Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Cuộc Trở Lại của Thánh Phaolô
Bài đọc: Acts 22:3-16; Mc 16:15-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự trở lại chứng minh sức mạnh của ơn thánh.
Có rất nhiều cuộc trở lại trong lịch sử được tường thuật như của Phêrô, Matthew, Mary Magdala, Augustine... , cũng như không được tường thuật như của đa số con người; nhưng chỉ có một cuộc trở lại Giáo Hội mừng kính là cuộc trở lại của thánh Phaolô. Cuộc trở lại của Phaolô được tường thuật ít nhất là 3 lần trong Sách CVTĐ (9:1-19; 22:3-16; 26:12-18), và rất nhiều lần được ám chỉ tới cách vắn gọn bởi chính Phaolô trong các Thư của ngài.
Bài đọc I có thể coi là lời tự thú đầy đủ nhất của Phaolô. Trong trình thuật này, một người có thể nhìn thấy động cơ chính của cuộc trở lại là do ơn thánh của Thiên Chúa. Ngài thay đổi hoàn toàn lề lối suy nghĩ và cách cư xử của ông bằng cách để ông ngã ngựa và bị mù, cho ông nghe thấy tiếng của Đức Kitô để chứng tỏ Ngài vẫn sống, và truyền cho ông đến gặp ông Hananiah để được chữa lành và nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, tuy không được liệt vào Nhóm Mười Hai, nhưng Phaolô cũng được coi như một Tông-đồ, vì ông đã nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được chính Ngài trao cho sứ vụ làm Tông-đồ Dân Ngoại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự trở lại của Phaolô chứng minh sức mạnh của ơn thánh.
1.1/ Cuộc đời của Phaolô trước khi trở lại: Phaolô là người Do-thái lưu vong, sinh ra và lớn lên tại Tarsus, miền Cilicia, vùng Asia Minor (Turkey bây giờ). Ông được giáo dục bởi thầy Gamaliel để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt; và nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như bao người Do-thái khác. Ông Gamaliel là một Pharisee có thế giá trong dân, tiến sĩ về Luật, một thành viên của Thượng Hội Đồng, đã từng khuyên những người trong Thượng Hội Đồng phải cẩn thận khi xét xử Phêrô và các Tông-đồ (x/c Acts 5:34-40).
Phaolô đã bắt bớ Đạo của Đức Kitô, không ngần ngại giết ai theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, như cả vị thượng tế lẫn toàn thể Thượng Hội Đồng có thể làm chứng cho ông. Ông còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Damascus, Syria, để ông đi bắt trói những người ở đó, giải về Jerusalem trừng trị.
Một biến cố quan trọng đã xảy ra cho ông trên đường đi Damascus để bắt bớ các Kitô hữu. Biến cố này đã thay đổi toàn bộ cuộc đời của ông. Theo như lời ông tường thuật: "Đang khi tôi đi đường và đến gần Damascus, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: "Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ. Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa, con phải làm gì?" Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào Damascus, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm."
1.2/ Cuộc đời của Phaolô sau khi trở lại: Một chuỗi những biến cố xảy ra sau khi bị ngã xuống trên đường đi Damascus.
(1) Phaolô bị mù: Vì ánh sáng chói loà kia làm cho ông không còn trông thấy nữa, nên ông đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Damascus. Ở đó, Đức Kitô đã chuẩn bị cho ông Hananiah, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở Đa-mát chứng nhận là tốt.
(2) Phaolô được nhìn thấy: Khi gặp Saul, ông Hananiah đến, đứng bên ông và nói: "Anh Saul, anh thấy lại đi!" Ngay lúc đó, ông thấy lại được.
(3) Phaolô được trao sứ vụ: Ông Hananiah nói: "Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Người, được thấy Đấng Công Chính, và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe."
(4) Phaolô được chịu bí-tích Rửa Tội: Hananiah truyền cho Saul: "Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người."
1.3/ Ý nghĩa của cuộc trở lại của Phaolô: Có rất nhiều ý nghĩa mà Phaolô đã thu nhận được từ biến cố này, và là nền tảng cho những giáo huấn của ông sau này:
(1) Đức Kitô đã chết, nhưng Ngài đã sống lại, và vẫn đang sống để phù trợ và bảo vệ các tín hữu. Tất cả mọi người phải tin nơi Ngài và giữ những gì Ngài dạy để được cứu độ. Lề Luật không có sức mạnh để giải thoát con người khỏi tội và ban ơn cứu độ.
(2) Tất cả là ơn thánh, con người không làm gì xứng đáng để được hưởng ơn thánh. Thiên Chúa ban ơn thánh, thúc đẩy sự trở lại, và cứu độ con người khi họ còn là tội nhân đáng phải chết. Trường hợp của ông là một điển hình: lẽ ra ông xứng đáng phải chết hay bị mù suốt đời vì đang trên đường đi tiêu diệt Hội Thánh của Chúa; nhưng Ngài đã cứu sống và cho ông được thấy.
(3) Con người phải tìm ra và làm theo thánh ý Chúa để được sống, làm ngược lại chỉ như "giơ chân đạp mũi nhọn." Sứ vụ rao giảng Tin Mừng là bổn phận phải làm vì được Đức Kitô sai đi. Người Kitô hữu phải là nhân chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng và sống Tin Mừng.
2/ Phúc Âm: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo."
2.1/ Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu nói với các Tông-đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa.
2.2/ Ban uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao giảng Tin Mừng: Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ:
(1) Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts 16:18).
(2) Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói các thứ tiếng của thổ dân trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-11).
(3) Tránh được nguy hiểm: Phaolô đã vượt qua rất nhiều nguy hiểm trong 3 chuyến truyền giáo như: ra khỏi tù do thiên thần hướng dẫn, bị ném đá tưởng chết mà vẫn chỗi dậy để tiếp tục rao giảng, vượt qua bao nhiêu những ghen tị và xúi giục của những đối phương Do-thái.
(4) Chữa lành: Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn đệ.
Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhận ra bàn tay của Ngài luôn thương yêu ấp ủ, ân cần chỉ dẫn, và ban mọi ơn cần thiết để chúng ta có thể sống như những môn đệ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật III Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Neh 8:2-4a, 5-6, 8-10; I Cor 12:12-30; Lk 1:1-4, 4:14-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sách Thánh giúp con người giải quyết mọi vấn nạn của cuộc đời.
Thiên Chúa không để con người lầm lẫn trong tối tăm của thế giới, Ngài ban cho con người một tấm gương soi là Kinh Thánh, Lời của Người. Con người có thể nhìn vào đó để nhận ra lỗi lầm quá khứ, để phiên dịch những gì đang xảy ra trong hiện tại, và để biết chuẩn bị cho tương lai đang tới. Điều cần là con người phải bỏ thời giờ để học hỏi và hiểu biết Kinh Thánh; nếu không, con người sẽ lầm lẫn trong bóng tối của cuộc đời, và không biết cách giải quyết những vấn nạn của cuộc sống.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những ví dụ cụ thể của việc áp dụng Kinh Thánh trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, nhiều người Do-thái không hiểu lý do Thiên Chúa để Đền Thờ bị phá hủy, quốc gia bị xâm lăng, và dân chúng phải chịu lưu đày cực khổ khắp nơi. Trong ngày khánh thành Đền Thờ mới, tư tế Ezra cho đọc Sách Luật và các thầy Lêvi thay phiên nhau cắt nghĩa cho dân chúng. Họ hiểu ra lý do của những tai ương là tội của toàn dân đã khinh thường Lời Chúa và đã không thi hành Lề Luật. Họ khóc vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa hằng yêu thương và săn sóc họ.
Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra một ví dụ về thân thể mà con người có thể áp dụng trong cuộc sống để bảo trì sự hiệp nhất, thực thi đức bác ái, và cùng nhau xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô đến mức thập toàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaiah để nói cho khán giả biết Ngài chính là sự ứng nghiệm của những lời ấy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật.
1.1/ Sách Thánh giúp dân chúng hiểu biết những gì đang xảy ra trong cuộc đời: Hoàn cảnh lịch sử của trình thuật hôm nay là ngày khánh thành Đền Thờ thứ hai. Sở dĩ có ngày khánh thành Đền Thờ thứ hai là Thiên Chúa đã đổi lòng vua Ba-tư là Cyrus và Darius, để hai vua này ban chiếu chỉ phóng thích cho dân Israel được hồi hương và giúp đỡ tài chánh để xây dựng lại Đền Thờ. Tư tế Ezra "đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật."
Sự kiện đọc Sách Luật và giải thích cho dân chúng nghe hôm nay là một hiện tượng mới. Trước năm 538 BC, người Do-thái chỉ biết nghe theo lời những người lãnh đạo và các ngôn sứ của Thiên Chúa gởi tới, cầu nguyện và dâng lễ vật đền tội trong Đền Thờ. Sau biến cố này, người Do-thái thiết lập các hội đường để thường xuyên cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh trong ngày Sabbath. Việc nghe Kinh Thánh giúp dân chúng nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến tình thương của Thiên Chúa; đó là lý do dân chúng khóc vì nhận ra họ đã không trung thành với Thiên Chúa.
