Sống Lời Chúa Hôm Nay
Hiệu quả của Lời Chúa
- Viết bởi Heb 4:12-16; Mk 2:13-17
Thứ Bảy Tuần I TN, Năm B
Bài đọc: Heb 4:12-16; Mk 2:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiệu quả của Lời Chúa
Theo truyền thống Do-Thái, một khi lời nói phát xuất từ miệng một người, nó có thể hiện hữu cách độc lập. Nó không chỉ là một âm thanh với một ý nghĩa; nó còn là một năng lực thóat ra để hòan thành ý định của người nói. Ví dụ, biết bao việc làm là hậu quả của những lệnh truyền của vua chúa và các vĩ nhân trên thế giới. Điều này càng đúng hơn với Lời Chúa. Theo Tiên-tri Isaiah: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Isa 55:10-11).
Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong việc đề cao sự quan trọng của Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-Thái so sánh Lời Chúa với thanh gươm sắc bén hai lưỡi, có khả năng xuyên thấu mọi chỗ bí ẩn của con người. Trong Phúc Âm, Lời Chúa Giêsu có sức hấp dẫn một người thu thuế như Matthew, và làm cho ông trở nên một Tông-đồ nhiệt thành của Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Lời Chúa nhập thể trong thân xác con người.
1.1/ Sự quan trọng của Lời Chúa: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách thần trí với linh hồn, khớp xương với tuỷ sống.” Phân tích từ ngữ sẽ giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của Lời Chúa.
- Sống động: Lời Chúa không phải là tác phẩm văn chương hay triết lý, cho dầu hay đến đâu chăng nữa; nhưng vẫn sống động và cần thiết cho con người ở mọi nơi, mọi thời. Đây là lý do tại sao không một Sách nào trong lịch sử con người có nhiều người đọc bằng Kinh Thánh.
- Hữu-hiệu: Khi một người quyết định sống theo Lời Chúa, họ trở thành con người hòan tòan mới. Việc Matthew bỏ mọi sự theo Chúa Giêsu là một trường hợp điển hình.
- Xuyên-thấu: Lời Chúa sắc-bén hơn cả gươm hai lưỡi. Người Hy-Lạp quan niệm con người là tập hợp của 3 phần chính: (1) linh hồn là cái làm cho con người sống; (2) thần trí là đặc điểm làm con người suy tư và lý luận; và (3) thân xác. Tác-giả có ý muốn nói Lời Chúa thử thách đời sống thể lý cũng như tâm linh của con người.
- Phê-bình: Lời Chúa phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Tâm tình thuộc về phần cảm xúc của con người; trong khi tư tưởng thuộc về phần trí tuệ của con người.
Nói tóm, “Không có loài thọ tạo nào có thể ẩn giấu trước Lời Chúa; nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” Con người không thể trốn tránh và che phủ trước Lời Chúa; chúng ta phải diện-đối-diện với Thiên Chúa và trả lời cho tất cả những việc chúng ta đã không làm theo Lời Chúa dạy.
1.2/ Kinh nghiệm của Chúa Giêsu: Đây là một giáo lý hòan tòan mới và là một cuộc cách mạng tôn giáo; vì các tôn giáo bấy giờ tin Thiên Chúa và đau khổ không thể ở chung với nhau. Đối với người Do-Thái, một Thiên Chúa uy quyền không thể chịu đau khổ. Đối với Phái Khắc Kỷ (Stoics), Thiên Chúa không được có cảm xúc (apatheia), vì sẽ bị dân thuyết phục và lợi dụng để cầu xin; và như thế, họ hơn Chúa. Đối với Phái Khóai Lạc (Epicureans), Thiên Chúa phải tách rời thế giới. Ngài sung sướng và hạnh phúc hòan tòan rồi, không cần phải biết đến thế giới con người. Kitô Giáo đi ngược lại với các tôn giáo này, khi tin Chúa Kitô đã trải qua mọi kinh nghiệm trên trời cũng như dưới đất để thấu hiểu, để đồng cảm, và để cứu giúp con người.
(1) Kinh nghiệm trên trời: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin.”
(2) Kinh nghiệm dưới đất: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”
Vì đã có tất cả các kinh nghiệm trên trời cũng như dưới đất, Chúa Giêsu biết cách mang Thiên Chúa đến cho con người, và mang con người về cho Thiên Chúa. Hai điều chính Chúa Giêsu có thể giúp con người:
- Cảm thương: Không một nỗi cơ cực nào con người phải trải qua mà Chúa Giêsu không phải chịu, và còn hơn chúng ta nữa. Khi chúng ta phải quằn quại trong đau khổ, chúng ta không muốn chạy đến một chúa vô cảm của Do-Thái và Hy-Lạp; nhưng đến với một Chúa đã trải qua gian khổ như chúng ta để được đồng cảm.
- Trợ giúp: Người có thể giúp chúng ta cách hiệu quả nhất là Người đã trải qua mọi gian nan và thử thách như chúng ta, và đã chiến thắng. Chúng ta hãy chạy lại với Ngài để được giúp.
3/ Phúc Âm: Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.
3.1/ Chúa Giêsu gọi Lêvi, người thu thuế: “Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người.” Người Do-Thái quan niệm: người thu thuế như ông Lêvi là người tội lỗi công khai, vì đã toa rập với nước ngòai để bóc lột dân chúng. Họ bị ngăn cấm không cho vào Đền Thờ, và được xếp hạng cùng với hàng đĩ điếm và trộm cướp. Chúa Giêsu không những chọn Matthew, mà còn công khai dùng bữa với các người thu thuế khác tại nhà ông. Thái độ của Matthew rất anh hùng và dứt khóat, vì một khi đã bỏ nghề thu thuế là ông đã mất tất cả về phương diện vật chất. Nhưng bù lại, ông đã nhận được rất nhiều về phương diện tinh thần: bình an vì từ nay không còn bị khinh thường, trở thành Tông-đồ, và trở thành Thánh-sử để loan báo Tin Mừng của Chúa.
3.2/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm Biệt-phái: Có hai phản ứng chính trong cuộc trở lại của Matthew:
(1) Những kinh-sư thuộc nhóm Biệt-phái: Thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: "Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!"
(2) Đức Giê-su nói với họ: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."
Ngược lại với cách cư xử của con người, Thiên Chúa không giữ quá khứ tội lỗi của con người; trái lại Ngài không ngừng kêu gọi con người từ bỏ quá khứ tội lỗi để hướng về tương lai. Như một bác sĩ rành nghề, Chúa Giêsu biết Ngài có thể chữa bệnh cho Matthew, và dùng những tài năng sẵn có của ông cho việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lời Chúa có sức để làm những chuyện không thể đối với con người.
- Lời Chúa có khả năng thay đổi những tâm hồn tội lỗi thành thánh thiện.
- Chúng ta phải dành địa vị quan trọng cho Lời Chúa trong cuộc đời, được chứng tỏ qua thời gian bỏ ra, cố gắng khắc phục khó khăn, và thực thi Lời Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa
- Viết bởi Heb 4:1-5, 11; Mk 2:1-12
Thứ Sáu Tuần 1 TN, Năm B
Bài đọc: Heb 4:1-5, 11; Mk 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa.
Thiên Chúa đã dạy dỗ và hướng dẫn con người mọi sự, ngày xưa cũng như thời nay; nhưng rất ít người chịu lắng nghe, tìm hiểu, và mang ra thực hành. Vì thế, không lạ gì mà con người vẫn tiếp tục cuộc sống triền miên đau khổ trong tội lỗi của mình.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, Tác-giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến việc: nếu con người không chịu tuân giữ Lời Chúa dạy, họ sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng uy quyền chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội; và như một hiệu quả, Ngài đến từ Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa.
1.1/ Chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: Tác giả Do-Thái dùng chữ “chốn yên nghỉ” để chỉ hai thực tại:
(1) Đất Hứa như thời dân Do-Thái lang thang suốt 40 năm trong sa mạc: Thiên Chúa hứa ban cho dân được vào Đất Hứa sau 40 năm lang thang trong sa mạc. Điều kiện để được vào Đất Hứa là phải lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa để vượt qua những thử thách trong cuộc hành trình; nhưng không phải tất cả được vào Đất Hứa, rất nhiều người đã ngã gục dọc đường vì đã không tuân lệnh Thiên Chúa (x/c Num 13 và 14), đến nỗi Chúa đã phải thịnh nộ thề rằng: “Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta.” Sau cùng, chỉ có một số trung thành và vâng lời được Joshua hướng dẫn vào Đất Hứa để ổn định cuộc sống trong vùng đất chảy “sữa và mật.” Theo tác-giả Thư Do-Thái, biến cố vào Đất Hứa đã qua rồi, nhưng lời Thiên Chúa nói: “Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta” vẫn còn hiệu nghiệm. Đó là lý do tại sao ông đi tìm một biến cố khác mà lời của Chúa phán vẫn còn hiệu nghiệm.
