Sống Lời Chúa Hôm Nay
Tình yêu hòan hảo lọai trừ sự sợ hãi
- Viết bởi I Jn 4:11-18; Mk 6:45-52
Thứ Tư sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 4:11-18; Mk 6:45-52.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu hòan hảo lọai trừ sự sợ hãi.
Con người sợ nhiều thứ trong cuộc đời: sợ mất những gì đang sở hữu, sợ đau vì phải chịu đủ thứ bệnh tật, sợ ma quỉ, sợ chết, và sợ bị Thiên Chúa phạt. Những nỗi sợ hãi này làm con người trở nên nhát đảm, không dám sống và làm chứng cho sự thật. Sợ hãi tự nó không xấu, nhưng nếu sau khi được thuyết phục bởi lý trí không nên sợ, mà con người vẫn sợ, lúc đó sợ hãi trở thành tội. Khi nào con người không còn sợ hãi nữa, lúc đó con người mới thực sự biết sống. Các Bải Đọc hôm nay xoay quanh tình yêu và sợ hãi.
Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan quả quyết: “Tình yêu hòan hảo lọai trừ sự sợ hãi.” Nếu con người thực sự tin vào tình yêu Thiên Chúa, con người sẽ không sợ hãi bất cứ điều gì, vì Thiên Chúa hằng yêu thương, quan tâm, và săn sóc mọi sự cho con người. Trong Phúc Âm, các môn đệ sợ bị chìm thuyền vì gió bão, các ông sợ vì có người đi cạnh thuyền như bóng ma; nhưng Chúa Giêsu củng cố niềm tin của các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tình yêu hòan hảo là tình yêu Thiên Chúa.
1.1/ Hai điều kiện để có được Thiên Chúa:
(1) Tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa: Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho con người về tình yêu Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Jn 3:16). Trong Bài Đọc hôm nay, Thánh Gioan làm chứng lại điều này: “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” Và ngài còn đẩy xa hơn: “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa.” Điều này hiển nhiên, vì Cha và Con không thể tách rời nhau, hễ có Cha là có Con; vì thế, khước từ Đức Kitô là khước từ tình yêu Thiên Chúa.
(2) Giữ giới luật yêu thương Đức Kitô dạy: Khi một người đã có tình yêu Thiên Chúa ở lại trong lòng, họ không thể sống ngược lại với sự thúc đẩy của tình yêu này: “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” Hệ quả là người ấy sẽ dùng đủ mọi cách để đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa, và yêu thương anh em như Thánh Gioan khuyên nhủ: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau,
thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.” Gioan mặc khải cho chúng ta một khía cạnh khác của tình yêu khi ngài nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thánh Thần Người cho chúng ta.” Chúng ta đã nói trong đọan trên: hễ có Con là có Cha, vì Cha-Con không thể tách rời nhau. Ở đây, chúng ta nhận diện ra vai trò của Ngôi Ba Thiên Chúa; hễ có Cha và Con, là cũng có cả Thánh Thần; vì Ba Ngôi Thiên Chúa không thể tách rời nhau. Thánh Thần là tình yêu liên kết giữa Cha và Con.
1.2/ Tình yêu hòan hảo lọai trừ sự sợ hãi: Tình yêu hòan hảo là tình yêu Thiên Chúa; khi con người đã có được tình yêu Thiên Chúa, con người không nên sợ hãi gì cả, vì:
(1) Thiên Chúa uy quyền: Ngài có thể làm mọi sự, và Đức Kitô đã chiến thắng tất cả quyền lực trong vũ trụ này, ngay cả quyền lực của ác thần và sự chết.
(2) Thiên Chúa yêu thương: Ngài trung thành yêu thương tới cùng; vì thế, chúng ta không sợ Ngài sẽ đổi ý, nhưng sợ chính chúng ta sẽ đổi ý mà thôi. Thánh Gioan khuyên con người không nên sợ ngay cả Ngày Phán Xét: “Dựa vào điều này mà tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta, đó là chúng ta có thể tự tin trong Ngày Phán Xét, vì Đức Giêsu thế nào thì chúng ta cũng như vậy ở thế gian này.”
Nếu một Thiên Chúa uy quyền có thể làm mọi sự và yêu thương đến độ ban Người Con Một để cứu chuộc con người, chúng ta không còn bất cứ lý do nào để sợ hãi, như Gioan nói: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo.”
2/ Phúc Âm: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”
2.1/ Chúa Giêsu có uy quyền trên gió bão: Ngay sau Phép Lạ “Bánh hóa nhiều,” là Phép Lạ “Đi trên biển và truyền sóng gió phải im lặng.” Thánh Marco tường thuật: “Lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia về phía thành Bethsaida trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi từ biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, chiếc thuyền đang ở giữa biển hồ, chỉ còn một mình Người ở trên đất. Người thấy các ông phải vất vả chèo chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông.” Khi Người lên thuyền với các ông, sóng gió lặng im. Theo trình thuật, Chúa Giêsu, tuy lên núi cầu nguyện, nhưng mắt Ngài không quên theo dõi các ông. Khi thấy các ông lâm nguy, Ngài đến và giúp các ông thóat khỏi nguy hiểm của gió bão.
2.2/ Các Tông-đồ sợ hãi: Là con người, các ông lo sợ tất cả những gì đe dọa đến sự sống. Trình thuật hôm nay tường thuật 2 nỗi lo sợ của các ông:
(1) Sức mạnh của gió bão: là nỗi lo sợ cho những người sống về nghề thuyền chài. Gió bão có thể làm thuyền chìm và lấy đi mạng sống con người. Hồ Galilee được nhiều người gọi là Biển Hồ vì kích thước to lớn của nó (21km/13km/204m).
(2) Quyền lực của ma quỉ: Cộng với nỗi lo sợ gió bão là nỗi lo sợ ma quỉ. Người Do-Thái tin quyền lực của ma quỉ, và Chúa Giêsu đã nhiều lần trục xuất quỉ ra khỏi con người. Các ông nhìn ra Chúa, nhưng không thể hiểu một người mà có uy quyền đi trên mặt nước; vì thế, “khi các ông thấy Người đi trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la lên. Quả thế, tất cả các ông đều nhìn thấy Người và đều hoảng hốt.”
2.3/ Chúa Giêsu trấn an các Tông-đồ: Người bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Một khi có Chúa Giêsu đồng hành, con người sẽ không phải sợ hãi bất cứ một quyền lực nào: sóng gió phải yên lặng, ma quỉ phải nghe lời, điều không thể trở thành có thể.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta sợ hãi nhiều thứ và chưa có bình an, vì chúng ta chưa sở hữu và chưa tin tưởng hòan tòan nơi tình yêu của Thiên Chúa.
- Để có được tình yêu Thiên Chúa, chúng ta phải tin tưởng hòan tòan nơi Đức Kitô và giữ các giới răn của Ngài, nhất là giới luật yêu thương.
- Sợ hãi là khuynh hướng tự nhiên của con người; nhưng tình yêu Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi sợ hãi trong cuộc đời, để có thể sống bình an và đạt được ý nghĩa của cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện cho con người qua Đức Kitô
- Viết bởi I Jn 4:7-10; Mk 6:34-44.
Thứ Ba sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 4:7-10; Mk 6:34-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện cho con người qua Đức Kitô.
Hôm qua, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã tỏ cho con người biết sự thật của Thiên Chúa. Hôm nay, Ngài tỏ cho chúng ta biết tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu rất khó để nói tới vì nó rất trừu tượng; nhưng cách tỏ bày tình yêu lại hết sức cụ thể. Vì thế, con người có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa qua Biến Cố Nhập Thể, dù chưa bao giờ con người thấy Thiên Chúa. Con người cũng có thể nhận ra tình yêu thật từ những tình yêu giả dối, bằng cách nhìn vào những biểu lộ cụ thể của tình yêu.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa, và tình yêu đích thực từ những tình yêu giả dối. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan cho chúng ta biết 3 sự thật về tình yêu Thiên Chúa: (1) Nguồn gốc của mọi tình yêu đến từ Thiên Chúa vì “Thiên Chúa là tình yêu.” (2) Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian Con Một của Ngài (Jn 3:16). (3) Thiên Chúa đã yêu thương con người trước. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu động lòng thương dân vì họ bơ vơ như chiên không người chăn. Sau khi đã dạy dỗ để cung cấp lương thược phần hồn, Ngài làm phép lạ để cung cấp cho dân lương thực phần xác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa yêu thương con người.