1.2/ Khinh thường Kinh Thánh là nguyên do của mọi đau khổ trong cuộc đời: Trong trình thuật hôm nay, dân chúng phải nghe giảng giải Kinh Thánh từ sáng sớm tới trưa, chứ không phải chỉ 15 phút trong thánh lễ mỗi tuần như nhiều người quan niệm. "Ông Ezra và các thầy Lêvi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc."
Điều mọi người đều nhận ra là Kinh Thánh không dễ hiểu, và có rất nhiều những giải thích sai lạc. Để hiểu, con người cần có thời giờ chuẩn bị tâm hồn cho tâm hồn lắng đọng và xin Thánh Thần soi sáng trước khi nghe Lời Chúa. Ngoài ra, dân chúng cần có những người chuyên môn am tường Kinh Thánh như các thầy Levi, để cắt nghĩa cho dân chúng về ý nghĩa và cách áp dụng Kinh Thánh trong cuộc sống.
Kinh Thánh không phải là thứ sách đọc qua rồi bỏ; nhưng là tấm gương soi để con người thường xuyên dựa vào đó để xét mình xem coi mình đã thực hành Lời Chúa được đến đâu. Kinh Thánh giúp con người nhận ra những lỗi lầm họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến tha nhân.
Kinh Thánh là nguồn khôn ngoan giúp con người dựa vào đó để tìm ra những giải pháp cụ thể cho mọi vấn nạn của cuộc đời. Thực hành những điều Thiên Chúa dạy dỗ sẽ giúp con người tránh được tội lỗi và những đau khổ sẽ xảy đến trong tương lai. Ngoài ra, Kinh Thánh giúp con người nhận ra tình thương Thiên Chúa và trung thành với Ngài trong suốt cuộc đời.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn.
Trình thuật hôm nay muốn nhấn mạnh đến mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với tha nhân nằm trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. Hiểu biết nền thần học thân thể của Phaolô sẽ giúp chúng ta loại bỏ những chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, kỳ thị, và hưởng thụ; đồng thời sẽ giúp chúng ta biết xây dựng gia đình, cộng đoàn, xã hội và Giáo Hội được bình an, tăng trưởng, và hạnh phúc.
2.1/ Phận vụ của các chi thể trong một thân thể: Thánh Phaolô liệt kê những kiến thức căn bản về thân thể:
- thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều chi thể, mà các chi thể của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể;
- các chi thể đều thuộc về thân thể cho dù chúng muốn hay không. Ví dụ, giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: "Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể," thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể;
- mỗi chi thể đều cần thiết cho thân thể hoạt động theo ý định của Thiên Chúa: "Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Giả như tất cả chỉ là một chi thể, thì làm sao mà thành thân thể được?"
- những chi thể xem ra yếu đuối nhất lại được coi là cần thiết nhất; và những chi thể coi là tầm thường nhất, lại được tôn trọng hơn cả;
- tất cả các chi thể đều góp phần trong việc xây dựng thân thể: nếu một chi thể đau, thì toàn thân đều đau.
2.2/ Mỗi người tín hữu là chi thể của một Nhiệm Thể là Hội Thánh và Đức Kitô là Đầu: Thánh Phaolô áp dụng sự phân tích về thân thể vào Nhiệm Thể của Đức Kitô. Ngài dùng câu so sánh: "Đức Kitô cũng vậy."
- tất cả chúng ta, dầu Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
- mỗi người được Thánh Thần ban cho mỗi đặc sủng khác nhau: người được ơn làm phép lạ, người được đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ.
- đặc sủng khác nhau đưa đến những ơn gọi khác nhau: Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy...
- đừng bắt người khác giống mình, vì điều đó đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa và không mang lại kết quả tốt đẹp: "Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?"
3/ Phúc Âm: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
3.1/ Mục đích của thánh sử Lucas khi viết Tin Mừng: Tin Mừng được viết cho một khán giả đặc biệt và mục đích được Lucas tuyên bố rõ ràng: "Thưa ngài Theophile đáng kính ... mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc."
Theo truyền thống Do-thái, lời chứng của hai, ba, hay nhiều người, là lời chứng vững chắc. Lucas nhắc nhở lời chứng của thế hệ thứ hai, những người đã nghe thế hệ thứ nhất thuật lại: "Có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta." Và Lucas thêm vào lời chứng của mình: "Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài." Điều cần lưu ý ở đây về cách cấu trúc văn chương của đoạn văn: cả đoạn đều là một câu; việc chia thành 4 câu là công việc của các học giả Kinh Thánh sau này.
3.2/ Chúa Giêsu đọc và giải thích Kinh Thánh.
(1) Chúa Giêsu nhận ra tầm quan trọng của việc đọc và dạy dỗ Kinh Thánh: Trình thuật kể: "được Thánh Thần thúc đẩy Ngài đi khắp miền Galilee để giảng dạy dân chúng trong các hội đường." Như đã nói trên, kể từ thời Ezra trở đi, người Do-thái có thói quen thành lập các hội đường tại địa phương để cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh mỗi ngày Sabbath. Trong trình thuật hôm nay, "Đức Giêsu trở về Nazareth, nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh."
(2) Ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đây là lời của ngôn sứ Isaiah, 61:1-2a, về sứ vụ của ông nhận được từ Thiên Chúa, để loan tin cho dân Do-thái nơi lưu đày biết họ sắp được phóng thích để hồi hương.
Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Đoạn văn của Isaiah không chỉ đúng cho Isaiah và người đương thời của ông, mà còn đúng cho Chúa Giêsu và khán giả thời của Ngài. Thánh Thần cũng xức dầu cho Đức Kitô trong biến cố Ngài chịu phép rửa tại sông Jordan. Ngài cũng được sai đi để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, không chỉ cho dân Do-thái, mà còn cho tất cả mọi người. Ngài giải thoát con người không phải khỏi ách nô lệ của ngoại bang, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi và các quyền lực của ma quỉ.
Lời Kinh Thánh vẫn tiếp tục ứng nghiệm mỗi ngày trong cuộc đời cho đến tận thế. Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cũng nhận lãnh sứ vụ rao truyền Tin Mừng để giải thoát con người khỏi ảnh hưởng của những gian trá và tội lỗi. Khi chúng ta thực hành những gì Kinh Thánh dạy, chúng ta tìm thấy niềm vui và được hưởng những hiệu quả tốt đẹp. Ngược lại, khi chúng ta không làm những gì Kinh Thánh dạy, chúng ta không có sự bình an và phải lãnh nhận mọi đau khổ do tội lỗi mang lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lời Chúa là ánh sáng soi đường, là tấm gương soi chiếu cuộc đời, là nguồn khôn ngoan giúp chúng ta nhận ra sự thật và giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
- Chúng ta cần biết tận dụng thời giờ để học hỏi và cố gắng thực thi Lời Chúa để tránh được những đau khổ không cần thiết trong cuộc đời. Nếu không chịu học hỏi, chúng ta sẽ lầm lũi trong đêm tối và phải lãnh nhận mọi hậu quả không tốt đẹp.
- Lời Chúa giúp chúng ta không những nhận ra những gian trá của ba thù, mà còn giúp chúng ta biết cách thức xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô, mang bình an và hạnh phúc đến cho cá nhân và cộng đoàn.
- Lời Chúa vẫn tiếp tục ứng nghiệm hằng ngày trong cuộc đời mỗi người, gia đình, và nhân loại.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy, Tuần II TN2
Bài đọc: Heb 9:2-3, 11-14; II Sam 1:1-4, 11-12, 19, 23-27; Mk 3:20-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa và của tha nhân.
Khi yêu, con người làm những việc bị người khác coi là điên khùng; chẳng hạn, đứng chờ người yêu dưới mưa, hay sẵn sàng chết vì người mình yêu. Nhưng đối với những người đang yêu, họ được thúc đẩy phải biểu lộ để chứng tỏ tình yêu. Chính Chúa Giêsu đã từng rửa chân cho các tông-đồ và căn dặn các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Ngài cũng đã nói với các ông: "Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình của người chết vì yêu." Ngài không chỉ nói, nhưng đã vác Thập Giá lên đồi Golgotha để chết cho con người, để chứng tỏ tình yêu của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc phải nhận ra những biểu lộ tình yêu qua những hy sinh của Chúa Giêsu và của tha nhân. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-thái so sánh máu của Chúa Giêsu đổ ra để xóa tội cho con người với máu của chiên bò rảy trên con người của Cựu Ước. Nếu máu chiên bò có thể cất đi tội cho con người, huống hồ là máu của Con Thiên Chúa! Trong Bài Đọc I, năm chẵn, David và toàn dân khóc thương vua Saul, con vua là Jonathan, và những người đã tử trận. Tất cả nhớ lại những gì hai cha con và binh lính đã hy sinh xương máu để bảo vệ dân chúng trong suốt cuộc đời. Trong Phúc Âm, vì quá yêu thương dân chúng, Chúa Giêsu và các môn đệ làm việc không ngơi nghỉ đến nỗi không có thời giờ để ăn uống. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Máu của Đức Kitô đổ ra có sức thanh tẩy hiệu quả hơn máu của chiên bò.
1.1/ Lều Hội Ngộ và Lều của Đức Kitô: Sau khi đã so sánh phẩm trật thượng tế và lễ vật hy sinh, tác giả Thư Do-thái muốn so sánh nơi chốn mà thượng tế dâng lễ vật. Lều Hội Ngộ, nơi mà các thượng tế dâng lễ hy sinh trong Ngày Đền Tội mỗi năm, được dựng nên bởi con người theo kiểu mẫu Thiên Chúa mặc khải cho Moses. Lều này chỉ là hình bóng của một thực tại, một cái Lều lớn hơn và hoàn hảo hơn; không do bàn tay con người xây dựng và không thuộc về thế giới này, nhưng do chính Thiên Chúa tạo dựng.
(1) Lều Hội Ngộ: Trong Cựu-Ước, Lều này được cấu trúc theo mô hình mà Thiên Chúa đã mặc khải cho Moses. Tác giả mô tả vắn tắt như sau: "Lều này được gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến. Đằng sau bức màn thứ hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh." Các tư tế có thể vào Nơi Thánh để dâng lễ vật hàng tuần; nhưng chỉ có thượng tế mới được vào Nơi Cực Thánh, mỗi năm một lần, để dâng lễ vật cho mình và cho dân.
(2) Lều lớn và hoàn hảo hơn: "Nhưng Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này." Có học-giả cho rằng, Lều này chính là thân xác Chúa Giêsu, nhưng thân xác Chúa Giêsu được cưu mang và thành hình bởi Đức Mẹ, một con người. Lối giải thích hợp lý hơn cho Lều này chính là con người Chúa Giêsu, kết hợp bởi cả thiên tính và nhân tính, như Thánh Ambrosio nói: "Bàn thờ tượng trưng thân thể Chúa Kitô, và thân thể của Chúa Kitô ở trên bàn thờ" (GLCG trưng Ambrosio, Sacer. 4, 7). Hiểu như thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Lễ Hy Sinh, vừa là Bàn Thờ.
1.2/ Máu của Đức Kitô và máu của chiên bò: Tác giả đã so sánh lễ hy sinh của Cựu Ước với Lễ Hy Sinh của Thượng Tế Giêsu; giờ đây, tác giả so sánh về hiệu quả của máu đổ ra của hai lễ hy sinh này. Trong Cựu Ước, máu đổ ra là máu của chiên, dê, bò; trong Tân Ước, máu đổ ra là chính máu của Thượng Tế Giêsu, Người Con của Thiên Chúa. Máu của Đức Kitô đem lại cho con người những hiệu quả sau:
(1) Sự vững bền: Máu súc vật phải đổ mỗi lần con người phạm tội. Máu Đức Kitô đổ một lần là đủ: "Người chỉ đổ máu một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta."
(2) Hiệu quả: Theo truyền thống Do-thái, máu súc vật chỉ có thể lấy đi những tội phạm vì vô tình; những tội cố ý phạm, không máu súc vật nào có thể lấy đi được. Máu của Đức Kitô vì là máu của tự nguyện, của yêu thương, của Con Thiên Chúa, có thể tha thứ tất cả các tội: "Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống."
2/ Bài đọc I (năm chẵn): "Hỡi Israel, trên các đồi của ngươi, những người con ưu tú đã bỏ mình."
2.1/ Phải biết tri ân những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ quốc gia:
(1) Nhà lãnh đạo biết đặt lợi ích quốc gia lên trên những xung đột cá nhân: Thông thường, nhiều người sẽ vui mừng khi thấy đối phương của mình không còn nữa, không còn phải lo đề phòng tai hại, và nhất là ngày mình được làm vua sẽ thành tựu. Điều này không đúng trong trường hợp của David, vì ông tôn trọng vua Saul, người đã được Đức Chúa xức dầu phong vương; và yêu mến Jonathan, con vua, vì tình bằng hữu và ơn cứu tử đã dành cho David. Hơn nữa, David còn đau buồn vì tình đồng bào và nghĩa anh em của những người dân trong cùng một nước; vì thế ông đau đớn khi nghe tường thuật hung tin bởi một binh lính thoát chết trở về: "Dân đã bỏ chiến trường mà chạy trốn; nhiều người trong dân tử trận, cả vua Saul và con vua là ông Jonathan cũng đã chết."
(2) Nhà lãnh đạo phải có lòng biết ơn đối với những người đi trước: Tiền đồ của dân tộc được xây dựng trên công lao và hy sinh xương máu của những thế hệ đi trước; vì thế, bổn phận của những người đi sau là phải biết ơn, cầu nguyện, và cố gắng bảo vệ gia sản của tiền nhân để lại. Để tỏ lòng thương tiếc và biết ơn, David nắm lấy áo mình mà xé ra, và tất cả những người ở với ông cũng làm như vậy. "Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Saul và ông Jonathan, con vua, thương tiếc dân Đức Chúa và nhà Israel, vì những người này đã ngã gục dưới lưỡi gươm." Tất cả những việc làm như: xé áo, bỏ đất lên đầu, khóc lóc, và ăn chay là theo truyền thống khóc thương thân nhân của con cái Israel.
2.2/ David khóc thương Saul và Jonathan:
(1) Vua Saul và Jonathan đã hy sinh xương máu để lo lắng và bảo vệ dân: Con người rất dễ quên công ơn của các tiền nhân; nhất là những người mà họ có vấn đề với. Điều này đã không xảy ra cho David, ông nhận ra những công ơn mà cha con của vua Saul đã làm cho quốc gia. Sự hy sinh của họ là lý do đất nước được hưng thịnh và bảo vệ. David khuyên các phụ nữ hãy khóc thương vua Saul và con ông vì những gì hai cha con đã mang lại cho họ: "Thiếu nữ Israel hỡi, hãy khóc Saul, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng. Than ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh! Trên các đồi của ngươi, Jonathan đã bỏ mình!"
(2) David trân quí tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan: Tình bằng hữu giữa David và Jonathan bắt đầu bằng việc tôn trọng sự thật. Jonathan nhận thấy cha mình đã không cư xử đúng đắn với tình yêu của David dành cho vua, lý do chỉ vì ghen tị những thành công mà David đã gặt hái được qua việc giết tên khổng lồ Philistine. Jonathan quyết định ngăn cản vua cha về việc đối xử bất công với David, bằng cách cho David biết tất cả ý đồ của nhà vua (I Sam 19-20). Khi nghe tin Jonathan bỏ mình trên chiến trường, David trân quí tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan dành cho mình nên khóc thương ông như sau: "Jonathan, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ. Than ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành!"
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu và các môn đệ quên mình để lo cho dân chúng.
3.1/ Lòng yêu thương của Chúa Giêsu dành cho con người: "Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được." Những việc này xảy ra là vì Chúa Giêsu và các môn đệ quá thương dân chúng. Nếu Chúa Giêsu không muốn những điều này xảy ra, Ngài chỉ cần đình chỉ việc chữa lành hay lánh đi một nơi hẻo lánh, là giải quyết được vấn đề. Chỉ có tình yêu cho dân chúng mới thúc đẩy Chúa Giêsu và các môn đệ lâm vào hoàn cảnh này; tuy vậy, các ngài vẫn vui vẻ phục vụ.
3.2/ Thân nhân không thể hiểu nổi những gì Chúa Giêsu làm: "Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí." Theo thói thường, người không yêu không thể hiểu nổi lý lẽ của tình yêu. Các thân nhân của Chúa Giêsu không thể nào hiểu nổi tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho con người. Theo họ, cuộc sống như Chúa Giêsu đang sống là một điên khùng và thất bại, vì Ngài phải:
(1) Lang thang khắp nơi, nay đây mai đó, không có nghề nghiệp gì nhất định; trong khi theo họ, con người phải có mái nhà an toàn và nghề nghiệp vững chắc để sinh sống.
(2) Kết bạn với những người nghèo khổ và thất học; trong khi theo họ, phải có kiến thức và địa vị cao trọng trong xã hội.
(3) Dám đương đầu với quyền lực của giới cai trị tôn giáo như Biệt-phái, Kinh-sư, Cao-niên. Theo họ, làm như thế là tự mang án tử cho mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhìn vào những gì Chúa Giêsu đã, đang, và sẽ làm cho con người, chúng ta cảm nhận được tình yêu thâm sâu của Ngài dành cho chúng ta. "Không ai dám hy sinh tính mạng cho người khác; họa chăng có người dám chết vì người công chính. Đức Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân."
- Chúng ta cần loại bỏ tính ích kỷ, kẻ thù của tình yêu và là mối đe dọa cho lợi ích chung; để biết nhận ra và tri ân những hy sinh cao quí của mọi người đã làm ơn cho chúng ta trong đời.
- Vì Đức Kitô đã yêu thương và hy sinh tất cả cho chúng ta, chúng ta không được ích kỷ để chỉ biết sống cho mình; nhưng phải yêu thương và hy sinh cho người khác như Đức Kitô đã dạy chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 8:6-13; I Sam 24:3-21; Mk 3:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khi cái hoàn hảo tới, cái bất toàn phải qua đi.
