Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“TÔI CHÍNH LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH”
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH NĂM B (26/04/2015)
[CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH:
Cầu cho Ơn Thiên Triệu Linh Mục và Tu Sĩ]
[Cv 4,8-12; 1 Ga 3,1-2; Ga 10,11-18]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Chúa Giê-su đã mượn hình ảnh “người chăn chiên và đoàn chiên” rất quen thuộc với người Do-thái để mạc khải về mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên!”
Chúa Ki-tô Giê-su không chỉ hy sinh mạng sống vì đoàn chiên và chăm lo cho đoàn chiên một cách trực tiếp mà ngài còn giao cho các Ki-tô hữu nhiệm vụ chăm lo cho đoàn chiên, thay cho ngài.
Ông William Barclay đã viết mấy dòng rất sâu sắc và cụ thể về sự việc ấy khi ông diễn giải ý nghĩa của giáo huấn “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô của Thánh Phao-lô:
“Chúa Giê-su không còn trong xác thịt trên trần gian này nữa, do đó, nếu Ngài muốn làm một việc gì trên đời này, Ngài phải tìm một người để làm công việc ấy.
Nếu Ngài muốn dậy dỗ một đứa trẻ, Ngài tìm một thầy giáo để dậy bảo nó.
Nếu muốn chữa lành một người bệnh, Ngài tìm một bác sĩ hay một nhà giải phẫu để làm công việc đó cho Ngài.
Nếu Ngài muốn kể lại một câu chuyện về mình, Ngài phải tìm một người để kể. Tóm lại chúng ta là thân thể của Chúa Ki-tô,
là những bàn tay để làm việc cho Ngài,
những bàn chân để chạy việc cho Ngài,
là tiếng nói để phát ngôn cho Ngài.
“Ngài không có tay, chỉ có đôi tay của chúng ta
để làm công việc ngày hôm nay của Ngài.
Ngài không có chân, chỉ có đôi chân của chúng ta
để dẫn người ta theo đường lối Ngài.
Ngài không có tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta
để nói với loài người rằng Ngài đã chịu chết như thế nào.
Ngài không có cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta
để đưa họ đến bên cạnh Ngài.”
(Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, NXB Tôn giáo 2008, trang 100)”
Cử hành LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH cách tốt nhất là chúng ta tham gia và chia sẻ công việc chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa, cho cả những người đã ở trong ràn và cho cả những người chưa thuộc về ràn của Chúa Ki-tô.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 4, 8-12): Không có một danh nào khác để chúng ta phải nhờ vào dang đó mày được cứu độ.
(8) Bấy giờ, ông Phê-rô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: "Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, (9) hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. (10) Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. (11) Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. (12) Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ."
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Ga 3,1-2): Thiên Chúa thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
(1) Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa -mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người. (2) Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 10,11-18): Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, (15) như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
(16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa
1°) Bài đọc 1 (Cv 4,8-12) là lời chứng hùng hồn của ông Phê-rô trước Thượng Hội đồng Do Thái gồm các thủ lãnh và kỳ mục trong dân. Tông đồ Phê-rô quả quyết chính nhờ Danh Đức Giê-su Na-da-rét mà ông đã chữa lành người què. Đấng mà Phê-rô nhân danh để làm phép lạ chính là người mà giới lãnh đạo Đền thờ đã giết hại bằng cách kết án trên cây thập tự. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho người trỗi dậy từ cõi chết để minh oan, siêu tôn người và trả lại cho người tất cả quyền năng mà người đã tự ý khước từ khi nhập thể làm người. Cái chết hy sinh trên thập giá chứng tỏ Đức Giê-su là Vị Mục tử nhân lành mà Chúa đã khẳng định trong Tin Mừng Gio-an.
2°) Bài đọc 2 (1 Ga 3,1-2) cho chúng ta biết Thánh Gio-an muốn các tín hữu tin vào Lòng Yêu Thương vô bờ vô bến của Chúa Cha. Bằng chứng của Tình Yêu ấy là Thiên Chúa Cha đã làm cho mọi người nên con cái của Người, trong và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa.
3°) Bài Tin Mừng (Ga 10,11-18) là lời khẳng định của chính Đức Giê-su về CHÂN DUNG đích thực của mình: “Chính tôi là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Mối liên hệ giữa mục tử và con hay đoàn chiên là gắn bó, mật thiết, sống động: con chiên hay đoàn chiên thuộc về mục tử, biết và nghe lời mục tử. Còn mục tử thì biết rõ từng con chiên một và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì con chiên và vì đoàn chiên của mình. Mục tử nhân lành tự ý, tự nguyện hy sinh mạng sống vì con chiên và đoàn chiên. Mục tử còn có rất nhiều chiên khác chưa tập trung cùng đàn mà còn tản mác khắp chốn khắp nơi, nên trong lòng Người còn nặng trĩu nỗi bức xúc phải tập hợp tất cả mọi con chiên vào một đàn duy nhất.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần:
* Phần thứ nhất là: Chúa Giê-su được Chúa Cha sai đền trần gian để yêu thương và chăm lo cho hết mọi người. Người đã hết lòng yêu thương, chăm sóc những kẻ thuộc về Người đến độ Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta. Vì thế chúng ta được mời gọi hãy đón nhận - với lòng biết ơn - sự yêu thương, chăm sóc và hy sinh của Chúa Giêsu và hãy có mối liên hệ mật thiết với Người.
* Phần thứ hai là: Mỗi Ki-tô hữu được mời gọi trở thành “mục tử nhân lành” đối với những người thuộc về mình hay được giao phó cho mình, tức có bổn phận yêu thương, chăm sóc và hy sinh cho những người ấy theo gương Chúa Giê-su đã yêu thương, chăm sóc và hy sinh mạng sống cho chúng ta và mọi người. Những người có chức thánh và những người có trách nhiệm hướng dẫn cộng đoàn thì có càng phải chăm lo cho người khác nhiều hơn.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương nên đã sai Con Một xuống thế làm người và làm Chúa Chiên Lành (Mục Tử) hy sinh mạng sống cho loài người, cho mỗi người được sống và được sống dồi dào trong ân nghĩa của Thiên Chúa.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để giúp mỗi người/cộng đoàn thực thi sứ điệp Lời Chúa một cách dễ dàng và cụ thể, xin hãy trả lời mấy câu hỏi sau đây:
- Tôi và cộng đoàn tôi nhận thức và trân trọng như thế nào vai trò và chức năng mục tử của Chúa Ki-tô Giê-su? của các người lãnh đạo khác trong cộng đoàn Giáo xứ, Giáo phận, Dòng Tu, Hội đoàn?
- Tôi và cộng đoàn tôi có cảm thấy hạnh phúc khi được là “những bàn tay để làm việc cho Chúa Ki-tô”, là “những bàn chân để chạy việc cho Ngài”, là “tiếng nói để phát ngôn cho Ngài” không?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI & HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Chính Tôi là Mục Tử nhân lành.” Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban các dân tộc trên thế giới mau chóng nhận ra Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành mà Cha đã sai đến trần gian để chăm sóc và chết thay cho hết mọi người và hết mọi dân tộc.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa noi guơng Chúa Giê-su Ki-tô là Mục Tử Nhân Lành mà yêu thương và chăm sóc những người Thiên Chúa Cha giao phó cho.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy đều ý thức địa vị cao quý là con Thiên Chúa mà họ đã được ban cho cách “nhưng không”.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ và tông đồ giáo dân để họ tìm hết cách đem mọi người về với Chúa Ki-tô.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủa Nhật IV Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 4:8-12; I Jn 3:1-2; Jn 10:11-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những nguồn sức mạnh vô biên tiềm ẩn nơi các tín hữu.
Người Kitô hữu, tuy bề ngoài cũng giống như bao nhiêu con người khác, nhưng họ có những nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi con người của họ; mà chính họ nhiều khi không ý thức là mình có hay không biết cách xử dụng chúng. Khi các tín hữu biết xử dụng các nguồn sức mạnh này, họ có thể chữa lành bệnh tật, cho người chết sống lại, khai trừ ma quỉ, vượt qua các khó khăn của cuộc sống, và đạt được đích điểm là cuộc sống muôn đời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong các nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi các tín hữu. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến Danh Đức Kitô mà các Kitô hữu tin tưởng, và mầm sống Phục Sinh mà họ đang mang trong mình. Thánh Phêrô dùng Danh Đức Giêsu Kitô để chữa lành người bại liệt, và Ngài quả quyết con người phải tin vào Danh này mới được ơn cứu độ. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan đề cập đến đặc quyền làm con Thiên Chúa của các tín hữu, và gia tài họ sẽ được thừa hưởng sau này. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành, Ngài đến để qui tụ tất cả con chiên lạc để bảo vệ chúng, và làm cho chiên được sống dồi dào. Người Kitô hữu có một người bảo vệ uy quyền, yêu thương, và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các tín hữu mang Danh Đức Kitô và mầm sống Phục Sinh nơi mình.
