Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 23 TN1
Bài đọc: I Tim 1:1-2, 12-14; Lk 6:39-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy học biết Thiên Chúa và biết chính mình.
Hoàng đế Napoléon, khi được hỏi đâu là bí quyết giúp ông chinh phục thế giới, đã để lại một lời khuyên khôn ngoan cho những ai muốn thành công trong cuộc đời: "biết mình, biết người; trăm trận, trăm thắng." Nhiều người thất bại vì không chịu biết mình, biết người; để rồi mang "châu chấu ra đá voi," hay "mang trứng ra chọi đá."
Các Bài Đọc hôm nay răn dạy con người phải "biết mình và biết người." Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô dạy môn đệ của Ngài là Timothy phải biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra những hoàn cảnh cụ thể để dạy các môn đệ phải biết mình trong mối tương quan với tha nhân: họ không thể dắt đường cho người khác nếu họ cũng bị đui mù; họ không thể chỉ trích phê bình người khác khi bản thân còn mang những tội lỗi lớn lao hơn của tha nhân. Vì thế, cần phải sửa mình, trước khi đủ thanh sạch để sửa sai cho người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy học biết Thiên Chúa.
1.1/ Lời của Phaolô cho Timothy, người môn đệ yêu quí: "Tôi là Phaolô, Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, và theo lệnh Đức Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, gửi anh Timothy, người con tôi đã sinh ra trong đức tin. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh ân sủng, lòng thương xót và sự bình an."
Qua hai câu chào đầu thư này, thánh Phaolô muốn cho Timothy nhận ra 2 điểm:
(1) Sứ vụ làm tông-đồ của Phaolô đến từ Thiên Chúa và từ Đức Kitô, chứ không phải do con người trao hay tự ý ngài muốn. Khi nói lên điều này, Phaolô muốn chuẩn bị cho Timothy hiểu biết về sứ vụ sẽ được trao cho sau khi được huấn luyện.
(2) Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi ơn lành mà Ngài ban xuống cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Ba hồng ân quan trọng mà người môn đệ cần, đó là: ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.
1.2/ Phaolô dẫn chứng bằng chính cuộc đời mình: Biến cố trở lại của Phaolô trên đường đi Damascus luôn là điểm khởi hành mà Phaolô hướng về trong mọi việc: suy tư thần học, áp dụng trong cuộc sống, và hôm nay, dùng để dạy dỗ và làm gương cho Timothy.
(1) Tất cả là hồng ân: Nhìn lại cuộc đời, Phaolô thấy rõ ông đã không tình nguyện để phục vụ Đức Kitô; nhưng chính Đức Kitô đã tin tưởng và trao cho ông sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Phaolô viết: "Tôi tạ ơn Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người." Đức Kitô chọn Phaolô không phải vì thấy ông tài giỏi để thi hành sứ vụ; nhưng chính Đức Kitô ban mọi ơn cần thiết để ông chu toàn sứ vụ: "Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người."
(2) Thiên Chúa ban ơn khi con người vẫn còn là tội nhân: Phaolô đã ý thức rất rõ về điều này khi ông thú nhận: "Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin." Chúa tỏ lòng thương xót khi con người vẫn còn là tội nhân. Chúa chọn con người không phải vì con người xứng đáng, nhưng chỉ vì tình yêu Ngài dành cho con người. Ngay cả đức tin cũng được ban cho con người, khi con người còn đang lầm đường lạc lối. Nói tóm, tất cả là hồng ân Thiên Chúa; con người chỉ cần nhận ra và đáp trả cân xứng để sinh lợi ích cho con người.
2/ Phúc Âm: Hãy học biết chính mình.
2.1/ Nhà lãnh đạo phải sáng suốt: Đây là một thực tế trong cuộc đời; nhưng không mấy người nhìn ra nhu cầu cần phải sáng suốt. Cha mẹ phải hướng dẫn con mình; nhưng cha mẹ có sáng suốt đủ để hướng dẫn con cái? Người mục tử phải hướng dẫn đoàn chiên; nhưng liệu người mục tử có sáng suốt đủ để hướng dẫn đoàn chiên mình? Ngay cả có nhận ra ai là chiên của mình đang cần sự hướng dẫn? Đức Giêsu nêu ra cho các môn đệ một hình ảnh: "Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?" Làm sao để trở thành nhà lãnh đạo sáng suốt?
(1) Phải học hỏi để biết: Để có kiến thức cần phải học, vì không ai có thể cho người khác điều mình không có! Hành nghề gì cũng đòi phải học hỏi và qua kỳ thi để có bằng cấp; nhưng nghề làm cha mẹ quan trọng như thế thì ít người chịu học hỏi và chẳng ai cấp bằng để hướng dẫn con cái; phần lớn đều trở nên cha mẹ cách bất đắc dĩ: có con là đương nhiên trở thành cha mẹ!
(2) Phải lắng nghe và học hỏi với Đức Kitô: Nguồn khôn ngoan quan trọng nhất là Kinh Thánh và những mặc khải của Đức Kitô. Đây phải là nguồn đầu tiên chúng ta phải học hỏi vì không ai có sự khôn ngoan bằng Thiên Chúa. Tại sao chúng ta không chịu học với Đức Kitô trước, mà lại đi học với Dear Abby, Dear Ann Lander, hay với Dr. Ruth? Chúng ta không phủ nhận kinh nghiệm khôn ngoan của con người; nhưng nó chỉ là nguồn phụ thuộc mà thôi. Nếu không có thời giờ, người khôn ngoan là người biết tìm tới nguồn chính yếu để học hỏi sự thật, trước khi có thể nhận ra sự sai trái từ những nguồn phụ thuộc, nếu có.
(3) Phải có cái nhìn tổng quan về cuộc đời để nhận ra đâu là điều chính yếu từ bao điều phụ thuộc; nếu không sẽ dễ dàng chú trọng vào cái phụ thuộc và bỏ qua mục đích của cuộc đời.
2.2/ Hãy khử trừ thói quen phê bình người khác: Hầu hết các thánh nhân và các bậc thánh hiền đều khuyên con người "hãy biết mình trước." Khi nào thấy mình thập toàn rồi, mới dám nghĩ tới việc sửa lỗi người khác, để tránh tình trạng "chân mình còn lấm bê bê; mà cầm bó đuốc mà rê chân người."
Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ: "Sao anh thấy cái vỏ trấu trong con mắt của người anh em, mà cái thanh gỗ trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái vỏ trấu trong con mắt anh ra!" trong khi chính mình lại không thấy cái thanh gỗ trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái thanh gỗ ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái vỏ trấu trong con mắt người anh em!"
Khi một người năng xét mình, họ sẽ nhận ra họ cũng có bao tội lỗi và khuyết điểm cần phải sửa, nhiều khi còn to lớn và xấu xa hơn tội của tha nhân gấp bội; nên họ cảm thấy xấu hổ khi phải phê bình người khác. Ngược lại, người không năng xét mình hay xét mình không kỹ, họ cảm thấy mình tốt lành; và vì thế, họ năng xét tội và phê bình tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học hỏi để biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta có được là hoàn toàn từ Thiên Chúa. Đừng bao giờ đánh cắp hồng ân Thiên Chúa làm thành công trạng của chúng ta.
- Chúng ta học hỏi để biết mình trong mối tương quan với tha nhân. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh việc chỉ trích và phê bình tha nhân; nhất là những người chúng ta không có trách nhiệm. Năng xét mình cẩn thận sẽ giúp chúng ta chừa được tật xấu này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 23 TN1, Năm B
Bài đọc: Col 3:12-17; Lk 6:27-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bắt chước Đức Kitô để sống đời trọn lành.
Đạo không phải chỉ là những lễ nghi bên ngoài, nhưng là con đường nên trọn lành. Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những lý do và dạy chúng ta trở nên trọn lành. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô đưa ra những lý do tại sao phải nên trọn lành: vì người tín hữu đã được tuyển chọn, thánh hiến, và yêu thương. Trong Phúc Âm, người tín hữu đã được trang bị để yêu kẻ thù bằng tình yêu Thiên Chúa đã phú bẩm trong tâm hồn; để họ có thể trở nên trọn lành như Cha trên trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, thánh hiến, và yêu thương.
1.1/ Hãy tập luyện để sống nhân đức.
(1) Các tín hữu có khả năng để sống tốt lành: vì họ đã được tuyển chọn, thánh hiến, và yêu thương trong Đức Kitô. Họ đã được tuyển chọn để trở thành môn đệ của Đức Kitô và nghĩa tử của Thiên Chúa nhờ niềm tin vào Đức Kitô. Họ đã được thánh hiến qua hai giai đoạn: được thanh tẩy sạch mọi tội lỗi nhờ Máu Đức Kitô và được trang bị bằng 7 hồng ân của Thánh Thần để sống đời trọn lành. Họ đã được Thiên Chúa yêu thương bằng tình yêu Thiên Chúa; và chính nhân đức yêu thương này giúp các tín hữu có thể yêu thương mọi người.
Có những nhân đức Thiên Chúa ban trực tiếp cho con người như 3 nhân đức tin, cậy, và mến; có những nhân đức con người phải bỏ công luyện tập, điển hình là 4 nhân đức trụ. Gọi là 4 nhân đức trụ, vì con người phải đứng vững trên 4 cột trụ là: khôn ngoan, công bằng, can đảm, và tiết độ. Thánh Phaolô liệt kê 5 nhân đức mà người Kitô hữu phải có; đó là lòng thương cảm, tử tế, khiêm nhường, hiền hoà, và nhẫn nại. Năm nhân đức này đều là thành phần của 4 nhân đức trụ nêu trên.
(2) Hai nhân đức tối quan trọng:
+ Tha thứ: "Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau." Tha thứ luôn mang hai chiều kích của Thập Giá mà Đức Kitô là trung tâm: chiều dọc với Thiên Chúa và chiều ngang với tha nhân; không thể có chiều kích này mà không có chiều kích kia. Nếu một người đã được hòa giải với Thiên Chúa, mà vẫn không chịu hòa giải với anh em; mối hòa giải với Thiên Chúa sẽ trở thành vô hiệu.
