Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 9 TN, Năm B
Bài đọc: Tob 11:5-15; Mk 12:35-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự cần thiết của thời gian.
Con người bị lệ thuộc vào thời gian; Thiên Chúa làm chủ thời gian. Con người khi làm bất cứ việc gì đều muốn có kết quả ngay; nhưng Thiên Chúa đòi con người phải chờ đợi. Trong thực tế, làm việc gì cũng cần phải có thời gian, trước khi nhìn thấy kết quả: trồng cấy, học hành, đầu tư ... Trong việc tập luyện nhân đức cũng thế: thời gian cần để thử luyện đức tin để phân biệt đức tin vững vàng với đức tin yếu kém; thời gian cần để chứng minh đâu là tình yêu chung thủy với tình yêu qua đường; thời gian cần để đào tạo sự kiên trì và trung thành, thay vì những nông nổi và cảm xúc nhất thời.
Bắt đầu Sách Tobit, chúng ta đã đặt hai câu hỏi: "Thiên Chúa có thấy những việc lành con người làm hay không?" và "Tại sao người lành phải đau khổ?" Lý do của hai câu hỏi là vì ông Tobit luôn cố gắng ăn ở theo sự thật: cho con đi mời người nghèo về để cùng ăn uống chung, chôn xác kẻ chết; nhưng ông vẫn bị mù và bị châm biếm bởi vợ! Trình thuật trong Bài Đọc I hôm nay cho thấy kết quả của những cố gắng của ông Tobit: ông được khỏi mù, ông lấy được tiền đã gởi người khác, ông đã lấy được vợ cho con ông và đã chữa cô ta khỏi ách nô lệ của quỉ Asmodeus. Điều này chứng minh: Tất cả mọi chuyện tốt đẹp xảy ra cho những ai cố gắng ăn ở theo sự thật và vững lòng trông cậy nơi Thiên Chúa. Điều quan trọng là phải kiên trì và trung thành, chứ không được đòi hỏi phải có kết quả ngay.
Trong Phúc Âm, vì con người lệ thuộc thời gian, nên đa số không hiểu: làm sao Đức Kitô có thể trở thành Chúa Thượng của vua David được, vì Ngài có sau David cả 1,500 năm? Nhưng Chúa Giêsu muốn con người phải suy nghĩ khi Ngài trích dẫn lời Thánh Vịnh 110:1 này để tìm hiểu đâu là sự thật, vì lời Kinh Thánh không thay đổi, và chính vua David đã nói như vậy. Họ chỉ còn một cách hiểu là chấp nhận mặc khải của Đức Kitô: "Trước khi Abraham có, Ta đã có, vì Ta Hằng Hữu." Chỉ khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài mới có sau David, khi xét theo gia phả con người mà thôi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Được con chữa khỏi mù, lấy được vợ cho con, và đòi được nợ.
1.1/ Thiên-sứ Raphael hướng dẫn Tobia chữa ông Tobit khỏi mù:
(1) Tình cha con: Đức tin của ông Tobit và những việc lành của ông đã ảnh hưởng rất lớn trên đức tin và cách hành xử của Tobia con ông. Chúng ta có thể đan cử ít ví dụ: Tobia tuyệt đối vâng lời cha và thiên sứ; cậu lấy Sarah không phải vì tình dục nhưng vì tình yêu chân thành; cậu luôn lo lắng đến bệnh tình của cha. Đây phải là gương sáng cho những người cha trong gia đình: Nếu các ông muốn con cái kính sợ Thiên Chúa, các ông hãy kính sợ Thiên Chúa trước. Nếu các ông muốn con cái ăn ngay ở lành, hãy làm trước và tạo cơ hội cho các con ăn ngay ở lành.
Kế hoạch chữa mắt cho ông Tobit đã nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi Ngài gởi thiên sứ Raphael đến cho gia đình. Trước khi về đến nhà, thiên sứ Raphael nói lời chỉ dẫn cho Tôbia trước khi cậu đến gần cha: "Tôi biết là mắt cha em sẽ mở ra. Hãy tra mật cá vào mắt ông. Thuốc sẽ làm cho các sẹo trắng teo lại và bay ra khỏi mắt ông. Cha em sẽ thấy lại được, sẽ nhìn thấy ánh sáng."
Khi được vợ cho biết Tobia đang tiến về nhà, ông Tobit đứng lên, chân đi loạng quạng bước qua cửa sân mà ra. Tobia đi về phía ông, tay cầm mật cá; cậu thổi vào mắt ông. Cậu giữ chặt lấy ông và nói: "Thưa cha, xin cha cứ tin tưởng!" Cậu bôi thuốc cho ông và để thuốc ngấm. Rồi cậu lấy hai tay bóc vẩy ra khỏi khoé mắt ông. Ông ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói: "Con ơi, cha đã thấy con! Con là ánh sáng cho đôi mắt cha!"
(2) Tình mẹ con: Bà Anna chắc chắn thương con, vì bà Anna luôn ngồi, ngó trước ngó sau con đường mà con bà đã ra đi. Bà cũng lo cho gia đình khi phải bươn chải ra ngoài kiếm đồng tiền về lo cho gia đình khi chồng bị mù. Bà chỉ có một khuyết điểm là đã không kiên nhẫn và không cầm được tính nóng giận, khi nghi ngờ sự quan phòng của Thiên Chúa và chất vấn về thái độ "quá đạo đức" của chồng mình. Nếu chồng con của Bà nghe lời Bà, và quay lưng lại với Thiên Chúa, làm sao Bà hưởng được những kết quả tốt đẹp như hôm nay. Vì thế, các bà mẹ trong gia đình đừng đay nghiến chồng khi thấy các ông "quá đạo đức;" nhưng hãy lo lắng nhiều khi các ông không đạo đức và không sống theo sự thật Thiên Chúa dạy.
Thấy cậu đang đến, bà bảo cha cậu: "Này con ông đang đến với người bạn đồng hành của nó!" Rồi Bà Anna chạy đến ôm choàng lấy cổ con và nói: "Con ơi, mẹ lại thấy con! Từ nay, mẹ có chết cũng được!" Rồi bà khóc oà lên.
1.2/ Tobia báo cho cha biết mọi điều ông muốn được thành công: Tobia hoan hỷ bước vào nhà, miệng vang lời chúc tụng Thiên Chúa. Tobia kể cho cha cậu biết là cuộc hành trình của cậu đã thành công, cậu đã mang bạc về, đã cưới vợ là cô Sarah, con gái ông Raguel như thế nào, và hiện giờ cô sắp tới, đang tiến gần đến cửa thành Nineveh. Khi nghe con tường thuật kết quả chuyến đi, ông Tobit lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa: "Chúc tụng Thiên Chúa! Chúc tụng Danh cao trọng của Người. Chúc tụng mọi thiên sứ thánh thiện của Người! Ước gì Danh cao trọng của Người che chở chúng ta! Chúc tụng mọi thiên sứ đến muôn đời! Vì tôi đã bị Người đánh phạt, nhưng nay lại được thấy Tobia, con tôi!"
2/ Phúc Âm: Sao các kinh sư lại nói Đấng Kitô là con vua David?
Thiên Chúa hằng hữu, Ngài không lệ thuộc vào thời gian; nhưng trong Kế Hoạch Cứu Độ, Ngài muốn cho Con của Ngài nhập thể. Khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài chịu lệ thuộc vào thời gian. Một cách giúp chúng ta có thể hiểu câu hỏi này, là cách cắt nghĩa theo hai bản tính:
(1) Theo nhân tính: Đức Kitô là con vua David vì Ngài xuất thân từ giòng dõi của David, như Matthew đã cẩn thận chép lại (Mt 1:1-18).
(2) Theo thiên tính: Ngài luôn hiện hữu và cao trọng hơn vua David, vì "chính vua David được Thánh Thần soi sáng đã nói: Đức Chúa (Chúa Cha) phán cùng Chúa Thượng tôi (Đức Kitô): bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con." Chúa Giêsu muốn chứng minh thiên tính của Người bằng cách trưng dẫn lời Thánh Vịnh 110:1 này. Ngài mời gọi đám đông suy nghĩ: "Chính vua David gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì Đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?" Đám đông phải đi tới kết luận như Gioan Tẩy Giả: Người đến sau tôi nhưng Người có trước tôi và cao trọng hơn tôi; phần tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người (Jn 1:15, 27).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người chúng ta không đủ khôn ngoan để thắc mắc sự quan phòng của Thiên Chúa. Khi nào không hiểu được những biến cố xảy ra trong cuộc đời, hãy biết khiêm nhường xin Thiên Chúa soi sáng để có thể hiểu được.
- Chúng ta không bao giờ được xin Thiên Chúa đối xử công bằng theo như những gì chúng ta làm cho Ngài; vì nếu Ngài đối xử công bằng, chúng ta đã không còn có mặt trong thế gian này, vì tội lỗi chúng ta luôn nhiều hơn công phúc.
- Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi nhìn thấy kết quả. Đừng kêu trách, than khóc, và nhất là, từ bỏ lối sống "ăn ngay ở lành" mà Thiên Chúa đã dạy bảo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 6:11, 7:1, 9-14, 8:4-7; Mk 12:28-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải chân thành yêu thương Thiên Chúa và tha nhân.
