Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:15-20; Lc 5:33-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần biết trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của mình.
Tin như nào sẽ sống như vậy. Ví dụ, nếu một người chỉ tin vào truyền thống của cha ông, họ sẽ chống lại tất cả những học thuyết mới lạ, vì chúng có thể đe dọa đức tin của họ. Tuy nhiên, các tín hữu cần tìm hiểu sự thật của những gì mình tin, để họ có thể trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của họ. Khi không trả lời được những câu hỏi do các lạc thuyết đề ra, nhiều người có đức tin yếu kém sẽ dễ chạy theo những lạc thuyết đó.
Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh vào sự hiểu biết của niềm tin. Trong Bài Đọc I, tác giả nhắc nhở các tín hữu phải nắm vững đức tin của mình vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, để có thể tránh được những ngụy thuyết chung quanh luôn đe dọa con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sửa sai quan niệm của các kinh-sư và biệt-phái về quan niệm ăn chay và cầu nguyện của họ. Mục đích của việc ăn chay cầu nguyện là để con người sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, chứ không phải để được khen ngợi, để chu toàn Lề Luật, hay vì bất kỳ lý do nào khác. Nếu các môn đệ đang có Thiên Chúa ở bên cạnh, họ không cần phải ăn chay. Họ sẽ ăn chay cầu nguyện khi Đức Kitô bị cất đi khỏi họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người.
1.1/ Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời: Col 1:9-14 là một Bài Thánh Ca cổ, được hát trong lúc hội họp hay thờ phượng trong những cộng đoàn tiên khởi để ca tụng Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Có học giả cho nguồn gốc của Bài Thánh Ca là để chống lại chủ thuyết Thuần Tri Thức (Gnosticism) rất thịnh hành thời đó trong quốc gia Hy-lạp. Một sự so sánh giữa những gì Giáo Hội dạy cho thấy sự đối nghịch hoàn toàn với chủ thuyết Thuần Tri Thức.
(1) Đức Kitô là Thánh Tử, là Ngôi Lời (Logos), là hình ảnh (eikon) của Thiên Chúa vô hình: thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa (Jn 14:9). Chủ thuyết Thuần Tri Thức cho Đức Kitô tuy cao hơn các tạo vật, nhưng không phải là Thiên Chúa vì mang trong mình chất liệu của con người; chỉ có Thiên Chúa là hoàn toàn không lệ thuộc vật chất.
(2) Đức Kitô là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo: Ngài là Lời, là sự không ngoan của Thiên Chúa. Trong trình thuật về tạo dựng của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán: "Hãy có!" tức thì mọi vật liền có. Do Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành, và không có Ngài, chẳng có vật gì được tạo thành (Jn 1:3). Thuyết Thuần Tri Thức không cho Thiên Chúa tạo dựng thế giới, mà thế giới được tạo thành bởi một vị thần ác, đối nghịch với Thiên Chúa.
(3) Thiên Chúa quan phòng mọi sự qua Đức Kitô vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Tất cả đều tồn tại trong Người." Thuyết Thuần Tri Thức cho vũ trụ tồn tại nhờ chính nó.
1.2/ Thiên Chúa cứu chuộc và hòa giải qua Ngôi Lời.
(1) Đức Kitô cứu chuộc con người: bằng cách đổ máu để thanh tẩy tội lỗi, làm cho con người khỏi chết, và cho con người được sống đời đời với Thiên Chúa bằng sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Thuyết Thuần Tri Thức cho con người được giải thoát khỏi nô lệ cho vật chất và đoàn tụ với Thiên Chúa nhờ kiến thức đặc biệt và bí mật mà chỉ có họ mới có thể cung cấp cho con người.
(2) Đức Kitô hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau: Ngài hòa giải con người bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá. Nhờ sự hòa giải này, con người có được sự bình an.
Thuyết Thuần Tri Thức không tin vào tội lỗi và vào sự hòa giải, vì Thiên Chúa không thay đổi và con người luôn xấu xa vì bị giam cầm trong thân xác.
2/ Phúc Âm: Tại sao môn đệ ông không ăn chay, cầu nguyện?
2.1/ Họ trách môn đệ Chúa Giêsu không năng ăn chay cầu nguyện. Họ nói với Người: "Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisees cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!"
Đức Giêsu trả lời họ: "Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó, họ mới ăn chay." Qua câu trả lời, Người muốn nhắn nhủ họ làm việc gì cũng phải có lý do, thời gian, và nơi chốn. Ăn chay, cầu nguyện là để con người sống gần gũi với Thiên Chúa, và bớt lệ thuộc vào vật chất. Các môn đệ của Ngài không cần phải ăn chay lúc này, vì họ đang có Thiên Chúa là chính Ngài. Khi nào Ngài xa lìa họ, bấy giờ họ mới ăn chay. Ăn chay, cầu nguyện phải bày tỏ tâm hồn thống hối bên trong, chứ không phải những việc làm bên ngoài để lấy tiếng khen, hay lấy làm tiêu chuẩn để phán xét người khác có đạo đức thành thật hay không!
2.2/ Phải có tinh thần mới để đón nhận mặc khải mới của Đức Kitô: Những người biệt-phái và kinh-sư khó có thể chấp nhận những giảng dạy của Đức Kitô, vì trí óc của họ đã quá quen với Lề Luật và lối sống vụ hình thức bên ngoài. Để có thể tiếp nhận những giảng dạy mới lạ của Đức Kitô, họ cần thay đổi cách nhìn về việc giữ đạo. Để họ nhận ra sự quan trọng của việc cần có một tinh thần cởi mở để lãnh nhận giảng dạy mới của Thiên Chúa, Đức Giêsu còn kể cho họ nghe một số các dụ ngôn:
(1) "Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ." Không ai dại dột đến độ không chịu mặc áo mới, mà lại xé ra lấy vải để vá vào áo cũ. Nếu làm như vậy, người đó sẽ là người không bình thường, và miếng vá sẽ càng ngày càng tệ hơn sau mỗi lần giặt.
(2) "Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới." Rượu mới có nồng độ mạnh hơn nên dễ làm căng thẳng bầu da cũ; vì thế, để tránh việc nứt bầu da và phí rượu, rượu mới phải được đổ vào bầu da mới.
(3) Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: "Rượu cũ ngon hơn." Các kinh-sư và biệt-phái là những người cố gắng bảo thủ các truyền thống của cha ông. Họ bị Chúa Giêsu ví là những người thích uống rượu cũ vì cho rượu cũ ngon hơn. Có một phần sự thực trong đó; nhưng đồng thời họ cũng phải biết mở lòng đón nhận những điều hay của các mặc khải và dạy dỗ mới đến từ Chúa Giêsu. Để có thể tiếp nhận những dạy dỗ của Ngài, họ phải thay đổi thái độ "truyền thống quá khích," họ mới có thể hiểu được những gì Chúa muốn nói.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để hiểu biết niềm tin của mình; nếu không đức tin của chúng ta dễ bị lung lay bởi các lạc thuyết hay khi người khác chất vấn niềm tin của chúng ta.
- Biết cắt nghĩa niềm tin rất quan trọng trong việc giáo dục đức tin cho những người chúng ta có trách nhiệm. Nếu không được giải thích thỏa đáng, con người dễ đánh mất niềm tin.
- Chúng ta phải biết gìn giữ các tinh hoa của truyền thống, nhưng cũng cần biết mở lòng đón nhận những cái mới của thời đại và hoàn cảnh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:9-14; Lc 5:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải khôn ngoan tìm ra và trung thành làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Nhiều người có khuynh hướng chỉ làm theo ý riêng mình, và rất khó chịu khi phải làm theo ý người khác; nhưng thực tế chứng minh, không phải lúc nào ý riêng mình cũng mang lại hậu quả tốt đẹp. Vì thế, con người phải luôn mở rộng tâm hồn, dùng khôn ngoan và hiểu biết để nhận ra và thi hành ý mang lại kết quả tốt đẹp nhất.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc khuyến khích con người tìm ra và thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Colossê có đủ khôn ngoan và hiểu biết để am thường thánh ý Thiên Chúa, và có sức mạnh để thực thi thánh ý của Ngài; vì hiệu quả của những người làm theo thánh ý Thiên Chúa là sẽ sinh hoa kết quả trong cuộc sống đời này, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mở mắt, mở trí, và mở lòng cho Phêrô và các môn đệ nhận ra uy quyền, tình yêu, và thánh ý của Thiên Chúa cho các ông trong cuộc đời. Ngài muốn các ông đổi nghề: thay vì đánh cá, giờ chú trọng đến việc rao giảng Tin Mừng để chinh phục các linh hồn về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hiểu biết và làm theo thánh ý Thiên Chúa.
1.1/ Am tường thánh ý Thiên Chúa: Thánh Phaolô mở đầu Thư Colossê bằng lời cầu nguyện: "chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thánh Thần ban cho."
Để có thể am tường thánh ý Thiên Chúa, thánh Phaolô đề cập tới hai trong bảy quà tặng của Thánh Thần là khôn ngoan (sophia) và hiểu biết (synesis); chứ không phải bất kỳ sự khôn ngoan hay hiểu biết nào của con người. Khôn ngoan của Thánh Thần là khôn ngoan biết mọi sự theo kế hoạch của Thiên Chúa, và nhất là hướng về đích điểm của cuộc đời là được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Hiểu biết của Thánh Thần bao gồm việc làm sao biết áp dụng những khôn ngoan học được vào cuộc đời để sinh lợi ích cho mình và cho tha nhân.
