Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Nguyễn Cao Siêu
Lời Chúa: Lc 12, 13-21
Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu". Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Đoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".
Suy Niệm 1: Ðiều Chỉnh Hướng Ði
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể một truyện ngụ ngôn như sau: Ngày kia, một người phú hộ gọi người đầy tớ trung thành nhất đến và nói:
Tôi muốn thưởng lòng trung thành của anh; ngày mai, từ lúc mặt trời mọc, anh hãy ra đi, và tính cho đến lúc mặt trời lặn, bao nhiêu dặm anh đi được là bấy nhiêu dặm đất thuộc về anh.
Con người khốn khổ bao năm sống nhờ ông chủ giầu có tưởng mình đang mơ. Tối đó anh không sao chợp mắt được, chỉ mong trời mau sáng để lên đường. Khi ánh dương vừa ló rạng, anh đã hăm hở ra đi. Anh cố gắng đi thật nhanh, nhưng vẫn không thỏa mãn với tốc độ đi, thế là anh liền chạy. Càng nhìn lại quãng đường đã qua, anh càng chạy nhanh hơn, vừa chạy vừa mơ: rồi đây anh sẽ có nhiều đất đai, sẽ giầu có hơn người, sẽ không còn phải sống cảnh đầy tớ nữa; càng mơ, anh càng chạy. Giữa trưa nắng, anh cũng không màng đến chuyện ăn và nghỉ ngơi lấy sức, anh không muốn mất một tấc đất nào. Chiều đến, khi những tia nắng tắt, anh dừng lại và reo lên: "Ðây là đất của ta, ta sẽ có tất cả cho ta, cho gia đình, cho tương lai". Thế nhưng, chính lúc thốt lên câu đó, anh thấy mắt mình hoa lên, tay chân không cử động và tim cũng ngừng đập. Ngày hôm sau, người ta chôn cất con người khốn khổ ấy trong hai thước đất, khoảng đất vừa đủ cho một con người.
Nỗi khốn khổ của người đầy tớ trên đây chính là sự khờ khạo của anh; anh khờ khạo đến độ không nhận ra cái bẫy người giầu giăng ra, cũng như không đo lường được sức mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng gọi những kẻ giầu có là ngu dại. Cái ngu dại của người phú hộ trong dụ ngôn là không thể nhìn xa hơn cái kho lẫm mà ông tự xây cất để giam hãm mình vào; cái ngu dại của ông là không biết mình có đem theo được của cải nào sau khi chết hay không?
Kẻ ngu dại nói chung là kẻ sống mà không biết mình đang đi về đâu, không biết đâu là ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Kẻ ngu dại là kẻ lấy phương tiện cuộc sống làm cùng đích đời người; họ chạy theo quyền lợi, danh vọng, tiền bạc, họ chối bỏ tiếng lương tâm để làm điều phi pháp; họ chà đạp người khác để đạt danh vọng, quyền bính.
Cuộc sống hiện tại có thể là một cạm bẫy. Những giành giựt mưu sinh có thể biến chúng ta thành kẻ ngu dại, chỉ nhìn thấy chén cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống. "Cái khó không những bó cái khôn", mà còn trói buộc lòng quảng đại của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh hướng đi. Hướng đi của những người có niềm tin phải là hướng đi về những giá trị của Tin Mừng và cùng đích của cuộc đời. Giữa chợ đời tranh chấp bon chen, người có niềm tin sẽ bị xem là kẻ mát mát, khờ dại, nhưng điều người đời cho là khờ dại chính là lẽ khôn ngoan, là luận lý của Thiên Chúa.
Dù phải lội ngược dòng để trung thành với những giá trị Nước Trời, chúng ta cũng hãy can đảm tiến bước và tín thác vào Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Đêm Nay Đòi Mạng Ngươi
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu.” (Lc. 12, 15)
Đức Giêsu đến thế gian để lo thực hiện công việc của Cha Người: “Của nuôi Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công việc của Ngài”. Người loan báo nước trời đã đến rồi, phải sám hối trở về kẻo quá trễ. Thời giờ gấp lắm rồi.
Có một người đến xin Đức Giêsu bảo anh mình chia gia tài cho mình. Chúng ta tất cả cũng giống như anh đó thường xin Người giúp đỡ cho những nhu cầu của chúng ta hàng ngày. Đức Giêsu không được Thiên Chúa sai đến để lo giải quyết những công việc đời này. Thánh ý Thiên Chúa là muốn Người loan báo Tin mừng cứu độ cho người nghèo khổ. Đó mới là khẩn thiết! Người không để bị phân tán về những việc theo đuổi của cải thế gian. “Coi chừng!” đời sống đời đời của mỗi người không được của cải bảo đảm đâu. Thay vì trì hoãn để tham lam thu góp giàu sang thế gian, hãy lo chuẩn bị đón nhận nước trời.
Chúng ta đều biết tất cả mọi của cải dễ gây rắc rối bấn loạn. Những người tham quyền, tham giàu, tham danh, hưởng lạc, tự do buông thả, của cải dù bất chính hay chính đáng không bao giờ thỏa mãn dục vọng cho đã, cho sung sướng, vui chơi thỏa thích đâu. Họ không lo đến ngày mai. Họ muốn tất cả, do đó chắc chắn bằng bạo lực hay bằng sức cố gắng riêng và kiệt lực đến bất nhẫn. Họ thật vô phúc như sách Khôn ngoan nói: Chúng bôn ba vội vã hưởng lạc nhờ của hiện có và phung phí của thiên tạo như thời thanh xuân trác táng. Đức Giêsu bảo: “Đồ ngốc, đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi”, và sau đó còn gì …?
Lúc thuận cũng như lúc nghịch, Đức Giêsu thường nhắc tới tính chất mỏng dòn của đời sống, đặc biệt đối với kẻ tưởng mình được ổn định. Cái chết thường xuyên xẩy đến, nhất là lúc chúng ta không ngờ. Cần phải tích trữ những kho tàng trên trời bằng sám hối, cầu nguyện, ăn chay và bố thí trước kẻo quá trễ.
RC
Suy niệm 3:
Cái kho là quan trọng. Kho bạc quan trọng đối với một đất nước. Kho lẫm cần cho người làm nghề nông.
Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng. Có thể là một tủ sắt để trong nhà hay ở ngân hàng. Mọi lợi nhuận đều thu vào kho. Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng. Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì những kho cũ không đủ sức chứa nữa. Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này: phá những kho cũ, làm những kho mới lớn hơn, rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó, khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm.
Khi nhà kho đã an toàn thì tương lai của ông vững vàng ổn định. Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm. Những cái kho lớn cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống. Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần đến ai. Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc. Những cái kho là nơi ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34).
Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy. Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở. Kho không phải là chỗ chia sẻ cho người khác. Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho. Ông sống với cái kho, sống nhờ cái kho. Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Cái kho không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay.
Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho. Có thể chúng ta ôm mộng làm giàu hay đang giàu lên, chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới. Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này. Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu. “Nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15).
Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình, để kho không phải chỉ là nơi tích trữ cho tôi, nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân.
Ðừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích. Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa là người biết mở kho để trao đi và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại. Làm thế nào để khi ra trước toà Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn vì vừa mới cho đi tất cả.
Nguyễn Cao Siêu
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 27 TN1, Năm B
Bài đọc: Joe 4:12-21; Lk 11:27-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy biết chuẩn bị cho Ngày Chung Thẩm.
Hầu hết mọi người sống trong cuộc đời đều tin "ác giả, ác báo;" người làm sự ác sẽ phải đền tội của họ. Người Kitô Giáo cũng thế, chúng ta tin Thiên Chúa sẽ đến và phán xét tất cả mọi người; sau đó, người sống cuộc đời công chính sẽ được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, còn kẻ gian ác sẽ bị tiêu diệt muôn đời. Để chuẩn bị cho Ngày Phán Xét, liên hệ trên danh nghĩa là Kitô hữu không đủ để cứu chuộc con người; nhưng cách chuẩn bị thích hợp là lắng nghe và làm theo thánh ý Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người hai điều phải làm để chuẩn bị Ngày đó. Trong Bài Đọc I, tiên tri Joel khuyên con cái Israel phải luôn nhớ đến Ngày này, để biết cách sống làm sao cho thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Chỉ có ai thoát khỏi Ngày này mới có hy vọng được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, khi một người phụ nữ trong hàng khán giả khen người Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, Ngài thắp lên cho mọi người niềm hy vọng: những ai lắng nghe và thực hành Lời Chúa còn có phúc hơn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đoàn này nối tiếp đoàn kia trong cánh đồng Chung Thẩm.
1.1/ Đức Chúa sẽ phán xét mọi dân tộc trong cánh đồng Josaphat: Tiên tri Joel tuyên sấm trước những gì sẽ xảy ra trong Ngày Chung Thẩm: "Các dân nước hãy bắt đầu di chuyển, tiến lên cánh đồng Josaphat, vì tại đó Ta sẽ ngự toà xét xử mọi dân nước chung quanh. Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín. Hãy đến mà đạp nho vì bồn ép đã đầy, bồn chứa đã trào ra, vì sự gian ác của chúng quá nhiều. Đoàn này nối tiếp đoàn kia trong cánh đồng Chung Thẩm, vì Ngày của Đức Chúa đã gần kề, trong cánh đồng Chung Thẩm.''
Josaphat là thung lũng Kidron hiện nay, nằm giữa Thành Jerusalem và Núi Cây Dầu. Tên của cánh đồng, Josaphat hay Jehosaphat, tiếng Do-thái có nghĩa "Thiên Chúa sẽ phán xét." Truyền thống Do-thái, dựa vào lời của tiên-tri Joel, tin Ngày Phán Xét sẽ xảy ra nơi đây; nên hầu hết dân Do-thái, người Hồi-giáo, và ngay cả người của các dân tộc khác cũng tìm mọi cách để được chôn cất nơi này. Mọi người có lẽ muốn khỏi phải chờ đợi và chứng kiến cảnh phán xét chung cuộc. Rất nhiều những ngôi mộ được chôn trong cánh đồng này.
