự không tốn công của, và không thiếu bất cứ gì.
+ Khôn ngoan mời tất cả mọi người, không trừ ai cả: Nàng sai đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc, và chính Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi mọi người.
1.2/ Nàng Khôn Ngoan đi tìm kiếm con người.
(1) Hai hạng người mà Nàng Khôn Ngoan tìm kiếm:
+ ngây thơ (aifrôê): là những người thiếu khôn ngoan và dễ bị người khác đánh lừa.
+ khờ dại (frenôê): là những người thiếu hiểu biết, nên họ dễ làm liều.
(2) Mục đích của Nàng Khôn Ngoan: "Các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết." Nàng sẽ dạy cho con người hiểu biết thánh ý Thiên Chúa để con người được sống.
(3) Điều kiện: "Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế!" Muốn được sống, con người phải ăn bánh và uống rượu do chính Nàng Khôn Ngoan làm.
Ngôi Lời (ho lógos) được Gioan đồng nhất với Đức Kitô, Ngài là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, và nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành.
2/ Bài đọc II: So sánh người khôn ngoan và người khờ dại:
Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Êphesô: "Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan." Ngài giúp các tín hữu xét mình để nhận ra sự khác biệt giữa hai hạng người:
2.1/ Người khôn ngoan: là những người:
+ Sống theo sự hướng dẫn khôn ngoan của Thánh Thần.
+ Biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. Quan niệm của người Do-thái về thời gian: hiện tại rất xấu và tương lai rất tốt; giao thời giữa hai thời gian là cuộc khủng hoảng. Thánh Phaolô có lẽ nghĩ các tín hữu đang sống trong buổi giao thời.
+ Biết tìm thánh ý Chúa: "anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa."
+ Hiểu biết khôn ngoan sẽ dẫn tới các hành động khôn ngoan: "Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha."
2.2/ Người khờ dại là những người:
+ Sống theo ý muốn xác thịt: say sưa rượu chè, và rượu chè đưa tới truỵ lạc.
+ Không biết lợi dụng thời giờ Chúa ban cho: phí thời giờ vào các việc vô ích, không đem lại lợi ích tương lai cho đương sự.
+ Vì không biết thánh ý Thiên Chúa nên người khờ dại chỉ biết làm theo ý riêng mình; Người chỉ biết làm theo ý mình sẽ không đạt được đích mà Thiên Chúa mong muốn cho cuộc đời của họ.
3/ Phúc Âm: Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
3.1/ Phân tích từ ngữ Hy-lạp: Lời tuyên bố của Chúa Giêsu sau đây cần được nghiên cứu từng từ ngữ và cách cấu trúc: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống."
+ Cụm từ "Ergô, eimi" theo sau bởi một thành ngữ xảy ra 7 lần trong Gioan, và túc từ theo sau đều mặc khải một sứ vụ đặc biệt của Đức Kitô như: Ta là Bánh Hằng Sống; Mục Tử Tốt Lành; Cửa Chuồng Chiên; Cây Nho; Sự Sống Lại và là sự sống; Ánh Sáng Thế Gian; Đường, Sự Thật, và là Sự Sống.
+ Túc từ "ho artos ho zôê" có thể mang nhiều nghĩa khác nhau tùy theo cách dịch:
(1) Có thể dịch là "bánh hằng sống hay bánh trường sinh," có nghĩa bánh không bao giờ hư nát. Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Chúa là Bánh Hằng Sống.
(2) Hay có thể dịch là "bánh mang sự sống thần linh." Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa, Ngài là bánh mang sự sống thần linh cho con người như trong (Jn 6:33).
(3) Hay cũng có thể dịch là "bánh đang sống." Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Ngài là Bánh đang sống.
Theo văn mạch và nội dung, nghĩa thứ (2) có lẽ thích hợp hơn cả; mặc dù hai nghĩa kia vẫn đúng với Chúa Giêsu.
+ Cụm từ: "từ trời xuống" nhắc nhở cho con người biến cố Thiên Chúa cho manna rơi xuống từ trời làm lương thực cho con cái Israel suốt 40 năm trong sa mạc. Manna là hình ảnh báo trước của Bí-tích Thánh Thể. Bánh mang lại sự sống đời đời có thực và có nguồn gốc từ trời.
+ "Bánh tôi sẽ ban tặng:" nhấn mạnh đến việc cho đi cách nhưng không như trong Bài Đọc I: mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng, ăn mà không phải tốn tiền!
