Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 9:1-4, 17-19, 10:1a; Mk 2:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công hiệu của Lời Chúa
Theo truyền thống Do-Thái, một khi lời nói phát xuất từ miệng một người, nó có thể hiện hữu cách độc lập. Nó không chỉ là một âm thanh với một ý nghĩa, nó còn có một năng lực thoát ra để hoàn thành ý định của người nói. Ví dụ, biết bao việc làm là hậu quả của những lệnh truyền của vua chúa và các vĩ nhân trên thế giới. Điều này càng đúng hơn với Lời Chúa. Theo tiên-tri Isaiah: "Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó" (Isa 55:10-11).
Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong việc đề cao sự quan trọng của Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa chọn ông Saul để làm vị vua đầu tiên của Israel, và Ngài xếp đặt mọi sự để ông ngôn-sứ Samuel gặp và xức dầu phong vương cho ông. Trong Phúc Âm, Lời của Chúa Giêsu có sức hấp dẫn một người thu thuế như Matthew, làm cho ông bỏ dĩ vãng và sự nghiệp thu thuế, để trở nên một Tông-đồ và một Thánh-ký nhiệt thành của Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): Đức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người.
1.1/ Thiên Chúa chọn Saul làm vua đầu tiên của Israel: Nhìn lại cách chọn người lãnh đạo của Thiên Chúa, chúng ta thấy Ngài không theo cách chọn lựa của con người. Con người thường có khuynh hướng chọn người trong những dòng tộc quan trọng, Thiên Chúa chọn Saul từ dòng dõi Benjamin, một dòng tộc nhỏ nhất trong 12 chi tộc của Israel. Khi chọn David để thay thế Saul cũng thế, Thiên Chúa không chọn các người con lớn và khỏe mạnh của ông Jesse; nhưng lại chọn David, người con út là đứa chăn chiên đang ở ngoài đồng.
Sau khi đã chọn lựa, Ngài quan phòng để ngôn-sứ Samuel có cơ hội gặp Saul bằng việc mất các con lừa. Vì chuyện mất lừa, nên ông Kish, cha ông Saul, sai con ông đi tìm lừa: "Con hãy đem một trong các người đầy tớ đi với con và lên đường đi tìm lừa." Ông Saul đi qua miền núi Ephraim, rồi đi qua đất Shalishah, mà không tìm thấy. Họ đi qua đất Saalim: cũng không thấy gì. Ông đi qua đất Benjamin, mà không tìm thấy. Khi thấy trời đã tối, Saul muốn quay trở về nhà để cha mình khỏi mong mỏi; nhưng người đầy tớ thúc giục ông đi vào thành trước mặt để vấn ý thầy thị kiến cho biết những con lừa cái thất lạc hiện đang ở đâu.
1.2/ Ông Samuel xức dầu phong vương cho Saul: Cùng lúc ấy, Thiên Chúa cũng mặc khải cho ông Samuel trong một thị kiến, về người mà Ngài đã chọn để làm vua đầu tiên của Israel (I Sam 9:16). Khi ông Samuel thấy ông Saul thì Đức Chúa mách bảo ông: "Đây là người mà Ta đã nói với ngươi: chính nó sẽ cai trị dân Ta."
Khi ông Saul lại gần ông Samuel ở giữa cửa thành và nói: "Xin ông làm ơn cho tôi biết nhà thầy thị kiến ở đâu." Ông Samuel trả lời ông Saul rằng: "Tôi là thầy thị kiến đây. Ông hãy lên nơi cao, trước mặt tôi. Các ông sẽ dùng bữa với tôi hôm nay. Sáng mai tôi sẽ để cho ông đi và sẽ nói cho ông biết tất cả những gì đang làm ông bận tâm."
Hôm sau, ông Samuel dậy sớm để tiễn Saul lên đường; và trên đường đi, ông Samuel lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Saul, rồi hôn ông và nói: "Chẳng phải Đức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao?'' Và ông Samuel cũng cho ông Saul biết về chuyện những con lừa cái đã được cha ông tìm lại được.
Qua sự quan phòng kỳ diệu này cho chúng ta thấy tất cả tiến trình chọn người và phong vương được xếp đặt bởi Thiên Chúa. Saul không biết và cũng không có ý định trở thành vua. Khi Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ xếp đặt mọi sự để việc ấy thành sự.
2/ Phúc Âm: Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.
2.1/ Chúa Giêsu gọi Lêvi, người thu thuế: "Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người."
Người Do-Thái quan niệm: người thu thuế như ông Lêvi là người tội lỗi công khai, vì đã toa rập với nước ngòai để bóc lột dân chúng. Họ bị ngăn cấm không cho vào Đền Thờ, và được xếp hạng cùng với hàng đĩ điếm và trộm cướp. Chúa Giêsu không những chọn Matthew, mà còn công khai dùng bữa với các người thu thuế khác tại nhà ông. Thái độ của Matthew rất anh hùng và dứt khoát, vì một khi đã bỏ nghề thu thuế là ông đã mất tất cả về phương diện vật chất. Nhưng bù lại, ông đã nhận được rất nhiều về phương diện tinh thần: bình an vì từ nay không còn bị khinh thường, trở thành Tông-đồ, và trở thành Thánh-sử để loan báo Tin Mừng của Chúa.
2.2/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm Biệt-phái: Có hai phản ứng chính trong cuộc trở lại của Matthew:
(1) Những kinh-sư thuộc nhóm biệt-phái: Thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: "Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!" Họ có lý phần nào khi kết tội Chúa Giêsu, vì như quan niệm của cha mẹ Việt-nam "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng." Nhưng quan niệm này không thể áp dụng cho Đức Kitô, vì Ngài đến để chinh phục và mang con người về cho Thiên Chúa.
(2) Đức Giêsu nói với họ: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." Ngược lại với cách cư xử của con người, Thiên Chúa không giữ quá khứ tội lỗi của con người; trái lại Ngài không ngừng kêu gọi con người từ bỏ quá khứ tội lỗi để hướng về tương lai. Như một bác sĩ rành nghề, Chúa Giêsu biết Ngài có thể chữa bệnh cho Matthew, và dùng những tài năng sẵn có của ông cho việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lời Chúa có sức để làm hiện thực những chuyện không thể đối với con người. Chúng ta đừng bao giờ khinh thường hiệu quả của Lời Chúa.
- Lời Chúa có uy quyền thay đổi những tâm hồn tội lỗi thành thánh thiện. Khi chúng ta quyết định áp dụng Lời Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ gặt hái những kết quả mà chúng ta không bao giờ nghĩ có thể đạt được.
- Chúng ta phải dành địa vị quan trọng cho Lời Chúa trong cuộc đời, được chứng tỏ qua việc chúng ta dành thời gian, cố gắng khắc phục khó khăn, và thực thi Lời Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 8:4-7, 10-22a; Mk 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa.
Thiên Chúa luôn dạy dỗ và hướng dẫn con người trong mọi sự, ngày xưa cũng như thời nay; nhưng rất ít người chịu lắng nghe, tìm hiểu, và mang ra thực hành. Vì thế, không lạ gì mà con người vẫn tiếp tục cuộc sống triền miên đau khổ trong tội lỗi của mình.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người cần lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến việc: nếu con người không chịu tuân giữ Lời Chúa dạy, họ sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Người. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel xin ngôn-sứ Samuel chọn cho họ một vị vua như bao quốc gia khác để cai trị họ, vì họ đã mất tin tưởng nơi ông, và không còn muốn nghe lời hướng dẫn của Thiên Chúa qua ông nữa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng uy quyền chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội; và như một hậu quả, Ngài đến từ Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng."
1.1/ Con người không thấu hiểu điều mình xin: "Đứng núi này trông núi kia" luôn là ảo tưởng của con người. Họ thường không bao giờ bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại và cảm nhận được hạnh phúc trong những gì họ đang có; nhưng luôn mong muốn, tìm tòi, và cầu xin cho được những gì họ nghĩ phải có thì mới hạnh phúc. Kết quả là họ chẳng bao giờ có được bình an và hạnh phúc như lòng mong muốn. Trình thuật hôm nay là một ví dụ điển hình.
(1) Dân chúng không muốn nghe lời ông Samuel, ngôn sứ của Thiên Chúa: Toàn thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Samuel ở Ramah. Họ nói với ông: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi, như trong tất cả các dân tộc."
(2) Dân chúng không muốn Thiên Chúa làm vua cai trị họ: Ông Samuel rất bực mình với lời yêu cầu và ông cầu nguyện với Đức Chúa cho biết phải giải quyết cách nào. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng.''
1.2/ Con người phải lãnh nhận hậu quả của những gì mình mong muốn.
(1) Thiên Chúa báo trước hậu quả: Dân chúng không đủ khôn ngoan để tiên liệu trước những gì sẽ xảy ra do việc có vua cai trị; vì thế, Thiên Chúa phải báo trước những hậu quả do việc có vua: "Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em: Các con trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông... Các con gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. Đồng ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi của ông... Các tôi tớ nam nữ, các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà dùng vào việc của ông. Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Đức Chúa sẽ không đáp lời anh em."