1.2/ Hậu quả của Ngày Chung Thẩm: Ngày Chung Thẩm là một ngày đáng sợ, vì là ngày mà tất cả những ai đã làm điều gian ác phải đối diện với cơn thịnh nộ của Thiên Chúa; bên cạnh đó, còn xảy ra những hiện tượng kinh hồn trong thiên nhiên, mà Joel mô tả như sau: "Mặt trời mặt trăng mờ tối đi, các vì sao chẳng còn chiếu sáng. Từ Sion Đức Chúa gầm lên, từ Jerusalem tiếng Người vang dội, trời và đất chuyển rung." Sau khi phán xét các dân tộc và mọi người, hậu quả sẽ xảy ra như sau:
(1) Người công chính sẽ được sống an bình hạnh phúc: ''Đức Chúa là nơi cho dân Người nương náu, là nơi trú ẩn cho con cái Israel. Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi, Đấng ngự tại Sion, núi thánh của Ta. Jerusalem sẽ là nơi thánh, người ngoại quốc sẽ chẳng còn qua đó nữa. Ngày ấy, núi non sẽ tiết ra nước nho, đồi nương sẽ chảy sữa tràn trề, từ mọi khe suối Judah, nước sẽ tuôn trào cuồn cuộn. Một mạch nước từ Nhà Đức Chúa sẽ vọt ra tưới thung lũng Shittim.''
Truyền thống Do-thái tin chỉ có họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, và khi Đấng Thiên Sai tới, Ngài sẽ dẹp tan các dân nước và lên ngôi cai trị họ ngay tại trái đất này. Quan niệm về Thiên Đàng hay về đời sau, chỉ rõ ràng với mặc khải của Đức Kitô sau này. Shittim nằm về phía Đông Bắc của Biển Chết, trong thung lũng Moab, nơi mà con cái Israel dừng chân trước khi băng qua sông Jordan chiếm thành Jericho để vào Đất Hứa.
(2) Kẻ gian ác sẽ phải đền tội của họ: Trong khi Dân Chúa được hưởng hạnh phúc, tất cả các quốc gia lân bang của Israel sẽ bị trừng phạt: ''Ai-cập sẽ nên chốn hoang tàn, Edom sẽ trở thành sa mạc hoang vu, vì chúng đã dùng bạo lực sát hại con cái Judah: chúng đã đổ máu người vô tội trên đất của họ. Nhưng Judah sẽ có người ở mãi mãi, Jerusalem sẽ có người ở đến muôn đời. Ta sẽ trả thù cho máu của họ, Ta sẽ không bỏ qua mà không trừng phạt chúng.''
2/ Phúc Âm: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.
2.1/ Phúc đức tại mẫu: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!" Người Việt-Nam cũng quan niệm giống như người phụ nữ này khi nói "phúc đức tại mẫu." Người con được khôn ngoan, thánh thiện, tài giỏi là do công ơn của bà mẹ đã 9 tháng cưu mang, 3 năm bú mớm. Không phải chỉ có người phụ nữ trong trình thuật này nhận ra diễm phúc của Đức Mẹ, sứ thần Gabriel cũng chào Đức Mẹ trong giây phút Truyền Tin: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà" (Lk 1:28). Bà Elisabeth, người chị họ của Đức Mẹ, cũng đã thốt lên: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc" (Lk 1:42).
2.2/ Lời tuyên bố của Chúa Giêsu: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa." Thoạt nghe những lời này, một người có thể cho là lời khinh thường Đức Mẹ, vì Chúa đối xử với Đức Mẹ cũng như đối xử với những người khác, chẳng có gì đặc biệt hơn. Nhưng cuộc đời Đức Mẹ đúng là cuộc đời mà cụ già Simeon đã tiên báo: "Còn phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà" (Lc 2:35). Đức Mẹ cũng phải đồng công chịu đựng đau khổ với Chúa. Trong mọi biến cố, Đức Mẹ không bao giờ mở miệng trách Thiên Chúa; nhưng luôn lắng nghe Ngài và giữ mọi sự trong lòng để suy niệm (Lk 2:52). Giống như khi Chúa Giêsu tuyên bố: "Mẹ Ta và anh em Ta là những kẻ lắng nghe và thực hành Lời của Thiên Chúa;" Ngài không khinh thường Đức Mẹ, vì Đức Mẹ chẳng những là Mẹ Chúa về phương diện liên hệ ruột thịt, mà còn là Mẹ theo tiêu chuẩn Chúa muốn là trọn đời làm theo ý Chúa.
Mọi người đều có cơ hội trở nên mẹ, anh/chị/em của Chúa: Đây là điều đáng mừng cho tất cả chúng ta, vì Chúa Giêsu cho mọi người đều có cơ hội bình đẳng để trở nên người thân thiết với Ngài. Từ chối không nghe hay không thực hành Lời Chúa là cách duy nhất không được trở nên mẹ và anh/chị/em của Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi làm bất cứ hành động gì trong cuộc đời, chúng ta phải luôn tâm niệm hậu quả của nó sẽ ảnh hưởng đến chúng ta trong Ngày Phán Xét. Điều này sẽ giúp chúng ta biết "làm lành, tránh dữ."
- Ngày Chung Thẩm chắc chắn sẽ đến. Trong Ngày này, Thiên Chúa sẽ phán xét mọi người và mọi dân tộc. Hậu quả xảy ra là người công chính sẽ được sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa; trong khi kẻ gian ác sẽ bị tiêu diệt muôn đời.
- Để chuẩn bị cho Ngày Chung Thẩm, chúng ta cần dành thời gian để học hỏi những gì Thiên Chúa muốn chúng ta làm, và phải cố gắng hết sức để thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 27 TN1, Năm B
Bài đọc: Joe 1:13-15, 2:1-2; Lk 11:15-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.
Làm việc gì con người cũng phải chuẩn bị thì mới có thành công được; nếu không chịu chuẩn bị, thất bại chắc chắn sẽ xảy ra. Việc càng lớn đòi hỏi con người càng phải chuẩn bị kỹ càng hơn. Đức Kitô luôn khuyên bảo các môn đệ phải biết tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho Ngày Chúa đến lần thứ hai.
Các Bài Đọc hôm nay dạy mọi người phải luôn biết chuẩn bị. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Joel kêu gọi toàn thể con cái Israel, từ tư tế đến dân chúng, phải rúc tù và long trọng tuyên bố mùa chay thánh để chuẩn bị đón Ngày mà Đấng Thiên Sai sẽ đến. Trong Phúc Âm, vì không chịu chuẩn bị nên một số người chẳng những không nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài trục xuất một quỉ câm, lại còn mạ lỵ Ngài "dùng quyền năng của quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ." Chúa Giêsu cũng cảnh cáo các môn đệ phải luôn biết chuẩn bị tâm hồn cho có Chúa; nếu không, quỉ thần sẽ kéo đến ngày càng nhiều và tình trạng tâm hồn sẽ càng ngày càng bi đát hơn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ôi, Ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề!
1.1/ Hãy chuẩn bị cho Ngày Thiên Chúa đến: Sách tiên-tri Joel được viết sau Thời Lưu Đày (khoảng 400-350 BC). Đây là thời gian mà truyền thống Do-thái, dựa vào lời sấm của các tiên-tri, tin Ngày Đấng Thiên Sai sắp tới để tiêu diệt tất cả các quốc gia dám gây chiến với Israel, và lên ngôi cai trị họ. Để chuẩn bị cho Ngày trọng đại này, họ phải làm hai việc:
(1) Long trọng tuyên bố mùa chay thánh bắt đầu: Tiên-tri Joel truyền lệnh của Thiên Chúa: "Hãy ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng, triệu tập các cụ già và toàn thể cư dân trong xứ tại Nhà Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi. Hãy kêu lên Đức Chúa." Hàng năm, Giáo Hội cũng dùng những lời này trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, để kêu gọi các tín hữu biết ăn năn và chuẩn bị tâm hồn để chuẩn bị đón Ngày Chúa đến lần thứ hai.
(2) Các việc phải làm trong mùa chay thánh: "Hỡi các tư tế, hãy mặc áo vải thô mà than van kêu khóc! Rú lên đi, hỡi những người phục vụ bàn thờ! Hãy đến, mặc áo vải thô mà thức suốt đêm, hỡi những người phục vụ Thiên Chúa." Việc ăn chay, hãm mình, và cầu nguyện là ba việc phải làm để chuẩn bị đón chờ Ngày Chúa đến.
1.2/ Ngày của Thiên Chúa đến là Ngày đáng sợ: Truyền thống Do-thái tin Đấng Thiên Sai sẽ đến trong uy quyền; nhưng trước khi lên ngôi cai trị, Ngài sẽ thanh luyện và phán xét tất cả mọi người: con cái Israel cũng như các dân ngoại. Đó là lý do mà con cái Israel phải chuẩn bị tâm hồn. Tiên-tri Joel báo trước cho họ biết về Ngày này như sau: "Ôi, ngày đáng sợ thay! Ngày của Đức Chúa quả đã gần kề! Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do lệnh Đấng Toàn Năng... Run lên đi, mọi cư dân trong xứ, vì Ngày của Đức Chúa sắp đến rồi, Ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù tối đen."
Sự kinh hoàng của Ngày này được tiên-tri Joel và các tiên-tri khác mô tả như: mặt trời, mặt trăng và các tinh tú sẽ không còn chiếu sáng; nạn châu chấu sẽ tiêu diệt mùa màng khiến con người không còn của ăn; chiến tranh sẽ xảy ra khắp nơi trên địa cầu ... Sau cùng, chỉ những người công chính mới sống sót, và được sống hòa bình và hạnh phúc với Đấng Thiên Sai đến muôn đời.