Người Kitô hữu chúng ta có một danh thánh quyền năng, mà không một danh nào trên địa cầu này có uy quyền như danh thánh đó. Danh mà thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê xác tín: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Phi 2:10-11).
1.1/ Nhân Danh Đức Kitô, Phêrô chữa lành bệnh: Thượng Hội Đồng chất vấn hai ông Phêrô và Gioan: “Các ông lấy quyền năng nào và nhân danh ai để chữa bệnh?” Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: "Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị.” Người Kitô hữu chúng ta không phải ai cũng có thể chữa bệnh như Phêrô, cha Piô, hay cha Bửu Diệp; nhưng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô có thể giúp chúng ta tránh những nguy cơ của bệnh tật và giúp chúng ta vui sống bình an với mọi người.
1.2/ Chỉ nhờ danh Đức Kitô, con người mới được cứu độ: Trên đồi Calgary, những người trong Thượng Hội Đồng tưởng rằng họ đã loại trừ Chúa Giêsu và tránh được hậu quả mà họ lo sợ là dân chúng bỏ họ mà theo Ngài, nhưng Phêrô nhắc nhở cho họ biết sự sai lầm của họ: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ." Chính Chúa Giêsu đã từng mặc khải điều này cho các môn đệ: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Jn 6:40). Bằng niềm tin vào Danh Đức Kitô, người tín hữu bảo đảm được hưởng cuộc sống muôn đời.
2/ Bài đọc II: Các tín hữu được hưởng đặc quyền làm con Thiên Chúa.
2.1/ Người tín hữu là con Thiên Chúa: Bằng niềm tin nơi Đức Kitô và chịu Phép Rửa, người tín hữu trở thành con Thiên Chúa, như thánh Gioan xác nhận: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Người Kitô hữu được hưởng đặc quyền này không phải do liên hệ máu mủ hay họ hàng, cũng không phải vì họ tốt lành hay đã làm nên công trạng gì; nhưng đơn giản là vì Thiên Chúa yêu họ, ban cho họ Người Con Một của Ngài là Đức Kitô, để họ có thể trở thành những người con nuôi của Ngài nhờ niềm tin vào Đức Kitô, như Gioan cắt nghĩa: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.”
Người tín hữu không phải là con của thế gian: Thế gian ở đây hiểu là những người không tin và chống lại Thiên Chúa. Khi người tín hữu tin Đức Kitô, họ đã thắng thế gian vì thế gian không tin Người; nhưng giá họ phải trả giá là thế gian sẽ ghét và truy tố họ, vì họ không chịu sống theo những tiêu chuẩn của thế gian. Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ điều này trước Cuộc Thương Khó của Ngài: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Jn 15:18-19).
2.2/ Quyền lợi của những người con Thiên Chúa: Gioan tóm gọn trong một câu đơn giản: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”
Trước tiên, người tín hữu được bảo đảm quyền sống lại và mang một thi thể Phục Sinh bất tử như Đức Kitô. Điều này gợi lại ý hướng của Thiên Chúa khi dựng nên con người giống hình ảnh và những đặc tính của Thiên Chúa (Gen 1:26), mà tội lỗi đã bôi bẩn và làm hoen ố con người. Đức Kitô đến không những để cất đi tội lỗi, mà còn thánh hóa các tín hữu bằng ơn thánh qua các Bí-tích, và khôi phục lại hình ảnh tốt lành và thánh thiện nguyên thủy của con người.
Thứ đến, các tín hữu được thừa hưởng những kho tàng vô cùng quí giá do Chúa Giêsu để lại. Chúng ta có thể tóm gọn trong 4 gia tài thánh:
(1) Toàn bộ Thánh Kinh về Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Đây là một kho tàng khôn ngoan mà không một Sách nào hay tất cả các khôn ngoan của thế gian có thể so sánh được. Nó cung cấp cho người tín hữu mọi giải đáp cho cuộc đời.
(2) Thánh Thần là nguồn mạch 7 ơn thiêng. Ngài họat động trong tâm hồn các tín hữu, và sẽ giúp các tín hữu hiểu sự thật, sống sự thật, và có can đảm làm chứng cho sự thật, giữa bao nhiêu sai trá và cám dỗ của thế gian.
(3) Thánh Giá là khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Thánh Giá giúp các tín hữu nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, và thúc đẩy họ chấp nhận và đi đường gian khổ như Chúa Giêsu, để mang sự sống cho bản thân và cho tha nhân.
(4) Thánh Thể là nguồn sức mạnh nuôi dưỡng các tín hữu, giúp họ luôn có cuộc sống thần linh trong tâm hồn, để có thể vượt qua mọi khó khăn và trở ngại trong cuộc sống.
3/ Phúc Âm: Các tín hữu được bảo vệ bởi Người Mục Tử Nhân Lành.
3.1/ Mục Tử Tốt Lành sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đòan chiên: Trong Tân Ước, Chúa Giêsu ví các tín hữu như chiên và Ngài như người chăn chiên hay Mục Tử. Trong Cựu Ước, tiên tri Ezekiel đã ví Israel như chiên và Thiên Chúa như người Mục Tử (Eze 34). Theo tiên tri, không phải các mục tử đều tốt lành, có những mục tử trong Israel không săn sóc và hướng dẫn chiên, mà chỉ để ý đến lông chiên và thịt chiên. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa quở trách họ và Ngài muốn chính Ngài là Mục Tử để chăn dắt chiên. Ba đặc tính về Mục Tử Tốt Lành Chúa muốn nêu bật trong trình thuật hôm nay:
(1) Sự khác biệt giữa Mục Tử Tốt Lành và người chăn chiên: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói rình đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.”
(2) Mục Tử Tốt Lành biết tất cả chiên của mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”
(3) Mục Tử Tốt Lành đến để tìm kiếm các chiên thất lạc và đưa về một đàn: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.”
Người tín hữu phải biết mình có một Mục Tử Tốt Lành luôn chú tâm săn sóc, hướng dẫn, và bảo vệ họ mọi giây phút trong cuộc đời. Điều cần là họ phải luôn lắng nghe, vâng lời, và làm theo những gì Ngài chỉ dạy, thì mới có thể được nuôi dưỡng, an vui, và tránh khỏi nguy hiểm.
3.2/ Mục Tử Tốt Lành có uy quyền hy sinh và cũng có uy quyền lấy lại sự sống: Các tín hữu không chỉ có một Mục Tử Tốt Lành, mà Ngài còn là một Mục Tử uy quyền. Chúa Giêsu cắt nghĩa: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được."
Nếu chúng ta chỉ có Mục Tử Tốt Lành biết yêu thương và hy sinh cho đoàn chiên thôi, điều đó chưa đủ, vì khi thế gian giết người Mục Tử Tốt Lành, đoàn chiên sẽ tan tác; nhưng chúng ta cần có một Mục Tử Tốt Lành và uy quyền, Ngài có thể tự mình sống lại và cứu đòan chiên khỏi chết. Chúa Giêsu là Mục Tử vừa tốt lành vừa uy quyền; Ngài yêu thương con người tới độ sẵn sàng hy sinh chết vì tội lỗi con người, và Ngài có uy quyền để sống lại từ cõi chết và phục hồi sự sống vĩnh cửu cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận ra và biết cách xử dụng những nguồn năng lực vô biên mà Thiên Chúa ban tặng, để sinh ích cho cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội.
- Chúng ta đừng khinh thường những sức mạnh mà mình đang mang trong mình; chúng có thể giúp chúng ta làm những điều vượt quá sức con người, như Sách CVTĐ đã chứng minh.
- Chúng ta là con Thiên Chúa, không phải là con cái thế gian; nên đừng sống theo tiêu chuẩn của thế gian. Với những nguồn sức mạnh của Thiên Chúa ban, chúng ta có khả năng chiến thắng mọi cám dỗ của ma quỉ và thế gian. Đừng sợ bất cứ một quyền lực nào, vì chúng ta được bảo vệ bởi người Mục Tử Tốt Lành, sẵn sàng thí mạng để bảo vệ chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Thánh Marcô Thánh Sử (Ngày 25 tháng 4)
Bài đọc: 1 Pet 5:5b-14; Mk 16:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành với sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Theo truyền thống, Marcô Thánh Ký được đồng nhất với John Mark (Acts 12:12, 25; 15:37; Col 4:10; 2 Tim 4:11; Phi 24). Thánh Phêrô trong bài đọc I hôm nay gọi Marcô là “con của ngài” (1 Pet 5:13). Marcô là anh em họ (anepsios) của Barnabas (Col 4:10), là con của bà Mary. Bà này là bạn với thánh Phêrô, sống tại Jerusalem (Acts 21:12), và là một thành phần quan trọng của giáo hội sơ khai tại Jerusalem. Chính tại nhà Bà mà thánh Phêrô đến, sau khi được sứ thần của Thiên Chúa giải thoát khỏi ngục tù (Acts 12:12-13).