+ Bánh Hằng Sống chính là thịt (sárx) của Chúa Giêsu. Ngay từ đầu Tin Mừng, Gioan đã dùng danh từ này để nói về mầu nhiệm Nhập Thể: Và Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm (sárx) và đã cư ngụ giữa chúng ta.
+ Phản ứng của người Do-thái: Điều họ tranh luận ở đây không phải về nguồn gốc của Chúa Giêsu, nhưng là thịt của Ngài: Làm sao một người đang sống có thể lấy thịt của mình cho kẻ khác ăn? Trừ phi người đó phải chết! Điều khó khăn nữa là người Do-thái không có thói quen ăn thịt người.
3.2/ Sự cần thiết của bí-tích Thánh Thể: Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình."
+ Công thức "amen amen = thật, tôi bảo thật" báo hiệu trước một chân lý sẽ được mặc khải trong Tin Mừng Gioan. Chân lý Chúa Giêsu mặc khải ở đây là "Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình." Nếu Chúa Giêsu không mặc khải chân lý cho con người, sẽ không có ai biết được.
+ Hai động từ ăn (esthíô) và uống (pinô) mà Gioan dùng ở đây là hai động từ căn bản dùng trong việc ăn uống của con người: như ăn bánh và uống nước.
+ Chúa Giêsu phân biệt hai sự sống: thể lý (psyche) và thần linh (zôê). Nếu không ăn thịt và uống máu Chúa, con người vẫn có sự sống thể lý; nhưng không có sự sống thần linh.
+ Sự sống muôn đời (zôê aiônion): Sự sống thần linh sẽ dẫn con người đến sự sống muôn đời: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." Như Chúa Giêsu khi mang thân xác con người, mặc dù con người vẫn phải chết cách thể lý, nhưng sẽ được sống lại vinh hiển, và sẽ không bao giờ phải chết nữa.
+ Thịt và Máu Chúa là lương thực nuôi sống con người: "vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." Hai danh từ dùng để so sánh: của ăn (brôsin) và của uống (pôsin) là hai danh từ dùng để chỉ lương thực căn bản của con người.
+ Sự sống thần linh là sự sống của chính Thiên Chúa: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." Chúa Giêsu và người rước Chúa trở nên một, như thánh Phaolô tuyên bố: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi; mà là chính Đức Kitô sống trong tôi."
+ Sự sống thần linh giúp con người hiểu biết sự khôn ngoan và các mầu nhiệm của Thiên Chúa mà trí khôn con người không hiểu thấu được. Sự khôn ngoan có được là do Thánh Thần của Đức Kitô hướng dẫn con người. Sự sống thần linh giúp cho con người có sức mạnh để đáp ứng lời mời gọi nên trọn lành của Đức Kitô mà sức riêng con người không thể làm được. Ví dụ, con người có được tình yêu nguyên thủy của Thiên Chúa để yêu thương kẻ thù, làm ơn và cầu nguyện cho người ghét mình.
3.3/ Hậu quả của việc lãnh nhận bí-tích Thánh Thể: Nếu ăn sẽ sống, không ăn sẽ chết.
+ Chúa Giêsu sống bằng chính sự sống của Chúa Cha: "Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." Trong mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu mang hai bản tính: Thiên Chúa và nhân loại: bản tính Thiên Chúa không bao giờ chết, bản tính nhân loại chết khi Chúa Giêsu tắt thở trên Thánh Giá; nhưng được phục sinh ngay vì bản tính Thiên Chúa. Người rước Mình và Máu Đức Kitô cũng mang hai sự sống thể lý và thần linh. Hai sự sống này không tiêu diệt nhau nhưng bổ xung cho nhau.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để được sống trường sinh bất tử, chúng ta phải khôn ngoan tìm ra thánh ý của Thiên Chúa và vâng lời làm theo những gì Ngài dạy.
- Chúng ta phải tin vào những gì Đức Kitô mặc khải về bí-tích Thánh Thể và thường xuyên lãnh nhận Bí-tích này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Đức Mẹ Lên Trời
Bài đọc: Rev 11:19a,12:1-6a, 10ab; I Cor 15:20-27; Lk 1:39-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khiêm nhường làm theo thánh ý Thiên Chúa để phục vụ tha nhân.
