Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 22 TN1
Bài đọc: I Thes 5:1-6, 9-11; Lc 4:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Tội lỗi là một thực tại giam hãm và hủy diệt con người. Nhiều người ngày nay tuy sống trong tội lỗi, nhưng không còn nhận ra nguy hiểm nữa vì đã quá quen trong tội. Đức Kitô đến để nhắc nhở con người biết ý thức về tội lỗi và những nguy hiểm của tội lỗi gây ra. Ngài đến để hủy diệt tội lỗi và sự chết bằng cách chấp nhận cái chết trên Thập Giá, để thanh tẩy tội lỗi và mang lại cuộc sống trường sinh cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người luôn biết ý thức về tội lỗi và phải biết luôn chuẩn bị cho ngày tận thế của mình. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu luôn biết chuẩn bị cho Ngày Chúa Đến, bằng cách chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh thức. Cách chuẩn bị hay nhất là sống như hôm nay là ngày cuối đời của mình. Trong Phúc Âm, khi Chúa vào hội đường để giảng dạy, ma quỉ tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa, và ngăn ngừa Ngài đừng tiêu diệt chúng bằng việc dạy dỗ con người. Chúa thẳng thắn trục xuất chúng và dạy dỗ con người phải biết cẩn thận đề phòng để đừng làm nô lệ cho ma quỉ và tội lỗi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngày của Chúa chắc chắn sẽ đến.
1.1/ Phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa đến: Con người chỉ sống một thời gian trên trái đất này, và sau đó sẽ từ giã cuộc đời để về với Chúa. Ngày Tận Thế có thể là Ngày Phán Xét, nhưng đúng hơn, nó là ngày cuối cùng của chính đương sự.
(1) Chúa đến vào thời gian con người không ngờ: Không ai biết được ngày cuối cùng của đời mình. Nhiều người nghĩ phải già, hay có bệnh nguy hiểm rồi mới chết; nhưng thực tế nhiều khi chứng minh ngược lại, nhiều người đã phải đau đớn thốt lên: "lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống, trời ơi hỡi trời!" Thánh Phaolô cũng viết thư khuyên các tín hữu Thessalonica: "Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được."
(2) Phải luôn sẵn sàng chuẩn bị: Vì không ai biết trước ngày giờ tận thế, nên các tốt nhất là luôn chuẩn bị sẵn sàng. Hãy sống như hôm nay là ngày cuối đời của mình. Thánh Phaolô khuyên: "Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em.
Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối."
1.2/ Hãy luôn tỉnh thức và sống tiết độ: Làm thế nào để luôn chuẩn bị sẵn sàng? Các tín hữu Thessalonica chuẩn bị bằng cách không lo lắng làm việc chi hết, chỉ ngồi chờ ngày Chúa đến mà thôi. Thánh Phaolô đả kích cách chờ đợi này, ngài khuyên họ: "Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Vì Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta, để dầu thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người."
Trước hết, phải năng nhắc cho nhau biết chuẩn bị cho ngày đó. Thứ hai, phải biết sống tiết độ: biết dùng tất cả những gì Thiên Chúa ban cách khôn ngoan và chừng mực, tránh làm nô lệ cho bất kỳ một thói quen nào làm chúng ta lạc xa con đường cứu độ. Sau cùng, hãy luôn biết sống trong Đức Kitô: nghe lời Ngài dạy dỗ và bắt chước gương mẫu Ngài làm, sống kết hiệp với Ngài bằng cuộc sống cầu nguyện, và bằng ơn thánh Ngài ban qua các bí-tích, nhất là phép Thánh Thể.
2/ Phúc Âm: Hãy đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
2.1/ Chúa đến để khai trừ quyền lực ô uế ra khỏi con người: Trình thuật kể khi Chúa vào trong hội đường để giảng dạy, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. Không lạ gì khi ma quỉ nhận ra Chúa Giêsu và tuyên xưng Ngài là "Đấng Thánh của Thiên Chúa," vì ánh sáng và bóng tối luôn khai trừ nhau: chỗ nào có ánh sáng là không có bóng tối và ngược lại. Khi con người có Thiên Chúa, họ sẽ không có ma quỉ, quyền lực của bóng tối bị quyền lực của Thiên Chúa khai trừ. Ngược lại, khi một người để ma quỉ bố trí bao vây hết linh hồn, Lời Chúa khó mà thâm nhập vào linh hồn con người.
Ngày nay, ma quỉ vẫn làm chủ con người và vẫn tìm cách để nuốt chửng ánh sáng. Khi nghe Lời Chúa và những lời giảng dạy của linh mục trong thánh đường, ma quỉ vẫn tìm mọi cách để những lời ấy đừng vào tâm hồn các người nghe. Dụ ngôn "Người gieo giống" là một điển hình cho điều này. Chúng cám dỗ con người bằng mọi cách: ngủ gật, chia trí nhìn người khác, để hồn chu du các nơi, ngay cả những vùng cấm địa. Ngoài ra, chúng còn dùng thủ đoạn để vạch lá tìm sâu nơi người rao giảng và ngay cả việc phê bình, chỉ trích, bôi lọ, để nhà rao giảng không còn can đảm để nói sự thật.
2.2/ Chúa đến để dạy dỗ điều hay lẽ phải và thánh hóa con người: Con người có thể trở nên tốt lành bằng cách thực hiện hai điều sau:
(1) Lắng nghe lời dạy dỗ của Đức Kitô: Một trong những điều quan trọng giam hãm con người trong tội lỗi là sự u mê, không nghĩ mình có bệnh. Khi con người có thái độ này, họ không nghĩ mình đang mang bệnh và không cần sự chỉ dạy của ai cả. Một người nghiện rượu không nghĩ mình say, anh chẳng cần phải sửa tính nghiện rượu.
Để có thể chữa trị tội lỗi, con người cần nhận ra mình có tội. Để nhận ra tội, con người cần có thời gian học hỏi và suy niệm để Lời của Đức Kitô soi sáng, để con người có thể nhận ra tình trạng bệnh tật của mình. Ví dụ, khi Ngài nói: "Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa:" Con người cần tìm hiểu lý do tại sao Chúa nói như thế; nhất là nhìn vào cuộc đời của mình để xét xem, mình có bệnh tật đó hay không. Mình có đặt sự giầu có lên trên Thiên Chúa không? Mình có dùng thời giờ của Chúa ban để học hỏi Lời Chúa hay làm việc kiếm tiền để đếm cho sướng tay? Mình có dùng của dư giả để giúp người nghèo hay những nơi cần giúp, hay phung phí tiền của vào những nơi ăn chơi vô bổ?
(2) Lấy sức mạnh và ơn thánh của Đức Kitô để diệt trừ tội lỗi: Tội lỗi thấm nhập lâu ngày rất khó sửa trị, con người cần lấy sức mạnh của Lời Chúa và chính ơn thánh của Ngài ban qua các bí-tích. Ví dụ, khi Chúa nói với người thanh niên, "Hãy bán gia tài anh có và phân phát cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời." Hãy tìm hiểu Lời Chúa xem "kho tàng trên trời" bao gồm những điều gì. Niềm hy vọng vào kho tàng trên trời sẽ giúp con người có sức mạnh để dám hy sinh kho tàng dưới đất. Ngoài ra, con người cần ơn thánh Chúa ban qua các bí-tích, vì sức con người không đủ để chống trả lại sức mạnh của ba thù là ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Vì thế, con người cần thường xuyên lãnh nhận bí-tích Thánh Thể và Giao Hòa, để những ơn thánh từ hai Bí-tích này giúp con người có sức mạnh vượt qua những cám dỗ của ba thù.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm con người trở thành nô lệ cho ma quỉ, và ngăn cản con người đạt tới ơn cứu độ. Chúng ta hãy tìm mọi cách để khử trừ tội lỗi.
- Hãy học Kinh Thánh để Lời Chúa soi sáng chúng ta nhận ra tội lỗi, hãy áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống và năng lãnh nhận bí-tich để có sức mạnh khử trừ tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 22 TN1
Bài đọc: I Thes 4:13-18; Lc 4:16-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng vào cuộc sống trường sinh giúp con người diệt trừ bản ngã.
Một trong những lý do ngăn cản con người tiến tới trên đường trọn lành là bản ngã: cái tôi ích kỷ trong con người. Hầu như mọi tội lỗi đều có nguồn gốc từ bản ngã này. Trong khi Đức Kitô cố gắng dạy dỗ các môn đệ vượt qua khuynh hướng xấu xa này, thì đa số nhân loại ngày nay lại tôn thờ nó dưới mầu sắc khác nhau: khuynh hướng cá nhân chỉ nhằm đạt lợi ích cho bản thân, khuynh hướng vật chất chỉ nhằm hưởng thụ vật chất và gạt ra ngoài những giá trị luân lý, tinh thần. Làm sao con người có thể diệt trừ bản ngã này?
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu sự nguy hiểm của bản ngã này và cách để diệt trừ chúng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Thessalonica đến mục đích tối hậu của cuộc đời là hy vọng được sống trường sinh bất tử với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn vạch ra tai hại của những người sống theo bản ngã này: họ từ chối và muốn tiêu diệt ngay cả Đấng đem lại cho họ niềm hy vọng được sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hy vọng của chúng ta là sẽ được cùng sống lại với Đức Kitô.