+ Yêu thương: "Trên hết mọi nhân đức, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo." Đức bác ái chính là tình yêu Thiên Chúa chúng ta đã đề cập ở trên. Thánh Phaolô gọi đức bác ái là nhân đức cao trọng hơn hết mọi nhân đức, và là sợi dây liên kết mọi điều hoàn thiện. Không có nhân đức này, người tín hữu không thể trở nên trọn lành (I Cor 13).
1.2/ Hãy đặt Đức Kitô là trọng tâm của đời sống: Người Kitô hữu có sự bình an của Đức Kitô, vì họ đã được Ngài hòa giải với Thiên Chúa, và với mọi người. Thánh Phaolô mong ước các tín hữu hãy để sự bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn; vì trong một thân thể duy nhất, họ đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó.
Người Kitô hữu là môn đệ của Đức Kitô; vì thế họ phải để những lời dạy dỗ của Đức Kitô ngự giữa tâm hồn thật dồi dào phong phú. Họ phải dùng những lời của Đức Kitô để dạy dỗ và khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, họ phải đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thánh Thần linh hứng. Nói tóm, họ phải nhân danh Đức Kitô làm mọi sự như Phaolô khuyên nhủ: "Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha."
2/ Phúc Âm: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em.
Trước tiên, chúng ta cần phân biệt 3 động từ yêu trong Hy-lạp: Thứ nhất, eran, để chỉ tình yêu trai gái; thứ hai, philein, để chỉ tình yêu giữa những người trong gia đình, hay tình bằng hữu; sau cùng, agapan, để chỉ thứ tình yêu chỉ có trong khuôn khổ của Kitô Giáo. Chúng ta đã đề cập đến thứ tình yêu này khi đề cập đến đức bác ái ở trên.
2.1/ Yêu kẻ thù: chỉ có thể được đòi hỏi nơi những người môn đệ của Đức Kitô; vì họ đã được trang bị làm chuyện đó. Chúa Giêsu không đòi chúng ta yêu kẻ thù với tình yêu trai gái hay tình yêu gia đình, vì làm như vậy là đi ngược lại tự nhiên; nhưng Ngài đòi chúng ta yêu kẻ thù bằng tình bác ái, vì Ngài đã phú bẩm vào linh hồn chúng ta nhân đức bác ái này, mà chúng ta thường gọi là đức mến, một trong ba nhân đức đối thần.
(1) Những điều cần làm cho kẻ thù: Yêu kẻ thù không phải chỉ xảy ra trong tư tưởng; mà phải được biểu tỏ bằng hành động cụ thể. Đức Kitô liệt kê một số điều cần làm:
- Làm ơn cho kẻ ghét anh em;
- Chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em;
- Cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em;
- Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa;
- Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong;
- Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.
Nói tóm, nếu chúng ta muốn người ta làm gì cho mình, thì chúng ta cũng hãy làm cho người ta như vậy.
(2) Tại sao phải yêu thương kẻ thù: là để trở nên tốt lành như Cha trên trời là Đấng Tốt Lành, và để được phần thưởng đời sau. Chúa Giêsu đưa ra 3 lý luận:
- Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ.
- Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế.
- Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng.
Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn, và hãy cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác. Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.
2.2/ Đừng xét đoán tha nhân nhưng hãy rộng lượng cho đi: Con người dễ xét đoán tha nhân theo những gì xảy ra bên ngoài; nhưng Chúa Giêsu truyền: "Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha." Đây là luật tổng quát cho mọi người; nhưng có những người có nhiệm vụ phải xét đoán như: các nhà lãnh đạo tinh thần, cha mẹ, bề trên... Khi phải xét đoán, những người này phải có đủ bằng chứng, phải hiểu rõ hoàn cảnh, và nhất là phải biết xét đoán cách rộng lượng như lời Chúa dạy: "Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì đã được tuyển chọn, thánh hiến, và yêu thương, chúng ta không thể sống như một người tầm thường, nhưng cần tập luyện để sống đời nhân đức như Đức Kitô đã dạy.
- Yêu thương kẻ thù không phải chỉ là lời khuyên, mà là một lệnh truyền. Chúng ta đã được trang bị để có thể yêu thương kẻ thù.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 23 TN1
Bài đọc: Col 3:1-11; Lk 6:20-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống như Đức Kitô đã dạy.
Có nhiều tín hữu chỉ có đạo trên danh nghĩa, vì đã lãnh nhận Phép Rửa Tội; nhưng không chịu thi hành những gì Đức Kitô giảng dạy. Một cuộc sống như thế có giúp cho phần rỗi linh hồn họ không? Chúa Giêsu trả lời rất rõ ràng: "không phải tất cả những ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà được vào Nước Trời; nhưng chỉ có những ai lắng nghe và thực hành Lời Chúa."
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc giải thích tại sao con người cần sống đạo bằng cách thực hành Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Colossê: tuy họ đang sống nơi hạ giới, nhưng họ không được sống theo tiêu chuẩn và giá trị của hạ giới; mà phải luôn hướng lòng lên và sống theo tiêu chuẩn và giá trị của thượng giới. Lý do vì họ đã được chịu Bí-tích Rửa Tội. Trong Phúc Âm, thánh Luca mô tả thế nào là đời sống mới trong Đức Kitô bằng 4 mối phúc thật và 4 mối khốn khổ. Đức Kitô đã đảo lộn hoàn toàn tiêu chuẩn đánh giá trị của thế gian: những gì thế gian cho là phúc, Ngài cho là khốn khổ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hai tác động của Bí Tích Rửa Tội
Để hiểu những gì thánh Phaolô muốn dạy các tín hữu Colossê, chúng ta cần hiểu thần học ngài dạy về Bí-tích Rửa Tội: Khi được dìm mình trong nước, chúng ta dìm mình trong cái chết của Đức Kitô; và khi chúng ta trồi lên, chúng ta được chung hưởng vinh quang phục sinh với Ngài. Vì thế, hai ứng dụng trong đời sống mà các tín hữu phải làm:
1.1/ Giết chết những gì thuộc hạ giới: Vì được dìm mình trong nước Rửa Tội, các tín hữu phải rửa sạch các tội của mình. Ngài liệt kê những tội người tín hữu phải khai trừ: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu, và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng. Phải từ bỏ những giận dữ, nóng nảy, độc ác, thoá mạ, và ăn nói thô tục. Người tín hữu không còn được sống theo ý mình, nhưng phải tìm ra và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Họ phải sống theo sự thật, không được sống theo sự giả trá. Họ phải sống hiệp nhất và bác ái với mọi người; không được phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di hay mọi rợ, nô lệ hay tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người.
1.2/ Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới: Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi việc lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội là mặc lấy Đức Kitô. Khi mặc lấy Đức Kitô, các tín hữu phải sống cuộc sống mới như Đức Kitô sống: theo tiêu chuẩn của Nước Trời và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Thánh Phaolô khẳng định về lối sống của chính Ngài: Tôi sống, nhưng không còn là tôi; nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi.
2/ Phúc Âm: Khốn khổ dưới mắt con người lại là phúc thật trước mặt Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu sống và rao giảng Tin Mừng này cho những con người hôm nay, không biết có mấy người dám theo Ngài; vì Ngài đảo lộn hoàn toàn nấc thang giá trị của thế gian. Những gì con người cho là phúc, Ngài cho là khốn; và những gì con người cho là khốn, Ngài lại cho là phúc.
2.1/ Nghèo khó: Người thế gian thích được giầu có, vì "có tiền mua tiên cũng được." Họ tìm mọi cách thức và dùng mọi thời gian để tích trữ của cải, sao cho không phải làm ăn hay lo lắng gì cả trong suốt cuộc đời còn lại của họ; trong khi đó, Đức Giêsu lại dạy các môn đệ: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em."
Chúa Giêsu biết rõ bản chất con người: của cải anh em ở đâu, lòng trí anh em ở đó. Nếu của cải của con người đặt trên những giá trị vật chất, lòng trí của họ đâu còn mơ tưởng những giá trị tinh thần. Khi con người không chú trọng đến của cải vật chất, họ sẽ có nhiều thời gian để đi tìm những giá trị tinh thần.
2.2/ Đói khát: Người thế gian không những thích ăn no, mà còn thích ăn ngon; trong khi Chúa Giêsu dạy: "Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng."
Chúa Giêsu chắc chắn không cổ động sự nghèo đói, vì Ngài đã hai lần làm phép lạ để nuôi dân chúng khi họ không có bánh ăn. Mối phúc này có liên hệ với mối phúc thứ nhất, và điều Chúa Giêsu muốn nói tới không phải là sự đói khát vật chất mà là sự đói khát về tinh thần. Khi con người đã có đầy đủ mọi sự, họ không cảm thấy nhu cầu cần đi tìm Thiên Chúa; nhưng khi con người đói khổ, họ sẽ biết chạy đến với Chúa để xin Ngài lấp đầy những thiếu thốn. Thực tế nhiều lần chứng minh: khi con người đói khổ, họ biết chạy đến với Chúa; khi con người no lòng thỏa dạ, họ bỏ Chúa để chạy theo những thú vui bất chính, và thờ lạy đủ mọi tà thần.
2.3/ Than khóc: Người thế gian rất sợ bệnh tật, đau khổ, và chết chóc; trong khi Chúa Giêsu dạy: "Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười."