Thiên Chúa luôn yêu thương, chúc lành, và mong muốn mọi sự tốt lành cho con người; ngược lại, ma quỉ luôn ghen tương, phá hủy, và mong muốn con người làm nô lệ cho chúng. Để thực hiện điều này, chúng luôn tìm mọi cách để đề cao sự tự do và tính kiêu hãnh nơi con người. Trong Vườn Địa Đàng, chúng đã cám dỗ cặp vợ chồng đầu tiên, ông Adong và bà Evà, dùng tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả của sự bất tuân làm con người xa cách Thiên Chúa và phải chết. Để chuộc tội cho con người, Mẹ Maria và Đức Kitô là Adam và Eve mới, đã chọn một phương cách hoàn toàn ngược lại: tuyệt đối khiêm nhường và vâng lời làm theo mọi ý định của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những gì Mẹ Maria và Đức Kitô đã vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa, để mang lại sự sống mà con người đã đánh mất. Trong Bài Đọc I, Sách Khải Huyền nói về cuộc tranh chấp giữa Người Phụ Nữ và Con Mãng Xà: Con thú dữ đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô so sánh và mặc khải Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: "Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Adong mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống." Trong Phúc Âm, khi được chị họ khen ngợi là người có phúc hơn mọi phụ nữ, Mẹ Maria đã khiêm nhường tuyên xưng: tất cả những gì Mẹ có được đều do bởi Thiên Chúa. Mẹ chỉ là người nữ tỳ hèn hạ được Đấng Tối Cao cho cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kẻ ngày đêm tố cáo anh em của ta trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài.
1.1/ Cuộc giao chiến giữa Thiên Chúa và ma quỉ: Tác-giả Sách Khải Huyền tường thuật thị kiến ông thấy xảy ra trên không trung: Hai nhân vật chính ông thấy xuất hiện là người Phụ Nữ đang mang thai và con Mãng Xà đang chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà.
Hầu như mọi người đều cho con Mãng Xà này là hiện thân của Satan vì những đặc tính mà tác giả đã đề cập tới: "đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất." Nhưng ai là người Phụ Nữ mà tác giả mô tả ở đây? Có hai ý kiến khác nhau:
(1) Người Phụ Nữ là Đức Mẹ và Người Con sắp sinh là Chúa Giêsu: Ý kiến này rất phổ thông trong thời Trung Cổ, đặt căn bản trên sự kiện sau: Trước hết, tác giả đề cập đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Hòm Bia của Cựu Ước để so sánh với Hòm Bia của Tân Ước là cung lòng Mẹ Maria khi cưu mang Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Thứ đến, tác giả mô tả vinh quang tuyệt đỉnh của Đức Mẹ: "mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao." Ngoài Đức Mẹ, không một ai được mô tả có vinh quang tuyệt đỉnh như thế. Sau cùng, tác giả cũng đề cập đến sứ vụ và uy quyền của người con: "người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân."
(2) Giáo Hội và các tín hữu: Ý kiến này có từ thời sơ khai của Giáo Hội, cho người Phụ Nữ là Mẹ Giáo Hội và người con là mỗi tín hữu. Con Mãng Xà tượng trưng cho đế quốc Rôma, vì luôn tìm dịp để bách hại đạo thánh Chúa. Người theo ý kiến này trưng dẫn các lý do thần học: Đức Mẹ có thể bị đau đớn và quằn quại khi sinh con như câu số 12:2 mô tả không? Đức Mẹ có phải trốn vào sa mạc trong thời hạn 1,260 ngày như câu 12:6 mô tả không? Sau cùng, phải cắt nghĩa câu 12:17 thế nào khi con Mãng Xà "đi giao chiến với những người còn lại trong giòng dõi của Bà, những người giữ lời chứng của Đức Giêsu!" Ngoài ra, hình ảnh người Phụ Nữ rất phổ thông trong văn chương cổ điển của Đông Phương và Kinh Thánh (Isa 50:1, Jer 50:12), được dùng để chỉ một dân tộc, một quốc gia, hay một thành phố.
Ý kiến thứ nhất được nhiều người đồng ý hơn; tuy nhiên, ý kiến này không hoàn toàn đối nghịch với ý kiến thứ hai, mà còn bao hàm nó, vì Đức Mẹ là hiện thân của Giáo Hội; các tín hữu là môn đệ của Đức Kitô và cũng là con cái của Mẹ. Ma quỉ không những muốn nuốt chửng Đức Kitô mà còn tất cả những ai tin vào Ngài. Tác giả có thể có hai hình ảnh khi mô tả thị kiến: cá nhân như Mẹ Maria và Đức Kitô, tập thể như Giáo Hội và các tín hữu.