Để có thể sống hạnh phúc trong cuộc đời và đạt được đích điểm mà Thiên Chúa đã dự phóng, con người cần phải làm theo những gì Ngài dạy: đó là phải yêu thương Thiên Chúa trên hết mọi sự, và chân thành yêu thương nhau.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan trọng tối hậu của tình yêu chân thành với Thiên Chúa và với tha nhân trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, Tobia nói lên mục đích của mình khi cưới Sarah: "Không phải vì tình dục, mà con lấy em con đây, nhưng vì tình yêu chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già." Thiên Chúa đã chúc lành cho cuộc hôn nhân của đôi trẻ. Trong Phúc Âm, khi được hỏi đâu là giới răn quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã trả lời rõ ràng: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Không phải vì tình dục mà con lấy em con đây, nhưng vì tình yêu chân thành.
1.1/ Thiên Chúa quan phòng cho cuộc hôn nhân giữa Tobia và Sarah: Hôm qua, chúng ta đã nghe những lời cầu nguyện của ông Tobit và cô Sarah. Hôm nay, chúng ta chứng kiến những gì họ than khóc biến thành vui mừng theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài gởi thiên-sứ Raphael đến như một người bạn đồng hành của Tobia, để hướng dẫn cậu làm theo tất cả kế họach của Thiên Chúa cho gia đình cậu và gia đình cô Sarah. Một biến cố quan trọng, nhưng bị các Bài Đọc bỏ qua là biến cố giết con cá để lấy tim, gan, và mật cá: Tim và gan cá để trừ quỉ Asmodeus đã giết 7 đời chồng của Sarah, và mật cá để chữa mắt cho ông Tobit khỏi mù.
Thiên sứ Raphael nói với cậu Tôbia: "Đêm nay, chúng ta phải trọ nhà ông Raguel. Ông này là bà con của em và có cô con gái tên là Sarah." Khi vào tới Ecbatana, thiên sứ dẫn cậu tới nhà ông Raguel. Thấy ông đang ngồi ở cửa sân, họ chào ông trước. Ông đáp: "Chào các anh! Chúc các anh mạnh khỏe!" Rồi ông dẫn họ vào nhà. Tắm rửa xong, họ vào bàn để dùng bữa. Cậu Tôbia nói với thiên sứ Raphael: "Anh Azarias, xin anh nói với ông Raguel gả cô em gái Sarah cho em!" Nghe lời ấy, ông Raguel bảo cậu thanh niên: "Này cháu, cháu cứ ăn uống qua đêm nay cho thoải mái, vì ngoài cháu ra, không ai có quyền cưới Sarah, con gái của chú, cũng như chú đây không có quyền gả cho người đàn ông nào khác ngoài cháu, vì cháu là người bà con gần nhất của chú. Nhưng này cháu, nhất định chú phải cho cháu biết sự thật: Chú đã gả nó cho bảy người trong số anh em của chúng ta, nhưng họ đều chết cả, ngay trong đêm họ đến gần nó. Vậy bây giờ, này cháu, cháu cứ ăn uống đi, rồi Đức Chúa sẽ xếp đặt cho chúng con.
1.2/ Lời cầu nguyện của đôi tân hôn trong đêm đầu tiên: Khi thân nhân đã ra khỏi phòng và đóng cửa lại, Tôbia ngồi dậy, ra khỏi giường và nói với Sarah: "Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện, nài xin Đức Chúa để Người xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng ta!" Cô đứng lên, rồi cả hai bắt đầu cầu nguyện và nài xin cho mình được cứu độ. Tôbia bắt đầu như sau: "Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con. Xin chúc tụng Chúa, xin chúc tụng Thánh Danh đến muôn thuở muôn đời! Các tầng trời và toàn thể công trình của Chúa phải chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời! Chính Chúa đã dựng nên ông Adam, dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ là bà Eve, vợ ông. Và dòng dõi loài người đã sinh ra từ hai ông bà. Chính Chúa đã nói: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó. Giờ đây, không phải vì lòng dục, mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già."
Sở dĩ Tobia thắng được quỉ Asmodeus là vì thiên sứ Raphael đã bày mưu cho cậu lấy tim và gan cá đốt trước cửa phòng Sarah, khiến quỉ phải chạy trốn sang Ai-cập và bị Raphael bắt trói lại (Tob 8:2-3).
2/ Phúc Âm: Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân là hai giới răn quan trọng nhất.
2.1/ Đâu là giới răn quan trọng nhất? Con người khôn ngoan không chỉ bằng lòng với nhiều kiến thức, nhưng mong đạt tới trọng tâm của vấn đề. Ông Kinh-sư, sau khi đã nghe Đức Giêsu đối đáp rất hay với những người thuộc nhóm Sadducees, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?"
Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." Hay nói một cách ngắn gọn và dễ nhớ hơn: "Mến Chúa và yêu người." Tất cả Lề Luật đều đặt căn bản trên hai giới răn này.
2.2/ Ông Kinh-sư đồng ý với Chúa Giêsu: Ông Kinh-sư nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ." Lời khen ngợi của ông Kinh-sư không thêm gì cho Chúa Giêsu; nhưng chứng tỏ ông đã nhận ra chân lý của cuộc đời. Ông nhấn mạnh đến con người chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và con người phải thờ phượng Ngài hết lòng, hết trí khôn, và hết sứ lực; vì Ngài dựng nên con người, quan phòng mọi sự trong trời đất, và quyết định vận mạng đời sau của con người. Ông cũng nhấn mạnh đến sự cao quí của tình yêu hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ. Điều này, các ngôn sứ và Sách Thánh Vịnh cũng đã từng nhắc đi nhắc lại; chẳng hạn: "Máu chiên bò Chúa không ưng, của lễ toàn thiêu Chúa không nhận, thì này con đến để làm theo ý Cha" (Psa 40:6). Hay như lời tiên tri Hosea: "Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu" (Hos 6:6).
Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!" Khi một người tìm ra chìa khóa của cuộc đời và sống như thế, thì người đó đã bắt đầu sống cuộc sống trong Nước Trời, dẫu rằng vẫn còn ở đời này; vì cuộc sống đời sau chỉ là cuộc nối dài và làm hoàn hảo tình yêu mà người đó đã có với Thiên Chúa và với tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải năng xét lại giới răn thứ nhất và đối chiếu cuộc đời của chúng ta với đòi hỏi của giới răn này; để xem chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự chưa?
- Một đòi hỏi của giao ước hôn nhân là tình yêu chân thành và vững bền mà hai vợ chồng dành cho nhau; chứ không phải thứ đòi hỏi chóng qua của tình dục. Trước khi tiến tới đời sống gia đình, con người cần phân biệt rõ ràng hai thứ tình yêu này để khỏi bị gẫy cánh giữa đường.
- Mọi sự trong cuộc đời này rồi cũng qua đi hết; chỉ còn tình yêu là tồn tại. Chúng ta hãy dành mọi thời gian và nỗ lực để phát triển tình yêu của chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 9 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Tob 3:1-11, 16; Mk 12:18-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có sự sống lại và cuộc sống đời sau.
Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là một mặc khải tiệm tiến. Mặc dù đã có tiềm ẩn trong Cựu Ước; nhưng chỉ với mặc khải của Chúa Giêsu và sự sống lại của Ngài, niềm tin này mới rõ ràng và chắc chắn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự nhầm lẫn và đau khổ của con người khi không có niềm tin này. Trong Bài Đọc I, cả ông Tobit và cô Sarah đều cầu nguyện xin Thiên Chúa cho họ chết đi, vì không chịu nổi những đau khổ và nhạo báng xảy đến cho họ trong cuộc đời. Trong Phúc Âm, khi những người Sadducees muốn dùng Lề Luật để chứng minh không có sự sống lại, Chúa Giêsu đã mặc khải rõ ràng về có sự sống lại qua lời Thiên Chúa nói với Moses trong Xuất Hành 3:6, và thân xác phục sinh của con người sẽ không còn phải chịu ảnh hưởng của các định luật vật lý nữa, và họ sẽ sống như các thiên thần trên trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự quan phòng của Thiên Chúa
1.1/ Trường hợp của ông Tobit: Có hai lý do làm ông u sầu: thứ nhất, vì ông phải chứng kiến và chịu quá nhiều những đau khổ: bị cướp phá tàn nhẫn bởi Dân Ngoại, bị lưu đày, bị mù; thứ hai, bị châm biếm bởi kẻ thù, và nhất là chịu mỉa mai từ người vợ của mình. Ông không dám trách Thiên Chúa, vì ông biết đó là hậu quả của việc xúc phạm đến Ngài từ cha ông, và ngay cả từ chính cá nhân ông: "Vâng, các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật; Ngài đối xử như thế với con vì tội lỗi con, bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài và đã chẳng sống theo chân lý trước nhan Ngài."
Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên ông Tobit không tìm được một lý do nào để tiếp tục sống giữa bao đau khổ và nhạo cười; nên ông nghĩ chỉ còn một cách: xin Thiên Chúa chấm dứt cuộc đời trên cõi dương gian: "Xin truyền rút sinh khí ra khỏi con, để con biến khỏi mặt đất và trở thành bụi đất. Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian khiến con phải buồn phiền quá đỗi. Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với con, thà chết còn hơn là suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ, và phải nghe những lời nhục mạ."