(2) Dân chúng chấp nhận hậu quả: Nếu những người có khôn ngoan đủ, họ sẽ nhận ra điều các kỳ mục xin là rồ dại, vì những lý do sau: Thứ nhất, làm sao kiếm được một vị vua nào cai trị dân khôn ngoan hơn Thiên Chúa? Thứ hai, họ được tự do khi Thiên Chúa cai trị; nhưng họ và con cháu họ phải làm nô lệ khi có vua. Thứ ba, họ phải đóng đủ mọi thứ thuế để có tiền trang trải cho những nhu cầu của nhà vua. Sau cùng, nếu họ đã lựa chọn có vua, họ sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả; lúc đó, họ có kêu trách, cũng đã quá muộn.
Nhưng dân vẫn cứng đầu, không chịu nghe theo những lời cắt nghĩa của ông Samuel. Họ nói: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi." Ông Samuel nghe tất cả những lời của dân và nói lại những lời ấy cho Đức Chúa nghe. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là Thiên Chúa vì Ngài làm được những việc Thiên Chúa làm.
2.1/ Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: Trình thuật kể: "Đang khi Người giảng dạy cho họ, người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống." Mái nhà của người Do-Thái không xuôi ra hai bên như mái nhà chúng ta, mà phẳng như hình chữ nhật để người ta có thể dùng làm sân thượng để hóng mát. Vì thế, việc dỡ mái nhà xuống cũng đơn giản và ít gây thiệt hại. Khi thấy cách biểu lộ niềm tin của họ, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi." Tội này có thể là tội dỡ mái nhà hay tội của người bại liệt.
2.2/ Chúa Giêsu có quyền tha tội:
(1) Tội lỗi và hình phạt: Theo truyền thống Do-Thái, hình phạt là hậu quả của tội lỗi: có thể của cá nhân hay của cha mẹ (Job 4:7, Jn 9:2). Các Rabbi có câu: "Không người bệnh nào được lành bệnh cho tới khi tất cả tội lỗi của anh được tha thứ."
(2) Lý luận của Chúa Giêsu: Khi Ta tha hình phạt qua việc chữa lành, là Ta tha tội, nguyên nhân của hình phạt.
(3) Lý luận của các Kinh-sư: Trong đám đông, có nhiều các Kinh-sư đến không phải để nghe Thiên Chúa giảng, nhưng để bới lá tìm sâu để có thể kết án Chúa, và họ nghĩ họ đã tìm ra lý do để kết án Chúa phạm thượng: " Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?"
(4) Chúa Giêsu dùng lý luận của các Kinh-sư và việc chữa lành để chứng minh cho họ biết Ngài là Thiên Chúa: "Tâm trí Đức Giêsu thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi," hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi," điều nào dễ hơn?" Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo "Con đã được tha tội rồi;" vì không ai có thể kiểm chứng được, còn điều khó làm là bảo "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi;" phải là người có uy quyền mới làm được và mọi người đều kiểm chứng.
"Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nghe giảng là để dẫn tới đức tin hay làm cho đức tin tăng trưởng hơn, chứ không phải nghe cho qua lần chiếu lệ. Cả người rao giảng lẫn các tín hữu, chúng ta phải tôn trọng lúc lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa.
- Nếu chúng ta khinh thường hay không chịu chuẩn bị, chúng ta đã hoang phí thời giờ của người rao giảng cũng như người nghe; và nhất là không đạt được mục đích của cuộc đời: được sống với Thiên Chúa muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 4:1-11; Mk 1:40-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả xấu.
Trong cuộc sống, mọi người chúng ta đều nhận ra nguyên tắc: nếu muốn kết quả tốt đẹp, phải thi hành những điều kiện đòi hỏi; vì nếu làm ngược lại, chúng ta sẽ phải lãnh mọi hậu quả xấu. Ví dụ, để có thể lành bệnh, con người phải làm theo những gì bác sĩ căn dặn; nếu không, sẽ không khỏi bệnh. Để có thể thu thập kiến thức và đạt được điểm cao, học sinh phải lắng nghe giáo sư và viết lại những gì giáo sư nói; nếu nói ngược lại và không có lý do chứng minh, sẽ bị điểm xấu và có thể bị ở lại lớp.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải vâng lời Thiên Chúa và thi hành những gì Ngài dạy, nếu muốn được Thiên Chúa săn sóc và ban ơn. Làm ngược lại những gì Thiên Chúa dạy là tự chuốc hậu quả xấu cho mình. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel nghĩ nếu họ cứ mang Hòm Bia Thiên Chúa ra chiến trường, mà không cần biết có lệnh Thiên Chúa hay không, là sẽ toàn thắng quân thù. Kết quả là họ đã thảm bại và Hòm Bia Thiên Chúa rơi vào tay quân Philistines. Trong Phúc Âm, mặc dù đã được ngăn cấm bởi Đức Kitô, người phong hủi vẫn không vâng lời. Sự bất tuân của anh làm cho Chúa Giêsu không thể vào thành và dạy dỗ dân chúng được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao hôm nay Đức Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại?
1.1/ Đừng nghĩ Thiên Chúa luôn bảo vệ mà dân chúng không cần ăn năn: Trong lịch sử Cựu Ước, cứ khi nào dân chúng vâng lời làm theo những gì Thiên Chúa dạy, họ được Ngài bảo vệ khỏi tay quân thù, và làm việc gì cũng thành công; nhưng khi họ bất tuân lệnh Thiên Chúa, Ngài sẽ bỏ mặc họ cho quân thù tứ bề xâu xé, và họ sẽ phải chịu mọi thảm bại cách nhục nhã. Trình thuật hôm nay là một dẫn chứng: Các con cái của thầy cả Eli là Hophni và Phinehas và nhiều người trong con cái của Israel càng ngày càng bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả khi họ giao chiến với quân đội của Philistines, họ bị thảm bại và bị thiệt hại khoảng 4,000 người.
(1) Phản ứng của các kỳ mục Israel: Khi dân trở về trại, các kỳ mục Israel nói: "Sao hôm nay Đức Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại? Chúng ta hãy đi Shiloh lấy Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa về: Hòm Bia sẽ đến giữa chúng ta và sẽ cứu chúng ta khỏi bàn tay quân thù." Họ chỉ nghĩ đơn giản là họ sẽ chiến thắng quân thù nếu có sự hiện diện của Hòm Bia Thiên Chúa. Thế là họ sai người đi Shiloh; từ đó họ mang về Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá; ở đó, bên cạnh Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, có hai con ông Eli là Hophni và Phinehas. Khi Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa xuống trại, toàn thể Israel hò reo vang dội khiến đất rung chuyển.
(2) Phản ứng của người Philistines: Khi người Philistines nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau: "Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Do-thái là gì vậy?" Khi chúng biết là Hòm Bia Đức Chúa đã đến trại, chúng sợ hãi và nói với nhau: "Một vị thần đã đến trại!" Rồi chúng bảo nhau: "Khốn thân ta, vì trước đây không có như vậy! Khốn thân ta! Ai sẽ giải thoát ta khỏi tay những thần hùng mạnh ấy? Đó là những thần đã dùng mọi thứ đòn mà đánh phạt người Ai-cập trong sa mạc." Nhưng vì bị dồn vào thế phải chiến đấu, nên người lãnh đạo quân đội Philistines phải lên tiếng động viên tinh thần các binh sĩ: "Hỡi người Philistines, can đảm lên, hãy tỏ ra là nam nhi, kẻo phải làm nô lệ cho bọn Do-thái như chúng đã làm nô lệ cho anh em. Hãy tỏ ra là nam nhi và chiến đấu!" Và họ tiến lên giao chiến với quân đội của Israel.
1.2/ Kết quả của cuộc chiến: Hôm đó là một cuộc thảm bại nhục nhã của Israel. Họ bị quân đội Philistines đánh bại tan tành. Phía Israel có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. Hòm Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con ông Eli là Hophni và Phinehas bị giết. Số còn lại chạy trốn về lều của mình.
Con cái Israel học được một bài học: Không phải cứ có Hòm Bia Thiên Chúa là tự động được Thiên Chúa bảo vệ. Họ không thể điều khiển Thiên Chúa; nhưng bổn phận của họ là phải vâng lời Ngài, nếu muốn được Ngài bảo vệ.
2/ Phúc Âm: Người phong cùi được chữa lành, nhưng không nghe lời Thiên Chúa.
2.1/ Chúa Giêsu chữa lành người phong cùi: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.
2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu: Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." Mục đích tại sao Chúa Giêsu làm phép lạ là vì thương bệnh nhân và muốn cho họ nhận ra Ngài là Thiên Chúa, chứ không phải để được tán dương ca tụng. Nếu sau khi lãnh nhận phép lạ, mà vẫn không tin vào Ngài, phép lạ đó coi như đã không đạt được mục đích.
2.3/ Anh được chữa lành phong hủi không nghe lời Chúa Giêsu: Trình thuật kể: "Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành." Chúng ta cứ thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra cho anh phong cùi này, nếu Chúa Giêsu là một ông vua hay nhà lãnh đạo quân sự?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận của chúng ta là phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa và tuân giữ những gì Ngài truyền dạy.
- Vâng lời Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo đại diện cho Ngài không phải là hèn kém hay nô lệ, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan của chúng ta; vì chúng ta biết họ khôn ngoan và yêu thương chúng ta.
- Chúng ta được Thiên Chúa bảo vệ và gìn giữ không phải vì danh xưng là những người Kitô hữu; nhưng vì chúng ta vâng lời và thực hành những gì Ngài truyền dạy chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 3:1-10, 19-20; Mk 1:29-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là Thượng-tế nhân-từ và trung-tín.