1.1/ Sự cần thiết của hy vọng: Hy vọng như thế nào, sẽ sống như thế ấy. Nếu không hy vọng vào cuộc sống mai sau, con người sẽ níu kéo những giá trị của đời tạm này. Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu hai điều chính về cuộc đời:
(1) Chết không hết, nhưng bắt đầu cuộc sống đời đời với Thiên Chúa: Ngài nói: "Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng."
(2) Đức Kitô là niềm hy vọng của các tín hữu: "Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu."
1.2/ Ngày Chúa Quang Lâm: Truyền thống Do-thái, trước khi Chúa Giêsu đến, hiểu rất mơ hồ về Ngày Chúa Đến và về cuộc sống đời đời. Đa số cho hạnh phúc của những người được ơn nghĩa với Chúa chỉ giới hạn trong cuộc đời này: được khỏe mạnh, sống lâu, con đàn cháu đống, được bình an hạnh phúc; nhưng khi chết là hết. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Thessalonica I (được viết khoảng 50-60 AD) là tài liệu đầu tiên cho chúng ta mặc khải của Đức Kitô về những gì xảy ra sau cái chết.
Thánh Phaolô nói về Ngày Chúa Đến như sau: "Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi."
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa cho mọi người có cơ hội đồng đều, nhưng không phải ai cũng biết lợi dụng cơ hội.
2.1/ Chúa Giêsu giảng giải cho người đồng hương: Trình thuật kể: Đức Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
2.2/ Chúa Giêsu hiểu rõ thái độ của người đồng hương: Chúa Giêsu không im lặng để nhận tiếng khen, Ngài muốn họ phải đối diện với thực tế và sửa đổi hai điều.
(1) Họ muốn Ngài làm nhiều phép lạ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capernaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" Làm phép lạ là để khơi dậy niềm tin, chứ không phải để điều khiển người làm phép làm điều mình muốn. Khi không thấy dấu hiệu của đức tin, Chúa Giêsu từ chối việc làm phép lạ.
(2) Họ sẽ khinh thường Ngài, vì "bụt nhà không thiêng:" Chúa Giêsu biết rõ thái độ này của họ, nên Ngài bảo: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình."
Tại sao con người có thái độ khinh thường những người trong gia đình hay trong cộng đoàn? Vì họ không muốn ai hơn mình trong cộng đoàn. Người ngoài đến rồi đi, họ không ảnh hưởng gì trong cộng đoàn. Người trong cộng đòan là người sống thường xuyên với mình: đề cao họ là làm giảm giá trị của mình; vì thế, khi khinh thường người đồng hương, là đồng thời họ đang đề cao cái tôi của mình. Đây là thái độ vẫn đang xảy ra trong gia đình và cộng đoàn: khinh thường người trong nhà, người đồng hương, người trong Dòng, người cùng một nước. Trái lại, đề cao và tôn trọng người ngoài. Lẽ ra, chúng ta phải nâng đỡ và khuyến khích anh/chị/em cùng nhà và cùng nguồn gốc, vì "khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau." Đây là thái độ giết tài năng của người trong gia đình, và ngăn cản việc cùng nhau cộng tác. Nếu vượt qua được thái độ này, gia đình và cộng đoàn sẽ tiến rất mau và mạnh.
Chúa Giêsu muốn sửa chữa thái độ của họ, nên Ngài đưa ra hai sự kiện lịch sử để chứng minh tai hại của thái độ "bụt nhà không thiêng." Ngài nói: "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi."
Lịch sử tái diễn khi Chúa Giêsu vừa nói xong những lời này, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Lẽ ra họ phải biết sáng suốt chấp nhận thực tế: khen và tôn trọng những gì đáng khen; phán xét theo như sự việc là, đừng để bất cứ thành kiến nào ngăn chận để đưa đến phán đoán sai lầm; nhưng họ để cho cái bản ngã ích kỷ và thành kiến che mắt để rồi lại muốn giết luôn Đấng mong muốn mọi sự tốt lành cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hy vọng vào cuộc sống trường sinh phải là động lực chính giúp chúng ta vượt qua cái tôi ích kỷ của mình để làm theo những gì Đức Kitô dạy dỗ.
- Khi chúng ta tháo bỏ bản ngã của mình, Thiên Chúa sẽ làm đầy chúng ta bằng tình yêu và ơn thánh của Ngài, để chúng ta ngày càng trở nên giống Ngài hơn. Ngược lại, nếu chúng ta để cho bản ngã hoành hành, chúng ta sẽ đi dần đến chỗ từ chối luôn mục đích của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 22 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Deut 4:1-2, 6-8; Jas 1:17-18, 21b-22, 27; Mk 7:1-8, 14-15, 21-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đâu là sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực.
Nhiều người giới hạn đạo vào việc thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ: như đi tham dự Thánh Lễ mỗi tuần; hay chỉ chịu Phép Rửa để có danh hiệu Kitô hữu; hay chỉ thi hành một số điều bên ngoài mà Lề Luật đòi buộc. Tôn giáo chân chính đòi con người phải sống kết hiệp với Thiên Chúa khi làm việc thờ phượng cũng như trong đời sống hàng ngày. Các tín hữu phải tuân giữ tất cả các Lề Luật của Thiên Chúa, và phải sống đức bác ái cách trọn hảo bằng việc giúp đỡ tha nhân.
Mỗi Bài Đọc hôm nay tập trung trong một khía cạnh của việc thực hành tôn giáo. Trong Bài Đọc I, ông Moses đưa ra những lý do để khuyên con cái Israel phải tuân giữ trọn vẹn Thập Giới của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc nghe và thực hành những lời Thiên Chúa dạy, vì tri hành phải đồng nhất. Một người không thể tách rời niềm tin ra khỏi những việc làm để minh chứng đức tin sống động của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo việc thực hành tôn giáo bằng những lễ nghi giả hình bên ngoài, như giữ các lề luật về việc thanh sạch bên ngoài; mà quên đi việc thanh tẩy thực sự trong tâm hồn. Ngài muốn con người phải đặt những giới luật của Thiên Chúa lên trên những lề luật và truyền thống của con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy thực hành Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho anh em.
1.1/ Sự cao trọng của Thập Giới:
(1) Thập Giới phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng duy nhất biết những gì tốt lành cho con người. Ngài ban cho con người Thập Giới qua trung gian của ông Moses trên núi Sinai.
(2) Thiên Chúa ban Thập Giới vì Ngài yêu thương con người. Ông Moses coi đây là một đặc quyền cao quí nhất, chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa, khi ông hỏi con cái Israel: "Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?" Không một dân tộc nào được thần của họ ban lề luật như Thiên Chúa ban Thập Giới cho Israel.
(3) Không ai được thêm vào hay bớt đi những gì từ Thập Giới: Thói quen của con người là thích thêm bớt vào những gì đã hiện hữu, hoặc để cho nó văn hoa hơn, hay để che giấu những tà ý. Ông Moses tuyên bố rất rõ ràng về tính bất di dịch của Thập Giới: "Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em."
(4) Thập Giới là điều kiện ắt có và đủ để được vào Đất Hứa: "Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em." Đất Hứa ở đây có thể hiểu là vùng đất Canaan, nhưng bao quát hơn, là Thiên Đàng sau này.
1.2/ Thập Giới ban hành là để tuân giữ: Ông Moses truyền cho con cái Israel: "Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và hiểu biết."
Theo truyền thống Do-thái, Thập Giới được gọi là "Mười Lời" của Thiên Chúa (deca-logos trong tiếng Hy-lạp, decalogue trong tiếng Pháp). Lời có thể là chỉ một chữ hay cả bài diễn văn. Trong ngôn ngữ Do-thái, cũng không có sự khác biệt giữa "lời" và "sự việc, hay sự vật." Họ dùng chung một chữ "dabar" để chỉ lời hay sự việc xảy ra; hiểu theo kiểu Việt-nam, "tri hành đồng nhất." Họ có lý do để làm như thế, vì nếu một người biết nhiều mà không thực hành, nào có ích chi cho người ấy! Thập Giới ban hành không phải để học thuộc lòng, cũng không để đóng khung thờ lạy.
1.3/ Thập Giới không giới hạn tự do của con người: Một cách tuyệt đối, con người vẫn có tự do để giữ hay không giữ; nhưng Thập Giới cung cấp đường đi nước bước cho con người; nhất là nó giúp cho con người nhận ra những nguy hiểm của các kẻ thù luôn rình rập quyến dũ con người. Ngoài ra, Thập Giới cũng giúp con người định vị các thứ tự ưu tiên của cuộc đời: tiên vàn là mối liên hệ hàng đầu giữa con người với Thiên Chúa, thứ đến là mối liên hệ giữa con người với tha nhân, và sau cùng là mối liên hệ giữa con người với thế giới vật chất.
2/ Bài đọc II: Hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
2.1/ Hiệu quả của Lời Chúa:
(1) Lời Thiên Chúa là sự thật: giúp chúng ta phân biệt sự thật khỏi những sự gian trá làm mê hoặc lòng người. Thánh Giacôbê nói về sự cao trọng của Lời Chúa như sau: "Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em."
(2) Phải thực hành Lời Chúa: Cũng một ý với ông Moses trong Bài Đọc I, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu của ngài: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình."