Một câu hỏi mà con người luôn thắc mắc: "Tại sao Thiên Chúa uy quyền và nhân lành lại để đau khổ, bệnh tật, chết chóc xảy ra cho con người; nhất là xảy ra cho người ''vô tội"?" Khi cuộc đời toàn mầu hồng, rất ít người nghĩ tới việc cám ơn những hồng ân Thiên Chúa đổ xuống trên cuộc đời mình. Họ coi đó là bổn phận Thiên Chúa phải làm. Nhưng khi phải đương đầu với đau khổ, họ trách cứ Thiên Chúa không thương và không chu toàn bổn phận. Lẽ ra, thay vì trách Thiên Chúa, họ phải đấm ngực trách mình; vì đã không sống đúng như những người thụ ơn. Khi để đau khổ xảy ra, Thiên Chúa cho con người nhận ra chân lý: con người không thể sống thiếu Thiên Chúa.
2.4/ Bị truy tố: Con người thích được người khác nghe lời và mến chuộng; trong khi Chúa Giêsu dạy: "Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế."
Khi chọn lối sống của người môn đệ Đức Kitô, chúng ta đã chọn con đường tử đạo; vì nó khác xa lối sống của người thế gian. Người thế gian chú trọng đến sự giả hình, trong khi Đức Kitô dạy phải chú trọng đến sự thành thật. Họ thích được khen ngợi cho dù chẳng có điều gì đáng khen và cần được thanh tẩy bao tội lỗi trong tâm hồn. Ngôn sứ của Thiên Chúa phải nói những sự thật, nhưng họ không sẵn sàng chấp nhận sự thật; vì thế, việc họ truy tố ngôn sứ là chuyện đương nhiên.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không được sống theo tiêu chuẩn và giá trị của hạ giới; nhưng phải hướng lòng trí lên trời để tìm và sống theo những tiêu chuẩn và giá trị của thượng giới.
- Chắc chắn chúng ta sẽ phải trả giá đắt cho lối sống này, nhưng sẽ tìm được niềm vui trong tâm hồn, vì đã sống theo những gì Đức Kitô răn dạy, và được bảo đảm cho phần rỗi linh hồn mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Kính Sinh Nhật Đức Mẹ
Bài đọc: Mic 5:1-4a; Mt 1:1-16, 18-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế.
Vào năm 431, Giáo Hội nhóm họp Công Đồng tại Thánh Đường Đức Mẹ Maria tại Ephesus, để tuyên bố tín điều "Đức Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa." Lý do có tín điều này vì giám-mục Nestorius của Constantinople, tuy công nhận Chúa Giêsu mang hai bản tính: Thiên Chúa và nhân loại; nhưng vì bản tính nhân loại bị ảnh hưởng bởi tội lỗi, nên Đức Mẹ chỉ là Mẹ Đức Kitô, chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc tìm về nguồn gốc của Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Micah nói trước 700 năm về sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai: Ngài thuộc giòng tộc của vua David; tuy sinh ra trong thời gian, nhưng Ngài có trước từ đời đời; và tuy sinh ra trong thân phận con người, nhưng Ngài dùng uy danh của Thiên Chúa mà cai trị nhân loại. Trong Phúc Âm, Matthew bắt đầu Tin Mừng với gia phả đầy đủ của Đức Kitô, kéo dài cho tới vua David, tới tổ-phụ Abraham. Đức Kitô tuy sinh ra trong gia phả con người; nhưng không theo cách thức con người, vì Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Thánh Thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.
1.1/ Lời tiên đoán của tiên-tri Micah về Đấng Cứu Thế: Tiên-tri Micah sống khoảng 700 BC, nói về nơi xuất hiện của Đấng Cứu Thế: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem Ephrathah, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel." Bethlehem là chỗ sinh trưởng của vua David, cách khoảng 7 km về phía Nam của Jerusalem. Vua David thuộc chi tộc Judah. Ephrathite là một thị tộc nhỏ bé nhất của chi tộc Judah, thị tộc này định cư ở Ephrathah.
Tiên-tri Micah tiên đoán Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong tương lai; "nhưng nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa." Gioan Tẩy Giả cũng tuyên bố về Đấng Cứu Thế như sau: "Người đến sau tôi; nhưng có trước tôi" (Jn 1:15). Cả hai đều có ý muốn nói về Đấng Cứu Thế như sau: xét về nguồn gốc, Đấng Cứu Thế hiện hữu trước; nhưng xét về thời gian sinh ra, Ngài có sau. Trong Tin Mừng Matthew, khi ba nhà đạo sĩ từ phương Đông mất ánh sao dẫn đường, họ vào Jerusalem để hỏi về nơi sinh của vua dân Do-thái. Nhà vua cho triệu tập các thượng tế và kinh sư để tra cứu về nơi sinh của Đấng Cứu Thế, và họ tìm ra tại Bethlehem, xứ Judah, theo lời của tiên tri Micah đã viết (Mt 2:5-6).
1.2/ Uy quyền của Đấng Cứu Thế: Tuy sinh ra như một con người; nhưng "Ngài sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người, mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất."
Những gì tiên-tri Micah tiên đoán về triều đại của Đấng Cứu Thế đều được hoàn tất bởi Đức Kitô. Ngài được Chúa Cha ban cho mọi quyền hành trên trời cũng như dưới đất; và Ngài
dùng quyền này để khống chế ma quỉ, sóng gió, chữa lành mọi bệnh tật, và tiêu diệt kẻ thù cuối cùng của con người là sự chết. Sau đó, Ngài sẽ lên ngôi cai trị, dân chúng sẽ được mọi sự lành bằng an, và triều đại của Ngài sẽ kéo dài đến vô tận.
2/ Phúc Âm: Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con vua David, con tổ phụ Abraham.
2.1/ Sự quan trọng của gia phả: Truyền thống Do-thái đề cao sự quan trọng của gia phả. Trong Cựu Ước, chúng ta gặp nhiều lần những đề cập đến gia phả (x/c Gen 5:1, 10:1, 11:10, 27). Sở dĩ người Do-thái quan trọng hóa gia phả là vì họ muốn xem ai thuộc giòng tộc hoàn hảo nhất, không bị ảnh hưởng bởi giòng máu ngoại lai. Khi một người bị quá nhiều giòng máu ngoại lai, người ấy có thể bị mất đặc quyền được gọi là người Do-thái, Dân Riêng của Thiên Chúa. Một thầy tư tế phải chứng minh mình thuộc giòng tộc của Aaron; và nếu thầy tư tế đó kết hôn, người đàn bà đó phải có gia phả rõ ràng, ít nhất là năm đời. Khi Ezra thành lập hàng tư tế sau khi từ chốn lưu đày trở về, ông đã từ chối chức tư tế của: con cái của Habaiah, con cái của Koz, và con cái của Barzillai; vì ông không tìm thấy gia phả của họ trong Thượng Hội Đồng (x/c Ezra 2:62).
2.2/ Những điều quan trọng tìm thấy trong gia phả của Đức Kitô: Gia phả của Ngài được chia làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn gồm 14 đời:
(1) Từ tổ-phụ Abraham tới vua David: Thời của tổ-phụ Abraham đánh dấu việc Thiên Chúa chọn dân tộc Israel và hứa sẽ ban cho ông con cháu đông đúc và dẫn vào Đất Hứa. Thời của vua David đánh dấu sự lớn mạnh của vương quốc Israel. Đây là thời đại hoàng kim của Israel, vì vua David đã thống nhất 12 chi tộc Israel, mở rộng bờ cõi và lên ngôi cai trị họ. Danh xưng của Chúa Giêsu là "Con vua David" đã được nhắc tới 58 lần bởi các nhân vật khác nhau trong Tân Ước, chứng tỏ người Do-thái rất quan tâm đến gia phả của Đức Kitô. Họ chờ đợi Đấng Thiên Sai, xuất thân từ giòng dõi vua David, sẽ đến giải phóng họ khỏi tay quân thù, và lên ngôi cai trị muôn đời.
(2) Từ vua David tới Thời Lưu Đày bên Babylon: Sau thời của David, vương quốc Israel bắt đầu xuống dốc: bắt đầu bằng việc chia đôi đất nước, chạy theo vua chúa và các thần ngoại bang, vương quốc miền Bắc bị rơi vào tay của vua Assyria năm 721 BC, vương quốc miền Nam bị rơi vào tay của vua Babylon năm 587 BC. Từ vua quan đến dân chúng đều bị dẫn đi lưu đày trong vòng 50 năm cho đến năm 538 BC, khi vua Ba-tư là Cyrus nghe lời Thiên Chúa phóng thích cho dân Do-thái được hồi hương.
(3) Từ Thời Lưu Đày bên Babylon đến Đức Kitô: Đây được coi là thời gian hy vọng vào Đấng Thiên Sai, mà nhiều ngôn sứ loan báo, sẽ đến. Ezra và Nehemiah lãnh đạo việc xây dựng lại Đền Thờ và khôi phục đất nước. Phần lớn người Do-thái chỉ quan tâm đến việc giải phóng đất nước khỏi tay quân thù; vì thế, họ chờ đợi một Đấng Thiên Sai uy quyền, sẽ dùng sức mạnh và quyền năng để tiêu diệt quân thù, và khôi phục địa vị cho vương quốc Israel như thời vua David.
2.3/ Thời đại của Đức Kitô, Đấng cứu Thế: Theo gia phả con người, Chúa Giêsu là con ông Giuse và bà Maria. Ông Giuse là con vua David và Chúa Giêsu cũng sinh ra tại Bethlehem, nơi mà vua David đã sinh ra. Trình thuật Matthew nói rõ Maria có thai là "do quyền năng Chúa Thánh Thần." Khi thấy Maria có thai trước khi hai ông bà về chung sống; ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con vua David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu."
+ Chính Chúa Giêsu sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ: Ngược lại với lòng mong muốn của đa số dân Do-thái về một Đấng Thiên sai uy quyền, sẽ đến giải phóng dân khỏi ách nô lệ của ngoại bang; Đức Kitô chấp nhận thân phận của một Đấng Thiên Sai đau khổ: chịu chết trên Thập Giá, để giải thoát toàn dân khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết.