(2) Thiên Chúa nghỉ ngơi ngày Sabbath sau khi đã tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày: Tác giả trở về với biến cố tạo dựng của Thiên Chúa trong Sách Sáng Thế Ký để tìm ra “chỗ an nghỉ” của Thiên Chúa: “Công việc của Thiên Chúa đã hoàn thành từ tạo thiên lập địa, như có chỗ Thiên Chúa phán về ngày thứ bảy rằng: Khi đã làm xong mọi công việc, thì ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ” (x/c Gen 1 và 2). Trong 6 ngày tạo dựng, trình thuật STK đều nói rõ “qua một buổi sáng và một buổi chiều;” nhưng trong ngày Sabbath Chúa nghỉ, không thấy nói tới “một buổi chiều.” Vì điều này, các Rabbi chú giải: ngày nghỉ của Thiên Chúa không có cùng tận. Chốn yên nghỉ không chỉ giới hạn trong Đất Hứa, nhưng được trải rộng ra tới chốn yên nghỉ của Thiên Chúa, mà tác giả Thánh Vịnh 95 gọi là “chốn yên nghỉ của Ta.”
Nếu hiểu theo nghĩa sau này, lời Thiên Chúa nói vẫn còn ứng nghịêm, như tác giả áp dụng vào trong việc nghe rao giảng Tin Mừng: “Vậy chúng ta phải sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Người vẫn còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội. Quả thế, chúng ta đã được nghe loan báo Tin Mừng như những người kia. Nhưng lời họ đã nghe không sinh ích gì cho họ, bởi vì những kẻ đã nghe không lấy đức tin đáp lại lời giảng. Còn chúng ta là những người tin, chúng ta đang vào chốn yên nghỉ đó, như lời Thiên Chúa đã phán: Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta.”
1.2/ Điều kiện để được vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: Phải lấy đức tin đáp lại lời giảng. Nghe giảng là để dẫn tới đức tin, chứ không phải chỉ nghe cho qua lần chiếu lệ. Có rất nhiều cách nghe giảng khác nhau: nghe như nước đổ đầu vịt, nghe như vịt nghe sấm, nghe tai này qua tai kia, nghe để bới lá tìm sâu, chuyên chú lắng nghe để học hỏi… Cách nghe giảng đúng đắn là chuyên chú lắng nghe để học hỏi, để hiểu thấu trọng tâm của lời giảng, và sau đó, đem ra thực hành trong cuộc sống để đạt được mục đích Thiên Chúa muốn. Nếu chỉ nghe cho qua lần chiếu lệ, làm sao con người có thể hiểu Lời Chúa; và nếu không hiểu, làm sao có thể thực hành. Vì thế, không vào được chốn yên nghỉ của Thiên Chúa là hậu quả ắt phải tới.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là Thiên Chúa vì Ngài làm được những việc Thiên Chúa làm.
2.1/ Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: Trình thuật kể: “Đang khi Người giảng dạy cho họ, người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống.” Mái nhà của người Do-Thái không xuôi ra hai bên như mái nhà chúng ta, mà phẳng như hình chữ nhật để người ta có thể dùng làm sân thượng để hóng mát. Vì thế, việc dỡ mái nhà xuống cũng đơn giản và ít gây thiệt hại. Khi thấy cách biểu lộ niềm tin của họ, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi." Tội này có thể là tội dỡ mái nhà hay tội của người bại liệt.
2.2/ Chúa Giêsu có quyền tha tội:
(1) Tội lỗi và hình phạt: Theo truyền thống Do-Thái, hình phạt là hậu quả của tội lỗi: có thể của cá nhân hay của cha mẹ (Job 4:7, Jn 9:2). Các Rabbi có câu: “Không người bệnh nào được lành bệnh cho tới khi tất cả tội lỗi của anh được tha thứ.”
(2) Lý luận của Chúa Giêsu: Khi Ta tha hình phạt qua việc chữa lành, là Ta tha tội, nguyên nhân của hình phạt.
(3) Lý luận của các Kinh-sư: Trong đám đông, có nhiều các Kinh-sư đến không phải để nghe Thiên Chúa giảng, nhưng để bới lá tìm sâu để có thể kết án Chúa, và họ nghĩ họ đã tìm ra lý do để kết án Chúa phạm thượng: " Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?"
(4) Chúa Giêsu dùng lý luận của các Kinh-sư và việc chữa lành để chứng minh cho họ biết Ngài là Thiên Chúa: “Tâm trí Đức Giêsu thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi," hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi," điều nào dễ hơn?” Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo “Con đã được tha tội rồi;” vì không ai có thể kiểm chứng được, còn điều khó làm là bảo "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi;" phải là người có uy quyền mới làm được và mọi người đều kiểm chứng.
“Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nghe giảng là để dẫn tới đức tin hay làm cho đức tin tăng trưởng hơn, chứ không phải nghe cho qua lần chiếu lệ. Cả người rao giảng lẫn các tín hữu, chúng ta phải tôn trọng lúc lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa.
- Nếu chúng ta khinh thường hay không chịu chuẩn bị, chúng ta đã hoang phí thời giờ của người rao giảng cũng như người nghe; và nhất là không đạt được mục đích của cuộc đời: được sống với Thiên Chúa muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả
- Viết bởi Heb 3:7-14; Mk 1:40-45
Thứ Năm Tuần I TN, Năm B
Bài đọc: Heb 3:7-14; Mk 1:40-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả.
Trong cuộc sống, mọi người chúng ta đều nhận ra nguyên tắc: nếu muốn kết quả tốt đẹp, phải thi hành những điều kiện đòi hỏi; làm ngược lại sẽ phải lãnh hậu quả xấu. Ví dụ, để có thể lành bệnh, con người phải làm theo những gì bác sĩ căn dặn; nếu không, sẽ không khỏi bệnh. Để có thể thu thập kiến thức và đạt được điểm cao, học sinh phải lắng nghe giáo sư và viết lại những gì giáo sư nói; nếu nói ngược lại và không có lý do chứng minh, sẽ bị điểm xấu và có thể bị ở lại lớp.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải vâng lời Thiên Chúa và thi hành những gì Ngài dạy, nếu muốn được Thiên Chúa săn sóc và ban ơn. Làm ngược lại những gì Thiên Chúa dạy là tự chuốc hậu quả xấu cho mình. Trong Bài Đọc I, Tác giả Thư Do-Thái dùng ví dụ của hai nhà lãnh đạo Moses và Aaron để răn bảo dân phải biết vâng lời Thiên Chúa mà tin vào Đức Kitô. Trong Phúc Âm, mặc dù đã được ngăn cấm bởi Đức Kitô, người phong hủi vẫn không vâng lời. Sự bất tuân của anh làm cho Chúa Giêsu không thể vào thành và dạy dỗ dân chúng được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta!
1.1/ Tâm hồn chúng cứ lầm lạc mãi, chúng nào biết đến đường lối của Ta:
(1) Biến cố trong sa mạc tại Meribah và Massah (Psa 95:7-11): Dân chúng đi trong sa mạc không có nước uống, họ kêu ca với Moses và Aaron hai lần. Lần đầu tại Marah (Exo 15:23), nước quá đắng họ không uống được, Thiên Chúa chỉ cho Moses lấy một khúc gỗ quăng xuống, nước liền hóa ngọt cho dân uống. Lần thứ hai tại Meribah (Exo 17:1-7, Num 20:1-13), dân chúng cũng kêu trách vì không có nước uống, Thiên Chúa bảo Moses và Aaron: "Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với Aaron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước; từ tảng đá, ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng, và ngươi sẽ cho cộng đồng và súc vật của chúng uống." Ông Moses cầm lấy cây gậy ở trước nhan Đức Chúa, như Người đã truyền cho ông. Ông Moses và ông Aaron triệu tập đại hội trước tảng đá; ông Moses nói với họ: "Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể làm cho nước chảy ra cho các người được không?" Ông Moses giơ tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống” (Num 20:8-11).
Nếu một người so sánh những gì Thiên Chúa nói với những gì ông Moses làm, người đó sẽ nhận thấy ông Moses đã không vâng lời làm theo những gì Thiên Chúa truyền: Chúa bảo ông “các ngươi sẽ nói với tảng đá.” Ông Moses lấy gậy đập vào tảng đá, không chỉ đập một lần mà tới hai lần. Vì thế, đây là bài học muôn đời cho dân Israel và cho chúng ta: Hễ Thiên Chúa bảo gì, hãy làm đúng như vậy. Tác giả Thánh Vịnh 95 nhắc lại cho dân chúng sự kiện này để họ biết tầm quan trọng của việc vâng lời Thiên Chúa: “Vì thế, như lời Thánh Thần phán: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng như hồi chúng nổi loạn, như ngày chúng thử thách Ta trong sa mạc, nơi cha ông các ngươi đã từng dò xét mà thử thách Ta và đã thấy các việc Ta làm suốt bốn mươi năm. Vì thế, Ta đã nổi giận với dòng giống này, Ta đã nói: Tâm hồn chúng cứ lầm lạc mãi, chúng nào biết đến đường lối của Ta.”