2/ Phúc Âm: Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến.
2.1/ Lòng ghen tị của con người: Khi chứng kiến Chúa Giêsu trục xuất quỉ ra khỏi người câm, đa số dân chúng đều kính sợ; nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ." Đây là một lời tố cáo của những người ghen tị, khi thấy mình không làm được những gì người khác làm; họ tìm bất cứ một lý do nào, cho dù là vô lý, để giảm giá trị hành động tốt đẹp của người khác. Biết được tư tưởng ghen tị của họ, Chúa Giêsu vạch trần sự sai trá của lời tố cáo bằng hai chứng minh:
(1) Chia rẽ là tự hủy diệt: Để có thể tồn tại, con người cần đoàn kết với nhau; nếu con người chia năm xẻ bảy, họ sẽ bị tiêu diệt. Chúa Giêsu hỏi họ: ''Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?'' Satan phải bênh vực đồng bọn của mình; vì nếu Satan chống lại đồng bọn, làm sao vương quốc nó tồn tại được. Vì thế, điều họ tố cáo Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ là không hợp lý.
(2) Nhiều người Do-thái cũng trừ được quỉ: Truyền thống Do-thái từ thời Solomon tin họ có thể xua đuổi quỉ bằng cách đốt hoa cỏ và các cơ quan súc vật. Khói hương bay lên sẽ làm quỉ xuất khỏi người bị ám. Một trường hợp dẫn chứng là khi sứ thần Raphael bảo Tobia đốt tim và gan cá để đuổi quỉ ra khỏi Sarah trong đêm tân hôn của hai người (Tob 8:2-3). Chúa Giêsu thách thức họ: ''Nếu tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.''
2.2/ Chúa Giêsu có quyền trên ma quỉ: Để dẫn chứng Chúa có quyền trên ma quỉ, Ngài đưa ra một ví dụ mà mọi người đều hiểu được: ''Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.'' Quỉ câm có thể được ví như người có vũ trang đầy đủ: nó có sức mạnh hơn người thanh niên nên khống chế anh ta được; nhưng khi Chúa dùng uy quyền Thiên Chúa mà đuổi quỉ câm ra khỏi anh ta, và làm cho anh ta bình phục, Ngài có uy quyền trên ma quỉ.
Trình thuật kế tiếp dẫn chứng nhu cầu phải luôn có Thiên Chúa trong tâm hồn: "Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Vì tìm không ra, nó nói: "Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi." Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước." Thiên Chúa và ma quỉ không thể ở chung: chỗ nào có Thiên Chúa là không có ma quỉ, và ngược lại, chỗ nào có ma quỉ là không có Thiên Chúa. Nếu người Kitô hữu luôn để Đức Kitô ngự trị trong tâm hồn và sống theo sự hướng dẫn của Ngài; ma quỉ sẽ không khi nào có cơ hội xâm nhập.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không lo xa, ắt có buồn gần. Chúng ta hãy dành thời giờ để chuẩn bị trước khi làm bất cứ việc gì, nhất là chuẩn bị tâm hồn cho luôn có Chúa và đón Ngài đến lần thứ hai. Khi Ngày đó bất thần tới, chỉ có những ai chuẩn bị mới được cứu thoát.
- Khi chứng kiến những việc tốt lành của người khác làm, chúng ta hãy thành thật khen ngợi tài năng và đức độ của họ. Đừng để tính kiêu ngạo ghen tương làm mờ mắt, khiến chúng ta khinh thường họ hay phủ nhận những gì họ đã làm.
- Chúng ta chỉ có thể chọn một trong hai: hoặc chọn Đức Kitô là vua cai trị tâm hồn, hoặc sống theo những cám dỗ của ma quỉ và làm nô lệ cho chúng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 27 TN1, Năm B
Bài đọc: Mal 3:13-20b; Lk 11:5-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kiên trì cố gắng là chìa khóa đem tới thành công.
Nhiều người làm việc gì cũng muốn phải có kết quả tức khắc, họ không có kiên nhẫn để chờ đợi; nhưng kiên trì trong thử thách và đau khổ lại là một yếu tố chính quyết định sự thành công. Điều này đúng cho tất cả mọi lãnh vực: học hành, đầu tư, nghề nghiệp, và đạo giáo. Người không kiên trì dễ bị đánh lừa, vì hay thay đổi và không có lập trường rõ rệt; người kiên trì không dễ bị đánh lừa hay bị thuyết phục, vì họ đã nắm vững những gì họ đã tin và đã lựa chọn.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết kiên trì chờ đợi kết quả. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Malachi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho con cái Israel: Họ phải kiên trì trong khi chờ đợi ngày Thiên Chúa phán xét; đừng mất kiên nhẫn và sợ khi thấy kẻ gian ác phát tài và không bị trừng phạt. Khi Ngày của Thiên Chúa đến, họ sẽ thấy sự công chính của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải kiên trì trong khi cầu nguyện. Ngài hứa với các môn đệ: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải kiên nhẫn chờ đợi ngày Thiên Chúa xét xử.
1.1/ Tại sao Thiên Chúa không trừng trị kẻ gian ác? Như đã nói trên, con người có thói quen muốn kết quả tức khắc. Khi họ nhận thấy mình giữ cẩn thận các Lề Luật của Thiên Chúa, mà không thấy Ngài ban thưởng, lại còn phải chịu nhiều gian khổ; trong khi đó, nhìn qua những kẻ gian ác, thấy họ vẫn sống phây phây mà còn sung túc nữa. Nhiều người sẽ kết luận: "Phụng thờ Thiên Chúa thật là vô ích, tuân giữ các lệnh truyền của Đức Chúa và bước đi ủ rũ trước nhan Người, nào ích lợi chi? Giờ đây chúng tôi cho những kẻ kiêu ngạo là có phúc; những kẻ làm điều ác được thịnh đạt; họ chống lại Thiên Chúa mà chẳng hề hấn gì."
Hai điều sai trái mà những người trên đây không nhận ra: Thứ nhất, kết quả của việc nghe và thực hành thánh ý Thiên Chúa không được đánh giá trên những lợi nhuận vật chất; nhưng trên sự bình an của tâm hồn và hạnh phúc trong cuộc sống. Thứ hai, Thiên Chúa kiên nhẫn cho con người nhiều cơ hội và chờ đợi họ thay đổi; nếu Thiên Chúa phạt ngay khi họ lầm lỗi, chắc không còn mấy người được sống sót trên thế gian này.
1.2/ Ngày Thiên Chúa ra tay hành động sẽ đến: Trong Ngày này, mọi người sẽ phân biệt được người công chính với kẻ gian ác, kẻ phụng thờ Thiên Chúa với kẻ không phụng thờ Người.
Kẻ gian ác nghĩ tội lỗi của mình không ai biết được, nhưng Thiên Chúa đã có sẵn một cuốn sổ theo lời tiên-tri Malachi: ''Bấy giờ những người kính sợ Đức Chúa sẽ nói với nhau: Đức Chúa đã để ý và Người đã nghe: một cuốn sổ được viết trước nhan Người, ghi tên những kẻ kính sợ Đức Chúa và tôn kính Danh Người.'' Ngài sẽ phân xử con người và thưởng phạt tùy theo việc họ làm.
(1) Những người kính sợ Thiên Chúa: ''Chúng sẽ thuộc về Ta như sở hữu riêng, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ xót thương chúng như người cha xót thương đứa con phụng dưỡng mình... Đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh.''
(2) Những kẻ kiêu ngạo và gian ác: ''Ngày ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng - Đức Chúa các đạo binh phán - không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào.''
2/ Phúc Âm: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.
2.1/ Khi cần, phải xin; cho dẫu phải quấy rầy người khác: Chúa Giêsu đưa ra một câu truyện để dạy các môn đệ cần phải kiên trì trong khi cầu nguyện.
(1) Phản ứng của người xin: Sự lỡ đường của người bạn tới thăm lúc nửa đêm đặt người phải vay trong tình trạng khó xử: hoặc im lặng để người bạn lỡ đường chịu đói hoặc phải hy sinh gõ cửa hàng xóm mà vay trong đêm tối. Anh biết sẽ làm phiền hàng xóm; nhưng nếu không vay, anh sẽ thất lễ với khách. Sau cùng, vì tinh thần hiếu khách nên anh quyết định hy sinh đi vay dù biết rằng mình sẽ làm phiền hàng xóm. Anh gõ cửa hàng xóm và van nài: "Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả."
(2) Phản ứng của người hàng xóm: Từ trong nhà, anh đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi; cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được."
Người xin có thể tiên đoán và hiểu được phản ứng của anh hàng xóm; vì thế, mặc dù bị từ chối, anh vẫn kiên trì gõ cửa và van nài cho đến khi được. Chúa nói: "dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ "lỳ" ra đó." Người hàng xóm phải chỗi dậy cho vay bánh vì ông không muốn cả gia đình phải mất ngủ suốt đêm.
Chữ "lỳ" mà tiếng Hy Lạp dùng ở đây là avnaideia, danh từ này có 2 nghĩa:
- tiêu cực: không biết nhạy cảm trước sự khước từ hay khinh thường của người khác, không biết xấu hổ, lỳ lợm, chai lỳ;
- tích cực: kiên nhẫn, kiên trì cho tới khi đạt được, không cần biết thời gian phải chờ đợi bao lâu, nơi chốn nào có thể tìm thấy, hay con người nào có thể xin được. Đây là thái độ mà Chúa muốn các môn đệ phải có khi muốn xin sự gì với Thiên Chúa: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho." Lý do tại sao phải có thái độ này là vì người xin không thể làm cách nào khác hơn được nữa.
2.2/ So sánh người cha dưới đất với người Cha trên trời: Để nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa cho con người, Chúa Giêsu dùng một ví dụ cụ thể về tình thương của người cha trần thế: ''Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp?'' Chẳng có người cha nào nhẫn tâm làm như vậy!
Chúa Giêsu hướng lòng khán giả tới Người Cha trên trời, và kết luận: ''Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?" Thiên Chúa là Đấng tốt lành và uy quyền, Ngài sẽ ban cho con cái những gì cần thiết. Thánh Thần là nguồn mạch mọi ơn lành, Ngài biết những gì con người cần và sẽ ban cho họ cách xứng hợp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải dành thời gian để học hỏi và suy xét coi đường nào mình nên theo; một khi đã biết rõ, chúng ta phải ẵn sàng vượt qua mọi thử thách và gian khổ để đạt cho được đích mình mong muốn.
- Chúng ta phải kiên trì trong đức tin và thực hành đạo lý; cần tránh thái độ ai nói gì cũng nghe, ai bảo sao cũng làm. Để kiên trì, chúng ta cần học hỏi để hiểu tường tận Kinh Thánh và những Giáo Huấn của Giáo Hội hết sức có thể.
- Chúng ta phải kiên trì trong khi cầu nguyện, cho dẫu có phải chờ đợi lâu dài; vì Thiên Chúa là cha nhân từ sẽ ban những điều tốt lành cho những ai hết lòng trông cậy nơi Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Bài đọc: Zec 2:14-17; Lk 1:26-38
CHỦ ĐỀ: Con Thiên Chúa xuống thế để ở với con người.
Tháng mười, được gọi là tháng Mân Côi, tháng kỷ niệm cuộc đời của Chúa Cứu Thế và Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ người. Cuộc đời của hai con người quan trọng nhất trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa được dệt bằng những biến cố quan trọng, nhưng các bài đọc hôm nay tập trung trong biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah nói trước về biến cố này, được lồng trong khung cảnh lưu đày của dân tộc Do Thái. Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc con người; nhất là khi con người phải buồn sầu khổ cực trong chốn lưu đày. Ngài đã có một kế hoạch để giải thoát con người khỏi quyền lực của tội lỗi bằng cách cho người con một của Người xuống để ở với con người, để dạy dỗ, chữa lành và cứu chuộc con người. Ngôn sứ Zechariah đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày này, nên ông đã kêu gọi dân Do Thái hãy vui mừng lên vì ngày đó đã gần đến. Trong Phúc Âm, những gì ngôn sứ Zechariah loan báo đã trở thành hiện thực trong biến cố Truyền Tin, được ghi lại bởi thánh sử Lucas. Chính nhờ sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Maria mà con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng của Mẹ, để bắt đầu sứ vụ cứu chuộc của ngài cho trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC
1/ Bài đọc I: "Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi."
Có ba sự kiện chính chúng ta ghi nhận trong đoạn văn của ngôn sứ Zechariah:
1.1/ Thiên Chúa đang đến và ở lại với dân Người: Sự kiện này được lặp lại hai lần trong hai câu đầu tiên, 14 và 15. Không những Thiên Chúa đến để viếng thăm, nhưng còn ở lại với dân Người. Khi Chúa Giêsu đến, ngài không chỉ viếng thăm; nhưng hoá thành nhục thể để ở với con người trong suốt ba mươi ba năm; và lập bí tích Thánh Thể để ở với con người suốt mọi ngày cho đến tận thế. Đây là một sự kiện đặc biệt mà con người phải vui mừng, phải reo hò và hân hoan vì khi có Thiên Chúa ở với, con người sẽ không còn cô đơn và sợ hãi những quyền lực của thế gian và ma quỉ.
Thiên Chúa phải trừng phạt dân tộc Do Thái một thời gian vì họ quá cứng lòng, không chịu nghe những lời Ngài dạy bảo qua các ngôn sứ; nhưng khi họ biết nhận ra những lỗi lầm của họ và quay trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ phục hồi tất cả mọi quyền lợi và địa vị cho họ, như lời ngôn sứ Zechariah loan báo, "Đức Chúa sẽ lấy Giu-đa làm cơ nghiệp, đó là sở hữu của Người trên Đất Thánh và Người sẽ lại tuyển chọn Giê-ru-sa-lem."
1.2/ Các dân tộc sẽ được nhập đoàn với dân Chúa: "Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Đức Chúa: Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi." Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Ngài bắt đầu với dân tộc Do Thái như một dân riêng; sau đó, Ngài sẽ cho tất cả các dân tộc được nhập đoàn qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Khi sự kiện này bắt đầu xảy ra, người Do Thái sẽ nhận ra kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và phải tin rằng Đức Kitô được Chúa Cha sai đến.
1.3/ Thái độ của con người phải có trước mầu nhiệm Nhập Thể: "Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Đức Chúa, bởi vì Người tỉnh giấc và ra khỏi Nơi Thánh của Người." Đứng trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa, được biểu tỏ qua việc con Thiên Chúa bỏ Nơi Thánh của người trên thiên quốc để xuống gian trần cứu độ con người, con người không biết làm gì hơn là thinh lặng để suy niệm và cảm nghiệm tình yêu sâu xa và vô biên này.
2/ Phúc Âm: Sứ vụ của Đức Trinh Nữ Maria
2.1/ Cuộc gặp gỡ giữa trời và đất: Tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra; và bắt đầu cuộc đời của Đấng Cứu Thế trên dương gian là biến cố Truyền Tin hôm nay. Không ai có thể ngờ một Thiên Chúa, Đấng dựng nên và có quyền trên muôn loài, lại đến với một tạo vật của mình; để xin cho Người Con được vào cung lòng của Trinh Nữ và sinh ra làm người. Thánh-sử Luca tường thuật biến cố Truyền Tin như sau: " Khi Bà Elizabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavit. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa."
2.2/ Mầu Nhiệm Cứu Độ được mặc khải: Sứ-thần Gabriel nói về con trẻ sẽ được sinh ra như sau: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavit, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." Đây chính là lời hứa thứ ba mà Tiên-tri Nathan đã loan báo cho Vua Đavit trong Sách Samuen II. Chỉ có một điều kỳ lạ không ai ngờ tới về đứa trẻ sinh ra, tuy là Con của Đấng Tối Cao nhưng lại thuộc giòng dõi Đavit qua người cha nuôi, Thánh Giuse.
2.3/ Phản ứng của Đức Trinh Nữ Maria: Vì đã khấn giữ mình đồng trinh, Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Điều Maria muốn giữ mình đồng trinh là điều đẹp lòng Thiên Chúa, vì Ngài muốn con của Ngài nhập thể trong một cung lòng thanh sạch và tinh tuyền như thế. Hơn nữa, lời tiên tri của Isaiah cũng đã báo trước về người trinh-nữ này (parthenos, Isa 7:14).
Đức Trinh Nữ, cũng giống như nhiều người chúng ta, thắc mắc theo sự hiểu biết của con người: Làm sao thụ thai và sinh con mà còn đồng trinh? Chúng ta quên đi cách của Thiên Chúa: có thể giữ mình đồng trinh mà vẫn sinh con. Sứ thần cắt nghĩa cách của Thiên Chúa: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." Sứ thần đưa một bằng chứng cụ thể: "Kìa bà Elizabeth, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." Sau khi đã lắng nghe lời cắt nghĩa của Sứ-thần, Đức Trinh Nữ Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG
- Trong tháng Mân Côi, chúng ta hãy dành nhiều thời giờ để lần hạt và suy ngắm về tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua mầu nhiệm Nhập Thể của con Ngài.
- Noi gương Mẹ Maria, chúng ta hãy vâng lời và cộng tác với Thiên Chúa để mang ơn cứu độ của Ngài cho chúng ta và cho mọi dân tộc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 27 TN1
Bài đọc: Jon 3:1-10; Lk 10:38-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy biết lợi dụng cơ hội Thiên Chúa ban để thi hành thánh ý của Ngài.
Con người thường có khuynh hướng làm theo những gì mình suy nghĩ hay thích thú. Thiên Chúa muốn con người hãy lo sao cho mình và mọi người được hưởng ơn cứu độ. Phải làm theo ý nào đây? Để biết đâu là ý định khôn ngoan, con người cần biết nhìn vào hậu quả. Vì phần nhiều ý con người dựa trên tính ích kỷ, ghen tương, hận thù; nên hậu quả mang lại là sự chia rẽ, bất an, chiến tranh, và chết chóc. Thánh ý Thiên Chúa dựa trên tình yêu thương, tha thứ, và lợi ích chung; nên hậu quả mang lại cho con người bình an, hạnh phúc, và sự sống.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người phải biết lợi dụng cơ hội Thiên Chúa ban cho để mang ơn cứu độ đến cho mình và cho mọi người. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Jonah phải bỏ ý định ích kỷ của mình để sang thành của quân thù, Nineveh, kêu gọi họ ăn năn trở lại. Hậu quả là mọi người, từ vua quan đến dân chúng đều ăn năn trở lại, và Thiên Chúa đã không trừng phạt tội lỗi của họ nữa. Trong Phúc Âm, cô Maria biết lợi dụng cơ hội Chúa Giêsu đến thăm để học hỏi nhiều điều nơi Ngài; trong khi chị Martha vất vả lo cơm nước. Khi chị Martha than phiền Maria, Chúa Giêsu nói rõ ý muốn của Ngài: "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Em Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình.
1.1/ Jonah vâng lời Thiên Chúa đi rao giảng cho thành Nineveh: Có lời Đức Chúa phán với ông Jonah lần thứ hai rằng: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi."
Lần thứ nhất, Jonah không chịu thi hành thánh ý Thiên Chúa. Ông đã lên đường mua vé tàu để trốn Thiên Chúa sang thành khác; vì ông không muốn rao giảng cho kẻ thù không đội trời chung với con cái Israel là Nineveh. Hậu quả tai hại là ông bị thủy thủ ném xuống biển và bị cá nuốt trong bụng. Nhưng vẫn còn may mắn cho ông, nhờ tình thương Thiên Chúa, cá đưa ông vào bờ và mửa ông ra. Lần này, ông biết không thể trốn tránh và cãi lời Chúa; nên ông Jonah đứng dậy và đi Nineveh như lời Đức Chúa phán. Nineveh là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. Ông Jonah bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, Nineveh sẽ bị phá đổ."
1.2/ Dân thành Nineveh tin Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống: Khác với sự cứng lòng của Jonah; dân thành Nineveh khi chỉ bắt đầu nghe Jonah rao giảng, họ đã thành tâm ăn năn thống hối và kết quả được ghi nhận như sau:
+ Từ người lớn đến trẻ nhỏ: ''Dân Nineveh tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ.''
+ Từ vua chúa đến dân chúng: ''Tin báo đến cho vua Nineveh; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro.''
+ Từ con người đến súc vật: Vua cho rao tại Nineveh: "Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết."
Hậu quả khi Jonah và tất cả dân thành Nineveh bỏ tính ích kỷ, ghen tương, gian ác, và các tội lỗi của họ; Thiên Chúa đình chỉ tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không trừng phạt họ nữa. Nếu Jonah và dân thành Nineveh cứ cứng lòng không chịu vâng lời Thiên Chúa, tất cả đều phải chết.
2/ Phúc Âm: Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!
Làng Bethany là quê hương của 3 chị em Martha, Maria, và Lazarô. Vì làng này nằm trên Núi Cây Dầu, rất gần Đền Thờ Jerusalem, nên Chúa Giêsu và các môn đệ thường xuyên thăm viếng khi Ngài lên Jerusalem. Lần này là chuyến lên Jerusalem cuối cùng của Chúa trước khi chịu chết, Ngài cũng ghé vào để thăm 3 chị em.
2.1/ Tính chủ quan của Martha: Được tiếp đón Chúa vào nhà là một điều hãnh diện cho 3 chị em, nên chị Martha đã nhiệt thành sửa dọn nhà cửa và nấu ăn để tiếp khách. Công việc thì nhiều mà chỉ có một đứa em gái Maria, mà cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy, nên chị đến thưa với Chúa: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!"
Khách quí đến nhà đâu phải chỉ để ăn mà còn là dịp để tâm sự chuyện vãn với gia đình. Nếu chủ nhà xem việc tiếp khách là quan trọng, chủ nhà có thể chuẩn bị trước để có thời giờ chuyện vãn khi khách tới. Chị Martha có lẽ chỉ coi công việc nấu nướng cho khách ăn là quan trọng nên đã quên đi điều lịch sự tối thiểu này. Hơn nữa, chị có thể kín đáo gọi em Maria ra để nhờ, nhưng chị đã không làm thế mà còn trách luôn cả Chúa Giêsu vì đã vô tình không chú ý đến việc của chị đang làm.
2.2/ Thiên Chúa muốn con người chọn phần tốt nhất và tồn tại lâu dài.
(1) Sự khôn ngoan của Maria: Cô nhìn ra sự quan trọng của việc tiếp khách quí mà chị cô đã không nhìn ra. Hơn nữa, Maria chắc đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng giải và nhận ra sự quan trọng của những lời dạy dỗ của Ngài. Vì thế, thay vì bận rộn để làm việc như chị, cô chọn phần tiếp khách và lắng nghe Lời Chúa. Một cách khách quan nhận xét: sự thể quá đẹp nếu chị Martha đừng than phiền, chị lo việc ăn uống trong khi em lo việc tiếp khách.
(2) Lời khuyên của Chúa Giêsu: Đáp lời than phiền của chị Martha, Chúa nói: "Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." Chúa Giêsu không cho việc nấu nướng của chị Martha là không quan trọng, nhưng cho đó là chuyện không cần thiết cho bằng chuyện lắng nghe Lời Chúa. Nếu các việc khác ngăn cản việc lắng nghe Lời Chúa thì phải chọn phần tốt hơn là lắng nghe Lời Chúa như em Maria đã chọn. Đối với Chúa, nếu có phải nhịn đói hay ăn bánh mì đơn giản một ngày để lắng nghe Lời Chúa, vẫn là điều tốt hơn cần phải làm.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì Thiên Chúa yêu thương và mong muốn mọi điều tốt lành cho con người, Ngài sẽ cho chúng ta nhiều cơ hội để nhận ra và làm theo thánh ý của Ngài. Chúng ta hãy biết khiêm nhường lắng nghe và thực hiện thánh ý Ngài để mưu cầu ích lợi cho chúng ta và cho tha nhân.
- Khi phải chọn kết quả, chúng ta đừng nhắm những kết quả nhanh chóng, dễ dàng, và tạm thời; nhưng hãy biết chọn những kết quả lâu bền tuy phải mất nhiều thời gian, đòi hỏi nhiều cố gắng và hy sinh hơn. Chọn để lắng nghe Lời Chúa là cách chọn khôn ngoan, vì không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta được.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 27 TN1.
Bài đọc: Jon 1:1-2:2, 11; Lk 10:25-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy thực hành những gì Thiên Chúa dạy.
Đạo là đường, là cách thế chỉ dạy cho con người biết sống làm sao để được bình an và hạnh phúc. Đạo không chỉ là những lý thuyết thuần tri thức; nhưng còn những bổn phận con người phải thi hành để sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Có những tín hữu biết rất nhiều về Chúa và đạo lý Ngài dạy; nhưng lại không thực hành những gì Ngài truyền dạy. Hậu quả là kiến thức suông sẽ thành lời tố cáo họ. Trong khi đó, có những người tuy không biết, hay biết rất ít về Thiên Chúa, lại tận tâm thi hành những gì Ngài mong muốn. Thiên Chúa ưa thích những ai thi hành điều Ngài dạy hơn là chỉ tin tưởng Ngài bằng môi miệng.
Các Bài Đọc hôm nay muốn gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh các tiên-tri, các tư-tế, và tất cả các tín hữu của Thiên Chúa: Đừng chỉ tin Thiên Chúa bằng môi miệng; nhưng biết kính sợ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân bằng cách thực hành những gì Ngài dạy. Trong Bài Đọc I, Jonah đã được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng tại Nineveh để kêu gọi họ ăn năn thống hối trở về với đường ngay nẻo chính; Jonah từ chối và trốn qua một thành khác để khỏi làm điều Ngài truyền dạy. Ông muốn Thiên Chúa tiêu hủy Nineveh, vì họ là kẻ thù không đội trời chung với người Do-thái. Trong Phúc Âm, khi nhóm Pharisees hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng thương xót dành cho tha nhân. Chúa dẫn chứng một ví dụ cho họ biết trong khi các tư-tế và Lêvi tìm kiếm lý do để khỏi tỏ lòng thương xót, một người Dân Ngoại Samaria đã thi hành những gì Thiên Chúa dạy cách tận tâm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này.''
1.1/ Jonah không vâng lời Thiên Chúa: Đức Chúa phán với ông Jonah, con ông Amittai, rằng: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta." Ông Jonah đứng dậy nhưng là để trốn đi Tarsish, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Joppah và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tarsish. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tarsish với họ, tránh nhan Đức Chúa.
Làm sao Jonah có thể trốn chạy Thiên Chúa? Ngài tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. Thuỷ thủ sợ hãi; họ kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt. Còn ông Jonah thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. Viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông: "Sao lại ngủ thế này? Dậy! Kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng." Rồi họ bảo nhau: "Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này." Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Jonah.
Sau khi họ điều tra và nghe Jonah thú nhận: "Tôi là người Do-thái, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền." Jonah biết rõ Thiên Chúa là ai và kính sợ Ngài rất mực; nhưng lại không vâng lời và tìm cách trốn tránh Ngài! Ngược lại, các thủy thủ tuy chưa biết Thiên Chúa; nhưng chỉ nghe Jonah nói, họ đã sợ hãi Thiên Chúa.
1.2/ Jonah không thương dân thành Nineveh: Hai phản ứng trái ngược nhau chúng ta nhận ra trong trình thuật hôm nay.
(1) Phản ứng của Jonah: Lý do Jonah không đi Nineveh rao giảng thống hối vì ông tin họ sẽ trở lại và Thiên Chúa sẽ không đánh phạt họ nữa. Ông muốn Thiên Chúa tiêu diệt họ.
(2) Phản ứng của các thủy thủ trên tàu: Sau khi thuyền trưởng và các thủy thủ biết rõ Jonah là nguyên nhân của cơn bão đang đe dọa họ, và được Jonah cho phép ném ông xuống biển để tránh nguy hiểm cho bao sinh mạng trên tàu; họ vẫn ngần ngại vì không dám động đến sinh mạng người của Thiên Chúa. Trước khi bất đắc dĩ phải ném Jonah xuống biển, họ đã kêu cầu Đức Chúa và thưa: "Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động tuỳ theo sở thích."
2/ Phúc Âm: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
2.1/ Phải làm gì để được sự sống đời đời? Đây là câu hỏi rất quan trọng và thực tiễn của cuộc đời, nhưng người hỏi là thầy thông luật: tuy ông đã biết câu trả lời nhưng vẫn hỏi để thử Chúa Giêsu. Thay vì cho ông câu trả lời, Chúa Giêsu hỏi lại ông: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Ông ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi (Dt 6:5), và yêu mến người thân cận như chính mình (Lev 19:18)." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
2.2/ Ai là người thân cận của tôi? Tuy Jericho cách Jerusalem khỏang 20 dặm nhưng độ cao khác biệt là 3,600 ft. Đây là đọan đường rất nguy hiểm vì lối đi hẹp và có rất nhiều hang động, chỗ ẩn của trộm cướp. Rất ít ai dám đi một mình trên quãng đường này. Người bị đánh trọng thương rất có thể là người Do-Thái vì đi từ Jerusalem xuống. Chúa Giêsu liệt kê ra 3 lọai người và phản ứng của họ khi nhìn thấy người bị thương:
(1) Thầy tư tế: là người Do-Thái. Lý do tại sao ông tránh có thể vì sợ sẽ bị không sạch trong 7 ngày (Num 19:11) nếu động tay vào xác chết, và sẽ không được phục vụ trong Đền Thờ. Ông đặt việc tế tự trên lòng thương xót khi ông tránh qua bên kia mà đi.