+ Tất cả sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaiah: "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Isa 7:14). Bản Bảy Mươi dùng chữ "pathernon" để chỉ "trinh-nữ;" trong khi Bản MT, dùng chữ "almah:" có thể là một người phụ nữ trẻ hay một người đồng trinh. Truyền thống Công Giáo dùng cả Isa 7:14 và Mt 1:18 để xác tín: Mẹ Maria trọn đời đồng trinh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin các tín điều đã được nghiên cứu cẩn thận và được tuyên bố bởi Giáo-Hội qua các Công Đồng. Đừng để các lạc thuyết mê hoặc chúng ta.
- Thiên Chúa đã chuẩn bị cho nhân loại ngay từ đầu một Kế Hoạch Cứu Độ. Theo Kế-hoạch này, Đức Kitô sẽ đến trong thân xác con người để chuộc tội cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 23 TN1
Bài đọc: Col 1:24-2:3; Lk 6:6-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bổn phận của các tín hữu là xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô.
Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Đức Kitô là Người mang Kế-hoạch đến thành công qua việc nhập thể, mặc khải, dạy dỗ, huấn luyện các môn đệ, chịu chết để chuộc tội cho con người. Ơn cứu độ giờ đây là của mọi người, không phân biệt một ai cả. Nhưng để ơn cứu độ này hiện thực trong tất cả mọi người, họ cần tin vào Đức Kitô; và để tin vào Đức Kitô, Giáo Hội cần có nhiều nhà rao giảng. Bắt đầu từ một nhóm nhỏ là các môn đệ, Giáo Hội từ từ lớn dần và lan rộng khắp nơi, cho tới con số như ngày nay, và cần phải lan rộng hơn nữa cho tới khi mọi người đều tin vào Đức Kitô. Để được như thế, mọi thành phần trong Giáo Hội đều có bổn phận phải hy sinh và nỗ lực góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc làm cho các tín hữu nhận ra và góp phần vào việc xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô là Giáo Hội. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô vui mừng chịu đựng đau khổ cho việc xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô, qua việc rao giảng Tin Mừng. Ngài cố gắng hết sức để cho Tin Mừng thấm nhập, phát triển, và sinh hoa kết trái trong cuộc đời các tín hữu. Trong Phúc Âm, trong khi Chúa Giêsu tất tưởi rao giảng Tin Mừng và chữa lành khắp nơi, các kinh-sư và biệt-phái lại nhân danh Lề Luật của Thiên Chúa để cấm đoán Ngài không được chữa lành trong ngày Sabbath, và cố gắng tìm mọi cách để tiêu diệt Ngài!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Kitô, vì Giáo Hội, và vì anh em.
1.1/ Phaolô nhận ra trách nhiệm của mình: Trước khi có thể làm chứng cho Thiên Chúa, Phaolô cần xác tín niềm tin của mình.
(1) Phaolô nhận ra sự sai lầm của mình và nhận ra tình thương Thiên Chúa: Biến cố trên đường đi Damascus đã mở mắt cho Phaolô biết ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho người Do-thái, mà còn mở rộng cho tất cả Dân Ngoại, qua Kế Hoạch Cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói về Kế-hoạch này như sau: "Mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa. Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang."
(2) Lấy tình thương đáp trả tình thương: Được chữa lành khỏi mù lòa về phần xác cũng như phần hồn, Phaolô nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho ông. Ông nghĩ nếu Thiên Chúa và Đức Kitô đã yêu thương mình như thế, ông phải đáp trả tình thương bằng cách làm cho ơn cứu độ được hiện thực trong tất cả mọi người. Phaolô biết mình không thể làm lại gì cho Thiên Chúa, nên chú trọng vào việc xây dựng các chi thể trong một thân thể của Đức Kitô là Giáo Hội "Tôi đã trở nên người phục vụ Giáo Hội, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn."
(3) Đâu là những gian nan thử thách mà Đức Kitô còn phải chịu? Mặc dù Đức Kitô đã chiến thắng thần chết, sống lại vinh quang, và mang ơn cứu độ cho mọi người; nhưng Kế-hoạch Cứu Độ chưa hoàn tất cho đến khi mọi người đều được hưởng ơn cứu độ qua việc tin vào Đức Kitô. Để hoàn tất điều này, Đức Kitô trông chờ vào sự cộng tác của tất cả các tín hữu. Những đau khổ mà Đức Kitô còn đang phải chịu là: sự hững hờ của các tín hữu trong việc rao giảng Tin Mừng; những thái độ chống báng và các kế hoạch nhằm tiêu diệt đạo thánh Chúa; đời sống giữ đạo cách hời hợt của hàng giáo sĩ và các tín hữu ngăn cản việc làm chứng cho Tin Mừng; và sự chia rẽ giữa các giáo hội làm chia cắt thân thể của Đức Kitô.
1.2/ Phaolô tìm mọi cách để chu toàn sứ vụ được trao phó: Ngài nói: "Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi... Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh." Những việc làm chứng tỏ nỗ lực rao giảng Tin Mừng của Phaolô:
- Ngài rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi và trong một lúc: trong hội đường, ngoài phố chợ, trong khám đường, khi đối chất ... rao giảng dù thuận tiện hay không thuận tiện.
- Giúp đỡ mọi tín hữu để họ càng ngày càng trở nên hoàn thiện trong Đức Kitô: không chỉ bằng lòng với việc thiết lập các cộng đoàn, Ngài vẫn trở lại để thăm viếng khi có dịp, và viết thư để dạy dỗ và khuyên bảo mọi người.
- Lấy tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa để vượt qua mọi tranh chấp và ích kỷ cá nhân; để gìn giữ sự hiệp nhất trong Giáo Hội.
2/ Phúc Âm: Phải tuyệt đối tránh tất cả những gì ngăn cản không cho Nước Chúa trị đến.
2.1/ Tranh chấp cá nhân để hưởng lợi nhuận vật chất: Trình thuật Luca kể: Vào một ngày Sabbath, Đức Giêsu vào hội đường để giảng dạy. Ở đó có một người bị khô bại tay phải. Các kinh-sư và những người biệt-phái rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy trong ngày Sabbath không, để tìm được cớ tố cáo Người. Hội-đường Do-thái là nơi họ tụ tập lại để học hỏi Kinh Thánh và dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa; thế mà các kinh-sư và biệt phái là những nhà lãnh đạo trong dân lại lợi dụng hội đường, giờ thờ phượng, và nhân danh Thiên Chúa để rình rập và chờ cơ hội để tố cáo người ngay lành.
Lý do tại sao họ làm như thế là vì họ ghen tị về sư khôn ngoan và uy quyền của Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Gioan, họ sợ đến một ngày cả thế giới sẽ đi theo Ngài! Nếu thế giới chọn đi theo Chúa Giêsu, thế giới sẽ bỏ họ. Để ngăn cản con người đừng đến với Chúa Giêsu, họ dùng mọi thủ đoạn hèn hạ để tiêu diệt Ngài.
2.2/ Chúa Giêsu mạnh dạn sửa sai và tố cáo thủ đoạn của họ.
(1) Chúa Giêsu vạch ra những hiểu biết sai lầm: Chúa Giêsu thấu hiểu họ đang suy nghĩ như thế, nên bảo người bại tay: "Anh trỗi dậy, ra đứng giữa đây!" Người ấy liền trỗi dậy và đứng đó. Đức Giêsu chất vấn họ: "Tôi xin hỏi các ông: ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?"
Ngài muốn họ trở về nguyên lý nền tảng: Lề Luật làm ra là cho lợi ích và bảo vệ đời sống con người. Nguyên tắc nền tảng của luân lý là "làm lành tránh dữ, cứu mạng sống chứ không hủy diệt." Vì thế, không ai được nhân danh Lề Luật để giết hại hay từ chối làm điều lành trong ngày Sabbath.
(2) Chúa Giêsu can đảm làm chứng cho sự thật: Không một chút sợ hãi, Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: "Anh giơ tay ra!" Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường. Nhưng họ thì giận điên lên, và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giêsu không. Họ giận điên lên vì họ bị mất mặt trước đám đông; và giận quá mất khôn, họ không còn biết phân biệt và nhận ra sự thật nữa!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi tín hữu chúng ta đều có bổn phận mang Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa đến chỗ vẹn toàn, bằng cách làm cho mọi người đều có cơ hội để lắng nghe Tin Mừng.
- Chúng ta cần tránh tuyệt đối thái độ dùng Tin Mừng để mưu cầu lợi ích cá nhân. Đừng bao giờ làm cho người khác mất niềm tin vì cuộc sống phản Tin Mừng của chúng ta. Đừng bao giờ nhân danh Tin Mừng để chia cắt Nhiệm Thể của Đức Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 23 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Isa 35:4-7a; Jas 2:1-5; Mk 7:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy để Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi bệnh tật hồn và xác.
Con người bị bao vây bởi biết bao những nguy hiểm về phần hồn cũng như về phần xác. Về phần hồn, những chước cám dỗ của ma quỉ và thế gian làm con người xa lìa Thiên Chúa và sống theo những dục vọng của xác thịt. Về phần xác, con người phải đương đầu với các thiên tai bên ngoài như hạn hán, bão lụt, núi lửa, sóng gió, động đất, chiến tranh; thêm vào đó, các bệnh phần xác như mù, điếc, câm què. Khi phải đương đầu với những nguy hiểm này, con người dễ rơi vào hai thái độ:
(1) Từ chối Thiên Chúa: Tại sao một Thiên Chúa nhân lành lại để những đau khổ như thế xảy ra cho con người? Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ không tin Thiên Chúa; và tìm cách giải quyết theo cách thức trần gian.