1.2/ Trường hợp của cô Sarah: Có hai lý do làm cô u sầu: thứ nhất, cô đã 7 lần lấy chồng, nhưng người chồng nào cũng chết yểu bởi quỉ Asmodeus; thứ hai, cô bị đầy tớ châm biếm là "đồ sát phu!" và nguyền rủa cho cô cũng bị chết theo những người chồng đó. Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên cô định lên lầu thắt cổ tự tử; nhưng cô nghĩ đến người cha sẽ phải chịu đau khổ: Người ta sẽ nhục mạ cha cô và châm biếm: "Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa." Nghĩ như thế, cô dang hai tay về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng: "Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân! Chúc tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở."
Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: "Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tobit và Sarah đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa."
2/ Phúc Âm: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.
2.1/ Bẫy giăng của những người Sadducees: Đây là những người thuộc nhóm thống trị và giàu có của Do-thái. Chức Thượng-tế thường đến từ nhóm người này. Khác với Pharisees là những người tin cả vào luật bất thành văn và truyền thống, họ chỉ tin vào luật thành văn, và chú trọng ưu tiên cho Bộ Ngũ Thư. Họ không tin có sự sống lại, thiên thần, và các thần khí. Trong trình thuật hôm nay, họ muốn dùng Lề Luật của Moses để chứng minh không có sự sống lại. Theo Sách Đệ Nhị Luật 25:5-6, "Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Israel."
Dựa trên khoản luật này, họ nghĩ ra một trường hợp không thực tế cho lắm để thử Chúa. Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, ông Moses có viết cho chúng ta rằng: "Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình." Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ."
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: gồm 2 phần chính:
(1) Thân xác phục sinh khác với thân xác trần thế: Thân xác phục sinh sẽ không bị chi phối bởi các định luật vật lý mà con người đang chịu bây giờ; vì thế, "khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời." Sách Enoch cũng đã từng nói: "Các anh sẽ có nguồn vui vĩ đại như các thiên thần trên trời." Sách Khải Huyền của Baruch cũng nói: "người công chính sẽ được tạo thành như thiên thần trên trời."
(2) Chúa Giêsu dùng chính những gì người Sadducees tin để chứng minh có sự sống lại: Trong Sách Xuất Hành 3:6, nói về thị kiến từ bụi gai của Moses, mà Chúa Giêsu trưng dẫn hôm nay, Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Moses: "Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob." Chúa Giêsu thêm: "Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống." Điều này chứng tỏ các Tổ-phụ, Abraham, Isaac, và Jacob, đang sống; vì thế, những người Pharisees đã lầm to khi không tin có sự sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần cố gắng tìm hiểu cho biết thấu đáo mọi sự để niềm tin của chúng ta được vững chắc. Một sự hiểu biết lờ mờ sẽ dẫn chúng ta đến chỗ khủng hoảng đức tin, và sống phất phơ như liễu trước gió.
- Chúng ta biết chắc Thiên Chúa sẽ công bằng phán xét và trả cho mỗi người tùy theo công phúc và tội họ đã làm khi còn sống ở đời này. Bổn phận của chúng ta là cố gắng chu toàn thánh ý Chúa và sống ngay thật mọi ngày trong cuộc đời.
- Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là chân lý căn bản của đức tin Kitô Giáo. Niềm tin này đã từng được mặc khải cách tiềm ẩn trong Cựu Ước, nhưng đã được mặc khải cách minh bạch và rõ ràng bởi Chúa Giêsu và sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 2:9-14; Mk 12:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Của ai trả về cho người ấy.
Để bảo vệ trật tự chung và sống an hòa với mọi người, mỗi người chúng ta đều phải biết khả năng và giới hạn của mình; chẳng hạn, trong hệ thống điều khiển quốc gia, đã có 3 ngành: luật pháp, hành pháp, và tư pháp. Mỗi ngành phải biết quyền năng và giới hạn của mình để đừng dẫm chân lên nhau và gây xáo trộn trật tự. Trong mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng thế, con người phải biết khả năng và giới hạn của mình, để đừng thử thách và can thiệp vào những chuyện của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta vài ví dụ để nhận ra sự bất hòa, khi một người vượt quá khả năng và giới hạn của mình. Trong Bài Đọc I, ông Tobit vượt quá giới hạn của mình khi phán đoán vợ mua dê con của phường trộm cắp. Bà Anna, vợ ông, cũng vượt quá giới hạn của mình khi thắc mắc về sự quan phòng của Thiên Chúa, và sự "quá đạo đức" của chồng mình. Trong Phúc Âm, những người thuộc phái Pharisees và phái Herode đã vượt quá khả năng của mình khi đặt câu hỏi và gài bẫy Chúa: "Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tại sao làm việc thiện mà vẫn gặp điều xấu?
1.1/ Ông Tobit bị mù khi ông mới hoàn tất 2 việc thiện: sai con đi mời người nghèo về dùng bữa, và vừa mới chôn xác kẻ chết.
(1) Truyền thống Do-thái và ngay cả Á-Đông đều tin: "Trời cao có mắt!" Ai làm lành sẽ được Thiên Chúa thưởng; ai làm ác sẽ bị Thiên Chúa phạt. Trong thực tế, việc đó không luôn luôn xảy ra vì nhiều khi kẻ dữ vẫn thịnh vượng; trong khi người lành phải chịu đau khổ, như trường hợp của ông Tobit hôm nay; hay như trong trường hợp của ông Job.
(2) Những người không có niềm tin vững chắc sẽ nghi ngờ không biết có Thiên Chúa hay không? Và nếu có, Thiên Chúa có quan tâm đến việc làm của họ không? Chính Bà Anna đặt vấn đề với ông Tobit: "Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!" Hậu quả nếu không tìm được câu trả lời thích đáng: Con người dễ bị nản chí để không tin và làm theo những gì Thiên Chúa đòi hỏi. Ngược lại, họ sẽ làm những gì mà họ cho rằng đúng. Chúng ta phải chờ đến kết cuộc của Sách Tobit, mới có thể hiểu lý do tại sao người lành phải chịu đau khổ.
1.2/ Hiểu lầm giữa hai vợ chồng: Bà Anna phải làm việc để có tiền chi tiêu trong gia đình. Bà nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. Chủ của Bà là người rộng lượng nên "ngày mồng bảy tháng Dytro, nàng xén tấm vải đã dệt xong, rồi giao cho chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết cho nàng, lại còn thưởng cho một con dê con để ăn một bữa."
- Ông Tobit đặt câu hỏi về sự hiện diện của con dê: "Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi! Vì chúng ta không có quyền ăn của trộm cắp."
- Bà Anna bảo chồng: "Đó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm vào số tiền công!"
- Ông Tobit không tin nàng và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ. Tại sao ông không tin nàng?
+ Dê con là con vật đắt tiền bên Do-thái; nên ông nghĩ Bà có thể là mua lại của trộm cắp.
+ Khi người khác cho quà, người nhận cẩn thận luôn tìm hiểu lý do tại sao; nhiều khi "há miệng ăn rồi mắc nợ." Ông Tobit không muốn vợ mình nhận quà của người lạ.
- Bà Anna tức giận vì chồng ngoan cố không tin, nên nguyền rủa chồng: "Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!"
Cả hai vợ chồng đều mắc lỗi trong biến cố này: Tobit mắc lỗi vì đã không tin và phán đoán không tốt vợ mình. Bà Anna cảm thấy sự đạo đức của ông đi quá xa nên đã nặng lời với ông và nghi ngờ sự quan phòng của Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
2.1/ Câu hỏi gài bẫy Chúa: Lỗi lầm lớn nhất của con người là nghi ngờ và thử thách Chúa. Họ dùng những suy nghĩ và cách hành xử của mình để so sánh và áp đặt trên Thiên Chúa. Nếu họ thấy là tốt đẹp là điều hay, Thiên Chúa cũng phải cho như vậy; nếu họ nghĩ là chuyện không thể làm được, Thiên Chúa cũng phải bó tay. Họ quên đi một điều mà tiên tri Isaiah đã nhắc nhở: Tư tưởng và đường lối của các ngươi không phải là tư tưởng và đường lối của Ta. Như trời cao hơn đất chừng nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi như vậy.
Trình thuật hôm nay cũng thế, họ cử mấy người Pharisees và mấy người thuộc phe Herode đến thử Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ hỏi người: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?" Hai loại người họ gởi tới là hai cái bẫy để Ngài phải rơi vào:
(1) Người Pharisees là cái bẫy tôn giáo: Họ quan niệm không phải nộp thuế cho Caesar, vì con người chỉ mắc nợ Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu trả lời phải nộp thuế, họ sẽ kết tội Ngài vào hùa với ngoại bang để bóc lột dân chúng.
(2) Người thuộc phe Herode là cái bẫy chính trị: Nếu Chúa Giêsu trả lời không nộp thuế, họ sẽ kết tội Ngài phản động chống lại Caesar
Họ nghĩ là họ nắm chắc phần thắng, vì Chúa chỉ có thể trả lời hoặc có hoặc không. Chúa trả lời có hay không, họ đều có lý do để buộc tội Ngài.
2.2/ Câu trả lời khôn ngoan của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!" Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Họ đáp: "Của Caesar." Đức Giêsu bảo họ: "Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."
(1) Phản ứng của những kẻ gài bẫy: "Họ hết sức ngạc nhiên về Người." Trước tiên, họ không ngờ Ngài có thể thoát bẫy họ giăng một cách dễ dàng như thế.