1.2/ Quyền lực Thiên Chúa chiến thắng quyền lực của ma quỉ: "Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày." Sa mạc là chỗ ẩn phổ thông cho các tín hữu khi bị bách hại. Hình ảnh con cái Israel trong sa mạc dường như được nhấn mạnh ở đây. Con số hay được dùng trong Kinh Thánh: 1,260 ngày tương đương với 42 tháng hay 3 năm rưỡi, để chỉ một thời gian khá lâu, nhưng không vĩnh cửu.
Tác giả nghe có tiếng hô to trên trời: "Thiên Chúa chúng ta thờ, giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài." Đây là lời báo trước kết quả của cuộc giao chiến: Thiên Chúa và Đức Kitô sẽ toàn thắng quyền lực của ma quỉ. Satan và các đồng bọn của chúng sẽ bị trừng trị và tiêu diệt.
2/ Bài đọc II: Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.
2.1/ Đức Kitô cứu nhân loại khỏi nọc độc của sự chết: Thánh Phaolô so sánh hai sự kiện lịch sử quan trọng: sự sa ngã của ông Adong trong Vườn Địa Đàng và sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô trong mồ thánh để nói lên hậu quả xảy ra cho con người. Vì ông Adong đã bất tuân Thiên Chúa và phạm tội, nên nọc độc của tội di truyền đến mọi người, và hậu quả của tội là sự chết. Hậu quả này được đảo ngược bởi Đức Kitô, vì Ngài đã vâng lời Thiên Chúa gánh lấy hậu quả tội lỗi cho con người; và vì Ngài đã sống lại vinh hiển nên con người không còn phải chết nữa.
2.2/ Đức Kitô sẽ trao lại vương quốc cho Cha Ngài: "Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha." Thoạt đọc, một người có thể cho Đức Kitô không ngang hàng với Thiên Chúa Cha; nhưng sự thực không phải như thế.
Chúng ta có thể dùng một hình ảnh để suy luận điều thánh Phaolô muốn diễn tả ở đây: như một vị tướng lãnh nhận sứ vụ từ nhà vua để chinh phục quân thù, Đức Kitô cũng lãnh nhận sứ vụ từ Chúa Cha để thi hành. Khi Ngài đã hoàn tất sứ vụ tiêu diệt thù địch cuối cùng là sự chết, Ngài trao lại con người đã được cứu chuộc cho Thiên Chúa; giống như vị tướng trao lại lãnh thổ đã bị xâm lấn cho vua mình.
3/ Phúc Âm: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới.
3.1/ Làm theo thánh ý Thiên Chúa là lý do được Thiên Chúa chúc phúc.
(1) Chị họ Elisabeth nhận ra sự cao trọng của Mẹ Maria: Khi Mẹ Maria vào nhà ông Zachariah và chào hỏi bà Elisabeth, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà Elisabeth được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng." Người con bà Elisabeth đang cưu mang trong lòng là Gioan Tẩy Giả, hai thai nhi đã nhận ra nhau do Thánh Thần tác động; và Bà Elisabeth cũng nhận ra diễm phúc được làm Mẹ Thiên Chúa của Maria, người em họ mình.
(2) Lý do của sự cao trọng và được chúc phúc: Bà Elisabeth nhận ra lý do Maria được chúc phúc, và nói: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em." Con người được chúc phúc là vì niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, chứ không vì bất cứ việc gì con người làm. Mẹ Maria tin vững mạnh nơi Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và Mẹ đã thưa lời "Xin Vâng" với sứ thần Gabriel.
3.2/ Khiêm nhường phục vụ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân: Theo sự quan phòng của Thiên Chúa, người tín hữu cao trọng là người biết khiêm nhường phục vụ tha nhân.
(1) Khiêm nhường phục vụ Thiên Chúa: Mẹ Maria biết nguồn gốc của sự cao trọng của Mẹ là nơi Thiên Chúa; Mẹ chỉ là nữ tỳ hèn hạ của Ngài. Vì thế, Mẹ Maria đáp trả lời khen ngợi của chị họ Elisabeth như sau: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!"
Ngược lại với cách đáp trả của Đức Mẹ, là cách con người kiêu hãnh nhận những gì Thiên Chúa và tha nhân đã làm cho, là của mình. Họ nghĩ vì họ có tài đức, hay có vận may, hay nhờ những cố gắng riêng, mà họ được như hiện tại. Bài kinh Magnificat là một thức tỉnh cho loại người này, họ phải biết khôn ngoan nhận ra và cư xử thích đáng trước khi quá muộn: "Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời."