(2) Nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc đời: Thiên Chúa để đau khổ xảy ra cho con người để họ nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời họ và biết yêu thương tha nhân hơn. Tục ngữ Việt-nam có câu: "có đau mắt mới biết thương người mù;" "có mù mới biết sự quí trọng của ánh sáng." Điều này xảy ra cho Phaolô khi ông bị té ngựa trên đường đi Damacus. Sau đó ông mới nhận ra sự mù lòa của mình và bắt đầu cuộc hành trình trở về với ánh sáng, và tin vào Đức Kitô. Chỉ Thiên Chúa mới có uy quyền giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm. Họ cần tin và chạy đến với Ngài để được chữa lành.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào những nguy hiểm con người phải đương đầu với, và cách thức để được chữa lành. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết với dân Do-thái khi họ sống trong cảnh lưu đày: Thiên Chúa chúng ta có thể làm được tất cả; vì thế, đừng sợ hãi và hãy trông cậy nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ đến và chữa lành tất cả. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu lên hai tội phần hồn cần được chữa trị là thành kiến và đối xử thiên vị. Đức Kitô là người giải phóng và chữa lành con người khỏi hai bệnh phần hồn này. Trong Phúc Âm, khi người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người vừa câm vừa điếc để xin Chúa Giêsu đặt tay trên anh, Ngài đã dẫn anh ta ra một nơi và chữa anh khỏi bệnh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Người sẽ đến cứu anh em.
1.1/ Lời loan báo Chúa sẽ đến để giải phóng dân Ngài: Hoàn cảnh lịch sử đàng sau lời loan báo này là cuộc lưu đày của dân Do-thái vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Sống trong nơi lưu đày, con cái Israel mất hết hy vọng: quê hương, Đền Thờ, và niềm tin nơi Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ đến để cứu dân Người khỏi cảnh lưu đày, nên ông loan báo tin mừng cho dân: "Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." Lời sấm này có thể áp dụng trong hai giai đoạn:
(1) Thiên Chúa giải phóng dân và cho hồi hương để tái thiết xứ sở và xây dựng lại Đền Thờ. Điều này xảy ra khi Cyrus, vua Ba-tư, phóng thích dân Do-thái, và cho họ hồi hương, bắt đầu vào năm 487 BC.
(2) Chính Đấng Thiên Sai sẽ đến để chữa lành mọi bệnh tật hồn xác cho dân. Điều này đã xảy ra khi Đức Kitô đến.
1.2/ Những gì sẽ xảy ra khi Thiên Chúa đến: Hình ảnh được mô tả ở đây gợi lại những gì khi Đức Kitô đến: "Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò." Và biến cố dân xuất hành của dân Do-thái ra khỏi đất nô lệ Ai-cập: "Có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra."
Những điều này xảy ra trên cả hai bình diện: thể lý khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh tật của thân xác như mù, què, câm, điếc; và tâm linh khi Ngài chữa lành các bệnh tật của linh hồn như kiêu căng, ganh tị, và giả hình.
2/ Bài đọc II: Anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, thì đừng đối xử thiên tư.
2.1/ Không được có thành kiến với người nghèo và đối xử thiên tư với người giầu: Theo tiêu chuẩn của thế gian, con người có khuynh hướng "tham phú, phụ bần;" nhưng đối với các tín hữu thì không được như thế. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: "Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư."
Ngài đưa ra một trường hợp thực tế: "Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này," còn với người nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó!" hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi đây!" thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?"
(1) Thành kiến: là những gì một người nghĩ về người khác mà không chịu suy xét cẩn thận xem có đúng hay không. Ví dụ, khi nhìn một người ăn mặc tồi tàn, họ vội kết luận là người đó nghèo; nhưng họ biết đâu có những người không muốn lệ thuộc vào thời trang, họ muốn ăn mặc đơn giản, và để dành tiền làm những chuyện khác hữu ích hơn. Hay khi các kinh-sư và biệt-phái đoán xét Chúa Giêsu, họ chỉ xét Ngài về nguồn gốc và gia cảnh, mà bỏ qua bao nhiêu những lời dạy dỗ khôn ngoan và uy quyền làm các phép lạ của Ngài. Thành kiến giam hãm họ trong cái nhìn thiển cận, và ngăn cản không cho họ nhận ra và tin vào Đức Kitô.
(2) Đối xử thiên tư: Tin thế nào sẽ hành động như vậy. Vì chỉ biết đoán xét theo cách thức bên ngoài; nên họ coi trọng người ăn mặc cách sang giầu và khinh thường những người ăn mặc nghèo nàn. Thực tế nhiều lần chứng minh tai hại của cách đoán xét bề ngoài; ví dụ, chọn lấy những người đẹp trai, giầu có, khỏe mạnh; để rồi khi khám phá ra tính lưu manh và phản bội thì đã quá muộn màng. Ngược lại, nhiều người tuy không có sự sang trọng bên ngoài, nhưng ẩn giấu một tâm hồn cao thượng và nhân từ, lại trở thành những người chồng hay vợ đảm đang và mang lại hạnh phúc cho gia đình.
2.2/ Thiên Chúa yêu thương kẻ khó nghèo: Để vạch ra cho các tín hữu biết sự sai lầm của những đoán xét bề ngoài, thánh Giacôbê lặp lại mối phúc đầu tiên của Bát Phúc mà Đức Kitô đã dạy: "Anh hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?"
+ Người có tinh thần nghèo khó không đặt niềm trông cậy vào bất cứ ai hay vật gì, nhưng chỉ biết trông cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Chính vì thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, họ được Ngài ban cho cả Nước Trời, mà tập hợp của các tài sản thế gian cũng không thể nào so sánh nổi. Chúa Giêsu đã đề cập đến điều này khi so sánh Nước Thiên Chúa như kho tàng giầu trong ruộng.
+ Chính Đức Kitô đã sống một cuộc đời khó nghèo trên dương thế: Ngài là Con Thiên Chúa, có trong tay mọi sự trên trời dưới đất; thế mà Ngài lại tự nguyện chọn sống khó nghèo: chọn sinh ra từ hai cha mẹ nghèo hèn, chọn nơi hang đá để sinh ra, chọn chết trần trụi trên Thập Giá, và để người ta chôn cất trong phần mộ không phải là của mình. Mục đích là để làm gương và cho chúng ta được trở nên giầu có, khi được hưởng ơn cứu độ.
3/ Phúc Âm: Đức Kitô làm việc gì cũng tốt đẹp cả.
3.1/ Chúa Giêsu làm trọn lời ngôn sứ Isaiah loan báo: Sau khi đã chữa lành con gái của người đàn bà dân ngoại xứ Phoenecia khỏi quỉ ám vì niềm tin vững chắc của Bà, Chúa Giêsu đi trở xuống biển hồ Galilee và vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Hai bệnh điếc và ngọng thường đi đôi với nhau. Để tránh cho anh khỏi bị xấu hổ trước đám đông, Chúa Giêsu kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Epphatha," nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
Tiên tri Isaiah trong Bài Đọc I đã nói trước những gì sẽ xảy ra khi Đấng Thiên Sai tới: "Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò." Đọc Tin Mừng, tất cả những điều này đã được làm nhiều lần bởi Chúa Giêsu. Ngoài ra, chính Chúa Giêsu cũng nhắc lại những lời tiên tri Isaiah nói về Ngài khi Ngài về Nazareth và giảng dạy trong hội đường (Lk 4:16-21).
3.2/ Chúa Giêsu không thích danh vọng và tiếng khen: "Đức Giêsu truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."
Thiên Chúa dựng nên con người và mọi sự đều rất tốt đẹp (Gen 1:31); nhưng tội lỗi của con người đã làm đảo lộn các trật tự của thiên nhiên và gây ra biết bao điều tai hại và sự chết. Nhưng Thiên Chúa đã có Kế Hoạch Cứu Độ cho con người qua Đức Kitô. Ngài hiện diện cùng Thiên Chúa khi tạo dựng, và chính Ngài sẽ khôi phục lại trật tự như ban đầu cho con người và cho vũ trụ, và sẽ trao lại vương quốc tốt đẹp cho Thiên Chúa.
Ngược lại với con người luôn tìm cách phá hủy và tiêu diệt, Ba Ngôi Thiên Chúa luôn tìm cách bảo vệ và chữa lành. Là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta có bổn phận noi gương các Ngài để luôn bảo vệ sự sống, tìm mọi cách để chữa lành, và tôn trọng những gì Thiên Chúa đã dựng nên.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người. Ngài không ngừng quan phòng mọi sự cách khôn ngoan, nhất là đã gởi Đức Kitô đến để chữa trị mọi vết thương hồn xác cho con người.
- Khi phải đương đầu với đau khổ trong thế gian, chúng ta đừng sợ hãi và ngã lòng trông cậy; nhưng hãy tin tưởng vững vàng nơi Thiên Chúa.
- Chỉ có Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới có thể giải thoát con người khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác. Không ai có thể thay thế vai trò của Ngài trong Kế Hoạch Cứu Độ.
- Noi gương Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên những người bảo vệ sự sống, và chữa lành những vết thương phần hồn cũng như phần xác cho con người; nhất là giới thiệu họ đến với Đức Kitô, để họ cũng tin vào Ngài và được chữa lành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:21-23; Lc 6:1-5.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần chú trọng đến những gì là chính yếu.
Nhiều người chỉ nhắm một cái lợi trước mắt mà không để ý đến cả đống cái hại sau lưng, hay vịn vào lề luật để vạch lá tìm sâu mà quên đi nguyên tắc căn bản và nền tảng đưa đến lề luật đó. Hậu quả là họ phải gánh lấy bao tai hại xảy đến trong tương lai. Vì thế, con người cần có thời gian để học hỏi, suy xét, và thảo luận trước khi làm bất cứ việc gì, để tránh lối nhìn thiển cận, một chiều, và quyết định độc đoán.
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đến việc tìm ra những điều nền tảng và quan trọng trong việc sống đạo. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô muốn các tín hữu Colossê tập trung vào Đức Kitô: những gì Ngài đã dạy dỗ và đã làm cho con người. Mục đích là để các tín hữu tập luyện các nhân đức để biết sống mỗi ngày một thánh thiện hơn, đức tin mỗi ngày một vững bền hơn, và đừng bao giờ mất niềm hy vọng vào Tin Mừng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu bênh vực các môn đệ của Ngài khi bị các kinh-sư và biệt-phái tố cáo đã vi phạm luật ngày Sabbath. Ngài nhắc nhở cho họ biết nguyên lý của ngày Sabbath là để phục vụ con người, và luật ngày Sabbath không áp dụng cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi đã được trở nên người phục vụ Tin Mừng.