Chúng ta cần biết qua cộng đồng các tín hữu thời sơ khai. Nhiều người lầm lẫn về sự chỉ dạy của thánh Phaolô, nhất là trong Thư gởi tín hữu Rôma và Galat, khi ngài nói: con người được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Đức Kitô. Họ nói: chỉ cần niềm tin vào Đức Kitô là đủ, việc làm không quan trọng, vì nó không ảnh hưởng đến sự cứu độ của con người. Ngày nay, vẫn còn nhiều anh em Tin Lành và nhiều người chủ trương sống theo lối sống này. Đây là một cách cắt nghĩa sai lầm, vì Đức Kitô và thánh Phaolô không chủ trương và dạy bảo như thế. Thánh Giacôbê cũng phải đương đầu với ý kiến như thế trong cộng đoàn của ngài. Chỗ khác trong Thư, ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: "Đức tin không việc làm là đức tin chết" (Jas 2:17).
2.2/ Nếu tin Thiên Chúa, cũng phải yêu mến tha nhân: Mười Điều Răn được Đức Kitô tóm tắt trong hai giới răn căn bản là "Mến Chúa và yêu người." Hay một cách đơn giản hơn nữa, Đạo Công Giáo là đạo yêu thương. Dĩ nhiên, yêu thương theo kiểu của Thiên Chúa, chứ không theo kiểu của con người. Chúa Giêsu đòi các tín hữu phải yêu thương kẻ thù, cầu nguyện, và làm ơn cho kẻ gây thiệt hại cho mình. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: phải có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
3/ Phúc Âm: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
3.1/ Các kinh-sư và biệt-phái tố cáo môn đệ Chúa Giêsu không giữ tập tục của tiền nhân: "Có những người biệt-phái và một số kinh-sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Jerusalem đến. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người biệt-phái cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vậy, người biệt-phái và kinh sư hỏi Đức Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?"'' Luật Kosher của Do-thái là tất cả những luật liên quan tới việc phải giữ làm sao cho thanh sạch trong việc ăn uống cũng như việc tế lễ. Phần lớn những luật này là do con người thêm vào theo thời gian.
3.2/ Hãy để ý tới những nguyên lý nền tảng: Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu muốn dạy con người 3 điều quan trọng:
(1) Đừng thờ Thiên Chúa bằng môi miệng bên ngoài: vì Ngài thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm hồn con người. Họ có thể đánh lừa người đời bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng không bao giờ qua mặt được Thiên Chúa. Chúa Giêsu dẫn chứng lời tiên-tri Isaiah đã từng lên án hạng người này: "Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta."
(2) Đừng vịn vào truyền thống để hủy bỏ Lề Luật của Thiên Chúa: Chúa Giêsu tố cáo họ: "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." Điều chúng ta phải nhận ra ở đây là Ngài không đến để phá hủy truyền thống; nhưng Ngài muốn dạy cho họ biết phải đặt giới luật của Thiên Chúa lên trên mọi luật lệ và truyền thống của con người. Khi nào có sự xung đột giữa giới luật của Thiên Chúa và luật lệ hay truyền thống của con người, họ phải can đảm tuân giữ giới luật của Thiên Chúa. Ví dụ: luật phá thai hay án tử hình.
(3) Thanh tẩy tâm hồn bên trong cần thiết hơn thanh tẩy đồ dùng bên ngoài: Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."
Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là con người phải chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì hậu quả của tội lỗi làm con người ô uế trầm trọng hơn sự ô uế do đồ ăn thức uống gây ra. Những kinh-sư và biệt-phái chú trọng đến việc thanh tẩy bên ngoài để che đậy những ô uế trong tâm hồn, vì họ nghĩ không ai có thể thấy những gì họ giấu kín bên trong; nhưng không phải ai họ cũng giấu được, nhất là họ không thể giấu được Đức Kitô, Người có thể thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải thực hành mọi điều Thiên Chúa dạy trong Thập Giới, vì đó là những Lề Luật căn bản để đem lại hạnh phúc cho con người.
- Lời Chúa không phải là những kiến thức để biết, nhưng là những điều cần thi hành để sinh lợi ích cho con người. Nếu sau khi biết rồi mà không chịu thực hành, chúng ta hoang phí thời giờ vô ích, vì chúng ta đã không sinh lợi được gì cho mình và cho tha nhân.
- Vệ sinh thường thức là điều cần giữ để tránh bệnh tật; nhưng chúng ta phải chú trọng đến việc thanh tẩy tâm hồn, vì tội lỗi làm thiệt hại linh hồn chúng ta nhiều hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 21 TN1. Nhớ Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu.
Bài đọc: I Thes 4:9-11; Mk 6:17-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống yêu thương sẽ xây dựng gia đình và xóa tan mọi hận thù.
Cha ông chúng ta đã biết quá rõ giá trị của yêu thương trong cuộc sống gia đình và cộng đoàn, khi nói: "Yêu nhau cau bảy bổ ba. Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười." Hay "yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa." Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài dạy, toàn bộ của Lề Luật có thể thu gọn vào hai giới răn: "mến Chúa yêu người." Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ: "Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy ... Như Thầy yêu anh em thế nào, anh em cũng phải yêu thương nhau như vậy ... Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em thương yêu nhau."
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong nguyên lý yêu thương. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Thessalonica phải cố gắng yêu thương nhau, giữ hòa khí trong cộng đồng, và làm việc để có của ăn sinh sống và để xây dựng cộng đồng. Trong Phúc Âm, thánh Marcô tường thuật một gia đình giầu có thế lực, nhưng không có yêu thương thành thật. Hậu quả là lối sống loạn luân và thanh toán lẫn nhau trong gia đình: Herode cha có 5 đời vợ và đã giết 3 đứa con ruột của mình; đến nỗi trong dân gian có câu vè: "làm con heo cuả Herode còn an tòan hơn làm con ruột của ông." Herode con, người được nói tới hôm nay, lấy vợ của anh mình. Gioan Tẩy Giả là người công chính, vì muốn sống và làm chứng cho sự thật đã ngăn cản cuộc hôn nhân này, nên đã phải trả giá bằng cách bị chém đầu đặt trên mâm để cô con gái trao cho một bà mẹ trắc nết và thủ đoạn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa.
Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần hiểu những gì xảy ra cho cộng đoàn Thessalonica lúc bấy giờ: nhiều người trong cộng đoàn tin Ngày Quang Lâm đã gần kề, nên họ bỏ hết công việc làm ăn để chờ đợi Chúa đến. Thánh Phaolô phải viết thư khuyên họ về cách chờ đợi Ngày Chúa đến:
(1) Anh em phải yêu thương nhau: "Còn về tình huynh đệ, anh em không cần ai viết cho anh em, vì chính anh em đã được Thiên Chúa dạy phải thương yêu nhau." Đây là đồng phục của các cộng đoàn Kitô hữu: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau. Một khi có tình yêu thương, các tín hữu có thể xóa tan những nghi kỵ, bất hòa, và chia rẽ trong cộng đoàn.
(2) Anh em phải thăng tiến nhiều hơn nữa: Tin Mừng không những được truyền đạt bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng chính cuộc đời chứng nhân của các Kitô hữu. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy càng ngày càng tiến tới trên đàng nhân đức, để Tin Mừng có thể lan rộng trong toàn miền Macedonia.
(3) Đợi chờ Ngày Chúa đến bằng cách chu toàn các bổn phận của mình: Khuynh hướng của con người là thích loan tin giật gân và thổi phồng những gì họ nghĩ sắp xảy ra. Nhìn lại biến cố khi nhân loại sắp bước vào năm 2,000, chúng ta thấy nhiều người nghĩ Ngày Tận Thế sẽ xảy ra, nên họ rút tiền khỏi ngân hàng để ăn chơi thả cửa, không thiết tha gì đến làm việc nữa. Điều này cũng đã xảy ra cho cộng đoàn Thessalonica; vì thế, thánh Phaolô khuyên họ: "Hãy sống cách bình thản, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em." Cách sửa soạn đón Ngày Chúa Đến tốt nhất là chu toàn bổn phận của mình cách trung thành và yêu thương tha nhân cách thành thật, chứ không phải hốt hoảng sợ hãi, lười biếng không làm việc, và sống bám vào người khác.
2/ Phúc Âm: Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!
(1) Gioan Tẩy Giả sống và chết cho sự thật: Đây là tấm gương sáng Gioan Tẩy Giả cho chúng ta. Ông dám nói sự thật mà không sợ hãi bất cứ một quyền lực nào của thế gian. Trong Tin Mừng Matthew, ông thẳng thắn đe dọa các Pharisees và Sadducees khi họ đến để xin ông làm Phép Rửa: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ông cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các ông hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Abraham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa." Trong trình thuật hôm nay, ông Gioan thẳng thắn bảo vua Herode: "Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!" Vì vua Herode đã lấy bà Herodia, vợ của người anh là Philíp. Hậu quả là vua sai lính bắt giam Gioan Tẩy Giả vào ngục thất.
(2) Sự hèn nhát của vua Herode Antipas.
+ Ông là người loạn luân: đã lấy vợ của anh mình là Herode Philip.
+ Ông sống theo sự giả trá: Tuy ông muốn nghe sự thật, nhưng không muốn bênh vực sự thật. Trình thuật mô tả bản chất của ông: "Vua Herode biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.''
+ Khi ông không dám sống theo sự thật, ông sẽ sống theo sự giả trá: "Nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Herode mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilee. Con gái bà Herodia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con." Vua lại còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được."
+ Giữ lời hứa trong lúc say xỉn: Khi nghe cô con gái muốn xin đầu Gioan đặt trên đĩa, nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô.
Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.
(3) Mối hận thù của bà Herodia: Bà căm thù ông Gioan vì cản trở cuộc hôn nhân của Bà, và đợi có cơ hội là giết ông.