Một khi đã tìm ra thánh ý của Thiên Chúa, con người cần thi hành thánh ý đó cho đến cùng, cho dù có phải hy sinh và chịu đựng gian khổ. Thánh Phaolô tin: "Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả."
1.2/ Làm theo thánh ý Thiên Chúa: sẽ đem lại cho con người hai phần thưởng.
(1) Sẽ sinh hoa kết quả: "Anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn." Sống theo thánh ý Thiên Chúa bảo đảm con người đi đúng đường và sinh lợi ích trong cuộc đời này.
(2) Sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa: Đức Kitô vừa là người mặc khải cho con người biết ý định của Thiên Chúa, vừa là người đổ máu ra để thanh tẩy tội lỗi cho con người. Nhờ Đức Kitô mà "anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi."
2/ Phúc Âm: Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.
2.1/ Sứ vụ giảng dạy và huấn luyện tông-đồ của Đức Kitô: Trình thuật kể: "Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Gennesareth, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông."
Dân chúng chen lấn nhau để có thể đến gần nghe Chúa Giêsu giảng dạy: Khao khát được lắng nghe Lời Chúa nằm trong bản năng của con người. Chúa Giêsu có ý cho Phêrô nhìn thấy sự khao khát của con người để được nghe Lời Chúa. Phêrô có thể đã quá bận rộn với công việc kiếm ăn, nên không còn nhạy cảm với nhu cầu này. Chúa Giêsu cũng đang có sẵn kế hoạch cho Phêrô, Ngài muốn ông đổi nghề thành kẻ thu phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa. Những gì ông có kinh nghiệm trong nghề chài lưới như: vất vả, kiên nhẫn ... sẽ giúp ông trong nghề thu phục linh hồn con người. Đây cũng là bài học cho các mục tử: phải đáp ứng nhu cầu căn bản này hơn hết các nhu cầu khác. Khi dân chúng không muốn nghe các mục tử giảng dạy, lý do có thể vì họ không hiểu hay không tìm được sự hấp dẫn của Lời Chúa qua cách thế giảng dạy của các mục tử.
2.2/ Đức Kitô chọn người để tiếp tục sứ vụ giảng dạy: Giảng xong, Người bảo ông Simon: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Simon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."
(1) Làm theo thánh ý Thiên Chúa: thách đố con người, trước tiên, phải bỏ ý mình. Là người có biết bao kinh nghiệm về chài lưới, vất vả cả đêm không bắt được con nào, và đã giặt giũ lưới xong; Phêrô giờ phải làm theo ý của một người không có kinh nghiệm về chài lưới, lại bắt thả vào giờ cá không ăn, và trước bao nhiêu dân chúng và bạn đồng nghiệp. Tuy thế, Phêrô cũng vâng lời làm, không phải vì tin sẽ bắt được cá, nhưng vì lời truyền uy quyền của Chúa Giêsu.
Hiệu quả của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa: "Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm."
(2) Phản ứng của Phêrô và các bạn: Họ kinh ngạc khi chứng kiến mẻ lưới lạ lùng xảy ra. Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người thuyền chài kinh nghiệm, các ông không ngờ trên đời còn có người hiểu biết và kinh nghiệm hơn mình. Đây lại là bài học cho con người nữa: Có khôn ngoan, hiểu biết và kinh nghiệm đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải mở lòng để học hỏi và đón nhận những tinh hoa của người khác mỗi ngày, nhất là những gì đến từ Thiên Chúa. Ngài vẫn không ngừng mở mắt con người để đón nhận những ngạc nhiên mỗi ngày. Người tự mãn bằng lòng với những gì mình có, sẽ không cần phải học hỏi, và sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội để trau dồi kiến thức trong cuộc đời.
Ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" Ông nhận ra Chúa Giêsu không phải là một con người bình thường, nhưng có uy quyền của Thiên Chúa. Ông cũng nhận ra Chúa Giêsu biết tất cả những gì ông suy nghĩ trước khi ông thả lưới bắt cá; vì thế, ông chấp nhận thân phận yếu đuối, hèn hạ của mình, và khiêm nhường quì gối xuống xin tránh xa ông. Bấy giờ Đức Giêsu lợi dụng cơ hội và bảo ông Simon: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta." Một khi đã nhận ra sự thật và tình yêu Thiên Chúa, con người chỉ còn một cách là bỏ hết mọi sự mà theo Người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi và cầu nguyện để xin Thiên Chúa cho chúng ta hiểu đâu là thánh ý Ngài muốn cho chúng ta trong cuộc đời; đồng thời xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta thực hiện.
- Hiệu quả của việc thực hiện thánh ý Thiên Chúa sẽ bảo đảm cho chúng ta sinh hoa kết quả ở đời này, và được chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:1-8; Lc 4:38-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mỗi người cần đóng góp một tay cho việc rao giảng Tin Mừng.
Có thể nói việc quan trọng nhất trong cuộc đời là làm sao cho mọi người có lòng tin yêu Thiên Chúa để họ có thể đạt được cuộc sống đời đời. Rao giảng Tin Mừng là điều thiết yếu để khơi dậy niềm tin yêu và hy vọng của con người vào Thiên Chúa. Nhưng một "cánh én không thể làm nên một mùa xuân," một người không thể làm hết mọi sự, Thiên Chúa cần mọi người chung sức trong việc rao giảng Tin Mừng. Vì thế, bổn phận của tất cả tín hữu, sau khi đã lãnh nhận niềm tin yêu, là góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng bằng nhiều cách khác nhau, tùy khả năng như: rao giảng, cộng tác với các người rao giảng, cầu nguyện và giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo, giúp các nhà rao giảng có sức khỏe để phục vụ Chúa cách đắc lực.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc cộng tác giữa Thiên Chúa và con người trong việc làm cho Tin Mừng được lan rộng đến mọi nơi. Trong Bài Đọc I, Phaolô dẫn chứng Tin Mừng có hiệu lực vì đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi cùng cộng tác với nhau trong việc khơi dậy và ban đức tin, cậy, mến cho con người. Ngoài ra, Thiên Chúa dùng con người để cộng tác vào việc tiếp tục rao truyền Tin Mừng. Phaolô có 2 cộng tác viên đắc lực trong việc rao giảng Tin Mừng là Timothy và Epaphras. Cộng đoàn Colossê có Epaphras, và chính họ cũng giúp đỡ lẫn nhau để củng cố và làm cho Tin Mừng được lan rộng. Trong Phúc Âm, Đức Kitô phải trở nên gương mẫu cho các nhà rao giảng Tin Mừng. Ngài không quản mệt nhọc rao giảng Tin Mừng trong các hội đường, chữa lành mọi vết thương hồn xác cho mọi người. Sau khi được chữa bệnh, bà nhạc của Phêrô đã mau mắn chỗi dậy phục vụ các sứ giả của Tin Mừng bằng cách chuẩn bị bữa ăn cho các ngài. Khi được yêu cầu để ở lại, Chúa Giêsu đã từ chối và tiếp tục lên đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tin Mừng hiệu nghiệm là do sự cộng tác giữa Thiên Chúa và con người.
1.1/ Tin Mừng có sức mạnh lan rộng vì đến từ Thiên Chúa.
(1) Ân sủng của Chúa Cha: Tin Mừng trước tiên là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người: Ngài ban Đức Kitô cho con người, và tạo mọi cơ hội cho con người gặp gỡ Đức Kitô. Ngài gởi Thánh Thần đến để soi sáng và thúc đẩy con người tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô nhận ra hồng ân cao cả này và tạ ơn Thiên Chúa Cha cho các tín hữu: "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ân sủng và bình an. Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, khi cầu nguyện cho anh em."
(2) Dạy dỗ bởi Đức Kitô: Đức Kitô đã thân hành xuống thế giảng dạy, và để lại những gì ngài giảng dạy qua các Tông-đồ, những người rao giảng Tin Mừng, và các Thánh-sử, những người ghi chép lại Tin Mừng.
- Tin Mừng có sức mạnh tạo nên ba nhân đức đối thần: tin, cậy, mến nơi con người: "Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Giêsu Kitô, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh; lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em."
- Tin Mừng có sức mạnh lan rộng đến toàn cõi đất: "Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì."
(3) Soi sáng và thánh hóa bởi Thánh Thần: Nhiều lần thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc làm cho các tín hữu tin vào Tin Mừng khi ngài nói: Không ai có thể tin vào Đức Kitô và gọi Thiên Chúa là Cha, nếu không được Thánh Thần tác động. Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn ban các đặc sủng cho cả người rao giảng lẫn người nghe. Hơn nữa, nguyên việc có thể hiểu Tin Mừng là tác động của Thánh Thần. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô quy lòng mến các tín hữu có được là quà tặng của Chúa Thánh Thần.