1.1/ Đức Kitô phải là trọng tâm của đời sống Kitô hữu: Để hiểu tầm quan trọng của Đức Kitô, thánh Phaolô so sánh vận mạng của các tín hữu trước và sau khi họ tin vào Đức Kitô:
+ Trong quá khứ: "Xưa kia, anh em là những người xa lạ, là thù địch của Thiên Chúa vì những tư tưởng và hành động xấu xa của anh em."
+ Hiện nay: "Nhờ Đức Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được hoà giải với Người, để anh em trở nên thánh thiện tinh tuyền và không có gì đáng trách trước mặt Người."
Các tín hữu Colossê đa số là những người Hy-lạp và Dân Ngoại; vì trước kia họ không tin Thiên Chúa, nên cũng chẳng biết những gì Ngài dạy dỗ để sống. Hậu quả là họ sống trong tội lỗi theo những gì họ suy nghĩ. Nhưng nhờ việc rao giảng Tin Mừng của Phaolô, họ biết Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô; nên họ được máu Đức Kitô thanh tẩy mọi tội lỗi và được hòa giải với Thiên Chúa.
1.2/ Cần giữ vững đức tin và niềm hy vọng: Tuy đã được Đức Kitô thanh tẩy và hòa giải với Thiên Chúa bằng cái chết của Ngài, người tín hữu vẫn còn phải đương đầu với bao nhiêu cám dỗ hằng ngày của ba thù. Để có thể trung thành với Thiên Chúa cho đến giây phút cuối cùng, người tín hữu cần làm hai việc chính yếu sau đây:
(1) Đào luyện đức tin: Tuy đức tin là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người, nhưng con người có bổn phận làm cho đức tin tăng trưởng và vững chắc. Chúa Giêsu đã ví đức tin như hạt giống, cần phải chăm sóc để có thể thành cây và sinh hoa kết trái; nếu không được chăm sóc, hạt giống đức tin có thể bị ma quỉ lấy đi bất cứ lúc nào. Để đào tạo đức tin, con người cần học hỏi những gì Đức Kitô dạy dỗ và biết thực hành trong cuộc sống.
(2) Giữ vững niềm hy vọng: Theo Tin Mừng, niềm hy vọng cao trọng nhất của con người là được sống trường sinh và hạnh phúc bên Thiên Chúa sau cuộc sống tạm thời trên dương gian này. Giống như đức tin, ma quỉ có thể cất đi niềm hy vọng này bằng cách đưa ra những vinh quang hào nhoáng và danh vọng tạm thời. Để giữ vững niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu, con người cần tập sống theo tiêu chuẩn và giá trị của Nước Trời, theo Bát Phúc của Đức Kitô, và những gì Ngài dạy dỗ trong Tin Mừng. Nói tóm, điều cần thiết nhất trong cuộc đời là hiểu biết, sống, rao giảng, và làm chứng cho Tin Mừng.
2/ Phúc Âm: Luật ngày Sabbath làm ra là để phục vụ con người.
2.1/ Các môn đệ bị tố cáo vi phạm luật ngày Sabbath: Vào một ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. Khi mấy người Pharisees nhìn thấy, họ tố cáo: "Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày Sabbath?"
Theo truyền thống Do-thái, ngày Sabbath có nguồn gốc trong Sách Sáng Thế: sau khi Thiên Chúa hoàn tất việc tạo dựng trong sáu ngày, Ngài nghỉ ngơi ngày thứ bảy và truyền cho con người cũng phải nghỉ ngơi trong ngày đó. Tại sao Thiên Chúa muốn có ngày Sabbath? Có hai lý do chính:
(1) Để con người có thời giờ nghỉ ngơi sau sáu ngày vất vả làm việc: Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, Ngài biết và muốn con người có thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức. Không phải chỉ cho con người; mà các gia súc, cây cối, và đất đai cũng cần có thời gian nghỉ ngơi trước khi tiếp tục làm việc và sinh hoa kết trái. Nếu không biết nghỉ ngơi, con người dễ bị lao lực, bệnh tật, và không đem lại hiệu quả tốt đẹp.
(2) Để con người trau dồi đời sống tâm linh: Con người là tập hợp của linh hồn và thân xác. Trong ngày Sabbath, khi thân xác được nghỉ ngơi, linh hồn cần được nuôi dưỡng bằng các của ăn thiêng liêng như nghe Lời Chúa và chịu Mình Thánh Chúa để lấy nghị lực cho tâm hồn.
Nếu không biết tận dụng ngày Sabbath, con người sẽ tiếp tục làm việc, hay lãng phí thời giờ và nghị lực vào những cuộc ăn chơi vô bổ, để rồi chẳng những thân xác thêm mệt mỏi, mà linh hồn cũng bị đói khát những lương thực tinh thần. Truyền thống Do-thái có thói quen dành ngày Sabbath để học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện trong các hội đường.
Luật ngày Sabbath cấm làm việc xác là cho hai mục đích này, chứ không phải nhắm chi li đến những điều nhỏ nhặt, được làm hay không được làm trong ngày đó. Những chi tiết nhỏ nhặt là do con người thêm vào sau này.
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Luật ngày Sabbath không tuyệt đối, vì có những trường hợp ngoại lệ:
(1) Được làm việc nếu cần để có của ăn sinh sống: Giáo Hội ban phép cho những ai vì quá nghèo mà phải lao động kiếm ăn mới đủ sống. Đức Giêsu cũng đưa ra một trường hợp phải ăn để bảo toàn sự sống, ngay cả ăn thứ bị ngăn cấm: "Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách sao? Ông Đavít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi." Việc các môn đệ của Ngài phải ăn vì đói là điều được phép làm trong ngày Sabbath. Các Biệt-phái tố cáo các môn đệ làm việc xác, vì đã "bứt lúa," "vò trong tay," và "chuẩn bị" để có hạt lúa ăn.
(2) Luật ngày Sabbath không áp dụng cho Thiên Chúa: Chúa Giêsu tuyên bố với họ: "Con Người làm chủ ngày Sabbath." Thiên Chúa nghỉ ngơi không tạo dựng, nhưng Ngài vẫn quan phòng và điều khiển mọi sự việc trong vũ trụ; và Ngài quan phòng bằng theo sự khôn ngoan của Ngài, mà sự khôn ngoan của Thiên Chúa là chính Ngôi Lời. Chúa Giêsu có lý do để tuyên bố "Con Người làm chủ ngày Sabbath."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để biết những gì là chính yếu trong đạo thánh Chúa. Nếu chỉ bằng lòng với việc đọc kinh cho nhiều hay chú trọng đến các hình thức thờ phượng bên ngoài, chúng ta khó có thể phát triển mối liên hệ thâm sâu với Chúa và sống hài hòa với mọi người.
- Biết những gì là chính yếu cũng giúp chúng ta trong việc làm những quyết định khôn ngoan trong cuộc đời, và biết hướng dẫn người khác trong khi rao truyền Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:15-20; Lc 5:33-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần biết trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của mình.
Tin như nào sẽ sống như vậy. Ví dụ, nếu một người chỉ tin vào truyền thống của cha ông, họ sẽ chống lại tất cả những học thuyết mới lạ, vì chúng có thể đe dọa đức tin của họ. Tuy nhiên, các tín hữu cần tìm hiểu sự thật của những gì mình tin, để họ có thể trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của họ. Khi không trả lời được những câu hỏi do các lạc thuyết đề ra, nhiều người có đức tin yếu kém sẽ dễ chạy theo những lạc thuyết đó.
Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh vào sự hiểu biết của niềm tin. Trong Bài Đọc I, tác giả nhắc nhở các tín hữu phải nắm vững đức tin của mình vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, để có thể tránh được những ngụy thuyết chung quanh luôn đe dọa con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sửa sai quan niệm của các kinh-sư và biệt-phái về quan niệm ăn chay và cầu nguyện của họ. Mục đích của việc ăn chay cầu nguyện là để con người sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, chứ không phải để được khen ngợi, để chu toàn Lề Luật, hay vì bất kỳ lý do nào khác. Nếu các môn đệ đang có Thiên Chúa ở bên cạnh, họ không cần phải ăn chay. Họ sẽ ăn chay cầu nguyện khi Đức Kitô bị cất đi khỏi họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người.
1.1/ Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời: Col 1:9-14 là một Bài Thánh Ca cổ, được hát trong lúc hội họp hay thờ phượng trong những cộng đoàn tiên khởi để ca tụng Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Có học giả cho nguồn gốc của Bài Thánh Ca là để chống lại chủ thuyết Thuần Tri Thức (Gnosticism) rất thịnh hành thời đó trong quốc gia Hy-lạp. Một sự so sánh giữa những gì Giáo Hội dạy cho thấy sự đối nghịch hoàn toàn với chủ thuyết Thuần Tri Thức.
(1) Đức Kitô là Thánh Tử, là Ngôi Lời (Logos), là hình ảnh (eikon) của Thiên Chúa vô hình: thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa (Jn 14:9). Chủ thuyết Thuần Tri Thức cho Đức Kitô tuy cao hơn các tạo vật, nhưng không phải là Thiên Chúa vì mang trong mình chất liệu của con người; chỉ có Thiên Chúa là hoàn toàn không lệ thuộc vật chất.
(2) Đức Kitô là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo: Ngài là Lời, là sự không ngoan của Thiên Chúa. Trong trình thuật về tạo dựng của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán: "Hãy có!" tức thì mọi vật liền có. Do Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành, và không có Ngài, chẳng có vật gì được tạo thành (Jn 1:3). Thuyết Thuần Tri Thức không cho Thiên Chúa tạo dựng thế giới, mà thế giới được tạo thành bởi một vị thần ác, đối nghịch với Thiên Chúa.
