Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 33 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Dan 12:1-3; Heb 10:11-14, 18; Mk 13:24-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngày Đức Kitô đến lần thứ hai
Trong những ngày cuối năm, chúng ta được nghe Phụng Vụ Lời Chúa nhắc nhở rất nhiều về Ngày Đức Kitô đến lần thứ hai để xét xử con người. Khi nghe những báo trước về Ngày Tận Thế, con người có thể có ba thái độ: Thứ nhất, có người tin Lời Chúa và bắt đầu chuẩn bị cho Ngày ấy tới như Thiên Chúa nói, bằng cách khử trừ tội lỗi và luyện tập để sống thánh thiện. Thứ hai, có người cho là Ngày ấy còn xa, cứ việc ăn chơi cho thỏa chí; khi nào Ngày ấy gần xảy ra sẽ ăn năn cũng không muộn. Sau cùng, có những người cho đó là chuyện hoang đường bầy ra để dọa nạt trẻ con. Đối với họ, chết là hết; bao lâu còn sống cần phải thụ hưởng tối đa những gì thế gian dâng tặng.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những báo hiệu về Ngày Tận Thế và những gì con người cần làm để chuẩn bị cho Ngày ấy. Trong Bài Đọc I, tiên tri Daniel báo hiệu đó là Ngày khốn khổ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Ngày ấy, Tổng Lãnh Thiên Thần Michael sẽ bảo vệ những người được Thiên Chúa chọn, và mọi người sẽ sống dạy để chịu phán xét và lãnh nhận thưởng phạt tùy theo công việc họ làm khi còn sống. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái nhắc nhở cho con người về hiệu quả Hiến Lễ của Đức Kitô. Tuy chỉ xảy ra một lần, nhưng có sức mạnh tẩy trừ mọi tội của con người, và làm cho con người được trở nên tinh tuyền thánh thiện mỗi ngày một hơn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng báo trước cho các môn đệ hai điều: về những điềm trời xảy ra trước Ngày Tận Thế: các hành tinh của Thái Dương Hệ sẽ thôi chiếu sáng và đêm tối sẽ bao trùm mặt đất; và ngày ấy chắc chắn sẽ đến; nhưng không ai biết được ngày và giờ nào; vì thế, con người phải luôn biết chuẩn bị.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có nhân loại cho đến bây giờ.
1.1/ Những điều sẽ xảy ra khi Ngày Tận Thế đến: Sách tiên-tri Daniel được viết rất lâu sau Thời Lưu Đày, khoảng 165 BC, sau cái chết của Antiochus IV Epiphanes, người Hy-lạp. Đây là thời kỳ mà con cái Israel bị đe dọa bởi áp lực quân sự và văn hóa Hy-lạp. Mục đích của Sách là để khuyến khích con cái Israel đứng vững trước những tai tọa sắp xảy ra và trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa. Sách Maccabees và Khôn Ngoan cũng được viết trong thời kỳ này. Tuy nhiên, như truyền thống của Giáo Hội tin tưởng, Sách có thể áp dụng cho thế hệ thời tiên-tri Daniel, nhưng cũng có thể áp dụng cho những thời đại sau này. Trình thuật của Marcô trong Phúc Âm và đặc biệt Sách Khải Huyền chịu ảnh hưởng thể văn khải huyền của Sách Tiên-tri Daniel.
Tác giả liệt kê những điều sau đây sẽ xảy ra: Thứ nhất là sự xuất hiện của Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, người được Thiên Chúa sai đến để che chở cho dân trong thời kỳ khốn khổ sau hết. Trong Sách Khải Huyền, TLTT Michael cũng xuất hiện để chiến đấu chống lại con rồng, tượng trưng cho quyền lực của Satan (x/c Rev 12:7). Thứ hai là thời kỳ khốn khổ chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Sau cùng, những ai có tên trong Cuốn Sách của Thiên Chúa sẽ được thoát nạn. Truyền thống Do-thái tin tưởng Thiên Chúa có một Cuốn Sách ghi tên tất cả những ai được Thiên Chúa coi là bạn hữu hay công chính (Cf. Exo 32:32-33, Psa 69:28). Sách Khải Huyền đề cập rất nhiều lần đến "Cuốn Sách" hay "Sổ Trường Sinh," trong đó ghi tên tất cả những người sẽ được cứu thoát (Rev 3:5, 13:8, 17:8, 20:12, 15; 22:7, 9, 10, 18, 19). Sách này chỉ có Con Chiên, đã bị giết nhưng vẫn đang sống, mới có thẩm quyền để mở mà thôi.
1.2/ Ai nấy sẽ chỗi dậy và phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình: Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Cựu Ước mặc khải về thân xác loài người sẽ sống lại. Trước đó, truyền thống Do-thái tin hạnh phúc Thiên Chúa ban chỉ giới hạn ở đời này qua việc sống lâu, có sức khỏe, đông con cháu, và của cải vật chất. Quan niệm về thân xác sống lại cũng được đề cập đến trong các Sách viết vào thời gian này như (x/c II Mac 7:9, 12:43 và Wis 2-5). Trong Tân Ước, Chúa Giêsu và các thánh ký cắt nghĩa rõ ràng hơn về sự sống lại này (x/c Mk 12:18, Jn 11:23-24, Acts 7:59-60, I Thes 4:13, I Cor 15:12-20). Thân xác loài người sống lại là để chịu phán xét và thưởng phạt.
(1) Người công chính sẽ được ban thưởng từ Thiên Chúa: Hai điều Thiên Chúa ân thưởng cho những người trung thành là: hưởng phúc trường sinh (x/c Jn 6:39-40) và các người khôn ngoan sẽ trở nên rực rỡ. Những ai giúp cho người khác nên công chính cũng sẽ "chiếu sáng muôn đời như những vì sao."
(2) Kẻ tội lỗi sẽ "chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời." Tân Ước đề cập nhiều lần tới chốn tối tăm và lửa muôn đời không hề tắt. Sách Khải Huyền cũng đề cập tới một Sách khác bên cạnh Sách Trường Sinh. Sách này ghi chép các việc làm của kẻ dữ, và họ sẽ bị phán xét theo những điều ghi chép này (Rev 20:12).
2/ Bài đọc II: Nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa.
Mục đích của tác giả trong trình thuật hôm nay là nêu bật hiệu quả Hiến Lễ của Đức Kitô trong việc thanh tẩy tội lỗi và thánh hóa con người, qua việc so sánh với hy lễ của các tư tế trong Cựu Ước.
2.1/ Hy lễ của các tư tế: "Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi." Hy lễ của các tư tế không thể so sánh với Hiến Lễ của Đức Kitô vì chỉ có thể tha những tội nhẹ hay vô tình, và phải lặp đi lặp lại mỗi khi con người phạm tội. Hy lễ để đền tội trong Đền Thờ của Cựu Ước chấm dứt với Hiến Lễ của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha. Một lý do nữa là sau khi Chúa Giêsu chịu chết ít lâu, Đền Thờ Jerusalem cũng bị tiêu hủy bởi quân đội Rôma, và không bao giờ được tái thiết nữa. Câu hỏi có thể được đặt ra cho người Do-thái không tin Đức Kitô: làm sao tội họ có thể được tha thứ nếu không còn chỗ để dâng hy lễ đền tội?
2.2/ Hiến lễ của Đức Kitô: "Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. Và từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo. Mà nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa."
Nhờ hiệu quả của Hiến Lễ của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha, Ngài lập ra Bí-tích Rửa Tội để tẩy sạch tội lỗi con người. Sau đó, nếu còn phạm tội, con người có thể chạy đến với Bí-tích Giao Hòa để xưng thú và nhận ơn tha thứ. Đây là món quà vô giá cho con người: Nếu Bí-tích Hòa Giải có sức mạnh tha mọi tội, ngay cả tội trọng cho con người; tại sao con người không biết lợi dụng khử trừ tội lỗi, để không phải trả lời Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét? Người xưa phải mua lễ hy sinh để đền tội và phải hành hương lên Đền Thờ Jerusalem, chúng ta ngày nay chỉ cần một bước vào Tòa Cáo Giải của giáo-xứ để xưng tội là được Thiên Chúa xóa sạch mọi tội.
Hơn nữa, Hiến Lễ của Đức Kitô còn được tái diễn trên bàn thờ mỗi ngày để tha mọi tội nhẹ và ban ơn thánh cho con người trong giai đoạn hiện tại. Tại sao con người không biết dùng để thanh tẩy mỗi ngày và lãnh nhận ơn thánh để trở nên hoàn hảo hơn?
3/ Phúc Âm: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.
3.1/ Những gì sẽ xảy ra trước Ngày Tận Thế: Trình thuật hôm nay tiếp liền trình thuật chiến tranh sẽ xảy ra và các tai ương dồn dập tới. Chúa Giêsu nói với dân chúng: "Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển." Các hành tinh của thái dương hệ sẽ không còn chiếu sáng thường được đề cập tới trong sách Tiên-tri như (Amo 8:9, Joel 2:10, 3:15, Eze 32:7, 8, Isa 13:10, 34:4).
Sau những sự kiện này, là sự xuất hiện của Con Người, như Chúa Giêsu tiên báo với dân chúng: ''Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời."
3.2/ Con người phải biết đọc điềm trời đất để biết Ngày Tận Thế tới: "Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.''
Trong cuộc đời, ngoài những điềm trong vũ trụ, con người còn được Thiên Chúa cho chứng kiến sự ra đi của những người thân trong gia đình, bạn bè, và những người chung quanh. Những sự ra đi này nhắc nhở cho con người biết sẽ đến ngày ra đi của mình, và con người không biết lúc nào vì trong những người đã ra đi không phải chỉ có những người lớn tuổi, mà còn đủ mọi hạng tuổi. Sự giả định mình chỉ chết khi lớn tuổi không có gì vững chắc cả; vì thế, cách tốt nhất là luôn chuẩn bị như ngày hôm nay là ngày tận thế của đời mình và sống làm sao để khỏi ân hận.
3.3/ Không ai biết được khi nào Ngày Tận Thế sẽ xảy ra: "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi." Chúa Giêsu muốn dạy con người hai điều:
(1) Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ xảy ra, vì Ngài xác tín: "Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu." Khi nào xảy ra, không ai biết được, ngoại trừ Chúa Cha.
(2) Nếu những sự huy hoàng của thế gian sẽ qua, con người đừng bấu víu hay dựa vào phù du của thế gian; nhưng hãy biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu trên trời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phân biệt hai ngày tận thế: của cuộc đời chúng ta và của toàn thể vũ trụ. Khi chúng ta xuôi tay nằm xuống, đó là ngày tận thế của cuộc đời chúng ta. Ngày này cũng nghiêm trọng như Ngày Tận Thế của vũ trụ vậy, vì đó là ngày chấm dứt việc thay đổi lập trường hay lập công đền tội.
- Khi Thiên Chúa phán điều gì, mọi việc đều xảy ra như thế. Chúng ta đừng đánh bạc cuộc đời chúng ta, kẻo khi bừng tỉnh đã quá muộn màng và phải hư đi cả đời.
- Nhiều người chúng ta đã quá khinh thường và lơ là với hai Bí-tích vô cùng quan trọng trong cuộc đời. Bí-tích Hòa Giải có sức mạnh tha thứ mọi tội chúng ta phạm để khỏi lo lắng trả lời tội đã phạm với Chúa trong Ngày Phán Xét. Bí-tích Thánh Thể tha mọi tội nhẹ và giúp con người càng ngày càng trở nên thánh thiện hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 32 TN1
Bài đọc: Wis 18:14-16, 19:6-9; Lk 18:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa.
Để hiểu rõ tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa, chúng ta hãy so sánh với tình yêu ích kỷ và hạn hẹp của con người. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả các tội con người phạm một cách vô điều kiện một khi con người biết ăn năn xám hối; khi đã tha, Ngài chẳng bao giờ nhắc lại tội nào của con người. Ngược lại, con người khó có thể tha thứ đến lần thứ ba, và để được tha thứ, con người đòi hỏi đủ mọi điều kiện; tuy đã tha nhưng con người vẫn không quên, khi có dịp, con người vẫn nhắc lại và đay nghiến tội của tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật tình thương của Thiên Chúa và sự kiên nhẫn cầu nguyện, để Thiên Chúa tha thứ và cứu sống con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan dùng các biến cố lịch sử của Cựu Ước, để làm nền tảng cho sứ vụ tương lai của Lời Thiên Chúa là Đức Kitô, Ngài sẽ thanh tẩy tội lỗi cho và cứu thoát dân khỏi bị tiêu diệt bởi sự chết. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn giữa ông tòa và bà góa, để khuyên các môn đệ cần kiên nhẫn cầu nguyện luôn trong mọi trường hợp, cho dẫu tuyệt vọng; vì Thiên Chúa luôn thương xót và tìm cách cứu sống dân Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lạy Đức Chúa, dân Chúa ca tụng tán dương Ngài là Đấng giải thoát họ.
1.1/ Lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu: "Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường xông vào giữa miền đất bị tru diệt, mang theo bản án không thể huỷ của Ngài như lưỡi gươm sắc bén; đứng và làm cho vũ trụ đầy chết chóc, đầu đụng trời chân đạp đất."
Trình thuật được viết từ cảm hứng của nhiều biến cố trong Cựu Ước nói lên tình thương của Thiên Chúa và tội lỗi con người (x/c Exo 12:23, Job 4:13-15, I Chr 21:15-27). Thánh Ignatius thành Antioch và Phụng Vụ Giáo Hội dùng trình thuật này để áp dụng vào Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu. Sứ mạng của Ngài khi đến thế gian là để thanh tẩy tội lỗi và tiêu diệt sự chết.
Lời toàn năng là tên gọi khác của Đức Kitô (Jn 1:1-3). Tác giả Thư Do-thái ví Lời Chúa hiệu quả và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, có thể xuyên thấu bất cứ mặt phẳng nào hay tâm hồn chai đá của con người (Heb 4:12). Đức Kitô cũng được gọi là Đấng Trung Gian hay Thượng-tế để nối kết và hòa giải giữa trời và đất, giữa con người với Thiên Chúa (Heb 4:14-15).
1.2/ Thiên Chúa bảo vệ dân Ngài: Tội lỗi thấm nhập và lan tràn khắp thế gian. Sứ vụ của Ngôi Lời xuống trần để mang con người về cho Thiên Chúa, đưa con người trở lại thuở ban đầu của vũ trụ: "toàn thể vũ trụ lại thay đổi từ bản chất như thuở ban đầu, tuân phục các mệnh lệnh của Chúa, để gìn giữ con cái Ngài bình an."
Trình thuật hôm nay cũng gợi lại biến cố Xuất Hành và sự bảo vệ của Thiên Chúa, trong cuộc hành trình dẫn con cái Israel vào Đất Hứa: "Người ta thấy mây che phủ doanh trại; nơi trước kia là nước, đất khô ráo nổi lên, một lối đi thênh thang lộ ra từ Biển Đỏ và từ nước lũ xuất hiện cánh đồng xanh. Có tay Ngài che chở, toàn dân đã đi qua và chứng kiến bao điềm thiêng dấu lạ." Sau đó, tác giả cũng gợi lại biến cố Thủ Lãnh Joshua đưa dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào chiếm thành Jericho: "Như ngựa chăn ngoài đồng, như chiên nhảy tung tăng, lạy Đức Chúa, dân Chúa ca tụng tán dương Ngài là Đấng giải thoát họ" (x/c Jos 1:11-15, Psa 114:3-5).
2/ Phúc Âm: Trung thành trong việc cầu nguyện
2.1/ Ông quan tòa vô đạo và bà góa quấy rầy: Mục đích tại sao Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn này là để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.
(1) Ông quan toà: chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, huống hồ một bà góa nghèo. Một thời gian khá lâu, ông không chịu nghe lời kêu xin của bà góa; nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: "Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc."
(2) Bà góa: Bà là người cô thân cô thế, chẳng có chồng để nương nhờ; vì thế, trở thành mồi ngon cho người khác hãm hại. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông quan tòa: "Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho." Bị ông quan tòa từ chối nhiều lần, nhưng Bà không nản chí và nhất định kiên trì xin cho tới khi được.
2.2/ Thiên Chúa yêu thương các con của Ngài: Chúa Giêsu so sánh ông quan tòa vô đạo đó với Cha của Ngài, và bảo đảm sự đáp trả: "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ."
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Thiên Chúa sẽ ban cho con người tất cả những gì họ xin, vì:
- con người có thể xin những gì có hại cho mình: Con người không nhìn được trước tương lai nên không biết hậu quả của những gì mình xin; ví dụ: việc xin cho trúng số có thể đưa tới tan nát gia đình, hay xin cho được quyền hành có thể đưa con người đến chỗ thiệt mạng.
- con người có thể xin những gì làm hại người khác: chẳng hạn, xin tiêu diệt kẻ thù. Họ quên đi kẻ thù cũng là con của Chúa.
Cách xin tốt nhất là hãy để cho Chúa ban tặng những gì có lợi cho mình và mọi người. Có một câu truyện kể về một vị vua kia muốn để gia tài lại cho các con của mình. Để dạy cho các con một bài học, Vua cho để những món quà quí giá trong những hộp xấu xí và để những món quà xòang trong những hộp đẹp. Các hòang tử được nhà Vua cho tự ý chọn lựa, và hầu hết chọn những hộp đẹp. Khi đến lượt chàng hòang tử út, anh tần ngần một lúc rồi nói với Vua Cha: "Con không biết chọn, xin cha chọn cho con." Vua Cha đã chọn phần quà tốt nhất cho con, vì chỉ Vua biết đâu là món quà giá trị nhất.
Sau đó Chúa nói: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" Đức tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô là món quà vô giá Thiên Chúa ban cho con người, nhưng để bảo vệ đức tin và làm cho đức tin ngày một tăng trưởng là bổn phận của con người. Để đức tin được tăng trưởng, đau khổ thử thách là điều không thể thiếu. Nếu xin chưa được, con người không được nản chí thất vọng, nhưng càng phải kiên trì xin cho tới khi được.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài không muốn tiêu diệt con người tội lỗi, nhưng luôn tìm mọi cách để đưa con người trở về và cứu sống họ. Nếu Ngài sẵn sàng hy sinh ban cho chúng ta Ngôi Lời, còn gì khác mà Ngài không ban cho chúng ta.
- Chúng ta hãy cầu nguyện với Thiên Chúa nhờ công nghiệp của Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Ngài là Thượng Tế trên trời luôn sẵn lòng bầu cử cho chúng ta với Thiên Chúa, Cha Ngài.
- Chúng ta phải kiên trì trong việc cầu nguyện và xin ơn. Thiên Chúa có thể thử thách không ban ngay để chúng ta có thời giờ nhìn ra giá trị của điều đang xin, hay Ngài có thể ban cho chúng ta điều khác tốt hơn nếu Ngài thấy điều chúng ta xin không có lợi sau này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 32 TN1
Bài đọc: Wis 13:1-9; Lk 17:26-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu
Con người thường có khuynh hướng yêu thích những gì đẹp trước mắt hơn những giá trị cao quí ẩn dấu bên trong. Chẳng hạn, yêu thích những món ăn ngon mà quên đi tình thương của người đã bỏ thời giờ, tiền của để chuẩn bị bữa ăn đó; đến nỗi nhiều khi một tiếng cám ơn cũng quên không nói. Đối với Thiên Chúa cũng vậy, con người nhiều khi quá yêu thích những tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng mà quên đi tình thương của Ngài; đến nỗi nhiều khi quên luôn đích điểm của cuộc đời là về sống với Chúa muôn đời. Các Bài đọc hôm nay nhắc nhở con người phải biết quí trọng những gì có giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhóang chóng qua. Trong Bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan nhắc nhở con người phải biết suy xét về niềm tin của mình, để thờ phượng chính Đấng Tạo Hóa, thay vì thờ các tạo vật Ngài tạo dựng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục nhắc nhở cho con người phải luôn biết chuẩn bị cho Ngày Chúa đến lần hai; để đừng bị tiêu diệt như Nạn Hồng Thủy thời ông Noah, hay nạn Mưa Diêm Sinh thời ông Lot.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng Tạo Thành.
Có nhiều điều chúng ta có thể bàn luận trong trình thuật hôm nay; nhưng chúng ta chỉ giới hạn trong hai điều chính: sự hiện hữu của Thiên Chúa và các đặc tính của Ngài biểu hiện qua các tạo vật trong vũ trụ.
1.1/ Sự hiện hữu của Thiên Chúa: Theo tác giả, trí khôn của con người và sự hiện hữu của các tạo vật trong vũ trụ, đủ giúp con người nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh Thomas gọi đây là nguyên lý nhân quả: vật gì có là phải có người làm cho nó có. Người dựng nên các tạo vật phải là Đấng Tự Hữu mà chúng ta gọi là Thiên Chúa. Một tác giả khác diễn tả: Thiên Chúa cho con người có trí khôn và cho con người thấy mọi hiệu quả của việc tạo dựng; trong khi Ngài ẩn mình để xem con người có nhận ra Ngài hay không! Người khôn ngoan biết dùng trí óc để luận ra ngay Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng. Người ngu si không chịu dùng trí khôn suy xét cho mọi vật tự nhiên mà có, hay sáng chế ra những học thuyết kỳ lạ: Big Bang, Tiến Hóa... Tác giả sách Khôn Ngoan nhận định những người này như sau: "Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công."
1.2/ Mỗi tạo vật mặc khải một hay nhiều đặc tính của Thiên Chúa: Nhìn một bông hoa đẹp con người phải suy xét tới người dựng nên bông hoa đó; ông phải khôn ngoan và tài tình hơn bông hoa đó nhiều. Nhìn ánh sáng đẹp đẽ và hơi ấm của mặt trời, nhiều người đã sụp xuống bái lạy và tôn thờ thần Mặt Trời; nhưng họ phải suy xét và hỏi: Người làm ra nó phải khôn ngoan và tài tình hơn nhiều. Tác giả sách Khôn Ngoan nhận định lý do con người không nhận ra Thiên Chúa, vì họ chỉ xét đoán dựa theo dáng vẻ bên ngoài, mà không chịu dùng trí khôn để suy xét sâu xa hơn. Trí khôn phải giúp cho con người nhận ra: Đấng dựng nên phải đẹp hơn tất cả các vẻ đẹp của các thụ tạo Ngài dựng nên; Đấng dựng nên phải uy quyền và mạnh mẽ hơn các loài thụ tạo; và các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng Tạo Thành.
Cũng cùng một quan niệm như Phaolô, tác giả sách Khôn Ngoan qui trách nhiệm không nhận ra và không thờ phượng Thiên Chúa cho con người: "Tuy nhiên, không vì thế mà chúng được thứ tha. Vì nếu chúng có đủ khả năng hiểu biết để có thể nghiên cứu các sự vật trên đời, thì sao lại không sớm nhận ra Đấng Chủ Tể của những sự vật đó?''
2/ Phúc Âm: Ngày Chúa đến lần thứ hai
2.1/ Con người không chuẩn bị: Mặc dù đã được báo trước về tai họa sắp xảy ra, nhưng con người vẫn ngoan cố không chịu chuẩn bị. Tại sao con người không chịu chuẩn bị? Họ có thể nghĩ chuyện đó không bao giờ có thể xảy ra: Kinh nghiệm dạy con người: không ai học được chữ ngờ; chẳng hạn: vụ không tặc khủng bố 9/11 hay cơn bão Katrina. Hay chuyện đó còn lâu mới tới: cứ việc vui chơi ăn uống cho tới khi nhận ra những tín hiệu báo trước rồi ăn năn cũng không muộn. Nhưng một lý do có lẽ chính đáng hơn cả là vì con người quí trọng vật chất hơn Đấng đã tạo dựng ra chúng. Chúa Giêsu gợi lại 2 biến cố đã xảy ra và được ghi lại trong Sách Sáng Thế Ký để dẫn chứng sự khờ dại của những người không chịu chuẩn bị:
(1) Nạn lụt Hồng Thủy: "Cũng như thời ông Noah, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noah vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả."
(2) Mưa lửa diêm sinh từ trời: "Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lot: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lot ra khỏi Sodom, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả."
Và Chúa kết luận: "Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, Ngày Con Người được mặc khải."
2.2/ Những gì sẽ xảy ra và việc cần làm trong Ngày Tận Thế.
(1) Sự việc sẽ xảy ra nhanh chóng, con người sẽ không có thời giờ chuẩn bị. Khi sự việc đó xảy ra, con người cần ý thức: Không phải là lúc để bảo vệ của cải: "Ngày ấy, ai ở trên mái nhà mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy." Không phải là lúc quay trở về nhà: Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông Lot: vì không nghe lời sứ thần Thiên Chúa dạy nên tiếc của ngóai đầu trở lại, đã bị hóa thành cột muối. Phải có can đảm để trốn thóat: "Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống."
(2) Không có sự lẫn lộn giữa người lành và kẻ dữ trong ngày đó: Sứ thần của Thiên Chúa biết phân biệt rõ người lành ra khỏi kẻ dữ; các ngài sẽ đóng ấn trên các tôi tớ của Thiên Chúa trước khi các sứ thần khác ra tay tàn sát. Chúa Giêsu trưng dẫn 3 ví dụ cho sự chính xác này: "Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại."
(3) Đâu là chỗ người lành được đem đi và kẻ dữ bị bỏ lại? Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, ở đâu vậy?"
- Nơi của kẻ dữ: Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp nhưng nói với các ông câu châm ngôn: "Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó." Tất cả những người khinh thường không chịu chuẩn bị sẽ bị tiêu diệt; và xác của họ sẽ bị diều hâu bâu tới rúc rỉa.
- Chỗ của người lành: Chúa Giêsu không cho biết ở đây; nhưng như gia đình của Noah và của Lot, họ sẽ thóat mọi nguy hiểm và được sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa cho chúng ta có trí khôn để nhận ra sự hiện hữu của Ngài trong các tạo vật Ngài dựng nên. Chúng ta đừng bao giờ chạy theo thờ phượng các tạo vật thay vì Thiên Chúa.
- Hai điều kiện cần để chuẩn bị cho Ngày Chúa đến là vững tin nơi Đức Kitô và sống yêu thương mọi người. Chúa đã cảnh cáo con người nhiều lần và khuyên con người phải tỉnh thức sẵn sàng trong khi chờ đợi Ngày Chúa đến lần thứ hai. Dẫu vậy, sẽ có rất nhiều kẻ khinh thường không chịu chuẩn bị cho đến giây phút cuối và bị hư đi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 32 TN1
Bài đọc: Wis 7:22b-8:1; Lk 17:20-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa
Trong cuộc sống, chúng ta dễ dàng nhận ra hai loại người hoàn toàn khác nhau: Những người chỉ biết sống cách hời hợt bên ngoài, đánh giá theo những tiêu chuẩn của thế gian, và chỉ biết quí trọng những kết quả tạm thời. Những người ngây thơ nhẹ dạ này dễ bị đánh lừa bởi ma quỉ và thế gian. Ngược lại, có những người luôn sống theo chiều sâu bên trong tâm hồn, đánh giá theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa, và quí trọng những giá trị vĩnh cửu. Những tâm hồn khôn ngoan này không dễ bị mắc bẫy bởi thế gian và ma quỉ.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật sự cần thiết của Đức Khôn Ngoan để giúp con người biết sống và đánh giá trị đúng đắn của mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan nêu lên 21 đặc tính đáng yêu chuộng của khôn ngoan. Có khôn ngoan là có mọi sự: khôn ngoan làm cho con người trở nên bạn hữu của Thiên Chúa, người khôn ngoan có thể làm mọi sự, và không ai có thể đánh lừa được họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đề phòng các môn đệ của Ngài đừng dễ bị đánh lừa bởi những lời đồn đãi về Triều Đại của Thiên Chúa và sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai lần thứ hai; vì Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được từ bên ngoài, và như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng các ông có thể dùng khôn ngoan nhìn sâu trong tâm hồn mình để biết Đấng Thiên Sai có hoàn toàn ngự trị trong tâm hồn mình hay chưa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chỉ yêu chuộng những người chung sống với Đức Khôn Ngoan.
1.1/ Các đặc tính của Đức Khôn Ngoan: Tác giả nêu lên 21 đặc tính của Đức Khôn Ngoan. Tại sao 21? Con số 21 là hiệu quả của gia tăng cách hoàn hảo của con số 7 và con số 3 tượng trưng cho bản tính của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tác giả liệt kê các đặc tính đó như sau: "Quả vậy, nơi Đức Khôn Ngoan, có một thần khí tinh tường, thánh thiện, duy nhất, đa năng, tinh tế, mau lẹ, minh mẫn, tinh tuyền, trong sáng, thản nhiên, lanh lợi, chuộng điều lành, bất khuất, từ bi, nhân ái, cương quyết, vững vàng, điềm tĩnh, làm được mọi sự, quan tâm đến mọi điều, thấu suốt mọi tâm can, kể cả tâm can của những người trong sạch, thông minh, tinh tế nhất."
Rất nhiều tác giả đã nhân cách hóa và đồng nhất Đức Khôn Ngoan với Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa. Ba câu kế tiếp củng cố niềm tin này:
- Theo Gioan, nhờ Lời mà muôn vật được tạo thành; và không có Lời, chẳng có gì được tạo thành (Jn 1:3). Tác giả Sách Khôn Ngoan mô tả: "Vì chuyển động của Đức Khôn Ngoan thì mau lẹ hơn tất cả các chuyển động. Do tính thuần khiết, Đức Khôn Ngoan thâm nhập và xuyên thấu mọi vật mọi loài."
- Thánh Phaolô gọi Đức Kitô là Con Chiên không tì ố của Thiên Chúa, và nhờ Máu Người đổ ra, Người rửa sạch chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi (Eph 1:4). Tác giả Sách Khôn Ngoan mô tả: "Đức Khôn Ngoan toả ra từ quyền năng Thiên Chúa và rực lên trong ngần từ vinh hiển Đấng Toàn Năng, nên không thể vương một tì ố."
- Thánh Phaolô mô tả Đức Kitô: Người là phản ánh của Thiên Chúa vô hình, là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo (Col 1:15). Tác giả Sách Khôn Ngoan mô tả: "Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người." Trong Gioan, chính Đức Kitô cũng xác nhận: "Ai đã thấy Thầy là đã thấy Cha" (Jn 14:9).
1.2/ Hiệu quả của Đức Khôn Ngoan: Với tất cả những đặc tính nêu trên, không có một điều gì là không thể với Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
(1) Ngài làm được mọi sự: "Dầu chỉ một mình, Đức Khôn Ngoan vẫn có thể làm được mọi sự; luôn luôn bất biến, Đức Khôn Ngoan đổi mới được muôn loài. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, Đức Khôn Ngoan ngự vào những tâm hồn thánh thiện, biến họ nên bạn hữu của Thiên Chúa, nên ngôn sứ của Người. Thiên Chúa chỉ yêu chuộng những người chung sống với Đức Khôn Ngoan."
(2) Đức Khôn Ngoan thấm nhập và đẩy xa mọi tăm tối của cuộc đời, không gian tà nào thắng nổi: "Đức Khôn Ngoan rực rỡ hơn mặt trời, trổi vượt muôn tinh tú. So với Đức Khôn Ngoan, ánh sáng còn kém xa. Bởi trước màn đêm, ánh sáng đành phải lui bước. Còn Đức Khôn Ngoan, chẳng gian tà nào thắng nổi."
(3) Đức Khôn Ngoan cai trị mọi sự tốt đẹp: "Từ chân trời này, Đức Khôn Ngoan vươn mạnh tới chân trời kia, cai quản mọi loài thật tốt đẹp. Đức Khôn Ngoan, hiền thê lý tưởng."
2/ Phúc Âm: Triều Đại của Thiên Chúa đang ở giữa các ông.
2.1/ Khi nào triều đại của Thiên Chúa đến? Các động từ chính liên quan đến "triều đại của Thiên Chúa" trong câu 20 và 21 đều được dùng ở thời hiện tại. Điều này chứng tỏ Thánh Luca muốn phân biệt triều đại của Thiên Chúa đến trong trần gian với Ngày Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong 4 câu kế tiếp. Triều đại của Thiên Chúa đã đến trong trần gian, nhưng để nhận ra con người không thể:
- dựa vào những dấu chỉ bên ngòai, như lời Chúa Giêsu tuyên bố: "Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này! hay Ở kia kìa!" nhưng phải nhận ra nhờ những dấu chỉ bên trong như đức tin vào Thiên Chúa, sống bác ái với mọi người.
- triều đại của Thiên Chúa đang ở giữa (hiện tại) các ông: Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài là dấu hiệu Triều Đại của Thiên Chúa đã đến trong lòng mỗi tín hữu.
2.2/ Khi nào Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai? Các động từ chính của cả 3 câu 22, 23, 24 đều được dùng ở thời tương lai. Câu 25 là lời tiên tri: Chúa Giêsu báo trước những gì sắp xảy ra cho Ngài trong tương lai gần. Về Ngày Chúa Giêsu sẽ đến lần thứ hai:
- Không ai biết được thời gian: "Vì thế, khi người ta sẽ bảo anh em: Người ở kia kìa! hay Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo."
- Không ai biết được nơi chốn: "Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong Ngày của Người."
- Các môn đệ biết những gì sắp xảy ra cho Chúa Giêsu trong tương lai gần: "Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ." Khi chứng kiến những sự kiện này, các môn đệ sẽ biết triều đại của Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Sau đó, Chúa Giêsu sẽ được cất đi khỏi các ông. Lúc đó, các ông sẽ mong sống lại những ngày với Chúa Giêsu, nhưng không còn nữa: "Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trên hết mọi sự, chúng ta hãy học hỏi và cầu xin cho có được sự khôn ngoan của Thiên Chúa là Đức Kitô ngự trong tâm hồn. Khi đã có Đức Kitô, chúng ta có thể làm được mọi sự, và vượt qua được mọi cám dỗ của cuộc đời.
- Triều đại của Thiên Chúa đến không từ bên ngòai để chúng ta có thể nhận ra như những vương quốc của trần gian; nhưng chúng ta có thể nhận ra triều đại của Thiên Chúa đã đến trong tâm hồn nhờ vào những dấu chỉ bên trong như ăn năn sám hối, tin vào Đức Kitô, và sống bác ái với mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Bài đọc: Zec 2:14-17; Lk 1:26-38
CHỦ ĐỀ: Con Thiên Chúa xuống thế để ở với con người.
Tháng mười, được gọi là tháng Mân Côi, tháng kỷ niệm cuộc đời của Chúa Cứu Thế và Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ người. Cuộc đời của hai con người quan trọng nhất trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa được dệt bằng những biến cố quan trọng, nhưng các bài đọc hôm nay tập trung trong biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah nói trước về biến cố này, được lồng trong khung cảnh lưu đày của dân tộc Do Thái. Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc con người; nhất là khi con người phải buồn sầu khổ cực trong chốn lưu đày. Ngài đã có một kế hoạch để giải thoát con người khỏi quyền lực của tội lỗi bằng cách cho người con một của Người xuống để ở với con người, để dạy dỗ, chữa lành và cứu chuộc con người. Ngôn sứ Zechariah đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày này, nên ông đã kêu gọi dân Do Thái hãy vui mừng lên vì ngày đó đã gần đến. Trong Phúc Âm, những gì ngôn sứ Zechariah loan báo đã trở thành hiện thực trong biến cố Truyền Tin, được ghi lại bởi thánh sử Lucas. Chính nhờ sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Maria mà con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng của Mẹ, để bắt đầu sứ vụ cứu chuộc của ngài cho trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC
1/ Bài đọc I: "Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi."
Có ba sự kiện chính chúng ta ghi nhận trong đoạn văn của ngôn sứ Zechariah:
1.1/ Thiên Chúa đang đến và ở lại với dân Người: Sự kiện này được lặp lại hai lần trong hai câu đầu tiên, 14 và 15. Không những Thiên Chúa đến để viếng thăm, nhưng còn ở lại với dân Người. Khi Chúa Giêsu đến, ngài không chỉ viếng thăm; nhưng hoá thành nhục thể để ở với con người trong suốt ba mươi ba năm; và lập bí tích Thánh Thể để ở với con người suốt mọi ngày cho đến tận thế. Đây là một sự kiện đặc biệt mà con người phải vui mừng, phải reo hò và hân hoan vì khi có Thiên Chúa ở với, con người sẽ không còn cô đơn và sợ hãi những quyền lực của thế gian và ma quỉ.
Thiên Chúa phải trừng phạt dân tộc Do Thái một thời gian vì họ quá cứng lòng, không chịu nghe những lời Ngài dạy bảo qua các ngôn sứ; nhưng khi họ biết nhận ra những lỗi lầm của họ và quay trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ phục hồi tất cả mọi quyền lợi và địa vị cho họ, như lời ngôn sứ Zechariah loan báo, "Đức Chúa sẽ lấy Giu-đa làm cơ nghiệp, đó là sở hữu của Người trên Đất Thánh và Người sẽ lại tuyển chọn Giê-ru-sa-lem."
1.2/ Các dân tộc sẽ được nhập đoàn với dân Chúa: "Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng Đức Chúa: Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi." Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Ngài bắt đầu với dân tộc Do Thái như một dân riêng; sau đó, Ngài sẽ cho tất cả các dân tộc được nhập đoàn qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Khi sự kiện này bắt đầu xảy ra, người Do Thái sẽ nhận ra kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và phải tin rằng Đức Kitô được Chúa Cha sai đến.
1.3/ Thái độ của con người phải có trước mầu nhiệm Nhập Thể: "Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Đức Chúa, bởi vì Người tỉnh giấc và ra khỏi Nơi Thánh của Người." Đứng trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa, được biểu tỏ qua việc con Thiên Chúa bỏ Nơi Thánh của người trên thiên quốc để xuống gian trần cứu độ con người, con người không biết làm gì hơn là thinh lặng để suy niệm và cảm nghiệm tình yêu sâu xa và vô biên này.
2/ Phúc Âm: Sứ vụ của Đức Trinh Nữ Maria
2.1/ Cuộc gặp gỡ giữa trời và đất: Tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Cứu Độ là Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra; và bắt đầu cuộc đời của Đấng Cứu Thế trên dương gian là biến cố Truyền Tin hôm nay. Không ai có thể ngờ một Thiên Chúa, Đấng dựng nên và có quyền trên muôn loài, lại đến với một tạo vật của mình; để xin cho Người Con được vào cung lòng của Trinh Nữ và sinh ra làm người. Thánh-sử Luca tường thuật biến cố Truyền Tin như sau: " Khi Bà Elizabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavit. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa."
2.2/ Mầu Nhiệm Cứu Độ được mặc khải: Sứ-thần Gabriel nói về con trẻ sẽ được sinh ra như sau: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavit, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." Đây chính là lời hứa thứ ba mà Tiên-tri Nathan đã loan báo cho Vua Đavit trong Sách Samuen II. Chỉ có một điều kỳ lạ không ai ngờ tới về đứa trẻ sinh ra, tuy là Con của Đấng Tối Cao nhưng lại thuộc giòng dõi Đavit qua người cha nuôi, Thánh Giuse.
2.3/ Phản ứng của Đức Trinh Nữ Maria: Vì đã khấn giữ mình đồng trinh, Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Điều Maria muốn giữ mình đồng trinh là điều đẹp lòng Thiên Chúa, vì Ngài muốn con của Ngài nhập thể trong một cung lòng thanh sạch và tinh tuyền như thế. Hơn nữa, lời tiên tri của Isaiah cũng đã báo trước về người trinh-nữ này (parthenos, Isa 7:14).
Đức Trinh Nữ, cũng giống như nhiều người chúng ta, thắc mắc theo sự hiểu biết của con người: Làm sao thụ thai và sinh con mà còn đồng trinh? Chúng ta quên đi cách của Thiên Chúa: có thể giữ mình đồng trinh mà vẫn sinh con. Sứ thần cắt nghĩa cách của Thiên Chúa: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." Sứ thần đưa một bằng chứng cụ thể: "Kìa bà Elizabeth, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." Sau khi đã lắng nghe lời cắt nghĩa của Sứ-thần, Đức Trinh Nữ Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG
- Trong tháng Mân Côi, chúng ta hãy dành nhiều thời giờ để lần hạt và suy ngắm về tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua mầu nhiệm Nhập Thể của con Ngài.
- Noi gương Mẹ Maria, chúng ta hãy vâng lời và cộng tác với Thiên Chúa để mang ơn cứu độ của Ngài cho chúng ta và cho mọi dân tộc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi RC
Quy tắc cư xử trong Giáo hội.
10/11 – Thứ ba tuần 32 thường niên – Thánh Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
* Thánh nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440, người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường, người đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang đe dọa niềm tin về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Lời Chúa: Lc 17, 7-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không. "Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Suy Niệm 1: Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Nô lệ không đòi gì
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
RC
- Viết bởi Mỗi ngày một tin vui
Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ.
09/11 – Thứ hai tuần 32 thường niên – CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ. Lễ kính.
"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".
* Thánh đường Latêranô là vương cung thánh đường của Đức Giáo Hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Contantinô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”.
Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của Đức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất trong Dân Thiên Chúa.
LỜI CHÚA: Ga 2, 13-22
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
SUY NIỆM 1: Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Ðền thờ xây cất với tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội công giáo.
Ðền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Ðền thờ bằng đá không còn ý nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.
Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Ðây là một trong những trách nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Ðó là chỉ cho anh chị em mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.
Chiều kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần và trong sự thật. Ðây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong Thánh Thần.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tôi Sẽ Xây Dựng Lại
Suy Niệm
Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Ðây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh,
là nhà thờ chính toà của Ðức Thánh Cha, giám mục Rôma,
là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà
để dành riêng cho việc phụng tự.
Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa,
thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu.
Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân
cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ.
Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại,
mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người.
"Hãy phá hủy Ðền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại."
Ðức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem.
Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài,
thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại,
thân thể bị giết chết và được phục sinh.
Ðức Giêsu phục sinh trở nên Ðền Thờ của Giao Ước mới.
Ai ai cũng được mời gọi bước vào Ðền Thờ này.
Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.
Hội Thánh cũng được ví như một Ðền Thờ thiêng liêng,
mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8),
và Ðức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11).
Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định
"Ðền thờ của Thiên Chúa chính là anh em" (1Cr 3,17).
Hơn thế nữa, ngài còn nói:
"Thân xác anh em là Ðền Thờ của Thánh Thần" (1Cr 6,19)
Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Ðền Thờ.
Ðền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà
có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy.
Ðền thờ là những con người sống động.
Ðền thờ quan trọng nhất là con người Ðức Giêsu phục sinh,
một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần.
Mọi Ðền thờ đều phải qui về Ðền thờ đó.
Không gắn bó với Ðấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài,
chẳng Ðền thờ nào là Ðền thờ thực sự.
Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán,
Ðức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha.
Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy,
vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều.
Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa.
Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ.
Nhà thờ đầu tiên là con người tôi.
Xin Ðức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần,
cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế.
Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa
để Hội Thánh thật sự là Ðền thờ,
nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Ðền thờ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thân xác là Ðền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng như bây giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt thân xác?
Bạn nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ lý tưởng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
SUY NIỆM 3: Latêranô
Hôm nay chúng ta mừng kính ngày cung hiến đền thờ Latêranô, đền thờ đầu tiên của Giáo hội La mã, được coi như là mẹ của các đền thờ khác. Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám mục Rôma. Đền thờ này được hoàng đế Constantinople xây dựng vào năm 320, thời gian Giáo hội vừa thoát khỏi cơn bách hại tàn khốc để bước vào giai đoạn huy hoàng.
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh thiêng, là nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận những sự thờ kính và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống thần linh.
Chắc hẳn nơi cư ngụ của các thần linh không thuộc trần gian này, nhưng có thể nói, đền thờ đồng hóa với nơi cư ngụ ấy, nhờ đó con người giao tiếp được với thế giới của các thần linh. Chính trong chiều hướng này mà chúng ta tìm thấy những hình ảnh của đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người, nhưng đó mới là một dấu chỉ tạm thời, sẽ được thay thế bằng thân xác Đức Kitô với Giáo hội của Ngài, như là một đền thờ mới và có tính cách vĩnh cửu.
Vào thời các tổ phụ, người Do thái không biết đến đền thờ, cho dù họ vẫn có những nơi thánh để kêu cầu với Đức Giavê như Bêtal, như Sichem, như Sinai…Nhưng rồi sau đó, họ đã dùng một thánh điện lưu động, để Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân chúng đang được Ngài dẫn qua sa mạc. Đó là nhà tạm với hòm bia giao ước.
Sau khi người Do thái đã tiến vào miền đất hứa và lập thành vương quốc, bấy giờ Đavid mới nghĩ đến việc xây dựng đền thờ dâng kính Thiên Chúa. Ước mơ ấy được Salomon thực hiện. Ông đã xây dựng đền thờ Giêrusalem với tất vả vẻ huy hoàng của triều đại ông, và Thiên Chúa đã nhận đền thờ ấy như nơi cư ngụ của Ngài. Vì thế, đền thờ Giêrusalem trở nên trung tâm sinh hoạt chính trị về tôn giáo của người Do thái. Người ta từ khắp nơi hành hương về Giêrusalem vào những dịp lễ lớn để cầu nguyện, kết hiệp và tôn thờ Thiên Chúa.
Năm 587 trước công nguyên, đền thờ Giêrusalem bị vua Nabucodonosor phá hủy và bắt một số người Do thái phải lưu đày sang Babylon. Sống dưới ách nô lệ với những đau khổ và nặng nhọc, nhưng lòng họ vẫn hướng về đền thờ Giêrusalem. Thế nhưng, bây giờ đền thờ Giêrusalem đã bị đổ vỡ hoang tàn. Vì thế, họ đã tìm thấy một chiều hướng tôn thờ mới, đó là tôn thờ thiêng liêng, tôn thờ trong tâm hồn vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.
Trong Tân ước, đền thờ chính là thân xác Đức Kitô: Đền thờ ấy bị phá hủy nhưng dã được xây dựng lại trong ba ngày. Đây mới chính là đền thờ vĩnh cửu, không do tay người trần thế làm nên, nhưng do chính Ngôi lời. Đền thờ ấy nói lên sự hiện diện thiết thực của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Ngoài ra, các Kitô hữu còn ý thức rằng chính họ kết thành đền thờ mới, đền thờ thiêng liêng nơi thân thể Đức Kitô, đó chính là Giáo hội. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa, thiết lập trên Đức Kitô. Ngài là nền móng, là đầu và là viên đá góc tường.
Còn chúng ta thì sao? Tâm hồn mỗi người cũng phải là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục đã nói với chúng ta: Hỡi thần ô uế, hãy xéo đi, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thần Linh Thiên Chúa.
Bao lâu sạch tội trọng, bao lâu còn sống trong ân nghĩa Chúa thì linh hồn chúng ta chính là một ngôi đền thờ sống động cho Thiên Chúa. Trái lại, khi phạm tội trọng, chúng ta là những kẻ dám nói với Thiên Chúa như sau: Hỡi Thiên Chúa, xin Ngài hãy ra khỏi tâm hồn tôi để nhường chỗ cho ma quỷ.
Chúng ta hãy gìn giữ tâm hồn mình cho trong sạch, xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, chứ đừng biến nó thành hang trộm cướp. Chúng ta hãy noi gương bắt chước ông Giakêu đã tiếp đón Chúa tại nhà mình. Chính sự hiện diện của Chúa đã đem lại cho ông niềm vui mừng và hy vọng, để rồi ông đã hoán cải bản thân, làm lại cuộc đời. Hãy sửa đổi những sau lỗi để tâm hồn chúng ta thực sự là một đền thờ được dâng hiến cho Thiên Chúa.
SUY NIỆM 4: Nhà thờ trở nên cộng đồng
Hai anh chị kia sắp cưới. Trong khi chuẩn bị hôn nhân, họ xin cha làm lễ cưới tại một cảnh thơ mộng trên núi. Họ ngạc nhiên thấy cha nói không được. Họ phải làm lễ cưới tại nhà thờ xứ của họ. Họ tỏ ra bất mãn. Cha cho biết đó là luật của địa phận nhưng họ thắc mắc làm sao đám cưới của họ mà họ không được làm nơi họ muốn?
Điều anh chị này thắc mắc có liên quan đến lễ chúng ta cử hành hôm nay, lễ kỷ niệm Dâng Hiến Thánh Đường Lateranô. Thánh đường này từ thế kỷ thứ 12 vẫn được coi là mẹ, là đầu của các nhà thờ. Thánh đường này cũng là nhà thờ chính toà của Đức Giáo Hoàng. Lễ này cũng nhắc nhớ chúng ta nghĩ đến nhà thờ của giáo xứ, cộng đoàn chúng ta.
Nhà thờ tượng trưng cho thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô và mỗi Kitô hữu được kêu gọi để xây dựng thân thể mầu nhiệm này. Nhà thờ ví như bào thai cho ra đời những người con cùng một trí một lòng truyền tụng và phục vụ Nước Trời.
Để thực hiện điều đó, mỗi nhà thờ luôn thực hiện việc xây dựng cộng đồng. Như các đường chỉ được dệt với nhau thành tấm vải, mỗi người cũng có một sứ vụ hiệp thông trong trong chiều hướng để sứ vụ chung được kết quả tốt đẹp trong tinh thần Chúa Kitô.
Những người trong giáo xứ hoặc là lạnh nhạt với mọi người và điều đó không xứng với Kitô Giáo; hoặc mọi người tích cực liên hệ đến giáo xứ, kiến tạo một cộng đồng một trí một lòng.
Mỗi lần chúng ta tham dự vào một bí tích nhắc nhớ chúng ta mục đích của bí tích là xây dựng thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, liên kết chặt chẽ với nhau hơn trong sự dấn thân chung đó là hiệp thông và thi hành sứ mệnh. Vì thế bí tích được khuyến khích cử hành tại nhà thờ. Nhà thờ trở nên nơi liên kết, để tinh thần thân thiện được triển nở chứ không phải chỉ là nơi tụ họp của những muốn giữ thái độ xa lạ.
Chúng ta cố gắng làm cho giáo xứ chúng ta nên cơ hội thuận tiện cho tinh thần hợp nhất Chúa Kitô được phát triển. Chúng ta không thể chấp nhận thái độ chia rẽ, không thể đầu hàng trước các phe nhóm.
Giống như cặp anh chị sắp cưới được nói cho biết là họ cử hành bí tích hôn phối của họ nơi nhà thờ của họ. Cùng với những lý do khác, các giáo dân cùng cử hành với họ, dâng họ lên Chúa, cầu nguyện cho họ, và nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời.
Để kết thúc, chúng ta đọc lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc II: "Anh em không còn là người xa lạ, là khách ngoại bang. Anh em là công dân của các thánh, là phần tử nhà của Chúa."
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
- Viết bởi RC
Trung tín việc nhỏ, sẽ trung tín việc lớn.
07/11 – Thứ Bảy đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".
Lời Chúa: Lc 16, 9-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".
Suy Niệm 1: Sử dụng tốt tiền của
Tham nhũng là cám dỗ xưa như cõi lòng tội lỗi của con người. Người tham nhũng là người chỉ nghĩ đến mình, bất chấp thiệt hại có thể gây ra cho người khác. Xúc phạm đến con người, tham nhũng rốt cuộc cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa.
Chính vì tính cách trầm trọng của tham nhũng, nên Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đưa ra một đòi hỏi: "Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của", bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự hủy, chối bỏ cùng đích của cuộc sống.
Tham nhũng và lừa đảo ở mọi qui mô trong xã hội chúng ta, đó là một kết luận hiển nhiên. Thế nhưng "thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối". Chúng ta hãy bắt đầu chống tham nhũng, lừa đảo, ích kỷ ngay trong con người của chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu các con không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm và giao phó của cải chân thật cho các con?". Nếu chúng ta chưa loại được tham lam, lừa đảo trong những sinh hoạt hằng ngày, liệu chúng ta có thể chống tham nhũng ở qui mô lớn hơn không?
Tham nhũng đối với mỗi người chúng ta có thể mang nhiều tên gọi: ích kỷ, khước từ chia sẻ, liên đới, cảm thông. Xét cho cùng, của cải là đển mọi người cùng hưởng dùng; nếu tham nhũng, lừa đảo là chỉ muốn lấy của người để dành riêng cho mình, thì bất cứ hành động ích kỷ nào, bất cứ khước từ san sẻ nào cũng là một hình thức tham nhũng. "Không ai có thể làm tôi hai chủ": của cải vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta thờ phượng người chủ duy nhất và đích thực là Thiên Chúa.
Trong khi mưu cầu cho cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm và xây dựng giá trị Nước Trời. Xin cho chúng ta biết nhìn xa hơn về của cải vật chất, biết ra khỏi chính mình để gặp Chúa qua những chia sẻ, cảm thông đối với tha nhân.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Giáo Huấn Của Chúa Giêsu
Có thể nói toàn chương thứ 16 Phúc Âm theo thánh Luca qui góp những lời dạy của Chúa Giêsu về việc sử dụng tốt những của cải cũng như về sự nô lệ cho tiền bạc. Ðoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây và muốn suy niệm hôm nay tiếp liền và bổ túc cho những gì Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn về những khách được mời dự tiệc nhưng từ chối không đến, vì lòng họ còn quá bám víu vào những lợi lộc riêng tư.
Chúng ta cũng nên lưu ý nơi đây trước khi suy niệm những lời Phúc Âm trên rằng Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt giầu nghèo. Việc sử dụng tốt tiền của hay việc lạm dụng sử dụng xấu tiền của không tùy thuộc vào số lượng ít nhiều, giầu nghèo nhưng tùy thuộc vào chính tâm hồn con người có thái độ như thế nào đối với tiền của. Nói cách khác, mọi người bất luận giàu hay nghèo đều có thể có thái độ sai lạc trước tiền của vật chất. Chúa Giêsu không lên án tiền của từ nơi chính nó nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta về thái độ phải có trước tiền của. Chúng ta hãy lưu ý đến câu nói của Chúa Giêsu: "Không ai có thể làm tôi cho hai chủ một lượt. Không thể nào phục vụ Chúa và làm tôi cho tiền của". Từ ngữ được dùng trong nguyên văn mà chúng ta dùng từ "làm tôi cho" hay "phục vụ" trong khung cảnh Kinh Thánh, có mang thêm một chút ý nghĩa của hành động phụng vụ tôn thờ. Như vậy, câu nói được hiểu như sau: "Không ai có thể tôn thờ hai chủ được. Các con không thể cúi mình thờ lạy Thiên Chúa và thờ lạy thần tiền tài một lượt được. Con người chúng ta chỉ tôn thờ, chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ai tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình thật sự, thì không thể nào tôn thờ tiền của, đặt tiền của như là mục đích cuối cùng của đời mình". Nếu tiền của không phục vụ cho chúng ta để có được những người bạn mới trong nước Trời, hay nói cách khác, nếu chúng ta không đặt tiền của vào việc phục vụ cho anh chị em thì tiền của sẽ trở nên thần tượng không thể nào dung hòa được với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Ðấng đã nhập thể làm người, sống khó nghèo, đã làm cho chúng con được giàu có sự sống của Chúa.
Xin giúp chúng con sống trung thành với ơn gọi trong cuộc sống hàng ngày, để chúng con đừng rơi vào cám dỗ, thờ lạy tiền của mà bỏ quên Chúa và anh chị em. Xin cho chúng con biết sử dụng đúng tiền của, làm vinh danh Chúa và tạo ra phúc lợi cho anh chị em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Tích trữ tiền của thế nào?
Phần Thầy, Thầy bảo thật cho anh em biết: hãy dùng của cải bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc. 16, 9-10)
Lúc sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã thấy mọi thứ đều tốt để phục vụ con người, Đức Giêsu không kết án chống lại của cải bản chất, nhưng chỉ chống lại thói dùng của cải bất chính của con người. Người nói tiền của bất chính như một quyền lực nô lệ hóa con người, cám dỗ con người làm điều bất lương để kiếm hay tiêu xài tiền của và bắt con người phục dịch tiền của. Nhưng người ta có thể dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê đã khuyên những người giàu ở trần gian này như sau: “Họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân … Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy, họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1Tm. 6, 17a. 18. 19).
Thực hiện trung tín
Tiền của đời này phải phục tùng quyền quản lý của con người, yếu tố chính của người quản lý là trung tín. Tiền của đời này không phải là việc quan trọng mà Thiên Chúa trao phó cho con người. Đức Giêsu nói: “Đó là việc nhỏ. Nếu con người biết trung tín, tốt lành trong việc dùng tiền của, Thiên Chúa sẽ ủy thác cho họ quản lý việc lớn hơn là sự sống đời đời.
Để được quản lý việc quan trọng hơn
Sự sống đời đời là của chân thật, là sản vật ưu tiên hơn tất cả mọi vật. Chính khi quản lý tiền của bất chính, người ta tỏ ra trung tín vâng theo thánh ý Thiên Chúa, Ngài sẽ nói với họ: “Mọi sự của Cha là của con”. Nhưng Ngài chỉ có thể trao phó mọi sự của Ngài cho người quản lý nào đã được thử thách mà tỏ ra trung tín và công bằng.
Thực ra, tiền của chỉ là khách lạ đối với bản chất con người có tâm hồn cao thượng, có trí óc thông minh và thánh thiện. Nếu con người chống cự lại sức cám dỗ của tiền của đã trao cho mình và không biến nó thành thần tượng, thì chứng tỏ mình có lòng trung thành với Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài thôi.
Biệt phái mang tiếng tham lam tiền bạc vì họ coi nghèo khổ là sự chúc dữ. Họ tỏ vẻ ngạo mạn khinh bỉ Đức Giêsu, Đấng đã phá đổ sự an toàn dựa vào giàu có của họ, đồng thời Người tỏ cho thấy chỉ có lòng tin vững chắc được nên công chính trước mặt Thiên Chúa mới thực sự an toàn. Vinh quang trước mặt người đời là thứ gớm ghiếp trước mặt Thiên Chúa.
RC
- Viết bởi RC
Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời.
06/11 – Thứ Sáu đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Lời Chúa: Lc 16, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".
"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Suy Niệm 1: Hành xử khôn khéo
Một đạo sĩ đi ngang qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình. Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.
Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn có lẽ dựa trên một cuộc biển lận xẩy ra trong bất cứ xã hội nào. Chúa Giêsu không có ý tán thành hành vi biển lận của người quản lý; Ngài chỉ khen cung cách giải quyết vấn đề của ông: ông biết nhìn xa thấy rộng để tìm phương thế cho hoạn nạn sắp phủ xuống trên ông. Bài học có thể rút ra từ dụ ngôn chính là tận dụng thời gian, biết tất cả thành cơ may để gặp gỡ Chúa và xây dựng Nước Trời.
Thái độ của con người thường là nổi loạn, than trách, buông xuôi, bỏ cuộc. Chúa Giêsu khuyên chúng ta khôn ngoan điềm tĩnh để biến đau khổ thành cơ may đưa đến một ơn ích cao đẹp hơn. Ðạo sĩ trong câu truyện trên đây không dừng lại để rủa xả con khỉ, nhưng điềm nhiên sử dụng trọn vẹn trái dừa. Người điềm tĩnh khôn ngoan là người biết nhìn một cách lạc quan những thất bại, mất mát trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã có cái nhìn lạc quan ấy, khi nói: "Ðối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều dẫn về điều thiện".
Dưới cái nhìn của con người, loài người được xếp theo những hơn thua về tài năng, may mắn, thành công, thông minh, nhưng trong cái nhìn yêu thương của Chúa, tất cả đều là ân sủng. Chúng ta hãy tín thác cho Chúa, đón nhận mọi biến cố như lời mời gọi yêu thương, tin tưởng. Bên kia những gì chúng ta có thể ước đoán, tưởng tượng, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Hãy xử thế như người quản lý trong dụ ngôn: biến tất cả thành cơ may để nhận ra tình yêu Chúa, để loan báo, chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Kẻ bất lương
Ðể nói về mầu nhiệm của nước Trời, Chúa Giêsu không những dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Chúa còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Chúa Giêsu không cố ý cho các đồ đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy. Chẳng hạn nơi Mt 10,16 Chúa Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Chúa Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.
Ðể hiểu thêm về dụ ngôn người quản lý gian ngoan này, chúng ta hãy nhớ rằng vào thời Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giầu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Do đó, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể trên đây, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. Ðó là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Và câu cuối cùng của dụ ngôn: "Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng" nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Chúa Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.
Áp dụng cho các đồ đệ của Chúa Giêsu, những con cái của sự sáng, Chúa Giêsu muốn sao cho các đồ đệ của Ngài cố gắng vận dụng hết khả năng trí khôn của mình để làm cho những nén bạc tài năng Chúa ban cho được trổ sinh những hoa trái tốt đẹp. Những kẻ xấu, những người ác mà còn biết ra sức vận dụng hết khả năng trí khôn của họ để làm chuyện xấu, nghịch luật Chúa, hại anh em. Trong khi đó, tại sao những người đồ đệ đích thực của Chúa Giêsu, những con cái sự sáng lại không dấn thân hết sức mình, không sử dụng hết khả năng trí tuệ của mình để làm điều tốt, bổ ích cho chính mình cũng như cho anh chị em chung quanh.
Người đồ đệ đích thực của Chúa không thể nào có một thái độ ỷ lại, lười biếng trong việc tốt và phải dấn thân tích cực hết sức lực mình. Con hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng cũng phải hết sức lực, với hết khả năng trí khôn Chúa ban cho.
Lạy Chúa
Xin thức tỉnh mỗi người chúng con khỏi sự ù lì, lười biếng tinh thần. Nước Chúa dành cho những kẻ mạnh, cho những ai dấn thân hết mình cho điều tốt. Xin thương ban cho chúng con nghị lực kiên trì trong việc tốt, đẹp lòng Chúa, bổ ích cho anh chị em chung quanh. Xin cho chúng con biết hăng say làm việc tốt mà không cần phần thưởng nào khác hơn là biết chúng con đang làm tròn ý Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Quản lý bất trung
Mình biết phải làm gì rồi! để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ! Anh ta cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai này của bác đây ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: Một ngàn thùng lúa. Anh ta bảo: Bác cần lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế! Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc. 16, 4-8)
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu khi thì nói với biệt phái, lúc nói với dân chúng hay các môn đệ, Người muốn giáo huấn họ đặc biệt về trách nhiệm của họ như người quản lý của Thiên Chúa.
Người xảo quyệt của thế giới đen
Người quản lý bất lương thấy thế giới của hắn bỗng chốc sụp đổ. Ngày phán xét đến cũng bỗng chốc thế. Hắn mất địa vị và danh tiếng. Đời sống hiện tại vật chất cũng lâm nguy, nhưng chủ còn để hắn một ít lâu để tính sổ. Hắn tự nhủ và nhận thấy phải hành động mau chóng và liều lĩnh để bảo đảm nuôi thân sau này. Hắn tha cho những con nợ của chủ một số nợ bằng năm trăm ngày công. Như thế, hắn có thể bảo đảm đời sống sau khi mất chức quản lý. Đức Giêsu khen tên quản lý trộm cắp này vì đã hành động khôn khéo biết lo cho đời sống.