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Có đau mắt mới biết thương người mù." Có là cha mẹ mới biết nỗi khổ của việc cưu mang và dưỡng nuôi con cái. Có trải qua đau khổ và cám dỗ, một người mới có thể giúp ai trong hoàn cảnh đó. Các Bài đọc hôm nay xoay quanh vấn nạn tại sao Chúa Giêsu phải nhập thể và trở nên hoàn toàn giống như con người về mọi phương diện, trừ tội lỗi.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, thầy cả Eli dùng kinh nghiệm để dạy cho con trẻ Samuel biết lắng nghe và nhận ra tiếng Thiên Chúa trong đêm trường tỉnh thức và cầu nguyện. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng cảm với số phận con người: Ngài chữa lành cho mẹ vợ Phêrô và tất cả mọi người trong Thành Capernaum kéo đến kêu xin. Ngài cũng dạy cho các tông-đồ biết thăng bằng giữa các họat động tông-đồ với đời sống cầu nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
1.1/ Những đức tính cần thiết của người ngôn sứ: Để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, con người phải tập để có những đức tính sau:
(1) Tĩnh lặng: Đền thờ là một trong những nơi Thiên Chúa nói với con người, Samuel ngủ trong Đền Thờ với Thiên Chúa. Ngoài ra, sa mạc hay đỉnh núi cũng là chỗ Thiên Chúa tỏ mình cho con người. Khi không có cơ hội, phòng riêng cũng là nơi tốt để cầu nguyện. Ngược lại, ồn ào làm con người chia trí và tâm hồn không thể lắng đọng để nghe tiếng Thiên Chúa.
(2) Tỉnh thức: Chúa Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững. Cậu bé Samuel trong trình thuật hôm nay rất bén nhạy với tiếng gọi, ba lần cậu giật mình tỉnh thức trong đêm trường. Các thánh có thói quen cầu nguyện trong đêm tối; vì là thời gian Thiên Chúa tỏ mình cho con người. Ngôn sứ cần có tỉnh thức để nhận ra nhu cầu của con người chung quanh trước khi có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Những ai mê ngủ khó có thể nghe được tiếng Chúa và tiếng kêu cứu của tha nhân.
(3) Mau mắn vâng lời: Ba lần nghe tiếng gọi trong đêm, ba lần Samuel mau mắn chạy tới với thầy cả Eli để xem Thầy cần gì. Samuel không nản chí khi Thầy truyền về ngủ lại cả ba lần. Nếu Samuel nản chí, cậu sẽ không có cơ hội được Thiên Chúa tỏ mình. Ngôn sứ không chỉ lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng còn phải mau mắn vâng lời và làm theo ý của Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa đang thử luyện cậu bé Samuel trước khi trao sứ vụ ngôn sứ cho cậu. Làm sao Thiên Chúa có thể trao sứ vụ cho những người ù lỳ không thi hành những gì Ngài mong muốn.
1.2/ Kinh nghiệm của thầy cả Eli: Con người cần lắng nghe để học hỏi kinh nghiệm và vâng lời sự chỉ dẫn của những người hữu trách, vì đó là một trong những cách thức Thiên Chúa dùng để huấn luyện con người. Một người không chịu lắng nghe và học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước thường sẽ bị trả giá nặng nề. Trong trình thuật hôm nay, thầy cả Eli truyền kinh nghiệm của mình cho Samuel để cậu có thể lắng nghe tiếng của Ngài: "Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
Sau khi nhận được cách thức đáp lại tiếng Thiên Chúa của Thầy, Samuel về ngủ ở chỗ của mình. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Samuel! Samuel!" Samuel thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
Kể từ đó, Thiên Chúa thường xuyên nói chuyện với Samuel. Đức Chúa ở với ông và ông không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu. Toàn thể Israel, từ Dan tới Beer-Sheba, đều biết rằng ông Samuel được Đức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu đồng cảm với con người. Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
2.1/ Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc của Phêrô: "Vừa ra khỏi hội đường Capernaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài."
Trong hành trình của Chúa trên dương gian, Ngài luôn đồng cảm với con người, nhất là những bệnh nhân và những người lâm cảnh khốn khó. Ngài luôn chữa lành khi họ kêu xin; và nhiều khi họ chưa kêu xin nữa.
2.2/ Chúa Giêsu chữa bệnh cho rất nhiều người trong thành: "Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai." Sở dĩ họ phải chờ chiều đến, là Luật Do-Thái không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.3/ Chúa Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó."
(1) Sự cần thiết của đời sống cầu nguyện: Khi Ngài còn đang cầu nguyện, ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" Cả một ngày vất vả dạy dỗ và chữa bệnh, Chúa Giêsu vẫn tìm được thời gian để cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn dạy các môn đệ: cần phải thăng bằng giữa đời sống kết hợp với Thiên Chúa để
nuôi dưỡng các họat động tông-đồ.
(2) Nước Chúa cần được mở rộng khắp nơi: Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người tông-đồ của Chúa Giêsu phải biết cảm thương với số phận của con người: ngây thơ, yếu đuối, bệnh tật, đau khổ, và tội lỗi, trước khi có thể giúp đỡ đem họ về cho Chúa.
- Chúng ta cần phải giữ thăng bằng cho đời sống: có thời giờ cho các họat động tông đồ và có thời giờ để cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
- Để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, chúng ta cần tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tránh xa mọi chia trí của cuộc sống.
- Chúng ta cần trưởng thành trong đời sống để tự giúp mình, và để lãnh trách nhiệm trong việc mở mang Nước Chúa, chứ không được hoàn toàn sống ỷ lại vào người khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 1 TN2
Bài đọc: I Sam 1:1-8; Mk 1:14-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cùng nhau làm việc.
Người Việt Nam chúng ta rất thành công khi làm việc một mình; nhưng thường thất bại khi phải làm việc chung với người khác. Lý do là vì chúng ta sợ: sợ bị mất quyền hành, sợ người khác hơn mình, sợ phải san sẻ lợi lộc cho người khác. Để có thể làm việc chung, chúng ta phải vượt qua những nỗi lo sợ này; phải cho các cộng sự viên của mình cơ hội để họ chứng minh họ xứng đáng với niềm tin của chúng ta; và phải nhìn thấy những mối lợi do sự làm việc chung mang lại hơn là lo sợ những gì chúng ta phải mất.
Hơn nữa, để làm việc chung có hiệu quả, trước khi trao công việc, chúng ta phải: huấn luyện để các cộng sự viên biết làm những gì chúng ta trao cho họ; trao việc là phải trao quyền hành: cộng sự viên là những người đại diện chúng ta để giải quyết vấn đề, chúng ta cần cho họ biết trước những giới hạn về quyền hành nếu có; và phải giúp mọi phương tiện, để họ có thể thi hành sứ vụ được trao phó.
Các Bài đọc hôm nay cho thấy ích lợi của làm việc chung: Trong Bài Đọc I, tác giả nêu lên sự tương phản giữa sự khinh thường và sự thông cảm hoàn cảnh đau khổ của bà Hannah. Bà Peninnah luôn tìm cơ hội để chọc tức và khinh thường; trong khi ông Elkanah luôn tìm dịp an ủi và yêu thương bà Hannah. Trong Phúc Âm, sau khi nhận lãnh sứ vụ từ Chúa Cha, Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên để Ngài huấn luyện họ, trước khi sai họ đi để tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài Đọc I: Hai thái độ trước nỗi đau khổ của tha nhân
1.1/ Thái độ khinh thường và chọc tức của bà Peninnah: Trình thuật kể ông Elkanah có hai vợ: bà Peninnah và bà Hannah. Bà Peninnah có con, còn bà Hannah không có con. Hằng năm, ông Elkanah đưa gia đình lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Đức Chúa các đạo binh tại Shiloh. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Hannah, thì ông chia cho một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được.
Ông Elkanah đối xử công bằng đồng đều và yêu thương mọi người trong gia đình; nhưng bà Peninnah thì không. Bà luôn kiếm cơ hội để chọc tức và hạ nhục bà Hannah, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Đây là điều thường xảy ra cho những người có nhiều vợ, vì bà nào cũng muốn không những được chồng thương yêu; nhưng còn phải ghét bỏ những bà khác.
1.2/ Thái độ thông cảm với nỗi buồn tủi của bà Hannah: Khi nhìn thấy nỗi đau khổ của bà Hannah, ông Elkanah biết ông không thể thay đổi tính kiêu ngạo và ghen tị của bà Peninnah; nên ông dành tình yêu thương cho Bà Hannah nhiều hơn. Khi thấy bà khóc và không chịu ăn, ông Elkanah an ủi bà: "Hannah, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?"
Làm vợ mà không có con là một sự sỉ nhục cho người đàn bà. Miệng lưỡi người thế gian thường cho là hậu quả của việc ăn ở thất nhân ác đức. Đó là lý do bà Hannah u sầu đau khổ: Bà biết mình không ăn ở thất nhân, ác đức; nên Bà đến cầu xin thống thiết với Thiên Chúa. Nếu Ngài thương cất nỗi nhục nhằn và ban cho Bà một mụn con trai, Bà sẽ dâng con trả lại cho Thiên Chúa, để nó phục vụ Ngài suốt đời; chứ Bà sẽ không giữ con cho mình. Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi đau khổ của Bà; nên qua miệng thầy cả Eli, Ngài hứa sẽ ban cho Bà điều Bà xin.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
2.1/ Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá: Trình thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu sau 30 năm ẩn mình tại Nazareth. Sứ điệp của Chúa Giêsu cho mọi người: "Thời kỳ đã mãn, và triều đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy xám hối và tin vào Tin Mừng." Hai điều quan trọng Chúa muốn nhấn mạnh đến:
(1) Thời giờ đã điểm, triều đại của Thiên Chúa đã đến: Giống như Thư Do-Thái, Marcô nhấn mạnh đến sự xuất hiện quan trọng của Chúa Giêsu: tuy vẫn có sự liên tục trong Kế Họach Cứu Độ, nhưng Chúa Giêsu mang Kế-hoạch này đến chỗ hoàn hảo.