1.1/ Nguồn gốc của mọi tình yêu: Tác giả xác quyết: “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa;” và “Thiên Chúa là tình yêu.” Theo Sách Sáng Thế Ký, con người được dựng nên giống hình ảnh và đặc tính của Thiên Chúa (Gen 1:26). Nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng: tình yêu làm cho con người giống Thiên Chúa hơn cả. Clement of Alexandria tuyên bố: “khi con người yêu thương là con người đang luyện tập trở nên giống như Chúa.” Khi chúng ta yêu thương là chúng ta ở gần Thiên Chúa hơn lúc nào hết. Vì Thiên Chúa là tình yêu, muốn trở nên giống Thiên Chúa, con người phải học cho biết yêu thương. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa.
1.2/ Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.” Khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Hài Đồng trong máng cỏ, chúng ta phải cảm nghiệm được 2 điều:
(1) Thiên Chúa đã quá yêu thương con người: Không có một người cha nào trên trần thế dám hy sinh người con một của mình để chết thay cho người khác; nhất là một cái chết cô đơn, tủi nhục, tàn bạo trên Thập Giá. Câu truyện Tổ-phụ Abraham sẵn sàng hiến tế Isaac cho chúng ta cảm nghiệm được phần nào tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
(2) Con người không xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa: Con người không làm bất cứ gì xứng đáng với tình yêu này; ngược lại, con người đã, đang, và sẽ còn gây đau khổ cho Thiên Chúa.
1.3/ Thiên Chúa yêu thương con người trước: Tình yêu là lý do duy nhất của việc tạo dựng, quan phòng, và cứu chuộc con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì Thiên Chúa là tình yêu: Ngài yêu nên Ngài tạo dựng, và muốn được con người yêu thương lại. Thiên Chúa có thể tạo nên những con người máy và để tự chúng sinh sống; nhưng vì yêu thương, Ngài muốn luôn luôn chăm sóc cho con người. Trong việc cứu chuộc, tình yêu Thiên Chúa đã biểu lộ quá rõ ràng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu yêu thương, dạy dỗ, và cho dân ăn.
2.1/ Chúa Giêsu yêu thương và dạy dỗ dân chúng: Trình thuật kể: “Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” Để hiểu thấu những điều này, chúng ta cần đọc Sách Tiên-tri Ezekiel để nhận ra tại sao chiên bơ vơ không người chăn. Theo Tiên-tri, chiên bơ vơ không phải vì không có người chăn; nhưng tại các người chăn vô trách nhiệm: họ chỉ để ý đến lông chiên, thịt chiên, mà không để ý đến tình trạng của chiên. Nếu những nhà lãnh đạo không chịu săn sóc, dạy dỗ, chỉ đường, thì làm sao những người dân biết sống lành mạnh và tránh được những nguy hiểm trong cuộc sống?
2.2/ Chúa Giêsu làm phép lạ để nuôi dân:
(1) Quá mải mê nghe Chúa giảng, dân chúng quên ăn: Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: "Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn. Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn." Chắc các ông quan niệm, nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ có trách nhiệm phần hồn cho dân chúng mà thôi. Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ một bài học: Người rao giảng không chỉ quan tâm đến việc cho dân chúng lương thực phần hồn, đôi khi còn phải quan tâm đến việc cho giáo dân lương thực phần xác nữa.
(2) Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ cho dân ăn: Người đáp: "Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!" Các ông nói với Người: "Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?" Qua lời đối thọai, chúng ta nhận ra ngay những tính tóan của các môn đệ và tình yêu không tính toán của Chúa Giêsu. Các môn đệ nghĩ ngay đến tiền, Chúa Giêsu chỉ nghĩ đến tình yêu.
(3) Chúa Giêsu làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá: Người bảo các ông: "Anh em có mấy chiếc bánh? Đi coi xem!" Khi biết rồi, các ông thưa: "Có năm chiếc bánh và hai con cá." Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. Chúa cần sự cố gắng và cộng tác của các môn đệ dẫu Ngài có thể làm mọi sự.
(4) Hình bóng của Bí-tích Thánh Thể: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người.” Cả 4 Thánh-sử đều tường thuật phép lạ này. Riêng Gioan, phép lạ này mở đầu cho “Diễn từ về Thánh Thể” trong chương 6 của ngài, dù Gioan không tường thuật sự kiện Chúa lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Qua Bí-tích Thánh Thể, Thiên Chúa chứng tỏ Ngài vẫn yêu thương, săn sóc, và cho dân ăn mỗi ngày.
(5) Số còn dư lại: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời, trước khi có thể yêu thương Ngài và tha nhân.
- Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu không tính toán, vô vị lợi, và không biên giới. Chỉ có tình yêu này mới giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn và trung thành yêu thương tới cùng.
- Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch yêu thương, vì Chúa Giêsu đã yêu thương phó mạng sống làm lễ tế hy sinh cho con người. Nếu chúng ta cảm thấy mình ích kỷ, thiếu yêu thương, khó tha thứ, đây là Bí-tích tăng cường tình yêu cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Phải học Lời Chúa để nhận ra sự thật
- Viết bởi I Jn 3:22-4:6; Mt 4:12-17, 23-25.
Thứ Hai sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 3:22-4:6; Mt 4:12-17, 23-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải học Lời Chúa để nhận ra sự thật!
Chúng ta đang sống trong thế giới vàng thau lẫn lộn: sự thiện và sự ác, sự thật và sự giả trá điêu ngoa. Một người bình thường rất khó nhận ra sự thật từ biết bao nhiêu sự gian dối, người thành thật từ những người giả trá điêu ngoa. Làm sao để nhận ra sự thật và người thành thật?
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những tiêu chuẩn để nhận ra sự thật. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan cho chúng ta 2 tiêu chuẩn để nhận ra sự thật: (1) Người nói sự thật là những người tin vào Đức Kitô; và (2), người nói sự thật sẽ bị thế gian ghét bỏ. Trong Phúc Âm, Thánh Matthêu tường thuật bước đường đầu trong sứ vụ rao giảng của Đức Kitô: Ngài không những mang ánh sáng xua tan những vùng tăm tối sự chết của Dân Ngọai, mà còn cả cho những người Do-Thái đang mong chờ Đấng Cứu Thế ra đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải ở lại trong Thiên Chúa để nhận ra sự thật.
1.1/ Làm thế nào để ở lại trong Thiên Chúa? Theo Gioan, để ở lại trong Thiên Chúa, các tín hữu phải giữ các giới răn: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.” Theo truyền thống Do-Thái, biết Thiên Chúa không phải chỉ là họat động của tri thức, nhưng phải ảnh hưởng đến đời sống của người tin; nói cách khác, biết Thiên Chúa là phải giữ các giới răn của Ngài. Theo Gioan, hai giới răn quan trọng nhất là:
(1) Phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người: Theo Gioan, đây là điều kiện để trở thành tín hữu, thành con Thiên Chúa. Sở dĩ Gioan nhắc lại điều này, là có những bè rối xuất thân từ cộng đòan tín hữu, từ chối nhân tính hay thiên tính của Đức Kitô.
(2) Phải yêu thương nhau: Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Khi một người có Thiên Chúa, là có cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Ngược lại, ai ghét anh em mình, kẻ ấy sẽ không có Thiên Chúa.
1.2/ Làm thế nào để nhận ra sự thật? Phải cân nhắc để nhận ra sự thật: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.” Hai tiêu chuẩn cần dựa vào để nhận ra sự thật:
(1) Người nói sự thật là người nhìn nhận Đức Kitô đến từ Thiên Chúa: “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên Phản-Kitô.” Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi. Thời Thánh Gioan, có ít nhất 2 bè rối chống nhân tính của Đức Kitô là Phái Thuần Tri Thức và Bè rối Docetism; trong khi Nhóm Do-Thái bảo thủ từ chối không tiếp nhận thiên tính của Chúa Giêsu.