+ Bà là người mẹ dạy con làm chuyện đê hèn: Công chúa mà khiêu vũ một mình trước bá quan văn võ là điều xấu hổ. Chân tướng ác độc của Bà được tỏ lộ khi bảo con làm chuyện thất nhân ác đức: xin đầu của một vị thánh đặt trên mâm.
+ Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó, Salome, cô con gái của bà Herodia với Herode Philip, sau này cũng loạn luân như mẹ: Cô lấy cậu mình, Philip the Tetrarch, là con của Herode the Great và bà Cleopatra of Jerusalem.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta: Trên hết mọi sự, anh em hãy có nhân đức yêu thương, vì đó là dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Chúng ta chỉ có nhân đức này khi Thiên Chúa ngự trị trong gia đình chúng ta mà thôi.
- Nếu không có yêu thương thành thật, gia đình chúng ta sẽ biến thành địa ngục như gia đình Herode; và mọi người trong gia đình sẽ phải trả giá đắt về những hành động của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 21 TN1
Bài đọc: I Thes 4:1-8; Mt 25:1-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cách thức để đạt tới Nước Trời.
Nhiều người và nhiều đạo quảng cáo: chỉ cần tin Đức Kitô là được cứu độ mà không cần giữ những gì Ngài dạy; vì những gì con người sống hay làm không có ảnh hưởng gì đến sự cứu độ của con người. Không lạ gì mà những đạo này được nhiều người chạy theo, vì họ muốn được cả hai: đời này và đời sau, vừa thỏa mãn thân xác, vừa thỏa mãn linh hồn!
Các Bài Đọc hôm nay muốn vạch ra những sai trái của lối sông này. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu phải tuyệt đối xa tránh lối sống gian dâm, không phải vì ý khôn ngoan của Ngài, nhưng là thánh ý của Thiên Chúa muốn con người phải sống thánh thiện và tinh tuyền. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết cách tỉnh thức và chuẩn bị cho ngày Chúa tới qua dụ ngôn 10 trinh nữ đi đón chàng rể. Nếu không biết chuẩn bị khôn ngoan, họ có thể bị loại ra ngoài, mặc dù đã được chọn để đi đón chàng rể.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
1.1/ Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh: Thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu: ''Thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa.'' Các tín hữu Thessalonica là những người Hy-lạp, mặc dù đã được rửa tội và dạy dỗ, họ luôn bị cám dỗ để trở về với nếp sống ngày xưa. Đời sống tình dục vô luân là một trong những cám dỗ chính họ phải đương đầu với.
(1) Tránh xa gian dâm: Thánh Phaolô muốn các tín hữu Hy-lạp biết, không phải ngài lấy sự khôn ngoan của con người mà dạy họ, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa: ''Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giêsu mà ra những chỉ thị nào cho anh em. Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh: tức là xa lánh gian dâm.'' Để thực hiện điều này, các tín hữu cần phải sống trong ơn gọi gia đình: ''mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự, chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa.''
(2) Hình phạt cho những ai vi phạm: Thánh Phaolô cảnh cáo: ''Về điểm này, đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em mình, vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những cái đó, như chúng tôi đã từng báo trước và cảnh cáo anh em. Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện.''
+ Nhiều triết gia Hy-lạp dạy: "thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn;" vì thế chỉ có linh hồn mới đáng quí trọng, thân xác không có giá trị gì cả. Hậu quả là họ quan niệm cứ việc sống vô luân trong đời sống tình dục, không có tội lỗi chi cả.
+ Theo quan điểm Công-giáo: thân xác là đền thờ của Thiên Chúa, và sẽ được sống lại hiển vinh trong Ngày Quang Lâm; vì thế, phải giữ cho thân xác được tinh tuyền. Hơn nữa, kinh nghiệm dạy "một tinh thần minh mẫn trong một thân xác tráng kiện;" một thân xác mệt mỏi, tội lỗi không thể giúp linh hồn đạt được những mục đích mà Thiên Chúa muốn con người thực hiện.
1.2/ Đừng khinh thường những chỉ dạy của Thiên Chúa: Thánh Phaolô cảnh cáo: ''Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người.''
2/ Phúc Âm: Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!
2.1/ Mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ: Chúa Giêsu kể một câu truyện: "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn.'' Đám cưới của người Do-thái thường xảy ra ban đêm; vì thế đèn là một vật không thể thiếu. Chàng rể sẽ cho nhà gái biết ngày đón dâu, nhưng không cho biết giờ nào. Khi gần đến, chàng rể sẽ sai người đi trước báo hiệu để đàng gái chuẩn bị ra nghênh đón.
(1) Biết phòng xa là tiêu chuẩn để phân biệt giữa khôn ngoan và khờ dại: ''Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.'' Đèn chỉ có lợi khi có dầu, hết dầu đèn trở thành vô ích, vì không thể chiếu sáng được nữa. Người khôn ngoan là người biết phòng xa, biết tiên liệu những gì sẽ xảy ra, và biết chuẩn bị thích đáng. Các cô khờ dại có thể nghĩ chàng rể sẽ tới đúng giờ, nên số lượng dầu trong đèn sẽ đủ, và không muốn bận tâm mang dầu theo cho đỡ nặng; hoặc các cô nghĩ có thể mua khi hết dầu, nhưng các cô không biết hàng quán nào mà mở ban đêm; hoặc các cô nghĩ có thể mượn đỡ của chị em, nhưng ai dám cho mượn vì họ không biết có đủ cho họ không.
(2) Mệt nhọc và buồn ngủ là hai cái làm con người thiếu tỉnh thức và đề phòng: Đêm tối là thời gian con người ít tỉnh thức và đề phòng; đó là lý do tại sao các tội ác thường xảy ra ban đêm; vì thế, việc gì có thể làm ban ngày, đừng đợi tới ban đêm.
(3) Có những thứ và những lúc không thể cho mượn: ''Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!" Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.''
+ Đức tin không thể vay mượn: Mọi người phải luyện tập mỗi ngày để có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, và để sẵn sàng xử dụng khi cần tới trong những lúc phải đương đầu với đau khổ hay thử thách. Nếu một người đợi đến lúc đó mới đi tìm đức tin e đã quá muộn màng.
+ Tình yêu không thể vay mượn: Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cần thời gian để phát triển; một người không thể đợi đến lúc gần chết mới đi tìm tình yêu, nhưng phải dành thời gian cho Ngài mỗi ngày. Thiên Đàng không có chỗ cho những ai không có tình yêu với Thiên Chúa; và con người cũng không mượn đâu ra được tình yêu để yêu Thiên Chúa.
+ Cuộc sống thánh thiện: không phải một lúc mà có; nhưng phải kiên trì tập luyện mỗi ngày. Các tín hữu trở nên thánh thiện không chỉ bằng khử trừ các tính hư tật xấu; nhưng còn phải kiên trì tập luyện để thủ đắc các nhân đức.
2.2/ Bị gạt ra ngoài vì không chuẩn bị: ''Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!" Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!" Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.''
Bài học cho mọi người được nêu rõ ở đây: hãy luôn biết chuẩn bị sẵn sàng, vì không ai biết được ngày nào, giờ nào. Cả cuộc đời con người là một cuộc chuẩn bị để về với Thiên Chúa; nếu không biết chuẩn bị, con người rất dễ bị gạt ra ngoài. Mục đích của các trinh nữ là đón được chàng rể, thế mà bị gạt ra ngoài vì đèn hết dầu. Tương tự, mục đích của cuộc đời là được về để hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa: nếu không đạt được đích này, chúng ta đã hoang phí cả cuộc đời của mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn biết chuẩn bị trong mọi nơi mọi lúc, mỗi ngày một ít. Đừng bao giờ đợi nước tới chân mới nhảy, kẻo phải ân hận suốt đời.
- Đừng hoang phí thời giờ vào những chuyện vô bổ: tán gẫu, xem TV tối ngày, la cà các chỗ giải trí ... Hãy dành những thời gian này để học hỏi Lời Chúa, và thực hành những gì Ngài dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 21 TN1, Năm B
Bài đọc: I Thes 2:9-13; Mt 23:27-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thi hành đồng nhất: việc làm bên ngoài và ý hướng bên trong.
Trong cuộc sống, con người có thể chọn hai lối sống: Thứ nhất, là lối sống giả hình, giả nhân, giả nghĩa. Người theo lối sống này có thể đánh lừa thiên hạ bằng lời nói: "bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao;'' hoặc bằng cử chỉ điệu bộ: "cầu nguyện lâu giờ nơi công cộng để mọi người biết mình đạo đức, mang dáng bộ thiểu não để mọi người biết mình ăn chay;" hoặc bằng việc làm có tính toán: "thả con tép bắt con tôm." Thứ hai, lối sống tình nghĩa và chân thật: có gì nói đó; trong lòng nghĩ làm sao, cư xử làm vậy. Đây là lối sống theo tình yêu thực sự, không chỉ diễn tả bằng lời nói, nhưng còn được chứng tỏ bằng việc làm; không cho đi để được nhận lại, nhưng cho đi cách chân thành và vô vị lợi.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra hai mẫu người tương phản. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô muốn chứng minh cho các tín hữu Thessalonica: ngài yêu họ thực sự như tình yêu của một người cha đối với con, chứ không phải với một tình yêu giả hình như một số người Do-thái tố cáo ngài vì ghen tức. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo cuộc sống giả hình của các người kinh-sư và biệt-phái. Họ chỉ chú trọng tới bên ngoài như những mồ mả bên ngoài có vẻ công chính tốt lành, nhưng bên trong đầy những mưu mô, thủ đoạn, và tính toán.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được.