Khi nạn đói xảy ra vào năm 45-46 AD, Barnabas và Phaolô sau khi đã hoàn thành sứ vụ tại Jerusalem, họ mang Marcô đi với họ trong hành trình trở về Antioch (Acts 12:25). Không lâu sau đó, khi bắt đầu hành trình truyền giáo thứ nhất, họ đem Marcô theo như một trợ tá (hupereten, Acts 13:5). Theo văn mạch ám chỉ, Marcô có thể đã giúp hai ông ngay cả trong việc rao giảng Tin Mừng. Khi hai ông tiếp tục cuộc hành trình từ Perga tiến vào trong vùng trung tâm của Asia Minor, Marcô bỏ hai ông và trở về Jerusalem (Acts 13:13). Tại sao Marcô trở lại Jerusalem, không ai biết rõ lý do; nhưng có thể Marcô sợ khổ cực (Acts 15:38). Phaolô không quên biến cố này, nên ông từ chối cho Marcô đi theo trong hành trình truyền giáo thứ hai. Sự từ chối này dẫn tới việc phân ly giữa Phaolô và Barnabas, Phaolô tiếp tục cuộc hành trình, Barnabas và Marcô xuống thuyền tới đảo Cyprus (Acts 15:37-40). Sau biến cố này (khoảng 49-50 AD), chúng ta mất dấu Marcô trong CVTĐ, cho tới khi Marcô xuất hiện khoảng 10 năm sau như một bạn đồng hành của Phaolô, và đi theo Phêrô tại Rôma.
Theo cuốn Lịch Sử Giáo Hội của Eusebius (III,39), viết khoảng năm 130 AD, đặt căn bản trên thế giá của một kỳ mục, Marcô là “người thông dịch” (hermeneutes) của Phêrô, và đã viết cách chính xác, mặc dù không theo niên lịch, giáo huấn của Phêrô. Nhiều người giả sử chàng thanh niên ở trần trốn chạy từ vườn Gethsemane là Marcô (Mk 14:51). Điều này có thể vì nhà mẹ của Marcô nằm trong Jerusalem và là nơi các môn đệ hay lui tới. Ngày chết của Marcô không chắc chắn, thánh Jerome cho là năm thứ tám của triều đại Nero (62-63 AD). Thánh Marcô là quan thầy của Alexandria, Ai-cập; và là quan thầy của thành phố Venice, nước Ý.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hội-thánh ở Babylon, và Marcô, con tôi, gửi lời chào anh em.
1.1/ Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.
Trình thuật hôm nay là phần khuyên nhủ và kết thúc Thư I của thánh Phêrô. Ngài tóm tắt những điều cần khuyên nhủ quan trọng tới các tín hữu.
(1) Hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định: Đây là đức tính quan trọng hàng đầu người tín hữu cần luyện tập; nếu không có đức tính này, họ sẽ dễ dàng rơi vào bẫy giăng của ma quỉ và sa ngã như ông Adam và bà Eva trong Vườn Địa Đàng
(2) Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em: Lo lắng làm con người bất an và nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa. Để diệt lo lắng, con người cần tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài bỏ rơi con cái trông đợi nơi tình thương của Ngài!
(3) Hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé: Tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa không có nghĩa con người không cần phải làm chi cả. Thánh Phêrô khuyên con người hãy tập luyện để biết sống tiết độ. Nói cách khác, con người cần tập luyện nhân đức mới có thể thắng vượt các chước cám dỗ của ba thù.
(4) Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế: Đức tin cần được thử thách bằng những gian khổ, ai cũng phải trải qua tiến trình rèn luyện để vượt qua những gian khổ. Người chiến thắng là người kiên vững trong đức tin cho dù phải gian nan, đau khổ, ngay cả phải chấp nhận cái chết.
1.2/ Phần thưởng của các tín hữu là cuộc sống mai sau: Các Kitô hữu phải chịu đau khổ để thử luyện đức tin trước khi được lãnh nhận vinh quang: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường.”
Ân sủng của Thiên Chúa đủ cho các tín hữu: Khi phải chịu thử thách nặng nề, thay vì kêu trách Thiên Chúa và tha nhân, các tín hữu cần chạy đến với Thiên Chúa để xin gia tăng ơn thánh, hầu có thể đứng vững trong đức tin. Thánh Phêrô, cũng như thánh Phaolô, tin chắc ơn thánh của Thiên Chúa ban đủ sức giúp các tín hữu vượt qua mọi trở ngại trong cuộc đời: “Tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em và làm chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em hãy sống vững vàng trong ân sủng đó.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ.
2.1/ Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa.
3.2/ Ban uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao giảng: "Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ:
(1) Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts 16:18)
(2) Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói tiếng của thổ dân trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-11)
(3) Tránh được nguy hiểm: "Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao."
(4) Chữa lành: "Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ." Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn đệ.
"Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trung thành theo Chúa đến cùng không phải là điều dễ dàng vì chúng ta phải đương đầu với ba kẻ thù nặng ký là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
- Để có thể vượt qua các thử thách, con người cần tập luyện nhân đức và cầu nguyện xin Thiên Chúa ban ơn thánh. Chúng ta phải trỗi dậy sau mỗi lần bị ngã và tiếp tục tiến bước. Ngoài ra, chúng ta cũng phải giúp nhau để trung thành trong ơn gọi của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần III PS
Bài đọc: Acts 9:1-20; Jn 6:52-59.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có thể làm chuyện không thể đối với con người.
Con người thường lấy những gì mình suy nghĩ để áp dụng cho Thiên Chúa. Họ quan niệm Thiên Chúa cũng giống như họ: nếu họ không thể làm được, Thiên Chúa cũng không thể làm được. Họ quên đi một điều là Thiên Chúa khác và vượt xa con người: Ngài làm được mọi sự và không có điều gì là không thể đối với Ngài. Tiên-tri Isaiah nhắc nhở con người phải luôn nhớ điều này: “Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Isa 55:9).
Các Bài Đọc hôm nay mở mắt cho chúng ta thấy những kỳ công Chúa thực hiện. Trong Bài Đọc I, Chúa biến đổi ông Saul từ một người Pharisees dữ dằn và khốc liệt truy tố các tín hữu, trở thành một người hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng chết để làm chứng cho Ngài; một điều không thể xảy ra với sức con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Tất cả những ai ăn thịt và uống máu Ngài sẽ được sống muôn đời; người Do-thái ngạc nhiên thắc mắc: “Làm sao ông ấy có thể lấy thịt cho chúng ta ăn được?”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa tạo cơ hội cho Saul ăn năn trở lại.
1.1/ Xung đột ý kiến giữa Thiên Chúa và Saul.
(1) Ý của ông Saul: Ông đi Damascus với mục đích là để đi bắt các tín hữu theo Đạo mới về để trị tội, như Sách CVTĐ tường trình: “Ông Saul vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Damascus, để nếu thấy những người theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Jerusalem.”
(2) Ý của Thiên Chúa: Ngài không ghét Saul đến nỗi phải tiêu diệt ông như thói quen của con người thường làm; nhưng Ngài muốn dùng lòng nhiệt thành của ông để rao giảng Tin Mừng của Ngài cho Dân Ngoại. Vậy đang khi ông đi đường và đến gần Damascus, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: "Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Ông nói: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Người đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì."
“Những người cùng đi với ông dừng lại, sững sờ: họ nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai. Ông Saul từ dưới đất đứng dậy, mắt thì mở nhưng không thấy gì. Người ta phải cầm tay dắt ông vào Damascus. Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn, chẳng uống.” Biến cố này được lặp lại 3 lần trong Sách CVTĐ vì là một biến cố quan trọng không những cho bản thân Saul, mà còn cho tất cả mọi người.
1.2/ Không ai có thể cưỡng lại ý muốn của Thiên Chúa.
(1) Làm sao một người bắt đạo như thế có thể ăn năn trở lại: “Bấy giờ ở Damascus có một môn đệ tên là Hananiah. Trong một thị kiến, Chúa phán với ông: "Hananiah!" Ông thưa: "Dạ, lạy Chúa, con đây." Chúa bảo ông: "Đứng lên, đi tới phố gọi là Phố Thẳng, đến nhà Judah tìm một người tên là Saul quê ở Tarsus: người ấy đang cầu nguyện.” Ông Hananiah thưa: "Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói về người ấy, về tất cả những điều ác người ấy đã làm cho dân thánh Chúa tại Jerusalem. Còn ở đây, người ấy được các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa."
(2) Kế họach của Thiên Chúa cho Saul: Nhưng Chúa phán với ông: "Cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Israel. Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta."
Ông Hananiah liền đi; ông vào nhà, đặt tay trên ông Saul và nói: "Anh Saul, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giêsu, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần."
Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saul, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu Phép Rửa. Rồi ông ăn và khoẻ lại. Lập tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giêsu trong các hội đường rằng Người là Con Thiên Chúa.
Saul đi Damascus với mục đích để bắt các tín hữu; khi ông trở lại Jerusalem là để rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Đấng ông đã không nương tay bắt bớ. Điều này chứng minh: Chẳng có chuyện gì là không thể đối với Thiên Chúa!
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có thể nuôi dưỡng con người bằng Mình Ngài.