Con người thường có khuynh hướng tiếc nuối những huy hoàng của quá khứ và từ chối không tiếp nhận những thay đổi trong cuộc sống hiện tại. Họ quên đi nhân loại càng ngày càng phải phát triển để tiến bộ hơn, trong đời sống xã hội cũng như tôn giáo. Tục ngữ Việt-nam có rất nhiều câu khuyên mọi người phải bỏ thái độ thủ cựu, nắm giữ quyền hành: "Tre già, măng mọc" hay "Con hơn cha, nhà có phúc." Trong Kế Hoạch Cứu Độ cũng thế, Thiên Chúa không dựng nên con người toàn hảo hay mặc khải mọi sự cho con người ngay từ đầu; nhưng muốn con người từ từ tiến đến chỗ hoàn hảo và càng ngày càng thấu hiểu về Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài. Vì thế, con người cần có sự khôn ngoan và tâm hồn cởi mở để đón nhận những thay đổi trong cuộc sống; chứ không ích kỷ nắm giữ quá khứ.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự tiệm tiến của những gì Thiên Chúa đã làm cho con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái so sánh hai giao ước cũ và mới mà Thiên Chúa thiết lập với dân: vì giao ước cũ bất toàn nên mới có giao ước mới; giao ước mới hoàn hảo hơn giao ước cũ vì đặt căn bản trên những lời hứa tốt đẹp hơn của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul phải công nhận David là người công chính và xứng đáng làm vua của Israel hơn ông; vì trong khi Vua luôn tìm cơ hội để thủ tiêu David, còn David luôn tìm dịp để giúp đỡ và tha chết cho Vua. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được huấn luyện, trước khi Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng và tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn.
1.1/ Quan niệm về giao ước: Thông thường, giao ước là một hợp đồng giữa hai bên, đồng ý thỏa thuận về một số những điều mà hai bên đồng ý giữ. Nếu một bên không chịu giữ hợp đồng, giao ước ấy sẽ trở nên vô hiệu. Từ ngữ Hy-Lạp thường dùng để chỉ giao ước là suntheke. Điều đáng chú ý trong đọan văn này, tác giả không dùng suntheke, mà dùng diatheke; từ ngữ này được dùng để chỉ một lời hứa mà một người ở cấp bậc cao hơn hứa với một người dưới mình. Trong giao ước của Thiên Chúa với con người, Thiên Chúa là nguồn gốc và là nguyên nhân của những lời hứa.
1.2/ Giao ước mới toàn hảo hơn giao ước cũ:
(1) Giao ước cũ: là giao ước Thiên Chúa thiết lập với Israel qua trung gian của Moses trên núi Sinai. Theo giao ước này, Thiên Chúa hứa sẽ thương yêu và săn sóc Israel nếu họ tuân giữ cẩn thận các giới răn của Ngài (Deut 4:23).
(2) Giao ước mới: là giao ước Thiên Chúa thiết lập với Giáo Hội qua trung gian của Đức Kitô. Tác giả thư Do-thái nêu bật những đặc điểm của giao ước mới:
- Hoàn hảo hơn giao ước cũ: Tác giả dẫn chứng lời đã được tiên báo bởi tiên-tri Jeremiah 31:31-34: "Quả thật, Thiên Chúa khiển trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Israel và nhà Judah. Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của Ta, nên Ta cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán." Tác giả dùng tĩnh từ kainos để chỉ mới cả về thời gian lẫn phẩm giá: "Nhưng hiện nay, Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn."
- Lý do hiện hữu: vì sự bất toàn của giao ước cũ. "Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế." Tác giả lý luận: "Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi."
- Sự khác biệt nền tảng giữa 2 giao ước: Thập Giới của giao ước cũ được khắc ghi trong 2 bia đá; trong khi Lề Luật của giao ước mới sẽ được Thiên Chúa: "ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta."
Con người giữ Lề Luật không chỉ vì bắt buộc, nhưng vì yêu thương Đấng dạy dỗ mình.
- Mọi người đều biết Thiên Chúa, chứ không còn chỉ giới hạn trong vòng dân Do Thái mà thôi: "Không ai còn phải dạy đồng bào mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta."
- Hoàn toàn tha thứ mọi tội lỗi cho dân: "Ta sẽ dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa."
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Saul thú nhận với David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con.''
2.1/ Phản ứng của David: Ông biết Saul muốn tìm dịp hại ông vì ghen tị, không muốn ông làm Vua Israel. Dịp may để hạ sát vua Saul đã tới tại En-Gedi, cạnh Biển Chết, khi Saul vào trong một hang đá để làm việc cần cá nhân. Lúc đó David và người của ông đang ngồi ở cuối hang. Người của ông David nói với ông: "Đây là ngày Đức Chúa phán với ông: "Này ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế nào tùy ý.""
David có thể triệt hạ Saul lúc đó để khỏi phải lo chạy trốn mãi; nhưng ông sợ động tới người Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong. Ông cũng ngăn cấm người của ông không được đụng tới vua Saul; ông chỉ nhẹ nhàng đi tới chỗ Saul treo áo choàng và cắt vạt áo của vua Saul. Hành động cắt vạt áo choàng có lẽ là một biểu tượng để nhắc lại chuyện vua Saul đã vô ý giật rách áo choàng của ngôn-sứ Samuel trong trình thuật 15:27-28.
Sau đó, David ra khỏi hang và kêu lớn tiếng đằng sau vua Saul rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng con!" rồi sấp mặt sát đất mà lạy. David nói với vua Saul: "Tại sao cha lại nghe lời người ta nói rằng David đang tìm cách hại cha? Hôm nay đây, chính mắt cha thấy Đức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay, trong hang; người ta nói đến chuyện giết cha, nhưng con đã thương hại cha và nói: "Tôi sẽ không tra tay hại chúa thượng tôi, vì người là đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong. Thưa cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng của cha trong tay con. Vì con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì xin cha biết và thấy cho rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã không phạm tội hại cha, trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con.'' David cầu xin Thiên Chúa phân xử mối liên hệ giữa ông và Saul: trong khi David luôn đối xử tốt lành với Saul, thì Saul lại luôn tìm cách hãm hại David vì ghen tị. David tin Đức Chúa sẽ giải quyết xung đột giữa hai người; chứ ông không dám ra tay hại người Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.
2.2/ Phản ứng của Saul: Khi ông David nói những lời đó xong, thì vua Saul Saul oà lên khóc. Vua nói với David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con. Hôm nay con đã tỏ ra là con làm điều tốt cho cha, vì Đức Chúa đã nộp cha vào tay con mà con đã không giết cha. Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi yên lành không?" Công chính là tiếp tục sống đúng mối liên hệ của mình, cho dù tha nhân đã không sống đúng mối liên hệ đó.
Vua Saul cũng nhận ra David là người xứng đáng lãnh nhận vương quyền để cai trị Israel, ông cầu chúc cho David: "Xin Đức Chúa thưởng con vì điều tốt con làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết rằng chắc chắn con sẽ làm vua và vương quyền Israel sẽ vững mãi trong tay con.''
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu thành lập Nhóm Mười Hai.
3.1/ Sứ vụ của Nhóm Mười Hai: "Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ." Tại sao phải lập Nhóm Mười Hai?
(1) Để tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Ngài trong tương lai, vì thế Ngài cần những người tiếp tục công việc của Ngài. Người lãnh đạo giỏi là người biết nhìn đến tương lai, và biết huấn luyện những người có khả năng để thay thế mình sau này; vì nếu không huấn luyện người để thay thế, tất cả những cố gắng của mình, cho dù hay đến đâu chăng nữa, cũng sẽ rơi vào quên lãng.
(2) Để Tin Mừng đựơc loan báo sâu rộng và nhiều người được chữa lành hơn: Phương tiện truyền thông duy nhất thời đó là loan báo bằng miệng, và phương tiện di chuyển thịnh hành nhất là đi bộ. Chúa Giêsu băn khoăn làm sao để Tin Mừng có thể đạt tới mọi người, và không còn cách nào hiệu quả hơn là mời gọi nhiều người cộng tác để huấn luyện, và rồi sai họ đi thi hành sứ vụ. Đó là lý do tại sao Ngài không chỉ huấn luyện một, mà 12 Tông-đồ; bên cạnh đó, Ngài còn huấn luyện rất nhiều các môn đệ đi theo Ngài. Điều này dạy chúng ta, để Tin Mừng có thể lan tràn đến mọi người, chúng ta cần sự cố gắng và cộng tác của rất nhiều người, chứ không giới hạn trong một thiểu số có tài năng hay kiến thức mà thôi.
(3) Chúa Giêsu gọi các ông để ở với Ngài: Cách huấn luyện hiệu quả nhất của người thời xưa là cho ở với Thầy; mục đích không những là để cho các trò học tất cả những gì nơi Thầy: sự khôn ngoan cũng như cách cư xử, nhưng còn là cơ hội cho Thầy quan sát các trò của mình và sửa sai những tính xấu cho họ.
3.2/ Thành phần của Nhóm Mười Hai: "Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Simon là Phêrô, rồi có ông Giacôbê con ông Zebedee, và ông Gioan em ông Giacôbê - Người đặt tên cho hai ông là Boarneghese, nghĩa là con của thiên lôi - rồi đến các ông Anrê, Philípphê, Barthôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Tađêô, Simon thuộc nhóm Quá Khích, và Giuđa Iscariot là chính kẻ nộp Người." Nhìn qua danh sách của 12 Tông-đồ, một người có những nhận xét như sau:
(1) Không có ai nổi bật: về danh giá, quyền thế, cũng như về kiến thức. Ngược lại, đa số là những ngư phủ thất học tầm thường. Các ông có thành công và trung thành với sứ vụ hay không là do cách Chúa Giêsu huấn luyện.
(2) Là những con người yếu đuối, tội lỗi: Matthew là người thu thuế, và được xem là tội lỗi thường xuyên và công khai. Judah Iscarioth là người sẽ nộp Chúa. Hai con ông Zebedee, Gioan và Giacôbê, là người nhắm địa vị "ngồi bên tả và bên hữu" Chúa Giêsu trong vương quốc của Ngài. Phêrô chối Chúa 3 lần, và hầu hết các Tông-đồ đều bỏ Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài. Điều này cho chúng ta thấy việc huấn luyện con người không dễ.
(3) Tính khí rất khác nhau: Simon, người thuộc Nhóm Quá Khích, có khuynh hướng bảo vệ quốc gia Do-Thái, rất ghét những người cấu kết với ngọai bang để bóc lột dân như Matthew, người thu thuế. Thế mà Chúa Giêsu chọn hai ông để sống chung với nhau, dẹp bỏ sự khác biệt, và cùng chung lo một sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Phêrô rất nhanh nhẩu đến nỗi làm mà không chịu suy nghĩ, để ở với Gioan, người luôn thâm trầm và cẩn thận suy nghĩ trước khi làm. Nói tóm, sự huấn luyện của Chúa Giêsu và cuộc sống chung đã làm các ông phải dẹp bỏ những khác biệt cá nhân để cùng hy sinh cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong sự quan phòng và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài không dựng nên mọi sự hoàn hảo và tốt đẹp ngay từ đầu; nhưng một cách tiệm tiến, mọi sự dần dần trở nên hoàn thiện. Ngài muốn chúng ta đừng tiếc nuối và níu kéo quá khứ; nhưng biết dùng trí khôn và mở lòng để đón nhận những mặc khải mới, và cố gắng để càng ngày càng trở nên tốt hơn.
- Sự ghen tị là lý do ngăn cản đà tiến của nhân loại, chúng ta đừng để nó làm mờ mắt đến nỗi chúng ta không nhận ra thánh ý của Thiên Chúa; nhất là làm chúng ta mù quáng đến độ muốn tiêu diệt sự thật và giết hại những người lành.
- Chúng ta hãy tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Giêsu, vì Ngài là trung gian của một giao ước hoàn hảo. Ngài luôn yêu thương và lo lắng mọi sự cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 7:25-8:6; I Sam 18:6-9, 19:1-7; Mk 3:7-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, con người phải trải qua nhiều giai đọan thử thách và vấp ngã, trước khi đạt tới chỗ toàn hảo. Tục ngữ Việt Nam cũng nói lên điều này trong câu: "Thất bại là mẹ thành công." Tác giả Thư Do-Thái đề cập đến quan niệm này ngay từ đầu Thư: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài." Khi cái hoàn hảo tới thì cái tạm thời qua đi. Điều quan trọng là con người cần nhận ra cái hoàn thiện và tin theo, chứ không ngoan cố giữ lại cái cũ.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên vai trò quan trọng của Chúa Giêsu trong Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến 3 yếu tố quan trọng trong việc Chúa Giêsu hiến mình làm của lễ đền tội cho con người: Ngài vừa là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, vừa là của lễ toàn hảo, và nơi Ngài dâng của lễ lên Thiên Chúa là ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trên trời. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul ghen tị và muốn giết David, vì David được dân chúng ca ngợi nhiều hơn ông; nhưng Jonathan con ông ngăn cản ông đừng làm chuyện đó. Trong Phúc Âm, khi nghe những gì Chúa Giêsu đã làm, dân chúng từ khắp nơi kéo đến để được nghe giảng và chữa lành bởi Chúa Giêsu; ngay cả các thần ô uế cũng khiếp sợ Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế thập toàn, vừa là của lễ hy sinh toàn hảo.
1.1/ Của lễ của Thượng Tế Giêsu dâng thánh thiện và vẹn toàn hơn của lễ của Cựu Ước: Để chứng minh điều này, tác giả Thư Do-thái đề cao những đặc tính của Chúa Giêsu: "Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời."
(1) Chỉ dâng hy lễ một lần là đủ: "Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ." Để hiểu ý tác giả, chúng ta cần so sánh vai trò của Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek với vai trò của thượng tế theo phẩm trật Aaron:
- Các thượng-tế: có vai trò nổi bật trong Ngày Xá Tội, mỗi năm một lần. Trong ngày này, ông được quyền vào trong nơi Cực Thánh để dâng lễ đền tội cho dân. Trước khi có thể dâng lễ đền tội cho dân chúng, ông phải dâng lễ đền tội cho ông trước bằng lễ vật của chính ông. Sau đó, ông dâng lễ vật của dân để đền tội cho họ. Ngày Xá Tội cứ tiếp diễn mỗi năm như thế.
- Thượng Tế Giêsu: Vì Ngài thánh thiện vẹn toàn, nên Ngài không cần dâng của lễ đền tội cho mình. Để đền tội cho dân, Ngài dâng chính thân mình làm của lễ đền tội. Đây là lễ vật hy sinh thánh thiện và tinh tuyền nhất, không một của lễ nào có thể so sánh được. Chính vì vậy, Ngài chỉ cần dâng một lần là đủ. Vì thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là lễ vật hy sinh; và vì Ngài sống mãi, nên biến cố hy sinh của Ngài trên đồi Golgotha thay thế của lễ đền tội trong Ngày Xá Tội. Con người không cần lễ vật hy sinh của theo Luật Cựu Ước nữa.
(2) Chúa Giêsu là Thượng Tế của Thiên Chúa và của con người: Tác giả kết luận: "Vì Luật Moses thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời." Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế toàn hảo, và của lễ Ngài dâng để đền tội cho dân cũng toàn hảo vì là chính bản thân của Ngài.
1.2/ Thánh Điện để dâng của lễ là ngai vàng Thiên Chúa trên trời: Sau khi đã đề cập tới chức vụ Thượng Tế, và của lễ hy sinh đề tội, tác giả tiến đến chỗ dâng của lễ. Trong Cựu Ước, chỗ dâng của lễ là nơi Cực Thánh trong Đền Thờ. Trong Tân Ước, chỗ dâng của lễ là chính ngai vàng Thiên Chúa ngự: "Điểm chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời."
(1) Nơi Cực Thánh trong Đền Thờ dưới đất: là nơi Thiên Chúa hiện diện với con người. Nơi này được xây cất bởi con người theo một kiểu mẫu mà Thiên Chúa đã chỉ dạy cho Moses trên núi, nhưng nơi này "chỉ là hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời."
(2) Ngai Thiên Chúa trong Thánh Điện trên trời: Khi Chúa Giêsu dâng lễ vật hy sinh, Ngài dâng "trong lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không phải do người phàm dựng lên."
Nói tóm, "Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn."
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao ngài lại muốn phạm tội đổ máu người vô tội, mà vô cớ giết David?
2.1/ Vua Saul ghen tị với David: Trình thuật hôm nay tiếp theo biến cố David chiến đấu với tên khổng lồ người Philistine và đã chặt đầu hắn mang về. Khi nghe tin David chiến thắng trở về, các phụ nữ của Israel vui đùa ca hát rằng: "Vua Saul hạ được hàng ngàn, ông David hàng vạn." Khi vua Saul nghe những lời ca tụng ấy, vua giận lắm và nói: "Người ta cho David hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!" Từ ngày đó, vua Saul nhìn David với con mắt ghen tị.
Con người khi quen sống trong cảnh giàu sang, danh vọng, và uy quyền, thường dễ quên đi quá khứ và lý do mình được hưởng những điều kiện đó. Trường hợp của Saul cũng thế, ông thuộc chi tộc Benjamin, một trong chi tộc nhỏ bé nhất của 12 chi tộc Israel; nhưng chỉ vì Đức Chúa đoái thương nhìn tới, mà ông được xức dầu phong vương. Một sự thật nữa ông cần khiêm nhường nhìn nhận là Đức Chúa đã cho ông cơ hội và ban ơn để ông thi hành sứ vụ; nhưng ông đã không vâng lời Đức Chúa, nên bị thất sủng trước mặt Đức Chúa.
2.2/ Jonathan lập mưu cứu David khỏi kế hoạch của cha mình: Từ chỗ ghen tị với David, vua Saul đi tới ý định muốn giết David. Vua Saul nói với ông Jonathan, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định giết ông David. Nhưng ông Jonathan, con vua Saul, lại rất có cảm tình với ông David. Ông Jonathan báo cho ông David rằng: "Vua Saul, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi. Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh."
Jonathan nhìn ra sự thật mà vua Saul, cha mình không nhìn thấy; ông nói với vua: "Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là David, vì anh ấy đã không phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. Anh đã liều mạng và hạ được tên Philistine, và Đức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ toàn thể Israel. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ máu vô tội, mà vô cớ giết David?" Con người cần biết dẹp bỏ tính tự ái và ích kỷ để hy sinh cho lợi ích chung. David đã can đảm chiến đấu để giết được tên Philistine, là mối đe dọa cho nền an ninh của quốc gia, mà vua Saul không làm được. Ngoài ra, vua Saul phải sáng suốt nhìn nhận, nhà vua không thể làm mọi sự; mỗi thời Đức Chúa gởi tới một người để lo cho lợi ích chung. Khi mình đã chu toàn sứ vụ, hãy can đảm để thế hệ trẻ tiếp nối sứ vụ của mình. Người đau khổ, bất an, là người không biết thời mình đã hết; nhưng cứ ngoan cố bảo vệ và hãnh diện về những gì mình đã bỏ công xây dựng.
Vua Saul nghe theo lời ông Jonathan, và vua Saul thề rằng: "Có Đức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ không bị giết." Ông Jonathan gọi ông David đến và ông Jonathan thuật lại tất cả những điều ấy; rồi ông Jonathan dẫn ông David đến với vua Saul, và ông David lại phục vụ vua như trước.
3/ Phúc Âm: Mọi người từ khắp nơi kéo đến với Chúa Giêsu.
Bước đầu trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu thành công tốt đẹp: phần vì những lời giảng dạy của Ngài, phần vì những phép lạ Ngài làm cho dân chúng. Tiếng lành đồn xa, nên như trình thuật hôm nay kể, mọi người trong khắp vùng Cận Đông tuôn đến với Chúa Giêsu: "Đức Giêsu cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Galilee, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Judah, từ Jerusalem, từ xứ Idumea, từ vùng bên kia sông Jordan và vùng phụ cận hai thành Tyre và Sidon, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm."
(1) Chúa Giêsu chữa con người khỏi mọi bệnh họan tật nguyền: Điều có sức hấp dẫn con người nhất là được chữa lành khỏi mọi bệnh họan tật nguyền. Dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu để được chữa bệnh. Ngài có năng lực của Thiên Chúa đến nỗi "ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người." Nếu cứ để họ chen lấn xô đẩy nhau để được đến gần và sờ vào Chúa, không khéo sẽ có nhiều tai nạn không may xảy ra. Hơn nữa, Chúa đến không phải chỉ để chữa bệnh, mà còn giảng dạy và mặc khải về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã khôn ngoan "bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ."
(2) Các thần ô uế biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa: Danh xưng "con Thiên Chúa" không nhất thiết chỉ bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu, vì danh xưng này được dùng để chỉ nhiều người như: các thiên thần (Gen 6:2), dân Do-thái là con Thiên Chúa (Hos 11:1), vua của Do-thái là con Thiên Chúa (II Sam 7:14), người công chính là con Thiên Chúa (Sir 4:10)... Các thần ô uế có thể nhận thấy một thứ quyền lực thánh thiện từ Chúa Giêsu đối chọi với sự ô uế của chúng, làm cho chúng không thể tồn tại, nên hỏang sợ kêu lên: "Ông là Con Thiên Chúa!" Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy tin tưởng và học hỏi nơi Ngài để biết về Thiên Chúa.
- Vì chúng ta không có thời gian nhiều để học hỏi mọi điều hay trong vũ trụ; điều quan trọng và cần thiết nhất chúng ta phải học là kiến thức về Thiên Chúa.
- Chỉ một người duy nhất có thể mang đến cho chúng ta Ơn Cứu Độ là Chúa Giêsu qua hiến lễ hy sinh của Ngài trên Thập Giá.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 7:1-3, 15-17; I Sam 17:32-33, 37, 40-51; Mk 3:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin tưởng nơi uy quyền của Thiên Chúa.
Tôn giáo hiện hữu là để đưa con người tới Thiên Chúa. Để làm việc này, con người cần giữ luật. Bao lâu con người tuân giữ những luật Thiên Chúa truyền, con người giữ mối liên hệ tốt lành với Thiên Chúa. Nhưng con người đã không thể giữ mãi mối liên hệ với Thiên Chúa vì họ phạm tội; và như thế, con người cần dâng lễ vật để đền tội và nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa. Đó là lý do chức tư tế và luật dâng lễ vật hiện hữu. Theo từ ngữ Latin, từ ngữ dùng để chỉ tư tế là pontifex, có nghĩa người xây cầu để nối giữa 2 điểm. Tư tế là người xây cầu để nối giữa Thiên Chúa và con người bằng dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền thống Do-thái, lễ vật hy sinh chỉ có thể đền những tội vô tình xúc phạm đến Luật mà thôi; những tội cố ý, không lễ vật hy sinh nào có thể đền được. Tác giả Thư Do-thái nhìn thấy sự bất toàn của chức tư tế và các lễ vật hy sinh trong Đạo Do-thái; ông nhận ra con người cần một phẩm trật tư tế cao trọng hơn phẩm trật tư tế theo Aaron, và một lễ vật hy sinh cao trọng hơn máu chiên bò, để có thể tha thứ các tội cho con người, và cung cấp cho con người cách thức an toàn để nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa sau khi phạm tội.
Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả dùng Thánh Vịnh 110:4 và Sách Sáng Thế 14:18-20, để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek; phẩm trật này cao trọng hơn phẩm trật Aaron, vì "Melkizedek không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế." Trong Bài Đọc I, năm chẵn, trẻ David tình nguyện đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vì cậu tin uy quyền của Thiên Chúa sẽ giúp cậu chiến thắng. Vì biến cố vĩ đại này, Thiên Chúa chuẩn bị lòng dân chúng dành chấp nhận David làm vua thay thế Saul. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tức giận vì nhóm Pharisees lòng chai dạ đá: trong khi Ngài muốn chữa lành con người khỏi mọi tội lỗi và bệnh hoạn, tật nguyền, nhưng họ luôn tìm cách để tố cáo và luận tội Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek.
1.1/ Thượng Tế Melkizedek: Khi truy tầm tên Melkizedek mà Thánh Vịnh 110 đề cập tới, Tác-giả Thư Do-Thái tìm thấy trong Sách Sáng Thế nói về Ông như sau: "Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc cho ông Abraham và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho Abraham! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông!" Rồi ông Abraham biếu ông Melkizedek một phần mười tất cả chiến lợi phẩm" (Gen 14:18-20).
Tác-giả dựa vào những gì Sách Sáng Thế trình bày, và suy diễn thêm về những gì tuy Kinh Thánh không nói tới, nhưng quan trọng về vị Thượng Tế này như sau: "Trước hết, ông tên là Melkizedek, nghĩa là "Vua công chính;" rồi ông lại là vua Salem, nghĩa là "Vua bình an." Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế."
1.2/ Sự khác biệt giữa 2 phẩm trật tư tế: Tác giả so sánh những gì ông tìm ra về Thượng Tế Melkizedek và so sánh với những gì ghi chép trong Luật về phẩm trật tư tế Aaron, ông tìm ra những khác biệt trong Chương 7, chúng tôi chỉ tóm tắt như sau:
(1) Phẩm trật Aaron: Theo Luật Do-Thái, một người trở thành tư tế vì thuộc giòng dõi Aaron; mà không tùy thuộc vào đặc tính và khả năng của vị tư tế. Chức tư tế của những người theo phẩm trật Aaron chấm dứt cùng với cái chết của người ấy. Thiên Chúa không bao giờ thề hứa với phẩm trật theo Aaron. Sau cùng, các tư tế theo phẩm trật này phải luôn dâng hy lễ đền tội cho mình, trước khi có thể dâng lễ đền tội cho người khác.
(2) Phẩm trật Melkizedek: Chức tư tế của Melkizedek không tùy thuộc vào giòng dõi con người, nhưng tùy thuộc vào đặc tính và khả năng của ông. Hơn nữa, Melkizedek không có gia phả con người, và Kinh Thánh không thấy nói tới sự chết của ông; vì thế, chức tư tế của ông tồn tại đến muôn đời. Chức tư tế theo phẩm trật Melkizedek được Thiên Chúa thề hứa và không bao giờ thay đổi (x/c Psa 110:4). Đức Kitô không bao giờ phạm tội, và Ngài không cần dâng lễ đền tội cho mình, chỉ dâng hy lễ một lần để đền tội cho con người là đủ.
1.3/ Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek: Tác giả Thư Do-Thái kết luận: "Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông Melkizedek xuất hiện; vị này đã trở nên tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời chứng nhận rằng: "Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek"" (Psa 110:4).
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng.
Đây là câu truyện nói lên uy quyền của Thiên Chúa. Thoạt nhìn, không ai có thể nghĩ David sẽ thắng tên Philistine; ngay cả vua Saul là người to lớn nhất trong Israel cũng phải đầu hàng. Khi David tỏ ý định muốn đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vua Saul nói với David: "Con không thể đến với tên Philistine ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ." Nhưng David tin tưởng vào uy quyền Thiên Chúa, ông nói: "Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Philistine này." Vua Saul nói với David: "Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con!" Cậu cầm gậy chăn chiên trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Philistine.