1.1/ Việc làm chứng tỏ tình thương: Có những người khôn ngoan chỉ cần nhìn vào thái độ và việc làm của một người, họ biết đương sự có thành thật hay không. Đối với những người này, khó lòng mà qua mặt họ. Nhưng cũng có những người ngây thơ và nhẹ dạ, dễ bị người khác lợi dụng và đánh lừa. Đây là những người bị người Do-thái lợi dụng để chống lại Phaolô. Người Do-thái cho rằng sở dĩ Phaolô hết lòng rao giảng cho các tín hữu Thessalonica là vì lòng ham muốn lợi nhuận. Khi Phaolô nghe biết có những dư luận như thế, Ngài phải viết thư để khuyên các tín hữu phải khôn ngoan nhớ lại những gì ngài làm khi còn ở với họ: "Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em. Anh em làm chứng, và Thiên Chúa cũng chứng giám, rằng với anh em là những tín hữu, chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được."
Phaolô rất hãnh diện về thái độ "tay làm hàm nhai" của mình. Nghề nghiệp Phaolô làm để sinh sống là nghề chế tạo lều, một vật không thể thiếu cho những người du mục. Nhiều lần Phaolô nói với các tín hữu mặc dù ngài có thể đòi các tín hữu phải trợ cấp như các tông-đồ khác, vì Ngài cũng là nhà rao giảng Tin Mừng; nhưng Ngài chọn để sống tự lập, để không trở thành gánh nặng cho bất cứ ai. Việc làm lều để kiếm tiền sinh sống là một bằng chứng lời tố cáo của những người Do-thái ghen tị không có bằng chứng.
1.2/ Không xấu hổ trước mặt Thiên Chúa: Có những nhà rao giảng Tin Mừng chỉ nói để hoàn tất sứ vụ của mình; nhưng cũng có những nhà rao giảng nhiệt thành làm mọi cách để đưa tha nhân về với Chúa. Phaolô muốn chứng minh ngài là mẫu người thứ hai: "Anh em biết: chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người."
Một điều nữa thánh Phaolô muốn các tín hữu nhận ra là bản chất của Tin Mừng: Lời Chúa tự nó có thể giúp các tín hữu nhận ra điều nào là sự thật hay gian trá, như một thanh gươm hai lưỡi xuyên thấu mọi tâm hồn: "Bởi thế, về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu."
2/ Phúc Âm: Sống giả hình để đánh lừa thiên hạ và che giấu tội lỗi.
2.1/ Cuộc sống giả hình: Chúa Giêsu tố cáo các kinh-sư và biệt-phái: "Khốn cho các người, hỡi các kinh-sư và biệt-phái giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!''
+ giả hình "u'pokrith,j" có ba ý nghĩa: Thứ nhất, là người trả lời, hay người thông dịch, chỉ biết những cái gì hai bên muốn nói, nhưng không biết ẩn ý bên trong. Thứ hai, là kịch sĩ hay bất cứ ai giữ vai trò trong vở kịch. Kịch sĩ là những người phải diễn tả những gì soạn giả muốn nói. Kịch sĩ nổi tiếng là người phải nhập vai, phải diễn tả chính xác và như thật với vai trò của nhân vật mình đang đóng; ví dụ, phải khóc thảm thiết trong lúc tâm hồn thực sự chẳng có lý do gì để khóc, phải cười rũ rượi trong khi lòng đang buồn sầu lo lắng. Sau cùng, là người giả hình, những người chỉ chú ý đến điệu bộ bên ngoài, để che dấu những gì họ muốn bên trong.
+ Mồ mả tô vôi: để tránh khỏi bị nhơ bẩn cho dân chúng, các mồ mả được quét vôi trắng để mọi người nhận ra mà tránh đụng vào để khỏi bị "không sạch." Tuy nhiên, có trắng thế nào chăng nữa, cũng không che đậy được thực tế bên trong là xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.
+ Lối sống giả hình: của các kinh-sư và biệt-phái cũng giống như vậy. Họ mặc đủ mọi thứ áo quần, đeo những thẻ kinh và tua áo, làm những điệu bộ cung kính bên ngoài ... Tất cả những điều này chỉ có thể đánh lừa những người nhẹ dạ dễ tin; nhưng không thể qua mặt được những người khôn ngoan kinh nghiệm, và không thể nào giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi cảm nghĩ và những thủ đoạn của họ.
2.2/ Truy tố các ngôn sứ: "Khốn cho các người, hỡi các kinh-sư và biệt-phái giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: "Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ." Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!"
Xây mồ cho các ngôn sứ: Hầu hết các ngôn sứ đếu bị người Do-thái đối xử bất công, truy tố, và giết chết. Lý do đơn giản là các ngôn sứ vâng lời Thiên Chúa nói những gì dân chúng không thích, hay tố cáo tội lỗi của vua quan hay dân chúng. Các kinh-sư và biệt-phái xây mồ cho các ngôn sứ hay tô mả cho các người công chính để chứng tỏ họ không giống như cha ông của họ. Chúa Giêsu tố cáo: nếu họ thực lòng muốn như thế, họ phải thay đổi thái độ và tiếp nhận các ngôn sứ. Đàng này, họ vẫn đang tìm cách bắt bớ và truy tố chính Chúa Giêsu, Ngôn Sứ cao trọng nhất của Thiên Chúa.
Thời nay vẫn không thiếu những người như các kinh-sư và biệt-phái này. Có những người tín hữu khi cha mẹ còn sống thì chẳng chăm sóc hay thăm viếng; khi cha mẹ chết rồi mới than khóc vật vã để che mắt thiện hạ. Họ tổ chức tang lễ cho thật linh đình và xây mồ mả thật đẹp cho cha mẹ để che mắt sự bất hiếu của mình. Tục ngữ Việt-nam châm biếm những người này: "Lúc sống, thời chẳng cho ăn. Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tập để biết sống thành thực với Thiên Chúa, với tha nhân, và với chính mình. Đừng sống giả hình như những kịch sĩ trên sân khấu, để rồi không biết sự thật là gì nữa.
- Khi sống thành thực, chúng ta sẽ cảm thấy bình an, không lo sợ bị lột mặt lạ, và nhất là không lo sợ khi phải ra trước Tòa Phán Xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 21 TN1
Bài đọc: I Thes 2:1-8; Mt 23:23-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trong ngoài như một; lời nói phải đi đôi với hành động.
Nhiều người chú trọng đến hình thức bên ngoài, vì họ nghĩ người khác chỉ có thể đánh giá họ trên những cái bên ngoài đó; nhưng họ biết đâu, họ không qua mặt được những người khôn ngoan có kinh nghiệm, và nhất là Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay mời gọi con người vượt qua hình thức bên ngoài để đi sâu vào đời sống nội tâm bên trong. Trong Bài Đọc I, vì đã quá quen với cách đánh giá trị hời hợt bên ngoài, các người Do-thái đã dùng thủ đọan để tố cáo Phaolô có cuộc sống hai mặt: lạm dụng việc rao giảng Tin Mừng để mưu cầu lợi ích cho bản thân. Vì thế, ngài phải viết thư khuyên các tín hữu Thessalonica hãy cẩn thận trong việc phán đóan: cuộc sống của Ngài khi ở với họ là bằng chứng hùng hồn cho những gì Ngài rao giảng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vạch trần cuộc sống giả hình của các người Biệt-phái. Họ quá chú trọng đến chi tiết mà quên đi mục đích và nguyên tắc của Lề Luật là sự thật, lòng nhân hậu, và sự trung tín. Họ quá chú trọng đến hình thức bên ngoài mà quên đi sự cần thiết của việc thanh tẩy và thánh thiện trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những thái độ cần có và phải tránh khi rao giảng Tin Mừng.
1.1/ Những thái độ cần có khi rao giảng Tin Mừng: Người rao giảng Tin Mừng là những ngôn sứ của Thiên Chúa được Ngài sai đi để nói thay Ngài; chứ không phải tự ý họ chọn để làm ngôn sứ. Vì thế, ngôn sứ cần phải chu toàn sứ vụ:
(1) Cho vinh danh Thiên Chúa: Thánh Phaolô tuyên bố rõ ràng: "Vì tin tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go."
(2) Cho phần rỗi linh hồn tha nhân: Yêu Chúa là thương tha nhân, linh hồn của tha nhân là điều quí trọng nhất. Thánh Phaolô tâm sự: "Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi."
(3) Rao giảng sự thật: Sứ vụ của ngôn sứ là rao giảng chân lý đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, như thánh Phaolô tuyên bố: "Lời giảng của chúng tôi không do sự sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai, nhưng vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng."