(2) Thầy Lêvi: cũng là người Do-Thái. Nhiệm vụ của các Lêvi là phục vụ cung điện nơi Hòm Bia của Thiên Chúa ngự. Giống như các tư tế, ông có lẽ cũng sợ bị không sạch, nên tuy cũng thấy người bị trọng thương, nhưng rồi cũng tránh qua bên kia mà đi.
(3) Người Samaria xem người Do-Thái như thù địch và không muốn chung chạ gì với họ. Nhưng khi thấy người bị trọng thương, người Samaria không để ý đến nạn nhân là người Do-Thái hay không, ông chạnh lòng thương nạn nhân đau khổ: một niềm thương xót giữa người với người. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác."
2.3/ Chúa Giêsu hỏi thầy thông luật: "Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? " Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng chỉ mang danh người Kitô hữu, nhưng hãy biết thực hành những gì Đức Kitô dạy bảo: Hãy kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình.
- Người không biết Thiên Chúa có thể vào Nước Trời trước chúng ta; nếu họ sống tốt lành, yêu thương tha nhân, và không có cơ hội để học hỏi về Thiên Chúa. Chúng ta có thể không đạt được cuộc sống đời đời, nếu chúng ta từ chối không vâng lời Chúa và giúp đỡ tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 27 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Gen 2:18-24; Heb 2:9-11; Mk 10:2-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lý tưởng của Thiên Chúa và khuyết điểm của con người.
Khi Thiên Chúa truyền cho con người làm điều gì, con người có thể hay có khả năng làm điều đó; vì Ngài không thể truyền cho con người làm điều gì họ không thể làm. Có nhiều lý do khiến con người không làm điều Thiên Chúa truyền: (1) Con người không muốn làm điều Thiên Chúa truyền, mà chỉ muốn làm điều con người muốn, vì nó phù hợp với con người hơn. (2) Con người có khả năng làm; nhưng không chịu cố gắng làm vì lười biếng, sợ khó khăn, sợ gian khổ, hay sợ chết. (3) Có những điều con người chỉ có thể làm được với ân sủng Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.
Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong sự trung thành của ơn gọi gia đình, điều mà nhiều người cho là không thể thực hiện được. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế xác nhận ơn gọi hôn nhân nằm trong kế-hoạch của Thiên Chúa cho con người ngay từ đầu. Thiên Chúa không muốn cho con người sống đơn độc một mình; nhưng muốn con người có một người bạn đồng hành. Ngài đã dùng một xương lấy ra từ cạnh sườn con người, và lấp đầy thịt vào để tạo nên người đàn bà. Ngài dẫn người đàn bà đến trước mặt người đàn ông, và người đàn ông đã nói: "Này đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra." Họ là cặp vợ chồng đầu tiên; và từ đó đến nay, các đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt. Trong Bài Đọc II, sức mạnh và ơn thánh giúp con người có thể làm điều Thiên Chúa truyền đến từ Đức Kitô. Qua Cuộc Thương Khó và cái chết của Ngài, con người được tha tội và thánh hóa nhờ các Bí-tích Đức Kitô đã thiết lập. Con người phải xử dụng nguồn năng lực này, để có thể sống theo Lề Luật của Thiên Chúa và những lời dạy dỗ của Đức Kitô. Trong Phúc Âm Marcô, khi mấy Biệt-phái đến hỏi thử Chúa Giêsu về việc có được ly dị vợ không; dù Chúa Giêsu biết Moses cho phép ly dị vì sự cứng lòng của dân chúng, Ngài vẫn xác quyết ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ thuở ban đầu là không được. Lý do: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giao ước hôn nhân nằm trong ý định của Thiên Chúa ngay từ đầu.
1.1/ Ý định của Thiên Chúa cho con người: Đây là trình thuật thứ hai về việc tạo dựng; tác giả chú trọng đặc biệt đến sự kết hiệp giữa người nam và người nữ trong ơn gọi gia đình.
+ Thiên Chúa không muốn con người ở một mình: Trước tiên chúng ta cần chú ý: đây là thánh ý của Thiên Chúa, chứ không phải do ý con người muốn. Con người đầu tiên không than phiền Thiên Chúa vì không có đàn bà; nhưng chính Thiên Chúa nhận ra con người ở một mình là không tốt. Thiên Chúa muốn tìm cho con người một "trợ giúp tương xứng với nó."
+ Chữ người trợ giúp (bôêthos trong LXX, và hêzer trong MT) cũng gây ra nhiều bàn cãi. Có người cho đàn bà chỉ là người trợ giúp của đàn ông; vì thế, các bà không bao giờ được coi là ngang hàng với các ông. Cách cắt nghĩa này không có cơ sở, vì Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần cũng được gọi là Đấng Trợ Giúp con người. Các Ngài phải có uy quyền hơn thì mới trợ giúp con người được.
+ Khó khăn không ở chỗ dùng danh từ người "trợ tá, bạn đồng hành;" nhưng ở chỗ cắt nghĩa cho đúng giới từ trong tiếng Do-thái (kenegdô) và Hy-lạp (kat' auton). Bản Việt-nam của Nhóm PVCGK dịch tương đối sát nghĩa là "tương xứng hay thích hợp;" nhưng tương xứng theo ý nghĩa nào: cách thể lý, trí tuệ, luân lý, hay tinh thần.
1.2/ Tìm một "trợ tá tương xứng" cho con người:
(1) Thiên Chúa thử các thú vật trước: ''Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.'' Loài vật cho dù có nhiều điểm thích hợp với con người như đẹp đẽ, hiền lành, dễ thương, trung thành; nhưng không thể nào so sánh với con người. Việc đặt tên theo truyền thống Do-thái có nghĩa người đặt tên có quyền trên người bị đặt tên.
(2) Thiên Chúa tạo dựng đàn bà: ''Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.''
(3) Phản ứng của người đàn ông: Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra." Ông nhận ra ngay nàng là một phần của thân thể mình. Ông muốn sống gắn bó với nàng hơn bất kỳ ai khác. Trình thuật kết thúc với kết luận: ''Bởi thế, đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt.''
2/ Bài đọc II: Đức Giêsu trải qua gian khổ để dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ.
2.1/ Đức Kitô trải qua Cuộc Thương Khó để đền tội cho con người: Bản dịch của PVGK có thể gây hiểu lầm khi dùng chữ "con người;" bản Hy-lạp nói rõ là Chúa Giêsu: ''Nhưng Chúa Giêsu đã bị hạ thấp hơn các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì Ngài đã cam chịu tử hình: Con Người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.''
Để con người đạt được ơn cứu độ, trước tiên, Chúa Giêsu phải gánh tội và hình phạt cho con người, bằng cách chấp nhận đau khổ qua Cuộc Thương Khó của Ngài. Một khi đã được tha tội, con người được hòa giải với Thiên Chúa.
2.2/ Đức Kitô không chỉ tha tội; nhưng còn thánh hóa con người: Tác giả Thư Do-thái xác quyết điều này: ''Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.'' Mặc dù Chúa Giêsu đã gánh tội và ơn cứu độ giờ đây là của con người; nhưng họ vẫn phải chứng minh cho Thiên Chúa niềm tin vào Đức Kitô bằng cuộc sống chứng nhân; chẳng hạn, trung thành trong ơn gọi gia đình, tu sĩ, hay linh mục. Để có sức mạnh làm những điều này, Đức Kitô thiết lập các Bí-tích.
Nhiều người ngày nay đã quên hay không biết sự cần thiết của các Bí-tích trong cuộc đời; nhất là hai Bí-tích: (1) Thánh Thể: Đây là Bí-tích ban sức mạnh để con người có thể đương đầu với các cám dỗ, khó khăn, và thử thách trong cuộc đời. (2) Hòa Giải: giúp con người nhận ra các tội lỗi mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến tha nhân; đồng thời nó cũng giúp con người dễ thông cảm, tha thứ, và giải quyết các xung đột trong đời sống gia đình.
3/ Phúc Âm: Vấn đề ly dị và có con.
3.1/ Yếu đuối của con người: Có mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?" Họ hỏi thế là để thử Người.
(1) Luật của Moses: Chúa Giêsu hỏi: "Thế ông Moses đã truyền dạy các ông điều gì?" Họ trả lời: "Ông Moses đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ." Đức Giêsu nói rõ lý do có luật này của Moses:: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moses mới viết điều răn đó cho các ông.''
(2) Tại sao Giáo Hội cho phép ly dị, nếu đó là Luật Thiên Chúa? Chúng ta cần phân biệt hai điều: Thứ nhất, lý tưởng mà Thiên Chúa muốn con người đạt tới. Lý tưởng này không bao giờ thay đổi; và thực tế cũng chứng minh nhiều người đã đạt tới lý tưởng này. Nhiều cặp vợ chồng đã trung thành với nhau đến khi chết, dù phải trải qua bao gian khổ. Thứ hai, yếu đuối và tội lỗi làm con người không đạt tới lý tưởng của Thiên Chúa. Khi con người không đạt được lý tưởng, không có nghĩa là lý tưởng của Thiên Chúa muốn không thể thực hiện được, hay Lề Luật của Thiên Chúa sai; nhưng con người phải khiêm nhường thống hối vì yếu đuối tội lỗi của mình. Hội Thánh gỡ dây hôn phối là vì những tội lỗi, yếu đuối, và cứng lòng của con người. Có nhiều lý do để gỡ; một cách tổng quát là không chịu học hỏi hay coi thường Bí-tích Hôn Phối như:
- Cha mẹ ép buộc con cái phải lấy người chúng không muốn, vì cha mẹ tham quyền cao, chức trọng, hay lợi nhuận vật chất. Trường hợp này, con cái thiếu tự do để kết hôn.