(3) Thiên Chúa quan phòng mọi sự qua Đức Kitô vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Tất cả đều tồn tại trong Người." Thuyết Thuần Tri Thức cho vũ trụ tồn tại nhờ chính nó.
1.2/ Thiên Chúa cứu chuộc và hòa giải qua Ngôi Lời.
(1) Đức Kitô cứu chuộc con người: bằng cách đổ máu để thanh tẩy tội lỗi, làm cho con người khỏi chết, và cho con người được sống đời đời với Thiên Chúa bằng sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Thuyết Thuần Tri Thức cho con người được giải thoát khỏi nô lệ cho vật chất và đoàn tụ với Thiên Chúa nhờ kiến thức đặc biệt và bí mật mà chỉ có họ mới có thể cung cấp cho con người.
(2) Đức Kitô hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau: Ngài hòa giải con người bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá. Nhờ sự hòa giải này, con người có được sự bình an.
Thuyết Thuần Tri Thức không tin vào tội lỗi và vào sự hòa giải, vì Thiên Chúa không thay đổi và con người luôn xấu xa vì bị giam cầm trong thân xác.
2/ Phúc Âm: Tại sao môn đệ ông không ăn chay, cầu nguyện?
2.1/ Họ trách môn đệ Chúa Giêsu không năng ăn chay cầu nguyện. Họ nói với Người: "Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisees cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!"
Đức Giêsu trả lời họ: "Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó, họ mới ăn chay." Qua câu trả lời, Người muốn nhắn nhủ họ làm việc gì cũng phải có lý do, thời gian, và nơi chốn. Ăn chay, cầu nguyện là để con người sống gần gũi với Thiên Chúa, và bớt lệ thuộc vào vật chất. Các môn đệ của Ngài không cần phải ăn chay lúc này, vì họ đang có Thiên Chúa là chính Ngài. Khi nào Ngài xa lìa họ, bấy giờ họ mới ăn chay. Ăn chay, cầu nguyện phải bày tỏ tâm hồn thống hối bên trong, chứ không phải những việc làm bên ngoài để lấy tiếng khen, hay lấy làm tiêu chuẩn để phán xét người khác có đạo đức thành thật hay không!
2.2/ Phải có tinh thần mới để đón nhận mặc khải mới của Đức Kitô: Những người biệt-phái và kinh-sư khó có thể chấp nhận những giảng dạy của Đức Kitô, vì trí óc của họ đã quá quen với Lề Luật và lối sống vụ hình thức bên ngoài. Để có thể tiếp nhận những giảng dạy mới lạ của Đức Kitô, họ cần thay đổi cách nhìn về việc giữ đạo. Để họ nhận ra sự quan trọng của việc cần có một tinh thần cởi mở để lãnh nhận giảng dạy mới của Thiên Chúa, Đức Giêsu còn kể cho họ nghe một số các dụ ngôn:
(1) "Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ." Không ai dại dột đến độ không chịu mặc áo mới, mà lại xé ra lấy vải để vá vào áo cũ. Nếu làm như vậy, người đó sẽ là người không bình thường, và miếng vá sẽ càng ngày càng tệ hơn sau mỗi lần giặt.
(2) "Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới." Rượu mới có nồng độ mạnh hơn nên dễ làm căng thẳng bầu da cũ; vì thế, để tránh việc nứt bầu da và phí rượu, rượu mới phải được đổ vào bầu da mới.
(3) Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: "Rượu cũ ngon hơn." Các kinh-sư và biệt-phái là những người cố gắng bảo thủ các truyền thống của cha ông. Họ bị Chúa Giêsu ví là những người thích uống rượu cũ vì cho rượu cũ ngon hơn. Có một phần sự thực trong đó; nhưng đồng thời họ cũng phải biết mở lòng đón nhận những điều hay của các mặc khải và dạy dỗ mới đến từ Chúa Giêsu. Để có thể tiếp nhận những dạy dỗ của Ngài, họ phải thay đổi thái độ "truyền thống quá khích," họ mới có thể hiểu được những gì Chúa muốn nói.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để hiểu biết niềm tin của mình; nếu không đức tin của chúng ta dễ bị lung lay bởi các lạc thuyết hay khi người khác chất vấn niềm tin của chúng ta.
- Biết cắt nghĩa niềm tin rất quan trọng trong việc giáo dục đức tin cho những người chúng ta có trách nhiệm. Nếu không được giải thích thỏa đáng, con người dễ đánh mất niềm tin.
- Chúng ta phải biết gìn giữ các tinh hoa của truyền thống, nhưng cũng cần biết mở lòng đón nhận những cái mới của thời đại và hoàn cảnh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:9-14; Lc 5:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải khôn ngoan tìm ra và trung thành làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Nhiều người có khuynh hướng chỉ làm theo ý riêng mình, và rất khó chịu khi phải làm theo ý người khác; nhưng thực tế chứng minh, không phải lúc nào ý riêng mình cũng mang lại hậu quả tốt đẹp. Vì thế, con người phải luôn mở rộng tâm hồn, dùng khôn ngoan và hiểu biết để nhận ra và thi hành ý mang lại kết quả tốt đẹp nhất.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc khuyến khích con người tìm ra và thi hành thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Colossê có đủ khôn ngoan và hiểu biết để am thường thánh ý Thiên Chúa, và có sức mạnh để thực thi thánh ý của Ngài; vì hiệu quả của những người làm theo thánh ý Thiên Chúa là sẽ sinh hoa kết quả trong cuộc sống đời này, và sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa ở đời sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mở mắt, mở trí, và mở lòng cho Phêrô và các môn đệ nhận ra uy quyền, tình yêu, và thánh ý của Thiên Chúa cho các ông trong cuộc đời. Ngài muốn các ông đổi nghề: thay vì đánh cá, giờ chú trọng đến việc rao giảng Tin Mừng để chinh phục các linh hồn về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hiểu biết và làm theo thánh ý Thiên Chúa.
1.1/ Am tường thánh ý Thiên Chúa: Thánh Phaolô mở đầu Thư Colossê bằng lời cầu nguyện: "chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thánh Thần ban cho."
Để có thể am tường thánh ý Thiên Chúa, thánh Phaolô đề cập tới hai trong bảy quà tặng của Thánh Thần là khôn ngoan (sophia) và hiểu biết (synesis); chứ không phải bất kỳ sự khôn ngoan hay hiểu biết nào của con người. Khôn ngoan của Thánh Thần là khôn ngoan biết mọi sự theo kế hoạch của Thiên Chúa, và nhất là hướng về đích điểm của cuộc đời là được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Hiểu biết của Thánh Thần bao gồm việc làm sao biết áp dụng những khôn ngoan học được vào cuộc đời để sinh lợi ích cho mình và cho tha nhân.
Một khi đã tìm ra thánh ý của Thiên Chúa, con người cần thi hành thánh ý đó cho đến cùng, cho dù có phải hy sinh và chịu đựng gian khổ. Thánh Phaolô tin: "Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả."
1.2/ Làm theo thánh ý Thiên Chúa: sẽ đem lại cho con người hai phần thưởng.
(1) Sẽ sinh hoa kết quả: "Anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn." Sống theo thánh ý Thiên Chúa bảo đảm con người đi đúng đường và sinh lợi ích trong cuộc đời này.
(2) Sẽ được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa: Đức Kitô vừa là người mặc khải cho con người biết ý định của Thiên Chúa, vừa là người đổ máu ra để thanh tẩy tội lỗi cho con người. Nhờ Đức Kitô mà "anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi."
2/ Phúc Âm: Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.
2.1/ Sứ vụ giảng dạy và huấn luyện tông-đồ của Đức Kitô: Trình thuật kể: "Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Gennesareth, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông."
Dân chúng chen lấn nhau để có thể đến gần nghe Chúa Giêsu giảng dạy: Khao khát được lắng nghe Lời Chúa nằm trong bản năng của con người. Chúa Giêsu có ý cho Phêrô nhìn thấy sự khao khát của con người để được nghe Lời Chúa. Phêrô có thể đã quá bận rộn với công việc kiếm ăn, nên không còn nhạy cảm với nhu cầu này. Chúa Giêsu cũng đang có sẵn kế hoạch cho Phêrô, Ngài muốn ông đổi nghề thành kẻ thu phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa. Những gì ông có kinh nghiệm trong nghề chài lưới như: vất vả, kiên nhẫn ... sẽ giúp ông trong nghề thu phục linh hồn con người. Đây cũng là bài học cho các mục tử: phải đáp ứng nhu cầu căn bản này hơn hết các nhu cầu khác. Khi dân chúng không muốn nghe các mục tử giảng dạy, lý do có thể vì họ không hiểu hay không tìm được sự hấp dẫn của Lời Chúa qua cách thế giảng dạy của các mục tử.
2.2/ Đức Kitô chọn người để tiếp tục sứ vụ giảng dạy: Giảng xong, Người bảo ông Simon: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Simon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."
(1) Làm theo thánh ý Thiên Chúa: thách đố con người, trước tiên, phải bỏ ý mình. Là người có biết bao kinh nghiệm về chài lưới, vất vả cả đêm không bắt được con nào, và đã giặt giũ lưới xong; Phêrô giờ phải làm theo ý của một người không có kinh nghiệm về chài lưới, lại bắt thả vào giờ cá không ăn, và trước bao nhiêu dân chúng và bạn đồng nghiệp. Tuy thế, Phêrô cũng vâng lời làm, không phải vì tin sẽ bắt được cá, nhưng vì lời truyền uy quyền của Chúa Giêsu.
Hiệu quả của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa: "Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm."