1.2/ Những thái độ phải tránh khi rao giảng Tin Mừng: Bên cạnh những điều phải làm, ngôn sứ cần phải tránh những thái độ sau đây:
(1) Làm vừa lòng người phàm: Đây là khuynh hướng rao giảng để tìm vui cho thiên hạ, để làm cho người khác cười, mà không đem đến sự cải hóa tâm hồn bên trong. Khuynh hướng này rất dễ đưa tới việc thuật lại những chuyện tiếu lâm hay những áng văn chương, thay vì chú trọng đào sâu Lời Chúa. Dĩ nhiên, ai cũng biết tâm lý quần chúng là thích cười, không thích phải suy nghĩ, và càng không thích những gì làm lương tâm họ phải cắn rứt; nhưng không phải vì thế mà ngôn sứ phải chiều theo thị hiếu của khán giả. Họ chỉ có 10 phút để nghe giảng mỗi Chủ Nhật hoặc tối đa là một tiếng mỗi khi giảng phòng, để nhà ngôn sứ nói cho họ nghe về Lời Chúa; chẳng lẽ nhà ngôn sứ không biết sự khẩn thiết của những khỏang thời gian này! Nếu khán giả thích kịch nghệ, họ có dư thời gian để ở nhà xem các chương trình cười hay đến các hí trường để xem kịch nghệ; thánh đường không phải là chỗ cho những giải trí thoải mái này. Ngôn sứ không phải là kịch sĩ hay nhà hài hước, nhưng là thợ đưa tâm hồn con người về cho Thiên Chúa. Nếu khán giả phải hư đi vì không được nghe lời sự thật của Thiên Chúa, nhà ngôn sứ phải chịu trách nhiệm về sự hư đi của khán giả (Eze 3:18)!
(2) Sợ làm mất lòng khán giả: Ngôn sứ nào sợ đụng chạm, sợ mất lòng khán giả sẽ không dám rao giảng sự thật của Lời Chúa. Ví dụ: không dám rao giảng về tai hại của xì ke, ma túy khi biết nhiều khán giả bên dưới đang hành nghề "trồng cỏ!" Không dám rao giảng về sự trung thành trong ơn gọi gia đình, khi biết nhiều khán giả bên dưới đang trong tình trạng ly thân, ly dị, hay ngoại tình.
(3) Tìm lợi nhuận cá nhân: Thánh Phaolô rất thành thật khi nói: "Chúng tôi không bao giờ dùng lời xu nịnh: như anh em biết; không bao giờ chúng tôi đã viện cớ để che đậy lòng tham, có Thiên Chúa chứng giám." Ngôn sứ nào có khuynh hướng này sẽ rao giảng để đề cao cá nhân mình, thay vì làm vinh danh Thiên Chúa; sẽ rao giảng để được thăng quan tiến chức; hay lợi dụng việc rao giảng để quyên tiền hay để bán những sản phẩm của mình.
(4) Để được người đời khen ngợi: Thánh Phaolô thú nhận: "không bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em hay người khác." Ngôn sứ nào có khuynh hướng này sẽ chỉ rao giảng khi có đông người, và khinh chê rao giảng trước đám đông ít ỏi; chú trọng đến việc rao giảng cho thành phần trí thức, và khinh chê những thành phần ít học.
2/ Phúc Âm: Hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
2.1/ Hãy chú trọng đến công lý, lòng nhân và thành tín: Chúa Giêsu nhắc nhở khán giả phải nắm lấy nguyên lý và mục đích của Lề Luật, khi Ngài vạch ra cái nhìn thiển cận của các kinh-sư và Biệt-phái: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và Biệt-phái giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ." Ví dụ, mục đích của Lề Luật là để bảo vệ con người, chứ không phải để con người làm nô lệ cho Lề Luật. Vì thế, không được nhân danh Lề Luật để làm thiệt hại mạng sống con người, hay cấm không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.2/ Phải tránh những mù quáng của các người Biệt-phái: Nhiệm vụ của người lãnh đạo là phải biết tất cả những gì nguy hiểm có thể xảy ra trên đường và biết cách đối phó. Người lãnh đạo không thể:
(1) Quá chú trọng đến chi tiết nhỏ nhặt mà quên những điều trọng yếu: Chúa Giêsu mắng các kinh sư và Biệt-phái: "Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà." Chúa có ý muốn nói, họ quá để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt, mà quên đi bao điều to lớn và quan trọng hơn.
(2) Quá chú trọng đến những cử chỉ bề ngoài, mà không chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn: "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và Biệt-phái giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi những Biệt-phái mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch." Chúa có ý muốn nói khi rửa chén đĩa, chỗ quan trọng cần phải sạch là phần bên trong, chỗ tiếp xúc với đồ ăn, cần phải sạch. Cũng vậy, tâm hồn và trí tuệ con người là những nơi cần phải sạch hơn cả, chứ không phải chỉ sạch sẽ thân xác bề ngoài mà thôi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy biết sống thành thực với Thiên Chúa, với tha nhân, và với chính mình. Chúng ta không thể giấu bất cứ điều gì với Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét chúng ta.
- Khi rao giảng Tin Mừng, chúng ta hãy rao giảng những gì Thiên Chúa dạy một cách chân thật và vô vị lợi; nếu không, chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm với Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Kính Thánh Batôlômêô Tông Đồ
Bài đọc: Rev 21:9b-14; Jn 1:45-51.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đến mà xem.
Có những sự vật vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả; nên con người cần phải đến mà xem mới biết; ví dụ, các kỳ quan thế giới. Có những danh nhân được nhiều người ca tụng; nhưng để hiểu con người của họ, một người cần đến tiếp xúc trực tiếp với họ; ví dụ, nữ hoàng Phương Nam đến gặp vua Solomon để học hỏi sự khôn ngoan của ông. Đức Kitô là đối tượng của niềm tin mà con người cần học hỏi và có kinh nghiệm trực tiếp. Người khác có thể giới thiệu hay nói về Đức Kitô cho con người; nhưng để có thể tin chắc chắn vào Đức Kitô, con người cần đến với Ngài để học hỏi và có kinh nghiệm cá nhân với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến kinh nghiệm trực tiếp một người phải có, trước khi tin vào đối tượng mà họ đang muốn tìm hiểu. Trong Bài Đọc I, thiên thần của Thiên Chúa mang tác giả lên một ngọn núi cao, để ông có thể chiêm ngưỡng tận mắt Hiền Thê của Con Chiên là Giáo Hội. Hiền Thê đây chính là Thành Thánh Jerusalem lý tưởng đến từ trời, là tập hợp của 12 chi tộc Israel của Thiên Chúa trong Cựu Ước và 12 Tông-đồ của Đức Kitô trong Tân Ước.
Trong Phúc Âm, Philip sau khi nhận biết Đức Kitô, đến gặp Nathanael để giới thiệu Đức Kitô với ông. Nathanael nghi ngờ khi Philip nói Đức Kitô đến từ Nazareth; nhưng Philip nhấn mạnh ông cứ đến mà xem cho chính ông. Nathanael đã tới và nhận ra Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con Chiên."
1.1/ Giáo Hội là Tân Nương, Hiền Thê của Đức Kitô: Một thiên thần đến bảo tác giả: "Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con Chiên." Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Jerusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê."
+ Giáo Hội được ví như thành thánh Jerusalem, nơi là nguồn gốc và trung tâm điểm của Giáo Hội. Sự kiện Thành Thánh Jerusalem xuất hiện từ trời muốn nói lên đây là mô hình kiểu mẫu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Giáo Hội. Giáo Hội lữ hành trần thế sẽ được chung hưởng vinh quang với Giáo Hội vinh quang trên trời.
+ Vinh quang của Giáo Hội là phản ánh vinh quang của Thiên Chúa: Sự hiện diện của Thiên Chúa làm vinh quang của Ngài bao trùm Giáo Hội. Những chi tiết mô tả ở đây muốn nói lên sự thánh thiện vô tì tích của Giáo Hội sau khi đã được tẩy rửa và thánh hóa bởi Máu của Con Chiên là Đức Kitô.
1.2/ Giáo Hội là sự kết hợp liên tục giữa Cựu Ước và Tân Ước:
+ 12 chi tộc Israel (Eze 48:30-35, Exo 28:17-31): "Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Israel."
+ 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc; mỗi phương có 3 cửa để tiếp nhận mọi dân tộc vào Giáo Hội.
+ 12 Tông-đồ của con chiên (Mt 19:28, Lk 22:29): "Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên."
2/ Phúc Âm: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!"
2.1/ Phải trút bỏ thành kiến để học hỏi những điều mới lạ: Thánh Thomas Aquinas nói: "Yêu ai là mong muốn sự tốt lành cho người ấy." Trong quãng đời công khai rao giảng của Đức Kitô, chúng ta thấy kiểu mời gọi này: Khi đã nhận biết Đức Kitô, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Ngài cho hai môn đệ đi theo (Jn 1:35-37). Một trong hai môn đệ là Anrê đã giới thiệu Đức Kitô cho em mình là Phêrô (Jn 1:40-42). Trong trình thuật hôm nay, Philip mời gọi ông Nathanael đến gặp Chúa và nói: "Đấng mà sách Luật Moses và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth." Ông Nathanael liền bảo: "Từ Nazareth, làm sao có cái gì hay được?" Ông Philíp trả lời: "Cứ đến mà xem!"
Thành kiến giam hãm và ngăn cản con người không nhìn ra sự thật. Hai điều có thể ngăn cản Nathanael không đến với Chúa: Thứ nhất, sự cạnh tranh giữa các làng mạc: Nathanael quê ở Cana; giữa Cana và Nazareth có thể có sự cạnh tranh vì hai làng rất gần nhau. Thứ hai, theo Kinh Thánh, Đấng Thiên Sai sẽ xuất hiện tại Bethlehem là quê hương của vua David, chứ đâu xuất hiện tại Nazareth, một làng quê mùa phía Bắc như vậy. Đứng trước nhận định khinh thường như thế, Philip không nản chí, nhưng vẫn khuyến khích bạn: thì cứ thử đến mà xem! Nathanael có lẽ vì nể tình bạn với Philip, nên đi đến gặp Đức Kitô.
2.2/ Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Kitô và Nathanael.