- Con người kết hôn bừa bãi: Đa số trường hợp Giáo Hội giải quyết là trường hợp "lack of form," có nghĩa: không theo Lề Luật của Giáo Hội, không thành Bí-tích. Chẳng hạn, làm hôn thú giả vì muốn xuất ngoại, vì tham tiền, hay vì bất cứ lý do nào khác.
- Vợ chồng không chịu tìm hiểu nhau kỹ lưỡng trước khi kết hôn: lấy người đã có gia đình, lấy người bị ngăn trở không được kết hôn, lấy người không cùng tôn giáo.
- Vợ chồng không sống đức tin và không chịu lãnh nhận ơn thánh từ các Bí-tích: Làm sao có khôn ngoan, sức mạnh để vượt qua khó khăn trong cuộc sống?
- Con người không có sức chịu đau khổ: Trường hợp của những người bị người phối ngẫu ly dị. Với ơn thánh, con người có thể vượt qua sự cô đơn và những đòi hỏi của thân xác.
3.2/ Vấn đề với con trẻ: Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.
Một vấn đề khó khăn nữa mà các vợ chồng ngày nay hay than phiền là không muốn có con, hay chỉ muốn có 2, 3 con; một số lý do họ nêu ra:
(1) Sợ con trẻ gây phiền hà: Đây là lý do các môn đệ sợ ngăn cản chúng đến với Chúa Giêsu. Người lớn hôm nay sợ trẻ con hàn nhà làm họ phải thu dọn tối ngày, sợ con trẻ ồn ào làm mất sự yên tĩnh, sợ chúng khóc đêm làm mất giấc ngủ, sợ chúng phá phách làm hư hại đồ dùng trong nhà.
(2) Sợ phải săn sóc con trẻ: Con trẻ không tự săn sóc chúng, mà chỉ trông cậy hoàn toàn vào người lớn. Nhiều cặp vợ chồng sợ phải tốn thời gian để chăm sóc trẻ em sẽ không còn giờ lo cho bản thân họ.
(3) Những ngụy biện của con người ngày nay để không có nhiều con trẻ: Sinh nhiều quá lấy chỗ đâu mà sống; khả năng tài chánh không có để lo cho con; sợ con trẻ hư, nên thà đừng có tốt cho chúng hơn.
Đàng sau những lý do này là chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ. Con người hôm nay sợ phải tốn thời gian săn sóc và dạy dỗ con trẻ, sẽ không còn giờ để săn sóc mình và đi đây đó. Họ sợ sinh con vóc dáng sẽ xấu đi. Họ sợ tốn tiền cho con sẽ không còn thời giờ lo cho mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi Thiên Chúa truyền chúng ta làm điều gì, chúng ta có khả năng làm chuyện đó. Chúng ta cần phải tin tưởng và làm theo những gì Chúa dạy, tập luyện để sống nhân đức, và tận dụng các ơn thánh Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.
- Chúng ta cần học hỏi để biết cách lãnh nhận và hiệu quả của các Bí-tích mang lại; nhất là phải biết thường xuyên lãnh nhận các Bí-tích mỗi khi có thể.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 26 TN1
Bài đọc: Bar 4:5-12, 27-29; Lc 10:17-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy học hỏi nơi Kinh Thánh để hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời.
Trong vũ trụ có quá nhiều bí nhiệm: có những bí nhiệm con người cần phải học hỏi và cần thời gian để nhận ra, như trái đất xoay chung quanh mặt trời, các định luật về chuyển động của Newton; nhưng cũng có những mầu nhiệm con người không thể hiểu nổi nếu Thiên Chúa không mặc khải, như mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngôi Hai Cứu Chuộc, hai bản thể của Đức Kitô... Khi con người không hiểu hay chưa hiểu, các mầu nhiệm tự nó vẫn có trong vũ trụ; chứ không phải chỉ khi con người hiểu biết, các mầu nhiệm mới bắt đầu có.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc hiểu biết các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Baruch muốn con cái Israel hiểu biết về mầu nhiệm đau khổ: khi Thiên Chúa để quân thù tiêu diệt quốc gia, phá hủy Đền Thờ, và mang dân chúng lưu đày, không phải vì Ngài không thương dân, không phải vì Ngài không có quyền để cứu dân; nhưng là để dân có cơ hội nhận ra tội lỗi của mình và ăn năn trở lại với Thiên Chúa. Nếu không có đau khổ, con cái Israel sẽ không nhận ra tình thương Thiên Chúa, sẽ sống xa Ngài, và sẽ phải chịu đau khổ đời đời. Trong Phúc Âm, các môn đệ vui mừng khi thấy mình có uy quyền chữa lành và khuất phục ma quỷ; Chúa Giêsu muốn hướng lòng các ông về mầu nhiệm Nước Trời. Các ông nên vui mừng hơn vì các ông đã hiểu được mầu nhiệm Nước Trời, và tên các ông được ghi trên trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy cố gắng hiểu mầu nhiệm đau khổ trong cuộc đời.
1.1/ Tại sao con cái Israel bị lưu đày? Lưu đày là cơ hội cho con cái Israel nhận ra hai điều:
(1) Tội của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa: Tiên-tri Baruch nêu rõ lý do của lưu đày: "Các ngươi có bị trao cho quân thù âu cũng vì đã chọc giận Thiên Chúa. Quả thật, khi tế lễ cho ma quỷ thay vì cho Thiên Chúa, các ngươi đã khiêu khích Đấng tạo dựng nên mình." Thiên Chúa để những đau khổ xảy ra không phải vì Ngài không yêu thương họ; nhưng để họ nhận ra những tội lỗi họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Tiên-tri Baruch cũng như các tiên-tri khác khuyên dân chúng để họ đừng thất vọng, đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa; nhưng biết nhận ra tội lỗi và ăn năn trở lại: ''Can đảm lên nào, hỡi dân Ta! Hỡi những kẻ mang danh Israel! Các ngươi có bị bán cho dân ngoại, không phải là để bị diệt vong.''
(2) Tình thương Thiên Chúa dành cho họ: Thiên Chúa sửa phạt dân chúng không phải vì ghét bỏ họ; ngược lại, Ngài sửa dạy vì Ngài yêu thương họ. Tiên-tri Baruch ví Thiên Chúa như một người Cha và Jerusalem như một người mẹ, phải đau khổ thế nào khi phải sửa phạt con cái mình: ''Thiên Chúa vĩnh cửu, Đấng nuôi dưỡng các ngươi, các ngươi đành quên lãng; còn Jerusalem, mẹ sinh thành các ngươi, các ngươi làm cho mẹ phải buồn sầu; buồn vì chứng kiến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên đoàn con, và mẹ đã than thở: Hãy nghe đây, các thành lân cận của Sion, Thiên Chúa đã giáng xuống trên tôi một nỗi buồn thê thảm.''
1.2/ Phải nỗ lực quay trở về với Thiên Chúa: Một khi con cái Israel đã nhận ra tội lỗi của họ, họ cần phải quay về với tình yêu Thiên Chúa và với tình mẹ Jerusalem: ''Các con ơi, can đảm lên nào! Hãy cứ kêu lên cùng Thiên Chúa, vì Đấng đã giáng hoạ sẽ lại nhớ đến các con. Xưa các con chỉ nghĩ đến chuyện xa lìa Thiên Chúa, thì một khi trở về, các con phải nỗ lực gấp mười mà tìm kiếm Chúa. Vì Đấng đã giáng hoạ xuống các con, chính Người sẽ giải thoát mà ban cho các con niềm vui vĩnh cửu.'' Đau khổ chỉ dành cho những đứa con chưa nhận ra tình yêu Thiên Chúa, tình yêu cha mẹ, và tình yêu của những người chung quanh; một khi con người đã hiểu biết và sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân, đau khổ không còn cần thiết nữa.
2/ Phúc Âm: Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.
2.1/ Vui mừng thực sự vì tên anh em đã được ghi trên trời: Nhóm Bảy Mươi (Hai) trở về, tường thuật những gì họ đã thực hiện, và hớn hở nói với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con."
Phản ứng lạc quan và vui mừng của các môn đệ khi thành công là điều có thể hiểu được; nhưng Chúa Giêsu cảnh cáo các ông phải đề phòng sự lạc quan này: "Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời."
Chúa Giêsu chỉ rõ cho các ông thấy đâu là lý do chính của sự vui mừng, vì các ông được bảo đảm phần rỗi linh hồn. Tự hào về những thành công theo cách thức thế gian rất nguy hiểm, vì Satan có thể dùng tính tự hào này mà phá hủy công trình của Thiên Chúa và kéo các ông xa Chúa.
2.2/ Mầu nhiệm Nước Trời chỉ được hiểu bởi những kẻ bé mọn: Trình thuật kể: ''Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.""
(1) Bé mọn là điều kiện cần thiết để hiểu mầu nhiệm: Danh từ "bé mọn" không chỉ được dùng để chỉ trẻ thơ, mà còn chỉ những người chưa có kinh nghiệm nhiều trên đời. Khác với quan niệm của người thế gian cho rằng phải khôn ngoan thông thái để hiểu biết những điều kỳ diệu trong trời đất; Chúa Giêsu đòi khán giả của Ngài phải có lòng khiêm nhường, cởi mở, và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hiểu các mầu nhiệm. Một tâm hồn kiêu ngạo, khép kín, và chỉ tin nơi trí tuệ của mình sẽ không thể hiểu được những mầu nhiệm của Thiên Chúa.