(2) Ý nghĩa câu trả lời của Chúa Giêsu: Chúa nhắc khéo cho những người Pharisees đừng giả hình, vì họ cũng từng lấy mọi thứ thuế của dân đóng vào Đền Thờ. Các tín hữu có hai bổn phận: Họ có bổn phận phải trả lại cho Thiên Chúa những gì Ngài đã ban cho họ. Họ cũng có bổn phận nộp thuế cho chính phủ để bảo vệ an ninh, tu bổ đường xá, và cung cấp các dịch vụ công cộng. Chúa cũng nhắc nhở cho những người thuộc phe Herode biết giới hạn của mình. Họ chỉ có quyền trên những gì thuộc quyền con người; những gì thuộc quyền Thiên Chúa, họ không được đụng tới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần biết khả năng và giới hạn của mình trong cách cư xử giữa con người với con người để bảo đảm trật tự chung và sống hòa thuận với mọi người.
- Chúng ta càng cần biết khả năng và giới hạn của mình trong cách cư xử với Thiên Chúa, để có thể giữ vững đức tin và gặt hái được các kết quả tốt đẹp do việc làm theo thánh ý Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 1:3, 2:1-9; Mk 12:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có cần phải ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong cuộc đời?
Nhiều người cho là không, vì những lý do "cụ thể" sau đây:
(1) Óc "thực tiễn:" Đòi hỏi của Thiên Chúa quá khó khăn, họ phải làm những gì vượt sức con người. Họ đang sống trong "thế gian," chứ có gọi là "thế ngay" đâu? Nếu họ làm như thế, họ trở thành "thánh" mất rồi, mà họ còn đang muốn làm người. Họ quên đi đòi hỏi của Chúa: Hãy sống thánh thiện như Cha của các con trên trời là Đấng Thánh. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa truyền những gì vượt sức con người, Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa, vì Ngài bắt con người làm điều không thể.
(2) Óc "khiêm nhường giả tạo:" Họ đang sống trong một xã hội mà chẳng ai làm như thế; không muốn sống khác người. Họ muốn sống như một người tầm thường, ẩn dật để không ai biết tới. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi họ: Giữa một thế hệ gian tà và sa đọa, họ phải chiếu sáng như những vì sao sáng cho thế gian. Nếu họ không dám sống chứng nhân như đòi hỏi của người Kitô hữu, họ cũng không có quyền đòi được hưởng những ân huệ Chúa dành cho các chứng nhân.
(3) Óc "kinh doanh, nhỏ mọn:" Làm gì cũng phải có lợi nhuận trước mắt. Khi làm việc phúc đức, không biết Chúa có biết hay không? Nếu biết, Chúa có thưởng cho điều gì ngay không? Người kinh doanh khôn ngoan không nhắm lợi nhuận tạm thời trước mắt; nhưng những giá trị vĩnh cửu. Đúng ra, họ chẳng bao giờ có thể sống công bằng với Chúa, vì Người đã làm cho họ vượt quá những gì họ có thể thấy. Hơn nữa, họ không nhìn thấy phần thưởng của những người làm theo ý Chúa trong tương lai.
(4) Óc "hài hòa, thông cảm:" Chúa biết con người yếu đuối nên Ngài sẵn lòng tha thứ mọi khuyết điểm. Vì thế, cứ việc sống không vâng phục; khi nào tiện, vào tòa giải tội một lần là xong. Nếu Thiên Chúa khó quá, ai có thể vào Nước Trời được. Nếu sự thực Chúa khó như vậy, chết cả đám như phần đông nhân loại cũng được!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sống trong nơi lưu đày, gia đình Tobit vẫn kính sợ và giữ Luật Thiên Chúa.
1.1/ Tobit dạy con: cho kẻ đói ăn. Ông Tobit là người Do-thái bị lưu đày qua Nineveh, Babylon. Sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã của nơi lưu đày, đa số đã óan trách Thiên Chúa và không giữ Lề Luật của Ngài; nhưng Tobit vẫn cố gắng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay. Ông đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào, những người cùng đi đày với ông. Dưới triều vua Esarhaddon, ông được trở về nhà. Người ta đã trả lại cho ông Anna, vợ ông, và Tôbia, con trai ông. Trong ngày lễ Các Tuần, người ta dọn cho ông một bữa ăn ngon.
(1) Phản ứng của ông Tobit: Khi thấy người ta bày bàn, dọn cho mình nhiều món, Tobit nói với Tôbia, con ông: "Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Nineveh, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con ơi, cha đợi con cho đến khi con về."
+ Có đau mắt mới biết thương người mù: Ông Tobit đã có kinh nghiệm đói khát nơi lưu đày Nineveh nên ông nghĩ đến những người đói khổ, và muốn họ cùng chia sẻ hạnh phúc có của ăn ngon với ông.
+ Ông là người biết kính sợ Thiên Chúa và muốn thực thi những gì Ngài dạy: Con người phải biết chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khó. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã từng nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại." Làm cho những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là làm cho chính Chúa; và như thế, mới xứng đáng được hưởng phúc lành trong Ngày Tận Thế.
(2) Phản ứng của hầu hết con người sẽ như sau:
+ Không nên làm như thế vì phải chờ đợi! và không được thưởng thức ngay những món ăn ngon còn nóng sốt, làm phí của Thiên Chúa ban cho!
+ Không nên làm như thế vì phải vất vả đi tìm người nghèo. Cứ việc ăn trước, sau này khi gặp người nghèo cho họ vài đồng là xong!
+ Không nên làm như thế vì đồ ăn ngon còn phải tùy thuộc vào bạn hiền và chỗ ăn nữa. Người nghèo là khách lạ mình có biết tính khí họ làm sao? Trên hết mọi sự, mình phải chịu đựng những "mùi" của người nghèo; không biết khi chịu rồi, có còn muốn ăn nữa hay không!
1.2/ Tobit dạy con: chôn xác kẻ chết. Tôbia vâng lời cha ra đi, tìm một người nghèo trong số các anh em chúng tôi. Khi trở về, nó nói: "Cha ơi!" Tôi bảo nó: "Cha đây, con." Nó trả lời: "Thưa cha, có một người trong đồng bào chúng ta đã bị giết và quăng ngoài chợ, là nơi bây giờ người ấy còn đang bị thắt cổ."
(1) Phản ứng của ông Tobit: Tobit liền chồm dậy, bỏ cả ăn, chẳng kịp nếm chút gì. Ông đem người ấy ra khỏi quảng trường và đặt trong một căn nhà nhỏ, chờ lúc mặt trời lặn sẽ đem chôn. Khi trở về nhà, ông tắm rửa, rồi ăn uống mà lòng cảm thấy ưu sầu tang tóc. Ông nhớ lại lời ngôn sứ Amos đã nói về Bethel rằng: "Những ngày lễ của các ngươi sẽ biến thành tang tóc, mọi bài hát của các ngươi sẽ nên khúc ai ca." Khi mặt trời lặn, ông đào huyệt chôn người ấy.
(2) Phản ứng của con người: Láng giềng nhạo cười tôi rằng: "Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!"
2/ Phúc Âm: Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác.
Để dẫn chứng sự bất công và chống lại Thiên Chúa của những người trong THĐ, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp.
2.1/ Hành động của các tá điền: Đã không nộp hoa lợi thì chớ, họ còn bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: "Chúng sẽ nể con ta." Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta." Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. Tại sao các tá điền hành động như thế?
+ Trước tiên, họ khinh thường Lề Luật của Thiên Chúa và của loài người, hay họ nghĩ lấy của nhà giàu không có tội. Họ là những người dân nghèo và nghĩ Thiên Chúa sẽ đứng về phía họ.
+ Họ không biết ông chủ phải vắng mặt đi xa; không biết ông có còn sống không hay chết rồi! Những tên đầy tớ dụng danh ông chủ để bắt chẹt họ và thu hoa lợi.
2.2/ Hành động của ông chủ: Ác giả ác báo! Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta! Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong cuộc đời. Trường hợp không thể vì yếu đuối con người, Thiên Chúa thấu hiểu những cố gắng của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta phải nhắm tới điều thiện hảo và niềm vui khi sống theo những gì Chúa muốn.
- Cố gắng sống theo sự thật là cách chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa và biến đổi thế giới chung quanh. Sống theo trào lưu của thế gian là chúng ta đã bị thế gian đồng hóa bởi họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
“VINH DỰ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA KẺ LÀM CON THIÊN CHÚA’’
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B (31/05/2015)
[Đnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28, 16-20]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Có hai tình trạng đáng mọi Ki-tô hữu phải suy nghĩ: Tình trạng thứ nhất là dường
như trên thế giới này càng ngày càng có nhiều người chối bỏ hay làm ngơ không
quan tâm gì tới Thiên Chúa. Tình trạng thứ hai là trong Giáo Hội có khá nhiều giáo
dân không cảm nghiệm được niềm hạnh phúc và vinh dự được làm con Thiên Chúa!
Vậy xin trân trọng kính mời các bạn hãy đọc thật kỹ ba bài Sách Thánh của Lễ Chúa
Ba Ngôi hôm nay và suy đi nghĩ lại trong lòng để cảm nghiệm được ơn phúc mà
Thiên Chúa Ba Ngôi đã khứng ban cho các bạn và tôi, để từ đó chúng ta đem hết
thiện chí và khả năng ra làm chứng cho Thiên Chúa là Cha của chúng ta và của mọi
người cũng như của mọi dân tộc.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 4,32-34.39-40): Trên trời cao cũng như dưới đất thấp,
chính Đức Chúa là Thiên Chúa, và ngoài Người ra không có thần nào khác.
