Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần I MV2
Bài đọc: Isa 29:17-24; Mt 9:27-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn trước khi đạt được điều hy vọng.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Giáo Hội muốn các tín hữu mong đợi không chỉ môt ngày hay chỉ ít giờ trước Thánh Lễ Nửa Đêm; nhưng là cả 4 tuần lễ. Tại sao cần một thời gian dài chuẩn bị như thế? Lý do là để con người có dịp đọc lại lịch sử ơn cứu độ qua Lời Chúa, hồi tâm và suy xét cuộc đời mình để nhìn ra sự khác biệt giữa một người có Chúa và một người không có Chúa; những gì được hưởng và những gì bị thua thiệt. Một khi nhìn ra những điều đó, con người sẽ nhận thấy sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời; và sẽ nhiệt thành chuẩn bị để có được Chúa trong cuộc đời. Các Bài đọc hôm nay giúp con người nhận ra sự cần thiết đó. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah cho dân thấy những lợi ích con người sẽ được hưởng khi Đức Chúa can thiệp vào đời sống của dân Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành người mù, nhưng giúp các ông nhận ra lợi ích của việc đặt trọn vẹn niềm tin và hy vọng nơi Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến về Ngày Đấng Thiên Sai sẽ đến.
1.1/ Những lợi ích Đấng Thiên Sai sẽ mang đến cho dân Ngài:
(1) Con người thu thập mùa màng hoa trái: "Chỉ còn chút nữa, chút ít nữa thôi, núi Liban sẽ lại thành vườn cây ăn trái, và vườn cây ăn trái sẽ sum sê như một cánh rừng."
(2) Mọi bệnh nhân sẽ được chữa lành: "Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ được nhìn thấy."
(3) Kẻ nghèo hèn sẽ được sống: "Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Israel, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng."
(4) Ác nhân sẽ bị tiêu diệt: "Thật vậy, loài bạo chúa đã không còn nữa, quân ngạo mạn sẽ phải tiêu vong, và mọi kẻ rắp tâm làm điều ác ắt sẽ bị diệt trừ: đó là những kẻ dùng lời nói làm cho người ta bị kết tội, và cho người xử án tại cửa công phải mắc bẫy; chúng dùng những lời lẽ vô căn cứ mà làm cho người công chính bị gạt ra ngoài."
1.2/ Nhà Israel sẽ nhận ra quyền năng Thiên Chúa và biết kính sợ Ngài: Sở dĩ Thiên Chúa để quân ngọai bang giầy xéo Israel là vì họ đã không còn kính sợ và nghe theo Lời Chúa; nhưng nếu họ biết ăn năn trở lại, họ sẽ nhìn thấy quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện trên quân thù. Tiên Tri xác quyết một khi đã được Thiên Chúa chăm sóc, họ sẽ không còn bị nhục nhã xấu hổ với quân thù: "Từ nay Jacob sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Jacob nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Jacob là thánh, và sẽ kính uý Thiên Chúa của Israel. Những người tâm trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và những kẻ ương ngạnh sẽ chấp nhận lời răn dạy."
2/ Phúc Âm: Các anh tin thế nào thì được như vậy.
2.1/ Chúa thử 2 người mù: Trình thuật kể: "Đang khi Đức Giêsu ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: "Lạy Con Vua David, xin thương xót chúng tôi!" Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần." Tại sao Chúa Giêsu không chữa 2 người mù ngay khi còn trên đường, mà bắt họ chờ cho tới khi về đến nhà? Thời gian chờ đợi làm cho con người biết đánh giá đúng những gì mình cần; vì điều gì nhận được quá nhanh chóng và quá dễ dàng thường sẽ không giúp con người đánh giá đúng điều mình nhận được, và dễ dàng coi rẻ hay hoang phí quà tặng. Chẳng hạn, số tiền góp nhặt được do mồ hôi nước mắt làm ra sẽ làm con người cẩn thận trong việc tiêu xài hơn là số tiền được thừa hưởng.
2.2/ Tuyên xưng đức tin: Trước khi ban ơn như họ xin, Chúa Giêsu nói với họ: "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp: "Thưa Ngài, chúng tôi tin." Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: "Các anh tin thế nào thì được như vậy." Mắt họ liền mở ra. Chúa Giêsu đến không chỉ để làm phép lạ, nhưng để khơi dậy niềm tin của con người vào Ngài. Rất nhiều người đến với Chúa chỉ vì để được phép lạ, mà quên đi Đấng có uy quyền làm phép lạ. Họ quên đi phép lạ họ được hưởng chỉ xảy ra một lần, nhưng cuộc đời họ còn cần biết bao những phép lạ khác nữa. Hơn nữa, họ đã không nhìn ra được tình yêu và bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa đã dành sẵn cho họ.
Tin Mừng Gioan chú trọng nhiều hơn đến những gì xảy ra sau phép lạ, nhất là những phản ứng khác nhau của con người.
2.3/ Bí mật của Đấng Thiên Sai: Trong Tin Mừng Marco, rất nhiều lần Chúa Giêsu muốn những người được chữa lành phải giữ "bí mật của Đấng Thiên Sai." Trường hợp hôm nay là một ví dụ điển hình, Chúa Giêsu nghiêm giọng bảo họ: "Coi chừng, đừng cho ai biết!" Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng. Thông thường, những người nổi tiếng có thói quen muốn nhiều người biết đến mình; tại sao Chúa Giêsu muốn họ giữ bí mật phép lạ? Hơn nữa, ca tụng sự tốt lành của Thiên Chúa là điều cần nói ra để mọi người được biết, tại sao Chúa lại ngăn cản? Có ít nhất 2 lý do tại sao Chúa làm như thế:
(1) Lý do chính là vì Chúa không muốn con người quen thuộc với hình ảnh một Đấng Thiên Sai uy quyền, có sức mạnh làm được mọi sự, và sẽ giải phóng dân chúng, như truyền thống Do-Thái tin về Đấng Thiên Sai. Vì chẳng bao lâu nữa, Chúa sẽ phải chịu mọi cực hình trong Cuộc Thương Khó, và ngay cả chịu chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người. Khi nhìn thấy một Đấng Thiên Sai chịu mọi cực hình như thế, liệu họ còn tin nơi Ngài nữa không? Họ cần học để biết Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ.
(2) Một lý do nữa là Chúa không muốn con người đến với Chúa chỉ vì được ơn bởi phép lạ, nhưng muốn họ đến với người vì thành thật tin yêu. Tình yêu đặt căn bản trên lợi nhuận không phải là tình yêu thành thật. Ví dụ, không ai trong con người muốn người khác yêu mình vì có nhiều tiền, có quyền lực để ban ơn ..., nhưng muốn họ yêu như mình là và trung thành đến cùng cho dù mình bị mất tất cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hy vọng phải có thời gian chờ đợi để giúp con người nhận ra sự quan trọng của điều mình mong muốn. Nếu mọi sự được ban quá dễ dàng và nhanh chóng, chúng ta sẽ không đánh giá đúng được món quà nhận được và sẽ dễ dàng hoang phí nó.
- Món quà nhiều khi chỉ mang những giá trị bên ngòai, nhưng tình yêu của người cho còn có giá trị hơn bội phần. Rất nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, cha mẹ, và tha nhân; mà chỉ để ý đến quà tặng.
- Thiên Chúa không muốn chúng ta đến với Ngài chỉ để xin ơn; một khi đã đạt được điều mong muốn là không nhớ gì đến Ngài nữa, và chạy theo đủ mọi thứ bụt thần chóng qua. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài bằng một tình yêu chân thật, học hỏi để có khôn ngoan của Thiên Chúa, và biết sống thế nào để được hưởng hạnh phúc chân thật và bình an đời đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần I MV2
Bài đọc: Isa 26:1-6; Mt 7:21, 24-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc đời chúng ta phải được xây trên tảng đá vững chắc là Thiên Chúa.
Tất cả các mối liên hệ trong cuộc đời đều đòi phải có hai chiều: chiều cho đi và chiều nhận lại. Ví dụ, Thánh Phaolô dạy, để có hạnh phúc trong mối liên hệ vợ chồng: vợ phải vâng lời chồng và chồng phải yêu thương vợ. Càng đúng hơn trong mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Nếu Ngài đã thương yêu, lo lắng, mặc khải mọi sự cho con người được an bình hạnh phúc; con người phải biết tin tưởng, cậy trông, và làm theo những gì Lời Chúa mặc khải. Nếu con người không chịu đáp trả tình thương, vâng lời những gì Thiên Chúa dạy, và cứ làm theo những gì họ muốn; làm sao họ có thể đạt được bình an và sống hạnh phúc?
Các Bài đọc hôm nay đều liên quan tới mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Bài đọc I nói lên tất cả những gì Chúa đã chuẩn bị cho con người để có một cuộc sống vững chắc. Phúc Âm nhấn mạnh tới bổn phận con người cần đáp trả lại; phải thực hành Lời Chúa thì đời sống con người mới vững vàng, và không có chi lay chuyển được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thương yêu và bảo vệ Dân Ngài.
1.1/ Thiên Chúa là thành trì kiên cố: Jerusalem chính là tiêu biểu của thành trì này. Mặc dù Thiên Chúa đã để cho quân đội Babylon xâm lấn và phá hủy Đền Thờ vì dân không chịu nghe theo những gì Thiên Chúa dạy; nhưng chính Ngài sẽ cho tái thiết lại Đền Thờ và Thành Jerusalem sau cuộc Lưu Đày. Tiên tri nói trước về ngày này: "Ngày ấy, trong xứ Judah, người ta sẽ hát bài ca này: Chúng ta có thành trì vững chắc, Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài để chở che." Đền Thờ và tường Thành được hòan tất khoảng 20 năm sau khi dân Do-thái từ nơi lưu đày trở về.