(2) Hậu quả của việc không vâng lời: Bấy giờ Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aaron: "Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Israel, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng. Đó là mạch nước Meribah - nghĩa là gây chuyện - nơi con cái Israel đã gây chuyện với Đức Chúa, và Người đã biểu dương sự thánh thiện của Người giữa họ" (Num 20:12-13). Hai ông Moses và Aaron, mặc dù có công nhiều trong việc lãnh đạo dân Do-Thái ra khỏi Ai-Cập và cuộc hành trình suốt 40 năm trong sa mạc, đã không được lãnh đạo dân vào Đất Hứa vì biến cố bất tuân tại Meribah này. Thiên Chúa cho ông Moses thấy Đất Hứa rồi qua đời (Jos 1:1-2), nhưng đã chọn ông Joshua lãnh đạo đem dân vào Đất Hứa. Tác giả của Thánh Vịnh 95 cũng nhắc lại hậu quả này: “Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta!”
1.2/ Đừng chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô:
(1) Nếu chối bỏ Đức Kitô: Sau khi Tác-giả Thư Do-Thái dùng bằng chứng của Cựu Ước để chứng minh sự quan trọng của việc vâng lời Thiên Chúa, ông áp dụng điều này trong Tân Ước. Vì Đức Kitô được Thiên Chúa sai đến để dạy dỗ và mang ơn Cứu Độ cho dân, tất cả mọi người phải tin vào Ngài và thực hành những gì Ngài dạy. Ông viết: “Thưa anh em, hãy đề phòng, đừng để người nào trong anh em có lòng dạ xấu xa chối bỏ đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống. Trái lại, ngày ngày anh em hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt. Quả thế, chúng ta đã được thông phần Đức Kitô, miễn là chúng ta cứ giữ vững cho đến cùng căn bản của lòng tin đã có từ ban đầu.”
(2) Hậu quả của việc chối bỏ Đức Kitô: lìa xa Thiên Chúa hằng sống. Theo các tác giả của Tân Ước, điều kiện để được hưởng ơn Cứu Độ là tin vào Đức Kitô. Ai không tin vào Đức Kitô, sẽ không có sự sống đời đời; và như thế, sẽ không bao giờ được chung sống với Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Người phong cùi được chữa lành, nhưng không nghe lời Thiên Chúa.
2.1/ Chúa Giêsu chữa lành người phong cùi: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.
2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu: Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." Mục đích tại sao Chúa Giêsu làm phép lạ là vì thương bệnh nhân và muốn cho họ nhận ra Ngài là Thiên Chúa, chứ không phải để được tán dương ca tụng. Nếu sau khi lãnh nhận phép lạ, mà vẫn không tin vào Ngài, phép lạ đó coi như đã không đạt được mục đích.
2.3/ Anh được chữa lành phong hủi không nghe lời Chúa Giêsu: Trình thuật kể: “Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.” Chúng ta cứ thử tưởng tượng, nếu Chúa Giêsu là một ông vua hay nhà lãnh đạo quân sự, điều gì sẽ xảy ra cho anh phong cùi này?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa và tuân giữ những gì Ngài truyền dạy.
- Vâng lời Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo không phải là hèn kém hay nô lệ, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan của chúng ta; vì chúng ta biết họ khôn ngoan và yêu thương chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Giêsu là Thựơng-tế nhân-từ và trung-tín
- Viết bởi Heb 2:14-18; Mk 1:29-39
Thứ Tư Tuần 1 TN, Năm B
Bài đọc: Heb 2:14-18; Mk 1:29-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là Thựơng-tế nhân-từ và trung-tín.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có đau mắt mới biết thương người mù.” Có là cha mẹ mới biết nỗi khổ của việc cưu mang và dưỡng nuôi con cái. Có trải qua đau khổ và cám dỗ, một người mới có thể giúp ai trong hòan cảnh đó. Các Bài đọc hôm nay xoay quanh vấn nạn tại sao Chúa Giêsu phải nhập thể và trở nên hòan tòan giống như con người về mọi phương diện, trừ tội lỗi.
Trong Bài Đọc I: Tác giả Thư Do-Thái cắt nghĩa lý do tại sao Chúa Giêsu phải nhập thể, và trở nên giống con người về mọi phương diện trừ tội lỗi. Mục đích của việc nhập thể là để có thân xác để chịu chết để tiêu diệt tội lỗi và sự chết cho con người. Mục đích của việc trở nên giống con người về mọi phương diện là để đồng cảm và cứu giúp con người cách hiệu quả. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng cảm với số phận con người: Ngài chữa lành cho mẹ vợ Phêrô và tất cả mọi người trong Thành Capernaum kéo đến kêu xin. Ngài cũng dạy cho các tông-đồ biết thăng bằng giữa các họat động tông-đồ với đời sống cầu nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện.
Khi Kitô Giáo lan tràn vào thế giới La-Hy, hai vấn nạn khó khăn Giáo Hội phải đương đầu với là phải giải thích cho người Hy-Lạp biết:
(1) Tại sao Thiên Chúa phải nhập thể: Đối với người Hy-Lạp, Thiên Chúa hòan tòan là Thần Khí, nơi Ngài không có một chút vật chất nào cả. Để được giải thóat và kết hợp với Thiên Chúa, con người phải cố gắng làm sao để thóat khỏi ngục tù thân xác đang giam hãm linh hồn con người, để chỉ còn thần khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược lại, Con Thiên Chúa phải nhập thể để cứu chuộc con người!
(2) Tại sao Thiên Chúa phải chịu đau khổ: Người Hy-Lạp và người Do-Thái không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ; chỉ có con người mới phải chịu đau khổ mà thôi. Một Thiên Chúa phải chịu đau khổ không còn là Thiên Chúa nữa. Họ lý luận: Nếu Thiên Chúa không có uy quyền để vượt thóat đau khổ, làm sao Ngài có thể giúp người khác vượt qua đau khổ được? Kitô Giáo cũng đi ngược lại, không thể có Ơn Cứu Độ nếu con Thiên Chúa không chịu chết trên Thập Giá!
Tác giả Thư Do-Thái cố gắng trả lời hai vấn nạn này như sau:
1.1/ Chúa Giêsu phải nhập thể để mang lấy thân phận con người: Để có thể tiêu diệt tội lỗi và sự chết, Chúa Giêsu phải mang lấy thân xác con người để có thể chịu chết và đền tội cho con người. Nếu không có thân xác, làm sao chết? “Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chết muôn đời; Ngài đã sống lại vinh quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của những người từ trong cõi chết sống lại. Ngài là “người tiên phong” đi mở đường, để tất cả các anh em của Ngài cũng được đi con đường đó.
1.2/ Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện: Tác giả Thư Do-Thái nhận ra sự cần thiết của việc Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện, ngọai trừ tội lỗi: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” Mục đích của việc “hòan toàn trở nên con người” là để:
(1) Ngài có thể thực sự được coi là một con người: Đã là con người, ai cũng phải chịu đựng đau khổ và ngang qua cái chết.
(2) Ngài có thể thông cảm và đồng cảm với thân phận con người: Nếu một người không ngang qua những kinh nghiệm đau khổ và sự chết, người đó sẽ không thể hòan tòan hiểu và thông cảm những ai bị ở trong hòan cảnh đó.
(3) Ngòai ra, Ngài có thể giúp đỡ một cách hiệu quả cho những ai ở trong hòan cảnh đó: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.”
Nói tóm, Thiên Chúa có uy quyền trên cả sự sống và sự chết. Ngài có thể cho Con của Ngài nhập thể, chịu đau khổ, ngang qua sự chết, và phục sinh vinh hiển. Chẳng gì là không thể đối với Thiên Chúa; và đừng áp dụng các thức suy nghĩ của con người cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu đồng cảm với con người. Ngài chữa lành mọi bệnh họan, tật nguyền.
2.1/ Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc của Phêrô: “Vừa ra khỏi hội đường Capernaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.”
Trong hành trình của Chúa trên dương gian, Ngài luôn đồng cảm với con người, nhất là những bệnh nhân và những người lâm cảnh khốn khó. Ngài luôn chữa lành khi họ kêu xin; và nhiều khi họ chưa kêu xin nữa.
2.2/ Chúa Giêsu chữa bệnh cho rất nhiều người trong thành: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” Sở dĩ họ phải chờ chiều đến, là Luật Do-Thái không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.3/ Chúa Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
(1) Sự cần thiết của đời sống cầu nguyện: Khi Ngài còn đang cầu nguyện, ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" Cả một ngày vất vả dạy dỗ và chữa bệnh, Chúa Giêsu vẫn tìm được thời gian để cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn dạy các môn đệ: cần phải thăng bằng giữa đời sống kết hợp với Thiên Chúa để
nuôi dưỡng các họat động tông-đồ.
(2) Nước Chúa cần được mở rộng khắp nơi: Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người tông-đồ của Chúa Giêsu phải biết cảm thương với số phận của con người: yếu đuối, bệnh tật, đau khổ, và tội lỗi, trước khi có thể giúp đỡ đem họ về cho Chúa.
- Chúng ta cần phải giữ thăng bằng cho đời sống: có thời giờ cho các họat động tông đồ và có thời giờ để cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
- Chúng ta cần trưởng thành trong đời sống để tự giúp mình, và để lãnh trách nhiệm trong việc mở mang Nước Chúa, chứ không hòan tòan sống ỷ lại vào người khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Uy quyền của Chúa Giêsu
- Viết bởi Heb 2:5-12; Mk 1:21-28.-Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 1 TN, Năm B
Bài đọc: Heb 2:5-12; Mk 1:21-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Uy quyền của Chúa Giêsu
Để có thể thuyết phục người khác, người rao giảng cần có uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động. Ngòai sự thông hiểu về đề tài và cách suy luận, người rao giảng còn phải biết cách trình bày sao cho sáng sủa, gọn gàng, và dễ hiểu. Tuy nhiên, “lời nói chỉ mới lung lay;” muốn hòan tòan thuyết phục khán giả, người rao giảng cần phải sống những lời mình rao giảng hay cần những người khác làm chứng cho mình.
Các Bài Đọc hôn nay tập trung trong uy quyền của Chúa Giêsu. Trong Bài Đọc I, Chúa Giêsu là lý do tại sao con người được phục hồi tình trạng nguyên thủy: con người có quyền trên mọi sự và mọi lòai. Trong Phúc Âm, khán giả của Chúa Giêsu nhận ra ngay sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các kinh-sư: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Muôn loài muôn sự phải phục quyền con người.
Để hiểu tư tưởng của tác giả trong đọan văn này, chúng ta cần hiểu danh từ con người. Khi thì tác giả dùng để chỉ lòai người cách tổng quát, khi thì áp dụng cho Chúa Giêsu như là vị đại diện của lòai người. Trong trường hợp thứ hai, Con Người phải được viết hoa. Chúng ta có thể phân biệt 3 tình trạng của lòai người như sau:
1.1/ Phẩm giá cao trọng của lòai người trong ý định của Thiên Chúa: Tác giả quả quyết con người sẽ làm chủ thế giới tương lai: “Thật vậy, Thiên Chúa đã không trao cho các thiên thần quyền làm chủ thế giới tương lai, thế giới mà chúng ta đang nói đến. Nhưng trong một đoạn Kinh Thánh kia, có người đã làm chứng rằng: Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến? Con người là gì mà Chúa phải thăm nom? Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục quyền con người. Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người.”
- Đọan văn mà tác giả trích ở đây là Thánh Vịnh 8:5-7, nói về phẩm giá con người. Họ cao trọng hơn hết mọi lòai trong ý định của Thiên Chúa.
- Một điểm liên quan đến bản văn cần lưu ý: Bản dịch của Nhóm PVCGK dịch từ bản Bảy Mươi của Hy-Lạp, dùng chữ “thua kém các thiên-thần.” Trong khi bản MT của Do-Thái dùng chữ “thua kém Thiên Chúa, Elohim.” Theo văn mạch, bản Bảy Mươi hợp lý hơn nếu chúng ta hiểu tình trạng của con người sau khi phạm tội, họ thua kém các thiên-thần. Bản MT của Do-Thái đúng trong ý định của Thiên Chúa và sau khi phẩm giá con người được phục hồi nhờ Đức Kitô.
1.2/ Tình trạng của lòai người sau khi phạm tội: “Thật ra, hiện nay chúng ta chưa thấy muôn loài muôn sự phục quyền con người.” Có lẽ đây là tình trạng của con người sau khi phạm tội và trước khi được cứu chuộc bởi Đức Kitô
1.3/ Tình trạng của lòai người sau khi đã được Đức Kitô cứu chuộc: Qua đau khổ, Đức Kitô đã chuộc lại phẩm giá nguyên thủy cho con người. Tác giả viết: “Nhưng con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.”
Vì thế, trong ý định muôn đời của Thiên Chúa, con người chỉ thua kém Thiên Chúa, nhưng cao trọng hơn các mọi lòai, bao gồm cả thiên thần. Khi con người phạm tội, thứ tự bị đảo ngược, con người thua thiên-thần; nhưng Thiên Chúa đã có kế họach phục hồi tình trạng nguyên thủy cho con người qua Đức Kitô: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội Dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.”
2/ Phúc Âm: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.
2.1/ Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người: “vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh-sư.” Qua lời nhận xét này, khán giả đã nhận ra ngay sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các kinh-sư:
- Đấng có thẩm quyền: Người biết rõ vấn đề chứ không dựa theo người khác. Điều này dễ hiểu nếu chúng ta nhìn nhận Đức Kitô chính là sự khôn ngoan hay trí tuệ của Thiên Chúa. Ngài biết mọi sự xảy ra trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thẳng thắn sửa chữa sự hiểu sai của truyền thống: “Người xưa dạy… phần Thầy, Thầy dạy các con… ”
- Các kinh-sư: Họ chỉ hiểu phần nào của vấn đề chứ không thông suốt tất cả. Họ phải dựa vào thẩm quyền của Kinh Thánh để biện minh cho những lời giải thích của họ, chứ không dám đưa ra một giáo lý gì mới cả.
2.2/ Chúa Giêsu có uy quyền trên các thần ô uế: Trình thuật kể: trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!"”
Người Do-Thái tin có rất nhiều thần ô uế trong thế giới, và chính Chúa Giêsu đã nhiều lần trục xuất các thần ô uế khỏi con người, điển hình là trình thuật hôm nay. Các thần ô uế này có thể là oan hồn của các kẻ gian ác chưa được giải thóat, hay dựa trên trình thuật của Stk 6:1-4.
(1) Ông là “Đấng Thánh”của Thiên Chúa: Thần ô uế biết nguồn gốc và mục đích của Chúa Giêsu. Nguồn gốc: Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa. Mục đích: Ngài đến để tiêu diệt tội lỗi và các kẻ gây ra tội lỗi. Không những thế, Ngài còn khôi phục lại sự thánh thiện của con người, làm cho họ xứng đáng được hưởng nhan thánh Chúa.
(2) Chúa Giêsu truyền lệnh: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.
(3) Phản ứng của con người: Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì Chúa Giêsu đã chịu chết để phục hồi phẩm giá nguyên thủy cho con người, chúng ta cần bắt chước Chúa Giêsu để tiêu diệt và tránh xa ảnh hưởng của các thần ô uế.
- Để có thể thuyết phục người khác tin vào Chúa, chúng ta cần thông suốt những gì Chúa dạy trước khi có thể rao truyền Tin Mừng cho người khác.
- Một cuộc sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng sẽ dễ dàng thuyết phục những người khác tin vào Thiên Chúa hơn là chỉ thuần túy rao giảng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Cùng nhau làm việc
- Viết bởi Heb 1:1-6; Mk 1:14-20
Thứ Hai Tuần I TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb 1:1-6; Mk 1:14-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cùng nhau làm việc.
Người Việt Nam chúng ta rất thành công khi làm việc một mình; nhưng thất bại khi phải làm việc chung với người khác. Lý do: chúng ta sợ! Sợ vì mất quyền hành, sợ người khác hơn mình, sợ vì phải san sẻ lợi lộc cho người khác. Để có thể làm việc chung, chúng ta phải tin tưởng các cộng sự viên của mình trước khi họ chứng minh họ xứng đáng niềm tin của chúng ta. Chúng ta phải nhìn thấy những mối lợi do sự làm việc chung mang lại hơn là những gì chúng ta phải mất.
Hơn nữa, để làm việc chung có hiệu quả, trước khi trao công việc, chúng ta phải: (1) huấn luyện để các cộng sự viên biết và có khả năng làm những gì chúng ta trao cho họ; (2) trao việc là phải trao quyền hành; cộng sự viên là những người đại diện chúng ta để giải quyết vấn đề, chúng ta cần cho họ biết trước những giới hạn về quyền hành nếu có; và (3) phải giúp mọi phương tiện, để họ có thể thi hành sứ vụ được trao phó.
Các Bài đọc hôm nay cho thấy sự làm việc chung của Chúa Cha và Chúa Con. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa Cha làm việc chung với các tiên-tri, thiên-thần, và với Con của Ngài. Trong quá khứ, Người dùng miệng các tiên-tri mà loan báo cho mọi người những gì Ngài muốn. Khi thời gian viên mãn, Người đã dùng chính Người Con để mặc khải và dạy dỗ con người. Trong Phúc Âm, sau khi nhận lãnh sứ vụ từ Chúa Cha, Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên để Ngài huấn luyện, trước khi sai họ đi để tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa làm việc chung với các tiên tri, với Con, và với các thiên thần.
1.1/ Thiên Chúa làm việc với các tiên tri: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ.” Thánh Thomas Aquinô đưa ra nguyên tắc nền tảng: Thiên Chúa làm mọi sự cho con người qua cách thức của con người. Vì nếu không theo cách thức đó, con người sẽ không thể hiểu được. Ví dụ, để con người hiểu được những gì Chúa muốn, Chúa dùng miệng các tiên tri để các ngài dùng tiếng nói của con người mà nói những gì Chúa muốn. Dĩ nhiên, trước đó Chúa phải cho các tiên tri biết Chúa muốn nói gì; có thể bằng thị kiến, có thể bằng tác động trên trí não, miệng lưỡi … Trong Cựu Ước, Thiên Chúa không làm việc trực tiếp với dân, nhưng qua các thiên-thần, các Tổ-phụ, các Thủ-lãnh, và các tiên-tri. Tác giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến hai đặc thù của sự làm việc qua các tiên-tri:
(1) Nhiều lần: Tiếng Hy-Lạp phải dịch đúng hơn “nhiều phần,” vì con người không đủ khả năng để lĩnh hội một lần tất cả, nên Thiên Chúa phải chia ra nhiều phần, mỗi tiên tri một phần; ví dụ: Amos, công bằng xã hội, Isaiah, sự thánh thiện của Thiên Chúa…
(2) Nhiều cách: Các tiên tri dùng các cách khác nhau để thông báo sứ điệp của Thiên Chúa: cách thông thường nhất là dùng miệng, nhưng cũng có người dùng hành động như đóng kịch như Jeremiah.
1.2/ Thiên Chúa làm việc với Người Con: “Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.”
(1) Trong tất cả mọi việc: tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc. Như Tin Mừng của Gioan, tác giả Thư Do-Thái tin Người Con làm việc tích cực với Chúa Cha trong ba công việc này. Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(2) Sự cao trọng của Người Con: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Người là ánh sáng và là hình ảnh của Thiên Chúa đến độ như Ngài nói: “Hễ ai thấy Con là cũng thấy Cha.”
Người Con không những cao trọng hơn các tiên-tri vì Ngài mặc khải cho con người mọi sự nơi Thiên Chúa, mà còn cao trọng hơn các thiên thần vì tất cả quyền năng, danh dự, và vinh quang của Thiên Chúa tập trung trong Ngài. “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi vượt hơn họ bấy nhiêu.” Và “Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.” Điều đặc biệt là với Người Con, từ nay con người có thể liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa, mà không cần qua các tiên tri hay thiên sứ như thuở xưa nữa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
2.1/ Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá: Trình thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu sau 30 năm ẩn mình tại Nazareth. Sứ điệp của Chúa Giêsu cho mọi người: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Hai điều quan trọng Chúa muốn nhấn mạnh đến:
(1) Thời giờ đã điểm, triều đại của Thiên Chúa đã đến: Giống như Thư Do-Thái, Marcô nhấn mạnh đến sự xuất hiện quan trọng của Chúa Giêsu: vẫn có sự liên tục trong Kế Họach Cứu Độ, nhưng được Chúa Giêsu mang đến chỗ tòan hảo.
(2) Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Đây là điều kiện để con người được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Nhưng để kiếm người cộng tác loan truyền sứ điệp, Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài không xa lạ gì với Hồ Galilee và dân chài lưới, có thể Ngài đã từng dạo chơi chung quanh, và đã nói chuyện với họ; nhưng hôm nay, Ngài mời gọi họ bỏ mọi sự để cất bước theo Ngài. Nghề đánh cá là nghề khó nhọc và đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn: phải thả lưới bắt cá khi nào cá đi tìm mồi, chứ không phải muốn thả lúc nào thì thả. Thời giờ bắt cá thường là đêm tối cho đến lúc tảng sáng, đó là giờ ngủ của con người. Chúa Giêsu chỉ hứa hẹn với các ông một điều: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Nói cách khác, Ngài sẽ huấn luyện các ông để cứu vớt linh hồn của người ta. Ngài muốn cho các ông nhận ra ý nghĩa của cuộc đời bằng chính việc các ông đang làm: Đánh cá để kiếm của ăn sinh sống không quan trọng cho bằng việc đánh cá để cứu linh hồn các con người đang cần đến các ông.
2.2/ Thái độ của các môn đệ khi được Chúa Giêsu gọi:
(1) Simon và Anrê: Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Thái độ của hai ông đáp trả rất can đảm và dứt khóat. Can đảm vì phải bỏ nghề nghiệp sinh sống, các ông không chút thắc mắc “giải nghệ rồi làm gì ăn?” Dứt khóat vì quyết định rất nhanh chóng, không tiếc nuối chút nào cả.
(2) Giacôbê và Gioan: Các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người. Hai ông không những bỏ nghề mà còn bỏ cả cha, đấng sinh thành ra mình. Chúa Giêsu phải có điều gì lôi cuốn các ông hơn nghề nghiệp và tình cảm gia đình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có thể làm tất cả một mình, nhưng Ngài muốn sự cộng tác của con người.
- Chúng ta cần phản ứng tích cực trước lời mời gọi của Thiên Chúa; nhất là trong việc rao giảng Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Đức Kitô được tuyển chọn để thi hành sứ vụ
- Viết bởi Isa 42:1-4, 6-7; Acts 10:34-38; Mk 1:7-11.
Chúa Nhật Lễ Phép Rửa của Chúa Giêsu, Năm B
Bài đọc: Isa 42:1-4, 6-7; Acts 10:34-38; Mk 1:7-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô được tuyển chọn để thi hành sứ vụ.
Trong sự quan phòng điều khiển của Thiên Chúa, Ngài không làm hết mọi sự, nhưng tuyển chọn những người khác nhau để cho họ tham dự vào Kế-họach Cứu Độ của Ngài. Những người Ngài tuyển chọn, Ngài cũng sẽ ban mọi ơn cần thiết để họ có thể chu tòan sứ vụ Ngài đã trao phó. Các Bài Đọc hôm nay nói về việc tuyển chọn cao trọng nhất của Thiên Chúa là tuyển chọn Đức Kitô. Chúng ta cùng nghiên cứu sự tuyển chọn này để rồi áp dụng vào ơn gọi tuyển chọn của mỗi người chúng ta.
Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy rõ ràng sự tuyển chọn Người tôi trung của Ngài. Đây là Người được Thiên Chúa yêu mến vì luôn trung thành với Thiên Chúa để hòan tất sứ vụ Cứu Độ của Ngài. Cách thức hòan tất sứ vụ Thiên Chúa trao cũng rất đặc biệt và khác hẳn với cách thức của con người: không kêu to, nói lớn, ồn ào; không dùng bạo lực để tiêu diệt nhưng dùng tình thương để chinh phục; không yếu hèn để chịu khuất phục, nhưng trung thành để thiết lập công lý bằng sự thật. Trong Bài Đọc II, Thánh Phêrô nhắc nhở cho các tín hữu nhìn lại cuộc đời của Đức Kitô để học hỏi cách chu tòan sứ vụ của Ngài trong Kế-họach Cứu Độ của Thiên Chúa: Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. Trong Phúc Âm, Marcô tường thuật những gì xảy ra khi Đức Kitô chịu Phép Rửa: Khi Ngài từ dưới nước nhô lên, Thánh Thần của Thiên Chúa hiện xuống và đậu lại trên Người, đồng thời có tiếng của Chúa Cha làm chứng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Chúng ta cùng nghiên cứu những chi tiết trong các Bài Đọc để tìm ra những ý nghĩa quan trọng của nó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người tôi trung của Yahweh
1.1/ Liên hệ giữa Thiên Chúa và Người tôi trung: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.” Ai là Người tôi trung mà Tiên tri Isaiah muốn nói tới ở đây? Có người nói là Israel vì là Dân Riêng được Thiên Chúa tuyển chọn; có người cho là Cyrus, người đã vâng lệnh Thiên Chúa; có người cho là Đức Kitô vì không ai mà Thiên Chúa đã quí mết hết lòng bằng chính Người Con Một của mình. Theo sự phiên dịch của Targum (bản dịch từ Do-Thái qua Aramaic và Hy-Lạp), Người tôi trung chính là Đấng Thiên Sai. Hơn nữa, văn mạch cũng ám chỉ Người tôi trung là một cá nhân, chứ không phải một dân tộc. Ngòai ra, Thiên Chúa có thể chọn bất cứ ai để chu tòan sứ vụ của Vua Cyrus; nhưng để chu tòan Kế-họach Cứu Độ, chỉ một mình Người con mới có thể chu tòan mà thôi.
1.2/ Cách hành xử của Người tôi trung: “Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.” Có một sự hòa điệu giữa Thiên Chúa và Người tôi trung trong cách hành xử để mang tới thắng lợi sau cùng: tình thương, sự thật, và trung thành. Cách hành xử này khác hẳn với cách thức của con người: ăn to nói lớn, bạo lực, và gian trá.
1.3/ Sứ vụ của Người tôi trung: “Người phán thế này: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước."”
- Người là giao ước giữa Thiên Chúa với dân: Trong giao ước tại Sinai, Moses chỉ là người trung gian của giao ước giữa Thiên Chúa và dân. Trong giao ước mới, Người tôi trung là chính giao ước. Điều này có nghĩa tất cả các ơn lành của giao ước đều bắt nguồn và được ban từ Người tôi trung này. Đón nhận Người là đón nhận ơn lành, từ chối Người là từ chối ơn lành; vì không có Người sẽ không có ơn lành.
- Người là ánh sáng chiếu soi muôn nước: Song song với vị thế “làm giao ước với dân” là vị thế “làm ánh sáng chiếu soi muôn nước.” Điều này không chỉ có nghĩa Người mang ánh sáng tới, hay hứơng dẫn dân tới ánh sáng, nhưng Người chính là ánh sáng. Ánh sáng là chính ơn Cứu Độ (Isa 49:6). Dân Ngọai đang ngồi trong tối tăm của tội lỗi và sự chết, Người đến “để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người.
2.1/ Kế-họach Cứu Độ của Thiên Chúa bao gồm cả Do-Thái và Dân Ngọai: Thánh Phêrô, sau khi đã được Chúa Giêsu mặc khải Kế họach Cứu Độ, đã làm chứng cho Thiên Chúa: "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận. Người đã gửi đến cho con cái nhà Israel lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Judah, bắt đầu từ miền Galilee, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng.” Chỉ có kế họach như thế mới bảo đảm được sự nhân từ và công bằng của Thiên Chúa.
2.2/ Đức Kitô thực hiện Kế-họach Cứu Độ của Thiên Chúa: “Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.”
3/ Phúc Âm: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
3.1/ Sự khác biệt giữa hai Phép Rửa của Gioan và của Đức Kitô: Gioan Tẩy Giả phân biệt sự khác biệt như sau: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần." Phép Rửa làm bởi Gioan là phép rửa làm bởi con người để tha tội. Phép Rửa làm bởi Đức Kitô là phép rửa làm bởi Thiên Chúa, Đấng quyền thế hơn con người. Người chịu Phép Rửa sẽ được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần, và được lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho con người.
3.2/ Phép Rửa của Đức Kitô: “Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nazareth miền Galilee đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Jordan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."”
(1) Tại sao Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan? Phép Rửa của Gioan là phép rửa để tha tội. Tại sao Chúa Giêsu, Đấng không hề phạm tội, lại muốn chịu Phép Rửa của Gioan? Chính Gioan đã ngăn cản Ngài: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giê-su trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người (Mt 3:14-15). Thánh Ambrose đưa một lý do khác: Chúa Giêsu, Đấng thánh thiện tinh tuyền, chịu Phép Rửa để thánh hiến nước của giòng sông Jordan; và Giáo-Hội dùng nước này để rửa tội cho các tín hữu.
(2) Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu: Truyền thống Do-Thái tin chim bồ câu tượng trưng cho sư hiền lành. Như Sách Tiên-tri trong Bài Đọc I mô tả Người tôi trung: Người chinh phục con người không bằng những lời đe dọa hay sức mạnh, nhưng bằng tình yêu và sự kiên nhẫn. Chúa Giêsu được xức dầu bởi Thánh Thần và được tấn phong để thi hành sứ vụ Cứu Độ.
(3) Tiếng của Chúa Cha tuyên phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Khác với trình thuật của Matthêu: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta mọi đàng.” Chúa Cha nói trực tiếp với Chúa Con, và bày tỏ sự hài lòng về tất vả mọi việc của Chúa Con làm. Nếu so sánh, chúng ta thấy trình thuật của Marcô gần với những gì tường thuật bởi Tiên-tri Isaiah trong Bài Đọc I hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta đều đã chịu Phép Rửa của Đức Kitô, tức là đã được tấn phong làm tiên tri, tư tế, và vương giả. Chúng ta đã thi hành 3 sứ vụ đó chưa?
- Ba sứ vụ của Đức Kitô cũng là 3 sứ vụ của mỗi người chúng ta:
(1) Sứ vụ tiên tri: Chúng ta đã rao giảng cho mọi người biết về Thiên Chúa chưa; ít nhất là cho con cháu của chúng ta? Để có thể chu tòan sứ vụ, Đức Kitô phải ở ẩn suốt 30 năm để đàm đạo với Thiên Chúa trước khi rao giảng công khai trong 3 năm. Chúng ta đã dành được bao nhiêu thời gian để học biết về Thiên Chúa? Chúng ta cần nhắc nhở cho mình: Chúng ta không thể cho con cái điều mình không có!
(2) Sứ vụ tư tế: Chúng ta đã thờ phượng một mình Thiên Chúa, làm gương, và chỉ đường cho con cái đến với Thiên Chúa chưa? Hay chúng ta thờ ơ nguội lạnh trong việc thờ phượng và mải miết chuyện thế sự, và vô tình dạy cho con cái tôn thờ những giá trị thế gian thay vì tôn thờ chỉ một mình Thiên Chúa!
(3) Sứ vụ vương giả: Chúng ta đã dùng thời gian, tài năng, và của cải Thiên Chúa ban để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân chưa? Hay chúng ta đã lãng phí thời gian, của cải, tài năng vào những canh bạc đỏ đen, những vui thú của hộp đêm, những mối liên hệ trái phép, để rồi tất cả mọi người trong gia đình phải chịu hậu quả về những việc làm của chúng ta. Ngòai ra, chúng ta còn phải xét tới cách thức chúng ta phục vụ theo gương Đức Kitô: không phải la to, nói lớn, đe dọa, chửi rủa, hay dùng quyền hành, bạo lực; nhưng bằng yêu thương, dạy dỗ, kiên nhẫn, và can đảm cho tới khi đạt được kết quả sau cùng như Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Phải tránh xa tội lỗi
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 5:14-21; Jn 3:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tránh xa tội lỗi!
Tội lỗi của con người là lý do tại sao Chúa Giêsu xuống trần gian để gánh tội cho con người, và cứu con người thóat khỏi quyền lực của tội. Nhưng có phải vì thế mà con người không phạm tội nữa không? Vấn đề rất nguy hiểm ngày nay là nhiều người đã mất hết ý thức về tội lỗi, họ không còn coi bất cứ gì là tội nữa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những gì liên quan đến tội lỗi. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan phân biệt 2 thứ tội: tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết. Con người chỉ có thể cầu nguyện cho những người mắc tội không đưa đến cái mà thôi. Trong Phúc Âm, các môn đệ của Gioan phạm tội ghen-tị, khi họ thấy người ta tuôn đến với Chúa Giêsu nhiều hơn là tới thầy của họ. Gioan cho họ 3 lý do tại sao không nên ghen-tị: Mọi quyền năng đến từ Thiên Chúa, phải biết mình và biết người để có sự bình an, và con người phải vui mừng khi thấy Thiên Chúa được vinh quang.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết
1.1/ Điều kiện để Thiên Chúa nhận lời cầu xin của con người:
(1) Thiên Chúa nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người: Thiên Chúa lắng nghe tất cả những lời cầu xin của con người, nhưng không phải ngài sẽ nhận lời tất cả các lời cầu xin; Ngài chỉ nhận lời những điều hợp ý Ngài mà thôi. Điều này dễ hiểu, vì có những lời cầu xin ích kỷ chỉ biết vun xới cho mình, hay những lời cầu xin Thiên Chúa làm hại người khác, hay bắt Thiên Chúa cư xử ngược lại với bản tính của Ngài. Điều con người nên làm khi cầu nguyện là luôn kết thúc với câu “nếu đẹp ý Chúa.” Chỉ có Thiên Chúa mới biết rõ ràng và chắc chắn điều gì tốt đẹp cho con người, và Ngài sẽ sẵn sàng ban những điều tốt đẹp đó cho con cái của Ngài.
(2) Tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết: Gioan nói về 2 thứ tội này, nhưng không cắt nghĩa rõ ràng: “Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy; đó là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết. Có một thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy. Mọi điều bất chính đều là tội, nhưng có một thứ tội không đưa đến cái chết.” Theo ý kiến sau cùng của các học giả và giáo huấn của Giáo-Hội: tội đưa đến cái chết là tội của những người mất hết ý thức về tội lỗi, hay của những người tin tưởng Chúa sẽ tha hết mọi tội mà không cần phải ăn năn, xám hối, và sửa đổi. Nếu con người cầu xin Chúa cứu những người này là vi phạm sự công bằng của Thiên Chúa; nhưng con người có thể cầu xin cho họ có cơ hội trở lại khi họ còn sống.
1.2/ Hai trường hợp của con người trong thế giới: Đọan văn này rất khó hiểu; chúng ta phải hiểu nó trong văn mạch của tòan thư Gioan I. Trước tiên, Gioan không có ý nói tất cả các Kitô hữu không phạm tội, vì ngay trong đọan văn trên, Gioan đã phân biệt 2 thứ tội: tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết. Điều ngài muốn làm ở đây là phân biệt 2 lọai người: người thuộc về Thiên Chúa và người thuộc về thế gian.
Thánh Gioan viết: “Chúng ta biết rằng phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, người đó không phạm tội; nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được. Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa, còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.” Theo Gioan, thế giới là bãi chiến trường giữa sự thiện và sự ác; trong đó có những người thuộc về Thiên Chúa và những người thuộc về Ác thần. Người thuộc về Thiên Chúa có thể phạm tội vì yếu đuối xác thịt; nhưng họ luôn có ý thức về tội lỗi và muốn giao hòa cùng Thiên Chúa. Người thuộc về Ác thần không có hay đánh mất hết ý thức về tội lỗi; họ không còn coi điều gì là tội nữa.
2/ Phúc Âm: Tội lỗi phát xuất từ sự ghen-tị của con người.
2.1/ Sự ghen-tị của các môn đệ của Gioan: Trình thuật kể lý do của sự ghen tị: “Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đi tới miền Judah. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa. Còn ông Gioan, ông cũng đang làm phép rửa tại Aenon, gần Salim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa. Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gioan và một người Do-Thái về việc thanh tẩy. Họ đến gặp ông Gioan và nói: "Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Jordan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông." Gioan đã nói rõ về sự khác biệt của 2 Phép Rửa: Phép Rửa của ông làm là Phép Rửa để tha tội; Phép Rửa của Chúa Giêsu là Phép Rửa ban Thánh Thần. Sự tranh luận xảy ra có thể tại sao cần có 2 Phép Rửa, nhưng điều chính chi phối môn đệ của Gioan là họ ghen tị khi thấy Chúa Giêsu được nhiều người đến với hơn thầy của họ.
2.2/ Thuốc chữa bệnh ghen-tị: Gioan Tẩy Giả cho các môn đệ và cho chúng ta 3 liều thuốc để chữa bệnh ghen tị:
(1) Mọi hồng ân đều đến từ Thiên Chúa: Ông Gioan trả lời: "Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” Hay nói như Thánh Phaolô: Mọi quà tặng đều đến từ một nguồn là Chúa Thánh Thần; không phải để khoe khoang, nhưng để phục vụ. Hay nói như kiểu Phúc Âm, Thiên Chúa càng ban tặng nhiều bao nhiêu, Ngài càng có quyền đòi lại nhiều bấy nhiêu.
(2) Biết mình là có bình an và niềm vui: Điều làm cho con người có bình an là phải biết mình. Gioan Tẩy Giả rất bình an vì ông biết mình và biết Đức Kitô: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: "Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người.” Gioan có niềm vui khi thấy nhiều người tuôn đến với Đức Kitô, vì đó phù hợp với sứ vụ của ông. Gioan so sánh Đức Kitô với chú rể, và cô dâu là dân chúng tin vào Đức Kitô; còn ông chỉ là người phù rể: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn.”
(3) Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi: Đây là châm ngôn của Gioan và nên là kim chỉ nam cho hết mọi người khi chúng ta phục vụ Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta cũng giống như Gioan là dọn đường cho mọi người và chỉ cho họ đường đến với Thiên Chúa; chứ không lợi dụng việc phục vụ Thiên Chúa để tìm lợi nhuận, nổi tiếng, và thỏa mãn các nhu cầu của chúng ta. Khi mọi người đã tới được với Thiên Chúa, chúng ta vui mừng vì đã hòan tất sứ vụ, và sẵn sàng để lui vào bóng tối.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Kitô đã xuống trần để cứu chúng ta thóat khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết. Ngài đã thiết lập Bí-tích Hòa Giải để sẵn sàng tha thứ các tội của con người.
- Con người chúng ta vẫn có thể phạm tội vì còn mang trong người những yếu đuối và tính đam mê xác thịt. Mỗi khi đã lỡ phạm tội trọng, chúng ta cần chạy đến với Bí-tích Hòa Giải để được tha tội.
- Điều tối nguy hiểm là chúng ta đánh mất ý thức về tội lỗi hay tin Chúa sẽ cứu tất cả mọi người mà không cần ăn năn xưng tội. Đây chính là thứ tội mà Thánh Gioan gọi là “tội đưa đến cái chết.”
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Làm chứng nhân cho Đức Kitô
- Viết bởi I Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
Thứ Sáu sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm chứng nhân cho Đức Kitô.
Để có thể tin một điều là sự thật, con người cần: chính mắt nhìn thấy, hay cảm thấy hậu quả của nó, hay dựa vào lời của các nhân chứng. Nhiều người nghĩ rằng chỉ khi nào họ thấy tận mắt, họ mới tin; như Tông-đồ Thomas khi được các Tông-đồ thuật lại việc Chúa hiện ra. Chúa Giêsu nói với Thomas: thấy và tin là chuyện thường, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin. Đàng khác, có những cái dù không thấy, nhưng phải tin vì hậu quả của nó: gió, điện, sự sống. Đa số những trường hợp chúng ta tin là qua các nhân chứng; nhất là sau khi được phối kiểm bởi 2 hoặc 3 nhân chứng có thế giá.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào việc con người phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa qua các bằng chứng. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan đưa ra 3 nhân chứng cho Đức Kitô: Thánh Thần, nước, và máu. Nếu ai, sau khi đã được làm chứng, mà vẫn không chịu tin Đức Kitô, người ấy biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu, sau khi chữa người phong cùi, sai anh đi trình diện các tư tế và dâng của lễ đền tội, để làm chứng mình đã hòan tòan sạch. Điều này cũng là bằng chứng Đức Kitô đã chữa lành cho anh, vì Ngài có sức mạnh của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thánh Thần, nước, và máu; cả ba cùng làm chứng một điều.
1.1/ Ba chứng nhân của Đức Kitô: “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thánh Thần là chứng nhân, và Thánh Thần là sự thật. Có ba chứng nhân: Thánh Thần, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều.” Để hiểu đọan văn này, chúng ta cần đọc lại Phúc Âm Gioan, và hòan cảnh lịch sử thời đại của Ngài. Đọan văn trong Phúc Âm nói về “nước và máu” như sau: “Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, “máu cùng nước” chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Jn 19:34-35). Nước và Máu là 2 biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Nước khi Ngài chịu Phép Rửa bởi Gioan trong giòng sông Jordan. Máu khi Ngài chịu chết trên Đồi Golgotha.
Sở dĩ Gioan nhấn mạnh đến “nước và máu” là vì có bè rối “Thuần Tri Thức.” Cerinthus, người đại diện cho bè rối này, tin Chúa Kitô đến bằng “nước,” khi Ngài chịu Phép Rửa. Thánh Thần hiện xuống và ở lại trong Đức Kitô, và làm cho Ngài trở thành Con Thiên Chúa. Họ không chấp nhận “máu,” vì họ không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Họ giải thích: trên Đồi Golgotha, Thánh Thần xuất khỏi Đức Kitô và về trời. Có người còn cho người chịu đóng đinh là ông Simon, chứ không phải là Đức Kitô. Thánh Gioan muốn chống lại bè rối này bằng cách nhấn mạnh đến cả 3 nhân chứng đều cần thiết để tin vào Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho nhân lọai.
(1) Thánh Thần: hiện xuống và xức dầu cho Đức Kitô khi Ngài chịu Phép Rửa (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts 10:38). Phép Rửa này hòan tòan khác với Phép Rửa của Gioan (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk 3:16, Acts 1:5, 2:33). Thánh Thần hiện xuống với các Tông-đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:4), và trong đời sống của Giáo-Hội (Acts 8:17, 10:14).
(2) Nước: Tại biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Kitô: "Tôi đã thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thánh Thần xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Jn 1:32-34).
(3) Máu: Theo truyền thống Do-Thái, máu súc vật phải đổ ra để làm lễ hy sinh đền tội cho con người. Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đến xóa tội trần gian bằng lễ tế hy sinh của Ngài trên Thập Giá. Ngài thiết lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, và Giáo Hội chúng ta hằng ngày cử hành Thánh Lễ để liên tục tái diễn Hy Lễ của Đức Kitô trên Thập Giá để xóa tội cho con người.
1.2/ Chúng ta phải tin lời của các chứng nhân: Đức Kitô đến từ Thiên Chúa.
(1) Lời chứng của Thiên Chúa cao trọng hơn lời chứng của người phàm: Luật dạy khi có 2 hoặc 3 nhân chứng, lời chứng đó là sự thật. Đức Kitô có rất nhiều nhân chứng: Gioan Tẩy Giả, các phép lạ Ngài làm, Kinh Thánh, các Tông-đồ …, nhưng lời chứng của Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời “Đây là Con Ta yêu dấu,” và lời chứng của Thánh Thần qua hình ảnh chim bồ câu đậu lại trên Đức Kitô, là những lời chứng có thế giá hơn cả. Con người phải nhận những lời chứng này và tin vào Đức Kitô; vì “Ai không tin Đức Kitô, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.”
(2) Tin vào Đức Kitô mới có sự sống đời đời: “Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.”
2/ Phúc Âm: Làm chứng cho người ta biết mình đã được sạch.
2.1/ Chúa Giêsu chữa người phong cùi được sạch:
(1) Thái độ của người phong cùi: Trước hết, thái độ khiêm nhường của anh được biểu tỏ bằng cách anh sấp mặt trước mặt Ngài. Thứ đến, sự tin tưởng của anh nơi Chúa Giêsu được bày tỏ trong câu xin “Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Sau cùng, lời cầu xin của anh rất đẹp lòng Thiên Chúa: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Nếu Thiên Chúa muốn, chứ không phải chỉ riêng con người muốn mà thôi; vì có rất nhiều điều con người muốn, nhưng không đẹp lòng Thiên Chúa.