Sự khôn khéo đó đáng làm gương cho con cái ánh sáng
Đức Giêsu không ca ngợi tên quản lý quỷ quyệt hỗn láo đó. Nhưng sự khôn khéo của hắn đúng là dấu chỉ của thời đại. Hắn đã hết thời vào ngày chủ đòi hắn tính sổ. Điều Đức Giêsu muốn rút ra bài học là sự táo bạo của hắn, khiến hắn khai thác tối đa một ít thời giờ còn lại, đã giúp bảo đảm tương lai của hắn.
Cũng thế, môn đệ không biết khôn khéo khi Chúa đến và đòi tính sổ, các ông phải biết tha thứ tất cả những ai mắc nợ với mình để Chúa cũng tha nợ cho các ông. Các ông còn phải chăm sóc mọi gia nhân trong nhà chủ đã trao phó cho các ông. “Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ về thấy nó đang làm việc chu đáo”.
Đối với những công việc ở thế giới này, những người muốn bảo đảm được tương lai vật chất, phải tỏ ra rất khôn khéo. Họ đã khôn khéo xử đối với đồng loại mình, nhưng lại không khôn khéo với những công việc nước trời. Trái lại con cái ánh sáng, những người tin vào Đức Giêsu, Đấng là ánh sáng, lại không biết khôn ngoan để bảo đảm được ơn cứu độ. Họ phải cố gắng thực hiện được sự táo bạo và khôn khéo, và hành động khi còn thời giờ, như con cái của xã hội đen.
RC
- Viết bởi RC
0xót vô biên của Chúa.
05/11 – Thứ Năm đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Lời Chúa: Lc 15, 1-10
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Suy Niệm 1: Con Chiên Lạc
Có một câu chuyện về cuộc đời của một thiếu nữ tên Liker với nội dung như sau: Liker phục vụ trong quân đội Anh, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cô trở thành gái mãi dâm. Lúc thành phố Paris được giải phóng sau thế chiến thứ hai, không lâu sau đó, Liker phục vụ những khách hạng sang tại một trong những nơi ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris do Patric làm chủ. Trong lúc tận tình giúp đỡ một thiếu nữ khác để khỏi rơi vào hoàn cảnh éo le của mình, Liker đã bắn chết Patric. Cô bị tống giam, nhưng trong cảnh ngục tù, Liker đã gặp các Nữ tu có tên gọi là các chị Bêtania, là Dòng chuyên nâng đỡ những cô gái sa cơ lỡ bước, những người nghiện ngập, những người sống đầu đường xó chợ. Vài nữ tu này trước kia cũng là nạn nhân của xã hội như những người họ đang phục vụ. Mãn hạn tù, Liker xin gia nhập dòng và trở thành một trong các chị Bêtania.
Nữ tu Liker trong câu truyện trên đây là tiêu biểu cho con chiên lạc mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến. Nàng đã sa cơ lỡ bước, nhưng Thiên Chúa qua cử chỉ của các chị Bêtania đã đi tìm gặp chị và mời gọi chị trở nên bạn chí thiết của Ngài trong đời sống hiến dâng.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay rất đơn sơ, nhưng mang đầy ý nghĩa. Vai chính là người chăn chiên và người phụ nữ. Những người chăn chiên thời Chúa Giêsu thường bị khinh miệt, vì họ là những người nghèo nàn, ít học, bị nghi ngờ gian lận, và vì phải luôn sống với đàn chiên ngoài đồng, nên họ không thể giữ luật ngày Hưu lễ cũng như không thể tham dự các giờ kinh trong Hội đường. Còn các phụ nữ là những công nhân hạng hai, theo tâm thức của Việt Nam ngày xưa: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", nhưng họ được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên Chúa.
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Một Thiên Chúa sung sướng khi chúng ta sống đúng theo thánh ý Ngài. Một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, vì tình thương vô biên của Ngài. Nữ tu Liker trong câu truyện trên đã cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, còn chúng ta, cho đến bao giờ mới có một kinh nghiệm như thế?
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho chúng ta mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 2: Khía Cạnh Sâu Xa Của Tình Yêu
Trọng tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay nêu bật khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói trọn trong tình yêu khoan dung vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngục tù của lỗi lầm, của quá khứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ làm ơn trong hiện tại đen tối của người ấy mà còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tốt hơn trong tương lai.
Trong cách hành xử của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sẵn sàng tha thứ để biểu lộ một tình yêu chân thành qua việc Ngài tiếp xúc với những người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội thời bấy giờ gán cho là kẻ tội lỗi. Ngài không ngăn cấm họ năng lui tới nơi Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài còn cùng ăn uống đồng bàn với họ. Những cuộc gặp gỡ giao tế này minh chứng rằng Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: trạng thái hiện tại của họ và trạng thái họ có thể trở nên tốt lành hơn trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dù đang sống trong tình trạng tội lỗi nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải, và những điều họ có thể trở nên minh chứng qua những hành động cụ thể sau đó. Thí dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa của ông Mátthêu. Là một người thu thuế, khi được Chúa gọi, ông đã bỏ bàn thu thuế đứng dậy và đi theo làm môn đệ Chúa. Hay qua sự hoán cải của một người thu thuế khác sau khi gặp gỡ Chúa và nghe Ngài dự định tới trọ nhà mình, ông Zakêu đã hứa là sẽ lấy nửa gia tài của mình mà phân phát cho những người nghèo và bồi thường gấp bốn cho những ai ông đã làm thiệt hại.
Chúa Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: "Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc". Như thế, đối với Chúa Giêsu, Ðấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi và rồi bị xếp loại vào những người bị kết án muôn đời.
Vậy, chúng ta đây còn chần chờ gì nữa. Hãy chỗi dậy kíp hoán cải để thống hối ăn năn thực lòng, để được Ngài âu yếm vỗ về và để cho các thánh trên trời đều reo vui như lời kết thúc của câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu: "Thật vậy, Ta bảo cho các ngươi rõ, các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại".
Lạy Chúa
Xin cho con được ý thức tình thương của Chúa trong đời sống con và luôn luôn quay trở về mỗi lần lầm lỗi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Thiên Chúa lo cứu kẻ lạc
“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác chiên lên vai.” Cũng thế tôi nói cho các ông hay: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai lấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 4-5.10)
Trong đám đông dân chúng có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Họ đã thấy việc Đức Giêsu làm và mau mắn đến nghe lời Người. Biệt phái và luật sĩ cậy mình là người công chính, họ rình xét Người và lẩm bẩm kêu: Ôi gương mù quá! Người nói nhân danh Thiên Chúa, lại đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với bọn ô uế.
Sáng kiến tìm chiên lạc:
Luôn luôn Thiên Chúa được giới thiệu như mục tử yêu mọi con chiên. Nếu lạc mất một con, mục tử để lại cả đoàn và đi tìm con chiên lạc với bất cứ giá nào và vác lên vai đưa về. Anh vui mừng biết bao và chia sẻ vui mừng với tất cả mọi người. Cũng vậy, một bà đánh mất một đồng bạc và hết sức quét nhà tìm cho được.
Đức Giêsu muốn chỉ cho thấy Thiên Chúa sáng kiến tìm đưa người tội lỗi về với Ngài trước, khi tìm được, Ngài tỏ lòng rất dịu dàng và thương xót an ủi họ. Trái lại, biệt phái loại họ khỏi cộng đồng hội thánh của Ít-ra-en, còn Thiên Chúa rất cảm động trước sự thống hối và tha thứ cho tội nhân, dẫn đưa họ về gia đình trong vui mừng.
Vui mừng tìm được chiên lạc
Niềm vui này, Thiên Chúa chia sẻ với mọi người, để họ nhận ra lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã nói qua ngôn sứ Ô-sê: “Tim Ta rạo rực trong Ta, cùng với lòng từ bi rung động … Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải là người, Ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi; Ta không đến với ngươi trong cơn thịnh nộ”. Chính vì Thiên Chúa không vứt bỏ những tội nhân, nhưng còn cảm thấy vui mừng lớn lao khi tha thứ cho họ, nên Đức Giêsu chăm lo cho họ và đồng bàn với họ. Những kẻ giả hình công chính phải lo ăn năn trở về, thay vì lẩm bẩm kêu trách. Như thế, họ sẽ không được chia sẻ sự vui mừng do lòng thương xót Chúa ban.
Dù ăn uống với những người tội lỗi, Người luôn luôn kêu gọi phải từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối trở về, Người chỉ cho thấy ai đáp lại lời kêu gọi này thì không bị cơn giận của Thiên Chúa đổ xuống, nhưng được vui mừng hưởng lòng thương xót và ân phúc cứu độ của Ngài.
RC
- 04/11 – Dứt khoát đi theo Chúa.
- 03/11– Bàn tiệc Nước Trời.
- 02/11 - Bên kia sự chết.
- 30/10 – Yêu thương là linh hồn của lề luật.
- 28/10 – Chọn lựa của Chúa
- 26/10 – Đừng giả hình.
- 23/10 - Phải biết suy xét cho chín chắn để tìm ra sự thật.
- 22/10 - NÉM LỬA XUỐNG TRẦN
- 21/10 – Người quản lý trung tín khôn ngoan.
- 20/10 – Tỉnh Thức.