(1) Đức Kitô khơi dậy niềm tin nơi Nathanael: Đức Giêsu thấy ông Nathanael tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: "Đây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối." Đây là ý tưởng của Thánh Vịnh 32:2, "Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà."
Phản ứng trước tiên của Nathanael là sửng sốt vì ông chưa gặp Ngài bao giờ, thế mà Ngài lại thấu suốt cuộc đời của ông. Ông Nathanael hỏi Người: "Làm sao Ngài lại biết tôi?" Đức Giêsu trả lời: "Trước khi Philíp gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi." Lại một ngạc nhiên nữa, Chúa Giêsu có khả năng nhìn thấy mọi nơi, điển hình là lúc ông đang nói chuyện với Philip dưới gốc cây vả. Biết mình không còn gì có thể giấu Chúa Giêsu, ông khiêm nhường thú nhận: "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!"
(2) Đức Kitô hứa sẽ cho Nathanael thấy những điều kỳ diệu hơn nữa: Đức Giêsu đáp: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa." Người lại nói: "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người."
+ Thị kiến chiếc thang của Jacob: Cụm từ "Thiên thần lên lên xuống xuống" nhắc nhở chúng ta thị kiến chiếc thang trong giấc mơ của tổ-phụ Jacob tại Bethel (Gen 28:12-13). Đức Kitô giải thích Ngài là chiếc thang nối kết giữa Trời và Đất, các sứ thần của Thiên Chúa sẽ không ngừng lên xuống để dâng lời cầu nguyện của con người lên Thiên Chúa, và chuyển ơn thánh từ Thiên Chúa xuống cho con người.
+ Ai là Nathanael mà Tin Mừng Gioan đề cập đến ở đây? Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau: (1) một hình ảnh lý tưởng tượng trưng cho con cái Israel; (2) có người cho là Phaolô hay người "môn đệ được Chúa yêu;" và (3), là tông-đồ Bartholomew mà Tin Mừng Nhất Lãm đề cập tới. Sự kiện chúng ta mừng lễ thánh Bartholomew chứng tỏ Giáo Hội chấp nhận cách giải thích số (3).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần dành thời giờ để học hỏi và phát triển mối liên hệ mật thiết với Đức Kitô. Chỉ có thế mới giúp chúng ta có được một niềm tin yêu vững mạnh nơi Ngài.
- Bổn phận của chúng ta là giới thiệu cho mọi người đến với Đức Kitô, chứ không phải tập trung vào chúng ta. Chúng ta có thể giới thiệu Đức Kitô cho tha nhân bằng lời giảng hay bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Chúng ta đừng bao giờ ngăn cản tha nhân đến với Thiên Chúa vì lời giảng hay hành động của chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 21 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Jos 24:1-2, 15-17; Eph 5:21-32; Jn 6:60-69.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết làm các quyết định khôn ngoan trong cuộc đời.
Con người phải thường xuyên làm rất nhiều quyết định trong cuộc đời: có những quyết định không quan trọng cho lắm như ăn gì, uống gì, mặc gì; nhưng cũng có những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cả cuộc đời như chọn nghề nghiệp, chọn người để kết hôn, chọn tôn giáo để tin. Khi con người làm quyết định, con người phải chịu trách nhiệm và lãnh nhận mọi hậu quả sẽ xảy ra; vì thế, con người phải biết quyết định cách khôn ngoan. Để biết quyết định cách khôn ngoan, con người cần học hỏi và suy xét để biết trước những hậu quả có thể xảy ra.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp con người phải quyết định cách khôn ngoan. Trong Bài Đọc I, Thủ Lãnh Joshua triệu tập đại hội tại Shechem, để buộc con cái Israel phải biết quyết định dứt khoát: thờ phượng một Thiên Chúa hay thờ phượng các thần ngoại bang. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra hình ảnh lý tưởng của sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Hội Thánh để làm gương cho vợ chồng phải trung thành với nhau suốt đời. Để có thể trung thành suốt đời, vợ cần phải vâng lời chồng, và chồng cần phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể của mình. Trong Phúc Âm, sau khi đã làm hai phép lạ cả thể, dạy dỗ và mặc khải cho dân chúng về mầu nhiệm Thánh Thể, có hai phản ứng trái ngược nhau xảy ra: Một số các môn đệ chọn bỏ Chúa Giêsu vì không thể chấp nhận "ăn thịt và uống máu" Ngài để được sống. Nhưng Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai chọn ở lại và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi chọn phụng thờ Đức Chúa.
1.1/ Anh em có quyền lựa chọn thần nào thích để thờ: Sau khi đã dẹp tan các dân bản xứ và định cư con cái Israel trong Đất Hứa, ông Joshua biết mình đã hoàn tất nhiệm vụ Chúa trao và sẵn sàng về yên nghỉ với cha ông; nên ông truyền quy tụ ở Shechem mọi chi tộc Israel, tất cả các kỳ mục của Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa.
Rồi ông Joshua nói với toàn dân: "Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, phán thế này: "Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terah là cha của Abraham và của Nahor, đã phụng thờ các thần khác. Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Amorites mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa."
1.2/ Chúng tôi chọn thờ Đức Chúa: Dân đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua."
2/ Bài đọc II: Trung thành trong ơn gọi gia đình.
Để bảo vệ hạnh phúc gia đình, cả hai vợ chồng đều phải quyết định làm những gì cần thiết; một người quyết định không đủ để gìn giữ hạnh phúc gia đình. Thánh Phaolô dùng một mối liên hệ bao quát và thâm sâu hơn để diễn tả mối liên hệ vợ chồng.
2.1/ Bổn phận của người vợ: "Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy." Mục đích của sự vâng lời là cho sự hiệp nhất trong gia đình và Giáo Hội. Nếu thân xác con người không thể có hai đầu, gia đình và Giáo Hội cũng không thể có hai nhà lãnh đạo hay hai Chúa.
2.2/ Bổn phận của người chồng: "Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh." Ba điều Đức Kitô làm để tỏ tình yêu thương với Hội Thánh:
(1) Hiến mình vì Hội Thánh: Không có tình yêu nào thâm sâu và cao quí cho bằng tình của người sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người yêu. Đức Kitô hiến mình chuộc tội để Hội Thánh khỏi phải chết và được sống.
(2) Thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống: Vì muốn có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền; Đức Kitô đã dùng nước để rửa Hội Thánh sạch mọi tội, dùng Lời để chỉ dẫn điều hay lẽ phải, và dùng ơn thánh qua các Bí-tích để thánh hóa mọi phần tử của Hội Thánh.
(3) Nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh: như chăm sóc thân thể của chính mình: Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.
3/ Phúc Âm: Lời dạy của Đức Kitô về Thánh Thể dẫn tới hai quyết định trái ngược nhau.
3.1/ Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa: Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin." Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho."
Tại sao các môn đệ không tin, rút lui, và không còn đi theo Chúa nữa?
(1) Họ không nhận ra Chúa Giêsu là ai: Nếu họ nhận ra, họ đã không bỏ đi. Họ không nghĩ Chúa Giêsu là giải pháp độc nhất cho cuộc đời của họ. Chúa Giêsu nhận ra đây là sứ vụ quan trọng nhất trong sứ vụ của Ngài, nên Ngài làm mọi sự có thể để khơi dậy niềm tin nơi con người.
(2) Họ không hiểu các mặc khải và những lời dạy dỗ khôn ngoan của Chúa Giêsu: Trước tiên, họ không hiểu về Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Thứ đến, họ không hiểu về mục đích của cuộc đời và làm sao để đạt mục đích đó. Sau cùng, họ không hiểu tại sao phải ăn thịt và uống máu Chúa để có sự sống và đạt được cuộc sống đời đời.
(3) Họ cậy dựa hoàn toàn vào lý luận của con người và không biết giới hạn của con người: Họ nghĩ họ chỉ tin những gì có thể hiểu được và từ chối không tin những gì vượt quá sự hiểu biết của họ. Chúa Giêsu nói rõ đức tin và mầu nhiệm Thánh Thể vượt quá sự hiểu biết của con người, họ chỉ có thể hiểu được với ơn thánh của Thiên Chúa (6:37, 44, 65).
(4) Họ không biết, không hiểu, và hiểu sai Kinh Thánh: Chúa Giêsu sửa sai họ: "Không phải ông Moses đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa" (6:32); và đây là hình bóng của những gì Ngài đang nói với họ về Bí-tích Thánh Thể. Ngài làm hoàn hảo lời các ngôn sứ (Isa 54:13, Jer 31:33-34) khi ngồi giữa họ để dạy họ hiểu biết những gì về Thiên Chúa.
3.2/ Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa."
+ Tin Mừng Gioan không tường thuật biến cố tuyên xưng đức tin của Phêrô tại Caersarea Philippi; nhưng thay thế bằng lời tuyên xưng đức tin của Phêrô hôm nay.
+ "Đấng Thánh của Thiên Chúa:" có thể so sánh với "Đấng Thiên Sai" hay "Đấng được xức dầu" trong Tin Mừng Nhất Lãm. Chỉ có 3 nhân vật được gọi là Đấng Thánh trong Tin Mừng Gioan: Chúa Cha (17:11), Chúa Giêsu (6:69), và Chúa Thánh Thần (1:33, 14:26, 20:33). Vì Ba Ngôi tự bản chất là thánh, nên họ có thể thánh hóa con người.