(2) Người nói sự thật không được thế gian chấp nhận: Đối với Gioan, chỉ có trắng hay đen, chứ không có vùng xám ở giữa; chỉ có sự thật của những người tin theo Đức Kitô hay sự gian trá của những người không tin Đức Kitô. Người Kitô hữu là những người tin Đức Kitô. Họ thuộc về Thiên Chúa. Họ nói sự thật và thế gian không tin họ. Kẻ Phản-Kitô là những người từ chối không tin Đức Kitô. Họ thuộc về thế gian. Họ nói những điều giả trá và thế gian tin họ. Tuy nhiên, Gioan củng cố niềm tin của các tín hữu: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, anh em thuộc về Thiên Chúa, và anh em đã thắng được các ngôn sứ giả đó, vì Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian. Các ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian; vì thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng. Còn chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu tỏ mình cho tất cả mọi người.
2.1/ Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ giảng dạy cho Dân Ngọai tại miền Bắc của Galilee:
Galilee là vùng đất phì nhiêu, rất đông dân, nhưng bao quanh bởi các Dân Ngọai: Phía Tây Bắc là người Phoenicia, phía Đông Bắc là người Syria, và phía Nam là người Samaria; vì thế, Galilee chịu nhiều ảnh hưởng của Dân Ngọai hơn bất cứ vùng nào của người Do-Thái. Hơn nữa, Galilee còn là trục lộ giao thông của miền Trung Đông: Con Đường Ven Biển nối từ Damascus, Syria, tới Ai-Cập, rồi qua Phi Châu phải băng ngang qua Galilee; Con Đường tới phía Đông cũng phải qua Galilee. Vì thế, có thể nói: giao thông của thế giới phải ngang qua Galilee. Trong khi đó, Judah ở một vị trí tách biệt, không tiện lợi cho việc giao thông tới các nơi trên thế giới. Có người nhận xét về sự khác biệt giữa hai miền như sau: “Galilee là đường dắt tới mọi nơi, trong khi Judah không dắt tới đâu cả.” Điều này cho chúng ta thấy, Chúa Giêsu rất tinh tế trong việc lựa chọn địa danh để rao giảng. Ngài chọn Galilee là chỗ đông dân cư, và là chỗ qua lại của nhiều nền văn minh thế giới; để nhiều người có cơ hội nghe Tin Mừng Ngài rao giảng.
Trình thuật hôm nay cũng đề cập tới việc Chúa Giêsu làm ứng nghiệm lời Tiên-tri Isaiah khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng tại vùng này: “Này đất Zebulun, và đất Naphtali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Jordan, hỡi Galilee, miền đất của Dân Ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
2.2/ Từ Zebulun và Naphtali, Tin Mừng của Chúa Giêsu được lan rộng ra khắp nơi:
(1) Trước hết, Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng trong khắp miền Galilee; sau đó đến các vùng: Thập Tỉnh, Thành Jerusalem, miền Judah, và vùng bên kia sông Jordan. Dân chúng các nơi lũ lượt kéo đến đi theo Người.
(2) Họat động truyền gíao của Chúa Giêsu: Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng là "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." Ngài giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa lành họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận ra nhu cầu học hỏi Lời Chúa để biết và sống theo sự thật.
- Chỉ có một cách duy nhất để nhận ra sự thật từ bao nhiêu sự gian dối là dựa vào Lời của Thiên Chúa.
- Hai tiêu chuẩn căn bản để nhận ra sự thật: chúng ta phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa và phải giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân
- Viết bởi Isa 60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC
Bài đọc: Isa 60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.
Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.
1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.”
Chương 60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.
1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.
2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.
2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.
2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.
3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.
(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn của họ.
(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
- Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
- Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta
- Viết bởi I Jn 2:29 - 3:6; Jn 1:29-34.
Ngày 3 tháng 1 GS
Bài đọc: I Jn 2:29 - 3:6; Jn 1:29-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta nhiệt thành làm chứng cho Ngài.
Dựa vào câu tục ngữ: “Con cái nhà tông, chẳng giống lông cũng giống cánh,” người ta có thể biết bố mẹ của một người tốt hay xấu. Người con có thể làm vinh danh cha bằng những việc tốt lành hay làm ố danh cha bằng những việc tội lỗi.
Các Bài đọc hôm nay tập trung vào bổn phận phải làm vinh danh Thiên Chúa của các Kitô hữu. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan nhắc lại cho các tín hữu họ đã trở thành con Thiên Chúa, và bổn phận của họ phải trở nên giống Thiên Chúa bằng đời sống thánh thiện và tinh tuyền, và bằng cách tránh xa tội lỗi. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả làm gương cho chúng ta về bổn phận làm chứng cho Thiên Chúa bằng lời nói cũng như trong cách sống theo sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
1.1/ Người Kitô-hữu trở thành con Thiên Chúa bằng niềm tin vào Đức Kitô: Thánh Gioan đã nói rõ ràng trong Tin Mừng của ngài, chương 1: “Tất cả những ai tin vào Đức Kitô, Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Jn 1:13). Ở đây, ngài nhắc lại điều này: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” Cũng trong chương đầu tiên đó, Chúa Giêsu đã đến nhà các gia nhân Người, nhưng các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người (Jn 1:11), Vì thế, mặc dù sự thật “chúng ta là con Thiên Chúa,” nhưng thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.
Nhìn thấy Thiên Chúa như Thiên Chúa là, hay “diện đối diện,” là niềm mong mỏi của các Kitô hữu; nhưng để đạt được ước mong này, người Kitô hữu phải sống thanh sạch, vì chỉ có những ai thanh sạch mới được nhìn thấy Thiên Chúa (Mt 5:8). Con người tội lỗi chỉ có thể trở nên thanh sạch nhờ Đức Kitô, Ngài tẩy trừ con người khỏi tội và ban ơn thánh hóa để con người có thể trở nên công chính và được nhìn thấy Thiên Chúa.
1.2/ Làm vinh danh Chúa bằng cách tránh xa tội lỗi: Thánh Gioan cũng suy luận giống như Thánh Phaolô về sự liên hệ giữa Lề Luật với tội lỗi, và vai trò của Đức Kitô trong việc xóa bỏ tội lỗi và làm cho con người trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Ngài nói: “Phàm ai phạm tội thì cũng chống lại luật Thiên Chúa, vì tội lỗi chống lại luật Thiên Chúa. Thế mà anh em biết: Đức Giêsu đã xuất hiện để xoá bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi. Phàm ai ở lại trong Người thì không phạm tội. Còn ai phạm tội thì đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người.”
2/ Phúc Âm: Hai lời chứng của Gioan Tẩy Giả về Đức Kitô:
2.1/ Lời chứng thứ nhất của Gioan: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”: Chỉ trong một câu làm chứng ngắn ngủi, Gioan đã mặc khải cho con người biết sứ vụ chính yếu của Chúa Giêsu khi đến trần gian: Ngài phải hy sinh chịu sát tế để đền tội cho con người. Ba hình ảnh “Con Chiên” của Cựu Ước là nền tảng của “Chiên Thiên Chúa” mà Gioan nói tới hôm nay:
(1) Con Chiên Vượt Qua: Trước biến cố Xuất Hành của Do-Thái ra khỏi Ai-Cập, mỗi gia đình phải sửa sọan giết một con chiên, và lấy máu của nó bôi trên cửa ra vào. Đêm đó, các thiên thần được lệnh đi tàn sát tất cả các con đầu lòng của người Ai-Cập. Gia đình nào có máu bôi trên cửa, các thiên thần sẽ đi ngang qua và không tàn sát con trẻ đầu lòng trong đó (Exo 12:11-13). Biến cố Vượt Qua này luôn được coi là hình ảnh báo trước Cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, Chiên Thiên Chúa (Jn 2:13).