2.1/ Chuyện không thể đối với con người: Người Do-thái có thể hiểu “bánh từ trời xuống,” vì cha ông họ đã từng ăn Manna trong sa mạc; nhưng khi Chúa Giêsu đồng hóa “bánh từ trời xuống” với thịt của Ngài (sárk), họ liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?"
Chúa Giêsu cắt nghĩa chi tiết hơn: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.” Không những chỉ dùng hai danh từ thịt (sárk) và máu (aima), Ngài dùng hai động từ nhai (trogein) và uống (piein), như khi con người ăn và uống lương thực phần xác. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu muốn nói tới nghĩa đen, chứ không còn là nghĩa biểu tượng nữa. Con người qua mọi thời vẫn chối bỏ sự hiện diện sống động và đích thực của Chúa Giêsu qua Bí-tích Thánh Thể: có người cho Bánh đây là Lời Chúa, có người cho sự hiện diện chỉ có tính cách thiêng liêng; đơn giản vì họ cho việc nuôi dưỡng bằng thịt và máu Chúa là điều không thể!
2.2/ Phải ăn Mình Chúa mới có thể sống muôn đời: Chúa Giêsu tiếp tục nhấn mạnh tới sự cần thiết của Bí-tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." Sự sống Chúa Giêsu muốn đề cập tới ở đây không chỉ là sự sống thể lý (psyche), nhưng là sự sống thần linh và muôn đời (zoe). Điều khác biệt giữa hai lương thực: lương thực phần xác chỉ có thể đem lại sự sống thể lý; nhưng Mình và Máu Chúa sẽ mang lại cho con người sự sống thần linh, và họ sẽ được sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng bao giờ giới hạn Thiên Chúa vào sự hạn hẹp của con người. Khi nào chưa hiểu những điều Thiên Chúa làm, hãy lấy đức tin bù lại.
- Chúng ta phải luôn tin tưởng Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Hãy mau mắn thi hành những gì Ngài truyền; nhất là năng lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể.
- Những ai chống lại Thiên Chúa thì cũng giống như người đưa chân đạp mũi nhọn: chân sẽ rách nát chảy máu mà mũi nhọn chẳng hề hấn gì!
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần III PS
Bài đọc: Acts 8:26-40; Jn 6:44-51.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời Chúa và Bí-tích là hai nguồn sức mạnh chính của con người.
Để một người có thể tin vào Đức Kitô đòi hỏi sự phối hợp của nhiều yếu tố. Về phía con người, họ phải có lòng thành đi tìm sự thật và phải bỏ giờ để học hỏi. Về phía Thiên Chúa, Ngài phải tạo cơ hội cho con người bằng cách gởi tới những người rao giảng Tin Mừng; nhưng quan trọng hơn cả là Thiên Chúa ban Thánh Thần để soi sáng cho con người hiểu và nhận ra sự thật trong Tin Mừng, đồng thời thúc đẩy con người tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô. Nếu không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không thể tin vào Đức Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến sự trợ giúp của Thiên Chúa để mọi người có thể tin vào Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, nếu Thiên Chúa không gởi Thánh Thần, thiên sứ, và Philip, viên quan Thái Giám Ethiopia không có Phó-tế Philip để cắt nghĩa cho ông những gì trong Sách của ngôn-sứ Isaiah, và ông sẽ không có cơ hội để tin vào Đức Kitô và được chịu Bí-tích Rửa Tội. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu quả quyết: không ai có thể đến được với Ngài, nếu Cha Ngài không “lôi kéo” người ấy. Điều mà Chúa Cha lôi kéo đây là cung cấp cơ hội (nghe Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng), và ban Thánh Thần để thúc đẩy họ tin vào Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Quan Thái Giám người Ethiopia tin vào Đức Kitô.
1.1/ Thiên Chúa sắp đặt cơ hội cho ông quan trở lại.
(1) Thiên sứ mặc khải cho Philip: Thiên sứ của Chúa nói với ông Philíp: "Đứng lên, đi về hướng Nam, theo con đường từ Jerusalem xuống Gaza; con đường này vắng." Gaza, Ashdod, và Ashkelon là 3 thành phố của Palestine, nằm trên đường ven biển Mediterranean, trước khi xuống Ai-cập và đi qua lục địa Phi-châu. Ít người dám dùng con đường này để đi từ Jerusalem xuống Gaza, vì đường vắng và địa thế gập ghềnh rất khó di chuyển; đa số sẽ dùng con đường từ Jerusalem xuống Joppa, rồi lần theo đường ven biển xuống Gaza.
Khi Philip tới Gaza, ông gặp một viên quan Thái Giám người Ethiopia, ông là quan lớn trong triều của bà Candace, Nữ Hoàng nước Ethiopia. Ông này làm tổng quản kho bạc của bà. Ông đã lên Jerusalem hành hương và bấy giờ đang trên đường về. Ngồi trên xe nhà, ông đọc sách ngôn sứ Isaiah. Viên quan này có lẽ là người trở lại theo Đạo Do-thái, nhưng không phải giữ tất cả mọi Lề Luật. Thần Khí nói với ông Philíp: "Tiến lên, đuổi kịp xe đó."
(2) Philip cắt nghĩa Kinh Thánh cho quan Thái Giám: Ông Philíp vâng lời chạy lên; khi ông nghe thấy ông kia đọc sách ngôn sứ Isaiah, thì hỏi: "Ngài có hiểu điều ngài đọc không?" Ông quan đáp: "Làm sao tôi hiểu được, nếu không có người dẫn giải?" Rồi ông mời ông Philíp lên ngồi với mình.
Đoạn Kinh Thánh ông đang đọc là đoạn trong Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung của Thiên Chúa, Isa 53:7-8: “Như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng mở miệng kêu ca. Bởi Người bị hạ xuống, nên bản án của Người đã được huỷ bỏ. Dòng dõi Người, ai sẽ kể lại, vì cuộc sống của Người trên trần gian đã bị chấm dứt.” Viên Thái Giám ngỏ lời với ông Philíp: "Xin ông cho biết: vị ngôn sứ nói thế về ai? Về chính mình hay về một ai khác?" Ông Philíp khởi đầu từ đoạn Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giêsu cho ông. Chúa Giêsu là Người Tôi Trung ấy, Ngài chịu đựng đau khổ cho con người, để cứu chuộc con người khỏi chết và cho con người được sống muôn đời. Để được hưởng những đặc quyền này, con người phải tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa.
1.2/ Philip rửa tội cho quan Thái Giám: Dọc đường, khi các ông tới một chỗ có nước, viên thái giám mới nói: "Sẵn nước đây, có gì ngăn trở tôi chịu phép rửa không?" Ông Philíp đáp: "Nếu ngài tin hết lòng, thì được." Viên thái giám tuyên xưng: "Tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa." Ông truyền dừng xe lại. Ông Philíp và viên thái giám cùng xuống chỗ có nước, và ông Philíp làm phép rửa cho ông quan. Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông Philíp đi mất, và viên Thái Giám không còn thấy ông nữa; nhưng ông tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỷ. Còn ông Philíp thì người ta gặp thấy ở Ashdod. Ông loan báo Tin Mừng cho mọi thành thị ông đi qua, cho tới khi đến Caesarea.
2/ Phúc Âm: Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.
2.1/ Chúa Giêsu dạy dỗ con người: Ngài tuyên bố: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” Có nhiều người dựa vào câu tuyên bố này để bênh vực chủ thuyết Tiền Định: Tất cả mọi người đã được Thiên Chúa tiền định cho được lên Thiên Đàng hay phải xuống hỏa ngục. Nếu Thiên Chúa lôi kéo ai, người đó mới có thể đến và tin vào Đức Kitô, và được lên Thiên Đàng. Nếu Thiên Chúa không lôi kéo, làm sao một người có thể đến và tin vào Đức Kitô? Hậu quả là người đó sẽ phải sa hỏa ngục, cho dù có muốn lên Thiên Đàng!
Điều quan trọng là phải hiểu hai chữ “lôi kéo.” Bằng cách nào Thiên Chúa “lôi kéo” con người đến với Chúa Giêsu? Thiên Chúa lôi kéo con người đến với Đức Kitô không phải như người ta xỏ mũi để kéo con bò, hay như bộ máy kéo theo các toa xe lửa, nhưng Ngài: (1) Cung cấp cơ hội để con người có thể nghe Lời Chúa và được dạy dỗ, như Chúa Giêsu nói: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” Lời ngôn sứ mà Chúa đề cập đến ở đây là Isa 54:13 và Jer 31:33. (2) Ban Thánh Thần để Ngài hoạt động bên trong con người, giúp con người nhận ra sự thật, và thúc đẩy con người để mạnh dạn tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô.