32 Khi ấy ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng: Anh (em) cứ hỏi những thời xa xưa,
thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi
từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay
có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? 33 Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên
Chúa phán từ trong đám lửa như anh (em) đã nghe, mà vẫn còn sống không? 34 Hoặc
có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác,
đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh
mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã
làm cho anh em tại Ai Cập, trước mắt anh (em) không?
39 Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng
như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.
40 Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền
cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh phúc,
và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vĩnh
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,14-17): Anh em đã lãnh nhận Thần Khí làm cho anh
em nên nghĩa tử nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!”
14 Thưa anh em, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái
Thiên Chúa. 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở
thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử,
nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi! " 16 Chính Thần Khí chứng thực cho
thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con, thì cũng là
thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì
một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): Anh em hãy làm phép rửa cho muôn
dân nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
16 Khi ấy mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền
cho các ông đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài
nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên
trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:
1o) Bài đọc 1 (Đnl 4,32-34.39-40) là những lời của ông Mô-sê thuyết phục những
người dân Ít-ra-en nổi tiếng là “cứng đầu cứng cố” để họ nhận ra những kỳ công mà
Thiên Chúa đã làm cho họ mà trung tín tôn thờ một mình Người. Quả thật Thiên
Chúa đã chọn họ làm dân riêng, đã cho họ thấy quyền năng và vinh quang cao cả
của Người trong cuộc giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập cũng như đã cho họ thấy
Người trong bụi gai bốc cháy. Đáp lại dân Ít-ra-en luôn sẵn sàng lãng quên những
công ơn và tình yêu thương của Thiên Chúa và nghi ngờ Người mà đi tìm các ‘thần
2o) Bài đọc 2 (Rm 8,14-17) là một đoạn của thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-
ma, trong đó Thánh Tông đồ khẳng định những ai được Thần Khí Thiên Chúa
hướng dẫn thì là con Thiên Chúa. Mà một khi đã là con Thiên Chúa thì có quyền gọi
Thiên Chúa là Cha: “Cha ơi = Áp-ba” và được sống trong tự do, không còn sợ sệt
chi nữa. Một khi đã là con Thiên Chúa thì cũng là người thừa kế của Thiên Chúa, là
đồng thừa kế với Chúa Giê-su Ki-tô nên sẽ được hưởng công nghiệp và vinh quang
3o) Bài Tin Mừng (Mt 28,16-20) là tường thuật của Thánh Mát-thêu Tông đồ về
lần hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh ở Ga-li-lê. Trong lần hiện ra này, Chúa Giê-
su sai các môn đệ đi đến với muôn dân để làm cho họ trở thành môn đệ của Người,
để làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Một
Chúa Ba Ngôi) và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Chúa Giê-su đã dạy. Chúa Giê-su
khẳng định với các môn đệ quyền năng (trên trời dưới đất) của Người và hứa sẽ ở
cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là các Ki-tô hữu phải biết nhận ra hồng ân cao cả
Thiên Chúa Ba Ngôi đã ban cho mình mà cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng và lấy làm
* Chúa Cha đã chọn chúng ta làm dân riêng, đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ,
đã tỏ mình ra với chúng ta trong sa mạc.
* Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn chúng ta và cho chúng ta được làm con cái của
Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và quyền sống tư cách của một con
người tự do. Là con Thiên Chúa cũng là kẻ thừa kế của Thiên Chúa và là đồng thừa
kế công nghiệp cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô.
* Chúa Giê-su Ki-tô đã chọn chúng ta làm môn đệ và đã sai chúng ta đến với muôn
dân để giúp họ trở thành môn đệ của Người, sống căn tính hay ơn gọi môn đệ
(discipleship) Chúa Giê-su Ki-tô như chúng ta. Người cũng chọn và sai chúng ta
làm phép rửa cho những ai nhận biết và tin theo Người. Chúa Giê-su Ki-tô hứa luôn
ở bên chúng ta và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống và trong sứ mạng được
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần (Chúa Ba Ngôi) Đấng muốn
và làm cho chúng ta thành con của Người và sống tình thảo kính với Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta sống VINH DỰ & TƯ CÁCH của
những kẻ làm CON Thiên Chúa Ba Ngôi (Cha, Con và Thánh Thần):
* Làm con Thiên Chúa thì sống thảo hiếu phụng thờ Thiên Chúa, và chỉ tôn thờ một
mình Thiên Chúa mà thôi và xem nhẹ coi khinh mọi thứ khác (chức quyền, danh
vọng, của cải, lạc thú) trên đời này.
* Làm con Thiên Chúa thì có lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao và tình thương
mà Thiên Chúa thực hiện và dành cho chúng ta.
* Làm con Thiên Chúa thì biết tuân theo mệnh lệnh của Chúa Giê-su Ki-tô mà đến
với lương dân để giúp họ trở thành môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô và rửa tội cho họ
nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
Cách thứ nhất: (Lời nguyện cộng đồng):
5.1 «Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao
cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào
khác nữa.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho ngày càng có nhiều người nhận ra
Chúa là Thiên Chúa duy nhất.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.2 «Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi
truyền cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh
phúc, và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vĩnh viễn ban cho anh (em).» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả các Ki-
tô hữu biết tuân giữ thánh chỉ và mệnh lệnh của Chúa để được hạnh phúc thật mà
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.3 «Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô
lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó
chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả
các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta để mọi người cảm nhận được Tình
Cha của Thiên Chúa mà sống và chuyện trò với Chúa như một người con nhỏ của
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.4 «Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho càng ngày càng có nhiều Ki-tô hữu dấn thân vào
cánh đồng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giúp các tân tòng trở thành môn đệ
của Chúa Ki-tô Giê-su!
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.5 «Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện
cho chính chúng ta được ơn tin tưởng phó thác vào sự hiện diện thần linh và quyền
năng của Chúa Ki-tô trong đời sống và hoạt động tông đồ của chúng ta.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
Cách thứ hai: (Lời nguyện cá nhân):
1. Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã
chọn chúng con làm DÂN RIÊNG của Cha! Xin Cha giúp chúng con sống trọn vẹn
tư cách là DÂN RIÊNG của Cha giữa lòng thế giới “vừa vô thần mà lại vừa đa thần”
2. Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, chúng con chúc tụng, ngợi khen Chúa và cảm tạ, vì
Chúa đã làm cho chúng con trở nên CON CÁI của Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên
Chúa là Cha và quyền đồng thừa kế công trình cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô. Xin
Thần Khí Chúa giúp chúng con sống trọn tư cách là CON CÁI Thiên Chúa, là đồng
thừa kế của Chúa Giê-su Ki-tô giữa lòng thế giới “ngỗ nghịch và bất hiếu” của ngày
3. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa
đã chọn chúng con làm MÔN ĐỆ của Chúa, đã sai chúng con đến với lương dân để
giúp họ trở thành môn đệ của Chúa. Chúa cũng đã hứa ở cùng chúng con mọi ngày
cho đến tận thế! Xin Chúa ban cho chúng con LÒNG TIN, SỨC MẠNH & SỰ
KHÔN NGOAN để chúng con chu toàn mệnh lệnh của Chúa giữa lòng thế giới “vô
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 51:12c-20; Mk 11:27-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khôn ngoan là luôn biết và sống theo sự thật.
Khôn ngoan là một nhân đức trong bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần ban cho con người khi họ chịu bí-tích Rửa Tội và Thêm Sức. Giống như tất cả các nhân đức, khôn ngoan được ví như hạt giống có đầy đủ tiềm năng, con người phải luyện tập thì nhân đức mới phát triển được; nếu không chịu luyện tập, con người có thể mất nó. Nhân đức khôn ngoan giúp con người nhận ra các sự thật của Thiên Chúa và mau mắn thi hành.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong nhân đức khôn ngoan: làm sao để tìm được và thi hành khôn ngoan. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca cho độc giả những cái nhìn rất thâm sâu về Đức Khôn Ngoan: nó là một tiến trình của cả đời người, con người phải cầu nguyện mới có, con người phải thực hành những gì học được, giữ luật Thiên Chúa, và nhất là phải biết giữ tâm hồn trong sạch mới sở hữu được Đức Khôn Ngoan. Trong Phúc Âm, các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến chất vấn Chúa Giêsu lý do tại sao Người đánh đuổi các con buôn ra khỏi Đền Thờ. Chúa đặt cho họ một câu hỏi để thử xem họ có thành thật muốn đi tìm sự thật không; nhưng khi thấu hiểu thâm tâm gian dối của họ, Ngài không trả lời cho họ biết sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan.
1.1/ Kiên trung tìm kiếm Đức Khôn Ngoan: Vì khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ không đến từ con người; vì vậy, để có được khôn ngoan, con người phải thành tâm cầu nguyện, thì Thiên Chúa mới ban cho con người. Tác giả nói về kinh nghiệm của mình như sau: "Thời còn trẻ, trước khi bôn ba đây đó, tôi đã công nhiên tìm kiếm đức khôn ngoan khi dâng lời cầu nguyện."
Đức Khôn Ngoan không được ban cho con người một lúc, nhưng là tiến trình của cả đời người; vì thế, con người phải học hỏi hàng ngày. Tác giả nói: "Tôi dõi theo đức khôn ngoan từ thuở còn thanh xuân... và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức khôn ngoan."