(2) Con dê của Ngày Xá Tội: Trong Ngày này, dân chúng sẽ chuẩn bị 2 con dê để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ xá tội cho con người. Một con sẽ được các tư tế, sau khi cầu nguyện và đặt các tội của dân trên vai nó, phóng thích cho chạy vào sa mạc cho quỉ Azazel. Một con sẽ bị giết và lấy máu của nó rảy trên dân chúng (Lev 16:7-30).
(3) Con chiên sát tế trong Đền Thờ: Mỗi sáng và chiều trong Đền Thờ Jerusalem, các người phục vụ trong đó phải sát tế một con chiên một tuổi để làm lễ vật hy sinh xóa tội cho con người theo Luật ấn định (Exo 29:38-42).
“Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi”: Chúa Giêsu trong thân phận con người, tuy ra đời sau Gioan, nhưng Ngài có trước từ đời đời trong bản tính Thiên Chúa. Không phải Chúa Giêsu chỉ có trước, nhưng Ngài quan trọng và uy quyền hơn Gioan gấp bội, vì Ngài mang trong mình uy quyền của Thiên Chúa. Gioan nói rõ nhiệm vụ của mình là chuẩn bị đem mọi người tới Thiên Chúa: Gioan không là gì cả, nhưng Đức Kitô là mọi sự. Vì thế, khi gặp được Đức Kitô, Gioan chỉ và ra lệnh cho 2 môn đệ của ông đi theo Đức Kitô, ông không giữ lại cho mình điều gì cả.
Đây phải là bài học cho con người: không phải ai sinh sau hay đến sau cũng thua người sinh hay đến trước, không phải cha mẹ là luôn hơn con cái, vì “con hơn cha là nhà có phúc.” Điều quan trọng là con người phải biết tôn trọng sự thật; và người có tài hơn không phải để kiêu căng, hống hách, nhưng phải biết khiêm nhường và phục vụ những người kém tài hơn mình.
2.2/ Lời chứng thứ hai của Gioan: “Tôi đã thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thánh Thần xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa cho thấy thị kiến Thánh Thần hiện xuống tựa chim bồ câu khi ông làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu trong sông Jordan. Bên Palestine, chim bồ-câu là chim thánh; con người không được săn và không được ăn chim bồ câu. Các Rabbi thường nói Thánh Thần di chuyển và bay lượn như chim bồ câu trên những vùng hoang dã vô trật tự thuở xa xưa để thở sinh khí vào và mang trật tự cùng huy hòang cho nó (Gen 1:2). Thánh Thần hiện xuống và ở lại trên Đức Kitô khi Ngài chịu Phép Rửa để mang quyền năng và chuẩn bị cho Ngài trong sứ vụ rao giảng sắp tới. Với thị kiến này, Gioan không còn nghi ngờ gì nữa, ông chứng thực Đức Kitô chính là Người được Thiên Chúa tuyển chọn để mang Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa tới thành công.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả chúng ta là con cùng một Cha trên trời; nhiệm vụ của chúng ta là lo chung một mối lo âu với Cha là làm sao cho tất cả nhân lọai tin vào Đức Kitô, Người luôn luôn làm theo ý Chúa Cha, để được sống muôn đời.
- Để đạt được mục đích này, chúng ta phải gạt bỏ mọi ghen tị và ham muốn quyền lực, để cùng nhau lo việc của Cha trên trời. Khi thấy người khác có tài lôi kéo mọi người về với Chúa, chúng ta phải vui mừng và cộng tác với họ để Nước Chúa càng ngày càng mở rộng.
- Chúng ta càng ngày càng phải nhỏ đi thì Chúa mới càng ngày càng lớn lên được, trước là trong ta, và sau đó đến mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Sự thật và sự dối trá quanh co
- Viết bởi I Jn 2:22-28; Jn 1:19-28.
Ngày 2 tháng 1 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:22-28; Jn 1:19-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật và sự dối trá quanh co
Trong xã hội, rất khó cho chúng ta để nhận biết bản chất đích thực của một người qua việc đối thọai. Khi phải nói về mình, con người thường có những khuynh hướng như: mạo nhận danh nghĩa người khác; giả vờ như mình có để người khác phải thán phục mình; khuếch đại: có ít nói nhiều; nói quanh co để người khác khỏi nhận ra con người thực của mình. Khi phải tìm hiểu cá nhân đó qua người khác, người khác thường có khuynh hướng: cắt bớt những công trạng và các đức tính tốt để họ đừng nổi bật quá; thêm những nhận xét của mình để dìm bớt những điều tốt; gán cho họ những tật xấu mà họ không có; hay vơ vào những thói xấu của gia đình họ.
Các Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta phải biết sống thực với con người của mình. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan đưa ra lý do tại sao chúng ta phải sống thực là vì chúng ta đã lãnh nhận dầu Thánh Thần qua Bí-tích Rửa Tội. Thánh Thần giúp chúng ta sống thực, và giúp nhận ra những sự giả trá trong thế gian. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả cho chúng ta một mẫu gương phải sống thực qua cách trả lời cho những người đến điều tra: ngắn gọn: có hoặc không; trực tiếp: không dài giòng quanh co; đơn giản: không dùng những lời nhiều nghĩa; chính xác: những gì mình là, không phải những gì người khác gọi, hay khen mình. Khi phải so sánh mình với Chúa Giêsu, Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường nhìn nhận: “Tôi tuy đến trước, nhưng tôi không xứng đáng để cởi quai dép cho Ngài.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kitô Giáo và các tôn giáo khác
1.1/ Phản-Kitô là người không tin Đức Kitô: Nhiều tôn giáo thờ một Thiên Chúa; chẳng hạn, Do-Thái Giáo, Hồi Giáo, nhưng Kitô Giáo thờ Thiên Chúa và Đức Kitô.
(1) Các lạc giáo: Ngay từ thời Thánh Gioan, khi Kitô Giáo bành trướng vào thế giới, có nhiều những lạc giáo từ chối không tin thiên tính (Do-Thái Giáo) hay nhân tính của Đức Kitô (Chủ-nghĩa thuần Tri-thức). Thánh Gioan đề phòng các tín hữu của ngài các lạc giáo này: “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô? Kẻ ấy là tên Phản-Kitô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con.”
(2) Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Đức Kitô: Đối phương của Gioan có thể thuyết phục ngài: “Tuy khác biệt, nhưng chúng ta cùng tin Một Thiên Chúa.” Thánh Gioan thẳng thắn nói lên niềm tin của ngài: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha.” Theo ngài, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa Chúa Cha và Chúa Con:
- Chúa Giêsu mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, và nếu Ngài không mặc khải, con người không thể biết Chúa Cha: “Không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11:27, Lk 10:22).
- Tin Con là tin Cha (Jn 12:44-45); từ chối Con sẽ bị Cha từ chối (Mt 10, 32-33).
- Nhìn thấy Con là nhìn thấy Cha (Jn 14 :6-9).
1.2/ Hai tiêu chuẩn để nhận ra sự thật: Để chống lại những lạc giáo, Thánh Gioan đưa ra 2 tiêu chuẩn để giúp các tín hữu nhận ra sự thật phải theo và sự dối trá phải tránh: tiêu chuẩn bên ngòai là những Giáo Huấn của Giáo Hội; và tiêu chuẩn bên trong là sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.
(1) Điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu: Ngài nói: “Phần anh em, ước chi điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại trong anh em. Nếu điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại trong anh em, thì chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là điều mà chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời.” Điều nghe từ đầu đây có lẽ là những dạy dỗ về đạo, trước khi một người được lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội.
(2) Sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: Khi một người được chịu Phép Rửa nhân danh Đức Kitô, người ấy được xức dầu của Thánh Thần; và được phong chức làm tư tế, tiên tri, và vương đế. Thánh Gioan quả quyết: “Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa; nhưng dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự - mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá - thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người.” Trong khi chủ thuyết “Thuần Tri-thức” cho rằng chỉ có họ mới biết cách giải thóat con người ra khỏi vật chất để kết hợp với Thiên Chúa; Thánh Gioan dạy các tín hữu: một khi đã có Thánh Thần của Thiên Chúa, Thần Sự Thật, trong người, các tín hữu chẳng cần phải được dạy dỗ bởi ai khác nữa.