1.2/ Cần nhiều sứ giả cộng tác với nhau trong việc phục vụ Tin Mừng: Thiên Chúa, Đấng có thể làm tất cả, chọn con người cộng tác với Ngài trong việc loan truyền Tin Mừng. Con người phải cộng tác với Thiên Chúa và cộng tác với nhau trong việc làm cho Tin Mừng lan rộng đến mọi người và mọi nơi. Chỉ trong một đoạn Tin Mừng ngắn ngủi, Phaolô cho thấy sự cần thiết của việc cộng tác giữa người và người:
(1) Phaolô có Timothy, người anh em luôn cộng tác đắc lực với ngài.
(2) Cộng đoàn Colossê có Epaphras, người đồng sự yêu quý của Phaolô và là người thay thế Phaolô với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức Kitô.
(3) Các người trong cộng đoàn Colossê cộng tác với nhau.
2/ Phúc Âm: Đức Kitô nhiệt thành rao truyền Tin Mừng mọi nơi.
2.1/ Đức Kitô chữa lành mọi vết thương hồn xác cho con người.
(1) Chữa lành bà nhạc Phêrô: là do sự cộng tác của nhiều người: Phêrô, các bạn của Phêrô, Đức Kitô: "Đức Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simon. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà." Bà nhạc của Phêrô trở thành người phục vụ Tin Mừng sau khi được chữa lành: "Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài."
(2) Chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ."
Sứ vụ của Đức Kitô ngoài việc rao giảng Tin Mừng là diệt trừ ảnh hưởng của quỉ thần trên con người. Trong Tin Mừng, nhiều lần Ngài đã khử trừ chúng ra khỏi con người. Trong trình thuật hôm nay, trước khi quỉ xuất khỏi nhiều người, chúng la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa!" Nhưng Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Kitô.
2.2/ Tin Mừng cần được rao giảng mọi nơi: Khuynh hướng an toàn của con người là muốn giữ nhà rao giảng và chữa bệnh ở lại với mình, để sinh lợi ích cho cá nhân hay cho cộng đồng của họ. Vì thế, họ đi tìm Người; và khi đã tìm thấy Người, họ muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi." Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó." Và Người đi rao giảng trong các hội đường miền Judah. Đây phải là bài học quan trọng cho mọi người.
- Nhà rao giảng phải tiếp tục lên đường, tiếp tục cho đi cho tới khi hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao. Nhà rao giảng không được phép ở lại một chỗ để tìm sự an toàn cho chính mình, đang khi con người đang khao khát được nghe Tin Mừng.
- Các tín hữu cần nhớ Tin Mừng cần được rao giảng cho mọi người và mọi nơi. Họ không thể ích kỷ chỉ biết giữ cho mình, vì giữ lại là sẽ mất. Họ phải tìm cách khích lệ và làm nhà rao giảng an tâm để tiếp tục lên đường, phần họ sẽ ở lại để củng cố và rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta là cộng tác với Thiên Chúa trong việc loan truyền Tin Mừng cho mọi người, sao cho tất cả đều được hưởng ơn cứu độ.
- Chúng ta có thể đóng góp vào công cuộc rao giảng Tin Mừng bằng nhiều cách: trực tiếp như rao giảng Phúc Âm, dạy học, viết bài, dạy giáo lý ... gián tiếp như đóng góp thời gian, tiền của, tài năng, công sức để giúp cơ hội cho những nhà rao giảng Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 22 TN1
Bài đọc: I Thes 5:1-6, 9-11; Lc 4:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Tội lỗi là một thực tại giam hãm và hủy diệt con người. Nhiều người ngày nay tuy sống trong tội lỗi, nhưng không còn nhận ra nguy hiểm nữa vì đã quá quen trong tội. Đức Kitô đến để nhắc nhở con người biết ý thức về tội lỗi và những nguy hiểm của tội lỗi gây ra. Ngài đến để hủy diệt tội lỗi và sự chết bằng cách chấp nhận cái chết trên Thập Giá, để thanh tẩy tội lỗi và mang lại cuộc sống trường sinh cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người luôn biết ý thức về tội lỗi và phải biết luôn chuẩn bị cho ngày tận thế của mình. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu luôn biết chuẩn bị cho Ngày Chúa Đến, bằng cách chuẩn bị sẵn sàng và tỉnh thức. Cách chuẩn bị hay nhất là sống như hôm nay là ngày cuối đời của mình. Trong Phúc Âm, khi Chúa vào hội đường để giảng dạy, ma quỉ tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa, và ngăn ngừa Ngài đừng tiêu diệt chúng bằng việc dạy dỗ con người. Chúa thẳng thắn trục xuất chúng và dạy dỗ con người phải biết cẩn thận đề phòng để đừng làm nô lệ cho ma quỉ và tội lỗi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngày của Chúa chắc chắn sẽ đến.
1.1/ Phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa đến: Con người chỉ sống một thời gian trên trái đất này, và sau đó sẽ từ giã cuộc đời để về với Chúa. Ngày Tận Thế có thể là Ngày Phán Xét, nhưng đúng hơn, nó là ngày cuối cùng của chính đương sự.
(1) Chúa đến vào thời gian con người không ngờ: Không ai biết được ngày cuối cùng của đời mình. Nhiều người nghĩ phải già, hay có bệnh nguy hiểm rồi mới chết; nhưng thực tế nhiều khi chứng minh ngược lại, nhiều người đã phải đau đớn thốt lên: "lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống, trời ơi hỡi trời!" Thánh Phaolô cũng viết thư khuyên các tín hữu Thessalonica: "Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được."
(2) Phải luôn sẵn sàng chuẩn bị: Vì không ai biết trước ngày giờ tận thế, nên các tốt nhất là luôn chuẩn bị sẵn sàng. Hãy sống như hôm nay là ngày cuối đời của mình. Thánh Phaolô khuyên: "Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em.
Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối."
1.2/ Hãy luôn tỉnh thức và sống tiết độ: Làm thế nào để luôn chuẩn bị sẵn sàng? Các tín hữu Thessalonica chuẩn bị bằng cách không lo lắng làm việc chi hết, chỉ ngồi chờ ngày Chúa đến mà thôi. Thánh Phaolô đả kích cách chờ đợi này, ngài khuyên họ: "Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Vì Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta, để dầu thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người."
Trước hết, phải năng nhắc cho nhau biết chuẩn bị cho ngày đó. Thứ hai, phải biết sống tiết độ: biết dùng tất cả những gì Thiên Chúa ban cách khôn ngoan và chừng mực, tránh làm nô lệ cho bất kỳ một thói quen nào làm chúng ta lạc xa con đường cứu độ. Sau cùng, hãy luôn biết sống trong Đức Kitô: nghe lời Ngài dạy dỗ và bắt chước gương mẫu Ngài làm, sống kết hiệp với Ngài bằng cuộc sống cầu nguyện, và bằng ơn thánh Ngài ban qua các bí-tích, nhất là phép Thánh Thể.
2/ Phúc Âm: Hãy đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
2.1/ Chúa đến để khai trừ quyền lực ô uế ra khỏi con người: Trình thuật kể khi Chúa vào trong hội đường để giảng dạy, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. Không lạ gì khi ma quỉ nhận ra Chúa Giêsu và tuyên xưng Ngài là "Đấng Thánh của Thiên Chúa," vì ánh sáng và bóng tối luôn khai trừ nhau: chỗ nào có ánh sáng là không có bóng tối và ngược lại. Khi con người có Thiên Chúa, họ sẽ không có ma quỉ, quyền lực của bóng tối bị quyền lực của Thiên Chúa khai trừ. Ngược lại, khi một người để ma quỉ bố trí bao vây hết linh hồn, Lời Chúa khó mà thâm nhập vào linh hồn con người.
Ngày nay, ma quỉ vẫn làm chủ con người và vẫn tìm cách để nuốt chửng ánh sáng. Khi nghe Lời Chúa và những lời giảng dạy của linh mục trong thánh đường, ma quỉ vẫn tìm mọi cách để những lời ấy đừng vào tâm hồn các người nghe. Dụ ngôn "Người gieo giống" là một điển hình cho điều này. Chúng cám dỗ con người bằng mọi cách: ngủ gật, chia trí nhìn người khác, để hồn chu du các nơi, ngay cả những vùng cấm địa. Ngoài ra, chúng còn dùng thủ đoạn để vạch lá tìm sâu nơi người rao giảng và ngay cả việc phê bình, chỉ trích, bôi lọ, để nhà rao giảng không còn can đảm để nói sự thật.
2.2/ Chúa đến để dạy dỗ điều hay lẽ phải và thánh hóa con người: Con người có thể trở nên tốt lành bằng cách thực hiện hai điều sau:
(1) Lắng nghe lời dạy dỗ của Đức Kitô: Một trong những điều quan trọng giam hãm con người trong tội lỗi là sự u mê, không nghĩ mình có bệnh. Khi con người có thái độ này, họ không nghĩ mình đang mang bệnh và không cần sự chỉ dạy của ai cả. Một người nghiện rượu không nghĩ mình say, anh chẳng cần phải sửa tính nghiện rượu.
Để có thể chữa trị tội lỗi, con người cần nhận ra mình có tội. Để nhận ra tội, con người cần có thời gian học hỏi và suy niệm để Lời của Đức Kitô soi sáng, để con người có thể nhận ra tình trạng bệnh tật của mình. Ví dụ, khi Ngài nói: "Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa:" Con người cần tìm hiểu lý do tại sao Chúa nói như thế; nhất là nhìn vào cuộc đời của mình để xét xem, mình có bệnh tật đó hay không. Mình có đặt sự giầu có lên trên Thiên Chúa không? Mình có dùng thời giờ của Chúa ban để học hỏi Lời Chúa hay làm việc kiếm tiền để đếm cho sướng tay? Mình có dùng của dư giả để giúp người nghèo hay những nơi cần giúp, hay phung phí tiền của vào những nơi ăn chơi vô bổ?