2.2/ Chúa Giêsu nuôi dưỡng con người bằng chính Mình Người: Niềm tin vào Đức Kitô không phải chỉ một lúc con người tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa; nhưng trải dài trong suốt cuộc đời các tín hữu. Để giữ đức tin sống động và trung thành đến cùng, con người cần được nuôi dưỡng như Chúa Giêsu nói với dân chúng: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn Manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống." Bí-tích Thánh Thể không phải là việc làm cũng được, không làm cũng không sao; nhưng là việc tối quan trọng: Ai không ăn Mình Chúa, sẽ không có nghị lực để chống trả chước cám dỗ của thế gian và ma quỉ, và sẽ khó lòng trung thành với Đức Kitô trọn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Sự trở lại của con người và tin vào Đức Kitô nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Ngài cho con người có cơ hội để nghe Tin Mừng, đồng thời cung cấp ơn thánh bên trong để giúp con người nhận ra sự thật và thúc đẩy con người tin vào Đức Kitô.
- Chúa Giêsu vẫn không ngừng dạy dỗ chúng ta qua Lời Chúa, và nuôi dưỡng chúng ta bằng chính mình Ngài qua Bí-tích Thánh Thể. Chúng ta hãy năng chạy đến với hai nguồn sức mạnh chính này để học khôn ngoan và được nuôi dưỡng hằng ngày.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần III PS
Bài đọc: Acts 8:1-8; Jn 6:35-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa
Trong Kế Hoạch Cứu Độ, Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người tin vào Đức Kitô để được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Để mọi người có thể tin vào Đức Kitô, cần có những người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Thiên Chúa, như lời thánh Justin nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sẽ trổ sinh niềm tin Công-giáo.” Để có người làm chứng, cần có người bách hại. Vì thế, mặc dù Giáo Hội sơ khai còn non nớt, làn sóng bách hại đạo đã bắt đầu. Thiên Chúa để việc bách hại xảy ra để có người làm chứng; và nhờ việc làm chứng, nhiều người sẽ nhận ra và tin vào Chúa Giêsu. Thiên Chúa là người điều khiển và cung cấp sức mạnh cho các tín hữu để họ giúp bành trướng Giáo Hội khắp nơi.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, vì Hội Thánh tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội sau cái chết tử đạo của Phó-tế Stephanô, các môn đệ và các tín hữu phải tản mác về các vùng miền quê của Judah và Samaria để hoạt động. Phó-tế Philip xuống vùng Samaria và thành công trong việc rao giảng Tin Mừng tại đó. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải long trọng và rõ ràng thánh ý của Thiên Chúa cho con người: Ngài muốn mọi người tin vào Đức Kitô để khỏi phải chết và được sống muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giáo Hội từ Jerusalem lan rộng tới Samaria.
1.1/ Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội: “Hồi ấy, Hội Thánh tại Jerusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Judah và Samaria.”
(1) Các Tông-đồ là những người ở lại để trấn thủ: Có hai lý do tại sao các Tông-đồ ở lại Jerusalem: Thứ nhất, các ông là những người can đảm, các ông ở lại để truyền bá Tin Mừng và củng cố Giáo Hội tại Jerusalem, nơi phát sinh Kitô-giáo và giữ một vị trí quan trọng của thế giới. Thứ hai, các ông ở lại để làm gương sáng cho các tín hữu. Là những người lãnh đạo, các ông không thể bỏ đàn chiên Chúa trao để trốn chạy.
(2) Saolô, tên thánh Phaolô trước khi trở lại: Ông là một trong những người nhiệt thành bắt bớ Giáo Hội sơ khai; chẳng những ông tán thành việc giết ông Stephanô, mà ông còn đi đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục.
1.2/ Giáo hội từ Jerusalem bắt đầu lan tràn ra khắp nơi: Vì vậy, các tín hữu phải tản mác đi khắp nơi loan báo lời Chúa. Phó-tế Philip đi rao giảng Tin Mừng tại Samaria. Sách CVTĐ tường thuật kết quả cuộc rao giảng Tin Mừng của ông như sau: “Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philíp giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm. Thật vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng.”
Mấy điều cần lưu ý: ông không phải là một trong số 12 Tông-đồ, ông là một trong 7 Phó-tế với Stephanô. Philip cũng được ban sự khôn ngoan và uy quyền làm phép lạ. Điều này chứng minh sự khôn ngoan và uy quyền làm phép lạ không phải chỉ ban cho các Tông-đồ mả thôi.
Chúa Giêsu rất ít khi rao giảng cho các vùng Samaria và Dân Ngoại, lý do như Chúa nói: “Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc nhà Israel.” Tuy những người Samaria bị ghét bỏ và không được giao thiệp với người Do-thái, nhưng họ lại được cảm tình đặc biệt của Chúa Giêsu. Điều này được chứng minh qua các trình thuật của Tin Mừng:
(1) Câu truyện đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria kết thúc bằng việc Bà loan báo cho mọi dân trong làng ra gặp Chúa (Jn 4).
(2) Trong Tin Mừng Luca, người Samaritan nhân hậu là người được Chúa Giêsu khen, vì ông đã hết lòng giúp đỡ người gặp nạn trên đường từ Jerusalem xuống Jericho (Lk 10:30-36).
(3) Một người cùi trong số 10 người được khỏi bệnh trở lại cám ơn Chúa, cũng là người Samaria (Lk 17:11).
Dân nghèo chất phác quê mùa là những người hăng hái đón nhận Tin Mừng; trong khi những người đã biết Chúa và biết Kinh Thánh lâu năm không những làm ngơ, lại còn đấu tố những người rao giảng Tin Mừng.
2/ Phúc Âm: Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời.
2.1/ Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh: Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin.”
Khi Chúa Giêsu nhập thể và loan báo Tin Mừng cho người Do-thái, họ bị đặt trong tình trạng buộc phải lựa chọn một trong hai điều: tin hay không tin vào Ngài. Nếu họ chọn để tin vào Ngài, họ sẽ đạt được cuộc sống muôn đời. Nếu họ chọn không tin vào Ngài, họ sẽ không đạt được cuộc sống muôn đời.
Bằng sự tự do lựa chọn tin hay không tin nơi Chúa Giêsu, con người tự phán xét lấy mình; vì Thiên Chúa không sai Người Con của Ngài đến luận phạt thế gian, nhưng là để cứu thế gian (Jn 3:16-21). Chúa Giêsu mở rộng vòng tay để đón mọi người: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.” Không có sự tiền định cho ai phải lên thiên đàng hay phải xuống hỏa ngục trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
2.2/ Chúa Giêsu mặc khải thánh ý của Thiên Chúa cho mọi người: “Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết."
Theo Kế Họach của Thiên Chúa, Ngài muốn cho mọi người được cứu độ, và Máu Thánh của Chúa Giêsu đổ ra là cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, nói như thánh Augustinô, để cứu độ con người, Chúa cần sự cộng tác của cá nhân đó bằng cách đòi họ phải tin vào Đức Kitô.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai đến để thi hành Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Ngài đã chết và sống lại để hoàn thành Kế Hoạch của Thiên Chúa. Vì thế, mọi người đều có thể được cứu độ nếu họ tin vào Chúa Giêsu.
- Để mọi người tin vào Chúa Giêsu, cần có những người đi rao giảng Tin Mừng và dám làm chứng cho Ngài.
- Tất cả chúng ta có đức tin vì đã được nghe những nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng và hưởng ơn phúc của những chứng nhân đã đổ máu làm chứng cho Chúa. Chúng ta có bổn phận phải tiếp tục loan truyền Tin Mừng và trở thành những chứng nhân, để mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần III PS
Bài đọc: Acts 7:51-8:1; Jn 6:30-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người môn đệ họa lại cuộc đời của Thầy mình.
Trong bữa Tiệc Ly, trước khi từ giã cuộc đời để về với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ những lời tâm huyết sau đây cho các môn đệ: “Trò không hơn Thầy; nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Jn 15:20). Tuy nhiên, Ngài cũng khuyến khích các ông: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Jn 16:33).
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh những khó khăn mà Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài phải đương đầu với từ thế gian. Trong Bài Đọc I, noi gương Thầy Chí Thánh, Stephanô sẵn sàng đổ máu đào để làm chứng nhân cho Chúa Giêsu. Cái chết của vị anh hùng tử đạo đầu tiên minh họa lại cái chết của Chúa Giêsu trong cuộc Thương Khó của Ngài. Trong Phúc Âm, dân chúng đi tìm Chúa Giêsu, không phải vì đã nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng để được luôn có bánh ăn hằng ngày. Chúa kiên nhẫn sửa sai họ và mặc khải cho họ biết “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cuộc tử đạo tiên khởi của Phó-tế Stephanô
1.1/ Xung đột giữa sự thật và sự sai trá: Bài giảng của Stephanô là lý do đưa ông tới cái chết, vì ông dám nói thật và dám tố cáo những việc làm sai trái của Thượng Hội Đồng.
(1) Stephanô tố cáo những người trong Thượng Hội Đồng: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần.” Giống như những lần xung đột của Chúa Giêsu với các Biệt-phái và Kinh-sư, Stephanô cũng tố cáo họ hai điều chính:
+ Giết hại các ngôn sứ: Chúa Giêsu tố cáo họ: "Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng” (Lk 11:47-48). Stephanô cũng tố cáo họ: “Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy.”