2/ Phúc Âm: Lời chứng của Gioan
2.1/ Những gì Gioan không là: Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do-Thái từ Jerusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô." Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlijah không? " Ông nói: "Không phải." "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? " Ông đáp: "Không." Sở dĩ Gioan Tẩy Giả trả lời như thế là vì ông không quan tâm đến những điều người khác nói về ông, mà ông chỉ quan tâm đến những gì ông thực sự là. Nhiều người đã coi Gioan Tẩy Giả như một Tiên-tri, và chính Chúa Giêsu đã gọi ông là một Tiên-tri quan trọng hơn hết các tiên-tri.
2.2/ Điều Gioan Tẩy Giả là: Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaiah đã nói.” Một khi Gioan nhận ra sứ vụ Thiên Chúa trao cho trong cuộc đời, ông dành mọi thời gian, và nỗ lực để chu tòan sứ vụ của mình.
Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisees. Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlijah hay vị ngôn sứ?" Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Chỗ khác, Gioan phân biệt hai Phép Rửa: ông làm Phép Rửa để tha tội, nhưng Đức Kitô làm Phép Rửa để ban Chúa Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần biết mình, biết Thiên Chúa, và biết tha nhân.
- Chúng ta đừng bao giờ mạo nhận những gì chúng ta không có, cũng đừng bao giờ đánh cắp công ơn của người khác; nhưng phải biết nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
- Chúng ta phải đề phòng những kẻ Phản-Kitô và những người không sống xứng đáng với danh hiệu “Kitô hữu” của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Người phụ nữ được chọn
- Viết bởi Dân Chúa
LỄ THÁNH MARIA, MẸ THIÊN CHÚA NĂM B (01/01/2015)
(Ds 6,22-27; Gl 4, 4-7; Lc 2, 16-21)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Giáo hội Công giáo dành ngày đầu năm dương lịch để mừng lễ Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, tức mừng Mầu Nhiệm Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa nhập thể làm người. Thiên Chúa quyền năng không cần đến Đức Mẹ để thực hiện kế hoạch của Người. Nhưng trên thực tế, Thiên Chúa đã chọn một thiếu nữ Do-thái, có tên là Ma-ri-a, để Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và đến trần gian mạc khải Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa và chỉ cho loài người biết con đường đi tới hạnh phúc đích thực và trường cửu là chính Thiên Chúa.
Cùng với Đức Ma-ri-a, người phụ nữ được Thiên Chúa chọn, chúng ta hãy bước vào Năm 2015 với tâm tình biết ơn và cảm tạ đối với Thiên Chúa Tình Thương và Quyền Năng.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Ds 6,22-27): Khi chúng kêu cầu Danh Ta cho con cái Ít-ra-en, Ta sẽ ban phúc lành
(22) Đức Chúa phán với ông Mô-sê: (23) "Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này:
(24) Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)!(25) Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!(26) Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!(27) Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.”
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Gl 4,4-7): Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà.
(4) Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, (5) để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. (6) Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi !" (7) Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Lc 2,16-21): Các người chăn chiên gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se và Hài Nhi. Được đủ tám ngày, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su.
(16) Khi ấy những người chăn chiên liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
(21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
(1°) Thiên Chúa mà Sách Dân Số tường trình lại cho chúng ta là một Đấng Thiên Chúa sằn sàng che chở, bảo vệ và chúc lành cho dân. Người muốn con cái Ít-ra-en (cũ và mới) được an toàn trong sự bảo trợ và chúc phúc của Người. Người lấy làm vui mà thực hiện việc ấy!
(2°) Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô muốn cho chúng ta nhận ra trong thư gửi tín hữu Ga-lát là Đấng Thiên Chúa đã vì yêu thương mà chọn chúng ta làm con cái của Người, dù chúng ta bất xứng mọi bề. Việc chọn lựa này nằm trong Chương trình, Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, chứ không phải là việc làm ngẫu hứng. Trong Nhiệm Cục Cứu Chuộc ấy, có một người phụ nữ đóng một vai trò hết sức đặc biệt: đó là Đức Ma-ri-a thuộc làng quê Na-da-rét, xứ Pa-lét-tin, cách đây hơn hai ngàn năm!
(3°) Thiên Chúa mà Thánh Lu-ca muốn giới thiệu với thế giới là Thiên Chúa đã giáng sinh làm một trẻ sơ sinh được bọc tã nằm trong máng cỏ Bê-lem và được những người chăn chiên đến thờ lạy tôn vinh theo sự chỉ dẫn của các thiên sứ. Cùng một lúc Người là Thiên Chúa thật (x. bài đọc 1 và 2) và là người thật và cụ thể Người là một công dân Ít-ra-en, vì Người đã được hiến thánh (Xh 13,1) và được cắt bì như tất cả các con trai Ít-ra-en. Người mang tên Giê-su có nghĩa là Thiên Chúa Cứu tất cả nhân loại và của từng con người.
(4°) Trong hang đá Bê-lem cũng như trong nghi thức cắt bì và trong suốt cuộc đời của Chúa Giê-su, sự hiện diện và vai trò của Đức Ma-ri-a tuy âm thầm, kín đáo nhưng hết sức quan trọng. Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Chúa Cứu Thế, không phải vì công lao hay nhân đức của Mẹ trước mặt Thiên Chúa, mà vì Thiên Chúa muốn chọn Mẹ để thực hiện kế hoạch trọng đại là ban Con Một cho thế gian. Vì chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ Chúa Cứu Thế nên Thiên Chúa ban cho ngài những hồng ân đặc biệt như ơn vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời. Mẹ quả là người đàn bà diễm phúc!
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần:
- Một là: Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn và cuộc sống để đón nhận sự chúc lành của Thiên Chúa và hãy sống dưới sự bảo trợ đầy yêu thương và quyền năng của Người.
- Hai là: Chúng ta hãy đón nhận và sống hồng ân được làm con cái, làm nghĩa tử của Thiên Chúa và làm người thừa kế gia tài của Người.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Chúa là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sống với Chúa là Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta nơi Chúa Giê-su Hài Nhi. Sống một cách mật thiết, biết ơn và vâng phục.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là khi chúng ta thực hiện hai việc quan trọng và thiết yếu sau:
(1°) Cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa về Ơn Bảo Trợ và Ơn làm Nghĩa Tử và Thừa Kế mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
(2°) Sống và thể hiện tư cách của người được Thiên Chúa chúc phúc, bảo trợ, nhận làm con và làm người thừa kế. Cụ thể là sống giống như Chúa Giê-su Ki-tô và Mẹ Ma-ri-a đã sống với Chúa Cha và với tha nhân:
* Với Chúa Cha: sống hiếu thảo, vâng phục, tin cậy và phó thác trọn vẹn.
* Với tha nhân: sống yêu thương, quí trọng, giúp đỡ, phục vụ đến quên mình và hy sinh cả mạng sống.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!» Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước trong thế giới hôm nay, được hưởng Ơn Bình An mà Hài Nhi Giê-su đem đến cho tất cả nhân loại và cách riêng cho những người thành tâm thiện chí.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.» Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân để mọi thành phần Dân Chúa biết thể hiện tư cách làm con và làm thừa kế.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người biết ghi nhớ và suy gẫm các ơn lành Thiên Chúa đã ban cho mình trong năm vừa qua.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.» Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người chưa nhận biết Giê-su là “Thiên Chúa cứu”, để họ mở rộng tâm hồn đón nhận Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Lời chúc lành tốt đẹp nhất của Năm Mới
- Viết bởi Num 6:22-27; Gal 4:4-7; Lk 2:16-21.
Ngày 1 tháng 1, Lễ Mẹ Thiên Chúa, Năm ABC
Bài đọc: Num 6:22-27; Gal 4:4-7; Lk 2:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời chúc lành tốt đẹp nhất của Năm Mới.
Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta có thói quen chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất, tùy vào những gì mà người khác muốn nghe; chẳng hạn, đối với các thương gia: phú quí, thịnh đạt; đối với các sinh viên sắp ra trường: thành công và thắng lợi trên đường công danh; đối với nhà nông: mùa màng trù phú; đối với người bệnh: sức khỏe lành mạnh. Nhưng đâu là lời chúc tốt đẹp và hòan hảo nhất của Ngày Đầu Năm? Các tín hữu tin đó là lời chúc có được Thiên Chúa; lý do của niềm tin này: có Chúa là có tất cả. Hơn nữa, chưa chắc có được những gì người khác chúc là đã tốt lành, chẳng hạn như được trúng số mà gia đình tan nát; nhưng nếu được những gì Thiên Chúa ban, chắc chắn sẽ tốt lành cho người lãnh nhận, vì Ngài biết con người cần gì.
Các Bài đọc của Ngày Đầu Năm tập trung trong các ơn lành đến từ Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa dạy cho Aaron biết cách chúc lành cho con cái Israel: phải nhân danh Thiên Chúa, phải xin Thiên Chúa tươi mặt nhìn đến và dủ lòng thương, phải xin Thiên Chúa ghé mắt nhìn đến và ban bình an. Trong Bài Đọc II, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu của Ngài qua Mầu Nhiệm Nhập Thể: Ngài không những giải thóat con người khỏi tội, ban cho con người diễm phúc được làm nghĩa tử, và còn ban Thánh Thần để thúc đẩy con người gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Trong Phúc Âm, Thiên Chúa đã ban cho con người, đại diện qua Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và các Mục-đồng được nhìn thấy Mặt của Thiên Chúa. Vì thế, khi con người có được Thiên Chúa, được Ngài đóai thương nhìn tới, con người sẽ không còn thiếu một ân huệ nào nữa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời chúc tốt đẹp nhất: Xin Thiên Chúa đóai thương nhìn tới anh em!
1.1/ Phải nhân danh Thiên Chúa mà chúc lành: Đức Chúa phán với ông Moses: "Hãy nói với Aaron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Israel, anh em hãy nói thế này: "Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!””
Theo truyền thống Do-Thái, tên là người. Danh của Thiên Chúa, Yaweh, đồng nhất với lòng thương xót, sự tốt lành, và sự bình an. Khi Thiên Chúa hiện ra với ông Moses, Người đã mặc khải tên này cho Moses. Khi chúng ta lấy tên ai để kêu cầu, chúng ta muốn đặt những lời cầu xin dưới sự bảo trợ của người đó; chẳng hạn, khi chúng ta kết thúc lời cầu xin bằng câu: “chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen;” là chúng ta đặt lời cầu dưới sự bảo trợ của Đức Kitô. Trong đọan văn hôm nay, Thiên Chúa cũng bảo đảm điều này: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.”
1.2/ Xin Thiên Chúa ghé mặt nhìn tới: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!" Truyền thống Do-Thái tin: Chúa nhìn thấy con người, nhưng con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Ai nhìn thấy Thiên Chúa sẽ phải chết. Khi Chúa nhìn đến ai, người đó được Ngài chúc lành; ví dụ, Mẹ Maria ca ngợi Thiên Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đóai thương nhìn tới.” Ngược lại, khi Thiên Chúa ngỏanh mặt đi, hay nhìn đến với nét mặt không tươi, người đó bị chúc dữ.
2/ Bài đọc II: Chúa Giêsu làm cho con người nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
2.1/ Thiên Chúa cho Con của Người nhập thể để cứu chúng ta khỏi Lề Luật: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.”
Tại sao phải cứu con người thóat khỏi Lề Luật? Vì Lề Luật mà con người phạm tội, không chu tòan những gì Lề Luật dạy. Hậu quả của tội là sự chết. Con người không thể nên công chính trước mặt Thiên Chúa bằng Lề Luật. Để cứu con người thóat khỏi sự chết, hậu quả của Lề Luật, Thiên Chúa đã cho Người Con nhập thể trong cung lòng một con người, Đức Mẹ Maria, để sinh ra làm người. Chính Người Con này sẽ gánh tất cả tội cho con người; vì thế, con người có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Khi Người Con cất đi mọi tội, Ngài đã vô hiệu hóa Lề Luật - làm cho Lề Luật không còn giam hãm con người nữa.
2.2/ Thiên Chúa nhận chúng ta làm nghĩa tử qua Chúa Giêsu: Không những chỉ giải phóng con người khỏi tội, Chúa Giêsu còn ban cho con người muôn vàn ân phúc qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Thánh Phaolô nói: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Abba, Cha ơi!" Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
(1) Ơn làm con Thiên Chúa: Nhờ Chúa Giêsu, con người trở thành những người con của Thiên Chúa bằng niềm tin vào Đức Kitô, như Thánh Gioan nói: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Jn 1:12-13). Đã là con, cũng là người thừa kế. Con người được thừa hưởng tất cả những gì Thiên Chúa ban qua Đức Kitô, nhất là ơn được sống đời đời.
(2) Các ơn của Chúa Thánh Thần: Để có thể tin vào Đức Kitô, và gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! con người phải được Chúa Thánh Thần tác động. Nếu đã có Thánh Thần, con người sẽ không thiếu những ơn lành của Ngài, cách cụ thể là 7 ơn của Chúa Thánh Thần.
3/ Phúc Âm: Các Mục-đồng đến thờ lạy Hài Nhi.
3.1/ Ba phản ứng của các Mục-đồng: Sau khi được các Thiên-thần loan báo Tin Mừng, các Mục đồng đã đáp lại bằng 3 phản ứng:
(1) Họ đi tìm và đã thấy: Trình thuật kể: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà Maria, Ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.” Con người chúng ta cũng phải hối hả và nhiệt thành như các Mục-đồng trong việc tìm kiếm Thiên Chúa; vì nếu không lên đường đi tìm, làm sao chúng ta có thể thấy Ngài được. Yếu điểm của nhiều người chúng ta là nhiệt thành tìm kiếm mọi điều, nhưng không nhiệt thành trong việc tìm kiếm và học hỏi về Thiên Chúa. Với một thái độ như thế, không lạ gì khi chúng ta vẫn còn xa cách Thiên Chúa vạn dặm!
(2) Họ tôn vinh ca tụng tình yêu Thiên Chúa: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.” Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa. Các Mục-đồng chắc chắn đã được Hài Nhi cho cảm nghiệm được tình yêu này, khi họ chiêm ngắm Ngài. Chúng ta đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa khi chiêm ngắm Hài Nhi trong máng cỏ chưa?
(3) Phải rao giảng và làm chứng cho tình yêu này: “Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.” Một khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành khí cụ ca rao tình yêu của Thiên Chúa cho muôn người. Thánh Phanxicô Khó Khăn chỉ có thể hát lên “Kinh Hòa Bình” sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho ngài. Nếu các tín hữu đều phản ứng như các Mục-đồng hôm nay, chẳng mấy chốc mọi con người trong thế giới này sẽ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.
3.2/ Mẹ Maria ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy để suy đi nghĩ lại trong lòng: Một gương sáng Đức Mẹ dạy cho con người: đứng trước Mầu Nhiệm Nhập Thể, chúng ta đừng nói nhiều, nhưng hãy ghi nhận mọi sự kiện xảy ra và suy niệm trong lòng. Như một con người, có rất nhiều điều Mẹ có thể hỏi và kêu ca trách Thiên Chúa trong ngày sinh của Chúa Giêsu; chẳng hạn: Con Thiên Chúa mà lại sinh ra trong cảnh khó nghèo như vậy sao? Uy quyền của Thiên Chúa đâu mà để cho Con Ngài mới sinh ra đã phải chạy nạn rồi? Không phải chỉ lúc sinh con, nhưng trong suốt cả cuộc đời, Mẹ đã chứng kiến cuộc sống của Chúa Giêsu: khi thì rất uy quyền làm các phép lạ như tại tiệc cưới Cana, khi thì cô đơn bại trận như lúc sinh thì trên Thánh Giá. Mẹ có thể hỏi Thiên Chúa những lý do tại sao, nhưng Mẹ đã chọn sự thinh lặng và hòan tòan tin tưởng vào Kế Họach và tình yêu của Thiên Chúa cho gia đình Mẹ.