(2) Lấy sức mạnh và ơn thánh của Đức Kitô để diệt trừ tội lỗi: Tội lỗi thấm nhập lâu ngày rất khó sửa trị, con người cần lấy sức mạnh của Lời Chúa và chính ơn thánh của Ngài ban qua các bí-tích. Ví dụ, khi Chúa nói với người thanh niên, "Hãy bán gia tài anh có và phân phát cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời." Hãy tìm hiểu Lời Chúa xem "kho tàng trên trời" bao gồm những điều gì. Niềm hy vọng vào kho tàng trên trời sẽ giúp con người có sức mạnh để dám hy sinh kho tàng dưới đất. Ngoài ra, con người cần ơn thánh Chúa ban qua các bí-tích, vì sức con người không đủ để chống trả lại sức mạnh của ba thù là ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Vì thế, con người cần thường xuyên lãnh nhận bí-tích Thánh Thể và Giao Hòa, để những ơn thánh từ hai Bí-tích này giúp con người có sức mạnh vượt qua những cám dỗ của ba thù.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm con người trở thành nô lệ cho ma quỉ, và ngăn cản con người đạt tới ơn cứu độ. Chúng ta hãy tìm mọi cách để khử trừ tội lỗi.
- Hãy học Kinh Thánh để Lời Chúa soi sáng chúng ta nhận ra tội lỗi, hãy áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống và năng lãnh nhận bí-tich để có sức mạnh khử trừ tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 22 TN1
Bài đọc: I Thes 4:13-18; Lc 4:16-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng vào cuộc sống trường sinh giúp con người diệt trừ bản ngã.
Một trong những lý do ngăn cản con người tiến tới trên đường trọn lành là bản ngã: cái tôi ích kỷ trong con người. Hầu như mọi tội lỗi đều có nguồn gốc từ bản ngã này. Trong khi Đức Kitô cố gắng dạy dỗ các môn đệ vượt qua khuynh hướng xấu xa này, thì đa số nhân loại ngày nay lại tôn thờ nó dưới mầu sắc khác nhau: khuynh hướng cá nhân chỉ nhằm đạt lợi ích cho bản thân, khuynh hướng vật chất chỉ nhằm hưởng thụ vật chất và gạt ra ngoài những giá trị luân lý, tinh thần. Làm sao con người có thể diệt trừ bản ngã này?
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu sự nguy hiểm của bản ngã này và cách để diệt trừ chúng. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Thessalonica đến mục đích tối hậu của cuộc đời là hy vọng được sống trường sinh bất tử với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn vạch ra tai hại của những người sống theo bản ngã này: họ từ chối và muốn tiêu diệt ngay cả Đấng đem lại cho họ niềm hy vọng được sống đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hy vọng của chúng ta là sẽ được cùng sống lại với Đức Kitô.
1.1/ Sự cần thiết của hy vọng: Hy vọng như thế nào, sẽ sống như thế ấy. Nếu không hy vọng vào cuộc sống mai sau, con người sẽ níu kéo những giá trị của đời tạm này. Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu hai điều chính về cuộc đời:
(1) Chết không hết, nhưng bắt đầu cuộc sống đời đời với Thiên Chúa: Ngài nói: "Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng."
(2) Đức Kitô là niềm hy vọng của các tín hữu: "Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu."
1.2/ Ngày Chúa Quang Lâm: Truyền thống Do-thái, trước khi Chúa Giêsu đến, hiểu rất mơ hồ về Ngày Chúa Đến và về cuộc sống đời đời. Đa số cho hạnh phúc của những người được ơn nghĩa với Chúa chỉ giới hạn trong cuộc đời này: được khỏe mạnh, sống lâu, con đàn cháu đống, được bình an hạnh phúc; nhưng khi chết là hết. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Thessalonica I (được viết khoảng 50-60 AD) là tài liệu đầu tiên cho chúng ta mặc khải của Đức Kitô về những gì xảy ra sau cái chết.
Thánh Phaolô nói về Ngày Chúa Đến như sau: "Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi."
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa cho mọi người có cơ hội đồng đều, nhưng không phải ai cũng biết lợi dụng cơ hội.
2.1/ Chúa Giêsu giảng giải cho người đồng hương: Trình thuật kể: Đức Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
2.2/ Chúa Giêsu hiểu rõ thái độ của người đồng hương: Chúa Giêsu không im lặng để nhận tiếng khen, Ngài muốn họ phải đối diện với thực tế và sửa đổi hai điều.
(1) Họ muốn Ngài làm nhiều phép lạ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capernaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" Làm phép lạ là để khơi dậy niềm tin, chứ không phải để điều khiển người làm phép làm điều mình muốn. Khi không thấy dấu hiệu của đức tin, Chúa Giêsu từ chối việc làm phép lạ.
(2) Họ sẽ khinh thường Ngài, vì "bụt nhà không thiêng:" Chúa Giêsu biết rõ thái độ này của họ, nên Ngài bảo: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình."
Tại sao con người có thái độ khinh thường những người trong gia đình hay trong cộng đoàn? Vì họ không muốn ai hơn mình trong cộng đoàn. Người ngoài đến rồi đi, họ không ảnh hưởng gì trong cộng đoàn. Người trong cộng đòan là người sống thường xuyên với mình: đề cao họ là làm giảm giá trị của mình; vì thế, khi khinh thường người đồng hương, là đồng thời họ đang đề cao cái tôi của mình. Đây là thái độ vẫn đang xảy ra trong gia đình và cộng đoàn: khinh thường người trong nhà, người đồng hương, người trong Dòng, người cùng một nước. Trái lại, đề cao và tôn trọng người ngoài. Lẽ ra, chúng ta phải nâng đỡ và khuyến khích anh/chị/em cùng nhà và cùng nguồn gốc, vì "khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau." Đây là thái độ giết tài năng của người trong gia đình, và ngăn cản việc cùng nhau cộng tác. Nếu vượt qua được thái độ này, gia đình và cộng đoàn sẽ tiến rất mau và mạnh.
Chúa Giêsu muốn sửa chữa thái độ của họ, nên Ngài đưa ra hai sự kiện lịch sử để chứng minh tai hại của thái độ "bụt nhà không thiêng." Ngài nói: "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi."
Lịch sử tái diễn khi Chúa Giêsu vừa nói xong những lời này, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Lẽ ra họ phải biết sáng suốt chấp nhận thực tế: khen và tôn trọng những gì đáng khen; phán xét theo như sự việc là, đừng để bất cứ thành kiến nào ngăn chận để đưa đến phán đoán sai lầm; nhưng họ để cho cái bản ngã ích kỷ và thành kiến che mắt để rồi lại muốn giết luôn Đấng mong muốn mọi sự tốt lành cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hy vọng vào cuộc sống trường sinh phải là động lực chính giúp chúng ta vượt qua cái tôi ích kỷ của mình để làm theo những gì Đức Kitô dạy dỗ.
- Khi chúng ta tháo bỏ bản ngã của mình, Thiên Chúa sẽ làm đầy chúng ta bằng tình yêu và ơn thánh của Ngài, để chúng ta ngày càng trở nên giống Ngài hơn. Ngược lại, nếu chúng ta để cho bản ngã hoành hành, chúng ta sẽ đi dần đến chỗ từ chối luôn mục đích của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 22 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Deut 4:1-2, 6-8; Jas 1:17-18, 21b-22, 27; Mk 7:1-8, 14-15, 21-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đâu là sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực.
Nhiều người giới hạn đạo vào việc thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ: như đi tham dự Thánh Lễ mỗi tuần; hay chỉ chịu Phép Rửa để có danh hiệu Kitô hữu; hay chỉ thi hành một số điều bên ngoài mà Lề Luật đòi buộc. Tôn giáo chân chính đòi con người phải sống kết hiệp với Thiên Chúa khi làm việc thờ phượng cũng như trong đời sống hàng ngày. Các tín hữu phải tuân giữ tất cả các Lề Luật của Thiên Chúa, và phải sống đức bác ái cách trọn hảo bằng việc giúp đỡ tha nhân.
Mỗi Bài Đọc hôm nay tập trung trong một khía cạnh của việc thực hành tôn giáo. Trong Bài Đọc I, ông Moses đưa ra những lý do để khuyên con cái Israel phải tuân giữ trọn vẹn Thập Giới của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc nghe và thực hành những lời Thiên Chúa dạy, vì tri hành phải đồng nhất. Một người không thể tách rời niềm tin ra khỏi những việc làm để minh chứng đức tin sống động của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo việc thực hành tôn giáo bằng những lễ nghi giả hình bên ngoài, như giữ các lề luật về việc thanh sạch bên ngoài; mà quên đi việc thanh tẩy thực sự trong tâm hồn. Ngài muốn con người phải đặt những giới luật của Thiên Chúa lên trên những lề luật và truyền thống của con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy thực hành Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho anh em.