1.2/ Cách thức học khôn ngoan: Để hấp thụ được Đức Khôn Ngoan, tác giả cho độc giả những lời khuyên quan trọng.
(1) Lắng nghe nhiều hơn nói: "Chỉ lắng tai một chút mà tôi đã hấp thụ được, và tìm thấy cho bản thân một giáo huấn dồi dào." Điều này dễ hiểu, vì khi nghe là con người hấp thụ vào; còn khi nói là lúc con người cho đi. Nếu một người hay nói, làm sao họ có thể hấp thụ được khôn ngoan của người khác?
(2) Quyết tâm sống theo những gì Đức Khôn Ngoan dạy: "Vì tôi đã cương quyết sống theo đức khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện và sẽ không xấu hổ thẹn thùng." Để sinh ích cho bản thân, một người không chỉ cần biết Đức Khôn Ngoan, nhưng còn phải thực hành nó nữa. Khi thực hành, con người có thể phải vượt qua xấu hổ, dèm pha, và truy tố của người không biết Đức Khôn Ngoan.
(3) Thực hành Lề Luật: "Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã phấn đấu, và chuyên cần tuân giữ Lề Luật." Điều này hiển nhiên vì Lề Luật đến từ Thiên Chúa, nguồn gốc của mọi khôn ngoan. Vì con người không biết tất cả, nên Thiên Chúa thân hành ban cho con người Thập Giới qua Moses, để giúp con người biết sống thế nào mang lại hạnh phúc.
(4) Giữ mình trong sạch: "Tôi đã hướng lòng về đức khôn ngoan, và khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan." Trong Tân Ước, Chúa Giêsu dạy: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa" (Phúc thứ 6). Thánh Augustino và Thomas Aquinas cũng dạy điều này, và cho nhân đức trong sạch rất cần thiết trong hành trình đi tìm khôn ngoan và nhìn thấy Thiên Chúa. Người không trong sạch sẽ không được chiêm ngắm Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan và rất mực thánh thiện.
2/ Phúc Âm: Con người có bổn phận phải thi hành sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu không sợ đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng: Trình thuật này tiếp tục trình thuật Chúa Giêsu vào Đền Thờ Jerusalem để đánh đuổi những kẻ đang mua bán và đổi tiền trong Đền Thờ, vì họ biến nhà cầu nguyện của Cha Ngài thành hang trộm cướp. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục trong Đền Thờ rất tức giận với Ngài, vì Ngài đã động tới nồi cơm và quyền lợi của họ. Nhiều người trong bọn họ hay gia đình họ có những quầy hàng trong Đền Thờ, và những người buôn bán phải trả tiền thuê cho họ.
Lẽ ra họ phải vui mừng khi thấy Đền Thờ được Chúa Giêsu trả lại sự thánh thiện cho việc thờ phượng; nhưng họ đâu để ý đến điều đó, mà chỉ để ý đến những mối lợi vật chất, nên họ đến cùng Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?" Một lý do nữa là tự ái họ bị tổn thương, vì Chúa Giêsu là người duy nhất dám đương đầu với thế lực của họ. Dân chúng không ai dám chống lại họ, vì biết sẽ bị khoác trên đầu tội phạm thượng và bị ném đá chết.
2.2/ Chúa Giêsu không dạy sự thật cho những người khinh thường sự thật. Trước khi trả lời câu hỏi của họ, Chúa thách thức họ dám nói sự thật bằng việc đặt với họ một câu hỏi: Phép rửa của Gioan bởi đâu? do Trời hay do người ta?
Họ có đủ khôn ngoan để nhận ra sự thật; nhưng không dám nói thật. Họ bàn với nhau: "Nếu mình nói: "Do Trời," thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?" Nhưng chẳng lẽ mình nói: "Do người ta?" Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan thật là một ngôn sứ. Họ mới trả lời Đức Giêsu: "Chúng tôi không biết."
Đức Giêsu liền bảo họ: "Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy." Ngài biết chẳng ích lợi gì để giảng giải sự thật cho những con người gian dối, không dám nói thật, chứ chưa nói tới việc thi hành sự thật. Họ chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, họ nhân danh Thiên Chúa và lợi dụng niềm tin của những con người ngây thơ chất phác để kiếm lợi nhuận vật chất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Khôn Ngoan đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ ban nó cho những ai thành tâm cầu nguyện và kiên trì học hỏi. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện trước khi bắt đầu học hỏi Đức Khôn Ngoan.
- Học khôn ngoan là tiến trình dài cả cuộc đời, chứ không phải chỉ trong ít phút cuối tuần hay tham dự vài lớp căn bản. Vì thế, chúng ta cần phải học Đức Khôn Ngoan suốt đời và trong mọi biến cố của cuộc đời.
- Để sở hữu Đức Khôn Ngoan, chúng ta không phải chỉ học để biết, nhưng còn phải tìm dịp thi hành trong cuộc đời thì mới sinh ích lợi. Một người chỉ biết mà không thi hành, họ sẽ dần dần mất luôn những điều họ đã học được.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 8 TN1, Năm Lẻ
Bài đọc: Sir 44:1, 9-13; Mk 11:11-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy biết sống làm sao để sinh hoa kết quả cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự trong vũ trụ là cho một mục đích, chẳng có gì gọi là ngẫu nhiên mà có hay không mang một mục đích nào cả. Ví dụ, tạo dựng cây cỏ cho bò ăn; khi bò lớn, bò trở thành thịt cho con người ăn hay để cày bừa; khi con người tăng trưởng, con người trở thành hữu ích cho tha nhân phần xác, hay rao giảng Tin Mừng để đưa con người về cho Thiên Chúa. Vật nào hay người nào không sinh hoa kết quả hay không đạt được mục đích sẽ bị Thiên Chúa loại ra ngoài để lấy chỗ cho vật khác hay người khác biết sinh lợi cho Ngài.
Các bài đọc hôm nay nhằm giúp con người hiểu thấu ơn gọi và mục đích của họ trong cuộc đời. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca so sánh giữa hai dòng dõi: Một bên là dòng dõi vô danh, chẳng để lại gì cho hậu thế, họ qua đi như chẳng bao giờ có mặt trong cuộc đời, và con cháu họ cũng sống cuộc đời vô nghĩa như họ vậy. Một bên là dòng dõi của những người công chính, họ biết sống theo mục đích mà Thiên Chúa đã tiền định cho họ, con cháu họ cũng biết noi gương sống cuộc đời công chính và ngay lành như họ; và cứ thế dòng dõi họ sẽ tồn tại đến muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ.
1.1/ Dòng tộc của những người vô danh: Mỗi người chúng ta đều được hưởng rất nhiều công ơn từ Thiên Chúa, quê hương, tổ tiên, cha mẹ, và những người đi trước. Bổn phận của chúng ta, sau khi đã được hưởng thụ công ơn, là phải tiếp tục cố gắng làm sao để trả những công ơn này. Vì chúng ta không có cơ hội để trả ơn trực tiếp cho Thiên Chúa, chúng ta phải trả cách gián tiếp bằng cách làm ơn cho những người đi sau, trong đó có anh em, con cái, và cháu chắt của chúng ta.
Nếu chúng ta sống vô trách nhiệm, chỉ biết nhận lãnh mà không biết trả ơn, Thiên Chúa, những người đi trước, và những người theo sau sẽ kết tội chúng ta. Con cái, cháu chắt chúng ta cũng sẽ chẳng ra gì, vì họ không được lãnh nhận điều gì tốt từ chúng ta. Tác giả Sách Huấn Ca mô tả người sống vô trách nhiệm và dòng dõi họ như sau: "Có những người không còn ai nhớ nữa, họ qua đi như chẳng bao giờ có, họ sinh ra mà như chẳng chào đời con cháu của họ cũng thế thôi!"
1.2/ Dòng tộc của các danh nhân: Nhưng nếu chúng ta biết sống đạo hạnh và trách nhiệm, công đức của các chúng ta sẽ không chìm vào quên lãng. Những gì chúng ta làm không những sinh ích lợi cho chúng ta, mà còn để lại một gia sản quí báu cho lũ cháu đàn con. Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó. Nếu chúng ta biết giữ vững các điều giao ước và Lề Luật của Thiên Chúa và dạy dỗ con cháu biết làm như thế, dòng dõi của chúng ta sẽ giữ vững các điều giao ước và sống trung thành với Thiên Chúa. Vì thế, dòng dõi của chúng ta sẽ muôn đời tồn tại, và vinh quang của chúng ta sẽ chẳng phai mờ.
2/ Phúc Âm: "Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!"
2.1/ Ý nghĩa của hai trình thuật: Trình thuật "Cây vả bị chúc dữ" chỉ được tường thuật trong Marcô và Matthew, và là một trong những trình thuật khó cắt nghĩa nhất. Lý do vì hầu hết học giả đều chú trọng đến chi tiết mà Marcô tường thuật: "vì không phải là mùa vả." Họ đặt câu hỏi: Tại sao Chúa lại tìm quả và chúc dữ cho cây vả khi chưa tới mùa?