(2) Phản ứng của Phêrô và các bạn: Họ kinh ngạc khi chứng kiến mẻ lưới lạ lùng xảy ra. Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người thuyền chài kinh nghiệm, các ông không ngờ trên đời còn có người hiểu biết và kinh nghiệm hơn mình. Đây lại là bài học cho con người nữa: Có khôn ngoan, hiểu biết và kinh nghiệm đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải mở lòng để học hỏi và đón nhận những tinh hoa của người khác mỗi ngày, nhất là những gì đến từ Thiên Chúa. Ngài vẫn không ngừng mở mắt con người để đón nhận những ngạc nhiên mỗi ngày. Người tự mãn bằng lòng với những gì mình có, sẽ không cần phải học hỏi, và sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội để trau dồi kiến thức trong cuộc đời.
Ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" Ông nhận ra Chúa Giêsu không phải là một con người bình thường, nhưng có uy quyền của Thiên Chúa. Ông cũng nhận ra Chúa Giêsu biết tất cả những gì ông suy nghĩ trước khi ông thả lưới bắt cá; vì thế, ông chấp nhận thân phận yếu đuối, hèn hạ của mình, và khiêm nhường quì gối xuống xin tránh xa ông. Bấy giờ Đức Giêsu lợi dụng cơ hội và bảo ông Simon: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta." Một khi đã nhận ra sự thật và tình yêu Thiên Chúa, con người chỉ còn một cách là bỏ hết mọi sự mà theo Người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi và cầu nguyện để xin Thiên Chúa cho chúng ta hiểu đâu là thánh ý Ngài muốn cho chúng ta trong cuộc đời; đồng thời xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta thực hiện.
- Hiệu quả của việc thực hiện thánh ý Thiên Chúa sẽ bảo đảm cho chúng ta sinh hoa kết quả ở đời này, và được chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 22 TN1
Bài đọc: Col 1:1-8; Lc 4:38-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mỗi người cần đóng góp một tay cho việc rao giảng Tin Mừng.
Có thể nói việc quan trọng nhất trong cuộc đời là làm sao cho mọi người có lòng tin yêu Thiên Chúa để họ có thể đạt được cuộc sống đời đời. Rao giảng Tin Mừng là điều thiết yếu để khơi dậy niềm tin yêu và hy vọng của con người vào Thiên Chúa. Nhưng một "cánh én không thể làm nên một mùa xuân," một người không thể làm hết mọi sự, Thiên Chúa cần mọi người chung sức trong việc rao giảng Tin Mừng. Vì thế, bổn phận của tất cả tín hữu, sau khi đã lãnh nhận niềm tin yêu, là góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng bằng nhiều cách khác nhau, tùy khả năng như: rao giảng, cộng tác với các người rao giảng, cầu nguyện và giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo, giúp các nhà rao giảng có sức khỏe để phục vụ Chúa cách đắc lực.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc cộng tác giữa Thiên Chúa và con người trong việc làm cho Tin Mừng được lan rộng đến mọi nơi. Trong Bài Đọc I, Phaolô dẫn chứng Tin Mừng có hiệu lực vì đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi cùng cộng tác với nhau trong việc khơi dậy và ban đức tin, cậy, mến cho con người. Ngoài ra, Thiên Chúa dùng con người để cộng tác vào việc tiếp tục rao truyền Tin Mừng. Phaolô có 2 cộng tác viên đắc lực trong việc rao giảng Tin Mừng là Timothy và Epaphras. Cộng đoàn Colossê có Epaphras, và chính họ cũng giúp đỡ lẫn nhau để củng cố và làm cho Tin Mừng được lan rộng. Trong Phúc Âm, Đức Kitô phải trở nên gương mẫu cho các nhà rao giảng Tin Mừng. Ngài không quản mệt nhọc rao giảng Tin Mừng trong các hội đường, chữa lành mọi vết thương hồn xác cho mọi người. Sau khi được chữa bệnh, bà nhạc của Phêrô đã mau mắn chỗi dậy phục vụ các sứ giả của Tin Mừng bằng cách chuẩn bị bữa ăn cho các ngài. Khi được yêu cầu để ở lại, Chúa Giêsu đã từ chối và tiếp tục lên đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tin Mừng hiệu nghiệm là do sự cộng tác giữa Thiên Chúa và con người.
1.1/ Tin Mừng có sức mạnh lan rộng vì đến từ Thiên Chúa.
(1) Ân sủng của Chúa Cha: Tin Mừng trước tiên là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người: Ngài ban Đức Kitô cho con người, và tạo mọi cơ hội cho con người gặp gỡ Đức Kitô. Ngài gởi Thánh Thần đến để soi sáng và thúc đẩy con người tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô nhận ra hồng ân cao cả này và tạ ơn Thiên Chúa Cha cho các tín hữu: "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ân sủng và bình an. Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, khi cầu nguyện cho anh em."
(2) Dạy dỗ bởi Đức Kitô: Đức Kitô đã thân hành xuống thế giảng dạy, và để lại những gì ngài giảng dạy qua các Tông-đồ, những người rao giảng Tin Mừng, và các Thánh-sử, những người ghi chép lại Tin Mừng.
- Tin Mừng có sức mạnh tạo nên ba nhân đức đối thần: tin, cậy, mến nơi con người: "Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Giêsu Kitô, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh; lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em."
- Tin Mừng có sức mạnh lan rộng đến toàn cõi đất: "Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì."
(3) Soi sáng và thánh hóa bởi Thánh Thần: Nhiều lần thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc làm cho các tín hữu tin vào Tin Mừng khi ngài nói: Không ai có thể tin vào Đức Kitô và gọi Thiên Chúa là Cha, nếu không được Thánh Thần tác động. Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn ban các đặc sủng cho cả người rao giảng lẫn người nghe. Hơn nữa, nguyên việc có thể hiểu Tin Mừng là tác động của Thánh Thần. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô quy lòng mến các tín hữu có được là quà tặng của Chúa Thánh Thần.
1.2/ Cần nhiều sứ giả cộng tác với nhau trong việc phục vụ Tin Mừng: Thiên Chúa, Đấng có thể làm tất cả, chọn con người cộng tác với Ngài trong việc loan truyền Tin Mừng. Con người phải cộng tác với Thiên Chúa và cộng tác với nhau trong việc làm cho Tin Mừng lan rộng đến mọi người và mọi nơi. Chỉ trong một đoạn Tin Mừng ngắn ngủi, Phaolô cho thấy sự cần thiết của việc cộng tác giữa người và người:
(1) Phaolô có Timothy, người anh em luôn cộng tác đắc lực với ngài.
(2) Cộng đoàn Colossê có Epaphras, người đồng sự yêu quý của Phaolô và là người thay thế Phaolô với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức Kitô.
(3) Các người trong cộng đoàn Colossê cộng tác với nhau.
2/ Phúc Âm: Đức Kitô nhiệt thành rao truyền Tin Mừng mọi nơi.
2.1/ Đức Kitô chữa lành mọi vết thương hồn xác cho con người.
(1) Chữa lành bà nhạc Phêrô: là do sự cộng tác của nhiều người: Phêrô, các bạn của Phêrô, Đức Kitô: "Đức Giêsu rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Simon. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà." Bà nhạc của Phêrô trở thành người phục vụ Tin Mừng sau khi được chữa lành: "Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài."
(2) Chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ."
Sứ vụ của Đức Kitô ngoài việc rao giảng Tin Mừng là diệt trừ ảnh hưởng của quỉ thần trên con người. Trong Tin Mừng, nhiều lần Ngài đã khử trừ chúng ra khỏi con người. Trong trình thuật hôm nay, trước khi quỉ xuất khỏi nhiều người, chúng la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa!" Nhưng Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Kitô.
2.2/ Tin Mừng cần được rao giảng mọi nơi: Khuynh hướng an toàn của con người là muốn giữ nhà rao giảng và chữa bệnh ở lại với mình, để sinh lợi ích cho cá nhân hay cho cộng đồng của họ. Vì thế, họ đi tìm Người; và khi đã tìm thấy Người, họ muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi." Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó." Và Người đi rao giảng trong các hội đường miền Judah. Đây phải là bài học quan trọng cho mọi người.
- Nhà rao giảng phải tiếp tục lên đường, tiếp tục cho đi cho tới khi hoàn tất sứ vụ Thiên Chúa trao. Nhà rao giảng không được phép ở lại một chỗ để tìm sự an toàn cho chính mình, đang khi con người đang khao khát được nghe Tin Mừng.
- Các tín hữu cần nhớ Tin Mừng cần được rao giảng cho mọi người và mọi nơi. Họ không thể ích kỷ chỉ biết giữ cho mình, vì giữ lại là sẽ mất. Họ phải tìm cách khích lệ và làm nhà rao giảng an tâm để tiếp tục lên đường, phần họ sẽ ở lại để củng cố và rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta là cộng tác với Thiên Chúa trong việc loan truyền Tin Mừng cho mọi người, sao cho tất cả đều được hưởng ơn cứu độ.
- Chúng ta có thể đóng góp vào công cuộc rao giảng Tin Mừng bằng nhiều cách: trực tiếp như rao giảng Phúc Âm, dạy học, viết bài, dạy giáo lý ... gián tiếp như đóng góp thời gian, tiền của, tài năng, công sức để giúp cơ hội cho những nhà rao giảng Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 01/9 Đoạn tuyệt với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa
- 31/8 Hy vọng vào cuộc sống trường sinh giúp con người diệt trừ bản ngã
- 30/8 Đâu là sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực
- 28/8 Sống yêu thương sẽ xây dựng gia đình và xóa tan mọi hận thù
- 28/8 Cách thức để đạt tới Nước Trời
- 26/8 Thi hành đồng nhất: việc làm bên ngoài và ý hướng bên trong
- 25/8 Trong ngoài như một; lời nói phải đi đôi với hành động
- 24/8 Đến mà xem
- 23/8 Phải biết làm các quyết định khôn ngoan trong cuộc đời
- 22/8 Thiên Chúa ghé mắt nhìn xem những người khiêm nhường phục vụ