(2) Khiêm nhường phục vụ tha nhân: Lòng yêu mến Thiên Chúa phải được bày tỏ qua những việc làm cụ thể cho tha nhân. Mẹ Maria đã chọn đi thăm viếng và ở lại phục vụ người chị họ mình ba tháng, vì Mẹ biết chị họ đã cao niên và son sẻ, dù Mẹ có thể chọn ở nhà để dưỡng thai. Người kiêu hãnh có thể nghĩ: chị họ phải đi thăm và phục vụ mình, vì mình là Mẹ của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần sáng suốt để nhận định:
- Thiên Chúa là Đấng uy quyền và khôn ngoan: Ngài phác họa và điều khiển toàn bộ Kế Hoạch Cứu Độ cho con người qua sự vâng lời và khiêm nhường thực hiện của Đức Kitô.
- Mẹ Maria đã khôn ngoan nhận ra Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để cung cấp cho Đức Kitô một thân xác, cần thiết cho Kế Hoạch Cứu Độ.
- Noi gương Mẹ, chúng ta cầu xin để chúng ta cũng nhận ra thánh ý Thiên Chúa, và khiêm nhường cộng tác để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta và cho tha nhân. Đừng bao giờ rơi vào bẫy kiêu hãnh của ma quỉ để đánh cắp những ơn lành của Thiên Chúa và lạc xa đường cứu độ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 19 TN1
Bài đọc: Jos 24:1-13; Mt 19:3-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống trung thành với ơn gọi của mình.
Có nhiều lý do con người vịn vào để từ chối giữ lòng trung thành: tại không biết, tại hoàn cảnh, tại gia đình, tại người khác, tại yếu đuối ... Nhưng Thiên Chúa dạy: Để chu toàn hai giới răn "mến Chúa, yêu người," con người phải trung thành với Thiên Chúa và với tha nhân trong mọi trạng huống của cuộc đời. Con người dễ dàng trung thành lúc vui vẻ, hạnh phúc, bình an; nhưng những lúc khó khăn hoạn nạn mới chứng tỏ tình yêu trung thành của con người. Thánh M. Kolbe mà chúng ta mừng hôm nay, đã chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân bằng cách tình nguyện chết thay cho một chàng thanh niên để anh có thể sống và chăm sóc vợ con của anh.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những lý do tại sao con người cần phải trung thành với Thiên Chúa và với tha nhân. Trong Bài Đọc I, ông Joshua triệu tập tất cả con cái Israel lại để nhắc nhở cho họ biết sự trung thành của Thiên Chúa qua những gì Ngài đã làm cho tổ tiên và dân tộc Israel. Mục đích là để họ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và sống trung thành với Ngài. Trong Phúc Âm, những người Pharisees đến hỏi Chúa về việc có được ly dị vợ vì bất cứ lý do gì hay không? Chúa Giêsu trả lời cách tuyệt đối: không được; vì đó là thánh ý của Thiên Chúa ngay từ ban đầu. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng muốn nói tới sự trung thành trong đời sống độc thân vì Nước Trời: vì yêu Chúa và tha nhân, có những người tình nguyện hy sinh cả cuộc đời cho phần rỗi linh hồn của tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì Thiên Chúa đã luôn trung thành, anh em cũng phải trung thành với Ngài:
Ông Joshua quy tụ mọi chi tộc Israel ở Shechem, và nhắc nhở cho toàn dân biết tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho dân tộc họ:
(1) Những gì Ngài đã làm cho các tổ-phụ Abraham, Isaac và Jacob: Đây là ba Tổ phụ của con cái Israel. Bắt đầu với Abraham, Thiên Chúa chọn ông khi ông chưa biết Thiên Chúa và vẫn đang thờ kính các thần ngoại. Ngài chọn ông và hứa sẽ ban hai điều: con cái đông đúc như sao trên trời dù ông hiếm hoi, và cho ông xem miền Đất Hứa, nơi mà con cháu ông sẽ chiếm hữu và sinh sống sau này. Điều thứ nhất được khơi mào khi Thiên Chúa ban cho ông Isaac trong lúc tuổi già. Từ đó, Ngài đã ban cho Isaac sinh ra hai giòng tộc lớn là Jacob và Esau. Ngài cho Esau chiếm hữu núi Seir. Còn Jacob và các con thì xuống Ai-cập.