1.1/ Sự cao trọng của Thập Giới:
(1) Thập Giới phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng duy nhất biết những gì tốt lành cho con người. Ngài ban cho con người Thập Giới qua trung gian của ông Moses trên núi Sinai.
(2) Thiên Chúa ban Thập Giới vì Ngài yêu thương con người. Ông Moses coi đây là một đặc quyền cao quí nhất, chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa, khi ông hỏi con cái Israel: "Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?" Không một dân tộc nào được thần của họ ban lề luật như Thiên Chúa ban Thập Giới cho Israel.
(3) Không ai được thêm vào hay bớt đi những gì từ Thập Giới: Thói quen của con người là thích thêm bớt vào những gì đã hiện hữu, hoặc để cho nó văn hoa hơn, hay để che giấu những tà ý. Ông Moses tuyên bố rất rõ ràng về tính bất di dịch của Thập Giới: "Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em."
(4) Thập Giới là điều kiện ắt có và đủ để được vào Đất Hứa: "Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em." Đất Hứa ở đây có thể hiểu là vùng đất Canaan, nhưng bao quát hơn, là Thiên Đàng sau này.
1.2/ Thập Giới ban hành là để tuân giữ: Ông Moses truyền cho con cái Israel: "Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và hiểu biết."
Theo truyền thống Do-thái, Thập Giới được gọi là "Mười Lời" của Thiên Chúa (deca-logos trong tiếng Hy-lạp, decalogue trong tiếng Pháp). Lời có thể là chỉ một chữ hay cả bài diễn văn. Trong ngôn ngữ Do-thái, cũng không có sự khác biệt giữa "lời" và "sự việc, hay sự vật." Họ dùng chung một chữ "dabar" để chỉ lời hay sự việc xảy ra; hiểu theo kiểu Việt-nam, "tri hành đồng nhất." Họ có lý do để làm như thế, vì nếu một người biết nhiều mà không thực hành, nào có ích chi cho người ấy! Thập Giới ban hành không phải để học thuộc lòng, cũng không để đóng khung thờ lạy.
1.3/ Thập Giới không giới hạn tự do của con người: Một cách tuyệt đối, con người vẫn có tự do để giữ hay không giữ; nhưng Thập Giới cung cấp đường đi nước bước cho con người; nhất là nó giúp cho con người nhận ra những nguy hiểm của các kẻ thù luôn rình rập quyến dũ con người. Ngoài ra, Thập Giới cũng giúp con người định vị các thứ tự ưu tiên của cuộc đời: tiên vàn là mối liên hệ hàng đầu giữa con người với Thiên Chúa, thứ đến là mối liên hệ giữa con người với tha nhân, và sau cùng là mối liên hệ giữa con người với thế giới vật chất.
2/ Bài đọc II: Hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
2.1/ Hiệu quả của Lời Chúa:
(1) Lời Thiên Chúa là sự thật: giúp chúng ta phân biệt sự thật khỏi những sự gian trá làm mê hoặc lòng người. Thánh Giacôbê nói về sự cao trọng của Lời Chúa như sau: "Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em."
(2) Phải thực hành Lời Chúa: Cũng một ý với ông Moses trong Bài Đọc I, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu của ngài: "Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình."
Chúng ta cần biết qua cộng đồng các tín hữu thời sơ khai. Nhiều người lầm lẫn về sự chỉ dạy của thánh Phaolô, nhất là trong Thư gởi tín hữu Rôma và Galat, khi ngài nói: con người được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Đức Kitô. Họ nói: chỉ cần niềm tin vào Đức Kitô là đủ, việc làm không quan trọng, vì nó không ảnh hưởng đến sự cứu độ của con người. Ngày nay, vẫn còn nhiều anh em Tin Lành và nhiều người chủ trương sống theo lối sống này. Đây là một cách cắt nghĩa sai lầm, vì Đức Kitô và thánh Phaolô không chủ trương và dạy bảo như thế. Thánh Giacôbê cũng phải đương đầu với ý kiến như thế trong cộng đoàn của ngài. Chỗ khác trong Thư, ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: "Đức tin không việc làm là đức tin chết" (Jas 2:17).
2.2/ Nếu tin Thiên Chúa, cũng phải yêu mến tha nhân: Mười Điều Răn được Đức Kitô tóm tắt trong hai giới răn căn bản là "Mến Chúa và yêu người." Hay một cách đơn giản hơn nữa, Đạo Công Giáo là đạo yêu thương. Dĩ nhiên, yêu thương theo kiểu của Thiên Chúa, chứ không theo kiểu của con người. Chúa Giêsu đòi các tín hữu phải yêu thương kẻ thù, cầu nguyện, và làm ơn cho kẻ gây thiệt hại cho mình. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: phải có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
3/ Phúc Âm: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
3.1/ Các kinh-sư và biệt-phái tố cáo môn đệ Chúa Giêsu không giữ tập tục của tiền nhân: "Có những người biệt-phái và một số kinh-sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Jerusalem đến. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người biệt-phái cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vậy, người biệt-phái và kinh sư hỏi Đức Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?"'' Luật Kosher của Do-thái là tất cả những luật liên quan tới việc phải giữ làm sao cho thanh sạch trong việc ăn uống cũng như việc tế lễ. Phần lớn những luật này là do con người thêm vào theo thời gian.
3.2/ Hãy để ý tới những nguyên lý nền tảng: Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu muốn dạy con người 3 điều quan trọng:
(1) Đừng thờ Thiên Chúa bằng môi miệng bên ngoài: vì Ngài thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm hồn con người. Họ có thể đánh lừa người đời bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng không bao giờ qua mặt được Thiên Chúa. Chúa Giêsu dẫn chứng lời tiên-tri Isaiah đã từng lên án hạng người này: "Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta."
(2) Đừng vịn vào truyền thống để hủy bỏ Lề Luật của Thiên Chúa: Chúa Giêsu tố cáo họ: "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." Điều chúng ta phải nhận ra ở đây là Ngài không đến để phá hủy truyền thống; nhưng Ngài muốn dạy cho họ biết phải đặt giới luật của Thiên Chúa lên trên mọi luật lệ và truyền thống của con người. Khi nào có sự xung đột giữa giới luật của Thiên Chúa và luật lệ hay truyền thống của con người, họ phải can đảm tuân giữ giới luật của Thiên Chúa. Ví dụ: luật phá thai hay án tử hình.
(3) Thanh tẩy tâm hồn bên trong cần thiết hơn thanh tẩy đồ dùng bên ngoài: Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."
Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là con người phải chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì hậu quả của tội lỗi làm con người ô uế trầm trọng hơn sự ô uế do đồ ăn thức uống gây ra. Những kinh-sư và biệt-phái chú trọng đến việc thanh tẩy bên ngoài để che đậy những ô uế trong tâm hồn, vì họ nghĩ không ai có thể thấy những gì họ giấu kín bên trong; nhưng không phải ai họ cũng giấu được, nhất là họ không thể giấu được Đức Kitô, Người có thể thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải thực hành mọi điều Thiên Chúa dạy trong Thập Giới, vì đó là những Lề Luật căn bản để đem lại hạnh phúc cho con người.
- Lời Chúa không phải là những kiến thức để biết, nhưng là những điều cần thi hành để sinh lợi ích cho con người. Nếu sau khi biết rồi mà không chịu thực hành, chúng ta hoang phí thời giờ vô ích, vì chúng ta đã không sinh lợi được gì cho mình và cho tha nhân.
- Vệ sinh thường thức là điều cần giữ để tránh bệnh tật; nhưng chúng ta phải chú trọng đến việc thanh tẩy tâm hồn, vì tội lỗi làm thiệt hại linh hồn chúng ta nhiều hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 21 TN1. Nhớ Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu.
Bài đọc: I Thes 4:9-11; Mk 6:17-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống yêu thương sẽ xây dựng gia đình và xóa tan mọi hận thù.
Cha ông chúng ta đã biết quá rõ giá trị của yêu thương trong cuộc sống gia đình và cộng đoàn, khi nói: "Yêu nhau cau bảy bổ ba. Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười." Hay "yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa." Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa khi Ngài dạy, toàn bộ của Lề Luật có thể thu gọn vào hai giới răn: "mến Chúa yêu người." Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ: "Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy ... Như Thầy yêu anh em thế nào, anh em cũng phải yêu thương nhau như vậy ... Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em thương yêu nhau."
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong nguyên lý yêu thương. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Thessalonica phải cố gắng yêu thương nhau, giữ hòa khí trong cộng đồng, và làm việc để có của ăn sinh sống và để xây dựng cộng đồng. Trong Phúc Âm, thánh Marcô tường thuật một gia đình giầu có thế lực, nhưng không có yêu thương thành thật. Hậu quả là lối sống loạn luân và thanh toán lẫn nhau trong gia đình: Herode cha có 5 đời vợ và đã giết 3 đứa con ruột của mình; đến nỗi trong dân gian có câu vè: "làm con heo cuả Herode còn an tòan hơn làm con ruột của ông." Herode con, người được nói tới hôm nay, lấy vợ của anh mình. Gioan Tẩy Giả là người công chính, vì muốn sống và làm chứng cho sự thật đã ngăn cản cuộc hôn nhân này, nên đã phải trả giá bằng cách bị chém đầu đặt trên mâm để cô con gái trao cho một bà mẹ trắc nết và thủ đoạn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa.
Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần hiểu những gì xảy ra cho cộng đoàn Thessalonica lúc bấy giờ: nhiều người trong cộng đoàn tin Ngày Quang Lâm đã gần kề, nên họ bỏ hết công việc làm ăn để chờ đợi Chúa đến. Thánh Phaolô phải viết thư khuyên họ về cách chờ đợi Ngày Chúa đến:
(1) Anh em phải yêu thương nhau: "Còn về tình huynh đệ, anh em không cần ai viết cho anh em, vì chính anh em đã được Thiên Chúa dạy phải thương yêu nhau." Đây là đồng phục của các cộng đoàn Kitô hữu: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau. Một khi có tình yêu thương, các tín hữu có thể xóa tan những nghi kỵ, bất hòa, và chia rẽ trong cộng đoàn.
(2) Anh em phải thăng tiến nhiều hơn nữa: Tin Mừng không những được truyền đạt bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng chính cuộc đời chứng nhân của các Kitô hữu. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy càng ngày càng tiến tới trên đàng nhân đức, để Tin Mừng có thể lan rộng trong toàn miền Macedonia.
(3) Đợi chờ Ngày Chúa đến bằng cách chu toàn các bổn phận của mình: Khuynh hướng của con người là thích loan tin giật gân và thổi phồng những gì họ nghĩ sắp xảy ra. Nhìn lại biến cố khi nhân loại sắp bước vào năm 2,000, chúng ta thấy nhiều người nghĩ Ngày Tận Thế sẽ xảy ra, nên họ rút tiền khỏi ngân hàng để ăn chơi thả cửa, không thiết tha gì đến làm việc nữa. Điều này cũng đã xảy ra cho cộng đoàn Thessalonica; vì thế, thánh Phaolô khuyên họ: "Hãy sống cách bình thản, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em." Cách sửa soạn đón Ngày Chúa Đến tốt nhất là chu toàn bổn phận của mình cách trung thành và yêu thương tha nhân cách thành thật, chứ không phải hốt hoảng sợ hãi, lười biếng không làm việc, và sống bám vào người khác.
2/ Phúc Âm: Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!
(1) Gioan Tẩy Giả sống và chết cho sự thật: Đây là tấm gương sáng Gioan Tẩy Giả cho chúng ta. Ông dám nói sự thật mà không sợ hãi bất cứ một quyền lực nào của thế gian. Trong Tin Mừng Matthew, ông thẳng thắn đe dọa các Pharisees và Sadducees khi họ đến để xin ông làm Phép Rửa: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ông cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các ông hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Abraham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa." Trong trình thuật hôm nay, ông Gioan thẳng thắn bảo vua Herode: "Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!" Vì vua Herode đã lấy bà Herodia, vợ của người anh là Philíp. Hậu quả là vua sai lính bắt giam Gioan Tẩy Giả vào ngục thất.
(2) Sự hèn nhát của vua Herode Antipas.
+ Ông là người loạn luân: đã lấy vợ của anh mình là Herode Philip.
+ Ông sống theo sự giả trá: Tuy ông muốn nghe sự thật, nhưng không muốn bênh vực sự thật. Trình thuật mô tả bản chất của ông: "Vua Herode biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.''
+ Khi ông không dám sống theo sự thật, ông sẽ sống theo sự giả trá: "Nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Herode mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilee. Con gái bà Herodia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con." Vua lại còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được."
+ Giữ lời hứa trong lúc say xỉn: Khi nghe cô con gái muốn xin đầu Gioan đặt trên đĩa, nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô.
Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.
(3) Mối hận thù của bà Herodia: Bà căm thù ông Gioan vì cản trở cuộc hôn nhân của Bà, và đợi có cơ hội là giết ông.
+ Bà là người mẹ dạy con làm chuyện đê hèn: Công chúa mà khiêu vũ một mình trước bá quan văn võ là điều xấu hổ. Chân tướng ác độc của Bà được tỏ lộ khi bảo con làm chuyện thất nhân ác đức: xin đầu của một vị thánh đặt trên mâm.
+ Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó, Salome, cô con gái của bà Herodia với Herode Philip, sau này cũng loạn luân như mẹ: Cô lấy cậu mình, Philip the Tetrarch, là con của Herode the Great và bà Cleopatra of Jerusalem.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta: Trên hết mọi sự, anh em hãy có nhân đức yêu thương, vì đó là dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Chúng ta chỉ có nhân đức này khi Thiên Chúa ngự trị trong gia đình chúng ta mà thôi.
- Nếu không có yêu thương thành thật, gia đình chúng ta sẽ biến thành địa ngục như gia đình Herode; và mọi người trong gia đình sẽ phải trả giá đắt về những hành động của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 21 TN1
Bài đọc: I Thes 4:1-8; Mt 25:1-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cách thức để đạt tới Nước Trời.
Nhiều người và nhiều đạo quảng cáo: chỉ cần tin Đức Kitô là được cứu độ mà không cần giữ những gì Ngài dạy; vì những gì con người sống hay làm không có ảnh hưởng gì đến sự cứu độ của con người. Không lạ gì mà những đạo này được nhiều người chạy theo, vì họ muốn được cả hai: đời này và đời sau, vừa thỏa mãn thân xác, vừa thỏa mãn linh hồn!
Các Bài Đọc hôm nay muốn vạch ra những sai trái của lối sông này. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu phải tuyệt đối xa tránh lối sống gian dâm, không phải vì ý khôn ngoan của Ngài, nhưng là thánh ý của Thiên Chúa muốn con người phải sống thánh thiện và tinh tuyền. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải biết cách tỉnh thức và chuẩn bị cho ngày Chúa tới qua dụ ngôn 10 trinh nữ đi đón chàng rể. Nếu không biết chuẩn bị khôn ngoan, họ có thể bị loại ra ngoài, mặc dù đã được chọn để đi đón chàng rể.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
1.1/ Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh: Thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu: ''Thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa.'' Các tín hữu Thessalonica là những người Hy-lạp, mặc dù đã được rửa tội và dạy dỗ, họ luôn bị cám dỗ để trở về với nếp sống ngày xưa. Đời sống tình dục vô luân là một trong những cám dỗ chính họ phải đương đầu với.
(1) Tránh xa gian dâm: Thánh Phaolô muốn các tín hữu Hy-lạp biết, không phải ngài lấy sự khôn ngoan của con người mà dạy họ, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa: ''Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giêsu mà ra những chỉ thị nào cho anh em. Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh: tức là xa lánh gian dâm.'' Để thực hiện điều này, các tín hữu cần phải sống trong ơn gọi gia đình: ''mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự, chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa.''
(2) Hình phạt cho những ai vi phạm: Thánh Phaolô cảnh cáo: ''Về điểm này, đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em mình, vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những cái đó, như chúng tôi đã từng báo trước và cảnh cáo anh em. Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện.''
+ Nhiều triết gia Hy-lạp dạy: "thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn;" vì thế chỉ có linh hồn mới đáng quí trọng, thân xác không có giá trị gì cả. Hậu quả là họ quan niệm cứ việc sống vô luân trong đời sống tình dục, không có tội lỗi chi cả.
+ Theo quan điểm Công-giáo: thân xác là đền thờ của Thiên Chúa, và sẽ được sống lại hiển vinh trong Ngày Quang Lâm; vì thế, phải giữ cho thân xác được tinh tuyền. Hơn nữa, kinh nghiệm dạy "một tinh thần minh mẫn trong một thân xác tráng kiện;" một thân xác mệt mỏi, tội lỗi không thể giúp linh hồn đạt được những mục đích mà Thiên Chúa muốn con người thực hiện.
1.2/ Đừng khinh thường những chỉ dạy của Thiên Chúa: Thánh Phaolô cảnh cáo: ''Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người.''
2/ Phúc Âm: Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!
2.1/ Mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ: Chúa Giêsu kể một câu truyện: "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn.'' Đám cưới của người Do-thái thường xảy ra ban đêm; vì thế đèn là một vật không thể thiếu. Chàng rể sẽ cho nhà gái biết ngày đón dâu, nhưng không cho biết giờ nào. Khi gần đến, chàng rể sẽ sai người đi trước báo hiệu để đàng gái chuẩn bị ra nghênh đón.
(1) Biết phòng xa là tiêu chuẩn để phân biệt giữa khôn ngoan và khờ dại: ''Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.'' Đèn chỉ có lợi khi có dầu, hết dầu đèn trở thành vô ích, vì không thể chiếu sáng được nữa. Người khôn ngoan là người biết phòng xa, biết tiên liệu những gì sẽ xảy ra, và biết chuẩn bị thích đáng. Các cô khờ dại có thể nghĩ chàng rể sẽ tới đúng giờ, nên số lượng dầu trong đèn sẽ đủ, và không muốn bận tâm mang dầu theo cho đỡ nặng; hoặc các cô nghĩ có thể mua khi hết dầu, nhưng các cô không biết hàng quán nào mà mở ban đêm; hoặc các cô nghĩ có thể mượn đỡ của chị em, nhưng ai dám cho mượn vì họ không biết có đủ cho họ không.