Trong Tin Mừng, Marcô thỉnh thoảng dùng nghệ thuật viết văn được gọi là "đặt giữa hai" (Intercalation hay sandwiching): Mục đích của tác giả khi dùng nghệ thuật này là để làm nổi bật một ý nghĩa mà cả hai trình thuật đều nhắm tới. Ví dụ: trình thuật Chúa rao giảng với uy quyền chứ không giống như các kinh sư được tiếp nối bằng phép lạ Chúa chữa người bị quỉ ám (1:21-28), để nói lên Chúa Giêsu uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động. Trình thuật Chúa chữa con gái người trưởng hội đường được đặt trước và sau phép lạ Chúa chữa người đàn bà bị loạn huyết lâu năm (5:21-43), để nêu bật niềm tin của ông trưởng hội đường và người đàn bà bị loạn huyết. Và trình thuật sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng được đặt trước và sau cái chết của Gioan Tẩy Giả (6:7-30) để nói lên việc các ông sẽ bị truy tố khi thi hành sứ vụ của mình.
Và hôm nay, trình thuật "Chúa thanh tẩy Đền Thờ" được đặt giữa trình thuật "Cây vả bị chúc dữ." Điều quan trọng là phải tìm ra đâu là chủ đề chung của cả hai trình thuật. Trong trình thuật "Cây vả bị chúc dữ," điều Chúa nói với cây vả: "Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!" được thực hiện ngay hôm sau khi Chúa Giêsu và các môn đệ đi ngang qua cây vả. Điều gì Chúa nói sẽ thành sự, Chúa không quan tâm đến việc có đúng mùa hay không. Trong trình thuật "thanh tẩy Đền Thờ," điều Chúa muốn nhấn mạnh: "Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!"
Cây vả hay Đền Thờ có lẽ được Chúa Giêsu ví với dân thành Jerusalem. Thiên Chúa chờ đợi họ thay đổi đã biết bao năm rồi, nhưng họ đã không sinh hoa kết quả gì cả. Một sự kiện lịch sử đáng chú ý là Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy bình địa xảy ra chỉ ít lâu sau đó (vào năm 70 AC); và từ đó đến nay mọi dân tộc trên khắp địa cầu thờ phượng Chúa, không phải ở Jerusalem; nhưng trong thần khí và sự thật.
2.2/ Đạo không phải chỉ là những lễ nghi trong Đền Thờ. Điều quan trọng nhất của đạo là niềm tin vững mạnh của người tín hữu vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này với các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: "Dời chỗ đi, nhào xuống biển!" mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý."
Ngoài ra, tình yêu đối với Thiên Chúa được biểu lộ qua tình yêu dành cho tha nhân. Người dạy họ: "Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã tiền định cho mỗi người một mục đích và trao cho mỗi người một sứ vụ. Chúng ta hãy cố gắng hết sức để chu toàn sứ vụ Chúa trao phó và đạt được đích điểm Ngài đã tiền định.
- Nếu chúng ta không sinh lợi ích cho Thiên Chúa và cho tha nhân, Ngài sẽ chặt bỏ chúng ta mà vứt ra ngoài để lấy chỗ cho những người biết sinh lợi ích cho Ngài.
- Mỗi người chúng ta sống trong bậc gia đình đều được Thiên Chúa trao ban cho một số người con hay tín hữu để được huấn luyện. Chúng ta hãy chu toàn nhiệm vụ bằng cách giáo dục họ theo đường lối Thiên Chúa và chỉ đường cho họ tới với Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 42:15-25; Mk 10:46-52.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quí trọng của con mắt.
Trong năm giác quan của con người, con mắt là quan năng cao trọng hơn cả; vì chúng cung cấp cho trí khôn những ảnh niệm để suy luận. Con mắt được dùng để nhìn và để đọc. Con người có thể dùng con mắt để nhìn thấy những kỳ công của Thiên Chúa tạo dựng, hay để đọc những gì hay mà người khác viết về Ngài. Con mắt luôn đi đôi với trí khôn suy luận. Con người có thể suy luận để biết có Thiên Chúa qua tất cả những gì con người nhìn thấy hay đọc được.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong sự quan trọng của con mắt. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca dùng con mắt để chiêm ngưỡng những kỳ công Thiên Chúa tạo dựng, và dùng trí khôn để suy niệm sự quan phòng của Thiên Chúa, trước khi ông có thể tường thuật lại những gì Ngài làm để cho thế hệ tương lai được biết. Trong Phúc Âm, anh mù Bartimê đã cảm nghiệm được sự đau khổ của việc mù lòa, nên khi biết Đức Kitô đi ngang qua, anh nhất định la to lên xin chữa lành, và Ngài đã cho anh nhìn thấy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những điều mắt thấy, tôi sẽ kể lại.
1.1/ Sự tạo dựng tuyệt vời của Thiên Chúa: Rất nhiều tác giả của Kinh Thánh đã buộc tội con người khi họ có mắt nhìn mà vẫn không tin Thiên Chúa như tác giả của Thánh Vịnh, Isaiah, Job... Thánh Phaolô cáo buộc những người không tin như sau: "Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ" (Rom 1:18-22). Tác giả Sách Huấn Ca bày tỏ niềm tin tương tự: "Tôi sẽ nhắc lại những công trình của Đức Chúa, những điều mắt thấy, tôi sẽ kể lại. Do lời Đức Chúa mà có những công trình của Người."
1.2/ Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cách tuyệt vời như thế, Ngài còn quan phòng mọi sự cách kỳ diệu hơn nữa. Tác giả liệt kê một số những điều quan sát thấy:
(1) Thiên Chúa biết tất cả mọi sự xảy ra trong trời đất, ngay cả những ý nghĩ sâu thẳm trong tâm hồn con người: "Người dò thấu vực thẳm và cõi lòng nhân thế, hiểu rõ toan tính của con người... Không một ý nghĩ nào Người không thấu suốt, chẳng một lời nào là bí ẩn đối với Người."
(2) Thiên Chúa không những biết hiện tại, mà còn thấu suốt mọi dĩ vãng, tương lai: "Người công bố dĩ vãng và tương lai, và mặc khải dấu vết của những điều bí ẩn." Vì đối với Thiên Chúa, mọi sự đều xảy ra trong hiện tại.
(3) Thiên Chúa quan phòng mọi sự cách khôn ngoan: Trong sự quan phòng, Ngài chẳng cần phải thay đổi điều chi cả, và cũng chẳng cần ai làm cố vấn cho Ngài. Thiên Chúa điều khiển mọi sự xảy ra trong vũ trụ, những gì con người có thể thấy hay hiểu và những gì con người không thể thấu hiểu. Tất cả mọi sự đều vâng phục Ngài. Tác giả cho chúng ta hai ví dụ về sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa: Thứ nhất, Thiên Chúa dựng nên các sinh vật đều có đôi để truyền sinh, để bổ túc cho nhau, và để giúp nhau tìm được niềm vui. Thứ hai, là sự hòa điệu nhịp nhàng của muôn vật trong vũ trụ: "Vật này làm tôn vẻ đẹp của vật kia, nhìn ngắm vinh quang của Người, ai mà chán được?"
2/ Phúc Âm: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."
2.1/ Niềm tin vững chắc của anh mù Bartimê: Trình thuật Marcô cho ta biết những đức tính của anh.
(1) Anh biết nhu cầu của mình: Mù lòa là sống trong tăm tối, nhìn đâu cũng toàn thấy một màu đen, đi đâu cũng phải có người dắt. Còn gì khổ hơn người suốt đời không nhìn thấy ánh sáng. Vì mù lòa nên anh không thể tự kiếm ăn, anh phải ăn xin vệ đường và chịu mọi người khinh bỉ. Mù lòa thể xác dẫn tới mù lòa trí tuệ và tinh thần, những mù lòa này còn khổ hơn vì phải sống trong sự giả trá sai lạc. Mù lòa thiêng liêng chỉ có thể được soi sáng bằng những sự thật đến từ Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể cất đi mù lòa và soi sáng tâm hồn. Chúa Giêsu từng xác nhận: "Ta là ánh sáng thế gian... Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống." Còn gì khổ hơn người suốt đời không biết sự thật, nhất là sự thật về đích điểm của cuộc đời. Anh biết mình cần được sáng mắt; vì thế khi được Chúa Giêsu hỏi: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Anh không chút ngần ngại trả lời: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."
(2) Anh biết người nào có thể chữa mình: Bartimê mù chứ không điếc, anh để ý nghe ngóng những gì người ta đồn thổi. Qua sự nghe ngóng, anh tin chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chữa anh khỏi mù. Khi cơ hội gặp Chúa Giêsu đến, anh nhất định không chịu bỏ qua.
(3) Anh không để bất cứ một trở ngại nào ngăn cản mình đến với thầy thuốc: Khi Chúa Giêsu đi ngang qua, anh mù gọi Chúa hai lần, lần thứ hai to hơn lần thứ nhất dù đã bị đám đông ngăn cấm. Khi biết Chúa gọi mình, anh tung áo choàng, bỏ tất cả mọi của cải anh có, đứng phắt dậy và chạy đến với Ngài. Người đang sống trong mù lòa đường thiêng liêng cũng cần có thái độ tương tự như anh. Đừng bỏ lỡ cơ hội học hỏi về Chúa, vì biết đâu khi cơ hội đã qua, nó sẽ không bao giờ trở lại nữa.
(4) Anh là người biết ơn và trả ơn Thiên Chúa: Sau khi được chữa lành, anh không bỏ đi như 9 người phong hủi; anh tung tăng đi theo Chúa Giêsu, có lẽ để ca tụng tình thương của Ngài đã dành cho anh cho mọi người được biết.