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân một thành trì vững chắc, nhưng dân phải tin tưởng và làm theo những gì Ngài dạy, thì họ mới được sống an vui và hạnh phúc. Tiên tri nói tiếp: "Mở cửa ra cho dân tộc công chính bước vào, một dân tộc trọn niềm trung nghĩa. Lạy Chúa, Ngài quyết giữ cho dân được an cư lạc nghiệp, vì họ tin vào Ngài."
1.2/ Đức Chúa là Núi Đá bền vững ngàn năm: Núi Đá thường được dùng để chỉ Núi Sion nơi mà Đền Thờ và Thành Jerusalem được xây dựng trên đó; là một biểu tượng thường xuyên Cựu Ước dùng để chỉ sự vững bền của Thiên Chúa. Chẳng hạn, trong Thánh Vịnh 18:2-3: "Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ." Tiên tri Isaiah khuyến khích dân đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Thiên Chúa: "Đến muôn đời, hãy tin vào Đức Chúa: chính Đức Chúa là núi đá bền vững ngàn năm."
Không những xây dựng thành trì vững chắc cho dân ẩn náu, Thiên Chúa còn triệt hạ quân thù, những kẻ mưu đồ ức hiếp dân. Quân thù này bao gồm cả những vua quan của Do-Thái, những người lợi dụng quyền thế để ức hiếp dân nghèo. Đọan văn kế tiếp có lẽ tiên tri ám chỉ biến cố xảy ra vào năm 587 BC, khi Babylon triệt hạ Jerusalem và bắt vua quan của Judah đi lưu đày: "vì Người đã lật nhào dân sống ở núi cao, thành trì kiên cố, Người đã triệt hạ, triệt hạ cho bình địa chỉ còn là bụi đất. Nó sẽ bị chà đạp dưới chân, dưới chân người cùng khổ, dưới gót kẻ yếu hèn."
2/ Phúc Âm: Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.
2.1/ Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người không chỉ tòan lời nói: Nhiều người thích nói lời yêu thương mặc dù những lời yêu thương không chân thành; nhiều người cũng thích nghe những lời yêu thương mặc dù đó là những lời yêu thương giả dối, như lời của một bài hát: "Tôi xin người cứ gian dối, cho tôi tưởng người cũng yêu tôi... Tôi xin người cứ gian dối, nhưng xin người đừng lìa xa tôi!" Chuyện đó không thể xảy ra với Thiên Chúa, vì Ngài yêu mến sự thật và có thể nhìn thấu suốt tâm hồn của từng người. Chúa Giêsu cảnh cáo mọi người: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi."
2.2/ Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa phải được biểu tỏ qua việc nghe và giữ Lời Chúa: Vì yêu thương, Thiên Chúa săn sóc và quan tâm đến đời sống con người; Ngài muốn con người được hạnh phúc và không muốn con người phải đau khổ. Là Đấng tạo thành con người và điều khiển vũ trụ, Thiên Chúa biết rõ những gì lợi ích và những gì gây đau khổ cho con người. Đó là lý do tại sao Ngài ban Lề Luật như hàng rào để gìn giữ con người đừng vượt rào kẻo phải chịu đau khổ. Nhưng nếu con người dùng tự do để không làm theo những gì Chúa dạy, con người phải lãnh nhận mọi khổ đau của việc dùng tự do không đúng cách.
Ngòai Lề Luật, Thiên Chúa còn mặc khải cho con người những sự khôn ngoan của Thiên Chúa qua tòan bộ Kinh Thánh. Con người cần phải học cho biết tất cả những Lời này, và đem ra áp dụng trong cuộc sống, thì sẽ thóat mọi hiểm nguy cuộc đời và được sống hạnh phúc. Chúa Giêsu dùng 2 hình ảnh trái ngược: xây nhà trên đá và xây nhà trên cát để chỉ người khôn ngoan hay người ngu dại mà khán giả của Ngài hiểu ngay:
(1) Người khôn ngoan: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá."
(2) Người ngu dại: "Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mùa Vọng là thời gian cho mỗi người chúng ta nhìn lại mối liên hệ của mình với Thiên Chúa, để xem coi mối liên hệ này đã tiến triển tới đâu, và làm thế nào để cải tiến mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
- Một cách để nhìn lại là xét mình theo Lời Chúa dạy, chúng ta đã thực hành những gì Chúa dạy chúng ta phải làm chưa: Mến Chúa trên hết mọi sự? Yêu tha nhân và giúp đỡ họ như chính mình? Làm chứng cho Chúa bằng rao giảng Tin Mừng và cuộc sống tốt lành?
- Nếu không sống mối liên hệ với Thiên Chúa, làm sao cuộc đời chúng ta có thể an bình và hạnh phúc được? Đừng lạ khi thấy cuộc đời chúng ta đầy dẫy những bi quan, đổ vỡ gia đình, chán người và chán đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần I MV2
Bài đọc: Isa 25:6-10; Mt 15:29-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chính Chúa sẽ chăm sóc dân Người.
Sống trong cuộc đời, con người thường xuyên bị đe dọa bởi đói khát, bệnh tật, chiến tranh, hận thù, chết chóc. Con người ước mơ một "thiên đàng trần gian," khi tất cả những đe dọa này không còn nữa. Nỗi ước mơ này có thể thực hiện hay không? Các Bài đọc hôm nay cho thấy ước mơ này có thể hiện thực trong tương lai. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước Ngày đó, Ngày mà chính Thiên Chúa sẽ thân hành chăm sóc dân chúng, lau khô mọi giòng lệ, và nhất là vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, được sai tới để làm những việc này. Ngài chữa lành mọi tật nguyền và làm phép lạ để có của ăn nuôi dân chúng theo Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Tiên tri Isaiah là tiên tri đã thấy trước 2 cuộc lưu đày của dân Do-Thái: vương quốc miền Bắc bị thất thủ và lưu đày tại Assyria vào năm 721 BC, và vương quốc miền Nam bị thất thủ và lưu đày tại Babylon vào năm 587 BC. Nước mất, nhà tan, Đền Thờ bị phá hủy, nhưng tiên tri được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ giải phóng Israel, cho nhóm người còn sót lại được hồi hương, tái thiết quốc gia, và xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa, Tiên Tri còn được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai sẽ tới cai trị dân. Thị kiến hôm nay tường thuật những gì Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện:
(1) Ngài sẽ cho dân ăn uống: không phải là những thức ăn tầm thường, nhưng là những cao lương mỹ vị và rượu ngon tinh chế: "Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế."
(2) Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt thần chết: Kẻ thù lớn nhất của con người là sự chết vì nó lấy đi tất cả những gì con người có. Đối diện với cái chết, con người không thể làm gì khác là đành chấp nhận. Nhưng khi Đấng Thiên Sai tới, Ngài sẽ đánh bại thần chết, và đem lại sự sống muôn đời cho con người như Tiên Tri tuyên bố: "Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần." Bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã sống lại khải hòan, và cho mọi người chết sống lại.
(3) Ngài sẽ tiêu diệt mọi khổ đau: "Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô giòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy." Đau khổ của con người có nhiều nguyên nhân: bệnh tật, tội lỗi, phân ly. Người sẽ tiêu diệt mọi nguyên nhân gây đau khổ cho con người.
(4) Ngài sẽ tiêu diệt mọi kẻ thù: Tiên tri chỉ đề cập đến Moab ở đây: "Còn Moab sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân." Có lẽ Moab chỉ là một biểu tượng được dùng để chỉ tất cả các địch thù của con người.
Khi chứng kiến tất cả các điều trên xảy ra, người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ." Và chỉ khi nào hòan tất mọi sự, "Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ."
2/ Phúc Âm: Triều đại của Thiên Chúa đã đến: Đấng Thiên Sai chính là Chúa Giêsu.
Tất cả những gì Tiên Tri Isaiah loan báo hơn 700 năm trước được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hai điều Chúa Giêsu làm được tường thuật trong Tin Mừng hôm nay:
2.1/ Chúa Giêsu chữa mọi bệnh họan tật nguyền cho dân: Thánh sử Matthêu tường thuật: "Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Galilee. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Israel." Không có bệnh gì Chúa Giêsu không chữa lành được; cũng không có một quyền lực nào ngăn cản Ngài không được chữa bệnh.
2.2/ Chúa Giêsu cho dân ăn: Sau khi đã dạy dỗ dân chúng 3 ngày trong nơi hoang vắng, Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường." Các môn đệ thưa: "Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?" Đức Giêsu hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh?" Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ." Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy.
2.3/ Bàn tiệc Thánh Thể: Phép lạ "Hóa Bánh ra nhiều" là phép lạ duy nhất được tường thuật bởi cả 4 Thánh Sử (x/c Mt 14:13-21, Mk 6:30-44, Lk 9:10-17, Jn 6:1-15); và được Thánh Sử Gioan dùng để làm chất liệu cho Bài Giảng về Thánh Thể trong chương 6. Theo Gioan, Chúa Giêsu chính là Bánh Hằng Sống từ trời xuống để trở thành của ăn uống nuôi sống muôn dân; ai ăn thịt và uống máu Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời (Jn 6:53-58).
Một điều cần đề cập tới nữa là việc Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly: Cả ba Thánh Sử tường thuật biến cố này đều tường thuật lời Chúa Giêsu nói sau cùng: "Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy" (x/c Mt 26:29, Mk 14:25, Lk 22:18). Lời tường thuật này nhắc nhở Bữa Tiệc trong Vương Quốc Thiên Chúa mà Tiên Tri Isaiah đã có thị kiến trong Bài đọc I.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đối diện với những đau khổ và bất tòan trong cuộc sống, chúng ta trông mong sẽ có một ngày con người sẽ không còn phải đói khát, đau khổ, chiến tranh, hận thù, chết chóc.
- Chỉ nơi Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, chúng ta mới tìm được tất cả những gì Tiên Tri Isaiah đã loan báo trong Bài đọc I.
- Chúa Giêsu sẽ chữa lành chúng ta khỏi mọi tật bệnh hồn xác, và chính Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thân thể của Người. Nhờ Ngài, chúng ta được tham dự vào cuộc sống thần linh của Thiên Chúa ngay từ đời này, và sẽ được hưởng trọn vẹn tất cả trong cuộc sống mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần I MV2
Bài đọc: Isa 11:1-10; Lk 10:21-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa làm những chuyện không thể đối với con người.
Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah cho dân một hy vọng: Khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy và vương quốc Judah thất thủ, các vua quan của Judah bị lưu đày qua Babylon. Sau gần 50 năm lưu đày, họ được Vua Batư, Darius, cho hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và kiến thiết xứ sở. Câu hỏi được đặt ra là ai sẽ lãnh đạo dân để tái thiết xứ sở? Người lãnh đạo này phải thuộc giòng dõi của David; và Zerubbabel hội đủ điều kiện để lãnh đạo dân (x/c Hag 1:1, Zech 4:9). Từ giòng dõi Zerubbabel sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai (Mt 1:12). Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Kế Họach Cứu Độ cho các môn đệ và chỉ cho các ông cách làm sao để đạt đích điểm của cuộc đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Làm sao kiếm được Vua công chính cai trị dân?
1.1/ Làm sao kiếm được Vua cai trị Israel sau Thời Lưu Đày? Tiên tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai như sau: "Từ gốc tổ Jesse, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và can đảm, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa." Ông Jesse là cha của Vua David. Vương quốc Judah được ví như một cây, bị chặt sát gốc trong thời gian lưu đày, tưởng chừng như đã chết; nhưng Thiên Chúa đã phục hồi và làm cho sống. Bắt đầu từ một nhánh nhỏ, sẽ mọc lên một mầm non, mầm non này chính là Đấng Thiên Sai.
Thánh Thần của Thiên Chúa là hơi thở ban sự sống (ruah) mà Thiên Chúa trao tặng cho con người. Hơi thở này kèm theo những năng lực vô biên: khôn ngoan, minh mẫn, mưu lược, can đảm, hiểu biết, và kính sợ Thiên Chúa. Những năng lực vô biên này, Bản Bảy Mươi và Vulgate thêm vào năng lực "đạo đức" thay cho một "kính sợ Thiên Chúa," đã trở thành 7 quà tặng của Chúa Thánh Thần. Người tín hữu lãnh nhận 7 quà tặng này khi chịu Bí-tích Thêm Sức.
1.2/ Vua công minh, thương yêu, can đảm: Với Thánh Thần của Thiên Chúa hướng dẫn, Đấng Thiên Sai có đầy đủ mọi đức tính cần thiết để cai trị dân:
(1) Ngài sẽ xét xử công minh: "Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người mãn nguyện, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói."
(2) Ngài sẽ bênh vực kẻ nghèo hèn: "Ngài xét xử công minh cho những người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư cho kẻ nghèo trong xứ sở."
(3) Ngài sẽ trừng trị kẻ ác: "Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà."
Hai đức tính cần thiết một vị anh quân cần có được tiên tri ví như dây thắt lưng và miếng vải buộc trong mình: "Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành."
1.3/ Vua đem lại hòa bình: Sau khi đã trải qua biết bao gian khổ đau thương do chiến tranh và lưu đày gây ra, điều con người mong ước nhất là có được nền hòa bình. Mong ước này chỉ có được khi tất cả mọi người trên thế giới biết dẹp bỏ mọi khác biệt để cùng nhau chung sống và xây dựng hòa bình: "Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển." Viễn tượng hòa bình này chỉ có thể đạt được trong triều đại của Đấng Thiên Sai, khi Ngài chiến thắng mọi quyền lực thế gian và thu thập mọi người về cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Làm sao biết được thánh ý Thiên Chúa?
2.1/ Thánh ý Thiên Chúa: Thiên Chúa khôn ngoan và uy quyền, con người yếu đuối và giới hạn; làm sao con người hiểu được những chương trình và thánh ý của Thiên Chúa? Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để nói với con người; nhưng họ chỉ mặc khải được phần nào những gì Thiên Chúa muốn bằng ngôn ngữ lòai người. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho con người tất cả những gì nơi Thiên Chúa. Những mặc khải của Đức Kitô chính xác và tòan hảo vì Ngài ở với Thiên Chúa ngay từ ban đầu khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Mặc khải quan trọng nhất của Đức Kitô cho con người là Mầu Nhiệm Cứu Độ; nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được Mầu Nhiệm này như Chúa Giêsu nói hôm nay: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!"
(1) Kẻ nghèo hèn được mặc khải: Khác với những khôn ngoan của thế gian, Mầu Nhiệm Cứu Độ chỉ được hiểu bởi những kẻ nghèo hèn, những người không cậy vào sức riêng mình, nhưng hòan tòan trông cậy nơi Thiên Chúa.
(2) Bậc khôn ngoan không hiểu: Cũng như tòan bộ Tin Mừng, Mầu Nhiệm Cứu Độ được rao giảng cho tất cả mọi người. Bậc khôn ngoan không hiểu là vì họ cậy vào sức mình. Nếu họ dùng lý luận và sự khôn ngoan của con người, Mầu Nhiệm Cứu Độ là chuyện điên rồ không thể hiểu được. Thánh Phaolô đã trưng dẫn điều này về Thập Giá của Đức Kitô.
(3) Các vua chúa không thấy: "Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe."
2.2/ Làm sao để đạt đích của cuộc đời? Chúa Giêsu không chỉ mặc khải cho con người biết đích điểm của cuộc đời, mà còn cả cách thức đạt tới đích điểm này:
(1) Mến Chúa, yêu người: Chúa Giêsu chứng thực câu trả lời của người Kinh-sư: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình."
(2) Thực hành giới luật yêu thương: Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhắc nhở ông không phải chỉ biết cách mà thôi, nhưng còn phải ra sức thực hành hai giới răn này: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không gì là không thể đối với Thiên Chúa. Trong Chương Trình Cứu Độ, Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho con người.
- Ngài cho Chúa Giêsu, Người Con của Ngài xuống để mặc khải Mầu Nhiệm Cứu Độ cho con người. Chính Người Con này sẽ là Vua cai trị dân trong công minh, yêu thương; và sẽ đem lại bình an cho con người.
- Điều kiện để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ: phải khiêm nhường nhỏ bé mới có thể nhìn thấy Đấng Thiên Sai và hiểu biết Kế Họach Cứu Độ Ngài mặc khải. Phải thực thi 2 giới răn "Mến Chúa yêu người" như Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Thánh Anrê Tông Đồ (Ngày 30 tháng 11)
Bài đọc: Rom 10:9-18; Mt 4:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!
Thánh Anrê Tông Đồ, con của ông Jonah hay John (Mt 16:17; Jn 1:42), sinh tại Bethsaida, miền Galilee (Jn 1:44). Ngài là anh em với thánh Phêrô (Mt 10:2; Jn 1:40). Cả hai anh em đều làm nghề đánh cá, và khi được gọi bởi Chúa Giêsu, hai anh em đang sống chung một nhà tại Capernaum (Mk 1:21, 29).
Tin Mừng Thứ Tư cho chúng ta biết Anrê lúc đầu là môn đệ của John Baptist, và sau lời làm chứng của thầy mình, Anrê đã đi theo Chúa Giêsu (Jn 1:35-40). Sau khi nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, ông vội vã giới thiệu Ngài cho Phêrô, em mình (Jn 1:41), và cả hai trở thành những môn đệ của Đức Kitô. Hai ông bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu (Mt 4:19-20; Mk 1:17-18; Lk 5:11).
Tên của hai anh em được liệt kê vào Nhóm Mười Hai Tông-đồ trong Tin Mừng Nhất Lãm và CVTĐ (Mt 10:2-4; Mk 3:16-19; Lk 6:14-16; Acts 1:13). Anrê luôn được kể là một trong bốn môn đệ đầu tiên. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Anrê chỉ được nhắc tới một lần cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi các ông hỏi Chúa Giêsu về ngày mà Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy. Trong Phúc Âm Gioan, Anrê là người được nhắc tới trong phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi 5,000 người ăn (Jn 6:8-9), và khi một số người Hy-lạp đến với Philip để xin cho họ gặp Chúa Giêsu, Philip đã chuyển lời của họ cho Anrê (Jn 12:20-22).
Khi các Tông-đồ bắt đầu nhận lệnh đi khắp tứ phương rao giảng Tin Mừng, thánh Jerome cho biết thánh Anrê lúc đầu đã đi rao giảng tại Cappadocia, Galatia, Bithynia, và trong vùng sa mạc Scythia; sau đó ngài tới Byzantium, Macedonia, Thessaly và Achaia. Truyền thống tin ngài bị đóng đinh bởi Aegeas, Thống Đốc Rôma, tại Patrae trong miền Achaia. Cuộc tử đạo của ngài xảy ra dưới thời hoàng-đế Nero (ngày 30 tháng 11 năm 60 AD). Di hài của ngài lúc đầu được giữ ở Constantinople, khi thành phố này bị chiếm bởi người Pháp vào đầu thế kỷ 13, đức hồng y Phêrô của Capua đã mang di hài của ngài về Ý và đặt trong thánh đường Amalfi. Thánh Anrê được tôn làm quan thầy của Sô Viết và Tô Cách Lan.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
1.1/ Lời Kinh Thánh giúp con người nhận ra sự thật và tin tưởng nơi Thiên Chúa: Trình thuật hôm nay tiếp tục những gì thánh Phaolô đã trình bày trong những chương trước về đề tài con người được nên công chính là do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngay trong câu đầu tiên, thánh Phaolô đã trình bày về việc làm sao con người có thể tin tưởng nơi Thiên Chúa: "Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin."
Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh hai điều trong câu này: thứ nhất, Thiên Chúa là tác nhân chính, Ngài đã đặt Lời vào trong con người; thứ hai, Phaolô chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc rao giảng để khơi dậy đức tin nơi người nghe. Phaolô trích dẫn Sách Đệ Nhị Luật 30:14 theo văn bản của MT. Có sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản MT: Bản Bảy Mươi có thêm câu "và ngay trên tay bạn;" có lẽ tác giả của Bản Bảy Mươi cũng muốn đến sự liên hệ giữa đức tin và hành động để biểu lộ đức tin. Theo Phaolô, con người phải tin Đức Kitô trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng: Ngài đã được Thiên Chúa sai đến với con người để chịu chết và đã sống lại, thì mới được hưởng ơn cứu độ.
1.2/ Thiên Chúa thương xót tất cả những ai tin tưởng nơi Ngài: Ơn cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng cho tất cả những ai tin và kêu cầu danh của Ngài; chứ không phải chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái như nhiều người lầm tưởng. Phaolô trích dẫn các Sách Tiên Tri, Isaiah 28:16 trong câu 11, và Joel 2:32 trong câu 13, để nói lên sự thật này. Đây là điều hợp lý và chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người. Phaolô kết luận: "Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người."
2/ Phúc Âm: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."
2.1/ Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên đi theo Ngài: Chúa Giêsu mời gọi các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên Chúa và ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng ta có thể thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có cơ hội nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng Biển Hồ Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán về Ngài... Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi hôm nay, khi Ngài chính thức mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá;" các ông mới có thể bỏ mọi sự đi theo Ngài.
2.2/ Các môn đệ phải dứt khoát đáp trả: Tuy thế, phản ứng dứt khoát của các tông đồ cũng làm cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề nghiệp không dễ bỏ vì nó liên quan đến vần đề sinh sống. Các ông chắc cũng thắc mắc: "Bỏ nghề rồi làm gì ăn?" Bỏ cha già ở lại trên thuyền với lưới rách còn khó hơn. Ơn sinh thành phải đền trả. Giờ đã đến lúc người cha già yếu phải sống nương tựa vào sức mạnh của con, thế mà hai người con khỏe mạnh đành lòng để cha già ở lại để bước theo Đức Kitô! Hơn nữa, chắc họ cũng phải nhìn lại con người mình và tự hỏi: Làm sao một dân thuyền chài có thể mang ánh sáng chân lý tới cho con người? Chính họ cần được ánh sáng chân lý chiếu soi trước hết.
Các ông có can đảm bước đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các ông được soi sáng để nhận ra đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi theo Chúa Giêsu vì các ông nhận ra có những điều trong cuộc đời cao trọng hơn là nghề nghiệp và sự đáp trả công ơn sinh thành bằng việc giúp đỡ phần xác. Chúa Giêsu phải có những điều có thể lấp đầy những nỗi khao khát trong tâm hồn các ông. Các ông thấy dân chúng lũ lượt và nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài dạy dỗ và chữa lành. Các ông cảm thấy hãnh diện được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và việc tham gia vào sứ vụ cứu độ của Chúa phải là điều đáng ao ước hơn cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong cuộc đời, có những điều quan trọng hơn là công việc làm. Chúng ta hãy noi gương thánh Anrê để đi tìm sự thật, và sau khi đã tìm thấy, loan báo sự thật này cho mọi người.
- Trong tiến trình đem con người đến với Thiên Chúa, con người chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng. Để con người hoán cải và tin vào Thiên Chúa, con người cần ơn thánh hoạt động cả bên trong lẫn bên ngoài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật I Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Jer 33:14-16; I Thes 3:12-4:2; Lc 21:25-28, 34-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chờ đợi và chuẩn bị cho Ngày Đức Kitô đến.
Hôm nay, Giáo Hội dẫn chúng ta vào Mùa Vọng, là mùa của ngóng trông và đợi chờ Ngày Chúa đến lần thứ hai.
- Không như người vợ trên Hòn Vọng Phu chờ đợi đến hóa đá, vì chinh phu không bao giờ trở về; người tín hữu chờ đợi những gì chắc chắn sẽ xảy ra, vì đó là điều Thiên Chúa hứa.
- Không như người vợ chờ đợi mà không làm gì cả nên mới hóa đá; người tín hữu vẫn tích cực chuẩn bị trong khi chờ đợi bằng cách cầu nguyện và thăng tiến không ngừng.
Các Bài Đọc hôm nay đưa chúng ta ngược giòng lịch sử cứu độ để nhìn lại sự chờ đợi của tổ tiên chúng ta và những gì cần phải làm trong khi chờ đợi. Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah nhắc lại lời sấm của Thiên Chúa: "Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israel và về Judah;" để cung cấp niềm hy vọng cho con cái Israel đang sống nơi lưu đày vì thái độ bất trung của vua quan cũng như của dân chúng. Theo lời hứa của Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho dân một Đấng Thiên Sai, xuất thân từ giòng dõi David, để cai trị dân chúng trong công bình chính trực. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Thessalonica những gì phải làm trong khi chờ đợi Đức Kitô đến lần thứ hai. Họ phải có đức bác ái, bền tâm vững chí trước đau khổ, và luyện tập nhân đức không ngừng để trở nên tinh tuyền, thánh thiện, hầu xứng đáng được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho dân chúng biết về Ngày Ngài sẽ trở lại lần thứ hai để phán xét và thưởng phạt. Tùy vào sự chuẩn bị, con người sẽ có thái độ khác nhau về Ngày đó. Nếu một người không chuẩn bị, họ sẽ sợ hãi kinh hồn vì phải đối diện với sự phán xét và hình phạt của Thiên Chúa; nhưng nếu một người đã chuẩn bị và luôn làm theo những lời Đức Kitô dạy, họ sẽ vui mừng vì đó là Ngày họ được lãnh nhận ơn cứu độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người Do-thái kiên nhẫn chờ đợi và chuẩn bị cho Đức Kitô đến lần thứ nhất.
1.1/ Điều Thiên Chúa hứa không bao giờ Ngài quên lãng: Tiên-tri Jeremiah sống trong giai đoạn lịch sử rất khó khăn của dân tộc Do-thái: Đất nước bị chia đôi, vua chúa từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang và đối xử bất công với dân chúng. Hậu quả: vương quốc miền Bắc là Israel đã bị rơi vào tay của đế quốc Assyria và đi lưu đày vào năm 721 BC; vương quốc miền Nam bị rơi vào tay của đế quốc Babylon và đi lưu đày vào năm 587 BC. Sống trong hoàn cảnh khốn khổ nơi lưu đày, tiên-tri Jeremiah được Thiên Chúa sai đến để nâng đỡ tinh thần con cái Israel. Ông nhắc lại những lời Thiên Chúa hứa qua các giao ước Ngài đã làm với các tổ phụ: "Này, sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israel và về Judah."
1.2/ Đấng Công Chính sẽ nối nghiệp vua David.
(1) Giòng dõi vua David sẽ làm vua cai trị đến muôn đời: Sống trong nơi lưu đày, người Do-thái không thể hiểu lời Thiên Chúa đã hứa với vua David: "Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi" (2 Sam 7:16, I Chr 17:13, Psa 89:29-30). Giờ đây, đối với họ, nhà Judah có cơ hội bị tuyệt tự như cây đã bị chém tận gốc rễ. Nếu điều này xảy ra, giòng dõi vua David sẽ bị tuyệt tự, và lời hứa của Thiên Chúa về giòng dõi vua David sẽ làm vua cai trị muôn đời sẽ chấm dứt!
Thiên Chúa không hứa hẹn và giữ lời hứa cách mù quáng để những vua cai trị có thể tự tin và nói: vì đã có lời hứa từ Thiên Chúa, nên ta cứ việc sống tự do buông thả. Ngài sẽ khai trừ tận gốc rễ nhà Judah vì Ngài là Đấng Công Chính. Nhưng tiên-tri Jeremiah tin tưởng tuyệt đối nơi điều Thiên Chúa hứa và ông khơi niềm hy vọng cho dân: "Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp David; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực."
(2) Triều đại của Đấng Thiên Sai: Khi được cai trị bởi một vua khôn ngoan, thánh thiện, và công chính như vua David, dân chúng sẽ được thịnh vượng và thái bình; ngược lại, nếu bị cai trị bởi một vua ngu muội, tội lỗi, và bất trung như các vua của cả hai vương quốc trước Thời Lưu Đày, dân chúng sẽ bị đe dọa bởi chiến tranh, nghèo đói và chết chóc.
Tiên-tri Jeremiah hứa hẹn khi triều đại Đấng Thiên Sai tới, mọi sự sẽ thay đổi: ''Trong những ngày ấy, Judah sẽ được cứu thoát, Jerusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: "Đức Chúa là-sự-công-chính-của-chúng-ta!"
2/ Bài đọc II: Các tín hữu Thessalonica chuẩn bị cho Đức Kitô đến lần thứ hai.
2.1/ Những việc cần làm: Thánh Phaolô liệt kê ba điều quan trọng: Thứ nhất là sự quan trọng của đức bác ái: "Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy." Đức bác ái là nền tảng của Lề Luật và là tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để phán xét con người (x/c Mt 25). Vì thế, không lạ gì khi thánh Phaolô khuyên các tín hữu của ngài điều quan trọng này. Thứ hai là phải bền tâm vững chí; vì con người dễ bỏ cuộc khi phải chờ đợi quá lâu hay phải đương đầu với đau khổ. Thứ ba là phải kiên trì luyện tập nhân đức để "được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người."
2.2/ Phải mỗi ngày một tiến bộ hơn: Đời sống con người phải luôn tiến bộ không ngừng; khi con người dừng lại, họ sẽ có nguy cơ bị thụt lùi. Vì thế, nếu Chúa cho sống trên đời càng lâu, con người có cơ hội luyện tập nhân đức càng nhiều. Điều này giúp con người khỏi phải tinh luyện nhiều trong luyện ngục. Nhưng sống càng lâu mà không chịu luyện tập nhân đức, tội lỗi càng ngày càng chồng chất, và con người sẽ phải tinh luyện trong luyện ngục lâu hơn.
3/ Phúc Âm: Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.
Chúng ta có thể phân biệt ba giai đoạn chính của Lịch Sử Cứu Độ: Thứ nhất, dân tộc Do-thái được Thiên Chúa lựa chọn để chuẩn bị cho Đức Kitô đến lần thứ nhất. Điều này đã được các ngôn sứ loan báo và đã xảy ra. Thứ hai, khi Đức Kitô đến, Ngài loan báo cho mọi người Ngày Ngài sẽ đến lần thứ hai để xét xử và ban thưởng ơn cứu độ. Điều này chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai vì đó là lời Thiên Chúa hứa. Thứ ba, giữa hai thời này là thời hiện tại của mỗi người chúng ta. Chúng ta cần ý thức điều này, có thể chúng ta sẽ chết trước khi Ngày Tận Thế tới. Ngày chúng ta chết là ngày tận thế của cuộc đời chúng ta; vì thế, mỗi khi Mùa Vọng tới, chúng ta phải nhìn lại tâm hồn để kiểm điểm xem Đức Kitô đã đến với tâm hồn chúng ta chưa, và chúng ta đã làm gì để chuẩn bị cho biến cố Ngài đến lần thứ hai. Trình thuật của Lucas hôm nay tập trung trong hai điều chính:
3.1/ Hai thái độ có thể xảy ra khi Đức Kitô đến: Đứng trước những việc bất ngờ xảy ra, con người có thể có hai thái độ:
(1) Thái độ sợ hãi: Chúa Giêsu tiên báo cho con người biết trước về những gì sẽ xảy ra trước Ngày Tận Thế: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển." Sợ hãi xảy ra vì con người không chuẩn bị. Họ biết họ chưa sẵn sàng đối diện với Thiên Chúa nên họ sợ hãi Ngài và các hình phạt họ sẽ phải nhận lãnh.
(2) Thái độ bình an: Ngược lại, nếu con người đã chuẩn bị kỹ càng, họ vui mừng khi thấy "Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến." Như lời Đức Kitô khuyến khích: "Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc."
3.2/ Phải làm những gì để chuẩn bị: Đức Kitô không chỉ mặc khải cho con người về Ngày Ngài sẽ đến lần thứ hai, Ngài còn dạy dỗ con người biết những gì phải làm và những gì phải tránh.
(1) Những việc phải làm: "Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." Con người cần tỉnh thức để nhận ra sự thật từ những sự sai trái trong cuộc đời, để nhận ra những cám dỗ nguy hiểm của ba thù đe dọa linh hồn con người, trước khi có thể tránh xa hay tìm cách đối phó. Con người không thể nhận ra sự thật nếu không chuyên cần cầu nguyện để xin Thiên Chúa soi sáng cho nhận ra những nguy hiểm của ba thù, và ban sức mạnh và ơn thánh để có thể vượt qua.
(2) Những việc phải tránh: Chúa Giêsu liệt kê hai kẻ thù nguy hiểm nhất: "Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời." Chè chén say sưa làm cho thân xác nặng nề và tinh thần mệt mỏi. Khi con người đã quá mệt mỏi và nặng nề, họ không còn khôn ngoan và nghị lực để làm những gì Thiên Chúa muốn. Rất nhiều gương trong lịch sử cho thấy khi muốn hạ người nào, kẻ thù sẽ cho người đó ăn uống say xỉn đến độ không còn biết phân biệt điều hay lẽ phải nữa, lúc đó kẻ thù sẽ ra tay hạ sát người đó cách nhẹ nhàng. Ham muốn sự đời bao gồm nhiều lãnh vực như: danh vọng, quyền bính, tiền của, ham muốn xác thịt. Tất cả những thứ này đều có thể làm cho con người không còn mong muốn kho tàng vĩnh cửu trên trời nữa; vì "của cải ở đâu, lòng trí con người ở đó."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lịch sử của dân tộc Do-thái khi họ chờ đợi Đấng Thiên Sai đến lần thứ nhất là kinh nghiệm Thiên Chúa muốn chúng ta phải học để đón chờ Ngày Đức Kitô đến lần thứ hai.
- Chúng ta phải bền tâm vững chí trong khi chờ đợi, tránh xa tội lỗi, và luyện tập nhân đức để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện, để xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ.
- Trong khi chờ đợi Ngày Đức Kitô đến lần thứ hai, chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn; đồng thời phải tránh chè chén say sưa và lòng ham muốn những sự trần thế.
- Câu hỏi cho chúng ta: Đức Kitô đã thực sự đến trong tâm hồn chúng ta chưa? Chúng ta có làm theo những gì Ngài căn dặn trong khi chờ đợi Ngài đến lần thứ hai không?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 34 TN1.
Bài đọc: Dan 7:15-27; Lk 21:34-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn!
Con người cần ý thức cuộc đời là một cuộc giao tranh liên tục với ba thù: ma quỉ, thế gian và xác thịt. Kẻ thù nào cũng nguy hiểm và sức mạnh của chúng mạnh hơn sức lực con người. Làm sao để chiến đấu với ba thù mạnh sức như thế? Vũ khí của con người là tỉnh thức đề phòng và cầu nguyện.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật cuộc giao tranh với những quyền lực của thế gian và cách thức để chiến thắng. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Daniel được giải thích về những thị kiến ông nhìn thấy về 4 con thú, đặc biệt về con thú thứ tư, và cuộc chiến thắng của các chư thánh của Thiên Chúa sau triều đại của 4 con thú này. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đề phòng các môn đệ về sự bất ngờ của những gì sẽ xảy ra trong cuộc đời mỗi người và ngày Ngài đến lần thứ hai. Để đối phó với những bất ngờ này, mọi người cần tỉnh thức đề phòng và cầu nguyện không ngừng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các vương quốc khắp thiên hạ sẽ được trao cho dân thánh của Đấng Tối Cao.
1.1/ Giải thích thị kiến bốn con thú: Daniel hoang mang vì những điều ấy, và những thị kiến trong đầu làm ông xao xuyến. Ông đến gần một trong những vị đứng túc trực và xin vị ấy cho biết sự thực chắc chắn về tất cả những điều ấy. Người đã nói với ông và giải thích cho tôi ý nghĩa các sự việc: "Bốn con thú to lớn ấy tức là bốn ông vua, từ đất trỗi dậy. Rồi chư thánh của Đấng Tối Cao sẽ lãnh nhận vương quyền và nắm giữ vương quyền ấy mãi mãi muôn đời."
Bốn con thú tượng trưng cho bốn vương quốc cai trị vùng Cận Đông trong thời đó, là: Babylon, Mede, Ba-tư, và Hy-lạp. Mỗi biểu tượng trong người của con vật tượng trưng cho các vị vua cai trị trong vương quốc ấy. Ba miếng sườn của con thú thứ hai là 3 vua: Nebuchadnezzar, Evilmerodach, và Belshazzar. Con thú thứ ba tượng trưng cho vương quốc Ba-tư, với 4 cánh là biểu tượng của 4 vua: Cyrus, Ahasuerus, Artaxerxes, và Darius người Ba-tư.
1.2/ Con thú thứ tư tượng trưng cho vương quốc Hy-lạp.
(1) Thị kiến về con thú thứ tư: "Bấy giờ tôi muốn biết chắc chắn về con thú thứ tư là con thú khác hẳn với tất cả các con khác, nó rất đáng sợ, có răng bằng sắt và vuốt bằng đồng. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại. Tôi cũng muốn biết chắc về mười cái sừng trên đầu nó và về cái sừng khác đã mọc lên, và ba cái đã rụng đi trước mặt cái sừng ấy; cái sừng này là cái sừng có mắt, và mồm nói những lời quái gở; nó có vẻ lớn hơn các sừng khác. Tôi đang nhìn, thì cái sừng này đã giao chiến với chư thánh và đã thắng được các ngài, cho tới khi Đấng Lão Thành đến và có cuộc xét xử nhằm bênh vực chư thánh của Đấng Tối Cao, cho tới khi thời đến, thời mà chư thánh nắm được vương quyền."
(2) Giải thích về con thú thứ tư: Vị đứng túc trực ấy lại nói với tôi thế này: "Con thú thứ tư là vương quốc thứ tư sẽ xuất hiện trên mặt đất, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan. Còn mười cái sừng kia là mười ông vua từ vương quốc ấy trỗi dậy." Con thú thứ tư tượng trưng cho vương quốc Hy-lạp. Mười cái sừng tượng trưng cho 10 vị vua cai trị vương quốc Hy-lạp.
Sau đó, "một ông vua khác sẽ trỗi dậy sau mười ông kia. Vua này sẽ khác hẳn các vua trước và sẽ hạ ba vua. Vua này sẽ thốt ra những lời phạm đến Đấng Tối Cao và ngược đãi chư thánh của Người. Vua định thay đổi lịch và Lề Luật. Chư thánh sẽ bị nộp vào tay vua một thời, hai thời và nửa thời." Đây là lời tiên-tri nói về vua Antiochus IV Epiphanes. Ông là người rất ác độc đối với người Do-thái, bắt họ phải theo đạo của nhà vua, hủy bỏ Lề Luật, ngày Sabbath và các ngày lễ, và trừng trị những người không chịu tuân hành (x/c I Mac 1:41-64). Nhưng triều đại của ông chỉ tạm thời qua con số 3 ½ là phân nửa của con số 7. Đây là thời gian thử thách và thanh luyện của dân tộc Do-thái trước khi họ có thể đạt được chiến thắng.
1.3/ Thời kỳ của Đấng Thiên Sai: Sau thời kỳ của bốn vương quốc trần gian là thời kỳ của Đấng Thiên Sai, mà Daniel đã nói tới trong (Dan 7:9-14). Đấng Thiên Sai có hình dáng như Con Người, nhưng có nguồn gốc từ trời và lãnh quyền cai trị từ Đấng Lão Thành; và vương quốc của Ngài sẽ tồn tại muôn đời. Trình thuật hôm nay củng cố thị kiến đó: "Rồi sẽ có cuộc xét xử và người ta sẽ tước quyền thống trị của vua nhằm vĩnh viễn huỷ bỏ và tiêu diệt quyền ấy. Còn vương quốc với quyền thống trị cũng như địa vị cao cả của các vương quốc khắp thiên hạ sẽ được trao cho dân thánh của Đấng Tối Cao. Vương quyền của dân ấy là vương quyền vĩnh cửu, và mọi quyền thống trị sẽ phụng sự và vâng phục dân ấy."
2/ Phúc Âm: Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.
2.1/ Những cám dỗ của thế gian: Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ 2 điều có thể làm các ông xao lãng việc chuẩn bị cho Ngày Phán Xét:
(1) Vì chè chén say sưa: Ăn quá độ làm thân xác con người ra nặng nề và chỉ muốn ngủ. Một thân xác ù lỳ như thế sẽ không có nghị lực làm bất cứ việc gì. Uống quá độ làm con người say xỉn và con người không còn trí khôn sáng suốt để làm theo những điều hay lẽ phải. Con người phải ăn uống điều độ mới có thể giữ cho tinh thần minh mẫn nhận ra và làm những gì Chúa dạy.
(2) Vì lo lắng sự đời: Con người không thể làm tôi hai chủ: cả Thiên Chúa lẫn tiền bạc. Dĩ nhiên con người phải biết lo lắng làm việc bao lâu còn sống trong thế gian để có phương tiện sinh sống, nhưng không được dành hết thời giờ để lo lắng sự đời. Chúa Giêsu đã từng khuyên dân chúng: "Đừng làm việc để kiếm cho mình những lương thực sẽ hư nát, nhưng cho lương thực sẽ đem lại cuộc sống đời đời" (Jn 6:27).
Nếu không biết chuẩn bị sẵn sàng, "Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, và Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất." Lúc ấy, có muốn vùng vẫy thóat ra cũng muộn rồi.
2.2/ Sự quan trọng của việc cầu nguyện: Chúa Giêsu ý thức được tầm quan trọng của việc cầu nguyện. Ngài đã nhiều lần cầu nguyện với Chúa Cha, và đã từng dạy các môn đệ cầu nguyện. Một lần nữa, Ngài khuyên các ông điều phải làm trong khi chuẩn bị cho Ngày Tận Thế: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn: hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người." Cầu nguyện còn làm tăng trưởng mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Khi mối liên hệ càng mật thiết bao nhiêu, con người càng hăng hái nhiệt thành cho Ngày Chúa đến.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để biết về cuộc sống tương lai đời đời với Thiên Chúa, vì "vô tri bất mộ." Những hấp dẫn của cuộc sống bất tử sẽ là động lực thúc đẩy chúng ta chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu không, những lười biếng và cám dỗ của cuộc sống thế gian sẽ làm lòng trí chúng ta ra nặng nề, không còn tấm lòng nhiệt thành đi đón Chúa, và chúng ta sẽ hối hận khi Ngày ấy tới.
- Để giữ lòng nhiệt thành và hăng hái chuẩn bị, chúng ta cần để cho Lời Chúa thấm nhập và làm chủ cuộc đời. Một nếp sống cầu nguyện mật thiết với Thiên Chúa không thể thiếu vì nó sẽ giúp chúng ta khao khát được gặp người chúng ta yêu thương và quí mến.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 34 TN1, Năm B
Bài đọc: Dan 7:2-14; Lk 21:29-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tìm thánh ý Thiên Chúa qua những dấu hiệu xảy ra trong cuộc đời.
Giống như người Do-Thái, nhiều người chúng ta thích được chứng kiến những phép lạ xảy ra: Đức Mẹ hiện ra, Đức Mẹ làm phép lạ, Đức Mẹ khóc, Trái tim Chúa chảy máu, sự linh thiêng chữa lành của cha Piô hay cha Trương Bửu Diệp. Khi nghe chỗ nào có những hiện tượng này, con người đua nhau tìm tới để chứng kiến và để xin ơn.
Nhưng con người phải hiểu mục đích Thiên Chúa làm phép lạ là để khơi dậy niềm tin hay những gì Thiên Chúa muốn con người hiểu. Ví dụ: Chúa Giêsu làm phép lạ để cho con người nhận ra quyền năng của Thiên Chúa trong Ngài, và để con người tin Ngài là Thiên Chúa. Nếu sau khi đã chứng kiến phép lạ mà con người vẫn còn nghi ngờ, hay không tin, hay chối từ luôn cả phép lạ, thì có ích gì cho con người đâu cho con người?
Các Bài đọc hôm nay dạy con người phải hiểu biết lịch sử và những sự việc xảy ra trong trời đất, để tìm ra thánh ý Thiên Chúa ẩn giấu qua những sự việc này. Trong Bài đọc I, tác giả Sách Daniel muốn con người nhận ra uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa trên các quyền lực thế gian, để con người vững tin nơi Thiên Chúa, nhất là những khi chịu thử thách và bị bách hại.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở con người: Nếu khi nhìn cây vả đâm chồi, họ biết mùa Hè sắp tới; thì khi nhìn các sự việc xảy ra trong trời đất, họ cũng phải biết Ngày của Thiên Chúa đã gần đến.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.
1.1/ Thị kiến về 4 con thú vật: Để hiểu những thị kiến của Sách Daniel, một người phải hiểu thể văn khải huyền. Theo thể văn này, tác giả dùng rất nhiều dấu hiệu và biểu tượng để chuyển thông sự thật hay mặc khải những điều bí nhiệm của Thiên Chúa. Vì thế, những sách thuộc thể văn khải huyền có cả tính cách lịch sử lẫn tôn giáo, biểu tượng lẫn sự thật, thần linh và nhân loại. Điều quan trọng để hiểu ý nghĩa tác giả muốn nói là phải hiểu ý nghĩa của các dấu hiệu và biểu tượng, cũng như hoàn cảnh lịch sử chung quanh những điều tác giả muốn nói.
Thị kiến thứ nhất ông tường thuật hôm nay là về "bốn con thú lớn từ biển lên, mỗi con mỗi khác: Con thứ nhất giống như sư tử, lại mang cánh đại bàng. Tôi nhìn theo cho đến khi đôi cánh của nó bị giựt mất; nó được nhấc lên khỏi mặt đất và đặt đứng trên hai chân như một người; nó được ban cho một quả tim người. Và này một con thú khác, con thứ hai, giống như con gấu. Nó được đặt trong tư thế chỉ đứng một bên, miệng ngậm ba khúc xương sườn giữa hai hàm răng. Người ta bảo nó như thế này: "Đứng lên, ăn thịt cho nhiều đi!" Sau đó, tôi đang nhìn, thì kìa: một con thú khác giống như con beo; hai bên mình nó, có bốn cánh như cánh chim. Nó có bốn đầu, và được trao quyền thống trị.'' Ba con thú đến từ biển này tượng trưng cho ba vương quốc thay phiên nhau thống trị các quốc gia vùng Cận Đông thời đó là Babylon, Persia, và Medes.
Tác giả không nêu tên con thú thứ tư, mà chỉ nói đến đặc tính của nó: "Con thú thứ tư đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song; răng của nó bằng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú trước. Nó có những mười sừng.
Tôi đang chăm chú nhìn các sừng, thì kìa: giữa các sừng này, một sừng khác, nhỏ hơn, mọc lên; và ba cái trong các sừng trước bị nhổ đi trước mặt cái nhỏ. Và kìa: có những con mắt như mắt người trên sừng ấy, và có một cái mồm nói những điều quái gở.'' Con thú này tượng trưng cho đế quốc Hy-lạp; và cái sừng nhỏ tượng trưng cho vua Antiochus IV Epiphanes là ông vua Hy-lạp rất dữ tợn và độc ác. Ông bắt người Do-thái phải bỏ Thiên Chúa, bất tuân Lề Luật, và phạm sự thánh ngay trong Đền Thờ.
1.2/ Thị kiến về Con Người: Sau những thời kỳ của các vua này là tới thời kỳ của Đấng Thiên Sai. Tác giả mô tả thị kiến như sau: ''Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an toạ. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra. Bấy giờ tôi mải nhìn vì có tiếng ồn ào của cái sừng thốt ra những lời quái gở; tôi vẫn mải nhìn khi con thú bị giết, thây nó bị huỷ diệt và làm mồi cho lửa. Những con thú còn lại bị tước mất quyền thống trị, nhưng đời chúng được kéo dài thêm một thời và một kỳ hạn." Sự mô tả huyền bí làm độc giả nhận ra ngay Đấng Lão Thành chính là Thiên Chúa, vị Chúa Tể của trời đất. Ngài có uy quyền trên tất cả quyền hành của trái đất. Ngài để cho các vua của các đế quốc lớn mạnh trong một thời gian nhất định, và tước đi quyền hành khi thời gian kết thúc; không ai có quyền cãi lời Ngài.
Đấng Thiên Sai được tác giả mô tả như sau: "Tôi đang mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người.'' Đấng Thiên Sai sẽ có hình dạng như một Con Người; nhưng lại đến từ trời. Ngài lãnh nhận sứ vụ làm Vua, vinh quang, và uy quyền từ chính Thiên Chúa. Tác giả mô tả rõ về triều đại của Vua này như sau: "Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong." Nói cách khác, Người sẽ làm Vua cai trị dân chúng đến muôn đời.
2/ Phúc Âm: Khi thấy những điều đó xảy ra, thì anh em hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
2.1/ Phiên dịch các hiện tượng trong trời đất: Kinh nghiệm dạy con người biết phiên dịch các hiện tượng trong trời đất. Ví dụ, khi con người quan sát các hiện tượng trời đất: Nếu cùng một kết quả xảy ra sau nhiều lần như thế, con người kết luận nó cũng sẽ xảy ra như vậy trong lần tới. Chúa Giêsu trưng dẫn một ví dụ mà người nghe đều đã có kinh nghiệm: "Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác. Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi."
2.2/ Phiên dịch các hiện tượng của Ngày Phán Xét: Chúa Giêsu nói tiếp: "Cũng vậy, khi anh em thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần." Ngày Phán Xét là một chân lý, chứ không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng. Chúa Giêsu xác tín với các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa cầm cương nẩy mực mọi quyền lực và mọi biến cố xảy ra trong vũ trụ, quá khứ, hiện tại, và tương lai. Bổn phận của con người là phải vững tin nơi quyền năng của Ngài, nhất là những lúc phải chịu đau khổ và bách hại, để làm chứng cho sự trung thành của mình.
- Chúng ta cần tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa qua những sự kiện xảy ra trong cuộc đời: những hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ, những biến cố trong lịch sử của nhân loại cũng như trong cuộc đời mỗi người, và những gì sẽ xảy ra trước Ngày Phán Xét.
- Chúng ta cần chú ý đến các sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời mà chúng ta đã nghe đi nghe lại trong Phụng Vụ Lời Chúa cuối năm là 3 sự sau: sự chết, sự sống lại, và sự phán xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Tạ Ơn
Bài đọc: Sir 50:22-24; 1 Cor 1:3-9; Lk 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cám ơn Thiên Chúa
Tổ tiên của nước Hoa Kỳ đã để lại cho con cháu một di sản quí báu là ngày Lễ Tạ Ơn. Cám ơn Thiên Chúa là một điều phải làm vì không ai trong chúng ta không nhận ơn của Thiên Chúa trong năm vừa qua: ơn phần hồn, ơn phần xác, ơn cho cá nhân, gia đình, cộng đoàn và quốc gia. Đã nhận ơn phải biết ít nhất nói lời cám ơn, sau đó tìm dịp để trả ơn cho người đã thi ơn. Ba điều chúng ta có thể làm trong ngày Lễ Tạ Ơn là cầu nguyện, tham dự thánh lễ và sống tâm tình biết ơn với gia đình và những anh chị em nghèo khổ.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhiều chất liệu suy tư trong ngày Lễ Tạ Ơn. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca dạy chúng ta ba điều: Trước hết, chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm cho chúng ta biết bao ơn lành trong quá khứ. Tiếp đến, ông dạy chúng ta xin Thiên Chúa ban cho chúng ta được niềm vui và an bình trong giây phút hiện tại. Sau cùng, ông dạy chúng ta xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và bảo vệ chúng ta khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác trong tương lai. Trong bài đọc II, thánh Phaolô hướng lòng chúng ta lên Đức Kitô vì Ngài là nguồn mạch của mọi ân sủng và bình an. Ngài đã mặc khải cho chúng ta những mầu nhiệm của Thiên Chúa; nếu không có Đức Kitô, chúng ta không thể nào hiểu được. Ngài cũng trợ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa qua các ơn thánh Ngài đã thiết lập được trong Cuộc Thương Khó và cái chết của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự vô ơn của đa số nhân loại qua việc chữa lành mười người phong hủi. Dầu Chúa đã chữa lành cả mười người, nhưng chỉ có một người quay trở lại cám ơn Thiên Chúa; mà người đó lại là một người dân ngoại Samaritan! Ôi đau đớn và tệ bạc thay! Đến nỗi Chúa phải đau lòng thốt lên, "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giờ đây chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa muôn loài.
1.1/ Tạ ơn vì những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta và mọi người trong quá khứ: Con người chúng ta được bao vây bởi vô vàn hồng ân của Thiên Chúa. Trong những hồng ân này, có những điều vĩ đại Thiên Chúa làm cho mọi người. Ví dụ, việc tạo dựng và trao cho con người cộng tác với Ngài để điều khiển thế giới; việc cứu chuộc qua sự kiện Chúa ban cho con người Đức Kitô, người con một của Ngài, để lấy đi tất cả tội lỗi cho con người và mang lại cho con người ơn cứu độ muôn đời; việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục ở lại, dạy dỗ và bảo vệ con người. Có những hồng ân Thiên Chúa làm cho từng cá nhân một. Ví dụ, cho được hiện hữu trong cuộc đời, cho được làm quí tử của Ngài, tiền định cho được sống hạnh phúc đời đời, ban muôn vàn ơn thánh và bảo vệ con người trong những ngày họ sống trên dương gian.
1.2/ Xin Thiên Chúa cho chúng ta niềm vui và bình an trong giây phút hiện tại: Tuy Ngài bao vây con người với muôn vàn ơn thánh như thế, nhưng con người vẫn có thể buồn sầu và bất an vì không biết xử dụng ơn thánh và tự do Thiên Chúa ban. Vì thế, con người cần xin Thiên Chúa mở lòng trí để biết chọn lựa những gì đưa đến niềm vui, bình an và hạnh phúc; chứ không chọn lựa những gì đem lại bất an, đau khổ và sầu buồn.
1.3/ Xin Thiên Chúa bảo vệ chúng ta khỏi mọi chước cám dỗ và nguy hiểm trong tương lai: Con người cần ý thức rõ ràng về sự hiện diện của ba kẻ thù trong đời sống; đó là: quỉ thần, thế gian và xác thịt. Cả ba kẻ thù này đều mạnh hơn và có thể làm cho con người rơi vào chước cám dỗ của chúng. Vì thế, con người cần xin Thiên Chúa ban thêm ơn khôn ngoan để nhận ra và ơn sức mạnh để chiến đấu, để họ khỏi sa vào những chước cám dỗ và phải chịu những hậu quả tai hại của sự dữ trong tương lai.
2/ Bài đọc II: Sự cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời
Lịch sử Cứu Độ được lật qua trang mới sau Thời Lưu Đày, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài, Đức Kitô nhập thể để cứu độ trần gian. Nếu trong Cựu Ước, người Do-Thái không thể sống vắng bóng Thiên Chúa; thì trong Tân Ước, người Kitô hữu cũng không thể sống vắng bóng Đức Kitô, vì:
2.1/ Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng và bình an: Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu Côrintô: "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu." Qua Cuộc Thương Khó của Đức Kitô, Ngài đã đem lại bình an và rất nhiều ân sủng cho con người. Con người có bình an vì con người nhờ Đức Kitô mà được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Đức Kitô cũng là nguồn mạch mọi ân sủng cho con người, nhất là qua các Bí-tích.
2.2/ Đức Kitô mặc khải cho con người sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Quả vậy, trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người." Nếu không có Đức Kitô mặc khải, con người không thể hiểu rõ ràng Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa và rất nhiều các Mầu Nhiệm khác trong đạo.
2.3/ Đức Kitô giúp con người trung thành đến cùng: "Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em điều gì trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta." Nhờ hiểu biết rõ ràng về Kế Họach Cứu Độ qua Tin Mừng, và được nâng đỡ bằng các ân sủng của Đức Kitô, con người có thể vượt qua những gian khổ của cuộc đời để trung thành với Thiên Chúa. Ngòai ra, con người cũng biết chuẩn bị mọi hành trang cần thiết để ra trước Tòa Phán Xét của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?
3.1/ Phải biết ơn trước khi cám ơn: Trên đường lên Jerusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
(1) Tình trạng bi thảm của những người phong cùi: Vì người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên ngòai, những người phong cùi không được ở chung với dân; mà phải sống cách biệt bên ngòai làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân và phải la lớn để mọi người được biết sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
(2) Để chứng tỏ mình đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh họat bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Đang khi đi trên đường thì họ được sạch.
Bệnh cùi có thể được ví như tội lỗi, nhất là tội kiêu ngạo và bất tuân Thiên Chúa và bề trên (gương của bà Miriam bị cùi). Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta biết bao tội trong cả năm qua, Ngày Tạ Ơn chẳng lẽ chúng ta không cám ơn lòng thương xót của Ngài!
3.2/ Những người "ở ngòai" dễ nhận ra ơn hơn những người "ở trong":
- Tâm tình biết ơn của người Samaria: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria. Đức Giêsu nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
- Người Do-Thái khinh thường và sống xa cách với người Samaria. Điểm lạ ở đây là chín người phong Do-Thái khi bị chính dân mình khai trừ đã mở rộng vòng tay cho người phong Samaria được sống chung với họ. Khi con người bị đau khổ và bỏ rơi, có lẽ con người dễ đòan kết và sống chung với nhau hơn.
- Người Samaria, tuy bị người Do-Thái khinh thường, nhưng nhiều lần được chính Chúa Giêsu khen tặng. Trong câu truyện "Ai là người thân cận của tôi?" Chúa Giêsu đã đề cao người Samaria Nhân Hậu hơn các thầy tư tế và Lêvi, vì ông là người biết tỏ lòng thương xót với người bị đánh trọng thương dọc đường: ông đã vực người trọng thương lên lừa và đưa về quán trọ săn sóc cẩn thận và hứa sẽ trả mọi phí tổn tương lai cho chủ quán trọ (Lk 10:30-37). Trong cuộc đàm thọai giữa Đức Kitô và người phụ nữ xứ Samaria, chị đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên của Chúa Giêsu, nhiệt thành loan báo về Người cho các dân trong làng của chị (Jn 4:39-41).
- Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn: Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Không phải chỉ được thanh sạch bên ngòai, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu độ.
3.3/ Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn:
(1) với Thiên Chúa: Đấng đã dựng nên và không ngừng ban mọi ơn lành cho họ. Ngày Lễ Tạ Ơn là dịp để con người nhận ra và tạ ơn Thiên Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ và làm ơn cho những người kém may mắn; nhưng thử hỏi được bao nhiêu người làm những điều này? Thay vào đó, họ lo tổ chức ăn uống vui chơi cho bản thân và cho gia đình họ.
(2) với cha mẹ: những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ họ trong suốt một phần tư của cuộc đời. Lẽ ra, khi cha mẹ về già không còn tự săn sóc mình được nữa, họ phải phụng dưỡng và săn sóc trở lại, thì họ lại cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi mình: "chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta."
(3) với tha nhân: những người đi trước nhiều khi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, xây dựng, và phát minh ra những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng. Bổn phận của những người thụ hưởng là tiếp tục để làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn chứ không phải chỉ ù lỳ thụ hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lễ Tạ Ơn là ngày chúng ta phải dành trọn vẹn để cám ơn Thiên Chúa, chứ không phải là ngày ăn uống linh đình, coi football hay đi sắm đồ cả ngày. Chúng ta phải cẩn thận đề phòng để khỏi bị rơi vào những chước cám dỗ của quỉ thần và giới con buôn.
- Để tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta cần làm ba việc: cầu nguyện để nói lên tâm tình biết ơn, tham dự Thánh Lễ để cùng dâng lên Thiên Chúa hy lễ đẹp ý Ngài nhất, và sống trong tâm tình biết ơn bằng cách chia sẻ tình yêu với những người trong gia đình và những anh chị em nghèo.
- Biết ơn là xứng đáng để tiếp tục được Thiên Chúa ban ơn. Còn biết bao nhiêu ơn lớn lao và trọng thể Chúa dành sẵn cho những người biết ơn. Vô ơn là tự đào hố để vùi chôn cuộc đời mình, là đứng vào hàng ngũ của ma quỉ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 34 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Dan 5:1-6, 13-14, 16-17, 23-28; Lk 21:12-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mọi người phải tùng phục uy quyền của Thiên Chúa.
Nhiều người nghĩ khi nắm quyền trong tay, họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, ngay cả quyền luận tội và sát sinh người khác; nhưng thực tế chứng minh uy quyền của họ không tuyệt đối. Mọi quyền hành đến từ Thiên Chúa: Ngài ban cho và Ngài có quyền lấy đi bất cứ lúc nào. Con người phải trả giá cho sự lạm dụng quyền hành. Hơn nữa, hạnh phúc và bình an chỉ dành cho những ai biết kính sợ và phục tùng Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật một sự thật: mọi quyền lực trong vũ trụ đều thuộc về Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, vua Belshazzar nghĩ đã là vua là có quyền làm mọi sự mình muốn. Daniel giải thích cho vua hiểu rõ mọi quyền lực đến từ Thiên Chúa. Ngài có quyền trao và có quyền lấy đi bất cứ lúc nào. Sự kiện nhà vua nhìn thấy ngón tay viết hàng chữ chứng minh đã đến lúc Thiên Chúa tiêu diệt quyền lực của nhà vua, để trao cho một vua khác biết xử dụng quyền bính. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước những gian khổ sẽ xảy đến cho những môn đệ của Ngài và khuyến khích họ kiên trì vượt qua; vì đó là cơ hội để họ chứng tỏ niềm tin yêu vào Thiên Chúa. Nếu họ kiên trì chịu đau khổ và làm chứng cho Thiên Chúa, Ngài sẽ trao ban sự sống đời đời và thưởng công xứng đáng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa là Đấng nắm trong tay sinh khí của ngài, ngài lại chẳng tôn vinh!
1.1/ Vua Belshazzar phạm sự thánh: Khi vua cha là Nebuchadnezzar chinh phục Jerusalem, ông đã vào Đền Thờ và lấy tất cả các ly chén bằng vàng bạc đem về tích trữ trong nhà kho của mình. Sau khi vua cha băng hà, vua con là Belshazzar tiếp tục nối ngôi. Nhà Vua cho mở tiệc lớn khoản đãi một ngàn đại thần. Khi đã thấm hơi men, vua truyền mang ly mang chén bằng vàng bằng bạc mà vua cha là Nebuchadnezzar đã lấy ở đền thờ Jerusalem. Người ta mang ly chén bằng vàng đã lấy từ cung thánh Đền Thờ Thiên Chúa ở Jerusalem; vua và các đại thần, cung phi và cung nữ đều dùng mà uống. Họ vừa uống rượu vừa ca ngợi các thần bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ và đá. Đang khi say sưa thì một hiện tượng lạ xuất hiện trên tường: Nhà Vua nhìn thấy những ngón tay người xuất hiện, viết lên vách tường quét vôi của hoàng cung ở phía sau trụ đèn. Vua nhìn thấy phần bàn tay đang viết. Bấy giờ mặt vua biến sắc, tâm trí bàng hoàng, ruột gan rối loạn, đầu gối run cầm cập.
1.2/ Vua Belshazzar kiếm người giải thích ý nghĩa của các chữ viết trên tường: Giống như vua cha, vua Belshazzar cho vời tất cả những nhà chiêm tinh và bói toán trong nước đến để giúp Nhà Vua giải thích thị kiến ngón tay người và câu mà ngón tay đã viết trên tường; nhưng không ai giải thích nổi, cho đến khi họ mang Daniel vào để yết kiến Nhà Vua.
(1) Daniel không màng đến phần thưởng Nhà Vua hứa: Khi Daniel được dẫn vào chầu vua, Nhà Vua ngỏ lời với ông rằng: "Nếu ngươi đọc và giải thích được hàng chữ đó cho ta, thì ngươi sẽ được mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo vòng vàng vào cổ, và sẽ là nhân vật thứ ba trong vương quốc." Daniel lên tiếng nói trước mặt vua: "Tâu đức vua, lộc vua ban, xin giữ lại cho ngài; quà vua tặng, xin dành cho người khác.''
(2) Daniel giải thích ý nghĩa của điềm lạ: Những hàng chữ kia, thần xin đọc và giải thích hầu đức vua. Quyền lực của nhà vua đến từ Thiên Chúa: Ngài ban quyền lực cho Nhà Vua; nhưng "ngài đã tự cao tự đại, đã chống lại Chúa Tể trời cao: ly chén trong Đền Thờ của Chúa, người ta đã mang đến trước mặt ngài; ngài đã dùng các ly chén ấy mà uống cùng với các đại thần, cung phi và cung nữ. Ngài đã ngợi khen các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ và đá là những vật không thấy, không nghe, không biết. Còn Thiên Chúa là Đấng nắm trong tay sinh khí của ngài và điều khiển mọi đường đi nước bước của ngài, ngài lại chẳng tôn vinh!"
Triều đại của Nhà Vua nay đã đến lúc bị tận diệt: "Vì thế, Thiên Chúa đã cho phần bàn tay ấy đến viết hàng chữ kia. Đây là những chữ đã được viết ra: MENE, MENE, TEKEL, and PARSIN; và đây là lời giải thích:
- MENE có nghĩa là đếm, Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của triều đại ngài; - TEKEL có nghĩa là cân, ngài đã bị đặt trên bàn cân và thấy là không đủ;
- PERES có nghĩa là phân chia, vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Medes và Ba-tư." PARSIN đến từ động từ PERES.
2/ Phúc Âm: Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.
2.1/ Chịu đựng gian khổ để làm chứng cho Chúa: Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ về những gian khổ sắp xảy đến cho họ: "Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy." Ngài nói rõ ràng: Gian khổ xảy ra là cơ hội ngàn vàng để các môn đệ có cơ hội làm chứng cho Ngài; nhường bước trước gian khổ là mất cơ hội làm chứng cho Thiên Chúa.
2.2/ Đừng lo lắng phải đối phó thế nào: Các môn đệ phải hiểu các ông không chiến đấu một mình, nhưng Chúa Giêsu sẽ cùng các ông chiến đấu. Chúa Giêsu hứa: "Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét." Khi các ông biết có một quyền lực mạnh hơn quyền lực của địch thù thế gian trợ giúp, các ông sẽ không còn sợ hãi và tự tin hơn trong việc chống cự lại. Thánh Phaolô có kinh nghiệm này khi ngài tuyên bố: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi."
2.3/ Chúa bảo đảm các ông sẽ chiến thắng: Không có một quyền lực nào trên thế gian có thể thắng nổi quyền lực của Thiên Chúa. Quyền lực thế gian chỉ có hiệu quả tạm thời vì Thiên Chúa cho phép xảy ra; nhưng một khi Thiên Chúa quyết định rút lại, không một quyền lực nào có thể chống lại được. Chúa Giêsu bảo đảm điều này với các môn đệ, mặc dù các ông sẽ phải chiến đấu, "nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Chủ Tể của mọi quyền hành và thế lực trong thế gian này. Ngài ban cho con người và có quyền lấy đi bất cứ lúc nào. Bổn phận của con người là phải biết dùng quyền hành để điều khiển và sinh lợi ích cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
- Gian khổ phải có trong cuộc đời để tinh luyện con người, để phân biệt người anh hùng với kẻ tiểu nhân; và nhất là để chúng ta chứng tỏ đức tin và tình yêu vào Thiên Chúa. Khi phải đương đầu với gian khổ, chúng ta không chiến đấu một mình. Chính Chúa Giêsu hứa Ngài sẽ cùng chúng ta chiến đấu. Sự khôn ngoan và sức mạnh để chiến đấu đến từ Đức Kitô.
- Chúa Giêsu bảo đảm sự chiến thắng sẽ về tay chúng ta vì một sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm. Hiểu biết tòan bộ trận chiến như thế, chúng ta còn chờ đợi gì mà không xông vào cuộc chiến để làm chứng cho Thiên Chúa?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 24/11 Sự sống, tình yêu, và sự đau khổ
- 23/11 Luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa
- CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B (22/11/2015)
- 22/11 Đức Kitô là Vua sự thật
- 21/11 Sự sống lại và cuộc sống đời đời
- 20/11 Thanh tẩy Đền Thờ
- 19/11 Niềm tin vững mạnh sẽ không bị lung lay bởi cám dỗ của thế gian
- 18/11 Chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa cả vốn lẫn lời
- 17/11 Quên mình là tìm thấy
- 16/11 Lòng trung hiếu với Thiên Chúa