(2) Mệt nhọc và buồn ngủ là hai cái làm con người thiếu tỉnh thức và đề phòng: Đêm tối là thời gian con người ít tỉnh thức và đề phòng; đó là lý do tại sao các tội ác thường xảy ra ban đêm; vì thế, việc gì có thể làm ban ngày, đừng đợi tới ban đêm.
(3) Có những thứ và những lúc không thể cho mượn: ''Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!" Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.''
+ Đức tin không thể vay mượn: Mọi người phải luyện tập mỗi ngày để có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa, và để sẵn sàng xử dụng khi cần tới trong những lúc phải đương đầu với đau khổ hay thử thách. Nếu một người đợi đến lúc đó mới đi tìm đức tin e đã quá muộn màng.
+ Tình yêu không thể vay mượn: Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cần thời gian để phát triển; một người không thể đợi đến lúc gần chết mới đi tìm tình yêu, nhưng phải dành thời gian cho Ngài mỗi ngày. Thiên Đàng không có chỗ cho những ai không có tình yêu với Thiên Chúa; và con người cũng không mượn đâu ra được tình yêu để yêu Thiên Chúa.
+ Cuộc sống thánh thiện: không phải một lúc mà có; nhưng phải kiên trì tập luyện mỗi ngày. Các tín hữu trở nên thánh thiện không chỉ bằng khử trừ các tính hư tật xấu; nhưng còn phải kiên trì tập luyện để thủ đắc các nhân đức.
2.2/ Bị gạt ra ngoài vì không chuẩn bị: ''Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!" Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!" Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.''
Bài học cho mọi người được nêu rõ ở đây: hãy luôn biết chuẩn bị sẵn sàng, vì không ai biết được ngày nào, giờ nào. Cả cuộc đời con người là một cuộc chuẩn bị để về với Thiên Chúa; nếu không biết chuẩn bị, con người rất dễ bị gạt ra ngoài. Mục đích của các trinh nữ là đón được chàng rể, thế mà bị gạt ra ngoài vì đèn hết dầu. Tương tự, mục đích của cuộc đời là được về để hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa: nếu không đạt được đích này, chúng ta đã hoang phí cả cuộc đời của mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn biết chuẩn bị trong mọi nơi mọi lúc, mỗi ngày một ít. Đừng bao giờ đợi nước tới chân mới nhảy, kẻo phải ân hận suốt đời.
- Đừng hoang phí thời giờ vào những chuyện vô bổ: tán gẫu, xem TV tối ngày, la cà các chỗ giải trí ... Hãy dành những thời gian này để học hỏi Lời Chúa, và thực hành những gì Ngài dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 21 TN1, Năm B
Bài đọc: I Thes 2:9-13; Mt 23:27-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thi hành đồng nhất: việc làm bên ngoài và ý hướng bên trong.
Trong cuộc sống, con người có thể chọn hai lối sống: Thứ nhất, là lối sống giả hình, giả nhân, giả nghĩa. Người theo lối sống này có thể đánh lừa thiên hạ bằng lời nói: "bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao;'' hoặc bằng cử chỉ điệu bộ: "cầu nguyện lâu giờ nơi công cộng để mọi người biết mình đạo đức, mang dáng bộ thiểu não để mọi người biết mình ăn chay;" hoặc bằng việc làm có tính toán: "thả con tép bắt con tôm." Thứ hai, lối sống tình nghĩa và chân thật: có gì nói đó; trong lòng nghĩ làm sao, cư xử làm vậy. Đây là lối sống theo tình yêu thực sự, không chỉ diễn tả bằng lời nói, nhưng còn được chứng tỏ bằng việc làm; không cho đi để được nhận lại, nhưng cho đi cách chân thành và vô vị lợi.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra hai mẫu người tương phản. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô muốn chứng minh cho các tín hữu Thessalonica: ngài yêu họ thực sự như tình yêu của một người cha đối với con, chứ không phải với một tình yêu giả hình như một số người Do-thái tố cáo ngài vì ghen tức. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo cuộc sống giả hình của các người kinh-sư và biệt-phái. Họ chỉ chú trọng tới bên ngoài như những mồ mả bên ngoài có vẻ công chính tốt lành, nhưng bên trong đầy những mưu mô, thủ đoạn, và tính toán.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được.
1.1/ Việc làm chứng tỏ tình thương: Có những người khôn ngoan chỉ cần nhìn vào thái độ và việc làm của một người, họ biết đương sự có thành thật hay không. Đối với những người này, khó lòng mà qua mặt họ. Nhưng cũng có những người ngây thơ và nhẹ dạ, dễ bị người khác lợi dụng và đánh lừa. Đây là những người bị người Do-thái lợi dụng để chống lại Phaolô. Người Do-thái cho rằng sở dĩ Phaolô hết lòng rao giảng cho các tín hữu Thessalonica là vì lòng ham muốn lợi nhuận. Khi Phaolô nghe biết có những dư luận như thế, Ngài phải viết thư để khuyên các tín hữu phải khôn ngoan nhớ lại những gì ngài làm khi còn ở với họ: "Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em. Anh em làm chứng, và Thiên Chúa cũng chứng giám, rằng với anh em là những tín hữu, chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được."
Phaolô rất hãnh diện về thái độ "tay làm hàm nhai" của mình. Nghề nghiệp Phaolô làm để sinh sống là nghề chế tạo lều, một vật không thể thiếu cho những người du mục. Nhiều lần Phaolô nói với các tín hữu mặc dù ngài có thể đòi các tín hữu phải trợ cấp như các tông-đồ khác, vì Ngài cũng là nhà rao giảng Tin Mừng; nhưng Ngài chọn để sống tự lập, để không trở thành gánh nặng cho bất cứ ai. Việc làm lều để kiếm tiền sinh sống là một bằng chứng lời tố cáo của những người Do-thái ghen tị không có bằng chứng.
1.2/ Không xấu hổ trước mặt Thiên Chúa: Có những nhà rao giảng Tin Mừng chỉ nói để hoàn tất sứ vụ của mình; nhưng cũng có những nhà rao giảng nhiệt thành làm mọi cách để đưa tha nhân về với Chúa. Phaolô muốn chứng minh ngài là mẫu người thứ hai: "Anh em biết: chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người."
Một điều nữa thánh Phaolô muốn các tín hữu nhận ra là bản chất của Tin Mừng: Lời Chúa tự nó có thể giúp các tín hữu nhận ra điều nào là sự thật hay gian trá, như một thanh gươm hai lưỡi xuyên thấu mọi tâm hồn: "Bởi thế, về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu."
2/ Phúc Âm: Sống giả hình để đánh lừa thiên hạ và che giấu tội lỗi.
2.1/ Cuộc sống giả hình: Chúa Giêsu tố cáo các kinh-sư và biệt-phái: "Khốn cho các người, hỡi các kinh-sư và biệt-phái giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!''
+ giả hình "u'pokrith,j" có ba ý nghĩa: Thứ nhất, là người trả lời, hay người thông dịch, chỉ biết những cái gì hai bên muốn nói, nhưng không biết ẩn ý bên trong. Thứ hai, là kịch sĩ hay bất cứ ai giữ vai trò trong vở kịch. Kịch sĩ là những người phải diễn tả những gì soạn giả muốn nói. Kịch sĩ nổi tiếng là người phải nhập vai, phải diễn tả chính xác và như thật với vai trò của nhân vật mình đang đóng; ví dụ, phải khóc thảm thiết trong lúc tâm hồn thực sự chẳng có lý do gì để khóc, phải cười rũ rượi trong khi lòng đang buồn sầu lo lắng. Sau cùng, là người giả hình, những người chỉ chú ý đến điệu bộ bên ngoài, để che dấu những gì họ muốn bên trong.
+ Mồ mả tô vôi: để tránh khỏi bị nhơ bẩn cho dân chúng, các mồ mả được quét vôi trắng để mọi người nhận ra mà tránh đụng vào để khỏi bị "không sạch." Tuy nhiên, có trắng thế nào chăng nữa, cũng không che đậy được thực tế bên trong là xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.
+ Lối sống giả hình: của các kinh-sư và biệt-phái cũng giống như vậy. Họ mặc đủ mọi thứ áo quần, đeo những thẻ kinh và tua áo, làm những điệu bộ cung kính bên ngoài ... Tất cả những điều này chỉ có thể đánh lừa những người nhẹ dạ dễ tin; nhưng không thể qua mặt được những người khôn ngoan kinh nghiệm, và không thể nào giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi cảm nghĩ và những thủ đoạn của họ.
2.2/ Truy tố các ngôn sứ: "Khốn cho các người, hỡi các kinh-sư và biệt-phái giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: "Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ." Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!"
Xây mồ cho các ngôn sứ: Hầu hết các ngôn sứ đếu bị người Do-thái đối xử bất công, truy tố, và giết chết. Lý do đơn giản là các ngôn sứ vâng lời Thiên Chúa nói những gì dân chúng không thích, hay tố cáo tội lỗi của vua quan hay dân chúng. Các kinh-sư và biệt-phái xây mồ cho các ngôn sứ hay tô mả cho các người công chính để chứng tỏ họ không giống như cha ông của họ. Chúa Giêsu tố cáo: nếu họ thực lòng muốn như thế, họ phải thay đổi thái độ và tiếp nhận các ngôn sứ. Đàng này, họ vẫn đang tìm cách bắt bớ và truy tố chính Chúa Giêsu, Ngôn Sứ cao trọng nhất của Thiên Chúa.