(2) Anh em hãy xám hối và tin vào Tin Mừng: Đây là điều kiện để con người được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Để kiếm người cộng tác loan truyền sứ điệp, Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài không xa lạ gì với Biển Hồ Galilee và dân chài lưới, có thể Ngài đã từng dạo chơi chung quanh, và đã nói chuyện với họ; nhưng hôm nay, Ngài mời gọi họ bỏ mọi sự để cất bước theo Ngài. Nghề đánh cá là nghề khó nhọc và đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn: phải thả lưới bắt cá khi nào cá đi tìm mồi, chứ không phải muốn thả lúc nào thì thả. Thời giờ bắt cá thường là đêm tối cho đến lúc tảng sáng, đó là giờ ngủ của con người. Chúa Giêsu chỉ hứa hẹn với các ông một điều: "Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Nói cách khác, Ngài hứa sẽ huấn luyện các ông để cứu vớt linh hồn của người ta. Ngài muốn cho các ông nhận ra ý nghĩa của cuộc đời bằng chính việc các ông đang làm: Đánh cá để kiếm của ăn sinh sống không quan trọng cho bằng việc đánh cá để cứu linh hồn các con người đang cần đến các ông.
2.2/ Thái độ của các môn đệ khi được Chúa Giêsu gọi.
(1) Simon và Anrê: Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Thái độ của hai ông đáp trả rất can đảm và dứt khóat. Can đảm vì phải bỏ nghề nghiệp sinh sống, các ông không chút thắc mắc "giải nghệ rồi làm gì ăn?" Dứt khóat vì quyết định rất nhanh chóng, không tiếc nuối chút nào cả.
(2) Giacôbê và Gioan: Các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người. Hai ông không những bỏ nghề mà còn bỏ cả cha, đấng sinh thành ra mình. Chúa Giêsu phải có điều gì lôi cuốn các ông hơn là nghề nghiệp và tình cảm gia đình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có thể làm tất cả một mình, nhưng Ngài muốn sự cộng tác của con người. Ngài muốn con người cộng tác với nhau để cùng nhau sinh sống và giúp đỡ lẫn nhau. Để có thể làm việc chung, chúng ta cần tin tưởng, thông cảm, giúp đỡ, và tạo cơ hội thuận tiện cho tha nhân để họ có thể đóng góp vào công việc chung.
- Chúng ta cần tuyệt đối tránh thái độ kiêu ngạo, khinh thường tha nhân, và sợ họ hơn mình. Để có được những điều này, chúng ta cần có tầm nhìn rộng lớn, tích cực, và những lợi ích do làm việc chung mang lại.
- Chúng ta cần phản ứng cách tích cực trước lời mời gọi của Thiên Chúa; nhất là trong việc rao giảng Tin Mừng. Mỗi người được Chúa ban tài năng và hoàn cảnh khác nhau để góp phần trong việc mang Lời Chúa đến cho mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Năm ABC
Bài đọc: Isa 42:1-4, 6-7; Acts 10:34-38; A: Mt 3:13-17, (B: Mk 1:7-11, C: Lk 3:15-16, 21-22).
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô được tuyển chọn để thi hành sứ vụ.
Trong sự quan phòng điều khiển của Thiên Chúa, Ngài không làm hết mọi sự, nhưng tuyển chọn những người khác nhau để cho họ tham dự vào Kế-họach Cứu Độ của Ngài. Những người Ngài tuyển chọn, Ngài cũng sẽ ban mọi ơn cần thiết để họ có thể chu tòan sứ vụ Ngài đã trao phó. Các Bài Đọc hôm nay nói về việc tuyển chọn cao trọng nhất của Thiên Chúa là tuyển chọn Đức Kitô. Chúng ta cùng nghiên cứu sự tuyển chọn này để rồi áp dụng vào ơn gọi tuyển chọn của mỗi người chúng ta.
Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy rõ ràng sự tuyển chọn Người tôi trung của Ngài. Đây là Người được Thiên Chúa yêu mến vì luôn trung thành với Thiên Chúa để hòan tất sứ vụ Cứu Độ của Ngài. Cách thức hòan tất sứ vụ Thiên Chúa trao cũng rất đặc biệt và khác hẳn với cách thức của con người: không kêu to, nói lớn, ồn ào; không dùng bạo lực để tiêu diệt nhưng dùng tình thương để chinh phục; không yếu hèn để chịu khuất phục, nhưng trung thành để thiết lập công lý bằng sự thật. Trong Bài Đọc II, Thánh Phêrô nhắc nhở cho các tín hữu nhìn lại cuộc đời của Đức Kitô để học hỏi cách chu tòan sứ vụ của Ngài trong Kế-họach Cứu Độ của Thiên Chúa: Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. Trong Phúc Âm, Marcô tường thuật những gì xảy ra khi Đức Kitô chịu Phép Rửa: Khi Ngài từ dưới nước nhô lên, Thánh Thần của Thiên Chúa hiện xuống và đậu lại trên Người, đồng thời có tiếng của Chúa Cha làm chứng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Chúng ta cùng nghiên cứu những chi tiết trong các Bài Đọc để tìm ra những ý nghĩa quan trọng của nó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người tôi trung của Yahweh
1.1/ Liên hệ giữa Thiên Chúa và Người tôi trung: "Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân." Ai là Người tôi trung mà Tiên tri Isaiah muốn nói tới ở đây? Có người nói là Israel vì là Dân Riêng được Thiên Chúa tuyển chọn; có người cho là Cyrus, người đã vâng lệnh Thiên Chúa; có người cho là Đức Kitô vì không ai mà Thiên Chúa đã quí mến hết lòng bằng chính Người Con Một của mình. Theo sự phiên dịch của Targum (bản dịch từ Do-Thái qua Aramaic và Hy-Lạp), Người tôi trung chính là Đấng Thiên Sai. Hơn nữa, văn mạch cũng ám chỉ Người tôi trung là một cá nhân, chứ không phải một dân tộc. Ngòai ra, Thiên Chúa có thể chọn bất cứ ai để chu tòan sứ vụ của Vua Cyrus; nhưng để chu tòan Kế-họach Cứu Độ, chỉ một mình Người con mới có thể chu tòan mà thôi.
1.2/ Cách hành xử của Người tôi trung: "Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo." Có một sự hòa điệu giữa Thiên Chúa và Người tôi trung trong cách hành xử để mang tới thắng lợi sau cùng: tình thương, sự thật, và trung thành. Cách hành xử này khác hẳn với cách thức của con người: ăn to nói lớn, bạo lực, và gian trá.
1.3/ Sứ vụ của Người tôi trung: "Người phán thế này: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước.""
- Người là giao ước giữa Thiên Chúa với dân: Trong giao ước tại Sinai, Moses chỉ là người trung gian của giao ước giữa Thiên Chúa và dân. Trong giao ước mới, Người tôi trung là chính giao ước. Điều này có nghĩa tất cả các ơn lành của giao ước đều bắt nguồn và được ban từ Người tôi trung này. Đón nhận Người là đón nhận ơn lành, từ chối Người là từ chối ơn lành; vì không có Người sẽ không có ơn lành.
- Người là ánh sáng chiếu soi muôn nước: Song song với vị thế "làm giao ước với dân" là vị thế "làm ánh sáng chiếu soi muôn nước." Điều này không chỉ có nghĩa Người mang ánh sáng tới, hay hứơng dẫn dân tới ánh sáng, nhưng Người chính là ánh sáng. Ánh sáng là chính ơn Cứu Độ (Isa 49:6). Dân Ngọai đang ngồi trong tối tăm của tội lỗi và sự chết, Người đến "để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm."
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người.
2.1/ Kế-họach Cứu Độ của Thiên Chúa bao gồm cả Do-Thái và Dân Ngọai: Thánh Phêrô, sau khi đã được Chúa Giêsu mặc khải Kế họach Cứu Độ, đã làm chứng cho Thiên Chúa: "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận. Người đã gửi đến cho con cái nhà Israel lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Judah, bắt đầu từ miền Galilee, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng." Chỉ có kế họach như thế mới bảo đảm được sự nhân từ và công bằng của Thiên Chúa.
2.2/ Đức Kitô thực hiện Kế-họach Cứu Độ của Thiên Chúa: "Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người."
3/ Phúc Âm: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
Năm A: (Mt 3:13-17)
3.1/ Sự nghịch lý: Chúa Giêsu xin Gioan làm phép rửa. Chỉ có trình thuật của Matthew nêu bật sự ngăn cản của Gioan khi Chúa Giêsu đến xin ông làm phép rửa: Ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự công chính: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người.
Trước tiên chúng ta cần hiểu hoàn cảnh lịch sử chung quanh biến cố làm phép rửa này. Truyền thống Do-thái có dùng phép rửa để thanh tẩy tội lỗi; nhưng chỉ có những người dân ngoại muốn theo đạo Do-thái mà thôi. Người theo đạo Do-thái chính gốc không bao giờ nghĩ mình cần phải chịu phép rửa. Thế mà biết bao người Do-thái kéo đến với Gioan để xin được rửa tội bởi ông. Đây là một hiện tượng lạ, có lẽ họ nhận ra ngày Đấng Thiên Sai tới đã gần kề, và những lời giảng dạy của Gioan thúc đẩy họ phải giục lòng ăn năn thống hối, chứ không phải cứ là người Do-thái hay con cháu của Abraham là sẽ được cứu độ. Chúa Giêsu muốn dùng cơ hội này để tỏ mình là Đấng Thiên Sai mà mọi người đang mong đợi.
3.2/ Thiên Chúa Cha làm chứng cho Chúa Giêsu: "Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người."" Trong trình thuật của Matthew, Thiên Chúa Cha làm chứng mối liên hệ và việc làm của Chúa Giêsu cho mọi người chung quanh. Trong Marcô, Thiên Chúa Cha nói trực tiếp với Chúa Giêsu, và gián tiếp làm chứng cho Chúa Giêsu với mọi người.
Năm B: (Mk 1:7-11)
3.1/ Sự khác biệt giữa hai Phép Rửa của Gioan và của Đức Kitô: Gioan Tẩy Giả phân biệt sự khác biệt như sau: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần." Phép Rửa làm bởi Gioan là phép rửa làm bởi con người để tha tội. Phép Rửa làm bởi Đức Kitô là phép rửa làm bởi Thiên Chúa, Đấng quyền thế hơn con người. Người chịu Phép Rửa sẽ được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần, và được lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho con người.
3.2/ Phép Rửa của Đức Kitô: "Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nazareth miền Galilee đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Jordan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.""
(1) Tại sao Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan? Phép Rửa của Gioan là phép rửa để tha tội. Tại sao Chúa Giêsu, Đấng không hề phạm tội, lại muốn chịu Phép Rửa của Gioan? Chính Gioan đã ngăn cản Ngài: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người (Mt 3:14-15). Thánh Ambrose đưa một lý do khác: Chúa Giêsu, Đấng thánh thiện tinh tuyền, chịu Phép Rửa để thánh hiến nước của giòng sông Jordan; và Giáo-Hội dùng nước này để rửa tội cho các tín hữu.
(2) Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu: Truyền thống Do-Thái tin chim bồ câu tượng trưng cho sư hiền lành. Như Sách Tiên-tri trong Bài Đọc I mô tả Người tôi trung: Người chinh phục con người không bằng những lời đe dọa hay sức mạnh, nhưng bằng tình yêu và sự kiên nhẫn. Chúa Giêsu được xức dầu bởi Thánh Thần và được tấn phong để thi hành sứ vụ Cứu Độ.
(3) Tiếng của Chúa Cha tuyên phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Khác với trình thuật của Matthêu: "Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người." Chúa Cha nói trực tiếp với Chúa Con, và bày tỏ sự hài lòng về tất vả mọi việc của Chúa Con làm. Nếu so sánh, chúng ta thấy trình thuật của Marcô gần với những gì tường thuật bởi tiên-tri Isaiah trong Bài Đọc I hơn.
Năm C: (Lk 3:15-16, 21-22)
3.1/ Sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và Gioan: "Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Messiah! Ông Gioan trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.
Ngoài sự phân biệt của Gioan về uy quyền giữa Đấng Thiên Sai và ông, Gioan còn đề cập đến sự khác biệt giữa hai phép rửa:
+ Bằng nước: Đây là phép rửa Gioan làm cho dân chúng để thanh tẩy tội lỗi và tỏ lòng ăn năn xám hối để chuẩn bị tâm hồn đón chờ Đấng Thiên Sai tới.
+ Bằng Thánh Thần và lửa: Đây là phép rửa của Chúa Giêsu. Ngoài việc tha thứ tội lỗi, phép rửa của Chúa Giêsu còn ban Thánh Thần để thanh luyện mọi tính hư tật xấu trong con người, và ban ơn thánh hóa để con người luyện tập nhân đức, để giúp con người thánh thiện, xứng đáng là những con cái của Thiên Chúa.
3.2/ Những điều nhấn mạnh khác của Luca
(1) Chúa Giêsu cầu nguyện: "Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con."" Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu luôn hiệp nhất với Chúa Cha qua việc cầu nguyện.
(2) Sự liên hệ giữa Cha và Con: Trình thuật của Luca nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nguyên bản Hy-lạp phải dịch lời của Chúa Cha trực tiếp nói với Chúa Con là: "Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con." Bản dịch của Nhóm PVCGK dịch từ bản tiếng Pháp với câu rất khó hiểu "Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con!" Có phải chờ cho đến biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài mới được làm Con Thiên Chúa?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta đều đã chịu Phép Rửa của Đức Kitô, tức là đã được tấn phong làm tiên tri, tư tế, và vương giả. Chúng ta đã thi hành 3 sứ vụ đó chưa?
- Ba sứ vụ của Đức Kitô cũng là 3 sứ vụ của mỗi người chúng ta:
(1) Sứ vụ tiên tri: Chúng ta đã rao giảng cho mọi người biết về Thiên Chúa chưa; ít nhất là cho con cháu của chúng ta? Để có thể chu tòan sứ vụ, Đức Kitô phải ở ẩn suốt 30 năm để đàm đạo với Thiên Chúa trước khi rao giảng công khai trong 3 năm. Chúng ta đã dành được bao nhiêu thời gian để học biết về Thiên Chúa? Chúng ta cần nhắc nhở cho mình: Chúng ta không thể cho con cái điều mình không có!
(2) Sứ vụ tư tế: Chúng ta đã thờ phượng một mình Thiên Chúa, làm gương, và chỉ đường cho con cái đến với Thiên Chúa chưa? Hay chúng ta thờ ơ nguội lạnh trong việc thờ phượng và mải miết chuyện thế sự, và vô tình dạy cho con cái tôn thờ những giá trị thế gian thay vì tôn thờ chỉ một mình Thiên Chúa!
(3) Sứ vụ vương giả: Chúng ta đã dùng thời gian, tài năng, và của cải Thiên Chúa ban để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân chưa? Hay chúng ta đã lãng phí thời gian, của cải, tài năng vào những canh bạc đỏ đen, những vui thú của hộp đêm, những mối liên hệ trái phép, để rồi tất cả mọi người trong gia đình phải chịu hậu quả về những việc làm của chúng ta. Ngòai ra, chúng ta còn phải xét tới cách thức chúng ta phục vụ theo gương Đức Kitô: không phải la to, nói lớn, đe dọa, chửi rủa, hay dùng quyền hành, bạo lực; nhưng bằng yêu thương, dạy dỗ, kiên nhẫn, và can đảm cho tới khi đạt được kết quả sau cùng như Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
MỘT TRANG SỬ MỚI
[CHÚA NHẬT LỄ CHÚA GIÊ-SU
CHỊU PHÉP RỬA NĂM C (10/01/2016)]
[Is 40,1-5.9-11; Tt 2,11-14; 3,4-7; Lc 3,15-16.21-22]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Xét theo một góc nhìn, thì Chúa Giê-su không cần phải chịu phép rửa từ tay Gio-an Tầy Giả, vì Chúa Giê-su là Đấng vô tội. Nhưng Chúa Giê-su đã hòa mình vào dòng người nhận thức mình là người có tội muốn thể hiện lòng sám hối và nóng lòng mong đợi ngày Cứu Độ của Thiên Chúa. Việc làm của Chúa Giê-su được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần chứng nhận một cách hết sức long trọng, khiến câu truyện phép rửa viết nên một trang sử mới trong kế hoạch Mạc Khải và thực hiện Ơn Cứu Độ của
Chúng ta hãy chăm chú đọc các Bài Sách Thánh, nhất là Bài Tin Mừng của Thánh Lu-ca, để suy niệm và đi vào hiệp thông sâu đậm với Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
[Ghi chú: Chúng tôi dùng bản dịch các bài Thánh Kinh của cố linh mục Giu-se Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, đăng trên mạng Tin mừng cho người nghèo]
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 40, 1-5. 9-11): Vinh quang Đức Chúa tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy.
1 "Hãy an ủi, an ủi dân Ta, Thiên Chúa của các người vừa phán. 2 Hãy nhủ lòng cùng Yêrusalem và nhắn với nó: Dịch vụ của nó mãn rồi, trang trải rồi vạ nó đã mang. Phải nó đã lĩnh nơi tay Yavê gấp đôi về các lỗi lầm của nó. 3 Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy bạt lối Yavê! Trong chốn hoang giao hãy san bằng ngự lộ cho Thiên Chúa ta (thờ).
4 Mọi thung lũng sẽ dâng lên, mọi núi đồi sẽ lún xuống; gồ ghề sẽ thành bình nguyên, lồi lõm sẽ hóa ra đồng bằng. 5 Vinh quang Yavê sẽ tỏ mình và mọi xác phàm một trật đều thấy. Quả miệng chính Yavê đã phán."
9 Hãy lên núi cao hỡi Sion, người loan tin mừng. Hãy gióng tiếng lên cho mạnh, hỡi Yêrusalem, người loan báo tin mừng! Cứ gióng (tiếng) lên đừng sợ. Hãy bảo các thành Yuđa: "Kìa Thiên Chúa các ngươi thờ!"
10 Kìa, Đức Chúa Yavê, Người đến uy hùng! Cánh tay Người làm Người thống trị. Kìa công của Người theo bên và đàng trước Người, sản nghiệp Người đã làm ra. 11 Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thu họp chúng lại.
Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con.
2.2 Trong bài đọc 2 (Tt 2,11-14; 3,4-7): Thiên Chúa đã cứu chúng ta nhờ phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới.
2/11Vì đã hiển linh rồi ân sủng cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người thiên hạ,12dạy ta phải từ bỏ vô đạo, và các đam mê thế tục, mà sống điềm đạm, công chính, đạo đức nơi đời này,13ngóng đợi cái hi vọng phúc lộc và cuộc Hiển linh vinh quang của Thiên Chúa lớn lao và là Cứu Chúa của ta, Ðức Yêsu Kitô,14Ðấng đã thí mình vì ta để chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu nhiệt thành với việc lành phúc đức.
3/4Nhưng khi lòng từ hậu ái nhân của Thiên Chúa, Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh,5thì Người đã cứu ta, không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người, nhờ phép rửa tái sinh và sự canh tân đổi mới của Thánh Thần,6Người đã đổ xuống trên ta một cách dồi dào phong phú nhờ Ðức Yêsu Kitô, Cứu Chúa của ta,7ngõ hầu khi đã được giải án tuyên công nhờ ơn Ngài, chiếu theo hi vọng, ta được thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 3,15-16. 21-22): Đức Giê-su chịu phép rửa xong và đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra.
15Dân ngong ngóng và mọi người suy tính trong lòng về Yoan: Có khi chính ông là Ðức Kitô chăng.16Nên Yoan đáp lại với mọi người rằng: "Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước! Sẽ đến Ðấng quyền thế hơn ta, ta không đáng cởi quai dép Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần và lửa.
21Xảy ra là trong khi toàn dân chịu thanh tẩy, và Ðức Yêsu cũng chịu thanh tẩy và đang cầu nguyện, thì trời mở ra,22và Thánh thần lấy hình dáng thể xác như con chim câu, đáp xuống trên Ngài, và tự trời một tiếng phát ra: “Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ.»
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Is 40, 1-5. 9-11) là những lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a về những công việc cần chuẩn bị để đón chào Chúa Cứu Thế là Đấng được Thiên Chúa gửi đến khi tới ngày vinh quang của Thiên Chúa được tỏ bày cho toàn nhân loại.
àTrong trích đoạn Is 40,1-5.9-11này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng thực hiện lời hứa của mình là sẽ ban Chúa Cứu Thế cho dân. Trước khi vị sứ giả của Thiên Chúa xuất hiện thì có các ngôn sứ được giao công tác dọn đường cho phẳng phiu.
3.1.2 Bài đọc 2 (Tt 2,11-14; 3,4-7) là những lời giáo huấn của Thánh Phao-lô Tông đồ về ơn cúu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa xuống thế làm người và hy sinh mạng sống cho chúng ta.
àQua đoạn thư Tt 2,11-14;3,4-7 trên, chúng ta nhận ra chính Chúa Cứu Thế là Đấng, vì lòng nhân hậu và yêu thương, đã đem lại muôn hồng ân cho chúng ta, nhờ cái chết hy sinh hiến tế của Người. Để đáp lại công ơn to lớn ấy, chúng ta được mời gọi từ bỏ tội lỗi và mọi đam mê trần gian để sống thánh thiện.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 3,15-16.21-22) là bài tường thuật của Tin Mừng Lu-ca về công việc của Gio-an Tẩy Giả và sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay Gio-an. Gio-an khẳng định ông không phải là đấng Mê-si-a mà toàn dân Ít-ra-en mong đợi; ông chỉ là người dọn đường cho một Vị Cao Trọng sẽ đến sau ông là Đức Giê-su Na-da-rét. Đấng ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa!
àQua đoạn Phúc Âm Lc 3,15-16.21-22 này, chúng ta khám phá ra chân dung và quyền năng của Chúa Giê-su: “Trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu… có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” là những lời hùng hồn làm chứng hay xác nhận về thân thể và nguồn gốc thần linh của Chúa Giê-su Na-da-rét!
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm 2 phần.
* Phần thứ nhất là Chúa Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, chịu phép rửa bởi tay Gio-an trong dòng sông Gióc-đan là sứ giả của Thiên Chúa và là Con của Thiên Chúa hằng sống. Người đến trần gian để gánh tội dương thế và đem ơn cứu độ cho muôn người!
* Phần thứ hai của sứ điệp là Thiên Chúa muốn chúng ta đón nhận Chúa Giê-su với tư cách là sứ giả, là Con của Thiên Chúa bằng việc vâng theo lời Ngài mà từ bỏ tội lỗi và đam mê trần tục để sống từ bi, nhân hậu và thánh thiện theo gương của Ngài!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Chalà Đấng lên tiếng xác nhận Đức Giê-su chịu phép rửa là Con Yêu Dấu của Ngài. Sống với Chúa Thánh Thần là Đấng chứng nhận phép rửa của Chúa Giê-su trong dòng sông Gióc-đan. Sống với Đức Giê-su là Đấng đã hòa mình vào dòng người mong đợi Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi có hai việc để làm:
* Thứ nhất là tôi nhìn nhận Chúa Giê-su là Cứu Chúa và đón nhận Ngài vào tâm hồn và cuộc sống của tôi.
* Thứ hai là tôi cố gắng tránh xa tội lỗi, từ bỏ các đam mê trần tục và sống yêu thương bác ái và lành thánh.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI
5.1 «Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục và linh mục, để các ngài luôn tích cực mở đường cho Thiên Chúa đến với mọi người, mọi dân.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những ai đang khát khao và tìm kiếm Chúa, để họ sớm được quy tụ trong đoàn chiên của Chúa và được Chúa ấp ủ yêu thương.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả các Ki-tô hữu là những người đã được rửa trong Thánh Thần và Lửa, để mọi tín hữu từ bỏ tội lỗi và đam mê trần gian mà sống từ bi, nhân hậu và thánh thiện.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho chính chúng ta, để chúng ta càng ngày càng xác tín hơn về Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa và là Cứu Chúa của chúng ta mà đón nhận và vâng theo lời Ngài và sống giáo huấn của Ngài.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 5:14-21; Jn 3:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tránh xa tội lỗi!
Tội lỗi của con người là lý do tại sao Chúa Giêsu xuống trần gian để gánh tội cho con người, và cứu con người thóat khỏi quyền lực của tội. Nhưng có phải vì thế mà con người không phạm tội nữa không? Vấn đề rất nguy hiểm ngày nay là nhiều người đã mất hết ý thức về tội lỗi, họ không còn coi bất cứ gì là tội nữa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những gì liên quan đến tội lỗi. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan phân biệt 2 thứ tội: tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết. Con người chỉ có thể cầu nguyện cho những người mắc tội không đưa đến cái mà thôi. Trong Phúc Âm, các môn đệ của Gioan phạm tội ghen-tị, khi họ thấy người ta tuôn đến với Chúa Giêsu nhiều hơn là tới thầy của họ. Gioan cho họ 3 lý do tại sao không nên ghen-tị: Mọi quyền năng đến từ Thiên Chúa, phải biết mình và biết người để có sự bình an, và con người phải vui mừng khi thấy Thiên Chúa được vinh quang.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết
1.1/ Điều kiện để Thiên Chúa nhận lời cầu xin của con người:
(1) Thiên Chúa nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người: Thiên Chúa lắng nghe tất cả những lời cầu xin của con người, nhưng không phải ngài sẽ nhận lời tất cả các lời cầu xin; Ngài chỉ nhận lời những điều hợp ý Ngài mà thôi. Điều này dễ hiểu, vì có những lời cầu xin ích kỷ chỉ biết vun xới cho mình, hay những lời cầu xin Thiên Chúa làm hại người khác, hay bắt Thiên Chúa cư xử ngược lại với bản tính của Ngài. Điều con người nên làm khi cầu nguyện là luôn kết thúc với câu "nếu đẹp ý Chúa." Chỉ có Thiên Chúa mới biết rõ ràng và chắc chắn điều gì tốt đẹp cho con người, và Ngài sẽ sẵn sàng ban những điều tốt đẹp đó cho con cái của Ngài.
(2) Tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết: Gioan nói về 2 thứ tội này, nhưng không cắt nghĩa rõ ràng: "Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy; đó là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết. Có một thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy. Mọi điều bất chính đều là tội, nhưng có một thứ tội không đưa đến cái chết." Theo ý kiến sau cùng của các học giả và giáo huấn của Giáo-Hội: tội đưa đến cái chết là tội của những người mất hết ý thức về tội lỗi, hay của những người tin tưởng Chúa sẽ tha hết mọi tội mà không cần phải ăn năn, xám hối, và sửa đổi. Nếu con người cầu xin Chúa cứu những người này là vi phạm sự công bằng của Thiên Chúa; nhưng con người có thể cầu xin cho họ có cơ hội trở lại khi họ còn sống.
1.2/ Hai trường hợp của con người trong thế giới: Đọan văn này rất khó hiểu; chúng ta phải hiểu nó trong văn mạch của tòan thư Gioan I. Trước tiên, Gioan không có ý nói tất cả các Kitô hữu không phạm tội, vì ngay trong đọan văn trên, Gioan đã phân biệt 2 thứ tội: tội đưa đến cái chết và tội không đưa đến cái chết. Điều ngài muốn làm ở đây là phân biệt 2 lọai người: người thuộc về Thiên Chúa và người thuộc về thế gian.
Thánh Gioan viết: "Chúng ta biết rằng phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, người đó không phạm tội; nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được. Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa, còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần." Theo Gioan, thế giới là bãi chiến trường giữa sự thiện và sự ác; trong đó có những người thuộc về Thiên Chúa và những người thuộc về Ác thần. Người thuộc về Thiên Chúa có thể phạm tội vì yếu đuối xác thịt; nhưng họ luôn có ý thức về tội lỗi và muốn giao hòa cùng Thiên Chúa. Người thuộc về Ác thần không có hay đánh mất hết ý thức về tội lỗi; họ không còn coi điều gì là tội nữa.
2/ Phúc Âm: Tội lỗi phát xuất từ sự ghen-tị của con người.
2.1/ Sự ghen-tị của các môn đệ của Gioan: Trình thuật kể lý do của sự ghen tị: "Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đi tới miền Judah. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa. Còn ông Gioan, ông cũng đang làm phép rửa tại Aenon, gần Salim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa. Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gioan và một người Do-Thái về việc thanh tẩy. Họ đến gặp ông Gioan và nói: "Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Jordan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông." Gioan đã nói rõ về sự khác biệt của 2 Phép Rửa: Phép Rửa của ông làm là Phép Rửa để tha tội; Phép Rửa của Chúa Giêsu là Phép Rửa ban Thánh Thần. Sự tranh luận xảy ra có thể tại sao cần có 2 Phép Rửa, nhưng điều chính chi phối môn đệ của Gioan là họ ghen tị khi thấy Chúa Giêsu được nhiều người đến với hơn thầy của họ.
2.2/ Thuốc chữa bệnh ghen-tị: Gioan Tẩy Giả cho các môn đệ và cho chúng ta 3 liều thuốc để chữa bệnh ghen tị:
(1) Mọi hồng ân đều đến từ Thiên Chúa: Ông Gioan trả lời: "Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban." Hay nói như Thánh Phaolô: Mọi quà tặng đều đến từ một nguồn là Chúa Thánh Thần; không phải để khoe khoang, nhưng để phục vụ. Hay nói như kiểu Phúc Âm, Thiên Chúa càng ban tặng nhiều bao nhiêu, Ngài càng có quyền đòi lại nhiều bấy nhiêu.
(2) Biết mình là có bình an và niềm vui: Điều làm cho con người có bình an là phải biết mình. Gioan Tẩy Giả rất bình an vì ông biết mình và biết Đức Kitô: "Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: "Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người." Gioan có niềm vui khi thấy nhiều người tuôn đến với Đức Kitô, vì đó phù hợp với sứ vụ của ông. Gioan so sánh Đức Kitô với chú rể, và cô dâu là dân chúng tin vào Đức Kitô; còn ông chỉ là người phù rể: "Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn."
(3) Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi: Đây là châm ngôn của Gioan và nên là kim chỉ nam cho hết mọi người khi chúng ta phục vụ Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta cũng giống như Gioan là dọn đường cho mọi người và chỉ cho họ đường đến với Thiên Chúa; chứ không lợi dụng việc phục vụ Thiên Chúa để tìm lợi nhuận, nổi tiếng, và thỏa mãn các nhu cầu của chúng ta. Khi mọi người đã tới được với Thiên Chúa, chúng ta vui mừng vì đã hòan tất sứ vụ, và sẵn sàng để lui vào bóng tối.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Kitô đã xuống trần để cứu chúng ta thóat khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết. Ngài đã thiết lập Bí-tích Hòa Giải để sẵn sàng tha thứ các tội của con người.
- Con người chúng ta vẫn có thể phạm tội vì còn mang trong người những yếu đuối và tính đam mê xác thịt. Mỗi khi đã lỡ phạm tội trọng, chúng ta cần chạy đến với Bí-tích Hòa Giải để được tha tội.
- Điều tối nguy hiểm là chúng ta đánh mất ý thức về tội lỗi hay tin Chúa sẽ cứu tất cả mọi người mà không cần ăn năn xưng tội. Đây chính là thứ tội mà Thánh Gioan gọi là "tội đưa đến cái chết."
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm chứng nhân cho Đức Kitô.
Để có thể tin một điều là sự thật, con người cần: chính mắt nhìn thấy, hay cảm thấy hậu quả của nó, hay dựa vào lời của các nhân chứng. Nhiều người nghĩ rằng chỉ khi nào họ thấy tận mắt, họ mới tin; như Tông-đồ Thomas khi được các Tông-đồ thuật lại việc Chúa hiện ra. Chúa Giêsu nói với Thomas: thấy và tin là chuyện thường, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin. Đàng khác, có những cái dù không thấy, nhưng phải tin vì hậu quả của nó: gió, điện, sự sống. Đa số những trường hợp chúng ta tin là qua các nhân chứng; nhất là sau khi được phối kiểm bởi 2 hoặc 3 nhân chứng có thế giá.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào việc con người phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa qua các bằng chứng. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan đưa ra 3 nhân chứng cho Đức Kitô: Thánh Thần, nước, và máu. Nếu ai, sau khi đã được làm chứng, mà vẫn không chịu tin Đức Kitô, người ấy biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu, sau khi chữa người phong cùi, sai anh đi trình diện các tư tế và dâng của lễ đền tội, để làm chứng mình đã hòan tòan sạch. Điều này cũng là bằng chứng Đức Kitô đã chữa lành cho anh, vì Ngài có sức mạnh của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thánh Thần, nước, và máu; cả ba cùng làm chứng một điều.
1.1/ Ba chứng nhân của Đức Kitô: "Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thánh Thần là chứng nhân, và Thánh Thần là sự thật. Có ba chứng nhân: Thánh Thần, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều." Để hiểu đọan văn này, chúng ta cần đọc lại Phúc Âm Gioan, và hòan cảnh lịch sử thời đại của Ngài. Đọan văn trong Phúc Âm nói về "nước và máu" như sau: "Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, "máu cùng nước" chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin" (Jn 19:34-35). Nước và Máu là 2 biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Nước khi Ngài chịu Phép Rửa bởi Gioan trong giòng sông Jordan. Máu khi Ngài chịu chết trên Đồi Golgotha.
Sở dĩ Gioan nhấn mạnh đến "nước và máu" là vì có bè rối "Thuần Tri Thức." Cerinthus, người đại diện cho bè rối này, tin Chúa Kitô đến bằng "nước," khi Ngài chịu Phép Rửa. Thánh Thần hiện xuống và ở lại trong Đức Kitô, và làm cho Ngài trở thành Con Thiên Chúa. Họ không chấp nhận "máu," vì họ không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Họ giải thích: trên Đồi Golgotha, Thánh Thần xuất khỏi Đức Kitô và về trời. Có người còn cho người chịu đóng đinh là ông Simon, chứ không phải là Đức Kitô. Thánh Gioan muốn chống lại bè rối này bằng cách nhấn mạnh đến cả 3 nhân chứng đều cần thiết để tin vào Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho nhân lọai.
(1) Thánh Thần: hiện xuống và xức dầu cho Đức Kitô khi Ngài chịu Phép Rửa (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts 10:38). Phép Rửa này hòan tòan khác với Phép Rửa của Gioan (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk 3:16, Acts 1:5, 2:33). Thánh Thần hiện xuống với các Tông-đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:4), và trong đời sống của Giáo-Hội (Acts 8:17, 10:14).
(2) Nước: Tại biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Kitô: "Tôi đã thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thánh Thần xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Jn 1:32-34).
(3) Máu: Theo truyền thống Do-Thái, máu súc vật phải đổ ra để làm lễ hy sinh đền tội cho con người. Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đến xóa tội trần gian bằng lễ tế hy sinh của Ngài trên Thập Giá. Ngài thiết lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, và Giáo Hội chúng ta hằng ngày cử hành Thánh Lễ để liên tục tái diễn Hy Lễ của Đức Kitô trên Thập Giá để xóa tội cho con người.
1.2/ Chúng ta phải tin lời của các chứng nhân: Đức Kitô đến từ Thiên Chúa.
(1) Lời chứng của Thiên Chúa cao trọng hơn lời chứng của người phàm: Luật dạy khi có 2 hoặc 3 nhân chứng, lời chứng đó là sự thật. Đức Kitô có rất nhiều nhân chứng: Gioan Tẩy Giả, các phép lạ Ngài làm, Kinh Thánh, các Tông-đồ ..., nhưng lời chứng của Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời "Đây là Con Ta yêu dấu," và lời chứng của Thánh Thần qua hình ảnh chim bồ câu đậu lại trên Đức Kitô, là những lời chứng có thế giá hơn cả. Con người phải nhận những lời chứng này và tin vào Đức Kitô; vì "Ai không tin Đức Kitô, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người."
(2) Tin vào Đức Kitô mới có sự sống đời đời: "Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống."
2/ Phúc Âm: Làm chứng cho người ta biết mình đã được sạch.
2.1/ Chúa Giêsu chữa người phong cùi được sạch:
(1) Thái độ của người phong cùi: Trước hết, thái độ khiêm nhường của anh được biểu tỏ bằng cách anh sấp mặt trước mặt Ngài. Thứ đến, sự tin tưởng của anh nơi Chúa Giêsu được bày tỏ trong câu xin "Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Sau cùng, lời cầu xin của anh rất đẹp lòng Thiên Chúa: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Nếu Thiên Chúa muốn, chứ không phải chỉ riêng con người muốn mà thôi; vì có rất nhiều điều con người muốn, nhưng không đẹp lòng Thiên Chúa.
(2) Thái độ yêu thương trìu mến của Đức Kitô: Chúng ta biết luật lệ của Do-Thái rất nghiêm nhặt với người cùi: họ phải ở trong trại xa cách với mọi người, và phải tránh tiếp xúc với mọi người bằng cách la to câu "Không sạch! Không sạch!" mỗi khi có người đi ngang qua, để họ khỏi trở nên không sạch. Nhưng Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi." Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh.
2.2/ Hai điều Chúa truyền cho người được chữa lành:
(1) Đừng nói với ai: Chúa làm phép lạ vì lòng thương dân, và để họ tin vào Ngài để được sự sống đời đời, chứ không phải để nổi tiếng. Đó là lý do tại sao Ngài ngăn cản anh "Đừng nói với ai!" Nhưng tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh. Phần Chúa Giêsu, Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
(2) Để làm chứng cho người ta biết, hãy đi trình diện với các tư tế và hãy dâng của lễ như Luật dạy. Để chứng tỏ mình đã khỏi bệnh, người phong cùi phải đi trình diện các tư tế để chịu khám xét. Nếu quả thực đã lành, các tư tế sẽ chứng nhận cho về sống với mọi người. Ngòai ra, người đó còn phải dâng của lễ như được mô tả chi tiết trong (Lev 14).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa, không phải chúng ta đã thấy Ngài, nhưng dựa vào lời của nhiều nhân chứng.
- Hai nhân chứng có thế giá nhất là Kinh Thánh chúng ta đọc từ bên ngòai và Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta từ bên trong. Ngòai ra, còn có nhiều các chứng nhân khác nữa như: lời chứng của các Tông-đồ, gương chứng nhân của các thánh Tử-đạo, đời sống tốt lành của các thánh và của những người sống chung quanh chúng ta.
- Sau khi đã tin Đức Kitô, chúng ta cũng phải làm chứng cho Ngài bằng việc rao giảng và cuộc sống chứng nhân, để người khác cũng nhận ra và tin vào Đức Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 4:19-5:4; Lk 4:14-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Yêu Chúa là thi hành thánh ý của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh vấn đề: phải bày tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng các hành động cụ thể. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan dạy: Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, nên chúng ta phải bày tỏ tình yêu với Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta dành cho tha nhân. Ai nói mình mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Ngài trong các hội đường để người ta biết đến Ngài. Khi trở về Nazareth, nơi Người sinh trưởng, Ngài cũng vào hội đường và đọc Sách Tiên-tri Isaiah, chương 61, nói về Năm Hồng Ân. Ngài nói cho mọi người trong hội đường biết, Ngài chính là Người mà Tiên-tri nói tới. Ngài đến để thi hành thánh ý Thiên Chúa và giải thóat nhân lọai khỏi mù lòa và xiềng xích của tội lỗi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Yêu Chúa là giữ các giới răn của Ngài.
Hai tư tưởng chính của Thư Gioan I là: (1) tin Đức Kitô đến từ Chúa Cha; và (2) giữ điều răn yêu thương. Chúng ta đã nói tới 2 tư tưởng này trong các bài chia sẻ trước. Hôm nay, chúng ta chỉ để ý tới những khía cạnh mới lạ của 2 tư tưởng chính này.
1.1/ Yêu Thiên Chúa là yêu Đức Kitô: Thánh Gioan cắt nghĩa: "Phàm ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra." Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nói rõ hơn: "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa" (Jn 1:12). Người tín hữu trở nên con Thiên Chúa bằng niềm tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Nếu họ yêu mến Cha, Đấng Sinh Thành, họ cũng phải yêu mến Con là Đức Kitô, Người được Đấng ấy sinh ra. Điều mới lạ ở đây là Gioan đi từ "tin" đến "yêu" Đức Kitô.
1.2/ Yêu Thiên Chúa là giữ các giới răn Ngài truyền: "Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người."
(1) Yêu mến Chúa là phải yêu thương anh em: "Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình." Như đã nói ở trên, khi một người tin vào Đức Kitô là người đó cũng yêu Đức Kitô. Tình yêu của người đó dành cho Đức Kitô sẽ thúc đẩy người đó giữ các điều răn Đức Kitô truyền, như Ngài nói: "Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ những điều Thầy truyền" (Jn 14:15). Mà điều quan trọng nhất Đức Kitô truyền là: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu mến anh em" (Jn 13:34).
(2) Yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy." Câu này là phản đề của câu trên: Yêu mến Thiên Chúa là có tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa trong mình. Khi có tình yêu Thiên Chúa là phải giữ điều răn yêu thương. Vì thế, nếu một người nói mình yêu mến Thiên Chúa, mà không giữ điều răn yêu thương (ghét anh em mình), người đó là kẻ nói dối; vì không có tình yêu Thiên Chúa trong mình mà dám nói có. Nói tóm lại: Phải có tình yêu Chúa mới có thể yêu anh em; và yêu anh em là bằng chứng mình có tình yêu Chúa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chu tòan sứ vụ Chúa Cha trao phó.
2.1/ Chúa Giêsu giảng dạy trong các hội đường: Trình thuật của Luca hôm nay ngay sau biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, và bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Ngài. Chúa Giêsu chọn Galilee là địa điểm để bắt đầu sứ vụ rao giảng vì Galilee là vùng rất đông dân cư, và dân chúng mở lòng cho những dạy dỗ mới, chứ không bảo thủ như ở vùng Judah. Người Do-Thái chỉ có một Đền Thờ duy nhất tại Jerusalem, nhưng hội đường mới là các trung tâm tôn giáo của dân địa phương. Theo Lề Luật, chỗ nào có từ 10 gia đình trở lên, chỗ đó phải có một hội đường. Vì thế, hầu như mỗi làng mạc hay thành phố, đều có ít nhất một hội đường cho dân học hỏi và làm việc thờ phượng. Phụng vụ của người Do-Thái gồm 3 phần chính:
(1) Phần phụng vụ của các lời cầu nguyện;
(2) Phần đọc Kinh Thánh: Có tất cả 7 người trong cộng đòan đọc. Họ đọc bằng tiếng Do-Thái, nhưng được phiên dịch ra tiếng Aramaic hay Hy-Lạp, vì thời của Chúa Giêsu, ít người hiểu tiếng Do-Thái. Nếu là Sách Luật, họ đọc một câu một lần; nếu là Sách Tiên-tri, họ đọc 3 câu một lần.
(3) Phần dạy dỗ: Không có nhất định một Rabbi. Người trưởng hội đường có thể mời bất cứ một người nào có thế giá trong dân để chia sẻ, và để điều khiển cuộc đối thọai sau đó. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu có cơ hội giảng dạy để người ta biết tới và tôn vinh.
2.2/ Chúa Giêsu giảng dạy tại Nazareth, nơi Ngài lớn lên: Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người Sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đây là đọan văn trong Chương 61 của Isaiah, nói về Năm Hồng Ân, xảy ra mỗi 50 năm một lần. Trong năm này, tất cả nợ nần được tha, tất cả đất đai đã bán được trả về cho chủ cũ, tù nhân được phóng thích hay giảm án. Nói tóm, mọi người đếu có cơ hội làm lại cuộc đời (Lev 25).
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Chúa Giêsu nói với dân chúng Người chính là Đấng mà Tiên-tri Isaiah đã loan báo. Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và tấn phong khi chịu Phép Rửa tại sông Jordan bởi Gioan Tẩy Giả, và hôm nay Người bắt đầu sứ vụ đã được trao phó. Chắc chắn Chúa Giêsu không quan tâm đến việc giải phóng người nghèo phần xác cho bằng người nghèo về tâm linh: bị mù lòa và bị xiềng xích bởi tội lỗi, và năm hồng ân của Chúa chính là ơn cứu độ Ngài mang tới cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nếu chúng ta yêu Thiên Chúa, chúng ta phải thực hành những gì Chúa truyền, vì những giới răn này giúp chúng ta ở lại trong Chúa, và không lạc xa tình yêu của Ngài.
- Yêu Thiên Chúa là biết lo chung với những lo âu của Thiên Chúa: Làm sao cho mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa để tất cả đều được hưởng hồng ân cứu độ của Ngài.
- Mỗi người chúng ta đều có bổn phận cùng chung với Giáo-Hội lo việc truyền giáo: làm sao cho càng ngày càng tăng số người nhận biết và tin vào Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 06/01 Tình yêu hòan hảo lọai trừ sự sợ hãi
- 05/01 Tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện cho con người qua Đức Kitô
- 04/01 Phải học Lời Chúa để nhận ra sự thật
- 03/01 Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân
- 02/1 Sự thật và sự dối trá quanh co
- 01/01 Lời chúc lành tốt đẹp nhất của Năm Mới
- 31/12 Những kẻ Phản-Kitô là những người từ chối tiếp nhận Đức Kitô
- 30/12 Chúng ta được trang bị đầy đủ để sống theo ý của Thiên Chúa
- 29/12 Biết Thiên Chúa là bước đi trong đường lối của Ngài
- 28/12 Tình yêu Thiên Chúa và tội lỗi con người