(2) Thái độ yêu thương trìu mến của Đức Kitô: Chúng ta biết luật lệ của Do-Thái rất nghiêm nhặt với người cùi: họ phải ở trong trại xa cách với mọi người, và phải tránh tiếp xúc với mọi người bằng cách la to câu “Không sạch! Không sạch!” mỗi khi có người đi ngang qua, để họ khỏi trở nên không sạch. Nhưng Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi." Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh.
2.2/ Hai điều Chúa truyền cho người được chữa lành:
(1) Đừng nói với ai: Chúa làm phép lạ vì lòng thương dân, và để họ tin vào Ngài để được sự sống đời đời, chứ không phải để nổi tiếng. Đó là lý do tại sao Ngài ngăn cản anh “Đừng nói với ai!” Nhưng tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh. Phần Chúa Giêsu, Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
(2) Để làm chứng cho người ta biết, hãy đi trình diện với các tư tế và hãy dâng của lễ như Luật dạy. Để chứng tỏ mình đã khỏi bệnh, người phong cùi phải đi trình diện các tư tế để chịu khám xét. Nếu quả thực đã lành, các tư tế sẽ chứng nhận cho về sống với mọi người. Ngòai ra, người đó còn phải dâng của lễ như được mô tả chi tiết trong (Lev 14).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa, không phải chúng ta đã thấy Ngài, nhưng dựa vào lời của nhiều nhân chứng.
- Hai nhân chứng có thế giá nhất là Kinh Thánh chúng ta đọc từ bên ngòai và Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta từ bên trong. Ngòai ra, còn có nhiều các chứng nhân khác nữa như: lời chứng của các Tông-đồ, gương chứng nhân của các thánh Tử-đạo, đời sống tốt lành của các thánh và của những người sống chung quanh chúng ta.
- Sau khi đã tin Đức Kitô, chúng ta cũng phải làm chứng cho Ngài bằng việc rao giảng và cuộc sống chứng nhân, để người khác cũng nhận ra và tin vào Đức Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Yêu Chúa là thi hành thánh ý của Ngài
- Viết bởi I Jn 4:19-5:4; Lk 4:14-22.
Thứ Năm sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 4:19-5:4; Lk 4:14-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Yêu Chúa là thi hành thánh ý của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh vấn đề: phải bày tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng các hành động cụ thể. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan dạy: Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, nên chúng ta phải bày tỏ tình yêu với Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta dành cho tha nhân. Ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Ngài trong các hội đường để người ta biết đến Ngài. Khi trở về Nazareth, nơi Người sinh trưởng, Ngài cũng vào hội đường và đọc Sách Tiên-tri Isaiah, chương 61, nói về Năm Hồng Ân. Ngài nói cho mọi người trong hội đường biết, Ngài chính là Người mà Tiên-tri nói tới. Ngài đến để thi hành thánh ý Thiên Chúa và giải thóat nhân lọai khỏi mù lòa và xiềng xích của tội lỗi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Yêu Chúa là giữ các giới răn của Ngài.
Hai tư tưởng chính của Thư Gioan I là: (1) tin Đức Kitô đến từ Chúa Cha; và (2) giữ điều răn yêu thương. Chúng ta đã nói tới 2 tư tưởng này trong các bài chia sẻ trước. Hôm nay, chúng ta chỉ để ý tới những khía cạnh mới lạ của 2 tư tưởng chính này.
1.1/ Yêu Thiên Chúa là yêu Đức Kitô: Thánh Gioan cắt nghĩa: “Phàm ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.” Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nói rõ hơn: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Người tín hữu trở nên con Thiên Chúa bằng niềm tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Nếu họ yêu mến Cha, Đấng Sinh Thành, họ cũng phải yêu mến Con là Đức Kitô, Người được Đấng ấy sinh ra. Điều mới lạ ở đây là Gioan đi từ “tin” đến “yêu” Đức Kitô.
1.2/ Yêu Thiên Chúa là giữ các giới răn Ngài truyền: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người.”
(1) Yêu mến Chúa là phải yêu thương anh em: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” Như đã nói ở trên, khi một người tin vào Đức Kitô là người đó cũng yêu Đức Kitô. Tình yêu của người đó dành cho Đức Kitô sẽ thúc đẩy người đó giữ các điều răn Đức Kitô truyền, như Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ những điều Thầy truyền” (Jn 14:15). Mà điều quan trọng nhất Đức Kitô truyền là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu mến anh em” (Jn 13:34).
(2) Yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” Câu này là phản đề của câu trên: Yêu mến Thiên Chúa là có tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa trong mình. Khi có tình yêu Thiên Chúa là phải giữ điều răn yêu thương. Vì thế, nếu một người nói mình yêu mến Thiên Chúa, mà không giữ điều răn yêu thương (ghét anh em mình), người đó là kẻ nói dối; vì không có tình yêu Thiên Chúa trong mình mà dám nói có. Nói tóm lại: Phải có tình yêu Chúa mới có thể yêu anh em; và yêu anh em là bằng chứng mình có tình yêu Chúa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chu tòan sứ vụ Chúa Cha trao phó.
2.1/ Chúa Giêsu giảng dạy trong các hội đường: Trình thuật của Luca hôm nay ngay sau biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, và bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Ngài. Chúa Giêsu chọn Galilee là địa điểm để bắt đầu sứ vụ rao giảng vì Galilee là vùng rất đông dân cư, và dân chúng mở lòng cho những dạy dỗ mới, chứ không bảo thủ như ở vùng Judah. Người Do-Thái chỉ có một Đền Thờ duy nhất tại Jerusalem, nhưng hội đường mới là các trung tâm tôn giáo của dân địa phương. Theo Lề Luật, chỗ nào có từ 10 gia đình trở lên, chỗ đó phải có một hội đường. Vì thế, hầu như mỗi làng mạc hay thành phố, đều có ít nhất một hội đường cho dân học hỏi và làm việc thờ phượng. Phụng vụ của người Do-Thái gồm 3 phần chính:
(1) Phần phụng vụ của các lời cầu nguyện;
(2) Phần đọc Kinh Thánh: Có tất cả 7 người trong cộng đòan đọc. Họ đọc bằng tiếng Do-Thái, nhưng được phiên dịch ra tiếng Aramaic hay Hy-Lạp, vì thời của Chúa Giêsu, ít người hiểu tiếng Do-Thái. Nếu là Sách Luật, họ đọc một câu một lần; nếu là Sách Tiên-tri, họ đọc 3 câu một lần.
(3) Phần dạy dỗ: Không có nhất định một Rabbi. Người trưởng hội đường có thể mời bất cứ một người nào có thế giá trong dân để chia sẻ, và để điều khiển cuộc đối thọai sau đó. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu có cơ hội giảng dạy để người ta biết tới và tôn vinh.
2.2/ Chúa Giêsu giảng dạy tại Nazareth, nơi Ngài lớn lên: Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người Sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” Đây là đọan văn trong Chương 61 của Isaiah, nói về Năm Hồng Ân, xảy ra mỗi 50 năm một lần. Trong năm này, tất cả nợ nần được tha, tất cả đất đai đã bán được trả về cho chủ cũ, tù nhân được phóng thích hay giảm án. Nói tóm, mọi người đếu có cơ hội làm lại cuộc đời (Lev 25).
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Chúa Giêsu nói với dân chúng Người chính là Đấng mà Tiên-tri Isaiah đã loan báo. Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và tấn phong khi chịu Phép Rửa tại sông Jordan bởi Gioan Tẩy Giả, và hôm nay Người bắt đầu sứ vụ đã được trao phó. Chắc chắn Chúa Giêsu không quan tâm đến việc giải phóng người nghèo phần xác cho bằng người nghèo về tâm linh: bị mù lòa và bị xiềng xích bởi tội lỗi, và năm hồng ân của Chúa chính là ơn cứu độ Ngài mang tới cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nếu chúng ta yêu Thiên Chúa, chúng ta phải thực hành những gì Chúa truyền, vì những giới răn này giúp chúng ta ở lại trong Chúa, và không lạc xa tình yêu của Ngài.
- Yêu Thiên Chúa là biết lo chung với những lo âu của Thiên Chúa: Làm sao cho mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa để tất cả đều được hưởng hồng ân cứu độ của Ngài.
- Mỗi người chúng ta đều có bổn phận cùng chung với Giáo-Hội lo việc truyền giáo: làm sao cho càng ngày càng tăng số người nhận biết và tin vào Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Tình yêu hòan hảo lọai trừ sự sợ hãi
- Tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện cho con người qua Đức Kitô
- Phải học Lời Chúa để nhận ra sự thật
- Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân
- Tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta
- Sự thật và sự dối trá quanh co
- Người phụ nữ được chọn
- Lời chúc lành tốt đẹp nhất của Năm Mới
- Những kẻ Phản-Kitô là những người từ chối tiếp nhận Đức Kitô
- Chúng ta được trang bị đầy đủ để sống theo ý của Thiên Chúa