3.3/ Đặt tên cho con trẻ là Jesus: Tên Jesus trong tiếng Do-Thái có nghĩa là “Jaweh cứu thóat,” đó là tên mà Sứ-thần đã truyền đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ (Lk 1:31). Trong Cựu-Ước, cũng có một nhân vật mang tên này là Thủ Lãnh Joshua. Ông được chọn để thay Moses mang dân vào Đất Hứa (Num 13:6). Giống như Joshua, Chúa Giêsu cũng được Chúa Cha tuyển chọn để cứu nhân lọai khỏi tội, và mang họ đế cuộc sống đời đời trên Thiên Đàng. Khi ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã sống đúng với Danh của Ngài là Thiên Chúa Thương Xót.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta hãy dùng danh Đức Kitô mà chúc cho nhau được Thiên Chúa đóai thương nhìn tới.
- Vì Thiên Chúa đóai thương, nên Người ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, để gánh tội và để cho chúng ta thành những người con của Ngài.
- Thuở xưa, con người không được phép nhìn mặt Thiên Chúa; nhưng qua Biến Cố Nhập Thể, con người có thể chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa qua khuôn mặt của Chúa Hài Nhi.
- Với nền kinh tế bấp bênh của thế giới và của quốc gia chúng ta đang định cư, chúng ta không biết tương lai sẽ thế nào; nhưng chúng ta biết chắc chắn một điều: “những người được Thiên Chúa đóai thương, sẽ chẳng thiếu chi những điều tốt lành và bình an.”
- Cầu chúc quí khán giả khắp nơi luôn hăng hái nhiệt thành trong việc học hỏi Lời Chúa, và luôn sống trong tình yêu và ơn thánh của Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Những kẻ Phản-Kitô là những người từ chối tiếp nhận Đức Kitô
- Viết bởi I Jn 2:18-21; Jn 1:1-18.
Ngày 31 tháng 12, BNGS
Bài đọc: I Jn 2:18-21; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những kẻ Phản-Kitô là những người từ chối tiếp nhận Đức Kitô.
Đối diện với sự xuất hiện của Đức Kitô, con người buộc phải tỏ thái độ: tin hay không tin. Tùy thuộc vào thái độ này, con người tự chọn cho mình phải hư đi hay đạt tới cuộc sống đời đời. Thiên Chúa không cần phán xét con người, nhưng Ngài để cho con người tự phán xét lấy. Điều này đã rõ ràng trong Tin Mừng Gioan: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Jn 3:16-18).
Các bài đọc hôm nay xoay chung quanh việc từ chối tiếp nhận Đức Kitô. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan đề cập đến những kẻ Phản-Kitô và cuộc giao chiến cuối cùng của các Kitô hữu với những kẻ này. Trong Phúc Âm, Thánh Gioan tường thuật hai phản ứng của con người khi Ngôi Lời xuất hiện: (1) Có những kẻ từ chối tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Jn 1:10-11). (2) Nhưng nếu ai tiếp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (Jn 1:12).
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cuộc chiến cuối cùng với những kẻ Phản-Kitô
1.1/ Cuộc chiến với những kẻ Phản-Kitô:
(1) Giờ cuối cùng là khi nào? Có 2 ý kiến khác nhau:
- Thời gian trước Ngày Tận Thế: Từ thời các Tông-đồ, con người luôn cố gắng đóan xem khi nào Ngày Tận Thế xảy ra: Thánh Phaolô trong Thư gởi tín hữu Thessalonica I đã tiên đóan Ngày này sẽ xảy ra trong tương lai gần; nhưng sau đó, ngài đã xét lại sự tiên đóan này trong các Thư: Thessalonica II, chương 2; và Corintô I, chương 7.
- Thời gian từ lúc Đấng Cứu Thế đến cho tới Ngày Tận Thế: Đây là ý kiến được đa số công nhận hơn vì được Chúa Giêsu nói tới nhiều lần trong các Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: Ngày ấy chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng khi nào xảy ra không ai biết, trừ một mình Thiên Chúa Cha. Vì không ai biết khi nào Ngày đó xảy ra, nên mọi người phải luôn chuẩn bị.
(2) Ai là kẻ Phản-Kitô? Giới từ anti có 2 nghĩa trong tiếng Hy-Lạp: chống lại hay thay chỗ của. Vì thế từ Phản-Kitô cũng có 2 ý nghĩa:
- Kẻ chống lại Đức Kitô: những ai trực tiếp và đơn giản chống lại Ngài, chẳng hạn: các bè rối chống thiên tính hay nhân tính của Đức Kitô hay Con Thú trong Sách Khải Huyền.
- Kẻ muốn thay thế chỗ của Đức Kitô: những ai muốn thay thế chỗ của Đức Kitô cách gián tiếp và không minh bạch, chẳng hạn: thay vì chỉ cho mọi người tới với Chúa, họ lợi dụng những gì Chúa nói để chỉ vào mình hay từ từ đưa con người xa Chúa.
1.2/ Dấu để nhận ra kẻ Phản-Kitô:
(1) Là người ở giữa chúng ta: không phải là quỉ vương ra đời như nhiều người lầm tưởng. Thánh Gioan chỉ rõ: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta; vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: không phải ai ai cũng là người của chúng ta.” Vì kẻ Phản-Kitô lẫn lộn trong cộng đồng, nên các tín hữu cần cẩn thận đề phòng, vì khó nhận ra họ.
(2) Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra kẻ Phản-Kitô: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết. Tôi đã viết cho anh em, không phải vì anh em không biết sự thật, nhưng vì anh em biết sự thật, và vì không có sự dối trá nào phát xuất từ sự thật.” Chúa Thánh Thần là sự thật, chính Ngài sẽ giúp các tín hữu nhận ra ai là kẻ Phản-Kitô.
2/ Phúc Âm: Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Người.
2.1/ Ngôi Lời tỏ mình cho thế gian: Thánh Gioan nêu ra ít là 3 cách Ngôi Lời đã tỏ mình:
(1) Trong việc tạo dựng: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” Con người có thể nhận ra Thiên Chúa qua việc tạo dựng và quan phòng.
(2) Qua nhân chứng Gioan: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” Gioan Tẩy Giả là nhân chứng đã biết và đã chỉ cho dân chúng thấy khi Ngài xuất hiện: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Jn 1:29).
(3) Qua biến cố Nhập Thể: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.” Các Tông-đồ đã nhìn thấy Ngôi Lời bằng xương thịt. Ngài đã ở giữa họ, đã dạy dỗ, và đã làm bao phép lạ để chứng tỏ uy quyền của Ngài. Thánh-sử Gioan làm chứng cho chúng ta, những người không có kinh nghiệm nhìn thấy Chúa, trong cả Phúc Âm và Thư của ngài.
2.2/ Phản ứng của con người: Có 2 phản ứng chính:
(1) Từ chối và không tin Ngài: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” Có những người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc tạo dựng. Họ cũng chẳng nhận ra Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau cùng, họ cũng chẳng tin vào lời các người làm chứng cho Thiên Chúa. Thời của Chúa cũng như thời nay, vẫn có những hạng người này.
(2) Tiếp nhận và tin vào Ngài: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin vào Đức Kitô để được làm con Thiên Chúa và để đạt được cuộc sống đời đời.
- Con người tự phán xét lấy mình trong việc lựa chọn tin hay không tin vào Đức Kitô.
- Chúng ta phải cẩn thận đề phòng những kẻ Phản-Kitô: những người từ chối Đức Kitô, những người mạo nhận danh nghĩa của Ngài, và những người muốn thay Ngài bằng những điều khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Chúng ta được trang bị đầy đủ để sống theo ý của Thiên Chúa
- Viết bởi I Jn 2:12-17; Lk 2:36-40.