2.2/ Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Thiên Chúa không bao giờ từ chối con cái vững lòng trông cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu ban ánh sáng cho người mù vì Ngài nhìn thấy khát vọng được có ánh sáng và niềm tin của anh. Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Thiên Chúa chắc chắn không để những người muốn tìm hiểu về Ngài phải thất vọng. Ngài ban cho mọi người có rất nhiều cơ hội để học hỏi về Ngài và về Đức Kitô, qua việc gởi các sứ giả đến rao giảng Tin Mừng bên ngoài và gởi Thánh Thần làm việc bên trong tâm hồn con người. Ai thành tâm đi tìm Ngài, chắc chắn sẽ được Ngài cho gặp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, chúng ta hãy biết dùng đôi mắt để nhận ra những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm và tin vào Ngài.
- Người mù phần xác đã khổ, người mù về tâm linh còn khổ hơn. Chúng ta đừng nhìn những gì Thiên Chúa tạo dựng cách thờ ơ, lãnh đạm; nhưng phải biết suy nghĩ để nhận ra Người đã tạo dựng nên chúng và tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 36:1, 4-5a, 10-17; Mk 10:32-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương vô bờ của Thiên Chúa và tình yêu toan tính của con người.
Chúng ta không thể nào so sánh tình yêu vô biên của Thiên Chúa với tình yêu ích kỷ và hạn hẹp của con người. Thiên Chúa yêu thương và làm mọi sự cho con người hoàn toàn vô vị lợi, vì con người chẳng thêm thắt được cho Thiên Chúa điều gì dù nhỏ mọn. Trái lại, con người nhận được bao nhiêu hồng ân đến từ Thiên Chúa qua các biến cố tạo dựng, quan phòng, và cứu chuộc. Con người cần học hỏi để cảm nghiệm và xác tín vào tình yêu Thiên Chúa, để rồi đừng đòi hỏi bất cứ điều kiện gì nữa từ Thiên Chúa.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta cảm nhận tình thương Thiên Chúa bằng cách so sánh tình yêu bao la của Thiên Chúa và tình yêu ích kỷ của con người. Trong bài đọc I, tuy Thiên Chúa đã chứng tỏ không biết bao lần tình yêu trung thành và tha thứ cho nhà Israel, họ vẫn có khuynh hướng xin Ngài tiếp tục tái diễn những tình yêu đó, để họ và các dân tộc nhận ra và tin tưởng vào Ngài. Trong Phúc Âm, trong khi Chúa Giêsu tiếp tục cuộc hành trình cuối cùng lên Jerusalem để chịu nộp, chịu đánh đập, và chịu chết trên Thập Giá cho con người; hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi hai bên với Chúa Giêsu trong vương quốc của Ngài. Điều này gây chia rẽ trong hàng ngũ các tông đồ, vì ai cũng muốn được như thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi người trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ngài là Đức Chúa muôn thuở muôn đời.
1.1/ Phải nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa: Trong lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã từng dủ lòng thương đến dân Ngài và đã từng làm cho các dân chung quanh phải kinh hồn sợ hãi uy danh của Ngài. Biến cố Xuất Hành và đưa dân vào Đất Hứa là một ví dụ chứng tỏ tình thương và uy quyền của Thiên Chúa. Qua biến cố này, người Do-thái phải không còn nghi ngờ gì về tình thương và uy quyền của Thiên Chúa. Biến cố Lưu Đày Babylon và cho dân trở về xây dựng lại Đền Thờ và xứ sở là một chứng tích khác cho tình thương tha thứ và uy quyền của Thiên Chúa.
Nhìn lại quá khứ, người Do-thái phải nhận ra tình yêu trung thành của Thiên Chúa. Ngài yêu thương họ với một tình yêu vô bờ bến dù họ chẳng có gì đáng yêu cả. Họ vẫn "xin cho tái diễn những điềm thiêng và lại làm những dấu lạ khác" để các thế hệ được nhận ra tình yêu của Ngài.
1.2/ Xin tình thương Thiên Chúa chảy tràn lan trên muôn người: Dân tộc Do-thái nhớ lại tình thương Thiên Chúa đã dành cho cha ông họ. Họ luyến tiếc thời huy hoàng của triều đại David, khi 12 chi tộc đoàn kết và bờ cõi quốc gia mở mang. Họ nhớ lại cảnh huy hoàng của Đền Thờ Jerusalem và sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ. Họ xin cho những điều này trở lại để họ lại được chứng kiến tình yêu Thiên Chúa.
Tuy thế, họ không thể cứ đòi buộc Thiên Chúa phải tỏ tình mãi mãi. Họ phải biết khi Thiên Chúa làm giao ước, Thiên Chúa hoàn toàn tự nguyện và làm vì lòng thương yêu họ; dân tộc Do-thái chẳng làm thêm được gì cho Ngài. Ngược lại, họ ngang nhiên xé bỏ giao ước, để rồi Thiên Chúa lại phải ký kết với họ một giao ước mới hoàn hảo hơn, giao ước này được thực hiện qua Đức Kitô và máu của Ngài. Dân tộc Do-thái và chúng ta chẳng có quyền đòi hỏi gì hơn nữa nơi Thiên Chúa. Ngược lại, chúng ta phải mở mắt để nhận ra những gì Thiên Chúa đã, đang, và sẽ làm, để cảm nghiệm được tình yêu sâu xa Thiên Chúa dành cho chúng ta. Sau đó, chúng ta phải biết đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng cách trung thành giữ các Luật truyền, và rao giảng tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, để họ cũng nhận ra tình yêu Thiên Chúa và tin tưởng nơi Ngài.
2/ Phúc Âm: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người."
2.1/ Tình yêu tính toán của các tông đồ: Không giống như Matthew, người đặt lời yêu cầu nơi miệng của người mẹ; Marcô đặt lời thỉnh nguyện vào hai người con ông Zebedee là Giacôbê và Gioan. Họ đến gần Đức Giêsu và nói: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang." Chúng ta có thể nhận ra 3 điều từ cuộc đàm thoại của các ông với Chúa Giêsu và với nhau.
(1) Theo Chúa để được làm lớn: Hai ông muốn ngồi chỗ cao nhất, chỉ thua có Đức Kitô. Con người khi yêu thương ai luôn có những tính toán hơn thiệt, chứ ít có những ai muốn "mong ước điều tốt cho người khác" như định nghĩa đúng của tình yêu. Các tông đồ cũng chưa vượt qua tính ích kỷ nhỏ nhen này. Marcô không ngại phơi bày tính xấu của các tông đồ.
(2) Các ông sẵn sàng hy sinh dẫu chưa biết nguy hiểm sẽ xảy đến: Đức Giêsu bảo: "Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được." Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được." Đây là điểm đáng khen của hai ông, vì có những người chỉ muốn vinh quang chứ không muốn hy sinh gian khổ.
(3) Tham vọng sinh ghen tức: Trình thuật kể: "Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan." Các ông có thể nghĩ: Chỉ có hai chỗ nhất, mà hai anh em dành hết, bọn này sẽ ngồi đâu? Các ông hầu như không để ý một chút gì đến việc chia sẻ với Chúa Giêsu và biến cố trước mặt, mà chỉ để ý đến việc chia chỗ sau khi Chúa Giêsu đã chiến thắng vinh quang.
2.2/ Tình yêu hy hiến của Chúa Giêsu: Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu báo trước Cuộc Thương Khó của Ngài, và càng ngày càng chi tiết hơn (x/c Mk 8:31; 9:31; 10:33). Chúng ta có thể nhận ra 3 đặc điểm chính của tình yêu của Chúa Giêsu.
(1) Người lãnh đạo luôn dẫn đầu, chứ được sợ như những môn đệ. Người lãnh đạo phải biết chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ và căn dặn những điều cần thiết để các môn đệ biết cách ứng xử.
(2) Chúa dạy các ông bài học quan trọng của tình yêu: phục vụ. Chúa Giêsu chắc chắn cảm thấy buồn khi điều này xảy ra cho Ngài, và Ngài cũng biết nếu cứ để các ông hành xử theo tính con người, những dự tính tương lai của Ngài cho các ông sẽ tan tành mây khói. Vì thế, Ngài phải dạy cho các ông một bài học quan trọng: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người."
(3) Chúa Giêsu không chỉ dạy, Ngài làm gương cho các môn đệ. Chúa Giêsu áp dụng lời dạy vào chính Ngài: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." Ngài đang cất bước đi trước, sẵn sàng chấp nhận khổ giá để làm gương cho các tông đồ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.
- Bổn phận của chúng ta là nhận ra và đáp trả, chứ không thể tiếp tục đòi Thiên Chúa phải bày tỏ tình yêu; cũng đừng bao giờ đòi điều kiện với Ngài trước khi đáp trả.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 26/5 Thiên Chúa thưởng công xứng đáng những người rộng lượng cho đi
- 25/5 Hãy làm việc lành phúc đức để giúp đỡ mọi người
- 24/5 Các hoạt động của Thánh Thần
- 24/5 Anh em hãy nhận lấy Chúa Thành Thần
- 23/5 Phải rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
- 22/5 Người môn đệ phải lãnh trách nhiệm coi sóc và hy sinh cho đoàn chiên
- 21/5 Chia rẽ và hiệp nhất
- 20/5 Nỗi quan tâm của mục tử khi phải rời bỏ đoàn chiên của mình
- 19/5 Nhìn lại công cuộc rao giảng Tin Mừng
- 18/5 Ngôn ngữ xử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng