Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần III MV2
Bài đọc: Num 24:2-7, 15-17; Mt 21:23-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải yêu mến sự thật.
Khao khát được biết và sống theo sự thật là một trong những khát vọng được Thiên Chúa phú bẩm vào trong con người; vì thế, con người luôn tìm kiếm để nhận biết sự thật. Nhưng trong hành trình đi tìm sự thật, có rất nhiều kẻ thù đe dọa và ngăn cản con người không cho tìm ra sự thật như: lười biếng, sợ hãi, và sai lạc. Tính lười biếng làm con người ngại khó khăn và không kiên trì trong hành trình đi tìm sự thật. Tính sợ hãi làm con người chùn chân, không có can đảm chấp nhận sự thật. Sự sai lạc ngăn cản và đánh lạc hướng, không cho con người đạt tới sự thật.
Các Bài đọc hôm nay tập trung vào việc biết và sống theo sự thật. Trong Bài đọc I, Vua Balak mặc dù đã hai lần được Tiên Tri Balaam cho biết sự thật, vẫn hy vọng sẽ nhận được những gì ngược lại với sự thật: Nhà Vua muốn Thiên Chúa chúc dữ cho dân tộc Israel. Trong Phúc Âm, các Thượng-tế và Kỳ-mục, mặc dù biết rõ Phép Rửa của Gioan và uy quyền của Chúa Giêsu bởi Trời; nhưng vẫn gian dối nói không biết; vì sợ phải tin và giữ những gì Chúa Giêsu truyền dạy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiên Tri Balaam biết kính sợ Thiên Chúa và dám nói sự thật.
Khi Vua Balak của Moab thấy quyền lực của Israel bành trướng khắp vùng sông Jordan, Nhà Vua sợ Israel sẽ thôn tính Moab nữa. Nhà Vua sai sứ giả đến cầu cứu với Tiên Tri Balaam trong vùng, để ông này chúc dữ cho dân Israel, với hy vọng khi Vua đem quân giao chiến thì sẽ thắng. Tiên Tri Balaam được Thiên Chúa báo trước cho biết: ông có thể đi tới với Vua, nhưng chỉ được nói những gì Thiên Chúa muốn ông nói mà thôi (Num 22:20, 35, 38). Sau hai lần thất bại để kiếm lời chúc dữ của Thiên Chúa từ miệng TT Balaam (Num 23:7-10, 18-24), Vua Balak vẫn kiên nhẫn với Tiên Tri Balaam để chờ Thiên Chúa thay đổi.
Trình thuật hôm nay tường thuật lần thứ ba những gì TT Balaam nói với Vua Balak: "Sấm ngôn của Balaam, con Beor, sấm ngôn của người mắt vẫn mở. Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa, người ngắm nhìn thị kiến Đấng Toàn Năng, của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần." Phần đầu của thị kiến nói về sự chúc lành của Thiên Chúa cho Israel, phần sau nói về những gì sẽ xảy ra cho Vua và dân tộc Moab:
(1) Thiên Chúa chúc lành cho Nhà Israel: "Hỡi Jacob, lều bạt của ngươi đẹp biết mấy! Hỡi Israel, đẹp biết mấy doanh trại của ngươi! Như thung lũng trải dài, như vườn cạnh bờ sông, như trầm hương Đức Chúa đã trồng, như hương nam mọc bên dòng nước. Từ các bồn của nó, nước tràn ra, và hạt giống nó được tưới dồi dào. Vua của nó cao cả hơn Agag, và vương quốc nó được tôn vinh."
(2) Moab sẽ bị phá hủy bởi Nhà Israel: "Rồi ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau: "Sấm ngôn của Balaam, con Beor, sấm ngôn của người mắt vẫn mở. Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa, và biết những tư tưởng của Đấng Tối Cao, được Đấng Toàn Năng cho nhìn thấy, của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần. Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên; một vì sao xuất hiện từ Jacob, một vương trượng trỗi dậy từ Israel sẽ đập vào màng tang Moab, đánh vỡ sọ tất cả con cái Seth."
Nhiều thánh Giáo-Phụ đã cho "một vì sao xuất hiện từ Jacob" là lời tiên tri nói về Đấng Cứu Thế, nhưng lời tiên tri này không được dẫn chứng trong Tân-Ước. Tuy nhiên, nó được trích dẫn trong các Sách của Qumran (1QM 11:5-7, CD 7:19-20) để nói lên niềm hy vọng vào Đấng Cứu Thế.
2/ Phúc Âm: Các Thượng-tế và Kỳ-mục không dám trả lời Chúa Giêsu vì sợ hậu quả của sự thật.
2.1/ Đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay kể: Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?"
(1) Họ thách thức quyền năng thanh tẩy Đền Thờ của Chúa Giêsu: Những điều mà họ đang thắc mắc là việc Chúa Giêsu vào Đền Thờ và xua đuổi tất cả các kẻ buôn bán ra khỏi đó (x/c Mt 21:12-13) và việc Chúa chữa lành các bệnh nhân (Mt 21:14-15). Lý do tại sao Chúa làm, vì: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp."
(2) Chúa Giêsu thách thức họ về Phép Rửa của Gioan: Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của họ, nhưng Ngài đòi họ phải trả lời câu hỏi của Ngài trước khi Ngài trả lời câu hỏi của họ. Ngài thách thức: "Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?"
2.2/ Thái độ chạy trốn sự thật: Chúa Giêsu biết rõ những gì họ đang nghĩ: Nếu họ thật tâm muốn đi tìm sự thật, họ phải nhận ra những gì Gioan Tẩy Giả và Ngài làm là đến từ Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả dọn đường cho con người để đón nhận Đấng Cứu Thế, và tòan dân chạy đến với ông để được chuẩn bị. Việc thanh tẩy Đền Thờ và các phép lạ Chúa Giêsu làm không thể đến từ con người, vì không ai có can đảm và quyền năng để làm những chuyện đó.
(1) Giới lãnh đạo chạy trốn sự thật vì sợ phải lãnh nhận hậu quả: Họ chạy trốn sự thật không phải vì họ không đủ khôn ngoan để nhìn ra sự thật; nhưng vì họ không muốn phải lãnh nhận những hậu quả do sự thật gây ra. Hậu quả trước mắt là họ sợ phải tin vào Chúa Giêsu và làm những gì Ngài muốn. Họ có đủ khôn ngoan con người để lý luận như sau:
- Nếu mình nói: "Do Trời," thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?"
- Còn nếu mình nói: "Do người ta," thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan là một ngôn sứ."
(2) Từ chối chấp nhận sự thật: Vì sợ phải lãnh nhận hậu quả, nên họ phải dối trá trả lời Chúa Giê-su: "Chúng tôi không biết." Người cũng nói với họ: "Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải yêu mến sự thật vì chỉ có sự thật mới giải thóat và làm cho con người đạt tới đích điểm của cuộc đời.
- Chúng ta phải ao ước và tìm tòi để biết sự thật. Khi đã tìm được sự thật, chúng ta phải sống những gì mà sự thật đòi hỏi.
- Chúng ta phải có can đảm làm chứng cho sự thật; vì sợ hãi làm con người quay đầu và từ chối sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Sop 3:14-18a; Phi 4:4-7; Lk 3:10-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy vui mừng vì ơn cứu độ đã gần đến.
Con người bị đau khổ hay thất vọng vì bị chi phối bởi rất nhiều sợ hãi như: thất bại, tù đày, nô lệ, tội lỗi, chia ly, chết chóc, và nhất là sự phán xét và hình phạt của Thiên Chúa. Ngược lại, con người vui mừng khi những sợ hãi này được cất nhắc đi như: tù nhân hay nô lệ trong chốn lưu đày sắp được phóng thích, như như sinh viên sắp ra trường vì đã hoàn tất mọi thách đố của các cuộc khảo hạch, như một người sắp được chính thức sống hạnh phúc với người mình yêu mến. Chủ Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chủ Nhật của niềm vui và của hy vọng, vì Đấng Thiên Sai đã gần đến. Ngài đến để xua tan đi tất cả những đau khổ, thất vọng, tội lỗi, và mang lại niềm vui và ơn cứu độ đến cho muôn người.
Các Bài Đọc hôm nay diễn tả niềm vui tuyệt đỉnh khi con người có được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời; vì có Ngài là có tất cả mọi sự. Trong Bài Đọc I, ngôn-sứ Sophonia kêu gọi con cái Israel hãy vui mừng lên vì Thời Lưu Đày sắp chấm dứt. Thiên Chúa sắp "rút lại án phạt và đẩy xa kẻ thù" khỏi họ. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Philipphê hãy vui mừng và phải vui luôn trong niềm vui của Thiên Chúa, vì khi một người đã có Chúa, họ không còn thiếu một sự gì nữa cả. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng hãy vui mừng lên vì Đấng Thiên Sai gần tới. Ngài sẽ thanh tẩy mọi tội lỗi và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nức lòng phấn khởi vì Đức Chúa đã rút lại án lệnh phạt ngươi.
1.1/ Nhà Israel vui mừng: Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần hiểu hoàn cảnh lịch sử của dân tộc Israel trong thời gian này. Toàn cõi Israel đã bị quân thù chinh phục, Đền thờ và thành thánh Jerusalem bị san phẳng, dân chúng đang sống trong hai nơi lưu đày: vương quốc Israel miền Bắc tại Assyria và vương quốc Judah miền Nam tại Babylon. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, và chịu đựng mọi đau khổ của người lưu đày như thế, con cái Israel mất hết niềm tin và hy vọng. Nỗi đau thấm thía nhất là họ đã bị Thiên Chúa bỏ rơi để họ làm mồi cho quân thù.
(1) Lời kêu gọi vui mừng: Nhưng tình thương Thiên Chúa đã thắng vượt mọi sự bất trung của con cái Israel, đó là lý do mà tiên tri Sophoniah được sai đến để loan tin vui mừng cho con cái Israel: "Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nức lòng phấn khởi." Sion, Israel, và Jerusalem tượng trưng cho tất cả con cái Israel. Vì đây là một tin mừng vô cùng lớn lao mà họ đang mong đợi; nên họ không thể giữ trong lòng, mà phải biểu tỏ mãnh liệt ra bên ngoài.
(2) Lý do vui mừng: Tiên-tri Sophoniah nêu rõ lý do của sự vui mừng: "Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ." Lý do của nô lệ và lưu đày là con cái Israel đã bất tuân chỉ thị của Thiên Chúa và chạy theo các thần ngoại bang; vì thế, Ngài đã để cho quân thù ngoại bang giày xéo đất nước để cảnh cáo và thanh luyện họ. Giờ đây, thời gian thanh luyện sắp chấm dứt, cảnh lưu đày sắp hết, nhất là họ được nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa. Họ phải vui mừng mãnh liệt, vì khi có sự hiện diện của Thiên Chúa, Ngài sẽ bảo vệ họ, và quân thù sẽ không làm hại được họ.
1.2/ Thiên Chúa vui mừng: Đau khổ không chỉ hành hạ con người, nhưng còn ảnh hưởng đến Thiên Chúa, vì Ngài luôn yêu thương và lo lắng cho con người. Vì thế, khi con người được thoát khỏi cảnh nhục nhã u sầu, Thiên Chúa cũng vui mừng hoan hỷ với niềm vui của con người.
Tiên-tri diễn tả sự vui mừng của Thiên Chúa khi đón nhận con cái Israel trở về: "Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội."
2/ Bài đọc II: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.
2.1/ Hãy luôn luôn vui mừng: Thánh Phaolô thực sự cảm nhận được niềm vui của người có Thiên Chúa là có tất cả. Chính vì thế mà ngài đã kêu gọi các tín hữu Philipphê: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến."
Vui tươi là dấu chỉ một người có Thiên Chúa; vì thế, người tín hữu phải vui mừng luôn vì họ có Thiên Chúa ở với họ. Con người chỉ lo sợ và buồn sầu khi con người sống xa cách với Thiên Chúa và chạy theo những hào nhoáng của thế gian; để rồi phải lãnh nhận mọi hậu quả đau thương từ thế gian mang tới. Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu phải sống "hiền từ rộng rãi," có nghĩa phải sống công bằng và thương xót. Giống như Thiên Chúa, Ngài không chỉ đối xử công bằng, nhưng còn thương xót con người đã bất trung với Ngài; chỉ như thế, con người mới có cơ hội làm lại cuộc đời.
2.2/ Hãy cầu nguyện luôn: Con người lo lắng sợ hãi khi bị đe dọa bởi những khó khăn và thách đố trong cuộc sống. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy giải tỏa những lo âu sợ hãi bằng việc cầu nguyện: "Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện." Mấy điều con người cần lưu ý khi cầu nguyện với Thiên Chúa:
- Cầu nguyện với Thiên Chúa trong mọi sự: không có sự gì to lớn vượt quá uy quyền của Thiên Chúa, và cũng không có sự gì quá nhỏ đối với sự săn sóc nhân hậu của Ngài. Hãy đặt trong tay Thiên Chúa tất cả tội lỗi của quá khứ, các vấn nạn đang xảy ra trong hiện tại, và những lo âu sẽ xảy đến trong tương lai.
- Cầu nguyện với lòng tin tưởng tuyệt đối: Khi con người cầu nguyện với Thiên Chúa, họ phải tin họ đang cầu nguyện với: một Thiên Chúa khôn ngoan vì Ngài thấu hiểu mọi sự; một Thiên Chúa uy quyền vì Ngài làm được mọi sự; một Thiên Chúa là Cha nhân hậu vì Ngài sẵn sàng ban mọi ơn lành cho con cái của mình.
- Cầu nguyện giúp con người tìm được bình an trong tâm hồn: Một tác giả đã nói "bình an là hiệu quả của lời cầu xin tin tưởng." Một khi đã tin tưởng hoàn toàn nơi tình yêu và uy quyền của Thiên Chúa, con người phó thác cho Ngài mọi sự, họ sẽ không còn ưu tư, lo lắng; và như thế, sẽ có được sự bình an thực sự trong tâm hồn. Thánh Phaolô cũng xác tín điều này với các tín hữu: "Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giêsu Kitô.'' Chỗ khác ngài nói: Nếu Thiên Chúa đã rộng lượng ban cho con người Đức Kitô, thì còn gì Ngài lại không ban cho con người?
3/ Phúc Âm: Phải làm gì để chuẩn bị đón mừng Chúa đến?
3.1/ Phải chuẩn bị tâm hồn bằng cách thay đổi cuộc sống: Không phải ai cũng có thể nhận ra và đón nhận Đức Kitô, Đấng Thiên Sai Thiên Chúa ban tặng cho con người. Lịch sử chứng minh, nhiều người không những đã không nhận ra Ngài, lại còn luận tội và tìm cách giết đi chính Đấng ban sự sống. Khi các người Do-thái tìm đến với Gioan, hỏi ông cách chuẩn bị để đón nhận Đấng Thiên Sai, ông cho biết con người cần khiêm nhường và thay đổi cuộc sống cho phù hợp với sự thật. Gioan cho những lời khuyên rất thực tế và cụ thể cho từng lớp người: ông không đòi hối nhân phải thay đổi nghề nghiệp; nhưng thay đổi thái độ thi hành nghề nghiệp đó.
(1) Với đám đông: Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." Gioan dạy dân: Hãy thực thi bác ái bằng cách chia sẻ cho tha nhân những gì mình có. Đức Kitô cũng dạy dân: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
(2) Những người thu thuế: Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?" Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Cám dỗ của giới thu thuế là thu vào quá mức ấn định, để giữ lại cho mình số thu thặng dư đó. Gioan khuyên họ phải thực thi công bằng, bằng cách bằng lòng với số lương chính phủ trả, và trả lại cho tha nhân những gì mình đã thâu thặng dư.
(3) Những binh lính: Họ hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?" Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình." Cám dỗ của binh lính là cậy mình có vũ khí trên tay nên dễ đàn áp dân chúng. Ông Gioan khuyên họ hãy sống thật với lương tâm, đừng lấy của người dân vô tội, đừng hãm hiếp phụ nữ; nhưng hãy bằng lòng với số lương chính phủ trả cho họ.
3.2/ Sự khác biệt giữa Đấng Thiên Sai và Gioan Tẩy Giả: Cách thức sinh sống và rao giảng của Gioan làm nhiều người đặt câu hỏi: "biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Messiah!"
Ông Gioan rất thành thực và đánh tan mọi nỗi nghi ngờ của dân chúng, ông nói với dân hai sự khác biệt giữa Đấng Thiên Sai và ông:
(1) Sự khác biệt về uy quyền: Gioan nói về Đấng Thiên Sai: "Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Ông chỉ là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai, người chuẩn bị tâm hồn cho dân để gặp gỡ Đấng Cứu Thế.
Đấng Thiên Sai còn có uy quyền xét xử và thưởng phạt con người tùy theo việc làm của họ: "Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." Gioan Tẩy Giả không có quyền xét xử và thưởng phạt con người.
(2) Sự khác biệt giữa hai phép rửa: Ông Gioan trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa."
Phép rửa của Gioan là phép rửa mà truyền thống Do-thái vẫn làm cho những người muốn theo đạo Do-thái; đó là phép rửa trong nước để tha tội. Phép Rửa của Đức Kitô là Phép Rửa trong Thánh Thần và lửa để thánh hóa con người. Để xứng đáng được hưởng ơn cứu độ, con người không chỉ cần được thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi, mà còn cần được làm cho trở nên thánh thiện và tinh tuyền. Điều này chỉ có thể hiện thực với Phép Rửa của Đức Kitô.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi con người sống xa Thiên Chúa, con người sống trong lo âu và sợ hãi. Để có niềm vui đích thực, chúng ta phải quay trở về với Thiên Chúa và sống trong sự hiện diện của Ngài.
- Con người nghĩ để có hạnh phúc, con người phải có tự do để làm bất cứ điều gì mình muốn. Thực tế chứng minh ngược lại: để có niềm vui và hạnh phúc đích thực, con người cần sống theo những lời chỉ dạy của Thiên Chúa.
- Niềm vui trọn vẹn chỉ có được khi con người hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, bảo vệ, và ban cho con người sự bình an đích thực trong tâm hồn.
- Để có thể đón nhận Thiên Chúa, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn bằng cách khử trừ mọi tội lỗi và sống công bằng bác ái với tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Đức Mẹ Guadalupe, Năm ABC
Bài đọc: Zec 2:14-17; Lk 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa tôn vinh những ai khiêm nhường.
Lễ Đức Mẹ Guadalupe rất gần với Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vì lý do lịch sử của nó. Anh Gioan Diego, một nông dân người Mễ-tây-cơ, đang trên đường đi ngang qua ngọn đồi Tepeyac để tham dự thánh lễ buộc này thì được Đức Mẹ hiện ra vào sáng sớm thứ bảy, ngày 8 tháng 12 năm 1531. Đức Mẹ truyền cho anh phải đi gặp Đức Giám-mục giáo phận, Juan de Zumárraga, để xin ngài xây một nhà thờ trên đồi Tepeyac dâng kính Đức Mẹ. ĐGM nói ngài cần thời giờ để suy nghĩ. Lần thứ hai Đức Mẹ hiện ra và thúc giục anh đi gặp ĐGM và nhắc lại lời yêu cầu, anh đi gặp và ngài nói cần một dấu chỉ để ngài biết đó là ý của Đức Mẹ thật. Anh trở về và chuyển lời yêu cầu của ĐGM, Đức Mẹ hứa sẽ thoả mãn lời yêu cầu trong lần gặp kế tiếp ngày 11 tháng 12. Vì bận săn sóc cậu bị bệnh nặng, anh không thể đến gặp Đức Mẹ ngày đã hẹn. Hôm sau, ngày 12 tháng 12, anh cố tình đi con đường khác vì đã lỡ hẹn với Đức Mẹ, để mời cha ban bí tích Xức Dầu cho cậu; Đức Mẹ vẫn hiện ra với anh. Đức Mẹ yêu cầu anh đi lên đồi nhặt hoa hồng, là thứ hoa chưa bao giờ nở trên đồi khô cằn Tepeyac vào tháng 12. Sau khi đã nhặt hoa, Đức Mẹ xếp những đoá hồng này trên chiếc áo khoác của anh, và yêu cầu anh mặc vào và đi gặp ĐGM. Khi gặp ngài, anh mở tung chiếc áo choàng đang mặc làm các hoa hồng rớt xuống, và trên áo có in hình "Đức Mẹ Guadalupe." ĐGM nhận ra đó là ý của Đức Mẹ thật và ngài truyền thi hành công trình xây dựng ngôi thánh đường trên đồi Tepeyac. Chiếc áo choàng này, sau gần năm trăm năm, nay vẫn còn nguyên vẹn và được giữ cẩn thận tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe bên Mễ-tây-cơ.
ĐGH Leo XIII ban tặng "chuẩn y của Toà Thánh" trên áo choàng anh Gioan Diego ngày 12 tháng 10 năm 1895. Đức Mẹ Guadalupe được tôn xưng là "Nữ Hoàng của Mễ-tây-cơ"; "Người Bảo Vệ Mỹ Châu" (1945); "Nữ Hoàng Mỹ Châu La-tinh" và "Người bảo vệ của những trẻ em chưa sinh" bởi ĐGH J.P. II năm 1999. Anh Gioan Diego được tôn phong Chân-phước năm 1990 và hiển thánh năm 2002 bởi ĐGH J.P. II. Mẹ Giáo Hội truyền phải kính lễ Đức Mẹ Guadalupe trên khắp lục địa Mỹ Châu ngày 12 tháng 12 hàng năm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi dân cùng hướng về Jerusalem.
Thiên Chúa quan phòng mọi sự xảy ra trong cuộc đời này; tất cả là cho mục đích cứu độ dân chúng của Ngài. Ban đầu Ngài chọn dân Do-thái như là dân riêng để chuẩn bị cho biến cố Nhập Thể của Đức Ki-tô. Trong hai cuộc thất thủ và lưu đày của miền Bắc (721 B.C.) và miền Nam (587 B.C.), chúng ta có thể quan sát thấy hai mục đích chính của Thiên Chúa:
1.1/ Hai cuộc lưu đày cần thiết để thanh tẩy dân của Thiên Chúa:
Ngôn sứ Zechariah và ngôn sứ Haggai là hai ngôn sứ sau thời lưu đày và có công trong việc đốc thúc dân chúng xây dựng lại Đền Thờ Jerusalem đã bị phá huỷ vào năm 587 B.C. bởi quân đội Babylon. Đền Thờ mới được khánh thành bởi thống đốc Nehemiah và kinh sư Ezra vào năm 515 B.C. Trong ngày khánh thành, kinh sư Ezra đã cho đọc và giảng kinh thánh từ sáng sớm tới trưa gồm Lề Luật và các Tiên Tri để nhắc lại cho dân biết sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, tội bất trung của dân là lý do chính của toàn thể quốc gia bị huỷ diệt và lưu vong. Ông và các tư tế nhấn mạnh đến tình thương Thiên Chúa dành cho họ trong việc quan phòng để Các vua Ba-tư ra chiếu chỉ phóng thích cho họ về lại quê hương và giúp tài chánh để xây dựng lại Đền Thờ, sau 50 năm miền Nam bị thất thủ, đúng như lời các ngôn sứ đã loan báo (x/c Ezra 8-9).
Vì thế, điều lợi ích đầu tiên trong việc miền Nam bị thất thủ và lưu đày là thanh tẩy dân chúng, giúp họ nhận ra mọi lỗi lầm họ đã vi phạm. Đối với Thiên Chúa, việc phá huỷ và xây dựng lại đều có thể xảy ra cách dễ dàng cho mục đích thanh tẩy dân của Ngài để Ngài có thể ở với họ. Trong đoạn văn của ngôn sứ Zechariah, ông kêu gọi dân chúng, "Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA."
1.2/ Hai cuộc lưu đày cần thiết để Dân Ngoại biết đến và tin vào Thiên Chúa: Muốn cho Dân Ngoại biết đến đạo Thiên Chúa, cần có những người đi rao giảng và làm chứng. Dân Do-thái trở thành những người rao giảng dẫu bị bắt buộc; vì Thiên Chúa vẫn có thể dùng những khí cụ bất toàn để hoàn tất ý định của Ngài. Ngôn sứ Isaiah đã tiên báo rằng khi Thiên Chúa phục hồi dân Do-thái từ nơi lưu đày, thì không phải chỉ có dân Do-thái trở về Jerusalem mà thôi, nhưng còn rất nhiều con cái của các dân tộc khác nữa (Isa 49:6, 52:10, 60:3-11). Trong đoạn văn hôm nay, ngôn sứ Zechariah cũng đề cập đến sự kiện này: "Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng ĐỨC CHÚA: Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi."
Trong cuộc hiện ra lần đầu tiên, Đức Mẹ truyền cho anh Gioan Diego đi gặp ĐGM để xây một Đền Thờ biệt kính Mẹ trên Đồi Tepeyac. Mục đích của việc xây Đền Thờ là để Mẹ có thể ở giữa dân để chia sẻ những nỗi khốn khổ và chỉ đường cho các dân tộc Châu Mỹ đến với Thiên Chúa. Biến cố này đã giúp cho việc truyền giáo lục địa trẻ nhất của thế giới gần năm trăm năm qua. Chúng ta phải nhận ra sự quan phòng khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria trong biến cố này.
2/ Phúc Âm: Đức Kitô nhập thể nhờ lời thưa "Xin Vâng" của Đức Trinh Nữ Maria.
2.1/ Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế: Trước tiên, chúng ta cần xác định câu 26 trong trình thuật hôm nay là Lời Giới Thiệu tổng quát của Luca trước khi đi vào chi tiết của biến cố Truyền Tin. Điều này giúp chúng ta tránh được việc thắc mắc: Tại sao Mẹ trả lời "không biết đến chuyện vợ chồng" trong câu 34, lại còn "đã thành hôn với một người tên là Giuse" trong câu 26.
Có thể nói hầu hết các danh hiệu của Đức Mẹ mà Giáo Hội tuyên xưng qua các thời đại, có nguồn gốc trong các chi tiết của biến cố Truyền Tin:
(1) Mẹ Maria là Đấng đầy tràn ân sủng và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, như lời sứ thần Gabriel chào Đức Mẹ: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."
(2) Mẹ Maria luôn đẹp lòng Thiên Chúa: Sứ thần nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa." Điều này chứng tỏ Mẹ luôn sạch tội.
(3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao." Hiển nhiên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu là Con Đấng Tối Cao.
(4) Mẹ là người đem lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ tới chỗ thành tựu: "Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
2.2/ Xung đột giữa ý của Thiên Chúa và của Maria: Khi được biết ý của Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, Mẹ Maria cũng trình bày cho sứ thần ý muốn của Mẹ là muốn sống cuộc đời thánh hiến: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Sứ thần mặc khải cho Mẹ Maria biết cuộc thụ thai kỳ diệu, không giống như bất cứ cuộc thụ thai nào trong lịch sử nhân loại: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.''
Điều này có nghĩa Mẹ mang thai mà vẫn còn đồng trinh, như đã được tiên báo trước bởi tiên tri Isaiah 7:14, và được nhắc lại bởi Matthew 1:23. Thánh Luca xác định điều này bằng chứng từ của sứ thần Gabriel: "Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." Nếu Thiên Chúa có thể cho một người sinh con trong lúc tuổi gìa như Abraham và Sarah, như mẹ của Thủ-lãnh Sampson, như mẹ của Tiên-tri Samuel, hay như Zachariah và Elisabeth trong trình thuật hôm nay, Ngài cũng có thể làm cho Mẹ Maria mang thai con của Ngài và vẫn đồng trinh.
2.3/ Lời thưa "Xin Vâng" của Đức Maria: Câu trả lời của Mẹ dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất là thái độ khiêm nhường của Mẹ Maria khi nói với sứ thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!'' Thứ hai là thái độ vâng lời làm theo ý Chúa của Mẹ Maria: "Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Với hai thái độ thích đáng này, Mẹ đã cưu mang Đức Kitô và khai mào kỷ nguyên cứu độ cho nhân loại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa và Đức Mẹ yêu thích người khiêm nhường. Anh Gioan Diego chỉ là một nông dân nghèo hèn nhưng thành thật; anh được Đức Mẹ chọn để thi hành ý định của Đức Mẹ. Đức Mẹ cũng được Thiên Chúa chọn để cưu mang Đức Ki-tô vì sự khiêm nhường và vâng lời của Đức Mẹ.
- Hậu quả của tội lỗi là do lòng kiêu ngạo và sự bất tuân lệnh Thiên Chúa của ông Adong và bà Evà. Chúng ta phải cố gắng hết sức khử trừ hai tội nguy hiểm này.
- Chúng ta vẫn còn đang phải chiến đấu với Satan và đồng bọn của hắn, vì đó là mối thù truyền kiếp; nhưng chúng ta được hứa sẽ chiến thắng, nếu chúng ta khiêm nhường và làm theo thánh ý Thiên Chúa như Đức Kitô và Mẹ Maria.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần II MV2
Bài đọc: Isa 48:17-19; Mt 11:16-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đừng bắt người khác phải làm mọi sự theo ý mình.
Thiên Chúa dựng nên mỗi người khác nhau: về nhân vị, về sở thích, về cách thức suy nghĩ. Những khác biệt này làm cho mỗi người có ơn gọi, cách sống, và cách làm việc khác nhau. Lý do Thiên Chúa dựng nên con người khác nhau là vì Ngài muốn mọi người bổ xung cho nhau, đòan kết với nhau, để cùng nhau sinh sống.
Vấn đề tranh chấp xảy ra là khi có những con người độc tài, họ bắt những người khác phải theo sự suy nghĩ, cách sống, và cách làm việc của họ. Thiên Chúa, Đấng có thể bắt buộc, nhưng Ngài vẫn để tự do cho con người hành động; nhưng ngược lại, con người nhiều khi bắt ngay cả Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của mình.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh vấn đề này. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Isaiah khuyên con người phải nghe theo sự dạy dỗ của Thiên Chúa để được hưởng muôn ơn phúc lộc Ngài ban cho. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nêu lên lối phê bình không có nền tảng của con người: "Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.""
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hạnh phúc thay những ai đi trong đường lối của Thiên Chúa!
1.1/ Phải vâng nghe những lời dạy dỗ của Thiên Chúa: Tiên Tri Isaiah nói thay Chúa: "Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, Đức Thánh của Israel, phán thế này: Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng dạy ngươi những điều bổ ích, Đấng hướng dẫn ngươi trên đường ngươi đi." Nghe lời Thiên Chúa là dấu hiệu của con người khôn ngoan; vì có ai trong trần gian này khôn ngoan hơn Thiên Chúa: Ngài biết những gì có lợi và những gì gây thiệt hại cho con người.
1.2/ Ân huệ dành cho những ai làm theo ý Chúa: Có rất nhiều ích lợi cho những ai đi sống theo đường lối của Thiên Chúa; Tiên Tri liệt kê 3 điều chính:
(1) Tâm hồn được bình an: Người làm theo ý Chúa có bình an trong tâm hồn vì biết mình đã làm đúng, và biết chắc sẽ có kết quả tốt như lời bảo đảm của TT Isaiah: "Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như giòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển."
(2) Con đàn, cháu đống: "Giòng dõi ngươi sẽ đông như cát, con cái ngươi sinh ra sẽ hằng hà sa số." Người xưa quan niệm: con cái là hồng ân Thiên Chúa ban, nhưng tâm trạng của con người thời nay khác hẳn với những gì Chúa dạy: họ sợ con đàn cháu đống. Tâm trạng này cần được xét lại vì Thiên Chúa chẳng nói hay làm điều gì sai.
(3) Được Thiên Chúa nhớ tới muôn đời: "Tên tuổi ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta." Người không nghe lời Thiên Chúa là tự mình khai trừ tên tuổi mình ra khỏi số những người con của Thiên Chúa. Ngài luôn để ý đến những ai kêu cầu và bước đi trong đường lối của Ngài.
2/ Phúc Âm: Những bất tòan của đường lối con người.
Thiên Chúa trình bày sự thật và để con người có tự do chọn lựa sống theo đường lối Ngài; ai theo, sẽ được hưởng muôn vàn ân huệ. Khác với tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa, nhiều người chẳng có sự thật hay ân huệ; nhưng lại bắt người khác làm theo ý muốn và cách thức của mình. Chúa Giêsu lên án 2 tật xấu của con người đương thời:
2.1/ Muốn mọi sự theo ý mình: Chúa Giêsu nói: "Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, và nói: "Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.""
(1) Muốn mọi sự phải theo ý mình: Người ích kỷ không quan tâm đến ý của người khác nghĩ gì; đối với họ, chỉ có ý của họ là nhất. Họ quên đi họ phải theo ý của Thiên Chúa; và tùy trường hợp, họ phải theo ý của người có trách nhiệm.
(2) Muốn mọi người phải theo ý mình: Làm việc gì cũng phải có nơi chốn, hợp thời gian; chứ không phải khi mình muốn là mọi người phải làm theo ý mình. Chúa tạo dựng con người có đầy đủ trí khôn và ý muốn, chứ không phải là người máy hay những con múa rối để mình muốn điều khiển cách nào thì điều khiển. Trong ví dụ hôm nay, Chúa Giêsu muốn vạch ra những cái phi lý của người đương thời: Ngòai chợ chứ có phải đám đình đâu mà nhảy múa! Ngòai chợ tòan người sống chứ có người chết đâu mà đấm ngực than khóc!
2.2/ Thói luôn phê bình người khác: Người đương thời phê bình cả lối sống khắc khổ của Gioan Tẩy Giả và lối sống phóng khóang của Chúa Giêsu. Sự phê bình của họ được Chúa Giêsu tóm tắt như sau: "Thật vậy, ông Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi." Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hậu quả của nó."" Con người thích phê bình vì nhiều lý do:
(1) Muốn chứng tỏ mình hay hơn: Nhiều người thích phê bình để chứng tỏ mình biết nhiều, và không muốn chấp nhận cái hay của người khác. Họ quên đi một điều là trong thế gian luôn có người hay hơn và họ cần phải học hỏi.
(2) Vì ghen tị và không muốn ai hơn mình: Nhiều người phê bình vì sợ bị mất ảnh hưởng nơi dân chúng. Điều này rất đúng với các Kinh-sư và Biệt-phái. Họ không muốn chấp nhận những dạy dỗ của Chúa Giêsu không phải vì họ không biết đó là sự thật, nhưng vì họ sợ mất ảnh hưởng và quyền lợi trên dân chúng. Họ muốn triệt hạ Chúa Giêsu vì họ sợ dân chúng sẽ chạy theo Ngài.
(3) Không muốn chấp nhận sự thật để khỏi phải thi hành điều sự thật đòi hỏi: Đây là điều thường xảy ra cho những người vô thần. Họ không tin không phải vì họ không nhận ra Thiên Chúa, nhưng vì sợ nếu tin, họ phải giữ những điều Chúa dạy.
2.3/ Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hậu quả của nó: Để biết ý nào là ý khôn ngoan, cần phải xem vào hậu quả thì mới biết được. Nếu hậu quả tốt thì là ý khôn ngoan, hậu quả xấu là ý điên rồ. Mọi người tuôn đến với Gioan Tẩy Giả vì biết ông là người thánh thiện và ông chuẩn bị tâm hồn con người để đón nhận Thiên Chúa. Mọi người tuôn đến với Chúa Giêsu vì biết Ngài có quyền năng chữa bệnh, khôn ngoan, và yêu thương họ thực sự; chứ không như các Biệt-phái và Kinh-sư.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học hỏi để tìm ra tiêu chuẩn và đường lối của Thiên Chúa; sau đó, chúng ta phải có can đảm để sống theo tiêu chuẩn và đường lối của Ngài.
- Hậu quả của việc sống theo đường lối Thiên Chúa là chúng ta sẽ có bình an thực sự trong tâm hồn, đạt được kết quả tốt và vững bền, nhất là luôn được Thiên Chúa ghé mắt trông coi.
- Chúng ta cần suy xét cẩn thận về tiêu chuẩn và đường lối của con người. Chúng ta cần nhận ra tất cả những nguyên nhân đen tối ẩn núp đàng sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần II MV2
Bài đọc: Isa 41:13-20; Mt 11:11-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đường lối và tiêu chuẩn của Thiên Chúa.
Đường lối và tiêu chuẩn của Thiên Chúa xem ra có vẻ nghịch lý với đường lối và tiêu chuẩn của thế gian: trở nên cao trọng bằng khiêm nhường, trở nên quan trọng bằng phục vụ, có được sức mạnh bằng tin tưởng, sửa phạt là xót thương. Chúng nghịch lý vì thế gian cậy sức mình; trong khi các công dân Nước Trời cậy vào sức của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh những nghịch lý này. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương Israel, bắt chịu đau khổ cùng cực rồi lại ban sức mạnh khôn lường. Làm như thế, Chúa muốn dạy dân một bài học: Trong tất cả mọi sự, phải đặt trọn vẹn niềm tin nơi Ngài. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả được Chúa Giêsu khen là nhân vật quan trọng nhất trong số các phàm nhân, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương.
1.1/ Thiên Chúa xót thương Israel: Tiên Tri Isaiah muốn làm nổi bật 2 điểm: sự uy quyền thánh thiện của Thiên Chúa và sự hèn hạ của Israel, lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của họ:
- Thiên Chúa xót thương Israel và làm cho họ được mạnh sức: "Vì Ta, Đức Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Đấng cầm lấy tay phải ngươi và phán bảo: "Đừng sợ, chính Ta phù trợ ngươi.""
- Israel chỉ là lòai sâu bọ: Danh từ Do-Thái được dùng ở đây là "tôlaat," có nghĩa là lòai dòi bọ ở trong rượu hay trong trái cây, danh từ này được dùng để chỉ sự nhỏ bé và tội lỗi của dân tộc Israel. Thiên Chúa thương họ vì lòng thương xót; chứ tự họ không có gì đáng yêu cả: "Đừng sợ, hỡi Jacob, loài sâu bọ, hỡi những người Israel, chính Ta phù trợ ngươi, sấm ngôn của Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi là Đức Thánh của Israel."
1.2/ Thiên Chúa tăng sức mạnh cho Israel: Mặc dù Israel yếu đuối và vô dụng như lòai giòi bọ, nhưng Thiên Chúa sẽ làm cho họ được mạnh sức và uy quyền để chinh phục quân thù: "Này đây Ta sẽ biến ngươi thành một cái bừa vừa sắc vừa mới và đầy mũi nhọn. Ngươi sẽ dày đạp và nghiền nát núi non, sẽ làm cho các đồi nên như trấu. Ngươi sẽ rê chúng, gió sẽ cuốn đi và bão táp sẽ phân tán chúng."
1.3/ Thiên Chúa làm cho Israel được vui mừng: "Còn ngươi, vì Đức Chúa, sẽ mừng vui hoan hỷ, vì Đức Thánh của Israel, sẽ hãnh diện, tự hào." Điều Tiên Tri muốn nhấn mạnh ở đây cho dân Do-Thái biết: Tất cả là do uy quyền của Thiên Chúa chứ không do công sức của họ; nếu họ biết tin tưởng và cậy trông nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ làm mọi sự cho họ.
(1) Thiên Chúa xót thương kẻ nghèo hèn, khốn khổ: "Những ai nghèo hèn, khốn khổ, tìm nước không ra, lưỡi khô vì khát, Ta, Đức Chúa, Ta sẽ đáp lời, Ta, Thiên Chúa của Israel, Ta sẽ không bỏ rơi chúng."
(2) Thiên Chúa làm được mọi sự: Không có sự gì là không thể với Thiên Chúa, ngay cả việc biến sa mạc thành đồng bằng phì nhiêu: "Ta sẽ khai mở sông ngòi trên các đồi trọc, và khe suối dưới các lũng sâu. Ta sẽ biến hoang địa thành hồ ao, biến đất khô nên mạch nước dồi dào. Và trong vùng hoang địa, Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu; trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật nào trắc bá, nào du, nào hoàng dương."
(3) Điều quan trọng là phải tin vào uy quyền của Thiên Chúa: Khi nhìn thấy những điều này xảy ra, thiên hạ đều nhìn ra và nhận biết, nghiền ngẫm và hiểu rằng: "Điều ấy, bàn tay Đức Chúa đã làm nên, điều ấy, Đức Thánh của Israel đã tạo thành."
2/ Phúc Âm: Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả.
2.1/ Sự cao trọng của Gioan Tẩy Giả: Chúa Giêsu khen: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả." Tại sao Gioan Tẩy Giả quan trọng như thế?
(1) Ông được thánh hiến ngay từ lòng mẹ: Lời thiên thần mặc khải cho Zechariah, thân sinh của Gioan: "Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần" (Lk 1:15).
(2) Ông được Thiên Chúa chọn để dọn đường cho Đấng Tối Cao: Thiên thần nói tiếp: "Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlijah, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa" (Lk 1:16-17).
(3) Ông là người đầu tiên nhận ra Chúa và chỉ cho dân biết: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi" (Jn 1:29-30).
2.2/ Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
(1) Phải mạnh sức mới vào được Nước Trời: "Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì thắng." Đây là câu khó hiểu; tại sao cần sức mạnh mới vào được Nước Trời? Nếu nhìn lại cuộc đời của Gioan Tẩy Giả, chúng ta thấy ông phải đương đầu với sức mạnh: Vua Herode bắt bỏ tù và giết chết ông. Chúa Giêsu cùng chịu chung số phận. Rồi đến các thánh tử đạo ở mọi thời. Vì thế, ai không mạnh sức hơn các quyền lực thế gian, người ấy sẽ không vào được Nước Trời. Kẻ nào vào được Nước Trời, kẻ ấy chứng tỏ mình mạnh sức và cao trọng hơn các kẻ ở ngòai, cho dù là vua chúa trần gian. Dĩ nhiên, Gioan Tẩy Giả cũng là người của Nước Trời, vì ông đã chiến thắng sức mạnh của thế gian.
(2) Gioan Tẩy Giả chính là Tiên Tri Elijah: Truyền thống Do-Thái tin Elijah không chết; ông sẽ trở lại trước thời Đấng Cứu Thế đến để dọn đường cho Ngài. Chúa Giêsu tuyên bố: "Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Elijah, người phải đến. Ai có tai để nghe thì hãy nghe." Châm ngôn có câu: "Người ta có thể mang ngựa đến giòng suối để uống nước, nhưng người ta không thể bắt nó uống." Thiên Chúa đã sai Gioan đến làm chứng cho Chúa Giêsu, và chính Chúa Giêsu đã chứng thực lời chứng của Gioan. Nếu sau khi đã nghe cả Gioan và Chúa Giêsu mà họ vẫn không tin, Thiên Chúa còn làm được gì cho họ nữa!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Là con của Cha trên trời, chúng ta cần học tiêu chuẩn và đường lối của Thiên Chúa.
- Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, và làm theo thánh ý của Ngài.
- Chúng ta phải có thái độ: thà được làm công dân Nước Trời còn hơn được hưởng mọi vinh hoa phú quí ở đời này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần II MV2
Bài đọc: Isa 40:25-31; Mt 11:28-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa yêu thương và săn sóc mọi người.
Con người thường có khuynh hướng lấy những gì mình suy nghĩ và áp dụng cho Thiên Chúa; chẳng hạn, cha mẹ chỉ có thể yêu thương và chăm sóc cho vài con (chỉ 2 con với cha mẹ thời nay). Đem áp dụng suy nghĩ này cho Thiên Chúa, họ không tin Thiên Chúa có thể biết, yêu thương, và chăm sóc cho từng người một trong nhân lọai.
Các Bài đọc hôm nay muốn chứng minh: với quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngài yêu thương và săn sóc từng người một. Trong Bài đọc I, người Do-Thái kêu trách Thiên Chúa: "Đường tôi đi, Đức Chúa không nhìn thấy, quyền lợi của tôi, Thiên Chúa chẳng đoái hoài?" Tiên Tri Isaiah sửa sai quan niệm này: Nếu Thiên Chúa có thể gọi đích danh từng ngôi sao một, Ngài cũng có thể gọi đích danh từng người một. Nói cách khác, vì Thiên Chúa gọi, nên tất cả được tạo thành. Tiên tri nói: "Thiên Chúa không mệt mỏi, cũng chẳng nhọc nhằn, trí thông minh của Người khôn dò thấu. Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi; kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng." Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kêu mời mọi người: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi; kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng.
1.1/ Chúa biết và yêu thương từng cá nhân một: Tiên Tri Isaiah dùng công cuộc sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa để chứng minh sự quan phòng của Thiên Chúa cho con người: "Các ngươi so sánh Ta với ai, để Ta phải ngang hàng với nó? Hãy đưa mắt lên cao mà nhìn: Ai đã sáng tạo những vật đó? Đấng tung ra toàn bộ đạo binh các tinh tú, Người gọi đích danh từng ngôi một, khiến không thiếu vắng một ngôi nào."
Nếu Thiên Chúa đã dựng nên từng ngôi sao một và sắp xếp vị trí của chúng trong trời đất, Người cũng dựng nên và quan phòng cho từng con người một trong thế gian này. Vì thế, Tiên Tri chất vấn những người không tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa: "Hỡi Jacob, sao ngươi nói, hỡi Israel, sao ngươi bảo: "Đường tôi đi, Đức Chúa không nhìn thấy, quyền lợi của tôi, Thiên Chúa chẳng đoái hoài?" Ngươi chẳng biết, chẳng nghe thấy sao? Đức Chúa là Thiên Chúa vĩnh cửu, là Đấng sáng tạo toàn cõi đất."
2.2/ Chúa săn sóc từng cá nhân: Vì Thiên Chúa uy quyền, khôn ngoan, và thông biết mọi sự, nên Người không mệt mỏi cũng chẳng nhọc nhằn trong việc quan phòng con người. Những ai trông cậy vào Người, thì được Người ban sức mạnh: "Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân." Người ban sức mạnh cho những ai mệt mỏi; kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng. Còn những ai không biết trông cậy nơi Người, cho dẫu là thanh niên cũng mệt mỏi, nhọc nhằn; cho dẫu là trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo.
2/ Phúc Âm: Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
2.1/ Chúa Giêsu biết "nỗi vất vả" và "gánh nặng nề" của từng người: Ngài kêu gọi: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng." Trong đời người, chắc ai cũng đã trải qua những kinh nghiệm như Chúa Giêsu mô tả hôm nay: mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng vẫn không gánh nổi những đau thương của cuộc sống. Trong những lúc như thế, con người chỉ muốn buông xuôi, nói theo kiểu của thi hào Nguyễn Du, "thử xem Con Tạo xoay vần đến đâu!" Chúa Giêsu cũng đã từng trải qua những kinh nghiệm đau thương như chúng ta, và còn hơn chúng ta nữa. Bị nhân lọai khước từ mặc dù đã làm không biết bao nhiêu điều ích lợi cho con người: mặc khải, dạy dỗ, chữa lành. Một mình Ngài đã vác Thập Giá nặng lên Đồi Canvê dưới bao nhiêu những roi đòn của lính; và đã 3 lần gục ngã dưới sức nặng của cây Thập Giá. Sau cùng, Ngài phải chịu một cái chết đau thương, cô đơn, nhục nhã; đến nỗi đã phải thốt lên: "Cha hỡi, Cha ơi! Sao Cha bỏ con!" Một người đã trải qua những gánh nặng như thế của kiếp người, Ngài chắc chắn biết chia sẻ những gánh nặng của con người. Ngài mời gọi con người hãy đến với Ngài để được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
2.2/ Chúa Giêsu giúp từng người giải quyết vấn đề của mình:
(1) Chúa không hứa con người sẽ không phải đau khổ; nhưng Ngài sẽ giúp con người vượt qua đau khổ: "Anh em hãy mang lấy ách của tôi... Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." Tĩnh từ Hy-Lạp dùng để mô tả chữ êm ái ở đây là "crhsto.j," nó còn có nghĩa "vừa vặn." Bên Palestine, ách của bò được làm bằng gỗ, con bò được mang tới xưởng để thợ mộc đo kích thước trước khi làm ách. Sau khi đã làm xong, con bò được mang tới để thử; ách được cẩn thận thêm bớt sao cho nó có thể vừa khít cổ con bò mà không gây đau đớn cho nó. Truyền thuyết cho rằng Chúa Giêsu nổi tiếng về nghề làm ách khi Ngài lớn lên ở Nazareth với Giuse. Ngài biết cách giúp con người mang ách làm sao cho êm ái, và mang gánh làm sao cho nhẹ nhàng.
(2) Chúa giúp con người vượt qua đau khổ bằng dạy dỗ hai bài học quan trọng trong cuộc đời: "Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường."
- Bài học hiền hậu: Đây là đức tính giúp con người thực sự có bình an trong tâm hồn. Người hiền hậu không dễ bị tức giận vì lời nói, thái độ, hay việc làm của người khác. Vì thế, họ sẽ không cảm thấy đau khổ khi bị chọc tức, bị khinh thường, hay bị đối xử bất công.
- Bài học khiêm nhường: Đây là đức tính giúp con người biết chấp nhận mọi hòan cảnh xảy ra trong cuộc đời. Người khiêm nhường không ghen tị, không bon chen để tìm cách cho bằng hay hơn người khác. Họ biết mình và biết người. Vì họ luôn tìm chỗ hèn hạ, và nhường cho người khác chỗ cao trọng hơn; nên họ không lo phải đối chọi với phong ba, bão táp của những người ham hố quyền hành, chức vụ.
(3) Chúa giúp con người vượt đau khổ bằng sức mạnh của Ngài: "Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng." Lời Chúa hướng dẫn và Bí-tích Thánh Thể cung cấp cho con người sức mạnh để đương đầu với mọi đau khổ có thể xảy đến trong cuộc đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần xác tín mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa là mối liên hệ cá nhân; và Chúa muốn chúng ta dùng tình yêu cá nhân để đáp trả lại.
- Chúa biết chúng ta còn hơn chúng ta biết chúng ta. Chúng ta đừng sợ khi đối diện với Chúa, vì Ngài đã biết mọi vấn đề, và quan tâm giúp chúng ta giải quyết vấn đề.
- Nhiều khi chúng ta cảm thấy cô đơn, mệt mỏi, chán chường, thất vọng, vì chúng ta muốn chiến đấu một mình; nhưng nếu chúng ta biết chạy đến với Chúa để xin Ngài giúp sức, mọi sự sẽ trở nên dễ dãi, nhẹ nhàng; và chính Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn trở ngại bằng chính sức mạnh của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Năm ABC
Bài đọc: Gen 3:9-15, 20; Eph 1:3-6, 11-12; Lc 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khiêm nhường và vâng phục Thiên Chúa là hai chìa khóa chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Nhiều tác giả đã ví cuộc đời con người như một giao tranh giữa sự thiện và sự ác, giữa sự thật và sự gian manh, giữa ánh sáng và bóng tối, và giữa sự sống và sự chết. Điều quan trọng nhất là làm sao con người có thể chiến thắng trong cuộc chiến tại thế gian này?
Các Bài Đọc hôm nay muốn chúng ta học hỏi cẩn thận hai mẫu gương chiến bại và chiến thắng của các tiền nhân. Trong Bài Đọc I, ông Adong và bà Evà đã bị thảm bại vì những lời cám dỗ điêu ngoa của con rắn. Nó khơi dậy tính kiêu ngạo để ông bà bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Hậu quả là ông bà phải xa cách và lẩn trốn Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, nhờ sự khiêm nhường và vâng phục Thiên Chúa của Đức Kitô qua biến cố Nhập Thể, con người đã nhận được hết ơn này đến ơn khác: được tha tội, được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, và được hưởng đầy tràn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Phúc Âm, nhờ sự khiêm cung và vâng phục Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ được Vô Nhiễm Nguyên Tội, được làm Mẹ Thiên Chúa, và qua Mẹ, lời hứa ban Đấng Cứu Độ của Thiên Chúa được thành tựu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.
1.1/ Tội của Adam và Eve làm con người xa cách Thiên Chúa: Khi con người chưa phạm tội, con người có mối liên hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, và với các tạo vật của Thiên Chúa. Khi con người phạm tội, các mối liên hệ này đều bị thiệt hại.
(1) Con người sợ hãi và lẩn tránh Thiên Chúa: Khi Ngài đi tìm con người sau khi họ đã phạm tội, Ngài hỏi họ: "Ngươi ở đâu?" Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn." Sự trần truồng làm cho con người bị xấu hổ và lẩn tránh Thiên Chúa; điều này đã không xảy ra trước khi con người phạm tội. Tội lỗi làm cho con người xấu hổ và sợ hãi khi phải đối diện với Thiên Chúa. Đức Chúa tiếp tục hỏi con người: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?" Tội nguyên tổ là tội kiêu ngạo và không vâng phục Thiên Chúa. Con người muốn được như Thiên Chúa để khỏi phải vâng phục những lệnh truyền của Ngài.
(2) Tội lỗi làm tổn thương đến mối liên hệ giữa con người với tha nhân: Trước khi phạm tội, con người yêu thương và tin tưởng lẫn nhau; nhưng sau khi phạm tội, con người nghi ngờ và đổ lỗi cho nhau. Con người thưa với Thiên Chúa lý do của sa ngã: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn." Điều này cũng bao gồm việc con người đổ lỗi cho Thiên Chúa: vì Ngài cho con người đàn bà, con đã nghe theo và phạm tội.
(3) Tội lỗi làm rạn nứt mối liên hệ giữa con người với các tạo vật của Thiên Chúa: Theo thánh Thomas Aquinas, trình thuật hôm nay giả định sự sa ngã của các thiên thần. Tác giả muốn dùng hình ảnh của rắn để tượng trưng cho Satan, vì những gian manh và lừa đảo của nó. Ngay từ đầu chương, tác giả đã nói lên điều này: "Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng'' (Gen 3:1). Sự gian manh này cũng được tỏ bày hai lần trong việc con rắn bẻ cong sự thật trong mẩu đối thoại với bà Evà: Lần thứ nhất, rắn hỏi thử người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không'' (Gen 3:2)? Tội lỗi bắt đầu bằng việc bẻ cong sự thật. Lần thứ hai, rắn thuyết phục người đàn bà bằng hai ngụy thuyết: thứ nhất, không có sự chết chóc; thứ hai, phần thưởng khi ăn được là sẽ trở nên như những vị thần biết điều thiện, ác, mà không cần tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Đây là cám dỗ muôn đời của nhiều người, họ không muốn nghe ai giảng về luân lý hay bắt họ phải làm gì, tránh gì; nhưng muốn tự họ có quyền xác định điều thiện ác, theo tiêu chuẩn và lề lối suy nghĩ của họ. Bà Evà bị xiêu lòng vì dáng vẻ bên ngoài hấp dẫn của trái cây và ước mong được biết thiện ác như Thiên Chúa, nên đã ăn và đưa cho ông Adong cùng ăn. Khi ông bà nhận ra đã bị rắn lừa dối thì đã quá muộn màng (Gen 3:4-7). Khi Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã làm gì thế?" Người đàn bà đổ lỗi cho rắn: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn."
1.2/ Mối thù giữa Satan và con người: Trước tiên, Thiên Chúa tuyên án phạt cho con rắn, vì nó là nguyên nhân của tội: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.'' Sau đó, là án phạt cho con người, qua sự giao chiến liên tục giữa rắn và con người. Sự giao chiến này được xảy ra trong hai lãnh vực:
(1) Giữa rắn và Người Phụ Nữ: Trình thuật hôm nay có liên quan đến con Mãng Xà và Người Phụ Nữ trong Sách Khải Huyền (Rev 12:1-18). Các học giả dễ đồng ý con Mãng Xà là hiện thân của Satan; nhưng bất đồng trong việc nhận diện Người Phụ Nữ, khi phân tích đoạn văn của Sách Khải Huyền. Một số cho Người Phụ Nữ là Đức Mẹ Maria, số khác cho là Mẹ Giáo Hội. Chúng tôi không thấy có gì mâu thuẫn cả, vì cả hai đều có thể chấp nhận được: Mẹ Maria luôn đồng hành với Giáo Hội trong việc giao chiến với quyền lực của Satan.
(2) Giữa dòng giống của rắn và dòng giống người ấy: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." Tuy luôn phải giao chiến; nhưng Thiên Chúa đã ngụ ý phần chiến thắng sẽ về phía miêu duệ của Người Phụ Nữ qua việc ám chỉ "dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi;" và sự vô vọng của rắn "và mi sẽ cắn vào gót nó." Miêu duệ của Người Phụ Nữ trước tiên ám chỉ Đức Kitô, và sau đó, những ai thuộc về Ngài.
2/ Bài đọc II: Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô.
2.1/ Đức Giêsu Kitô là Adam mới.
(1) Nguồn gốc của ơn thánh: Tác giả Thư Ephêsô cho chúng ta biết nguồn gốc và ý nghĩa của ơn thánh, khi ông tuyên xưng: "Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần." Ơn thánh phát xuất từ Thiên Chúa, được ban qua Đức Kitô, nhờ công nghiệp của Người. Ơn thánh cũng chính là muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần: ơn bảy nguồn là nguyên nhân sinh ra mười hai hoa quả của Thánh Thần.
(2) Những đặc quyền con người được thừa hưởng: Vì công nghiệp của Đức Kitô qua biến cố Nhập Thể, Thương Khó và Phục Sinh của Người, con người được thừa hưởng những đặc ân như sau:
+ Được trở nên tinh tuyền, thánh thiện: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người."
+ Được trở nên các nghĩa tử của Thiên Chúa: "Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô."
+ Được ngợi khen Thiên Chúa: "Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu."
2.2/ Đức Kitô mang lại vinh quang cho con người: Vì sự sa ngã của ông Adong, con người bị luận phạt và bị chết; nhưng nhờ sự tuân phục của Đức Kitô vào Thiên Chúa, con người được tha thứ mọi tội, được hưởng tràn đầy ơn thánh, và được sống muôn đời. Đây là Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa có từ trước muôn đời, chỉ được mặc khải cho con người khi Đức Kitô xuống thế. Tác giả Thư Ephêsô diễn giải như sau: "Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người."
3/ Phúc Âm: Đức Kitô nhập thể nhờ lời thưa "Xin Vâng" của Đức Trinh Nữ Maria.
3.1/ Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế: Trước tiên, chúng ta cần xác định câu 26 trong trình thuật hôm nay là Lời Giới Thiệu tổng quát của Luca trước khi đi vào chi tiết của biến cố Truyền Tin. Điều này giúp chúng ta tránh được việc thắc mắc: Tại sao Mẹ trả lời "không biết đến chuyện vợ chồng" trong câu 34, lại còn "đã thành hôn với một người tên là Giuse" trong câu 26.
Có thể nói hầu hết các danh hiệu của Đức Mẹ mà Giáo Hội tuyên xưng qua các thời đại, có nguồn gốc trong các chi tiết của biến cố Truyền Tin:
(1) Mẹ Maria là Đấng đầy tràn ân sủng và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, như lời sứ thần Gabriel chào Đức Mẹ: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."
(2) Mẹ Maria luôn đẹp lòng Thiên Chúa: Sứ thần nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa." Điều này chứng tỏ Mẹ luôn sạch tội.
(3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao." Hiển nhiên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu là Con Đấng Tối Cao.
(4) Mẹ là người đem lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ tới chỗ thành tựu: "Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
3.2/ Xung đột giữa ý của Thiên Chúa và của Maria: Khi được biết ý của Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, Mẹ Maria cũng trình bày cho sứ thần ý muốn của Mẹ là muốn sống cuộc đời thánh hiến: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Sứ thần mặc khải cho Mẹ Maria biết cuộc thụ thai kỳ diệu, không giống như bất cứ cuộc thụ thai nào trong lịch sử nhân loại: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.''
Điều này có nghĩa Mẹ mang thai mà vẫn còn đồng trinh, như đã được tiên báo trước bởi tiên tri Isaiah 7:14, và được nhắc lại bởi Matthew 1:23. Thánh Luca xác định điều này bằng chứng từ của sứ thần Gabriel: "Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." Nếu Thiên Chúa có thể cho một người sinh con trong lúc tuổi gìa như Abraham và Sarah, như mẹ của Thủ-lãnh Sampson, như mẹ của Tiên-tri Samuel, hay như Zachariah và Elisabeth trong trình thuật hôm nay, Ngài cũng có thể làm cho Mẹ Maria mang thai con của Ngài và vẫn đồng trinh.
3.3/ Lời thưa "Xin Vâng" của Đức Maria: Câu trả lời của Mẹ dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất là thái độ khiêm nhường của Mẹ Maria khi nói với sứ thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!'' Thứ hai là thái độ vâng lời làm theo ý Chúa của Mẹ Maria: "xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Với hai thái độ thích đáng này, Mẹ đã cưu mang Đức Kitô và khai mào kỷ nguyên cứu độ cho nhân loại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hậu quả của tội lỗi là do lòng kiêu ngạo và sự bất tuân lệnh Thiên Chúa của ông Adong và bà Evà. Chúng ta phải cố gắng hết sức khử trừ hai tội nguy hiểm này.
- Hiệu quả của ơn phúc tuôn tràn trên con người là do tình thương của Thiên Chúa, sự khiêm nhường và làm theo thánh ý Thiên Chúa của Đức Kitô và Mẹ Maria.
- Chúng ta vẫn còn đang phải chiến đấu với Satan và đồng bọn của hắn, vì đó là mối thù truyền kiếp; nhưng chúng ta được hứa sẽ chiến thắng, nếu chúng ta khiêm nhường và làm theo thánh ý Thiên Chúa như Đức Kitô và Mẹ Maria.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần II MV2
Bài đọc: Isa 35:1-10; Lk 5:17-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tội lỗi
Truyền thống Do-Thái tin có một sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt. Một ví dụ điển hình là chủ đề chính của các Sách Tiên Tri: vì Israel phạm tội bất trung với Thiên Chúa, nên Ngài đã dùng Assyria và Babylon như roi để sửa phạt họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn họ bị tiêu diệt muôn đời, nhưng muốn họ ăn năn hối cải để được sống. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah cho thấy hình ảnh huy hòang khi dân chúng biết ăn năn xám hối, họ sẽ được trở về từ nơi lưu đày và được gặp gỡ Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri nói tới. Ngài có năng quyền chữa lành mọi bệnh phần hồn (tội lỗi) và phần xác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Niềm vui vì được cứu độ
1.1/ Sự khác biệt giữa 2 cuộc sống: có Chúa và không có Chúa.
(1) Khi có Chúa can thiệp, sa mạc khô cằn trở nên vùng đất phì nhiêu: "Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Liban, vẻ rực rỡ của núi Carmen và đồng bằng Sharon. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta."
(2) Con người có can đảm để sống: "Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.""
(3) Mọi bệnh tật sẽ được chữa lành: "Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò."
1.2/ Chỉ có những ai tay sạch lòng thanh mới được tiến về Núi Thánh: Kẻ dữ sẽ không được trở về: "Ở đó sẽ có một đường đi mang tên là thánh lộ. Kẻ ô uế sẽ chẳng được qua. Đó sẽ là con đường cho họ đi, những kẻ điên dại sẽ không được lang thang trên đó." Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
2/ Phúc Âm: Này anh, anh đã được tha tội rồi!
2.1/ Năng quyền chữa bệnh của Đức Kitô: Không ai có thể phủ nhận năng quyền chữa bệnh của Đức Kitô, ngay cả các Kinh-sư và Biệt-phái. Điểm đặc biệt trong trình thuật của Tin Mừng Luca hôm nay là cách thức họ đưa bệnh nhân đến với Chúa Giêsu và cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu với các Kinh-sư và Biệt-phái về năng quyền tha tội của Ngài.
"Một hôm, khi Đức Giêsu đang giảng dạy, có mấy người Biệt-phái và Kinh-sư ngồi đó; họ từ khắp các làng mạc miền Galilee, Judah, và Jerusalem đến. Quyền năng Chúa ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. Bỗng có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người. Nhưng vì có đám đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giêsu."
2.2/ Năng quyền tha tội của Đức Kitô: Cuộc đối thọai của Chúa Giêsu và các Kinh-sư cùng Biệt-phái tập trung trong đề tài chính là Chúa Giêsu có quyền tha tội không? Để chứng minh cho họ thấy Ngài vừa có quyền chữa bệnh vừa có quyền tha tội; nói cách khác, Ngài chính là Thiên Chúa; Chúa Giêsu dùng 2 niềm tin của họ để dẫn họ đến những điều họ phải chấp nhận.
(1) Niềm tin thứ nhất: tội lỗi và hình phạt. Truyền thống Do-Thái tin có sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt; bệnh tật có thể là do tội của cá nhân đó hay cha mẹ anh ta, vì "đời cha ăn mặn, đời con khát nước" (Jn 9:2, 34). Sách Xuất Hành tin cơn giận của Thiên Chúa sẽ gíang xuống tới 5 đời con cháu (Exo 20:5).
(2) Niềm tin thứ hai: chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đối thọai với họ về năng quyền tha tội, khi Người bảo anh bại liệt: "Này anh, anh đã được tha tội rồi." Các Kinh-sư và các người Biệt-phái bắt đầu suy nghĩ: "Ông này là ai mà nói phạm thượng như thế? Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?" Điều họ nghĩ không sai: chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Isa 43:25, 55:7). Bất cứ ai tự nhận mình có quyền tha tội là phạm thượng, vì đã tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
(3) Lý luận của Chúa Giêsu: Hình phạt được tha là tội lỗi được tha. Theo thủ tục của tòa án, hình phạt chỉ ra sau khi đã kết án tội phạm; nếu chánh án tuyên bố tha bổng, đương sự không có tội gì nữa. Ngay cả trong trường hợp đang xảy ra: Nếu các Kinh-sư và Biệt-phái tin hình phạt là do tội lỗi gây ra, họ cũng phải tin nếu hình phạt (bệnh liệt) bị lấy đi, tội lỗi cũng được tha.
Chúa Giêsu thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng: "Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Anh đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn? Đối với họ, điều dễ là điều thứ nhất; đối với Chúa Giêsu, cả hai điều đều dễ dàng. Ngài có cả quyền chữa lành và quyền tha tội.
(4) Hệ quả thứ nhất: Đức Kitô có quyền tha tội. Chúa Giêsu nói với họ: "Vậy, để các ông biết ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà!" Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa.
(5) Hệ quả thứ hai: Đức Kitô là Thiên Chúa. Nếu các Kinh-sư và Biệt-phái thành tâm theo niềm tin của họ tới cùng, đó là: "Không ai có quyền tha tội ngòai Thiên Chúa;" họ sẽ nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa, vì Ngài vừa có năng quyền chữa bệnh vừa có năng quyền tha tội. Nhưng họ đã không nhận ra những gì mà tòan dân nhận ra, vì sự ghen tị của họ: "Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: "Hôm nay, chúng ta đã chứng kiến những chuyện lạ kỳ!""
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không thể đón Chúa với tâm hồn tội lỗi, vì Chúa là Đấng vô cùng Thánh Thiện (I Jn 1:5).
- Con người chúng ta ai cũng phạm tội; vì thế, chúng ta cần xưng thú tội lỗi trước khi được tha thứ và giao hòa với Thiên Chúa. Nếu ai nói mình không phạm tội, người đó là kẻ nói dối và sự thật không có trong họ (I Jn 1:8).
- Chúa Giêsu có quyền tha tội, và Ngài ban cho các môn đệ và các linh mục (những người kế vị) quyền cầm giữ và tháo cởi (x/c Mt 16:19, Lk 24:47, Jn 20:23). Chỉ cần chuẩn bị một thời gian ngắn và xưng thú tội lỗi, chúng ta sẽ được Chúa ngự vào lòng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 2 Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Bar 5:1-9; Phi 1:4-6, 8-11; Lk 3:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời con người.
Tình thương và uy quyền của Thiên Chúa vẫn ấp ủ và bảo vệ con người; nhưng để cảm nhận được, con người cần có con mắt đức tin và trái tim đầy tình yêu. Nhiều người nghĩ họ có thể đi tìm vinh quang cho cuộc đời mà không cần biết đến Thiên Chúa; nhưng thực tế đã chứng minh đó chỉ là vinh quang nhất thời, giả tạo, và không mang lại niềm vui cũng như bình an đích thực cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật tầm quan trọng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống con người và sự cần thiết phải sửa dọn tâm hồn để có thể lãnh nhận Ngài. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Baruch nhận ra sự khờ dại của toàn thể con cái Israel khi họ từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang và vinh quang giả tạo của trần thế. Hậu quả là mất nước, Đền Thánh bị phá hủy, và vua quan cũng như dân chúng phải chịu lưu đày cực khổ. Tiên-tri cũng nhận ra tình thương và uy quyền của Thiên Chúa: nếu toàn dân chịu xám hối và ăn năn trở lại, Thiên Chúa sẽ hủy bỏ tang phục mà họ đang mặc trên mình. Ngài sẽ mặc cho họ áo choàng công chính, đội triều thiên vinh quang, và chiếu dọi ánh vinh quang vĩnh cửu của Ngài trên họ. Trong Bài Đọc II, Phaolô, sau khi đã có kinh nghiệm về hạnh phúc của một người được Thiên Chúa hoàn toàn chiếm hữu, đã chia sẻ niềm vui và cầu nguyện cho các tín hữu cũng sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc như ông; nhưng họ phải hoàn toàn đặt trọn niềm tin yêu nơi Đức Giêsu Kitô và cố gắng sống tinh tuyền thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Ngài đến. Trong Phúc Âm, Gioan Tiền Hô được Thiên Chúa trao sứ vụ dọn đường cho Đấng Thiên Sai tới bằng việc kêu gọi con người sửa dọn tâm hồn và thay đổi cuộc sống. Khi Đấng Thiên Sai xuất hiện, chỉ những người đã chuẩn bị tâm hồn sẽ được "nhìn thấy" ơn cứu độ của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
1.1/ Thiên Chúa là Đấng giải thoát con cái Israel: Tác giả của Sách tiên-tri Baruch được nhiều học giả cho là thư ký của tiên-tri Jeremiah. Sách này có thể được viết trong Thời Lưu Đày hay sau đó, khi tác giả có cơ hội suy nghĩ nhiều về tình thương của Thiên Chúa dành cho con cái Israel, dù họ đã bất trung phản bội Ngài.
(1) Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương: Tác giả nhìn lại lịch sử Israel và cảm nhận được uy quyền của Thiên Chúa. Ngài điều khiển các thế lực chính trị để sửa phạt và bắt con cái Israel đi lưu đày trước khi cho họ trở về. Mục đích của việc sửa phạt là để mở mắt cho họ nhìn thấy tình thương và uy quyền của Ngài dành cho họ. Sách Baruch có nhiều tư tưởng tương tự với Sách tiên-tri Jeremiah, một trong những điều tương tự là tác giả ví Jerusalem như một người vợ mất chồng là Thiên Chúa, và mất con cái là tất cả dân chúng bị lưu đày. Sự khổ nhục này bị các Dân Ngoại chê trách làm cho niềm đau càng quặn thắt hơn.
Trình thuật hôm nay nói về việc Thiên Chúa sẽ đổi ngược số phận hoàn toàn của bà mẹ Jerusalem trong ngày Ngài ra tay cứu độ. Ngài sẽ cho toàn thể địa cầu nhìn thấy vinh quang của Jerusalem: "Hỡi Jerusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa, và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi."
Hai bài học quí giá Ngài dạy cho con cái Israel: Thứ nhất, "vinh quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa." Tất cả các vinh quang ngoài Thiên Chúa chỉ tạm thời và gây ra mọi nỗi ô nhục cho họ. Thứ hai, "bình an xây dựng trên công chính." Nếu họ không tuân hành những Lề Luật Thiên Chúa dạy và đối xử công bằng với mọi người, chiến tranh sẽ lan tràn và nhân loại không bao giờ được bình an.
(2) Con cái Israel được trở về vinh quang từ nơi lưu đày: Có hai áp dụng cho lời tiên tri này. Thứ nhất, là cuộc hồi hương của con cái Israel vào năm 538 BC theo chiếu chỉ của hoàng-đế Ba-tư là Cyrus. Cuộc trở về này tuy vui mừng, nhưng không vinh quang huy hoàng như trình thuật diễn tả hôm nay: "Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng." Thứ hai, tác giả có lẽ muốn nói tới vinh quang của Israel trong ngày Đấng Thiên Sai ngự đến.
1.2/ Israel phải chuẩn bị để đón Đấng Thiên Sai: Để những điều này xảy ra, con cái Israel phải chuẩn bị tâm hồn, ăn năn xám hối về những lỗi lầm họ đã xúc phạm tới Thiên Chúa, và đặt trọn vẹn niềm tin yêu nơi Ngài. Tác giả viết: "Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Israel tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa."
Khi Đức Chúa lãnh đạo dân Người trở về, Israel sẽ được thịnh vượng và bình an: "Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Israel, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người."
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi con người.
2.1/ Thiên Chúa khởi sự mọi điều nơi con người: Lá thư gởi cho các tín hữu Philip được viết từ nơi lao tù. Đây là cộng đoàn có thể nói rất được yêu mến bởi thánh Phaolô. Hai điều ngài muốn chia sẻ với họ: Thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng bắt đầu hành trình đức tin nơi con người, khi Ngài ban cho con người hiểu được những gì thánh Phaolô rao giảng về Đức Kitô để họ tin vào Ngài. Không những thế Ngài còn nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của các tín hữu để họ có thể trung thành cho đến hơi thở cuối cùng. Thánh Phaolô xác tín với họ điều này: "Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Giêsu Kitô quang lâm." Nói cách khác, từ khởi sự cho đến hoàn thành niềm tin của con người đều do bởi ơn thánh của Thiên Chúa. Thứ hai, Thiên Chúa cho con người tham gia vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Theo kinh ngiệm của Phaolô, sứ vụ rao giảng Tin Mừng không phải là một bổn phận; nhưng là một ân huệ Thiên Chúa ban cho các tín hữu được cộng tác với Ngài trong việc làm cho Nước Chúa trị đến.
2.2/ Đời sống công chính là hiệu quả ơn thánh của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người: Thánh Phaolô cầu xin 2 điều cho các tín hữu Philipphê:
(1) Thiên Chúa ban lòng mến: Tình yêu của Đức Kitô là động lực thúc đẩy thánh Phaolô và các tín hữu làm mọi sự, ngài nói: "Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, cùng với kiến thức và tất cả mọi thấu hiểu."
Lòng mến là điều kiện tiên quyết thúc đẩy việc học hỏi: khi yêu ai hay thích điều gì, con người sẽ tìm mọi cơ hội để tìm hiểu, để biết về điều đó hay người đó hơn. Nếu không có sự thúc đẩy của tình yêu, con người sẽ không bận tâm để tìm hiểu. Càng tìm hiểu bao nhiêu, con người càng có kiến thức nhiều. Khi các tín hữu càng yêu mến Đức Kitô, họ sẽ ra sức tìm hiểu để biết Ngài, và càng hiểu về Đức Kitô bao nhiêu, họ càng thấu hiểu những gì liên quan tới Ngài. Điều này sẽ giúp cho con người nhận ra những sai lầm giả trá của thế gian.
(2) Các tín hữu sống thánh thiện: Đức tin không bao giờ ở mức độ thuần tri thức, nhưng thúc đẩy con người tới chỗ hành động. Lại một lần nữa, thánh Phaolô chứng tỏ ơn cứu độ đến với con người không chỉ bởi niềm tin, nhưng còn tùy thuộc vào việc làm để chứng tỏ niềm tin của các tín hữu. Hai điều các tín hữu phải làm trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm là phải giữ mình sạch tội, và phải cố gắng để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện hơn. Chỉ như thế, các tín hữu mới có thể "đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa."
3/ Phúc Âm: Tất cả phải chuẩn bị đường cho Đức Kitô đến.
3.1/ Tình hình chính trị và tôn giáo trong thời Đức Kitô nhập thể: Phần đầu của trình thuật hôm nay, thánh Luca muốn nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của biến cố Đức Kitô Nhập Thể trong hậu trường của thế giới:
- Tình hình thế giới: Toàn vùng Cận Đông thời đó đều nằm dưới sự cai trị của đế quốc Rôma, năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberius.
- Tình hình nước Palestine: Khi Herode Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con của ông cai trị: Herode Antipas làm tiểu vương miền Galilee, người em là Philíp làm tiểu vương miền Ituraea và Trachonitis, Herode Archelaus điều khiển miền Judah, cùng với Pontius Pilate làm tổng trấn miền Judah.
- Tình hình tôn giáo: Hannah là thượng tế về hưu, nhưng có thế lực rất mạnh. Caiaphas, con rể của Hannah là thượng tế đương quyền; nhưng bị lệ thuộc rất nhiều vào Hannah.
Sống dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, trong thời kỳ đất nước bị chia ba, lại thêm bè phái trong hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo; con dân Israel mong đợi Đấng Thiên Sai tới để giải phóng họ khỏi những thế lực này.
3.2/ Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả: Trong thời kỳ khó khăn như vậy, Thiên Chúa vẫn nhớ tới con người, Ngài sai Gioan Tẩy Giả tới để mang Tin Mừng cho con người, như trong trình thuật hôm nay: "Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Zachariah là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Jordan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội."
Bổn phận của Gioan Tẩy Giả được sai tới là để chuẩn bị tâm hồn cho mọi người đón nhận Thiên Chúa. Sứ vụ của ông đã được loan báo trước trong sách ngôn sứ Isaiah: "Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng."
Không phải ai cũng có khả năng đón nhận món quà vô giá Thiên Chúa gởi đến là Người Con Một của Ngài. Để có thể nhận ra và đón nhận Ngài, con người phải chuẩn bị tâm hồn cùng với ơn thánh của Thiên Chúa. Điều Gioan khuyên dân chúng đây không phải là những chuẩn bị bề ngoài, mà là tâm hồn bên trong. Con người phải loại trừ những kiêu căng, ích kỷ, mọi thứ tham lam... trước khi họ có thể nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự cho con người. Để được vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trong cuộc đời, chúng ta cần phải biết kính sợ và tin tưởng hoàn toàn nơi Ngài.
- Để có thể đón nhận Thiên Chúa, con người cần biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng: tránh xa tội lỗi, luyện tập nhân đức để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện.
- Ơn cứu độ không chỉ dành cho một dân tộc hay một số người; nhưng mở rộng đến cho mọi dân tộc và mọi người. Chúng ta được mời gọi để cộng tác với Thiên Chúa trong việc mang ơn cứu độ đến cho mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần I MV2
Bài đọc: Isa 30:19-21, 23-26; Mt 9:35-38, 10:1, 6-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa lo lắng mọi sự cho Dân Ngài.
Trong cuộc đời, nếu muốn biết ai là người thực sự yêu thương mình, chúng ta cứ việc nhìn vào những công việc họ đã làm cho mình; vì yêu thương thực sự phải bày tỏ qua việc làm. Để có thể nhìn ra những công việc đó, chúng ta phải có thời giờ để nhìn lại quá khứ; đồng thời cũng cần nghe những người khác chia sẻ kinh nghiệm của họ qua sách vở hoặc lời giảng.
Các Bài đọc hôm nay giúp cho con người nhận ra tình thương Thiên Chúa qua những gì Ngài đã, đang, và sẽ làm cho con người. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah muốn nói cho con người biết: Chúa yêu thương con người ngay cả trong khi Ngài sửa dạy con người. Mục đích của việc sửa dạy không phải là để tiêu diệt, làm nhục, hay hành hạ con người; nhưng là để thanh luyện, để con người nhận ra sự sai trái lầm lạc của mình, và quay về với tình yêu thực sự của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không những thân hành dạy dỗ và chữa lành bệnh tật cho dân; nhưng còn chọn và huấn luyện các môn đệ, ban quyền hành cho các ngài, và sai đi tới những nơi mà Chúa không thể đi tới. Các môn đệ, và những người kế vị các ngài trong Giáo Hội, vẫn tiếp tục làm những gì Chúa làm: rao giảng sự thật, chữa lành, và đem mọi người về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa yêu thương sửa dạy và chuẩn bị tương lai cho dân.
1.1/ Thiên Chúa sửa dạy vì yêu thương: Con người khó chấp nhận lý do phải sửa dạy vì yêu thương; nhưng bậc làm cha mẹ hiểu rõ điều này, nên các ngài thường nói, "yêu cho roi cho vọt; ghét cho ngọt cho bùi." Một em bé với trí khôn non nớt không thể hiểu điều này, em cho cha mẹ sửa phạt là vì ghét bỏ em; nhưng khi lớn lên rồi và nhìn lại cuộc đời, em mới thấy những lợi ích của việc sửa phạt. Nếu cha mẹ cứ để em làm những gì em muốn, em sẽ không thành công như ngày hôm nay; và có khi còn bị lãnh nhận những hậu quả xấu nữa.
Tiên tri Isaiah nhìn thấy trước những tai họa mà Israel sắp phải chịu vì phản nghịch Thiên Chúa, và tiên tri cũng hiểu tâm trạng của dân sẽ phản ứng khi phải đương đầu với nghịch cảnh; nên ông an ủi và cắt nghĩa cho dân biết mục đích của việc sửa phạt và tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân: "Phải, hỡi dân Sion đang ở Jerusalem, ngươi sẽ không còn phải khóc nữa. Khi ngươi kêu cứu, Người sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi; nghe tiếng ngươi kêu là Người đáp lại. Chúa Thượng sẽ cho ngươi chút bánh đau thương và ít nước khốn cùng; nhưng Đấng dạy dỗ ngươi sẽ không lìa bỏ ngươi, và mắt ngươi sẽ thấy Đấng dạy dỗ ngươi."
Bản dịch của Nhóm PVCGK dịch không đúng câu Isa 30:20 khi dịch: "Chúa Thượng sẽ ban cho ngươi bánh ăn trong lúc ngặt nghèo, và nước uống trong cơn khốn quẫn. Đấng dạy dỗ ngươi sẽ không còn lánh mặt, và mắt ngươi sẽ thấy Đấng dạy dỗ ngươi." Theo Bản Bảy Mươi và Bản Do-Thái, chúng ta phải dịch như trên. Ngay cả theo nội dung, chúng ta phải chấp nhận lối dịch này: Chúa sẽ để cho quân thù cho dân ăn bánh đau thương và uống nước khốn quẫn. Điều này làm dân cảm thấy Chúa đã bỏ họ; nhưng tiên tri khích lệ họ: Thiên Chúa không lìa bỏ dân. Sau khi sửa phạt và dân biết ăn năn, Chúa sẽ tiếp tục chăm sóc cho dân.
1.2/ Mọi người sẽ được Chúa dạy dỗ: "Khi ngươi lưỡng lự không biết quẹo phải hay trái, tai ngươi sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: "Đây là đường, cứ đi theo đó!"" Tiên Tri Isaiah và Jeremiah của Cựu Ước đã nhìn thấy trước ngày "mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ" (x/c Isa 54:13, Jer 31:33). Thánh Gioan cũng lặp lại lời tiên tri ám chỉ Chúa Giêsu (Jn 6:45), và Thánh Thần (I Jn 2:27). Lời Chúa và ơn của Thánh Thần sẽ soi sáng cho con người biết đi đúng đường.
1.3/ Sau cơn mưa, trời lại sáng: Tòan cõi Israel chỉ còn lại đống tro tàn sau khi Assyria và Babylon xâm lấn, nhưng Thiên Chúa sẽ cho dân Do-Thái còn xót lại hồi hương và tái thiết lại xứ sở và phồn thịnh hơn xưa. Tiên Tri Isaiah quả quyết: "Chúa sẽ làm mưa trên hạt giống ngươi gieo trồng, cho lương thực, sản phẩm của đất đai, thật dồi dào béo bổ. Ngày đó, súc vật ngươi chăn nuôi sẽ ăn trên những đồng cỏ xanh bát ngát. Bò lừa cày ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối, cỏ người ta đã lấy xẻng và chĩa mà rải ra. Vào ngày Đức Chúa băng bó vết thương cho dân Người, và chữa lành những chỗ nó bị đánh, ánh sáng mặt trăng sẽ nên như ánh sáng mặt trời, và ánh sáng mặt trời sẽ tăng gấp bảy - ánh sáng của bảy ngày."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc mọi sự cho dân.
2.1/ Ngài chăm sóc dân chúng cả phần hồn lẫn phần xác: Tất cả những điều này đã được tường thuật bởi cả 4 Thánh Ký:
(1) Ngài dạy dỗ dân chúng: "Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời."
(2) Ngài chữa lành mọi vết thương hồn xác: "Chúa Giêsu chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền."
(3) Ngài cho dân ăn: bằng làm phép lạ Bánh hóa nhiều.
2.2/ Ngài lo cho tương lai của dân: Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Vì thế, Chúa Giêsu chọn và huấn luyện các môn đệ để tiếp tục công việc của Ngài vì: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít." Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc của Đức Kitô bằng việc mời gọi, chọn lựa, huấn luyện, và sai các thợ gặt đi để hướng dẫn các thế hệ tương lai.
Sau khi đã chọn và huấn luyện các môn đệ, Đức Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền, và sai các ông đi với lệnh truyền: "Hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy." Lý do tại sao Chúa Giêsu sai Nhóm Mười Hai đến với các chiên lạc nhà Israel trước vì họ là Dân Riêng. Một lý do khác nữa là muốn rao giảng thành công phải bắt đầu từ nhóm nhỏ; rồi từ từ lan rộng ra. Sau khi Chúa về trời, các môn đệ tản mác khắp nơi và rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Đức tin là quà tặng vô giá được cho không bởi Thiên Chúa và sự rao giảng của những nhà truyền giáo; vì thế, người đã lãnh nhận đức tin cũng phải cho không thời gian, sức lực, tài năng cho việc rao truyền Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bằng việc quan sát các hiện tượng trong trời đất, đọc Kinh Thánh và các tài liệu lịch sử, và nhìn lại quá khứ mỗi người; chúng ta nhận thấy rõ ràng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa.
- Vì yêu thương nên Thiên Chúa phải sửa phạt con người. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt và để con người tự do làm theo những gì mình muốn, con người sẽ xa Thiên Chúa và không thể đạt tới đích điểm của cuộc đời.
- Hình phạt Thiên Chúa dùng không phải để tiêu diệt, nhưng để thanh tẩy con người. Hình phạt giúp con người nhận ra những sai trái lầm lỗi của mình, để biết quay trở về với tình yêu đích thực của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 04/12 Phải kiên nhẫn trước khi đạt được điều hy vọng
- 03/12 Cuộc đời chúng ta phải được xây trên tảng đá vững chắc là Thiên Chúa
- 02/12 Chính Chúa sẽ chăm sóc dân Người
- 01/12 Thiên Chúa làm những chuyện không thể đối với con người
- 30/11 Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng
- 29/11 Chờ đợi và chuẩn bị cho Ngày Đức Kitô đến
- 28/11 Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn
- 27/11 Hãy tìm thánh ý Thiên Chúa qua những dấu hiệu xảy ra trong cuộc đời
- 26/11 Cám ơn Thiên Chúa
- 25/11 Mọi người phải tùng phục uy quyền của Thiên Chúa