(2) Những gì Ngài đã làm cho Moses và con cái Israel: Khi Giuse bị bán sang Ai-cập, Thiên Chúa quan phòng để ông Giuse đưa cha và tất cả anh em sang Ai-cập để tránh nạn đói lớn đang xảy ra thời đó. Khi con cái Israel bị đối xử tàn nhẫn như nô lệ bên Ai-cập, Thiên Chúa đã truyền cho Moses và Aaron lãnh đạo dân ra khỏi Ai-cập bằng những uy quyền qua việc gieo rắc bảy tai ương và đưa dân vượt qua Biển Đỏ.
(3) Những gì Ngài đã chuẩn bị cho dân chúng trước khi vào Đất Hứa: Ta đã đem các ngươi vào đất người Amorites. Chúng ở bên kia sông Jordan. Chúng đã giao chiến với các ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi.
(4) Những gì Ngài đã làm cho con cái Israel trong Đất Hứa: "Các ngươi đã qua sông Jordan và tới Jericho. Những người làm chủ Jericho giao chiến với các ngươi: Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chúng đuổi hai vua Amorites đi cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của các ngươi đã đuổi chúng.
Kết luận: Với chiến thắng Jericho va những chiến thắng sau này, Thiên Chúa đã hoàn tất lời hứa thứ hai là đem dân vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với Abraham: ''Ta ban cho các ngươi đất các ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn." Khi nhắc nhở những điều này, ông Joshua muốn cho con cái Israel thấy tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa: Ngài luôn thực hiện những gì Ngài hứa dù con cái Israel luôn cứng lòng phản bội Ngài. Ông Joshua mong muốn dân nhận ra để rồi họ biết trung thành yêu thương và giữ các Lề Luật của Ngài, như chúng ta sẽ nghe ngày mai.
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để con người trung thành trong ơn gọi của mình.
2.1/ Trung thành trong ơn gọi gia đình: Trước tiên, chúng ta cần biết một ít kiến thức về hôn nhân và lề luật liên quan đến ơn gọi gia đình và sự ly dị của người Do-thái. Người Do-thái coi trọng việc kết hôn vì qua đó, họ giữ lệnh truyền của Thiên Chúa: "Hãy sinh sôi cho đầy mặt đất." Vì thế, kết hôn là một bổn phận phải làm, trừ những người muốn đình hoãn việc kết hôn để học hỏi Lề Luật. Về vấn đề ly dị, Sách Đệ Nhị Luật viết: "Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng (indecency, ervat trong MT, askemon trong LXX), thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà" (Deut 24:1). Từ indecency rất mơ hồ và có hai nghĩa chính: (1) không thích hợp; và (2) những hành vi vô luân. Có hai trường phái chính cắt nghĩa chữ này như sau: Trường phái bảo thủ Shammai hiểu từ này có nghĩa "ngoại tình;" người chồng chỉ có thể ly dị vợ mình vì lý do vợ ngoại tình mà thôi. Trường phái cấp tiến Hillel hiểu theo nghĩa thứ nhất: tất cả những gì người chồng thấy không xứng đáng nơi người vợ: không biết nấu nướng, đầu xù tóc rối nơi công cộng, mạ lỵ chồng... Rabbi Akiba còn đi xa hơn: nếu chồng không còn thấy nét quyến rũ nơi vợ mình nữa. Với sự hiểu biết đó, có mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?"
Chúa đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."" Trước hết, đây là ý muốn và là nguyên lý sống của Thiên Chúa cho con người; điều mà con người phải cố gắng giữ để nên trọn lành như Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với con người.
Họ thưa với Người: "Thế sao ông Moses lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?" Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moses đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình." Thiên Chúa cũng như ông Moses quá hiểu sự cứng lòng của con người, nên có những luật riêng để giải thoát con người khỏi những trường hợp khó khăn ngoài ý muốn. Dù con người không đạt tới mức trọn lành như Thiên Chúa mong muốn, ông Moses hay Giáo Hội cũng phải giúp con người vượt qua các khó khăn cách tốt nhất có thể; nhưng không bao giờ như phái Hillel chủ trương.
2.2/ Trung thành trong ơn gọi độc thân vì Nước Trời: Các môn đệ thưa Người: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn."
Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội hay do Matthew sắp xếp, để đề cập tới những người sống trong ơn gọi độc thân. Ngài đưa ra ba trường hợp: Thứ nhất, những người không có khả năng để sống ơn gọi gia đình ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Kế đến những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn, như trường hợp các hoạn quan trong triều đình. Sau cùng là những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời, những người hy sinh để hoàn toàn dành thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và cứu rỗi linh hồn tha nhân. Đối với hạng người sau cùng này, Thiên Chúa ban ơn thánh đủ để họ có thể trung thành với ơn gọi tu trì.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta cần phải trung thành với ơn gọi của mình; nhất là trong những lúc đương đầu với thử thách và đau khổ của cuộc đời.
- Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành, Ngài ban ơn thánh đủ để chúng ta có thể làm chuyện đó. Chúng ta không làm được là tại chúng ta không sống bằng sức mạnh của Thiên Chúa, vì quá lơ là với Thiên Chúa và với các Bí-tích Đức Kitô đã thiết lập.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 19 TN1
Bài đọc: Jos 3:7-10a, 11, 13-17; Mt 18:21-19:1.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa ban ơn đầy đủ để con người có thể hoàn thành sứ vụ.
Có những người vì muốn bào chữa mình, nên cho Thiên Chúa bắt con người làm chuyện không thể; chẳng hạn: trở nên trọn lành, tha thứ cho kẻ thù, hay giữ các giới răn. Họ quên đi một điều Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài biết rõ con người hoạt động làm sao và cần những gì. Nếu Thiên Chúa bắt con người Ngài làm chuyện không thể, Ngài không còn là một Thiên Chúa uy quyền và khôn ngoan nữa.
Các Bài Đọc hôm nay muốn dẫn chứng Thiên Chúa luôn ban ơn đầy đủ để con người có thể hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao. Trong Bài Đọc I, sau khi ông Moses qua đời, Thiên Chúa trao cho ông Joshua sứ vụ lãnh đạo dân vào Đất Hứa. Đây là sứ vụ rất khó khăn dưới cái nhìn của con người: làm sao con cái Israel có thể giao chiến với những người bản xứ và chiếm xứ sở của họ được? Nhưng Thiên Chúa tỏ cho con cái Israel biết uy quyền và việc Ngài chọn Joshua bằng việc cho họ vượt qua sông Jordan ráo chân; biến cố này nhắc cho con cái Israel việc Ngài đã cho họ vượt qua Biển Đỏ để họ tin vào Thiên Chúa và vào ông Joshua. Trong Phúc Âm, khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu về việc phải tha thứ cho anh/chị/em bao nhiêu lần là đủ? Chúa Giêsu trả lời phải tha thứ luôn luôn và Ngài đưa ra một dụ ngôn để dẫn chứng: con người không những có khả năng để làm việc đó, mà còn phải làm việc đó nếu muốn vào Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa làm phép lạ cho con cái Israel vượt qua sông Jordan.
1.1/ Thiên Chúa ban ơn xứng đáng để nhà lãnh đạo có thể chu toàn sứ vụ: Đức Chúa phán với ông Joshua: "Hôm nay, Ta bắt đầu cho ngươi được nên cao trọng trước mắt toàn thể con cái Israel, để chúng biết là Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Moses. Còn ngươi, ngươi sẽ ra lệnh này cho các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước: khi đến bờ sông Jordan, các ngươi hãy đứng lại trong sông Jordan."
Thiên Chúa biết lãnh đạo dân chúng, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn, là điều không dễ dàng; vì thế, Thiên Chúa vừa phải dọn lòng cho dân tin vào ông Joshua để họ vâng lời ông, vừa phải tỏ cho dân biết cánh tay uy quyền của Ngài luôn ở với dân, để họ có can đảm tiến vào Đất Hứa.
1.2/ Phép lạ vượt sông Jordan có thể so sánh với phép lạ trên Biển Đỏ: Được mặc khải của Thiên Chúa, ông Joshua cho gọi con cái Israel họ và nói cho họ biết những việc Thiên Chúa sắp làm: "Dựa vào điều này, anh em sẽ biết là Thiên Chúa hằng sống ngự giữa anh em và Người sẽ hoàn toàn đuổi người Canaanites, Hittites, Hivites, Perizzites, Girgashites, Amorites, và người Jebusites cho khuất mắt anh em. Này đây, Hòm Bia Giao Ước của Vị Chúa Tể toàn cõi đất sắp dẫn đầu anh em mà qua sông Jordan. Và khi bàn chân các tư tế khiêng Hòm Bia của Đức Chúa, Vị Chúa Tể toàn cõi đất, vừa đặt xuống nước sông Jordan, thì nước sông Jordan, nước mạn ngược chảy xuống, sẽ bị chặn lại và dừng lại thành một khối duy nhất."