(2) Người khôn ngoan thông thái không nhận ra: Nhiều người có thể dựa vào lời Chúa Giêsu nói ở đây để biện hộ cho Thuyết Tiền Định; vì nếu Chúa giấu hay Chúa không mặc khải, làm sao con người có thể biết được. Chúng ta biết đây chỉ là một lối nói của người Do-thái, khi họ quy định mọi sự về cho Thiên Chúa. Chúa rao giảng Tin Mừng là cho tất cả mọi người; nhưng không phải mọi khán giả đều hiểu được những gì Chúa nói. Dụ ngôn Người Gieo Giống là một điển hình; nếu khán giả không chịu dọn dẹp, chuẩn bị tinh thần đón nhận Lời Chúa, làm sao họ có thể hiểu và sinh lợi ích được?
(3) Không phải mọi người đều có cơ hội như các môn đệ: Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: "Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe." Các môn đệ được may mắn sống đồng thời với Chúa, nhưng chúng ta cũng được may mắn nghe những gì các thánh ký tường thuật. Nếu Chúa cho nhiều, Ngài cũng đòi lại nhiều.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần khiêm nhường học hỏi để hiểu biết những mầu nhiệm trong trời đất. Một thái độ kiêu hãnh sẽ ngăn cản chúng ta trong việc hiểu biết những mầu nhiệm của Thiên Chúa.
- Hiểu biết mầu nhiệm mới chỉ là bước đầu, chúng ta cần phải sống theo mầu nhiệm mặc khải, chúng mới sinh lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 26 TN1
Bài đọc: Bar 1:15-22; Mt 18:1-5, 10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các thiên thần sẽ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường.
Nhìn lại sự quan phòng của Thiên Chúa, con người không thể kêu trách Ngài được điều gì; vì Ngài đã làm mọi sự để con người có thể sống bình an và hạnh phúc. Ngài đã ban hành Lề Luật để con người biết sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Khi con người bất tuân Lề Luật, Ngài sai ngôn-sứ đến để khiển trách và kêu gọi con người quay về nẻo chính đường ngay; trước khi sửa phạt con người. Hơn nữa, Thiên Chúa còn ban cho mỗi tín hữu một thiên thần bản mệnh để cùng đồng hành, săn sóc, và bảo vệ con người.
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đặc biệt đến sự quan phòng của Thiên Chúa và sự cứng lòng trong tội lỗi của con người. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Baruc phải thú nhận những gì Thiên Chúa sửa phạt con cái Israel là xứng đáng với tội lỗi của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ phải tránh khuynh hướng muốn được quyền cao chức trọng theo kiểu loài người, nhưng phải biết khiêm nhường như trẻ nhỏ và phục vụ những người cô thân cô thế. Hơn nữa, người môn đệ phải tuyệt đối tránh đối xử bất công với những hạng người này, vì thiên thần của họ hằng bảo vệ họ trước ngai của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.
Tiên-tri Baruch là một kinh-sư, người đồng thời với tiên-tri Jeremiah. Nhiều người còn cho ông là thư ký của Jeremiah. Cả hai sống trong một giai đoạn rất khó khăn của vương quốc Judah, khi cả nước bị rơi vào tay vua Babylon, Đền Thờ bị phá hủy, và rất nhiều người cùng với vua quan bị lưu đày qua Babylon. Trình thuật của ông hôm nay là một lời thú tội, sau khi đã cẩn thận xét mình về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con cái Israel.
1.1/ Tình thương Thiên Chúa và sự dạy dỗ của Ngài: Khi nhìn lại quá khứ, Baruch nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho con cái Israel quá cao vời: Ngài đã đưa ra khỏi đất nô lệ Ai-cập, dẫn đưa họ vào miền Đất Hứa tràn đầy sữa và mật mà Ngài đã hứa với các tổ-phụ. Ngài đã thân hành ban cho dân Thập Giới qua trung gian Moses, để dân chúng biết sống đúng mối liên hệ vơi Thiên Chúa và với tha nhân. Khi vua quan và dân chúng đi trật đường, Ngài đã gởi các tiên-tri tới để sửa dạy; không phải chỉ một người hay một lần, mà rất nhiều người và nhiều lần. Họ không những không chịu nghe, mà còn xỉ nhục và đánh đập các tiên-tri nữa.
1.2/ Tội lỗi và hình phạt: Trong khi Thiên Chúa thương yêu, dạy bảo, và tìm mọi cách để làm cho con cái Israel ăn năn trở về; họ vẫn cứng lòng và ngoan cố trong tội.
(1) Tội lỗi con người: Tiên-tri Baruch thú nhận: ''Tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa.'' Một số tội ông liệt kê ra như sau:
+ Tội không vâng phục: Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa, không vâng giữ các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra.
+ Tội cứng lòng không chịu nghe lời các ngôn sứ sửa dạy: Chúng tôi đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi.
+ Hai tội chính của con cái Israel được nhắc đi nhắc lại trong sách các tiên-tri: (1) Bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang; và (2) sống bất công với tha nhân.
(2) Hình phạt: Thiên Chúa, qua ông Moses, đã báo trước hình phạt xảy ra nếu không chịu giữ các điều răn là phải chết. Giờ đây, khi toàn dân phải hổ ngươi bẽ mặt trong chốn lưu đày là xứng đáng với tội lỗi của mình; họ không được than trách Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy.
2.1/ Phục vụ trẻ nhỏ là điều kiện vào Nước Trời: Mong ước được nổi tiếng nhất, được trở thành người quan trọng nhất, là ước mơ của nhiều người trong thế gian. Mong ước này cũng xảy ra nơi các môn đệ của Chúa Giêsu, khi các ông lại gần hỏi Ngài rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?"
Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.'' Qua câu rả lời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra hai điều quan trọng:
(1) Phải khiêm nhường, tự hạ, mới được vào Nước Trời: Trẻ thơ không mong được quyền cao chức trọng, chúng bằng lòng với sự yêu thương, chăm sóc, và bảo vệ của cha mẹ chúng. Người môn đệ của Đức Kitô cũng thế, tại sao cần phải có quyền cao chức trọng khi đã được Thiên Chúa yêu thương, dạy dỗ, và quan phòng cho mọi sự! Mong ước được nổi tiếng chẳng những không giúp gì cho người môn đệ, mà còn làm cho người môn đệ dần dần xa Chúa. Mọi người chúng ta đã quá rõ lý do sự sa ngã của Lucifer và của cặp vợ chồng đầu tiên rồi.
(2) Phải phục vụ trẻ nhỏ vì danh Chúa: Một tính xấu nữa nơi con người là muốn được phục vụ, chứ không muốn phải phục vụ người khác. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài phải khử trừ thói xấu này bằng cách xả thân phục vụ trẻ nhỏ, và những người cô thân cô thế vì danh Đức Kitô. Những người này không có gì để trả lại cho các môn đệ; đó chính là động lực mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ phục vụ: để Thiên Chúa trả công cho anh em.
2.2/ Mỗi người tín hữu đều có một thiên thần bản mệnh: Niềm tin vào thiên thần bản mệnh được Giáo Hội dựa trên những gì Chúa Giêsu tuyên bố hôm nay: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.''
(1) Mọi người đều được Thiên Chúa bảo vệ: Thiên Chúa dùng các thiên thần để giúp Ngài trong việc điều khiển thế giới và con người. Mỗi tín hữu, không cần biết nhỏ bé và tầm thường đến đâu, đều có một thiên thần để bảo ban, dạy dỗ, và phù hộ trong cuộc đời. Mỗi tín hữu phải biết lắng nghe tiếng thiên thần của mình, để có thể tránh hậu quả tai hại xảy ra trong cuộc đời.
(2) Động đến họ là động đến Thiên Chúa: Nhiều người có khuynh hướng ức hiếp kẻ cô thân cô thế, vì nghĩ họ không có đủ khôn ngoan và sức mạnh chống lại mình. Những lời của Chúa Giêsu tuyên bố hôm nay là lời cảnh cáo cho những ai suy nghĩ như thế. Cho dẫu họ có thể ức hiếp người cô thân cô thế ở đời này, nhưng họ sẽ không thoát nổi lời tố cáo của thiên thần bản mệnh trước tòa án của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy vâng nghe những lời chỉ dạy của Thiên Chúa qua Thập Giới và hướng dẫn của Giáo Hội; để có thể tránh tội lỗi và hình phạt gây ra bởi tội.
- Chúng ta hãy luôn ý thức sự hiện diện và lắng nghe tiếng của thiên thần bản mệnh, để tránh được chước cám dỗ của ma quỉ và nhưng nguy hiểm của cuộc đời.
- Chúng ta hãy bằng lòng với sự yêu thương, dạy dỗ, và bảo vệ của Thiên Chúa. Mơ ước được quyền cao chức trọng chẳng sinh lợi ích gì cho phần rỗi linh hồn của chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 01/10 Nhiệt thành với việc truyền giáo cho dân chúng
- 30/9 Phải đặt việc của Thiên Chúa lên trên hết
- 29/9 Hãy đón nhận Đức Kitô là Vua hiển trị muôn đời
- 28/9 Hãy biết quên mình để phục vụ tha nhân
- 27/9 Phải diệt trừ mọi ghen tị và tham lam
- 26/9 Phải vượt gian khổ mới hy vọng đạt được vinh quang
- 25/9 Xây dựng kết quả lâu dài hơn là những chấp vá tạm thời
- 24/9 Phải học hỏi để tìm ra sự thật quan trọng nhất mà thi hành
- 23/9 Phải nhận ra tình thương Thiên Chúa và tội lỗi của mình
- 22/9 Làm theo thánh ý Thiên Chúa