+ Khinh thường và không giữ Lề Luật: Chúa Giêsu tố cáo họ: “Ông Moses đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật! Sao các ông lại tìm cách giết tôi?” (Jn 7:19). Stephanô cũng tố cáo họ: “Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ.”
(2) Phản ứng của Thượng Hội Đồng: Khi con người bị sửa sai, họ có thể chọn hai thái độ: hoặc khiêm nhường nhận ra sự sai trái và tìm cách sửa sai, hoặc tức giận phủ nhận và tìm cách hại người tố cáo. Những người trong Thượng Hội Đồng chọn thái độ thứ hai: “Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stephanô.”
1.2/ Cuộc tử đạo của Stephanô: Thánh sử Lucas tường thuật cái chết của Stephanô như một minh họa lại cái chết của Chúa Giêsu, với những điểm tương đồng sau đây:
- Như Chúa Giêsu nói Ngài sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa kể từ nay, trong cuộc thẩm vấn trước Thượng Hội Đồng (Lk 23:69); Stephanô được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa" (Acts 7:55-56).
- Như Chúa Giêsu không được Thượng Hội Đồng xét xử theo Luật buộc (Lk 22:71), Stephanô cũng bị buộc tội bởi Thượng Hội Đồng và ném đá tới chết mà không được xét xử. Cái chết của ông là hậu quả của sự tức giận đột xuất của những người trong Thượng Hội Đồng: “Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại, và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá” (Acts 7:57-58).
- Như Chúa Giêsu phó thác linh hồn Ngài trong tay Chúa Cha: “Lạy Cha! Con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lk 23:46); họ ném đá ông Stephanô, đang lúc ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con" (Acts 7:59).
- Như Chúa Giêsu đã kêu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ luận tội và giết Ngài: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc chúng làm” (Lk 23:34); Stephanô cũng quỳ quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng trước khi chết: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này" (Acts 7:60).
2/ Phúc Âm: "Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
2.1/ Chúa Giêsu sửa sai sự hiểu biết, ý hướng, và hành động sai lầm của dân chúng:
(1) Đi tìm Chúa với ý hướng sai lầm: Vừa chứng kiến phép lạ “Bánh hóa nhiều” của Chúa Giêsu làm để nuôi 5,000 người, thay vì biết cám ơn Chúa đã lo lắng cho họ có của ăn, và nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai; giờ đây họ lại ích kỷ chỉ biết lo cho mình, và thách thức Chúa: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?”
(2) Hiểu biết sai về sự kiện lịch sử: Họ nói: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời." Chúa Giêsu sửa sai họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Moses đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời.”
2.2/ Chúa Giêsu mặc khải Ngài là Bánh Trường Sinh: Ngài nói với họ: “Chính Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian." Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy." Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
Con người rất khôn ngoan trong việc tìm kiếm và tích trữ những lương thực phần xác; nhưng lại rất khờ dại trong việc tích trữ các lương thực cho trí tuệ và cho phần linh hồn. Họ có thể bỏ mọi thời gian và nỗ lực đi tìm của cải chóng qua; nhưng không dám dành thời giờ cho việc học hỏi Lời Chúa và tham dự Bí-tích Thánh Thể hằng ngày. Dầu Chúa Giêsu đã tuyên bố Ngài là Bánh Trường Sinh: ai ăn sẽ sống, và ai không ăn sẽ chết; con người vẫn lơ là với những lời của Ngài. Chẳng lạ gì mà họ đang quay cuồng trong biển trần gian mà không biết đường nào để thoát ra ngoài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi chọn làm môn đệ Chúa, chúng ta chọn bỏ ý riêng, để họa cuộc đời chúng ta theo đường lối của Chúa. Khi phải đương đầu với bách hại của thế gian, chúng ta không được lấy oán báo oán; nhưng phải cầu nguyện và tha thứ cho những người đã bách hại chúng ta.
- Khi bị sửa sai đúng, chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận lỗi lầm của mình, và tìm cách sửa sai để cuộc sống tốt đẹp hơn. Đừng quá tức giận đến độ la hét, chửi rủa, và giết hại người công chính.
- Để có sức lực chiến đấu, chúng ta phải năng lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Nếu không có sức mạnh của Bi-tích Thánh Thể, chúng ta không thể nào đương đầu với những cám dỗ và bách hại của thế gian.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần III PS
Bài đọc: Acts 6:8-15; Jn 6:22-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến.
Cùng chứng kiến một sự kiện, nhưng mỗi người nhìn dưới góc cạnh khác nhau: Có những người nhìn ra sự thật ngay; có những người mất thời gian lâu dài mới có thể nhận ra sự thật; nhưng cũng có những người cố giữ thái độ ngoan cố không chịu nhìn nhận sự thật. Trong biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô cũng thế: Khi các Tông-đồ và nhiều người Do-thái nhận ra lầm lỗi của họ, qua việc kết án và đóng đinh Con Thiên Chúa, họ đã ăn năn sám hối và trở lại làm chứng cho Ngài; nhưng ngược lại, vẫn có những người ngoan cố không chịu tin, họ tiếp tục dùng sức mạnh và mưu mô để truy tố và luận tội các môn đệ của Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay vạch ra những cái nhìn sai trái và hành động không đúng của con người. Trong Bài Đọc I, Phó-tế Stephanô tranh luận với những người Do-thái thuộc Nhóm nô lệ được giải phóng về giáo lý của Chúa Giêsu về Đền Thờ và Lề Luật. Dù họ không địch nổi với ông, họ vẫn tìm người phao tin đồn thất thiệt để có cớ bắt ông trao cho Thượng Hội Đồng. Trong Phúc Âm, dân chúng đi tìm Chúa Giêsu, không phải vì nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng vì để có lương thực hàng ngày. Chúa Giêsu sửa sai lối nhìn của họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.
1.1/ Xung đột giữa Phó-tế Stephanô và hội đường của Nhóm nô lệ được giải phóng: Ông
là một trong 7 Phó-tế mới được chọn để phục vụ cho các bà góa theo văn hóa Hy-lạp. Ông được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân.
Đối thủ của ông là những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Cyrene và Alexandria. Họ cùng với một số người gốc Cilicia và Asia, đứng lên tranh luận với ông Stephanô; nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thánh Thần đã ban cho ông. Khi không dùng trí khôn ngoan để thắng ông được, họ quay qua dùng những thủ đoạn hèn hạ. Họ bầy mưu tố cáo Stephanô bằng cách xui mấy người phao lên rằng: "Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông Moses và Thiên Chúa."
1.2/ Phó-tế Stephanô bị bắt và buộc tội: Những người này sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: "Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nazareth sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Moses đã truyền lại cho chúng ta." Phó-tế Stephanô có lẽ đã tranh luận với họ về 3 điểm chính:
(1) Nơi Thánh (tức Đền Thờ) phải qua đi để mọi người có thể thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý (Jn 4:20-24). Sự thật hiển nhiên là tuy Đền Thờ Jerusalem đã bị phá hủy hoàn toàn vào năm 70 AD, Dân Chúa vẫn tiếp tục thờ phuợng Chúa ở mọi nơi, mọi thời, và mọi lúc.
(2) Lề Luật phải hướng tới sự làm nên trọn vẹn của Đức Kitô, và Tin Mừng của Ngài cần được rao giảng cho mọi người; chứ không phải để họ tự ý phiên dịch Lề Luật, rồi bóc lột dân nghèo và đàn áp những người công chính.
(3) Ơn Cứu Độ dành cho mọi người: Người Do-thái vẫn tự tôn nghĩ rằng chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và xứng đáng được cứu độ, mọi dân tộc khác chỉ xứng đáng làm nô lệ cho họ và tiền định để sa hỏa ngục. Họ không biết rằng đặc quyền Thiên Chúa ban cho họ, là để họ mang nhiều người về cho Thiên Chúa.
Họ biết ông vô tội qua lời trình thuật: “Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông Stephanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.” Nhưng họ vẫn ngoan cố buộc tội ông như đã từng buộc tội Chúa Giêsu.
2/ Phúc Âm: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến."
2.1/ Dân chúng kéo nhau đi tìm Chúa Giêsu vì muốn được ăn no: Trình thuật hôm nay tiếp tục trình thuật Chúa làm phép lạ “Bánh hóa nhiều” cho dân chúng ăn no nê; sau đó, họ muốn tôn Ngài làm vua. Chúa Giêsu truyền lệnh cho các Tông-đồ chèo thuyền qua Capernaum trước, còn Ngài đi lên núi cầu nguyện. Ngài đến cứu các ông khi Biển Hồ dậy sóng và đưa các ông cặp bến bình an.
Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và Đức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông đi mà thôi. Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tiberias đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Capernaum tìm Người.
Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?"
Đức Giêsu thấu hiểu những gì trong lòng họ, nên Ngài đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
2.2/ Chúa Giêsu khuyên họ hãy tìm những giá trị vĩnh cửu.