Giống như khi ông Moses đưa con cái Israel vượt qua Biển Đỏ, họ không có bất cứ một phương tiện hàng hải nào để vượt sông Jordan; nhưng trông cậy hoàn toàn vào cánh tay uy quyền của Thiên Chúa. Ngài muốn cho dân biết Ngài luôn ở với và bảo vệ họ qua "Hòm Bia Giao Ước." Ông Joshua truyền lệnh cho các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu dân. Lúc những người khiêng Hòm Bia vừa đến sông Jordan, và chân các tư tế khiêng Hòm Bia vừa nhúng vào nước ở ven bờ, thì nước mạn ngược chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất dài, ở Asam là thành ở cạnh Zarethan; còn nước chảy xuống biển Arabah, tức là Biển Muối, thì bị chặn hẳn lại, và dân đã qua sông, đối diện với Jericho. Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa đứng yên tại chỗ, nơi đất khô cạn giữa lòng sông Jordan, trong khi toàn thể Israel qua sông trên đất khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết.
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa ban cho con người có khả năng để tha thứ.
2.1/ Thiên Chúa tha thứ cho con người: Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Người Việt-nam chúng ta có câu "quá tang ba bận;" tha thứ nhiều lắm cũng chỉ tới lần thứ ba là phải làm cho ra chuyện. Phêrô nghĩ có nhiều lắm thì cũng chỉ bảy lần là quá nhiều. Câu trả lời của Chúa Giêsu có nghĩa bất cứ lúc nào anh em ăn năn xin tha lỗi, chúng ta phải tha thứ hết. Câu trả lời này chắc chắn làm Phêrô và nhiều người chúng ta phải sửng sốt, vì làm sao có thể tha thứ nhiều lần như thế? Câu chuyện Chúa Giêsu đưa ra làm chúng ta phải suy nghĩ:
(1) Được tha nợ nhiều: "Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết." Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ." Nếu chúng ta thành tâm xét mình, chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ cho không biết bao nhiêu lần tội to tội nhỏ, từ ngày có trí khôn đến giờ. Nếu chúng ta đã được Thiên Chúa rộng lượng tha thứ như thế, Ngài có lý do để đòi chúng ta cũng phải tha thứ cho anh em.
(2) Nhưng lại không tha nợ ít cho tha nhân: Chúa Giêsu tiếp tục kể: "Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh." Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ." Trước tiên, chúng ta nói về số tiền nợ, 100 quan tiền chỉ là món tiền quá nhỏ so với 10,000 yến vàng. Điều này chứng minh sự keo kiệt của đương sự. Thứ đến, chúng ta xét về thái độ đối xử: y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao!" Đây là một kẻ tiểu nhân mang hai mặt: khiêm nhường giả tạo trước người có quyền thế, nhưng thẳng tay đàn áp người cô thân cô thế. Sau cùng, anh là kẻ không có lòng thương cảm, anh sẵn sàng buộc tội và bỏ tù tha nhân vì một món nợ quá nhỏ bé.
2.2/ Thiên Chúa muốn con người phải tha thứ cho tha nhân: Anh làm như thế vì anh tưởng không ai biết hành động tiểu nhân anh làm; nhưng anh không ngờ Thiên Chúa có mắt. Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Rồi Chúa Giêsu kết luận: "Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin vào sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Khi Chúa đòi chúng ta phải làm điều gì hay trao cho chúng ta một sứ vụ, Ngài luôn ban ơn đủ để chúng ta có thể làm điều Ngài đòi hỏi hay chu toàn sứ vụ Ngài giao phó.
- Chúa biết con người chúng ta yếu đuối; nhưng sức mạnh đến từ Thiên Chúa, chứ không đến từ chúng ta. Ơn thánh của Thiên Chúa luôn hoạt động trong những yếu đuối của con người; vì như thánh Phaolô tuyên bố: khi tôi yếu đuối là lúc tôi mạnh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 12/8 Chiều kích cộng đoàn phải đặt trên chiều kích cá nhân
- 11/8 Môn đệ Đức Kitô phải biết khiêm hạ và bênh vực kẻ yếu đuối
- 10/8 Cho đi là nguyên tắc sống của cuộc đời
- 09/8 Bánh mang lại sự sống thần linh cho con người
- 08/8 Rao giảng Tin Mừng để đưa các linh hồn về cho Chúa
- 07/8 Hãy dùng trí nhớ để học biết Thiên Chúa và những gì Ngài dạy
- 06/8 Lịch sử làm chứng cho Đức Kitô
- 05/8 Phải kiên trì vượt qua gian khổ mới hy vọng được thành công
- 04/8 Tội hoài nghi, kẻ thù của đức tin
- 02/8 Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát