Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 15 TN1, Năm B
Bài đọc: Exo 1:1-14, 22; Mt 10:34-11:1.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sợ sự thật làm con người chia rẽ.
Trong cuộc đời, đa số ai cũng muốn hơn người và điều khiển người khác; nên họ rất sợ khi người khác có địa vị và thành công hơn mình. Thay vì với tinh thần cầu tiến, họ nên tìm hiểu lý do tại sao người khác thành công để học hỏi; nhiều người lại dùng những mưu mô, thủ đoạn, và áp lực nhằm hạ bệ và tiêu diệt những người hơn mình.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp cụ thể tại sao con người bất hòa và chia rẽ. Trong Bài Đọc I, khi vua Ai-cập nhìn thấy con cái Israel gia tăng dân số, ông cảm thấy bị đe dọa. Thay vì nên khuyến khích người Ai-cập sinh sản nhiều cho thăng bằng cán cân dân số, ông lại tìm những thủ đoạn để tiêu diệt con cái Israel: ông bắt họ phải lao động cực khổ và ngay cả bằng việc giết các trẻ nam mới sinh của Israel. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết họ sẽ gặp chống đối ngay cả từ nơi gia đình của họ. Lý do là con người không dễ chấp nhận lối sống theo sự thật mà Đức Kitô đòi hỏi họ phải rao giảng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chia rẽ vì sợ chủng tộc khác hơn mình.
1.1/ Vua Ai-cập kỳ thị chủng tộc Do-thái: Xưa cũng như nay, các quốc gia mạnh luôn tìm cách để bách hại các quốc gia yếu thế hơn mình để bắt triều cống và làm tôi mọi cho họ. Trường hợp Sách Xuất Hành tường thuật hôm nay là một trường hợp điển hình.
(1) Giòng dõi Jacob lan tràn khắp xứ Ai-cập: Thiên Chúa truyền con người phải sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất (Gen 1:28). Người Do-thái sống theo lệnh truyền của Thiên Chúa, họ ăn ở với nhau và sinh sản con cái rất nhiều. Tổ phụ Jacob có tất cả 12 con. "Sau đây là tên những con cái Israel đã đến Ai-cập với ông Jacob, mỗi người đem theo gia đình mình: Reuben, Simeon, Levi và Judah, Issachar, Zebulun và Benjamin, Dan và Naphtali, Gad và Aser. Giòng giống ông Jacob tính tất cả là bảy mươi người; ông Giuse thì đang ở bên Ai-cập. Rồi ông Giuse qua đời, cũng như anh em ông và tất cả thế hệ đó. Con cái Israel sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ."
(2) Nỗi lo sợ của vua Ai-cập: Giống như đa số con người thời đại, người Ai-cập muốn hạn chế sinh sản, nhưng lại đâm lo khi thấy người Do-thái sinh sản nhiều hơn mình. Trình thuật kể: "Thời ấy có một vua mới lên trị vì nước Ai-cập, vua này không biết ông Giuse. Vua nói với dân mình: "Này đám dân con cái Israel đông đúc và hùng mạnh hơn chúng ta. Chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn ngoan đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ."" Vua Ai-cập cũng như phần đông các cha mẹ thời nay, họ vẫn nghĩ họ có những "biện pháp khôn ngoan" hơn Thiên Chúa: vừa muốn hạn chế sinh sản, vừa muốn an toàn và cai trị người khác.
1.2/ Các "biện pháp khôn ngoan" Vua Ai-cập dùng để hành hạ con cái Israel: Để làm giảm dân số Do-thái, vua Ai-cập dùng những thủ đoạn sau đây:
(1) Hành hạ thể xác: Vua ra lệnh "đặt lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai; bắt họ phải xây cho Pharao các thành làm kho lương thực là Pithom và Ramses. Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải lao động cực nhọc: phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc đồng áng; tóm lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ làm." Nhưng chúng càng hành hạ họ, thì họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến chúng đâm ra sợ con cái Israel.
(2) Tước đoạt quyền sống: Thấy kế hoạch bắt làm việc khổ cực không làm giảm dân số của người Do-thái, vua Pharao ra lệnh cho toàn dân của mình: "Mọi con trai Do-thái sinh ra, hãy ném xuống sông Nile; mọi con gái thì để cho sống." Nhiều người phê bình Thiên Chúa tại sao bênh vực dân Do-thái đến độ tàn sát các con đầu lòng Ai-cập và nhận chìm quân đội của Ai-cập trong Biển Đỏ; nhưng họ đã bỏ qua tội lỗi bất công và tước đoạt quyền sống của các trẻ Do-thái bởi nhà vua và các đốc công Ai-cập.
2/ Phúc Âm: Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà." Thoạt nghe những lời tuyên bố này, chúng ta không khỏi lấy làm lạ: Tại sao một Thiên Chúa không đem bình an đến cho con người; lại đến để đem gươm giáo và gây chia rẽ trong gia đình?
1.1/ Bình an thực sự: Để hiểu những điều Chúa Giêsu nói, chúng ta cần phân biệt hai thứ bình an:
+ Bình an của con người: Con người thường hiểu bình an là sự vắng mặt của chiến tranh hay tranh chấp bên ngoài. Ví dụ: khi quốc gia không có đánh nhau và gia đình không có cãi vã tranh giành. Thứ bình an này thường chỉ tạm bợ và chờ đợi để bùng nổ một cuộc chiến lớn hơn và khốc liệt hơn.
+ Bình an của Thiên Chúa: là bình an đến từ bên trong tâm hồn. Bình an này chỉ có được khi con người dám đương đầu với và sống theo sự thật. Chính Chúa Giêsu đã phân biệt hai thứ bình an, khi Ngài nói với các môn đệ: bình an của Thầy sẽ ban cho anh em không theo kiểu bình an của thế gian ban tặng. Chúng ta có thể cảm nhận được sự bình an của các môn đệ sau khi Chúa sống lại. Các ông đã nhận ra sự thật: Chúa là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa gởi tới cho con người. Ngài đã trải qua đau khổ, đã chết, và đã sống lại. Nhận ra sự thật này làm cho các môn đệ bình an trong tâm hồn; để rồi các ông có thể đương đầu với những quyền lực của thế gian: roi vọt, bắt bớ, tù đày; mà vẫn không sợ hãi gì cả. Các ông có thể chấp nhận tất cả và vui lòng làm chứng cho Đức Kitô.
2.2 Phải sống đúng các mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, và với thế giới.
+ Mối liên hệ với Thiên Chúa phải đặt trên mối liên hệ với tha nhân: "Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy." Khi nói những điều này, Thiên Chúa muốn con người phải đặt Thiên Chúa trên tất cả mọi người và mọi sự. Quyền lợi của Thiên Chúa phải đặt trên các quyền lợi cá nhân: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được."
+ Mối liên hệ với tha nhân phải đặt trên mối liên hệ vật chất: "Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy." Con người không thể giúp đỡ lại cho Thiên Chúa, vì Ngài có tất cả. Điều con người có thể làm là giúp đỡ tha nhân, những con cái của Thiên Chúa. "Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính... Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy có can đảm đương đầu với sự thật. Đừng dối trá, quanh co, hay dùng thủ đoạn để bôi lọ, bắt bớ, hay tiêu diệt những người dám nói và sống cho sự thật.
- Nếu chúng ta biết khiêm nhường chấp nhận sự thật Thiên Chúa dạy và thay đổi lối sống theo đường lối Ngài vạch sẵn, chúng ta sẽ bảo đảm được hạnh phúc và bình an cả đời này và đời sau. Nếu chúng ta cứ ngoan cố trong tư tưởng và đường lối của con người, chúng ta chắc chắn sẽ phải trả giá; vì chẳng có gì bí mật mà không bị phơi bày ra ánh sáng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
ƠN GỌI & SỨ MẠNG CỦA KITÔ HỮU
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN NĂM B (15/07/2012)
[Am 7,1215; Ep 1,314; Mc 6,713]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Một trong những nét son của Công Đồng Vatican II là đã khẳng định và nêu cao
phẩm giá và địa vị cao trọng của mọi Kitô hữu. Thật ra giáo huấn của Công Đồng
cũng chỉ là phản ánh của Lời Chúa trong Thánh Kinh mà thôi. Vì thế chúng ta chẳng
những có thể khẳng định với Thánh Giêrônimô rằng: "Không biết Thánh Kinh là
không biết Chúa Kitô" mà còn có thể công bố: "Không biết Thánh Kinh là không
biết chính mình chúng ta nữa!" có nghĩa là không biết phẩm giá và địa vị cao trọng
của chúng ta cũng như trách nhiệm cao cả và nặng nề của chúng ta.
Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh Chúa Nhật 15 Thường Niên Năm B là một trong
nhiều ví dụ về điều vừa nói trên. Chúng ta hãy chăm chú nghe/đọc/suy nghĩ và cầu
nguyện với những đoạn Thánh Kinh mà Giáo hội chọn cho Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay, để được đổi mới trong nhận thức và hành động!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Am 7,1215): Xung đột với Amátgia. Ông Amốt bị trục
xuất khỏi Bết Ên.
12 Bấy giờ Amátgia nói với ông Amốt: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu
đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có hòng
nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương
triều." 14 Ông Amốt trả lời ông Amátgia: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng
phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi xúc vật và chăm sóc
cây sung. 15 Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa
đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân Ta."
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,314): Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức
Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của
Thánh Thần. 4 Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để
trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của
Người. 5 Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm
nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, 6 để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng
Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. 7 Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh
Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong
phú của Người. 8Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự
khôn ngoan thông hiểu. 9 Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là
kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. 10 Đó là đưa thời gian
tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức
Kitô. Cũng trong Đức Kitô, 11 Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định
và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế
hoạch của Người, 12 để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô,
chúng tôi ngợi khen vinh quang Người. 13 Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh
em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một
khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. 14 Thánh
Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên
Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 6,713): Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi giảng.
7 Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban
cho các ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi
đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng;
9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông: "Bất cứ ở đâu,
khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta
không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản
đối họ." 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ
được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VA SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN TRONG BA BÀI
SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?) 3.1.1 Trong bài đọc 1 (Am 7,1215) nhờ lời giảng giải của ngôn sứ Amốt với tư tế
Amátgia mà chúng ta biết được tại sao Amốt trở thành ngôn sứ: Chính Thiên
Chúa đã chọn ông và có thể nói là "đã cưỡng bức" ông nói lời sấm ngôn cho dân
Ítraen, chứ bản thân ông không hề muốn làm công việc ấy chút nào. Amốt không
muốn làm ngôn sứ, có lẽ vì ông biết rõ mình không có tài ăn nói trước công chúng
và quan quyền. Cũng có thể vì ông sợ bị chống đối và bách hại. Nhưng ngôn sứ A mốt đã hoàn thành nhiệm vụ và trở thành nổi tiếng trong hàng ngũ các ngôn sứ, vì
các sấm ngôn của ông "mang tính phê phán xã hội" (prophétisme critique) tức lên
án những tình trạng bất công trong xã hội: kẻ giầu sang, quyền thế bóc lột và áp bức
người nghèo hèn.
Qua ngôn sứ Amốt và các sấm ngôn của ông chúng ta khám phá ra một Đấng Thiên
Chúa đặc biệt quan tâm và yêu thương người nghèo đến độ đứng về phía họ, bênh
vực họ chống lại mọi áp bức, bóc lột từ những người có quyền chức. Đúng là "Thiên
Chúa đứng về Phe Tả" như tựa đề của cuốn sách mà Giám mục Luigi Bettazzi
(Italia) đã viết cách đây mấy chục năm. 3.1.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,314), là một đoạn thư của Thánh Phaolô gửi cho các
tín hữu Êphêxô, Thánh Tông đồ nói về ơn gọi làm con và bao hồng ân cao quí
khác mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô. Cùng với ơn làm nghĩa
tử cao quí ấy, chúng ta còn được ơn nghe biết Tin Mừng Cứu độ và được Thánh
Thần in dấu ấn để chúng ta được đảm bảo phần gia nghiệp của Thiên Chúa hứa ban
cho dân riêng của Người.
Qua đoạn Thánh Thư này, chúng ta khám phá ra một Đấng Thiên Chúa vô cùng
quảng đại và yêu thương đối với nhân loại nói chung và đối với các Kitô hữu nói
riêng vì Người đã ban muôn vàn hồng ân cao quý cho chúng ta qua và nơi Con Một
yêu dấu của Người là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!
3.1.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 6,713) Thánh Máccô tường thuật việc Chúa Giê su sai Mười Hai Môn Đệ (Tông Đồ) đi rao giảng Tin Mừng, trừ quỉ và chữa lành
những người đau ốm bệnh tật và bị các thần ô uế ám hại. Các Môn Đệ còn được
Chúa Giêsu căn dặn tỉ mỉ là trong khi đi truyền giáo thì họ chỉ cậy dựa vào một
mình Thiên Chúa mà thôi, chứ không được cậy dựa vào một sức mạnh nào khác
(được biểu tượng bằng một hành trang nghèo nàn). Người còn căn dặn các ông về
cách ứng xử với mọi người khi được tiếp đón cũng như khi bị từ chối. Vâng theo chỉ
thị của Thầy, các Tông Đồ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong khi thi hành sứ
vụ Chúa Giêsu trao phó.
Nhờ đoạn Phúc Âm này, chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng giao phó sứ
mạng rao giảng Tin Mừng và chữa lành cho các môn đệ. Sứ mạng này Người đã
nhận được từ Chúa Cha và nay Người giao lại cho tất cả các môn đệ, trong đó có
chúng ta. Để thực hiện thành công sứ mạng được giao, các môn đệ và chúng ta phải
biết cậy trông vào Chúa và chỉ cậy trông vào một mình Chúa mà thôi.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?) Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
Vì Tình Yêu "nhưng không và quảng đại",
Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô đã ban tặng và giao phó cho chúng ta
ơn gọi và sứ mạng làm con Thiên Chúa, ơn gọi và sứ mạng làm ngôn sứ của Người, tức làm người nói Lời Thiên Chúa, rao
giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho người trần thế. IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã vì yêu thương loài người mà dùng ngôn sứ Amốt
làm phát ngôn viên nói lời Thiên Chúa và đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin
Mừng Cứu Độ mà Chúa Giêsu Kitô đã đem tới cho nhân loại. 4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay mỗi người/nhóm/cộng đoàn Kitô hữu
phải:
* Trước hết là ý thức tầm quan trọng của ơn gọi và sứ mạng của mình: Đó là ơn gọi
và sứ mạng được làm con Thiên Chúa, được làm kẻ nói Lời Thiên Chúa (như ngôn
sứ Amốt), và làm người người rao giảng và chữa lành (như các Tông đồ). * Kế đến là tìm mọi cách thể hiện và thực thi ơn gọi và sứ mạng cao trọng ấy trong
gia đình và ngoài xã hội. [Xin tự hỏi và trả lời trung thực trước mặt Chúa và trước lương tâm của mình:
Hằng ngày tôi làm những gì, tôi sống như thế nào để thể hiện ơn gọi làm con Thiên
Chúa?
Hằng ngày tôi làm những gì để nói Lời Thiên Chúa? để rao giảng Tin Mừng Cứu độ
của Thiên Chúa cho những người tôi gặp?]
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý
thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ
bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã
truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Ítraen dân Ta.» Chúng ta hiệp lời cầu
nguyện cho thề giới và Giáo hội Công giáo thời nay có được những ngôn sứ can
đảm và kiên cường như Amốt để thức tỉnh lương tâm những người đang ngủ mê
trong danh vọng, quyền lực và của cải bất chính và bất lương.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một.» Chúng
ta hiệp lời cầu nguyện cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Đức
Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam
Nữ, để với ơn Chúa trợ giúp, các ngài chu toàn sứ mạng được Thiên Chúa sai đến
với mọi người, nhất là đến với những người nghèo và bị bỏ rơi hơn cả. Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được
thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.» Chúng ta hiệp lời
cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ chúng ta, để mọi người biết cảm tạ ngợi khen
và chúc tụng Thiên Chúa là Đấng vừa giầu có vừa hào phóng mà ban muôn vàn ơn,
nhất là ơn làm con Thiên Chúa, ơn làm ngôn sứ và làm tông đồ rao giảng Tin Mừng
Cứu Độ. Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy;
không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng
không được mặc hai áo.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các chiến sĩ truyền giáo
trên mọi nẻo đường thế giới hôm nay để họ cảm nghiệm được sức mạnh của Thiên
Chúa mà vững lòng tin cậy mà ra đi thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa. Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 15 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Amo 7:12-15; Eph 1:2-14; Mk 6:7-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ơn gọi của con người qua Đức Kitô.
Con người thiển cận thường cho tất cả những gì mình có được là do sức cố gắng và tài năng của mình; nhưng nếu họ chịu suy nghĩ và có cái nhìn bao quát hơn, họ sẽ nhận ra tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Khi con người nhìn ra điều đó, con người sẽ biết ơn Thiên Chúa, và sẽ cố gắng làm mọi cách để rao truyền tình yêu của Thiên Chúa, để mọi người đều tin Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tất cả những gì họ sở hữu đều là hồng ân của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bị Amaziah ngăn cản và không cho nói tiên tri tại vương quốc Israel, Amos đã thẳng thắn trả lời: Ông không lựa chọn để trở thành ngôn sứ; nhưng Thiên Chúa đã chọn và sai ông đi để nói những gì Ngài muốn nói. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô nêu lên tất cả những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lựa chọn Nhóm Mười Hai để huấn luyện, ban quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn lựa ông Amos và sai đi tuyên sấm.
1.1/ Phản ứng của Amaziah: Tiên-tri Amos sinh ở Tekoa, một làng thuộc vương quốc Judah ở miền Nam; nhưng Thiên Chúa lại sai ông đi thi hành sứ vụ tiên tri tại vương quốc Israel, miền Bắc. Ông sống trong một giai đoạn rất khó khăn của lịch sử Israel (721 BC), vì dân chúng quay lưng lại với Thiên Chúa, để chạy theo các thần ngoại bang; thêm vào đó, các vua quan toa rập nhau để ức hiếp dân nghèo, và tiếng kêu cứu của họ đã vang lên tới Thiên Chúa. Amos không sợ bất cứ một thế lực nào của vua quan, ông can đảm tố cáo những điều họ đã xúc phạm tới Ngài, và tuyên sấm mất nước và lưu đày sẽ xảy ra nếu họ không biết ăn năn trở lại. Đó là lý do tại sao Amaziah khinh thường và xua đuổi ông Amos trong trình thuật hôm nay: "Này thầy ngôn sứ ơi, mau chạy về đất Judah, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều."
1.2/ Phản ứng của Amos: Ông Amos trả lời ông Amaziah: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta."" Hai điều nổi bật Amos muốn đề cập tới ở đây:
(1) Ông được Thiên Chúa bắt đi khi ông đang làm việc, chứ chính ông không tình nguyện để đi tuyên sấm.
(2) Ông không lợi dụng danh nghĩa ngôn sứ để kiếm lợi nhuận vật chất như Amaziah buộc tội, vì ông đang có việc làm để sinh sống.
2/ Bài đọc II: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.
2.1/ Nhận ra hồng ân của Thiên Chúa: Trong phần đầu của trình thuật hôm nay, thánh Phaolô muốn các tín hữu Ephesô nhận ra tất cả những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho họ qua Đức Kitô: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu." Đây là một đoạn văn chứa nhiều tư tưởng mặc khải, chúng ta cần suy tư từng chi tiết để hiểu những gì Thiên Chúa đã làm cho con người:
(1) Cho chúng ta có mặt trong cuộc đời: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ." Thánh Gioan nói rõ hơn: "Tất cả đều nhờ Người mà được tạo thành; không có Người, chẳng có chi được tạo thành" (Jn 1:3).
(2) Cho chúng ta biết Đức Kitô: Thiên Chúa quan phòng cho con người được gặp gỡ Đức Kitô, cách trực tiếp khi Ngài xuống trần hay cách thiêng liêng qua việc rao giảng Tin Mừng; không những thế, Ngài còn gởi Thánh Thần vào tâm hồn con người để soi sáng cho con người hiểu những gì Đức Kitô nói và thúc đẩy con người tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô xác quyết: "Không ai có thể tin Đức Kitô nếu không do Thánh Thần của Thiên Chúa tác động" (I Cor 12:3).
(3) Cho chúng ta trở thành nghĩa tử nhờ niềm tin vào Đức Kitô: "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa" (Jn 1:12).
(4) Cho chúng ta nhận ra hồng ân và ngợi khen Thiên Chúa: "Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu."
(5) Cho chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện: Với sự rửa sạch của Đức Kitô và sự thánh hóa của Chúa Thánh Thần, con người có thể trở nên tinh tuyền thánh thiện, xứng đáng là những nghĩa tử của Thiên Chúa, những môn đệ giống như Đức Kitô.
(6) Cho chúng ta sạch khỏi mọi tội lỗi: "Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người."
(7) Cho chúng ta thấu hiểu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu." Nếu con người chịu học hỏi Kinh Thánh, họ sẽ không thiếu bất kỳ sự khôn ngoan nào cần thiết cho cuộc đời.
(8) Cho chúng ta thấu hiểu Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: "Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô."
Hiểu như thế, tất cả những gì chúng ta có được, đều là hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta không được kiêu hãnh coi những điều tốt lành chúng ta đang sở hữu là của mình, nhưng phải biết sấp mình xuống và cám ơn tình yêu bao la Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
2.2/ Ơn gọi làm ngôn sứ để rao giảng Tin Mừng: Sau khi đã nhận ra tình yêu Thiên Chúa, con người có bổn phận loan truyền tình yêu này cho mọi người. Phaolô không những ý thức được ơn gọi rao giảng Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao cho ông, nhưng còn là của mọi tín hữu.
(1) Của Phaolô: "Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người." Khi Phaolô đã thấu hiểu những điều Thiên Chúa đã làm cho ông qua Đức Kitô, ông dùng cả cuộc đời để ngợi khen Thiên Chúa. Ngay cả việc sai Phaolô đi để rao giảng Tin Mừng cũng bắt nguồn từ Đức Kitô. Ngài sai ông đi để rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người hiểu biết và tin vào Đức Kitô để nhận được những hông ân Thiên Chúa ban qua Đức Kitô.
(2) Của mọi tín hữu: "Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa." Các tín hữu sau khi đã chịu Phép Rửa cũng có bổn phận phải ra đi rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một.
3.1/ Chúa Giêsu sai các Tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng: "Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo." Hai tư tưởng nổi bật trong đoạn văn này:
(1) Chúa Giêsu gọi, dạy dỗ, ban quyền, và sai các tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng, chứ các ông không tình nguyện theo Ngài trước. Khi các môn đệ rao giảng, các ông rao giảng Tin Mừng các ông đã nghe được nơi Đức Kitô, chứ không phải những gì của các ông. Sức mạnh chữa lành và sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ không phải đến từ các ông.
(2) Rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu các môn đệ phải thi hành, chứ không phải là bất kỳ bổn phận nào khác. Để chu toàn bổn phận này, Chúa Giêsu biết người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản: càng ít lệ thuộc vào vật chất bao nhiêu càng tốt; vì Ngài biết khi người môn đệ bắt đầu lệ thuộc quá nhiều vào vật chất, người môn đệ sẽ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng
3.2/ Ơn gọi rao giảng Tin Mừng: Hai điều quan trọng các môn đệ cần biết khi rao giảng:
(1) Khán giả có thể tiếp nhận hay từ chối các sứ giả loan báo Tin Mừng: Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ chuẩn bị điều này, khi Người dặn các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."
Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để nhận ra và tin vào sự thật, Ngài không ép buộc con người phải tin những gì họ không muốn. Các môn đệ cũng thế, họ không thể ép buộc khán giả tin những gì họ không muốn tin. Điều các môn đệ có thể làm được là trình bày sự thật và những lợi ích do việc sống theo sự thật mang lại, với hy vọng con người sẽ nhận ra và tin theo. Nếu họ từ chối không chấp nhận sự thật, các môn đệ cũng đừng buồn, vì có nhiều lý do khiến con người từ chối chấp nhận sự thật, như đã từng xảy ra với khán giả của Chúa Giêsu.
(2) Mục tiêu của việc rao giảng là "kêu gọi người ta ăn năn sám hối." Khi người môn đệ rao giảng Tin Mừng, người môn đệ phải giúp khán giả nhận ra tình yêu Thiên Chúa và những lầm lỗi của họ đã quay lưng lại với tình yêu này, để họ ăn năn trở lại với tình thương Thiên Chúa; chứ không phải là lúc giải trí, làm cho con người thư giãn sau những giờ phút làm ăn mệt nhọc, cũng không phải là lúc để người môn đệ quảng cáo sự khôn ngoan hiểu rộng của mình.
Các quyền trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh là từ Đức Kitô ban cho các môn đệ để khán giả tin vào những lời các ông rao giảng. Hiểu như thế, các việc này chỉ là phương tiện; chứ không bao giờ có thể thay thế việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả những gì chúng ta đang có được là do bởi tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ kiêu hãnh để khinh thường người khác; nhưng phải biết cảm tạ Thiên Chúa, sống cuộc đời tốt lành thánh thiện, và biết loan truyền Tin Mừng đến mọi người.
- Rao giảng Tin Mừng là bổn phận quan trọng hàng đầu Đức Kitô trao cho chúng ta là những môn đệ của Ngài. Khi rao giảng Tin Mừng chúng ta loan báo những gì Ngài dạy dỗ chúng ta, và làm sao để muôn dân tin yêu Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 14 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 49:29-33, 50:15-24; Mt 10:24-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật sẽ toàn thắng.
Thế gian là bãi chiến trường giữa sự thật và sự gian tà, giữa sự thiện và sự ác, giữa Thiên Chúa và ma quỉ, và giữa con cái ánh sáng và con cái của bóng tối. Thế gian dùng những thủ đọan và áp lực để gây đau khổ cho con cái của ánh sáng, làm cho họ sợ hãi và không dám sống cho sự thật. Thiên Chúa đòi con cái của Ngài đừng sợ hãi, hãy chấp nhận đau khổ và làm chứng cho sự thật. Ngài sẽ cho họ sức mạnh để thắng vượt gian khổ và chiến thắng khải hoàn.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong cuộc giao tranh này và những lời dạy quí hóa của Chúa Giêsu cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, vì tổ-phụ Jacob đã trung thành sống theo những gì Chúa răn dạy, nên Ngài đã bảo vệ ông cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Noi gương cha, Giuse cũng làm những gì Chúa và cha căn dặn, ông sẵn sàng tha thứ cho các anh em và cấp dưỡng cho gia đình họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải có 3 thái độ tối quan trọng để có thể rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài: sẵn sàng chấp nhận đau khổ, không sợ hãi, và tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
1.1/ Thiên Chúa luôn bảo vệ các tôi trung của Ngài: Sau khi đã đoàn tụ và sống bên con được ít lâu, ông Jacob biết sắp đến giờ ông phải từ biệt các con để ra đi. Ông cho gọi các con tới và truyền cho họ rằng: "Cha sắp được về sum họp với tổ tiên. Hãy chôn cất cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái hang ở cánh đồng của ông Ephron, người Hittite, trong cái hang ở cánh đồng Machpelah, đối diện với Mamre, tại đất Canaan ... Ở đó đã chôn ông Abraham và vợ ông là bà Sarah; ông Isaac và vợ ông là bà Rebekah; ở đó cha đã chôn bà Leah." Khi truyền lệnh cho các con trai ông xong, thì ông Jacob rút chân lên giường; ông tắt thở và được về sum họp với tổ tiên.
Thiên Chúa đã hứa với Jacob trước khi xuống Ai-cập: Ngài sẽ bảo vệ ông và sẽ cho Giuse vuốt mắt ông trước khi lìa đời. Điều này đã hiện thực. Trong thị kiến cái thang, Thiên Chúa hứa với ông: "Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi" (Gen 32:15). Ước nguyện của Jacob trước khi chết cũng thành hiện thực: Các con ông đem xác ông về chôn trong phần mộ của tổ tiên tại Hebron, vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
1.2/ Các anh vẫn không tin Giuse có thể tha thứ cho họ:
(1) Phản ứng của các anh: Các anh ông Giuse thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: "Không khéo Giuse còn hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đã gây ra cho nó!" Vì thế, họ sai người đến nói với ông: "Cha của chú trước khi chết đã truyền rằng: Các con hãy nói thế này với Giuse: "Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con." Bây giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú!" Sau đó, các anh ông đích thân đến cúi rạp xuống trước mặt ông và nói: "Này chúng tôi là nô lệ của chú."
(2) Phản ứng của Giuse: Ông Giuse muốn các anh nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa, nên ông nói với họ: "Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và chuyện trò thân mật với họ.
Thiên Chúa có mắt, Ngài không bỏ các tôi tớ trung thành tin tưởng vào Ngài. Ông Giuse nói với các anh em: "Tôi sắp chết, nhưng thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em và đưa anh em từ đất này lên đất mà Người đã thề hứa với ông Abraham, ông Isaac và ông Jacob."
2/ Phúc Âm: Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ.
2.1/ Ba thái độ phải có của người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ trung thành của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
(1) Sẵn sàng chấp nhận gian khổ: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Người môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: "Trò không hơn thầy, đầy tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà."
Trong khi rao giảng hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
(2) Không được sợ hãi người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng; ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng."
Khi làm chứng cho sự thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật, vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các ngài được sống đời đời.
(3) Phải tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." Thứ hai, tóc trên đầu: Ngài nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi." Tóc trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là số phận của những người môn đệ Chúa.
Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
2.2/ Phần thưởng cho những môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Ngược lại, "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Người nào không dám tuyên xưng danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận những người như thế trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ là khí cụ Thiên Chúa dùng để thử thách con người, chúng ta đừng sợ hãi cũng đừng trốn tránh đau khổ đến độ không dám tuyên xưng danh Chúa và làm chứng cho sư thật.
- Chúng ta hãy tuyệt đối tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa quan phòng, để luôn can đảm sống như những người con Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, và làm ích cho mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 46:1-7, 28-30; Mt 10:16-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải trung kiên tới cùng mới được cứu thoát.
Con người sợ gian khổ và thích nhìn thấy kết quả ngay; Thiên Chúa muốn con người chịu đựng gian khổ và phải chờ đợi. Kinh nghiệm dạy con người nếu muốn thành công, họ phải kiên trì vượt qua mọi thử thách; nếu không kiên trì vượt gian khổ, họ sẽ gẫy cánh giữa đường, và không bao giờ nhìn thấy kết quả như lòng họ mong ước.
Các Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta phải trung thành chờ đợi để có thể đạt được kết quả mong muốn. Trong Bài Đọc I, hai cha con ông Jacob và Giuse đã phải trải qua bao biến cố thăng trầm và đau khổ, trước khi họ được gặp lại nhau và chung sống hạnh phúc. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ khi Ngài sai các ông đi: Anh em sẽ bị người đời ghen ghét, bắt bớ, và đánh đập, và tù đày; nhưng ai bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên.
1.1/ Ông Jacob lên đường đi gặp Giuse, con ông: Nếu chúng ta nhìn lại cuộc đời của hai cha con, chúng ta sẽ hiểu được sự quan phòng của Thiên Chúa và ý nghĩa của đau khổ mà hai cha con ông phải trải qua.
(1) Cuộc đời gian khổ của Jacob: Ông tranh chấp với anh là Esau ngay từ trong bụng mẹ để chui ra trước, nhưng không thành công. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, bà mẹ Rebekah đã âm mưu một kế hoạch để tước quyền trưởng nam của Esau và lời chúc lành của Isaac. Hai anh em tranh chấp với nhau kể từ đó. Khi được cha sai tới để ở với Laban, người đồng hương, Jacob đã bị Laban lợi dụng trong việc kết hôn và phân chia tài sản. Vì thế, Jacob phải lìa bỏ Laban và trở về quê hương của cha mình. Jacob lại phải đương đầu với sự ghen ghét và chia rẽ ngay trong gia đình: Các con ông ghét Giuse, và đã đánh lừa ông để ông tin Giuse đã bị thú dữ ăn thịt. Rồi ông phải sai các con qua Ai-cập để mua thực phẩm cho gia đình, và phải bằng lòng để Benjamin, đứa con út của ông rời xa mình, mà không biết có trở về với mình không!
Nhưng trong mọi hoàn cảnh, ông vẫn luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Bàn tay của Thiên Chúa luôn ở với ông, và Ngài luôn phù trợ ông mọi ngày trong cuộc sống. Trình thuật hôm nay tường thuật thị kiến ông gặp Thiên Chúa tại Beer Sheba. Thiên Chúa phán với ông trong thị kiến ban đêm, Người phán: "Ta là El, Thiên Chúa của cha ngươi. Đừng sợ xuống Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn. Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giuse sẽ vuốt mắt cho ngươi."
(2) Cuộc đời gian khổ của Giuse: Giống như cha, Giuse cũng phải chịu gian khổ ngay từ lúc còn thơ ấu: Cậu bị các anh ghen ghét vì sự quí mến của cha dành cho cậu và tài giải thích điềm chiêm bao mà Thiên Chúa đã ban cho cậu. Hậu quả của sự ghen ghét là cậu bị các anh bán cho lái buôn, và những lái buôn bán cho một viên quan Ai-cập. Cuộc đời chưa hết khổ, cậu lại bị vào tù vì đã không chịu phạm tội với bà chủ; và bà này đã tức giận đổ thừa cho Giuse, để chồng bà tống giam cậu vào ngục thất. Sau cùng, nhờ tài giải thích điềm chiêm bao, cậu đã được triệu vào cung để giải thích điềm chiêm bao cho vua Pharao và được nhà vua thăng chức Tể Tướng trong triều đình.
Cũng như cha mình, Giuse luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và cố gắng sống một cuộc đời công chính. Ông không oán ghét và tìm cách trả thù các anh và bà vợ viên quan Ai-cập; nhưng sẵn sàng tha thứ cho họ và làm nhiều lợi ích cho gia đình.
1.2/ Cuộc hạnh ngộ của hai cha con: Trời cao có mắt. Thiên Chúa luôn theo dõi và chúc lành cho hai cha con là những người kính sợ Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Hai cha con phải xa cách nhau một thơi gian lâu dài, và phải chịu bao nhiêu những hiểu lầm, buồn phiền, gian khổ, tủi nhục ... Cuối cùng, Jacob đã được gặp lại con, đứa con ông đinh ninh đã không còn có mặt trên thế gian nữa. Con ông vẫn khỏe mạnh; không những thế, còn đang làm quan Tể Tướng trong triều đình của Pharao, và có quyền ban phát các lợi nhuận vật chất cho gia đình.
Cuộc hạnh ngộ giữa hai cha con được tường thuật như sau: "Ông Jacob đã sai ông Judah đi trước, đến với ông Giuse, để ông Giuse tới Goshen gặp ông. Khi họ đến đất Goshen, thì ông Giuse cho thắng xe riêng và lên Goshen đón ông Israel, cha ông. Khi hai cha con vừa thấy nhau, thì ông Giuse bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu. Ông Jacob nói với ông Giuse: "Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống.""
2/ Phúc Âm: Ai bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
2.1/ Gian khổ luôn sẵn sàng chờ đợi người môn đệ của Đức Kitô:
(1) Chúa Giêsu không dấu diếm các môn đệ sẽ phải đương đầu với đau khổ khi Ngài tuyên bố với các ông: "Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu." Chiên đi vào giữa bầy sói, chắc chắn sẽ gặp nguy hiểm; nhưng với sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, chiên có thể vượt qua mọi nguy hiểm.
(2) Các môn đệ sẽ phải đương đầu với các hạng người khác nhau:
+ Với giáo quyền: "Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ." Giáo quyền không luôn luôn chấp nhận và bênh vực sự thật.
+ Với thế quyền: "Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết." Điều này dễ hiểu vì các môn đệ Đức Kitô sống và làm chứng cho giá trị Nước Trời, nhiều khi hoàn toàn đối nghịch với giá trị thế gian.
+ Với gia quyền: "Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết." Sự thật mất lòng, người trong gia đình không luôn nhìn ra, định giá đúng, và chấp nhận sự thật.
2.2/ Thiên Chúa luôn đồng hành với các môn đệ: Đối diện với các quyền lực của thế gian và ma quỉ, người môn đệ cần có sự trợ giúp của Thiên Chúa.
(1) Ngài ban ơn khôn ngoan để môn đệ biết đối đáp: "Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em."
(2) Ngài ban sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ: "Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát. Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em: anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến." Người môn đệ phải tin sức mạnh của Thiên Chúa sẽ giúp mình vượt qua mọi gian khổ và sau cùng sẽ chiến thắng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ không thể thiếu trong cuộc đời. Thiên Chúa dùng đau khổ như phương tiện, để chúng ta có thể chứng minh niềm tin yêu của chúng ta dành cho Ngài.
- Nếu chúng ta luôn biết trung kiên với Thiên Chúa và sống ngay lành tốt đẹp trong mọi gian khổ của cuộc đời, chúng ta chắc chắn sẽ được Thiên Chúa bảo vệ và chúc lành.
- Hiểu vai trò của đau khổ như thế, chúng ta sẽ không than thân, trách Thiên Chúa, hay ghét người gây đau khổ; nhưng biết dùng đau khổ để thánh hóa bản thân, vững tin nơi Thiên Chúa, trung thành yêu mến và làm ích cho tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 44:18-21, 23-29, 45:1-5; Mt 10:7-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải thực hiện thánh ý Thiên Chúa trong các biến cố của cuộc đời.
Trong sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, chẳng có một biến cố nào ngẫu nhiên xảy ra mà không có ý định của Thiên Chúa trong đó cho cá nhân, gia đình, và tập thể. Thái độ của con người là phải tìm ra và làm theo thánh ý của Thiên Chúa để sinh ích lợi cho mình và cho tha nhân; chứ đừng kêu la, than khóc, hay trách móc Thiên Chúa và tha nhân về số phận hẩm hiu của mình.
Các Bài Đọc hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy thánh ý của Thiên Chúa trong mọi biến cố lớn hay nhỏ của cuộc đời. Trong Bài Đọc I, sau khi đã có thời gian để suy gẫm về cuộc đời mình và các biến cố đã và đang xảy ra cho gia đình, ông Giuse đã tỏ mình ra cho anh em và nói: "Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em." Nói rõ hơn, Thiên Chúa đã chuẩn bị cuộc đời Giuse để cứu sống gia đình, cho dẫu phải ngang qua sự ghen ghét và nhẫn tâm của các anh. Trong Phúc Âm, chính vì hạnh phúc đời sau của nhân loại mà Chúa Giêsu đã thu thập các môn đệ để huấn luyện, trao quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em.
1.1/ Nỗi lòng của cha già: Vì Giuse muốn gặp em ruột của mình là Benjamin, nên đã giữ một người anh là Simeon làm con tin ở lại Ai-cập trong chuyến đi mua thực phẩm lần trước. Ông truyền cho các anh phải đem Benjamin tới gặp, ông mới tha cho tất cả trở về. Nếu không, đừng bao giờ đến gặp mặt ông nữa.
Khi anh em ông đem chuyện này để thưa với cha già Jacob, ông tâm sự với các con: "Các con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. Một đứa đã lìa cha, và cha đã nói: Đúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại nó. Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm phủ." Jacob vẫn tin Giuse đã bị thú dữ ăn thịt như lời các con nói với ông.
1.2/ Ông Giuse tỏ mình cho các anh: Khi nghe những lời tường thuật về cha già, ông Giuse không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên: "Bảo mọi người ra khỏi đây!" Khi không còn người nào ở với ông, ông Giuse mới tỏ cho anh em nhận ra mình. Ông oà lên khóc và người Ai-cập nghe được, triều đình Pharao cũng nghe thấy.
+ Phản ứng của các anh em: Họ bàng hoàng khi nghe những lời ông nói. Họ cảm thấy xấu hổ về những thiệt hại họ đã gây ra cho ông. Họ không thể thốt lên một lời nào vì quá xấu hổ.
+ Phản ứng của ông Giuse: Ông nói với anh em: "Hãy lại gần tôi." Họ lại gần. Ông nói: "Tôi là Giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em."
Như một con người, ông có thể trả thù bằng cách bắt giữ các anh làm nô lệ cho mình; nhưng ông không làm điều đó, vì ông xác tín mọi việc xảy ra trong đời ông là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài gởi ông qua Ai-cập trước để dọn đường và để bảo vệ sự sống cho chính ông, cho gia đình, và cho các dân tộc. Nhiều tác giả đã so sánh Chúa Giêsu cũng mang trong mình sứ vụ như Giuse: Ngài hy sinh chịu mọi đau khổ để mưu cầu sự sống cho mọi người.
2/ Phúc Âm: Chính để loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ của Ngài đi.
2.1/ Bổn phận các môn đệ: Chúa chọn các Tông-đồ để huấn luyện các ông là cho một mục đích. Ngài biết sẽ phải từ bỏ thế gian để trở về với Chúa Cha, nên Ngài huấn luyện các ông để các ông thay Ngài tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là để con người nhận ra tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người tin vào Đức Kitô để được chung hưởng hạnh phúc với Ngài trên Thiên Đàng.
(1) Việc phải làm: Bổn phận hàng đầu của các môn đệ được Chúa Giêsu nói rất rõ ràng: "Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần." Để muôn dân tin vào lời các môn đệ rao giảng, Chúa Giêsu cũng ban cho các ông quyền chữa lành các vết thương hồn xác: "Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ." Mục đích của việc chữa lành là để muôn dân nhận ra quyền năng Thiên Chúa và tin vào Ngài, chứ không phải để kiếm các lợi lộc vật chất. Ngài truyền cho các ông: "Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy."
(2) Việc không được phép làm: Vì Chúa Giêsu biết trước những cám dỗ vật chất có thể làm các môn đệ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng; nên Ngài ngăn cấm các ông:
+ Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng: Người môn đệ trung thành của Đức Kitô không bao giờ được phép tìm kiếm những thứ này; ngày nào người môn đệ tìm kiếm những thứ này, họ không thể là người môn đệ của Đức Kitô, và lời rao giảng của họ sẽ mất hết hiệu lực.
+ Đừng tích trữ của cải mang theo: "Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy." Nhiều người cho những lời dạy này không thực tế, vì lên đường mà không có những vật dụng cần thiết, khi cần đến lấy gì mà dùng. Điều chính yếu Chúa Giêsu muốn nêu lên ở đây là người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản. Nếu người môn đệ có quá nhiều của cải, làm sao ông có thể sẵn sàng lên đường đến những nơi xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin Mừng? Hơn nữa, Đức Kitô muốn các môn đệ phải tuyệt đối tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, "vì thợ thì đáng được nuôi ăn." Thiên Chúa sẽ không để những nhà rao giảng Tin Mừng của Ngài phải chết đói dọc đường.
2.2/ Kiếm người xứng đáng để ở trọ: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ không ngừng thúc đẩy những tâm hồn có lòng quảng đại để họ lo chăm sóc đời sống vật chất của các nhà rao giảng. Chính vì điều này mà Đức Kitô đã dạy các môn đệ: "Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi."
(1) Phần thưởng cho những người tiếp đón các môn đệ Chúa: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em."
(2) Hình phạt cho những người không tiếp đón các môn đệ Chúa: "Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. Thầy bảo thật anh em, trong Ngày Phán Xét, đất Sodom và Gomorrah còn được xử khoan hồng hơn thành đó."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi một biến cố xảy ra trong cuộc đời, chúng ta hãy tìm xem Thiên Chúa đang muốn chúng ta làm gì, và mau mắn thực hiện thánh ý của Ngài.
- Mọi điều Chúa răn dạy đều có lý do của nó, vì Chúa không bao giờ làm việc vô ích. Nếu chưa nhận ra lý do, hãy cầu nguyện để Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra thánh ý của Ngài.
- Thiên Chúa cho chúng ta vào trần gian là cho một mục đích. Chúng ta phải nhận ra thánh ý của Ngài, và mau mắn chu toàn trước khi trở về với Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 41:55-57, 42:5-7, 17-24; Mt 10:1-7.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhận ra sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.
Biến cố 30 tháng tư năm 1975 đã thay đổi cuộc đời của rất nhiều cá nhân, gia đình, cộng đoàn, quốc gia Việt-nam cũng như các quốc gia đón nhận người tị nạn. Khi biến cố này xảy ra, đa số cho là một biến cố tủi nhục, kinh hoàng, và gây ra biết bao đau khổ cho con dân Việt-nam; nhưng gần 40 năm sau nhìn lại, chúng ta nhận ra nhiều điều tốt đẹp đến từ biến cố này: (1) Mỗi năm, việt kiều trên khắp năm châu gởi về Việt-nam cả hàng tỷ bạc để giúp người thân bên quê nhà có phương tiện sinh sống. (2) Rất nhiều Việt-kiều có cơ hội tiếp xúc với và đón nhận tinh hoa của các nền văn minh của thế giới; mà nếu không có biến cố 1975, họ chỉ quanh quẩn bên lũy tre xanh và con trâu của làng quê. (3) Nhiều linh mục và tu sĩ Việt-nam đang truyền giáo và làm việc tông đồ cho các dân tộc đã từng truyền giáo và làm việc tông đồ bên Việt-nam; để đáp ứng sự khan hiếm linh mục và tu sĩ đang xảy ra trong Giáo Hội... Nhìn lại lịch sử của biến cố 30 tháng tư, chúng ta phải chấp nhận bàn tay của Thiên Chúa làm việc qua biến cố này.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhận ra sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa qua các biến cố lịch sử. Trong Bài Đọc I, vì ghen tị, các anh em ông Giuse đã bán ông cho các lái buôn người Ai-cập, và nói dối cha em mình bị thú dữ ăn thịt. Cha ông và các anh em tưởng sẽ không bao giờ còn gặp lại Giuse nữa; nhưng Chúa quan phòng đã định liệu cách khác. Các anh em ông bị đói và phải lặn lội qua Ai-cập để mua thức ăn, và họ đã gặp lại Giuse. Trong Phúc Âm, có ai ngờ một nhóm môn đệ Chúa Giêsu thiết lập: quê mùa, thất học, yếu đuối, sợ hãi... lại có thể đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng và làm nền tảng cho một tôn giáo gần một nửa dân số địa cầu?
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo.
1.1/ Thiên Chúa chuẩn bị cho cuộc đời ông Giuse: Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta phải trở về với biến cố các anh em bán Giuse cho các lái buôn Ai-cập tại Dothan. Giuse là một trong 12 người con của tổ-phụ Jacob, và là anh em cùng mẹ với em út là Benjamin. Vì Jacob có Giuse trong lúc tuổi già, nên ông thương Giuse hơn mọi anh em khác. Giuse được Thiên Chúa ban cho có biệt tài giải thích các điềm chiêm bao. Vì những điều này mà anh em ghét và tìm cách triệt hạ ông. Và cơ hội tới khi Jacob sai Giuse mang thức ăn ra đồng cho các anh em. Thoạt đầu họ muốn thủ tiêu Giuse; nhưng nhờ sự can thiệp của anh cả Reuben, họ đồng ý ném Giuse xuống một cái giếng khô và để đó cho chết đói. Họ lại đổi ý khi đang ngồi ăn, vì anh Judah đề nghị bán em mình cho các lái buôn; và họ đồng ý bán em với giá 20 đồng bạc. Những người này đưa Giuse về Ai-cập. Cuộc đời Giuse ba chìm bảy nổi kể từ đó, nhưng nhờ có biệt tài giải thích điềm chiêm bao, Giuse đã được triệu tập vào cung điện để giải thích điềm chiêm bao cho vua Pharao, và được thăng chức Tể Tướng trong triều đình chỉ thua vua Pharao (x/c Gen 37-50).
1.2/ Cuộc gặp gỡ giữa Giuse và các anh em ông: Thiên Chúa làm cho xảy ra một nạn đói lớn trên toàn xứ sở. Khắp nơi trong xứ bị đói kém. Toàn xứ Ai-cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharao xin bánh ăn. Pharao nói với mọi người Ai-cập: "Cứ đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo." Nạn đói không những chỉ hoành hành trong Ai-cập mà lan tràn ra khắp nơi. Từ mọi xứ, người ta đến Ai-cập để mua lúa mì của ông Giuse. Giữa đám người đến mua lúa, cũng có mặt các con ông Israel, vì đất Canaan bị đói kém.
(1) Phản ứng của Giuse: Ông Giuse bấy giờ có toàn quyền trong xứ, và ông bán lúa cho toàn dân trong xứ. Các anh ông Giuse đến và cúi sấp mặt xuống đất lạy ông. Vừa nhìn thấy các anh mình, ông Giuse nhận ra họ, nhưng làm như người xa lạ đối với họ, và nói với họ cách cứng cỏi. Ông hỏi họ: "Các người từ đâu đến?" Họ đáp: "Thưa từ đất Canaan, để mua lương thực." Ông giam giữ họ ba ngày. Đến ngày thứ ba, ông Giuse bảo họ: "Các người muốn sống thì hãy làm thế này, vì ta kính sợ Thiên Chúa. Nếu các người là những kẻ lương thiện, thì một anh em cứ phải chịu giam trong nhà tù này, còn các người khác thì hãy ra đi, đem lúa về cho gia đình khỏi đói. Rồi các người hãy đem đứa em út đến cho ta. Bấy giờ sẽ rõ là các người nói đúng, và các người sẽ không phải chết." Họ đã làm như vậy.
(2) Phản ứng của các anh em ông: Họ không nhận ra Giuse trong y phục của triều đình; nhưng họ ăn năn hối hận vì đã gây thiệt hại cho ông. Họ bảo nhau: "Than ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh ngặt nghèo này."
Họ biết đã vay, phải đền trả. Người anh cả Reuben nhắc nhở các anh em truyện quá khứ: "Tôi đã chẳng bảo các chú thế này sao: "Đừng phạm tội hại đến thằng bé!" nhưng các chú đã không chịu nghe. Bây giờ thì phải đền nợ máu nó!"
Họ không biết rằng ông Giuse hiểu được ngôn ngữ họ đang nói. Bấy giờ ông lánh ra chỗ khác mà khóc, sau đó mới trở lại nói chuyện với họ. Trong số họ, ông bắt ông Simeon và cho trói trước mặt họ. Còn các anh em khác, sau khi bán lúa mì, ông phóng thích cho họ về nhà.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu huấn luyện các Tông-đồ và sai đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng.
2.1/ Chúa ban cho các Tông-đồ mọi quyền năng để phân phát cho dân chúng: Trong sự quan phòng rất khôn ngoan, Chúa Giêsu không làm việc một mình; nhưng Ngài chọn các Tông-đồ để huấn luyện, ban quyền năng, và ủy thác cho sứ vụ tiếp tục loan truyền Tin Mừng đến mọi người. Noi gương Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua bao thế hệ vẫn tiếp tục sứ vụ này: một mặt không ngừng rao giảng Tin Mừng đến mọi dân tộc, một mặt lo đào tạo hàng giáo sĩ, ban quyền năng, và sai đi, để họ có thể tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho thế hệ tương lai. Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, chúng ta không còn gì nghi ngờ về sự hiện diện luôn của Đức Kitô trong Giáo Hội.
2.2/ Tập hợp của các môn đệ Chúa Giêsu: "Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Zebedee và ông Gioan, em của ông; ông Philíp và ông Bartholomeo; ông Tôma và ông Matthêu người thu thuế; ông Giacôbê con ông Alphê và ông Tađêô; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giuđa Iscariot, là chính kẻ nộp Người."
- Nhìn vào danh sách các Tông-đồ, điều đầu tiên chúng ta nhận ra là những con người tầm thường, chẳng có gì nổi bật so với tiêu chuẩn của thế gian, đấy là chưa kể đến yếu đuối, tội lỗi. Điều này chứng minh: sức mạnh và uy quyền hoàn toàn của Thiên Chúa. Ngài giúp con người tầm thường làm những việc phi thường.
- Con người thường hay chọn những người cùng một sở thích hay tính tình giống nhau. Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ có tính tình khác nhau, nhiều khi đến chỗ xung khắc: một Phêrô nhanh nhẩu nói năng phải ở với Gioan thâm trầm, ít nói; một Simon nhiệt thành chống lại uy quyền ngoại bang phải ở với Matthew, người thu thuế cho ngoại bang; một Thomas từ chối không tin tất cả lời chứng Chúa đã sống lại và hiện ra của tất cả Tông-đồ khác. Thế mà Thiên Chúa có thể làm cho các ông dẹp khác biệt cá nhân, để sống chung và cùng nhau thi hành sứ vụ Ngài trao.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi biến cố xảy ra trong vũ trụ này, chứ không có một thần nào khác. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng nơi quyền năng của Ngài.
- Chúng ta đừng vội trách Chúa, trách người, khi các biến cố xảy ra; nhưng hãy tìm đâu là ý Thiên Chúa, và cố gắng hết sức thi hành để sinh ích cho cá nhân, gia đình, và cộng đoàn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 32:23-33; Mt 9:32-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa kiên trì cứu độ con người.
Người Hy-lạp và một số tôn giáo lớn, mặc dù tin có một Đấng dựng nên và điều khiển mọi sự, nhưng họ không tin Đấng Tạo Hóa quan tâm đến đời sống vất vả và cực khổ của con người. Lý do: Họ tin Đấng Tạo Hóa không bao giờ thay đổi. Nếu Đấng Tạo Hóa quan tâm hay nhận lời cầu xin của con người, Ngài đã bị con người thay đổi. Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc cho mọi nhu cầu của con người. Thiên Chúa có uy quyền đến độ, tuy Ngài đáp ứng những lời cầu xin của con người, vẫn không thay đổi trong sự quan phòng vũ trụ của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay chứng minh Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người và luôn kiên trì để dạy dỗ và chữa lành con người. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật biến cố Thiên Chúa hiện ra và vật lộn với tổ-phụ Jacob suốt đêm. Biến cố này muốn nói Thiên Chúa kiên trì trong việc cứu độ con người, và con người luôn phải bám lấy Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vất vả ngược xuôi để dạy dỗ, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành mọi vết thương hồn xác cho con người. Ngài thương dân vất vả tả tơi như chiên không người chăn, và dạy các môn đệ phải luôn cầu nguyện để Thiên Chúa gởi đến các mục tử tốt lành chăn dắt chiên.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Jacob vật lộn với Thiên Chúa.
1.1/ Mối thù hận giữa Esau và Jacob: Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần phải biết mối thù hận giữa hai anh em sinh đôi, Esau và Jacob. Tuy Esau là anh vì sinh ra trước; nhưng bà mẹ Rebekah đã lập kế hoạch để Jacob tước đoạt quyền trưởng nam và lời chúc lành từ cha là Isaac. Esau tức giận về kế hoạch này và tìm cách trả thù. Esau cùng với 400 thuộc hạ của ông đang trên đường đi gặp Jacob, và Jacob đang trên đường chạy trốn Esau, anh mình. Ông rất lo lắng cho số phận của ông và gia đình, nên ông đã cầu nguyện với Thiên Chúa: "Xin giải thoát con khỏi tay anh con, khỏi tay anh Esau, vì con sợ anh ấy, sợ anh ấy đến đánh chúng con, đánh cả mẹ lẫn con" (Gen 32:12).
(1) Cuộc vật lộn suốt đêm giữa Jacob và người lạ mặt: "Đêm đó, ông Jacob dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con, và ông lội qua sông Jabbok. Ông đem họ theo, đưa họ qua sông, rồi đưa tài sản của ông qua. Ông Jacob ở lại một mình; và có một người đến vật lộn với ông cho đến lúc rạng đông."
Cuộc vật lộn giữa con người với thần minh thường xảy ra trong các truyện thần thoại. Trong các câu truyện như thế, thần minh thường là người trấn giữ các con sông, thường có mặt lúc ban đêm, và thường bị buộc phải tiết lộ tông tích hay những điều bí mật cho con người. Tất cả những yếu tố này đều có trong trình thuật hôm nay. Điều này nói lên tác giả Sách Sáng Thế có thể bị ảnh hưởng bởi những truyện này, với mục đích để chuyển giao ý định của Thiên Chúa cho con người.
(2) Kết quả cuộc vật lộn: "Thấy không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp xương hông của ông Jacob bị trật đang khi ông vật lộn với người đó." Người lạ yêu cầu: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi." Người đó hỏi ông: "Tên ngươi là gì?" Ông đáp: "Tên tôi là Jacob." Ông Jacob hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta?" Và người đó chúc phúc cho ông tại đấy.
Người lạ mặt từ chối mặc khải tên mình cho Jacob; nhưng sự kiện người đó chúc lành cho Jacob mặc khải phần nào tông tích của Ngài. Jacob có thể đoán ra được qua việc ông đặt tên cho nơi đó là Peniel, có nghĩa "mặt của Thiên Chúa." Hơn nữa, lời giải thích sau đó cũng chứng minh Jacob biết đó là Thiên Chúa: Ông Jacob đặt tên cho nơi đó là Penuel, "vì ông nói: tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng."
1.2/ Hậu quả của cuộc vật lộn:
(1) Thiên Chúa đổi tên và chúc lành cho Jacob: Thiên Chúa đổi tên cho Jacob thành Israel, có nghĩa: "người đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng." Động từ thi đấu dùng ở đây là "sarah" được dùng ở thời quá khứ với tiếp vĩ ngữ là "yisra-el." Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Israel được ví như một cuộc vật lộn, và Israel sẽ thắng dù không xứng đáng. Đổi tên ai là trao cho người đó cho một sứ vụ. Thiên Chúa trao cho Jacob sứ vụ là tổ-phụ của một dân riêng. Dân riêng này mang tên của ông là Israel, dân luôn được Thiên Chúa chúc lành.
(2) Jacob bị trật xương hông: Tuy Jacob thắng thế, nhưng ông phải trả giá cho cuộc vật lộn chứ không hoàn toàn bình an vô sự: ông phải đi khập khiễng vì bị trật xương hông. Việc dân Do-thái không ăn gân đùi có lẽ là một truyền thống xa xưa, vì người Do-thái không còn thói quen này nữa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu kiên trì chữa lành và dạy dỗ con người.
2.1/ Chúa Giêsu đi khắp nơi để chữa lành và rao giảng Tin Mừng: Trong 3 năm công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã lang thang khắp miền Palestine để rao giảng Tin Mừng và chữa lành các vết thương hồn xác cho con người. Tuy thế, Ngài cũng gặp biết bao chống đối từ các kinh-sư, luật sĩ, và nhà cầm quyền Rôma. Trình thuật hôm nay là một trường hợp điển hình.
(1) Hai phản ứng trước phép lạ Chúa Giêsu trục xuất quỉ ám ra khỏi người câm:
+ Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: "Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ!" Người chất phác thành thật thấy sao nói vậy; họ không bị ảnh hưởng bởi thành kiến và các tính toán lợi nhuận.
+ Nhưng người Pharisees lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ." Họ buộc tội Chúa có liên hệ với quỷ vương để khỏi phải tin và giữ những gì Chúa dạy; hơn nữa, họ không muốn toàn dân tin theo Chúa vì họ sẽ mất uy quyền, thế lực, và những lợi nhuận vật chất.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Chẳng quan tâm đến những lời phê bình của họ, Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Ba việc tông đồ Ngài làm gương cho chúng ta:
+ Dạy dỗ: để dân chúng biết đâu là sự thật từ biết bao điều sai trái trong thế gian.
+ Rao giảng Tin Mừng: loan báo tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người, và chỉ đường cho con người biết sống làm sao để đạt được hạnh phúc muôn đời bên Ngài.
+ Chữa lành mọi vết thương hồn xác: Chúa Giêsu cảm thương với những đau khổ hồn xác của con người. Ngài muốn mặc lấy để cứu chữa hay cất đi tất cả khổ đau mà con người phải chịu.
2.2/ Chúa Giêsu lo lắng nhân loại không đủ người dẫn dắt: Không phải chỉ lo cho thế hệ đương thời, Ngài còn lo cho các thế hệ tương lai. Chỉ một câu vắn vỏi, nhưng đã lột tả hết sự quan tâm của Chúa Giêsu: "Khi Đức Giêsu nhìn thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt." Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn quan tâm đến cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ngài tìm đủ mọi cách để săn sóc, dạy dỗ, và chữa lành mọi vết thương hồn xác của chúng ta.
- Chúng ta phải kiên trì với Thiên Chúa trong đau khổ và thử thách. Một khi đã được chữa lành, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa trong việc săn sóc, dạy dỗ, và chữa lành tha nhân.
- Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt quá ít ỏi. Trong Năm Thánh Linh Mục, chúng ta hãy tìm mọi cách để gia tăng ơn gọi linh mục và tu sĩ; để có nhiều thợ rành nghề làm việc cho Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 14 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 28:10-22; Mt 9:18-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người.
Nhiều người trong chúng ta tự hỏi: Làm sao Thiên Chúa có thể nghe một lúc biết bao những lời cầu xin dâng lên Ngài, và làm sao Ngài có thể nhớ hết những lời cầu xin này mà ban ơn? Kinh Thánh chứng minh: nhiều lần Thiên Chúa dùng các thiên thần như những sứ giả để chuyển đến Ngài những lời cầu xin của con người, và chuyển đến con người những mệnh lệnh của Thiên Chúa. Các thiên thần hộ thủ là những người có bổn phận trực tiếp với con người.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng Thiên Chúa vẫn hằng quan tâm đến con người, nhất là trong những lúc lo âu, tuyệt vọng, và chết chóc. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật giấc mơ chiếc thang bắc từ đất lên tới trời, với sứ thần của Thiên Chúa lên xuống trên chiếc thang này để làm những sứ giả giữa Thiên Chúa và con người. Trong giấc mơ, Thiên Chúa hứa sẽ thực hiện lời Ngài đã hứa với Abraham và Isaac; đồng thời Ngài cũng hứa sẽ bảo vệ Jacob ở mọi nơi và trong tất cả việc ông làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành hai bệnh nhân "không sạch:" Một người bị băng huyết nhưng với một niềm tin vững mạnh tới và sờ vào tua áo của Ngài. Một em bé đã chết, nhưng nhờ lòng tin của người cha, đã được Chúa Giêsu cho sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa xác tín lời chúc lành của Isaac cho Jacob.
1.1/ Giấc mơ chiếc thang của Jacob: Trình thuật kể: "Jacob ra khỏi Beer Sheba và đi về Haran. Cậu đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống."
Jacob đang trên đường trốn chạy Esau, anh ông; vì ông đã theo kế hoạch của mẹ, tước đoạt quyền trưởng nam của Esau. Jacob sợ anh sẽ kiếm kế trả thù, nên phải chạy trốn để bảo toàn tính mạng. Chiêm bao là một cách thường xuyên Thiên Chúa dùng để mặc khải ý định của Ngài, như chúng ta sẽ thấy được dùng thường xuyên trong trình thuật của Giuse, con của Jacob. Chiếc thang được dùng để nối kết giữa Trời và đất; và các thiên thần là những sứ giả của Thiên Chúa. Họ đem lệnh truyền từ Thiên Chúa xuống con người và dâng lời cầu nguyện của con người lên Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu nhắc lại biến cố chiếc thang nối liền giữa trời và đất này cho Nathanael; trong đó, Chúa Giêsu ví mình như chiếc thang mà các thiên thần sẽ lên xuống (Jn 1:51). Lời hứa của Thiên Chúa với Jacob gồm hai phần.
- Phần thứ nhất, Thiên Chúa lặp lại lời Ngài đã hứa với Abraham và Isaac về việc ban Đất Hứa và con đàn cháu đống: "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Abraham, tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa của Isaac. Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và giòng dõi ngươi. Giòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông tây nam bắc. Nhờ ngươi và giòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."
- Phần thứ hai là lời hứa của Thiên Chúa sẽ bảo vệ Jacob: "Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi." Qua lời hứa này, Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho Jacob biết Ngài không bị giới hạn vào không gian hay thời gian; Jacob không phải lo sợ bất cứ một kẻ thù nào cả. Lời hứa này được thực hiện khi Jacob sang Ai-cập đoàn tụ với Giuse, con mình, và khi chết được mang về an nghỉ trong phần đất của tổ tiên mà Thiên Chúa đã hứa.
Khi Jacob tỉnh giấc, ông nói: "Quả thật, có Đức Chúa ở nơi này mà tôi không biết!" Đất Canaan mà Jacob đang nằm là vùng đất của Dân Ngoại. Nêu lên điều này, tác giả Sách Sáng Thế muốn chứng minh chỉ có Thiên Chúa của Do-thái là Thiên Chúa thật. Ngài hiện diện ở mọi nơi, ngay cả những vùng được coi là chỗ linh thiêng của Dân Ngoại.
1.2/ Hành động của Jacob sau khi tỉnh giấc mơ.
(1) Đặt tên cho nơi đó là Bethel: Jacob phát sợ và nói: "Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác." Sáng hôm sau, Jacob dậy sớm, lấy hòn đá cậu đã gối đầu, dựng lên làm trụ và đổ dầu lên đầu trụ. Cậu đặt tên cho nơi đó là Bethel; trước đó, tên thành ấy là Luz. Sự kiện đặt viên đá và đổ dầu lên trên là hành động thánh hiến nơi thánh như thánh đường chúng ta hay làm hiện nay. Nhà của Thiên Chúa sẽ được dựng nên tại Bethel, và trở thành Đền Thờ của vương quốc Israel sau này. Bethel chỉ cách Jerusalem khoảng 10 km về phía Nam, và là một vị thế chiến lược rất quan trọng.
(2) Lời khấn hứa của Jacob cũng gồm hai phần:
+ Phần của Thiên Chúa: Ông khấn: "Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, nếu tôi được trở về nhà cha tôi bình an... "
+ Phần của Jacob: "Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi, hòn đá này là hòn đá tôi đã dựng lên làm trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa, và lạy Chúa, mọi sự Ngài ban cho con, con sẽ dâng cho Ngài một phần mười." Thói quen dâng cúng một phần mười lợi tức cho Thiên Chúa, được mô tả rõ ràng trong Sách Lêvi, có nguồn gốc từ đây.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu hy sinh việc giữ Lề Luật để chữa lành cho hai bệnh nhân không sạch.
2.1/ Chúa chữa lành người đàn bà bị loạn huyết: Luật không cho phép đụng vào người phụ nữ đang bị chảy máu như người đàn bà này, vì không sạch (Lv 15:25). Có lẽ vì lý do để tránh cho Chúa Giêsu trở thành không sạch "cách công khai," mà một người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm tiến đến phía sau Chúa Giêsu, và sờ vào tua áo của Người, vì bà nghĩ bụng: "Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu!"
Trong trình thuật dài hơn của Marcô, Chúa Giêsu quay lại hỏi "Ai đã sờ vào áo Ta?" Trình thuật của Matthew chỉ tường thuật phần sau của câu truyện: Chúa Giêsu quay lại thấy bà thì nói: "Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con." Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa.
2.2/ Chúa cho con gái viên thủ lãnh đã chết được sống lại: Luật cũng không cho phép đụng vào xác chết, ai đụng vào xác chết sẽ trở thành không sạch. Biết như thế, nhưng một vị thủ lãnh vẫn đến gần bái lạy Người và nói: "Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống." Đức Giêsu đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi với Người.
Đức Giêsu đến nhà viên thủ lãnh; thấy phường kèn và đám đông xôn xao, Người nói: "Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Nhưng họ chế nhạo Người. Khi đám đông bị đuổi ra rồi, thì Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa hằng quan tâm đến cuộc sống của con người. Chúng ta hãy luôn giữ thái độ tin tưởng và cầu xin với Ngài trong mọi trạng huống của cuộc đời: khi vui cũng như lúc sầu khổ.
- Chúng ta không bao giờ được phép tuyệt vọng cho dù hoàn cảnh có bi đát đến đâu chăng nữa. Nếu Thiên Chúa có thể cho kẻ đã chết sống lại, không gì là không thể đối với Ngài.
- Thiên Chúa luôn trung thành giữ những gì Ngài hứa: Ngài luôn bảo vệ con cái Ngài dù họ lưu lạc bất cứ nơi nào.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
NHẬN RA SỨ GIẢ CỦA THIÊN CHÚA
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (05/07/2015)
[Ed 2,25; 2 Cr 12,710; Mc 6,16]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Kinh nghiệm đời sống tâm linh cho thấy nhiều người hoặc vì cứng đầu cứng cổ, hoặc vì thành kiến mà không nhận ra sứ giả của Thiên Chúa. Con cái Ítraen thời
ngôn sứ Êdêkien, vì cứng đầu cứng cổ, nên không nhận ra có một ngôn sứ đang ở
giữa họ là Êdêkien. Vị ngôn sứ là tiếng nói của Thiên Chúa, là người nói thay
Thiên Chúa, để chỉ dậy cho dân biết đường lối, ý định, kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa.
Còn dân làng Nadarét, vì thành kiến và không tin, nên không nhận ra Chúa Giêsu
là vị đại ngôn sứ, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa dân Người. Kinh nghiệm của người xưa phải giúp mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta nhậy bén
và tỉnh thức trong việc nhận ra các sứ giả của Thiên Chúa! Vậy xin mời các bạn đọc
kỹ và tìm hiểu các bài Sách Thánh hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Ed 2,25): Chúng vốn là nòi phản loạn, chúng phải biết
rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng. "2 Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho
chân tôi đứng 3 Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con
cái Ítraen, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như
cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày
mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: "Đức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này." 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc
không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng." 2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 12,710): Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi để sức
mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. "7 Thưa anh em, để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận
được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai
đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi
khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức
mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng
và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. 10
Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ,
ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh." 2.3 Trong bài Tin Mừng(Mc 6,16): Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở
chính quê hương mình.
"1 Hồi ấy, Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày
sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc
nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy,
nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta
không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết,
Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta
sao?" Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì
cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia
đình mình mà thôi." 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ
đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA
BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): 1o) Bài đọc 1 (Ed 2,25) là một trích đoạn của Sách Ngôn Sứ Êdêkien trong đó vị
ngôn sứ nói về sứ mạng mà Thiên Chúa đã ép ông phải nhận. Sứ mạng đó là nói Lời
Thiên Chúa cho những người Ítraen nổi tiếng là ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ!
Trong đoạn Thánh Kinh này chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng chịu đựng sự ngỗ
ngược và cứng đầu cứng cổ của dân Ítraen và tìm mọi cách để thay đổi họ, để biến
họ thành những người dễ bảo và vâng phục.
2o) Bài đọc 2 (2 Cr 12,710) là một trích đoạn của thư 2 Côrintô trong đó Thánh
Phaolô nói về sự yếu đuối hoặc khiếm khuyết hoặc cám dỗ thiêng liêng mà ngài
phải chịu đựng suốt cuộc đời. Chúng ta không rõ đó là gì, vì Thánh Phaolô nói một
cách rất mơ hồ là "một cái dằm." Cái dằm thì không đủ làm cho người ta chết,
nhưng nó làm cho người ta khó chịu và đau đớn. Điều chúng ta cần ghi nhận là nhờ
cái dằm ấy mà Thánh Phaolô sống cách khiêm tốn giữa bao ơn huệ lớn lao mà
Thiên Chúa đã ban cho ngài. Trong đoạn Thánh Thư này chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng ban mọi ơn cần thiết
cho Phaolô (và chúng ta), để Phaolô (và chúng ta) sống đẹp lòng Thiên Chúa, làm
chứng cho quyền năng của Người và phục vụ kế hoạch làm cho dân ngoại nhận biết
Thiên Chúa.
3o) Bài Tin Mừng (Mc 6,16) là bài tường thuật của Phúc âm Máccô về cách suy
nghĩ và hành động của những người đồng hương đối với Đức Giêsu ở Nadarét. Khi thấy Đức Giêsu bộc lộ sự khôn ngoan khác người, dân làng Nadarét cũng
ngạc nhiên và thắc mắc; nhưng họ hoặc chỉ dựa vào những gì họ biết về Người (cha
mẹ, họ hàng, nghề nghiệp, tài sản và giai cấp xã hội) hoặc ganh tỵ không muốn
Người hơn họ, nên sinh ra nghi ngờ và không tin, thậm chí còn tìm cách xô đẩy
Người xuống vực (xem Lc 4,29). Trong đoạn Phúc âm này chúng ta thấy Chúa Giêsu là Đấng rất đơn sơ chân chất và
hiền hòa, dễ thương. Bằng chứng là Người tỏ ra ngạc nhiên về thái độ không tin của
những người đồng hương và vui vẻ đi đến các làng chung quanh để giảng dạy.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?):
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là
mỗi người,
mỗi cộng đoàn (gia đình/giáo xứ/hội dòng) chúng ta
bỏ tính ngỗ ngược và thái độ cứng đầu cứng cổ, bỏ thành kiến và thái độ không tin,
mà nhận ra sứ giả của Thiên Chúa trong cuộc đời (cá nhân và cộng đoàn) mình.
Sứ giả của Thiên Chúa có thể là một người đóng vai sứ ngôn nói lời ngay thẳng khó
nghe vì lời ấy là lời của Thiên Chúa chân thật; có thể là chính Thiên Chúa dưới vẻ
bề ngoài của một người nghèo hèn, bị khinh rẻ và bị bỏ rơi bởi đồng loại.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã vì yêu thương chúng ta mà dùng các sứ gỉa để
nhắc nhở chúng ta nhớ Lời của Người, để cảnh cáo chúng ta về thái độ cứng đầu
cứng cổ hay thành kiến và không tin, mà sống theo Thánh Ý Người. 4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta được mời gọi chuyên cần lắng nghe và thực hành Lời Chúa, và mở rộng
tâm hồn và đời sống đón rước các sứ giả mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, rất
nhiều khi là một cách hết sức bất ngờ!
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý
thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ
bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe,
nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.» Chúng ta hiệp
lời cầu nguyện cho các dân tộc cứng lòng và mù quáng nên không nhận ra các sứ giả
và không đón nhận các sứ ngôn của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm
cho chân tôi đứng.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Đức Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các linh mục và phó tế,
luôn được Thần Khí Thiên Chúa chiếm hữu và hướng dẫn để các vị vững vàng trong
sứ mạng bênh vực công lý và sự thật. Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Người lấy làm lạ vì họ không tin.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho giáo dân
của giáo xứ chúng ta, cách riêng cho những người tham dự thánh lễ này, để ai nấy
có lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Chính Ta sai ngươi đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho các chiến sĩ truyền giáo, cho các cá nhân và tổ
chức bênh vực nhân quyền, bảo vệ sự sống và môi trường để họ trung kiên với sứ
mạng khó khăn trong các xã hội ngày nay. Xướng: Chúng ta cùng cầu nguyện!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- 05/7 Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật
- 04/7 Sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa
- 03/7 Phúc cho những ai tuy không thấy mà tin
- 02/7 Đức tin mang lại những điều tốt lành và có thể tha tội cho con người
- 01/7 Quan tâm lợi lộc trước mắt mà không nhìn thấy thiệt hại tương lai
- 30/6 Niềm tin là món quà quí giá nhất của cuộc đời
- 29/6 Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng
- 28/6 Thiên Chúa có toàn quyền trên đau khổ và sự chết
- 28/6 Sự sống là Thánh Thiêng
- 27/6 Thiên Chúa ban ơn cho ai tin Ngài và đối xử tử tế với mọi người