Thời nay vẫn không thiếu những người như các kinh-sư và biệt-phái này. Có những người tín hữu khi cha mẹ còn sống thì chẳng chăm sóc hay thăm viếng; khi cha mẹ chết rồi mới than khóc vật vã để che mắt thiện hạ. Họ tổ chức tang lễ cho thật linh đình và xây mồ mả thật đẹp cho cha mẹ để che mắt sự bất hiếu của mình. Tục ngữ Việt-nam châm biếm những người này: "Lúc sống, thời chẳng cho ăn. Đến khi thác xuống, làm văn tế ruồi."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tập để biết sống thành thực với Thiên Chúa, với tha nhân, và với chính mình. Đừng sống giả hình như những kịch sĩ trên sân khấu, để rồi không biết sự thật là gì nữa.
- Khi sống thành thực, chúng ta sẽ cảm thấy bình an, không lo sợ bị lột mặt lạ, và nhất là không lo sợ khi phải ra trước Tòa Phán Xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 21 TN1
Bài đọc: I Thes 2:1-8; Mt 23:23-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trong ngoài như một; lời nói phải đi đôi với hành động.
Nhiều người chú trọng đến hình thức bên ngoài, vì họ nghĩ người khác chỉ có thể đánh giá họ trên những cái bên ngoài đó; nhưng họ biết đâu, họ không qua mặt được những người khôn ngoan có kinh nghiệm, và nhất là Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay mời gọi con người vượt qua hình thức bên ngoài để đi sâu vào đời sống nội tâm bên trong. Trong Bài Đọc I, vì đã quá quen với cách đánh giá trị hời hợt bên ngoài, các người Do-thái đã dùng thủ đọan để tố cáo Phaolô có cuộc sống hai mặt: lạm dụng việc rao giảng Tin Mừng để mưu cầu lợi ích cho bản thân. Vì thế, ngài phải viết thư khuyên các tín hữu Thessalonica hãy cẩn thận trong việc phán đóan: cuộc sống của Ngài khi ở với họ là bằng chứng hùng hồn cho những gì Ngài rao giảng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vạch trần cuộc sống giả hình của các người Biệt-phái. Họ quá chú trọng đến chi tiết mà quên đi mục đích và nguyên tắc của Lề Luật là sự thật, lòng nhân hậu, và sự trung tín. Họ quá chú trọng đến hình thức bên ngoài mà quên đi sự cần thiết của việc thanh tẩy và thánh thiện trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những thái độ cần có và phải tránh khi rao giảng Tin Mừng.
1.1/ Những thái độ cần có khi rao giảng Tin Mừng: Người rao giảng Tin Mừng là những ngôn sứ của Thiên Chúa được Ngài sai đi để nói thay Ngài; chứ không phải tự ý họ chọn để làm ngôn sứ. Vì thế, ngôn sứ cần phải chu toàn sứ vụ:
(1) Cho vinh danh Thiên Chúa: Thánh Phaolô tuyên bố rõ ràng: "Vì tin tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go."
(2) Cho phần rỗi linh hồn tha nhân: Yêu Chúa là thương tha nhân, linh hồn của tha nhân là điều quí trọng nhất. Thánh Phaolô tâm sự: "Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi."
(3) Rao giảng sự thật: Sứ vụ của ngôn sứ là rao giảng chân lý đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, như thánh Phaolô tuyên bố: "Lời giảng của chúng tôi không do sự sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai, nhưng vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng."
1.2/ Những thái độ phải tránh khi rao giảng Tin Mừng: Bên cạnh những điều phải làm, ngôn sứ cần phải tránh những thái độ sau đây:
(1) Làm vừa lòng người phàm: Đây là khuynh hướng rao giảng để tìm vui cho thiên hạ, để làm cho người khác cười, mà không đem đến sự cải hóa tâm hồn bên trong. Khuynh hướng này rất dễ đưa tới việc thuật lại những chuyện tiếu lâm hay những áng văn chương, thay vì chú trọng đào sâu Lời Chúa. Dĩ nhiên, ai cũng biết tâm lý quần chúng là thích cười, không thích phải suy nghĩ, và càng không thích những gì làm lương tâm họ phải cắn rứt; nhưng không phải vì thế mà ngôn sứ phải chiều theo thị hiếu của khán giả. Họ chỉ có 10 phút để nghe giảng mỗi Chủ Nhật hoặc tối đa là một tiếng mỗi khi giảng phòng, để nhà ngôn sứ nói cho họ nghe về Lời Chúa; chẳng lẽ nhà ngôn sứ không biết sự khẩn thiết của những khỏang thời gian này! Nếu khán giả thích kịch nghệ, họ có dư thời gian để ở nhà xem các chương trình cười hay đến các hí trường để xem kịch nghệ; thánh đường không phải là chỗ cho những giải trí thoải mái này. Ngôn sứ không phải là kịch sĩ hay nhà hài hước, nhưng là thợ đưa tâm hồn con người về cho Thiên Chúa. Nếu khán giả phải hư đi vì không được nghe lời sự thật của Thiên Chúa, nhà ngôn sứ phải chịu trách nhiệm về sự hư đi của khán giả (Eze 3:18)!
(2) Sợ làm mất lòng khán giả: Ngôn sứ nào sợ đụng chạm, sợ mất lòng khán giả sẽ không dám rao giảng sự thật của Lời Chúa. Ví dụ: không dám rao giảng về tai hại của xì ke, ma túy khi biết nhiều khán giả bên dưới đang hành nghề "trồng cỏ!" Không dám rao giảng về sự trung thành trong ơn gọi gia đình, khi biết nhiều khán giả bên dưới đang trong tình trạng ly thân, ly dị, hay ngoại tình.
(3) Tìm lợi nhuận cá nhân: Thánh Phaolô rất thành thật khi nói: "Chúng tôi không bao giờ dùng lời xu nịnh: như anh em biết; không bao giờ chúng tôi đã viện cớ để che đậy lòng tham, có Thiên Chúa chứng giám." Ngôn sứ nào có khuynh hướng này sẽ rao giảng để đề cao cá nhân mình, thay vì làm vinh danh Thiên Chúa; sẽ rao giảng để được thăng quan tiến chức; hay lợi dụng việc rao giảng để quyên tiền hay để bán những sản phẩm của mình.
(4) Để được người đời khen ngợi: Thánh Phaolô thú nhận: "không bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em hay người khác." Ngôn sứ nào có khuynh hướng này sẽ chỉ rao giảng khi có đông người, và khinh chê rao giảng trước đám đông ít ỏi; chú trọng đến việc rao giảng cho thành phần trí thức, và khinh chê những thành phần ít học.
2/ Phúc Âm: Hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
2.1/ Hãy chú trọng đến công lý, lòng nhân và thành tín: Chúa Giêsu nhắc nhở khán giả phải nắm lấy nguyên lý và mục đích của Lề Luật, khi Ngài vạch ra cái nhìn thiển cận của các kinh-sư và Biệt-phái: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và Biệt-phái giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ." Ví dụ, mục đích của Lề Luật là để bảo vệ con người, chứ không phải để con người làm nô lệ cho Lề Luật. Vì thế, không được nhân danh Lề Luật để làm thiệt hại mạng sống con người, hay cấm không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.2/ Phải tránh những mù quáng của các người Biệt-phái: Nhiệm vụ của người lãnh đạo là phải biết tất cả những gì nguy hiểm có thể xảy ra trên đường và biết cách đối phó. Người lãnh đạo không thể:
(1) Quá chú trọng đến chi tiết nhỏ nhặt mà quên những điều trọng yếu: Chúa Giêsu mắng các kinh sư và Biệt-phái: "Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà." Chúa có ý muốn nói, họ quá để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt, mà quên đi bao điều to lớn và quan trọng hơn.
(2) Quá chú trọng đến những cử chỉ bề ngoài, mà không chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn: "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và Biệt-phái giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi những Biệt-phái mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch." Chúa có ý muốn nói khi rửa chén đĩa, chỗ quan trọng cần phải sạch là phần bên trong, chỗ tiếp xúc với đồ ăn, cần phải sạch. Cũng vậy, tâm hồn và trí tuệ con người là những nơi cần phải sạch hơn cả, chứ không phải chỉ sạch sẽ thân xác bề ngoài mà thôi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy biết sống thành thực với Thiên Chúa, với tha nhân, và với chính mình. Chúng ta không thể giấu bất cứ điều gì với Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét chúng ta.
- Khi rao giảng Tin Mừng, chúng ta hãy rao giảng những gì Thiên Chúa dạy một cách chân thật và vô vị lợi; nếu không, chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm với Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 24/8 Đến mà xem
- 23/8 Phải biết làm các quyết định khôn ngoan trong cuộc đời
- 22/8 Thiên Chúa ghé mắt nhìn xem những người khiêm nhường phục vụ
- 21/8 Mến Chúa, yêu người
- 20/8 Trung tín giữ những gì đã thề hứa
- 19/8 Sự khác biệt giữa Vua Trời và vua chúa trần gian
- 18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
- 18/8 Thiên Chúa chọn những kẻ khiêm cung, khó nghèo.
- 17/8 Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người bội phản
- 16/8 Khao khát được "trường sinh bất tử