(1) Tên Philistine cậy vào thể lực của mình: Khi thấy có người Israel tiến lên, tên Philistine từ từ tiến lại gần David, đi trước mặt nó là người mang thuẫn. Tên Philistine nhìn, và khi thấy David, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. Tên Philistine nói với David: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên Philistine lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa David. Tên Philistine nói với David: "Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú."
(2) David chiến đấu nhân danh Thiên Chúa: David bảo tên Philistine: "Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày thách thức."
- David tin tưởng nơi Thiên Chúa sẽ ban chiến thắng, không chỉ chiến thắng cá nhân giữa cậu và tên Philistine, mà còn chiến thắng giữa quân đội Israel trên quân đội Philistines: "Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Philistine làm mồi cho chim trời và dã thú."
- Cậu tin chiến thắng là nhờ Danh Chúa, Đấng dựng nên trời đất, chứ không nhờ gươm giáo. David nói với tên Philistine: "Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Israel, và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!"
(3) Kết quả của cuộc chiến: "Khi tên Philistine bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với David, thì David vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Philistine. David thọc tay vào bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà bắn trúng vào trán tên Philistine. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. Thế là David thắng tên Philistine nhờ dây phóng và một hòn đá. Cậu hạ tên Philistine và giết nó. Nhưng trong tay David không có gươm. David chạy lại, đứng trên xác tên Philistine, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu nó."
Vì vua Saul bất tuân lệnh của Thiên Chúa, Ngài đã truất phế Saul khỏi ngôi vua. Thiên Chúa đã sai ngôn sứ Samuel xức dầu phong vương cho trẻ David, và Ngài muốn dùng chiến thắng này để chuẩn bị lòng dân chúng để tiếp nhận David làm vua thay thế Saul. Điều này một lần nữa chứng minh: một khi Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ ban ơn đủ cho người ấy thi hành nghĩa vụ của mình.
3/ Phúc Âm: Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá.
3.1/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm Pharisees: Chỉ trong hai câu mô tả ngắn ngủi, Marcô cho chúng ta nhìn thấy sự xung đột giữa hai bên: "Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày Sabbath không, để tố cáo Người." Trong khi Chúa Giêsu chính thức rao giảng và chữa lành dân chúng trong các hội đường, Nhóm Pharisees cũng có mặt. Mục đích của họ không phải để nghe giảng, nhưng để "rình xem" Chúa Giêsu có chữa bệnh trong ngày Sabbath.
3.2/ Hai phản ứng khác nhau:
(1) Phản ứng của của Chúa Giêsu: Khi nhìn thấy người bại tay, Chúa Giêsu động lòng thương anh, và Ngài muốn chữa lành, nên bảo anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" Ngài có thể bảo anh ngày mai trở lại, hay bảo anh đi đến một nơi nào đó cho khuất mắt những người đang rình; nhưng để dạy cho họ có cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày Sabbath, Chúa Giêsu mời gọi họ đối thoại với Ngài: "Ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm thinh. Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
(2) Phản ứng của Nhóm Pharisees: Làm thinh không nói có thể vì không biết câu trả lời; nhưng họ đã biết câu trả lời: phải luôn làm việc lành trong cả ngày Sabbath, và phải luôn cứu mạng người; nhưng vì họ sợ nếu phải công nhận những gì Chúa Giêsu dạy trước mặt mọi người, họ phải tin theo và làm những gì Ngài đòi hỏi nên họ làm thinh. Không phải chỉ có thế, nhưng sau khi ra khỏi đó, Nhóm Pharisees lập tức bàn tính với phe Herode, để tìm cách giết Đức Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa; nhưng qua Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, chúng ta đã có con đường an toàn để nối lại tình nghĩa với Ngài.
- Chúng ta hãy vâng lời làm theo những gì Đức Kitô dạy. Nếu không hiểu, hãy chịu khó bỏ thời giờ để nghiên cứu học hỏi; đừng ngoan cố như những người biệt-phái để cố tình sống trong tội lỗi của mình.
- Chúng ta có chiến thắng được ba thù là nhờ uy quyền của Thiên Chúa, chứ không do sức lực, tài năng, và sự khôn ngoan của cá nhân.
- Tôn giáo không phải chỉ là tuân theo những luật lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là tâm tình đồng cảm với những khổ đau của nhân loại. Chúng ta hãy cố gắng và tìm cách để làm vơi đi những khổ đau của tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 6:10-20; I Sam 16:1-13; Mk 2:23-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người quí trọng hơn luật lệ.
Phẩm giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật Ngài ban là để bảo vệ và phục vụ con người. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho con người phải làm nô lệ cho Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con người và làm cho đời sống con người được bảo vệ và an toàn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu phải bền lòng trông cậy vào lời Thiên Chúa đã hứa. Một khi Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thi hành. Tác giả đưa ra một ví dụ là lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abraham. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Kitô, khi Ngài đi tiên phong vào nơi Cực Thánh để mở đường cho con người đến trực tiếp với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả tường thuật việc Thiên Chúa chọn người và phong vương cho một trẻ chăn chiên nhỏ nhất và không ai ngờ trong những người con của ông Jesse; vì Ngài nhìn thấu tâm hồn cao đẹp của David. David đã trở thành vị vua sáng giá nhất của Israel. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo với Chúa Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết luật lệ làm ra là vì con người, chứ không phải con người cho luật lệ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Mọi việc chúng ta làm đều được ghi nhận bởi Thiên Chúa.
1.1/ Phải kiên nhẫn trong khi Chúa thực hiện lời hứa: Tác giả Thư Do-thái xác tín: "Quả thế, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng." Qua đoạn văn này, tác giả muốn khuyên các tín hữu 2 điều:
(1) Những lúc tăm tối của cuộc đời: Đừng nản lòng! Hãy nắm giữ niềm hy vọng vào lời Thiên Chúa hứa. Con người ai cũng phải trải qua những đêm tăm tối này. Trong những lúc như thế, tác giả khuyên cứ giữ vững đức tin, thực hành các việc lành như đã và đang làm. Chắc chắn tăm tối sẽ qua, và ánh sáng của Thiên Chúa lại tiếp tục chiếu sáng.
(2) Bắt chước gương tổ-phụ Abraham: "Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa... Như thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Abraham đã nhận được lời hứa."
1.2/ Lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abraham: "Ta sẽ ban phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số" (Gen 22:16-18).
(1) Lời hứa được bảo đảm bằng lời thề: Con người thường lấy danh ai cao hơn mình mà thề để bảo đảm lời mình đã long trọng hứa. Khi Thiên Chúa hứa với ông Abraham, Người đã không thể lấy danh ai cao trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề. Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta.
(2) Lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: "Chúng ta có điều này như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, là hy vọng được vào cung điện cực thánh bên trong, đàng sau tấm màn. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Melkisedek."
Đối với các thủy thủ, cái neo là khí cụ cần thiết cho việc sinh tồn. Một khi đã thả neo là không còn sợ sóng gió làm thuyền lật được nữa. Trong thế giới ngày xưa, cái neo là biểu tượng của hy vọng. Pythagore nói: "Của cải là cái neo mỏng giòn; danh vọng còn yếu hơn. Khôn ngoan, rộng lượng, và can đảm, là những cái neo mà không sóng gió nào có thể vùi giập được." Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh người tín hữu có một hy vọng lớn lao nhất trong thế giới là hy vọng của họ vào Lời Thiên Chúa hứa.
Niềm hy vọng đó là được vào trong thánh điện đàng sau bức màn. Trong Đền Thờ, chỗ cực thánh là nơi chứa đựng Hòm Bia Thiên Chúa, được che phủ bởi bức màn. Đây là nơi Thiên Chúa ngự. Trong nơi này, chỉ độc quyền có một người được vào, mỗi năm một lần; đó là vị thượng tế trong Ngày Xá Tội mà thôi. Tác giả Thư Do-Thái có ý muốn nói: Giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đã mở đường vào nơi đó cho tất cả con người ở mọi nơi và mọi thời. Từ ngữ ông dùng để chỉ Chúa Giêsu như prodromos = người tiên phong mở đường. Chúa Giêsu đi tiền phong mở đường vào nơi hiện diện của Thiên Chúa, và Ngài bảo đảm an toàn cho tất cả những ai theo sau. Nói cách khác, trước khi Đức Kitô xuất hiện, Thiên Chúa là Người Khách xa lạ và cách biệt với con người; chỉ một số nhỏ có thể đến gần và luôn sợ bị thiệt mạng. Nhưng sau khi Đức Kitô đến, Thiên Chúa trở nên bạn hữu của tất cả; mọi người đều có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.
2.1/ Cuộc lựa chọn người làm vua trong số các con của ông Jesse: Thiên Chúa hứa Ngài sẽ hành động trong ngôn-sứ Samuel ngay tại nơi đang diễn ra cuộc lựa chọn người làm vua trong gia đình ông Jesse. Cả ngôn sứ Samuel và ông Jesse đều không hay biết hậu quả của những gì sắp xảy ra.