(1) Lương thực hư nát và không hư nát: Ngài khuyên bảo họ: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận." Lương thực mau hư nát Chúa Giêsu muốn nói ở đây là của ăn uống nuôi dưỡng phần xác, chúng vào qua cửa miệng rồi tan biến đi. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như sẽ được đề cập đến gần cuối chương 6; những lương thực này sẽ nuôi dưỡng phần linh hồn của con người, và giúp họ đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này.
(2) Thi hành thánh ý của Thiên Chúa: Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." Ngoài những lương thực mà Chúa Giêsu sẽ ban cho, họ còn phải luôn mong muốn chu toàn thánh ý Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với các Tông-đồ khi các ông thúc giục Ngài ăn: “Của ăn Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Jn 4:34). Ý của Thiên Chúa muốn cho mọi người là tin vào Chúa Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải giữ một thái độ khách quan và thiện chí khi đi tìm sự thật, và cầu xin để Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn chúng ta nhận ra sự thật.
- Chúng ta phải dùng sự khôn ngoan của Thiên Chúa ban để nhận ra và hướng dẫn người khác nhận ra và chấp nhận sự thật. Đừng bao giờ dùng sức mạnh để bắt ép, và dùng những mưu mô thủ đọan để truy tố những người công chính.
- Chúng ta hãy ra sức tìm những của ăn không hư nát: Thiên Chúa, Lời Chúa, Mình Chúa, Ý Chúa, sự thật, cuộc sống đời sau, công bằng và bác ái… Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị vĩnh cửu này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“Ý ĐỊNH VÀ ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA”
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM B (19/04/2015)
[Cv 3,13-15.17-19; 1 Ga 2,1-5a; Lc 24,35-48]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Điều quan trọng nhất đối với Ki-tô hữu chúng ta là hiểu biết, yêu mến và sống phù hợp với Ý Định và Đường Lối của Thiên Chúa đã được thể hiện trong lịch sử Cứu độ và nhất là trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, -tức trong cái chết và sự phục sinh- của Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. Có như thế chúng ta mới có thể đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa: hiệp thông trong tư tưởng và hiệp thông trong hành động.
Các bài Thánh Kinh hôm nay giúp chúng ta nhận ra Ý Định và Đường Lối của Thiên Chúa trong Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Chúng ta hãy chăm chú đọc các bài Sách Thánh ấy, lắng nghe và đón nhận sứ điệp của Lời Chúa để thực thi cho trọn tình trọn nghĩa với Thiên Chúa Tình Yêu.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 3, 13-15.17-19): Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.
(13) Hôm ấy ông Phê-rô lên tiếng nói với dân chúng rằng: “Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. (14) Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. (15) Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.”
(17) "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. (18) Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. (19) Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em.”
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Ga 2,1-5a): Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta và tội lỗi cả thế gian nữa.
(1) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính. (2) Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa. Điều kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái (3) Căn cứ vào điều này,chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. (4) Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. (5) Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 24,35-48): Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.
(35) Bấy giờ hai môn đệ từ Em-mau trở về, thuật lại những gì đã xẩy ra dọc đường và việc mình nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
(36) Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!" (37) Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. (38) Nhưng Người nói: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? (39) Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?" (40) Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. (41) Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không?" (42) Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. (43) Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
(44) Rồi Người bảo: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." (45) Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (46) và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; (47) phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân về những điều này. (49) "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:
(1°) Bài đọc 1 (Cv 3, 13-15.17-19) là bài giảng của Tông đồ Trưởng Phê-rô về sự kiện Chúa Giê-su được Thiên Chúa tôn vinh sau khi Người bị người Do-thái và Rô-ma giết chết trên thập giá. Thánh Phê-rô nói rằng: vì không biết, không ý thức mà những người đồng hương đã giết hại Đấng Thánh của Thiên Chúa. Nhưng để được Thiên Chúa thứ tha, xóa bỏ tội lỗi thì những người này phải biết ăn năn sám hối về những tội họ đã phạm, quay về với Thiên Chúa và nhìn nhận Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Một Thiên Chúa.
Vậy chúng ta có thể kết luận được rằng: Thiên Chúa là Đấng từ bi lân ái, giầu lòng xót thương và thứ tha. Người thực hiện Ý Định và Đường Lối cứu độ của Người trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của Người.
(2°) Bài đọc 2 (1 Ga 2,1-5a) là một trích đoạn trong Thư thứ nhất của Thánh Gio-an Tông đồ trong đó ngài nêu rõ hai mục tiêu của Thư:
(a) một là để con cái ngài không phạm tội mất lòng Chúa và
(b) hai là để họ tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn bác ái là giới răn riêng của Thầy Giê-su.
Vậy chúng ta có thể quả quyết điều này: Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Tình Yêu. Là Đấng Thánh nên Thiên Chúa không thể yêu thích tội lỗi. Là Tình Yêu nên Thiên Chúa muốn cho mọi người được hạnh phúc nhờ việc tuân giữ giới răn yêu thương của Người.
(3°) Bài Tin Mừng (Lc 24,35-48) là tường thuật của Thánh Lu-ca vể lần hiện ra của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh với các tông đồ, trong đó chân dung Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh được phác họa rất đậm nét. Vẫn là khung cảnh quen thuộc của các tường thuật Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ: cửa đóng kín, các môn đệ sợ sệt, bán tín bán nghi về chính Thầy của mình. Cảm thông với tâm trạng và hoàn cảnh đặc biệt ấy của các tông đồ, Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh đã tìm mọi cách để đánh tan mối nghi ngờ trong lòng các ông và giúp các ông nhận ra Người:
- Trước hết Người đã ăn miếng cá nướng mà các tông đồ đưa cho Người để chứng tỏ Người là người chứ không phải là ma.
- Kế đến Người đã cho các ông xem cạnh sườn và dấu tích của cuộc thương khó để chứng tỏ Người là Thầy Giê-su của các ông chứ không phải là ai khác.
- Sau cùng Người đã mở lòng, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh, để các ông hiểu và sống phù hợp với ý định và đường lối của Thiên Chúa.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”
Đó là Ý Định và Đường Lối của Thiên Chúa về Chúa Giê-su Ki-tô mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta đón nhận!
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay còn là: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này”
Đó là ý định và đường lối của Thiên Chúa về các Ki-tô hữu mà tất cả và mỗi người chúng ta được Thiên Chúa mời gọi sống sao cho phù hợp.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương nên đã sai Con Một xuống thế làm người và đã ban Thần Khí Người. cho cộng đòan kẻ tin. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chết trên thập giá và phục sinh để đền bù mọi tội lỗi của nhân lọai và làm cho loài người trở thành gia đình của Thiên Chúa. Thánh Thần đã được ban cho các tín hữu để họ làm chứng cho Chúa Giê-su chết và phục sinh.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là mỗi người/cộng đoàn Giáo hội (giáo xứ, giáo phận, hội đoàn tông đồ, dòng tu) kiểm điểm cách sống của mình, xem:
(a) mình/cộng đoàn mình đã thấu hiểu Ý Định và Đường Lối của Thiên Chúa về Chúa Giê-su Ki-tô như thế nào?
(b) mình/cộng đoàn mình đã thấu hiểu Ý Định và Đường Lối của Thiên Chúa về sứ mạng và vai trò rao giảng Tin Mừng và làm chứng của mình / cộng đoàn mình như thế nào?
(c) mình/cộng đoàn mình đã sống phù hợp với Ý Định và Đường Lối của Thiên Chúa như thế nào trong đời sống cá nhân và cộng đoàn?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su…” Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban các dân tộc trên thế giới mau chóng nhận ra Thiên Chúa là Cha và Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ nhân lọai mà Cha đã ban cho hết mọi người, mọi dân tộc.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa trở thành chứng nhân của Chúa Giê-su Ki-tô là Cứu Chúa của toàn thể nhân loại.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy đều biết mở lòng và cuộc sống đón nhận quà tặng của Đấng Phục sinh là Thánh Thần.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tội nhân biết ăn năn hối cải để được Chúa Ki-tô tha thứ và cứu chuộc.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật III Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 3:13-15, 17-19; I Jn 2:1-5; Lk 24:35-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô sống lại nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô có sống lại thật không? Câu trả lời cho câu hỏi này rất quan trọng, vì nó sẽ xác định niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa và vào cuộc sống đời sau. Thánh Phaolô xác quyết: Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta sẽ ra vô ích. Làm sao để biết Đức Kitô có sống lại thật không? Sự kiện tìm thấy ngôi mộ trống với các khăn niệm để lại không đủ bằng chứng để một người tin Chúa đã sống lại, vì người khác có thể đánh cắp xác Chúa và phao tin đồn thất thiệt như người Do-thái và ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu đã nghi ngờ. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta 3 bằng chứng hùng hồn về việc Chúa sống lại.
(1) Trong Phúc Âm, thánh-sử Lucas tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ với lời mời gọi hãy rờ vào thi thể của Ngài, và với việc ăn khúc cá nướng trước mắt các ông, để chứng tỏ Ngài đã sống lại thật. Bên cạnh lần hiện ra hôm nay, các thánh-sử đã tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ nhiều lần: với Mary Magdala, với các phụ nữ trên đường về từ mộ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, với 10 Tông-đồ không có Thomas, với 11 Tông-đồ có cả Thomas, với các Tông-đồ đi đánh cá; tổng cộng tất cả có ít nhất là 7 lần Chúa đã hiện ra.