Ngày 30 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:12-17; Lk 2:36-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng ta được trang bị đầy đủ để sống theo ý của Thiên Chúa.
Một lầm lẫn lớn nhất của con người là tội chạy theo các lòai thụ tạo Thiên Chúa dựng nên thay vì chạy theo Chúa, Người dựng lên chúng. Nếu con người chịu khó suy nghĩ, họ có thể nhận ra sự phi lý của lối sống này: Làm sao những thụ tạo có thể so sánh với Đấng đã tạo dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng? Mục đích Thiên Chúa tạo dựng lên chúng không phải để cho con người thờ phượng chúng, nhưng để con người biết dùng chúng như phương tiện để sinh sống trong những ngày còn sống trên dương gian mà thôi. Nhiều người tức cười khi thấy có người quỳ lạy con bò; nhưng chính họ nhiều khi đang tôn thờ “bò vàng” mà họ không hay biết!
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải hết lòng từ bỏ lối sống theo kiểu thế gian, và tập sống theo ý của Thiên Chúa. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan xác quyết Thiên Chúa đã trang bị cho con người đầy đủ những khí cụ cần thiết để có thể thắng vượt được những cám dỗ của thế gian và sống theo ý của Thiên Chúa. Gioan liệt kê một số các khí cụ như: sự chiến thắng của Đức Kitô, ơn tha tội, Lời Chúa. Trong Phúc Âm, Thánh Luca cho chúng ta tấm gương của một nữ ngôn sứ biết sống theo ý Thiên Chúa: Bà Anna, con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa trang bị mọi sự cho con người.
1.1/ Những hồng ân con người đã lãnh nhận từ Đức Kitô: Thánh Gioan liệt kê 3 điều chính:
(1) Ơn tha tội nhờ Danh Đức Kitô: Nhờ cái chết của Đức Kitô, Ngài đã xóa đi tội Tổ Tông và mọi tội con người đã, đang, và sẽ phạm. Không những thế, Ngài còn thiết lập Bí-tích Hòa Giải và ban quyền tha tội cho các Tông-đồ và những người kế vị các Ngài. Điều Ngài đòi hỏi nơi các tín hữu là năng xét mình và chạy đến với Bí-tích Hòa Giải để được tha tội.
(2) Biết Đức Kitô, Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu: Nhờ sự mặc khải của Kinh Thánh và của Đức Kitô, con người biết Ba Ngôi Thiên Chúa và tất cả các việc Thiên Chúa làm, nhất là Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người. Một đời sống cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa sẽ làm cho con người càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa hơn.
(3) Đã thắng ác thần: nhờ chiến thắng của Đức Kitô và nhờ Lời Thiên Chúa ở lại trong anh em. Vì Đức Kitô đã chiến thắng mọi quyền lực của ác thần (Satan) và của thế gian (giới cai trị), con người được giải thóat khỏi mọi quyền lực này.
1.2/ Lối sống theo thế gian và lối sống theo ý Thiên Chúa:
(1) Lối sống theo thế gian: Trước tiên, Thánh Gioan không có ý khinh thường thế gian vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều tốt. Hơn nữa, Thánh Gioan còn nói: “Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã hy sinh Người Con Một của mình” (Jn 3:16). Điều ngài muốn nhấn mạnh ở đây là các khuynh hướng xấu của thế gian đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa.
- Những dục vọng của tính xác thịt: không chỉ giới hạn trong những ham muốn về tình dục, mà còn cả những ham muốn khác nữa như: danh vọng, quyền hành, của cải, và các thú vui làm con người không còn thời giờ cho Chúa, và ngăn cản con người trên đường về với Chúa.
- Những ham muốn của đôi mắt: Con mắt là cửa sổ của linh hồn, vì qua đó các hình ảnh được thâu nhận vào trí óc. Khi có dịp thuận tiện, các hình ảnh này sẽ thao túng linh hồn và làm cho con người phải khốn đốn. Hai điều răn thứ chín và thứ mười là tội liên quan đến con mắt, vì từ chỗ nhìn ngắm sẽ đưa tới chỗ tham muốn. Để tránh những tội này, điều con người có thể tránh là “ăn chay” con mắt. Với phương diện truyền thông liên mạng hiện nay, việc ăn chay con mắt càng cần hơn bao giờ hết.
- Thói ba hoa chích chòe, hay tiếng thời đại quen dùng “nổ”: Bản dịch của Nhóm PVCGK không sát nghĩa khi dịch: “thói cậy mình có của,” vì tiếng Hy-Lạp dùng từ avlazonei,a, có nghĩa ám chỉ không những cậy mình mà còn cậy vào cái mình không có. Câu truyện sau đây dẫn chứng sự hợm hĩnh của lọai người này: Có một bà mới khai trương cửa hiệu của mình. Khi Bà thấy một người kéo cửa vào tiệm, Bà vội bốc điện thọai lên và khoe tiệm ầm ĩ, với mục đích để cho người mới vào biết tiệm Bà tuy mới mở nhưng đông khách là chừng nào. Sau một hồi khoe khoang khóac lác, Bà bỏ điện thọai xuống và hỏi khách hàng cần gì; người ấy thưa ông là nhân viên của hãng điện thọai xuống để nối đường giây điện thọai cho Bà. Lúc ấy, mặt Bà đỏ ửng lên vì biết người đối diện đã biết “tẩy”của Bà.
(2) Lối sống theo ý Thiên Chúa: là ngược lại hòan tòan với lối sống theo thế gian vì “tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.” Thánh Gioan khuyên: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha.”
2/ Phúc Âm: Mẫu gương của những người biết sống và làm theo ý Thiên Chúa.
2.1/ Cuộc đời của Bà Ngôn-sứ Anna: Bà con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Một cuộc sống quanh quẩn nơi Đền Thờ như thế đã giúp Bà nhận ra những gì là chính yếu hay phụ thuộc trong cuộc đời. Khi được Thánh Thần thúc đẩy cho nhận ra Đấng Cứu Thế, Bà tiến lại gần bên Gia Đình Thánh, Bà cảm tạ Thiên Chúa và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jerusalem.
2.3/ Gia đình Thánh trở về Nazareth: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nazareth, miền Galilee. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” Thánh Giuse trở về với công việc của người thợ mộc để kiếm tiền nuôi sống gia đình, chứ không xin Thiên Chúa làm phép lạ để có tiền cho Chúa Giêsu ăn học. Mẹ Maria trở về với công việc nội trợ để chăm sóc cho Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong suốt 30 năm Ngài sống trên dương thế. Riêng Chúa Giêsu, tuy là Thiên Chúa, Ngài đã ẩn mình trong 30 năm bên Thánh Giuse và Đức Mẹ: vâng lời và giúp đỡ các Ngài, và chuẩn bị trước khi bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng. Cả ba thành phần của Gia Đình Thánh đều sống âm thầm thực hiện ý Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn thờ phượng một mình Thiên Chúa, và đừng bao giờ để những cám dỗ của thế gian lôi kéo chúng ta xa Ngài.
- Một cách để chúng ta nhận ra nếu chúng ta đã làm điều này chưa là năng kiểm điểm cuộc sống, nhất là thời giờ và những nỗ lực chúng ta dành cho Thiên Chúa. Nếu chúng ta bận rộn làm ăn đến nỗi chúng ta không còn thời giờ để cầu nguyện, tham dự Thánh-lễ, và tham gia các họat động mở mang Nước Chúa; chúng ta đang chạy theo các thần không phải là Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Biết Thiên Chúa là bước đi trong đường lối của Ngài
- Bí quyết để có một gia đình Thánh
- Mừng lễ Thánh Gia Thất trong bối cảnh hôm nay
- Thánh Gioan làm chứng cho Thiên Chúa
- Thánh Stephanô là người đầu tiên đổ máu
- Thiên Chúa họat động trong lịch sử con người
- ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH NĂM B (25/12/2014)
- Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa
- Gioan là sứ giả dọn đường cho Thiên Chúa
- Nhận biết và cám ơn Thiên Chúa