Chúng ta hãy suy xét những lý do Phêrô có thể dùng để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu:
(1) Phêrô đã chứng kiến ít nhất hai phép lạ từ đầu chương 6: Bánh hóa nhiều để nuôi 5,000 người ăn và Chúa Giêsu làm cho sóng gió phải yên lặng. Mục đích của phép lạ là để khơi dậy niềm tin. Chứng kiến hai phép lạ to lớn này, Phêrô nhận ra Chúa Giêsu sở hữu quyền lực của Thiên Chúa.
(2) Phêrô đã lắng nghe những lời mặc khải và dạy dỗ khôn ngoan của Chúa Giêsu; nhất là lời mặc khải về mục đích của cuộc đời (Jn 6:39-40). Con người sống trên đời này là cho một mục đích: để về hưởng hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa. Để đạt mục đích này, con người cần tin vào Đức Kitô.
(3) Phêrô đã lắng nghe Chúa Giêsu giải nghĩa Kinh Thánh: Nhiều người cũng đọc Kinh Thánh, nhưng không phải ai cũng có thể hiểu Kinh Thánh. Chúa Giêsu cắt nghĩa về manna và sự nối kết cần thiết với mầu nhiệm Thánh Thể; và về lời sấm "mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo" của tiên tri Isaiah và Jeremiah. Ngài vạch ra cho mọi người thấy Ngài đến để làm trọn những lời tiên tri này khi ngồi giữa để dạy dỗ họ về những mầu nhiệm của Thiên Chúa.
(4) Phêrô đã lắng nghe những cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do-thái: Những cuộc đối thoại này cần thiết để nhận ra chân lý từ những sai lầm. Những sai lầm của người Do-thái được sửa chữa bằng những lý luận khôn ngoan và vững chắc của Đức Kitô.
(5) Phêrô biết Thiên Chúa, biết mình, và biết giới hạn của con người: Phêrô thú nhận một sự thật: Chỉ có Thiên Chúa mới có những Lời mang lại sự sống đời đời. Con người không phát minh sự thật, nhưng học hỏi sự thật từ Thiên Chúa. Khi con người không hiểu sự thật, không có nghĩa là sự thật không có; nhưng vì khả năng hiểu biết con người quá hạn hẹp và yếu kém.
(6) Phêrô biết tổng hợp tất cả những điều trên để đi đến kết luận là tuyên xưng đức tin của mình vào Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải dành nhiều thời giờ để học hỏi thì mới biết quyết định cách khôn ngoan. Nếu không chịu học hỏi, chúng ta sẽ dễ dàng quyết định cách không chín chắn hoặc sai lầm.
- Sai một ly đi một dặm. Quyết định sai lầm sẽ dẫn chúng ta đến thiệt hại to lớn, và ngăn cản chúng ta đạt được mục đích của cuộc đời.
- Bí-tích Thánh Thể vô cùng quan trọng cho cuộc đời. Hiểu sai về Bí-tích này sẽ gây rất nhiều thiệt hại trong cuộc sống, và ngăn cản chúng ta không đạt được cuộc sống đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 20 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: Ruth 2:1-3, 8-11, 4:13-17; Mt 23:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa ghé mắt nhìn xem những người khiêm nhường phục vụ.
Con người ham hố quyền hành, danh vọng, chức tước; nên khi phải làm gì, họ muốn làm trước đám đông để được tiếng khen và được lựa chọn vào những vị thế quyền cao chức trọng. Ngược lại, Thiên Chúa yêu thương những kẻ khó nghèo, khiêm nhường, và phục vụ tha nhân, như lời Kinh Magnificat của Đức Mẹ chúng ta thường đọc: "Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giầu có, đuổi về bàn tay trắng... Người lật đổ người quyền hành khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ thấp hèn." Gương khiêm nhường của Mẹ Maria là một trường hợp điển hình: từ phận nữ tỳ hèn hạ, Chúa đã nâng Mẹ lên Nữ Vương cả trời và đất.
Các Bài Đọc hôm nay so sánh hai loại người đối nghịch nhau này. Trong Bài Đọc I, vì yêu thương phục vụ mẹ chồng, nàng Ruth sẵn sàng chịu cực khổ đi mót lúa về nuôi mẹ chồng. Hành động khiêm nhường phục vụ này không qua khỏi mắt của ông Boaz và Thiên Chúa. Ông Boaz dành mọi dễ dãi cho nàng để kiềm được nhiều lúa, và Thiên Chúa thúc đẩy ông Boaz cưới nàng làm vợ; để hai mẹ con bà Ruth có chỗ nương tựa, và có người con trai nối dõi tông đường. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lên án cuộc sống của các kinh-sư và biệt-phái: không phải vì giáo lý họ giảng dạy; nhưng lối sống hai mặt của họ khi làm các việc lành phúc đức.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già.
1.1/ Ở hiền gặp lành: Bà Naomi có một thân nhân bên họ nhà chồng, một người khá giàu, thuộc thị tộc Elimelech. Người ấy tên là Boaz.
(1) Ruth đi mót lúa để nuôi mẹ chồng: Vì cả hai mẹ con đều góa bụa, và mới trở về Bethlehem từ ngoại quốc, họ không biết làm gì để sinh sống; nên nàng Ruth, người Moab, nói với bà Naomi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng nhân từ đoái nhìn con." Bà trả lời: "Con cứ đi đi." Nàng đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng của ông Boaz, người trong thị tộc Elimelech.
Ông chủ ruộng là Boaz nói với Ruth: "Này con, con có nghe không? Đừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc."
(2) Lý do Ruth được ông Boaz đoái thương đến: Thấy ông Boaz đối xử với mình quá tốt, nàng Ruth liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc?" Ông Boaz đáp: "Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới."
1.2/ Thiên Chúa quan phòng và chúc lành cho cuộc hôn nhân thứ hai của bà Ruth: Sau đó ít lâu, "ông Boaz lấy cô Ruth, và nàng trở thành vợ ông. Ông đến với nàng. Nhờ ơn Đức Chúa, nàng đã thụ thai và sinh một con trai." Có nhiều chi tiết cần để ý trong cuộc hôn nhân này:
+ Ông Boaz là người trong họ hàng với chồng bà Naomi. Theo tục lệ, ông có thể lấy nàng Ruth để có con nối dõi tông đường cho gia đình bà Naomi.
+ Có nhà chú giải cho bà Naomi hay nàng Ruth có ý chọn thửa ruộng của ông Boaz để mót lúa. Điều này có thể; nhưng ông Boaz là người giầu có, ông có thể từ chối vì nàng Ruth quá nghèo. Hơn nữa, Ruth còn là người ngoại quốc.
+ Dù sao chăng nữa, Thiên Chúa cũng là người quan phòng cách khôn ngoan cho cuộc hôn nhân thứ hai của nàng Ruth: để hai mẹ con có người săn sóc trong cảnh góa bụa nghèo khó, và nhất là để hai bà góa có con cháu nối dõi tông đường. Các phụ nữ nói với bà Naomi: "Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo tồn giòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Israel! Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai."
+ Thiên Chúa quan phòng cho đứa trẻ này nằm trong giòng tộc của vua David và của Đức Kitô, Đấng Cứu Thế. Trình thuật kể: "Các bà hàng xóm láng giềng đặt tên cho đứa trẻ là Obed. Đó là cha của ông Jesse, là ông nội vua David."
2/ Phúc Âm: Người làm lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em.
2.1/ Hãy nghe những gì các kinh sư nói; nhưng đừng bắt chước những gì họ làm: Trước tiên, Chúa không chê trách giáo lý và Lề Luật mà các kinh-sư và biệt-phái dạy dỗ dân chúng. Điều Chúa lên án là việc làm của họ: "Các kinh sư và các người Pharisees ngồi trên toà ông Moses mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm." Lý do:
(1) Họ không làm gương sáng cho người khác bắt chước: Họ muốn người khác làm, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
(2) Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy: Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "Rabbi."
2.2/ Lãnh đạo bằng khiêm nhường phục vụ: Ngược lại với lối sống giả hình của các kinh-sư và biệt-phái, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ:
(1) Đừng ham địa vị, chức tước, quyền hành: "Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "Rabbi," vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô." Khi nói những điều này, Chúa Giêsu không chú ý đến từ ngữ cho bằng đến ý hướng bên trong. Ví dụ, Ngài không đả kích việc con cái phải gọi người sinh ra mình là cha; nhưng ngài đả kích sự ham thích của một người muốn được làm Thầy, Cha, nhà lãnh đạo của thiên hạ. Một cách tuyệt đối, chỉ có Thiên Chúa và Đức Kitô mới xứng đang những danh hiệu này.
(2) Hãy biết khiêm nhường phục vụ tha nhân: "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết kính sợ Thiên Chúa và chân thành yêu thương tha nhân. Thiên Chúa luôn ghé mắt nhìn đến và chúc lành cho những người hết lòng yêu thương và phục vụ tha nhân.
- Để làm chứng cách hiệu quả cho Thiên Chúa và cho con người, lời nói của chúng ta phải luôn đi đôi với hành động. Đừng bao giờ nói mà không làm.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 21/8 Mến Chúa, yêu người
- 20/8 Trung tín giữ những gì đã thề hứa
- 19/8 Sự khác biệt giữa Vua Trời và vua chúa trần gian
- 18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
- 18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
- 17/8 Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người bội phản
- 16/8 Khao khát được "trường sinh bất tử
- 15/8 Khiêm nhường làm theo thánh ý Thiên Chúa để phục vụ tha nhân
- 14/8 Sống trung thành với ơn gọi của mình.
- 13/8 Thiên Chúa ban ơn đầy đủ để con người có thể hoàn thành sứ vụ