(2) Trong Bài Đọc I cũng như trong Phúc Âm, các Tông-đồ cũng như Chúa Giêsu nhắc nhở cho độc giả biết: hãy đọc lại những lời Kinh Thánh và những gì Ngài đã dạy dỗ và báo trước, để biết chính Kinh Thánh đã làm chứng cho Chúa; chẳng hạn: Đấng Thiên Sai sinh ra từ giòng dõi David, tại Bethlehem (Mic 5:4). Thánh Thần Chúa xức dầu tấn phong và sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành những người bệnh, phóng thích kẻ bị giam cầm (Isa 61:1). Đấng Thiên Sai phải chịu nhiều đau khổ để gánh tội cho con người (4 Bài ca về Người Tôi Trung của Isaiah). Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu chết và ngày thứ ba Người sẽ sống lại (Hos 6:2). Thiên Chúa không “đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Psa 16:10).
(3) Trong Bài Đọc I và II, các Tông-đồ và các tín hữu đã can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã nhân danh Đức Kitô rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh, cuộc sống huynh đệ bỏ mọi sự làm của chung của các cộng đoàn tiên khởi, sự phát triển và vững bền của Giáo Hội hơn 2,000 năm qua với hàng triệu thánh nhân đã làm chứng cho Chúa, mỗi năm cả hàng trăm ngàn các anh chị em tân tòng gia nhập đạo.
Với 3 bằng chứng tổng quát và hàng triệu các nhân chứng, việc Chúa sống lại là điều chắc chắn đã xảy ra, và niềm tin của chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài được đặt trên một nền tảng vững vàng, chắc chắn hơn xây nhà trên đá.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô đã chết và sống lại nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
1.1/ Lầm lỡ của kiếp người: Đã là con người, không ai không phán đoán sai lầm và làm những điều tội lỗi. Thánh Phêrô nhắc lại tội của những người trong Thượng Hội Đồng và của toàn dân Do-thái đã làm trong Cuộc Thương Khó của Đức Kitô: “Thiên Chúa của các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacob, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.”
1.2/ Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Theo Kế Hoạch này, Đức Kitô phải chịu đau khổ (Isa 52:13-53:12), chết, và sống lại (Hos 6:1-2); để gánh tội cho con người (Jn 1:29) và bảo đảm cho họ sẽ được sống đời đời (Isa 49:6, Jn 6:39-40). Vì thế, thánh Phêrô quả quyết việc người Do-thái lầm lỗi kết tội Con Thiên Chúa nằm trong Kế Hoạch của Thiên Chúa: "Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình.” Điều quan trọng không hệ tại ở chỗ lầm lỡ kết tội; nhưng ở chỗ biết nhận ra tội của mình, như Phêrô kêu gọi dân chúng: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.”
2/ Bài đọc II: Đức Kitô đã chết và sống lại để xóa bỏ tội lỗi và làm cho con người khỏi chết.
2.1/ Đức Kitô là của lễ đền bù tội của nhân loại: Tiếp tục ý tưởng của thánh Phêrô trong Bài Đọc I, thánh Gioan cũng khuyên các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của tội, và nhu cầu cần phải ăn năn sám hối mỗi khi lầm lỡ để được tha tội: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính.
Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa.” Vì có Đức Kitô sẵn sàng tha thứ tội, con người không còn làm nô lệ cho tội và cho sự chết nữa; nếu họ biết ăn năn thú tội mỗi khi lầm lỡ.
2.2/ Yêu mến Thiên Chúa là giữ cẩn thận các giới răn của Ngài: Theo thánh Gioan, yêu Thiên Chúa không phải chỉ bằng lời nói, nhưng phải biểu tỏ qua hành động như Chúa Giêsu cũng đã từng dạy dỗ các môn đệ của Ngài: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.” Dĩ nhiên, thánh Gioan không phủ nhận sự yếu đuối và sa ngã của con người; tuy nhiên, con người phải cố gắng sống những gì Chúa dạy. Nếu con người sa ngã vì yếu đuối, Chúa Giêsu sẵn sàng tha tội cho họ qua Bí-tích Giải Tội.
3/ Phúc Âm: Chúa thân hành hiện ra và Kinh Thánh là hai bằng chứng của Mầu Nhiệm PS.
3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông-đồ: Thánh-sử Lucas chú trọng đến những chi tiết về thi thể của Chúa Giêsu Phục Sinh trong trình thuật hôm nay.
(1) Chúa Phục Sinh có hình dạng để con người nhận ra: Khi một người nhìn thấy người chết hiện về, cảm tưởng của họ chắc cũng giống như các môn đệ trong trình thuật hôm nay: Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Tuy nhiên, như trong trình thuật của 2 môn đệ trên đường Emmaus, Chúa Giêsu phải có một hình dạng con người để các môn đệ có thể nhận ra và có tay để bẻ bánh.
(2) Chúa Phục Sinh có thân xác để mọi người có thể sờ vào: Thấy các ông còn nghi ngờ Người là ma, Người mời gọi các ông sờ vào Người: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ sờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.
(3) Chúa Phục Sinh có thể ăn uống như một con người: Thấy các ông còn đang ngỡ ngàng, Người quyết định tiến xa hơn: "Ở đây anh em có gì ăn không?" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. Ma quỉ không thể ăn như Chúa Giêsu ăn trước mắt các môn đệ, vì chúng không có thi thể của con người.
3.2/ Giải thích Lời Kinh Thánh cho các Tông-đồ:Rồi Người bảo các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Moses, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Theo truyền thống Do-thái, Kinh Thánh bao gồm cả 3 phần: Sách Luật, Sách Ngôn-sứ, và các Thánh Vịnh. Cả ba đều làm chứng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
(1) Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm: Trong 4 Tin Mừng cũng như Sách CVTĐ, rất nhiều lần nói tới việc: “như lời các ngôn sứ loan báo,” hay “để lời Kinh Thánh nên trọn.” Trong giới hạn của Bài Giảng, chúng tôi chỉ nêu lên một ví dụ cụ thể cho mỗi phần của Kinh Thánh:
- Sách Luật: (Jn 6:45) dẫn chứng (Deut 18:15): “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.”
- Sách Ngôn-sứ: (Mt 8:17 và 12:18) lặp lại (Isa 42:1-4, 49:1-6, 50:4-9, 52:13-53:12) về Người Tôi Trung chịu đau khổ. (Mt 12:40) lặp lại (Hos 6:2 và Jon 2:1): “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.” (Mt 21:5) dẫn chứng Zech 9:9 về một vị vua khiêm nhường: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.”
- Thánh Vịnh: (Mk 12:10) dẫn chứng (TV 118:22): “Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.” (Jn 10:35) dẫn chứng (TV 82:6 và Exo 7:1): “Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ.” (Jn 13:18) dẫn chứng (TV 41:10) về sự phản bội của Judah: “Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.”
(2) Nhiệm vụ của các Tông-đồ: Sau khi đã củng cố niềm tin của các ông bằng việc hiện ra và cắt nghĩa Kinh Thánh, người truyền cho các ông “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Jerusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không bao giờ được để báo chí, dư luận, và cám dỗ thế gian, làm lung lay niềm tin của chúng ta vào sự Phục Sinh của Đức Kitô và vào sự sống đời sau; vì chúng ta đã có quá nhiều bằng chứng và nhân chứng về niềm tin này.
- Khi chúng ta đã tin vào sự sống lại của Đức Kitô, chúng ta cũng phải tin vào những gì Ngài dạy dỗ: sự hiện diện của tội lỗi và nhu cầu được tha thứ, con đường đau khổ là con đường của những người môn đệ Chúa, và phải giữ các giới răn của Ngài.
- Chúng ta phải tin tưởng và năng đọc toàn bộ Kinh Thánh, không được bỏ một phần hay một Sách nào cả, vì toàn bộ Kinh Thánh liên quan đến Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Kế Hoạch này được Đức Kitô thi hành đến chỗ toàn hảo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 18/4 Làm sao để giải quyết các khó khăn trong cuộc đời?
- 17/4 Nếu quả thật là việc do Thiên Chúa, quý vị không thể nào phá huỷ được
- 16/4 Con người cần khiêm nhường nhận ra và chấp nhận uy quyền của Thiên Chúa
- 15/4 Con người ghét ánh sáng vì các việc làm của họ mờ ám
- 14/4 Thánh Thần hoạt động trong mỗi cá nhân và trong cộng đoàn
- Thần Khí Là Quà Tặng Của Chúa Ki-Tô Phục Sinh
- 12/4 Hậu quả của niềm tin vào Chúa sống lại
- 13/4 Thánh Thần giúp các môn đệ làm chứng cho Đức Kitô
- 11/4 Con người không thể trốn tránh sự thật mãi
- 10/4 Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động với các tông đồ