- Phản ứng của ngôn-sứ Samuel: Thoạt trông thấy Eliab, ông nghĩ: "Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!" Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng."
- Ông Jesse gọi Abinadab và cho cậu đi qua trước mặt Samuel, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho Samah đi qua, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: "Đức Chúa không chọn những người này."
2.2/ Thiên Chúa chọn một trẻ út chăn chiên làm vua cai trị dân Người: Samuel lại hỏi ông Jesse: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Jesse trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Samuel liền nói với ông Jesse: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây."
- Ông Jesse cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!" Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào David từ ngày đó trở đi.
- Chính ông Jesse cũng không ngờ Thiên Chúa chọn David, một đứa trẻ út đang chăn chiên ngoài đồng. Đó là lý do mà ông không buồn cho gọi con về; nhưng Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn đẹp và các việc tốt lành của David. Ngài muốn chọn cậu làm vua cai trị dân Ngài và David đã trở thành vị vua nổi danh nhất của dân tộc Israel.
3/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.
3.1/ Người Pharisees tố cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người Pharisees liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!" Có tất cả 39 luật về ngày Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị bữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố cáo các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.
3.2/ Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày Sabbath.
(1) Trường hợp vua David (I Sam 21:1-6): Người đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa Giêsu có ý muốn nói: trong trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm Lề Luật.
(2) Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp: "Ngày Sabbath được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath." Điều này hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng trước khi luật về ngày Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở thành nạn nhân hay làm nô lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày Sabbath là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được nghỉ ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi, và sự chết.
- Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung gian; đến bất cứ lúc nào chứ không phải đợi một ngày cố định trong năm.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai, Tuần 2 TN2
Bài đọc: Heb 5:1-10; I Sam 15:16-23; Mk 2:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tuyệt đối vâng phục Thiên Chúa.
Xung đột giữa tư tưởng và ý thức hệ cũ và mới thường xảy ra ở mọi nơi và mọi thời như các chính thể, trong tôn giáo, cách cư xử. Ví dụ: Phong trào canh tân của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào đầu thế kỷ 20, điển hình trong tác phẩm Đoạn Tuyệt của Khái Hưng. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-thái khi Ngài mang những mặc khải mới của Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi được đặt ra: Phải tuân theo điều nào?
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người, giữa cái cũ và cái mới. Trong mọi trường hợp, con người phải luôn vâng phục Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái dùng tiêu chuẩn cũ để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế mới có khả năng đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người về cho Thiên Chúa; vì Ngài vừa có kinh nghiệm của Thiên Chúa, vừa có kinh nghiệm của con người. Chính vì sự vâng phục tuyệt đối của Ngài vào Thiên Chúa, Ngài đã trở nên nguồn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Ngài.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa sai Samuel đến để truất phế ngôi vua của Saul, vì nhà vua đã không tuân phục Thiên Chúa để tru diệt toàn bộ quân Amalek. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại cũ để giúp họ nhận ra thời đại mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn mới để lãnh nhận giáo lý mới của Ngài mang đến.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu là Thượng Tế thập toàn vì Ngài vâng phục Thiên Chúa.
Bản văn chúng ta nghiên cứu hôm nay, Heb 5:1-10, được tác giả sắp xếp theo cấu trúc hình nón, với chóp đỉnh là thượng tế Aaron của Cựu Ước. Mục đích của tác giả là chứng minh Chúa Giêsu là Thượng Tế thập toàn của Tân Ước. Để làm điều này, tác giả dùng một tam đoạn luận: trước tiên, tác giả liệt kê 3 đặc tính của chức thượng tế; sau đó, tác giả chứng minh Chúa Giêsu hội đủ 3 điều kiện này; cuối cùng, tác giả kết luận: "Thiên Chúa tôn xưng Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek."
1.1/ Ba đặc tính của Thượng Tế:
(1) Thượng Tế đại diện cho con người: "Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội."
(2) Thượng Tế phải cảm thông với con người: "Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy."
(3) Thượng Tế phải được Thiên Chúa gọi: "Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi."
1.2/ Chúa Giêsu là Thượng Tế:
(3) Chúa Giêsu được chọn làm Thượng Tế: "Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek."
(2) Chúa Giêsu cảm thông với con người: "Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục."
(1) Chúa Giêsu đại diện cho con người: "và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek."
1.3/ Đức Kitô vâng phục Thiên Chúa Cha cho đến chết: Để hiểu tầm quan trọng của việc vâng phục Thiên Chúa, chúng ta phải trở lại tội nguyên tổ. Chính vì sự bất tuân của ông Adong và bà Evà, nhân loại phải chịu mọi đau khổ và phải chết. Để cứu con người thoát khỏi những cực hình này, Đức Kitô hoàn toàn vâng phục và làm mọi sự theo thánh ý Thiên Chúa Cha. Có kinh nghiệm của Thiên Chúa, Ngài biết sự vâng phục Thiên Chúa quan trọng như thế nào. Con người không có kinh nghiệm này, nên họ đã khinh thường và bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Để được lãnh nhận ơn cứu độ, con người cũng phải tùng phục Đức Kitô, như Ngài đã vâng phục Thiên Chúa Cha.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu.
2.1/ Saul không vâng lời Thiên Chúa: Samuel được Đức Chúa sai tới để truyền lệnh cho vua Saul phải lên đường giao chiến với vua và quân đội của người Amalek. Lý do là vì cách họ đã đối xử và chặn đường con cái Israel khi từ Ai-cập đi lên; những gì Đức Chúa đã phán, Ngài sẽ thi hành. Lời của Đức Chúa truyền cho Saul qua ngôn-sứ Samuel rất rõ ràng: "Các ngươi phải tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến chiên dê, từ lạc đà đến lừa" (I Sam 15:3).
Sau khi giao chiến và thắng trận, Saul đã không thực thi trọn vẹn lời Đức Chúa truyền, hai điều Saul đã bất tuân Thiên Chúa: (1) ông đã không tru diệt Agag, vua Amalek; và (2) ông đã để cho quân lính giữ lại những thú vật béo tốt. Việc làm của Saul không qua mặt được Đức Chúa; Ngài sai Samuel tới để hạch tội bất tuân của Saul: "Tại sao ngài đã không nghe theo tiếng Đức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái mắt Đức Chúa?"
Vua Saul nói với ông Samuel: "Tôi đã nghe theo tiếng Đức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Đức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa Agag, vua Amalek về và đã tru hiến Amalek. Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại Gilgal." Vua Saul nghĩ mình làm như thế là đẹp lòng Thiên Chúa!
2.2/ Vâng lời Thiên Chúa trọng hơn mọi hy lễ: Ông Samuel nói: "Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu." Đây là điều quan trọng mà tác giả Sách Thánh Vịnh cũng như các ngôn sứ đã không ngừng lập đi lập lại để răn bảo dân chúng (x/c Psa 40:6, 51:16; Isa 1:10-17; Mic 6:5-8; Amo 5:21-24; Hos 6:6). Bất tuân lệnh Thiên Chúa được đồng hóa với những tội nặng như tội như bói toán và thờ ngẫu tượng.
Hậu quả của tội bất tuân là Saul bị Thiên Chúa truất quyền làm vua: "Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời của Đức Chúa, nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."
Tuân theo mệnh lệnh của cấp trên là điều tối quan trọng trong quân đội để bảo vệ an ninh và trật tự. Nếu một người lãnh đạo không tuân theo luật lệ, họ sẽ không thể làm gương cho cấp dưới và không thể điều khiển binh lính dưới quyền mình. Hơn nữa, cấp dưới không luôn biết những nguy hiểm sẽ xảy ra; vì thế, họ cần tuyệt đối vâng theo lệnh của cấp trên. Nếu điều này đúng cho quân đội, nó càng khẩn thiết hơn cho mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ của mình.
3.1/ Tại sao môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay? "Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pharisees đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: "Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?"
Giao thời giữa Cựu và Tân Ước là thời gian người Do-thái gia tăng việc chay tịnh và khổ chế, không những chỉ có trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân như các việc đạo đức. Chay tịnh, cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi là ba trụ chính của đời sống đạo đức (Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh là cách để xin ơn lành từ Thiên Chúa (Jdt 4:9). Lối sống chay tịnh và khổ chế của Gioan Tẩy Giả trong sa mạc là muốn đề cao lối sống đơn giản và sự tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa.
3.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến 2 điểm chính:
(1) Lý do ăn chay: Ăn chay phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của Ngài chưa ăn chay: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được." Chúa Giêsu nhận Ngài chính là chàng rể, và khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các môn đệ.
(2) Thời gian ăn chay: Chay tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết khi nào các môn đệ của Ngài sẽ ăn chay: "Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó."
3.3/ Phải có tâm hồn mới để lãnh nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là mốc thời gian để phân biệt giữa cái cũ và mới. Những người Pharisees và môn đệ của Gioan đại diện cho lớp người cũ, các môn đệ của Chúa Giêsu đại diện cho lớp người mới. Để có thể lãnh nhận những đạo lý mới được giảng dạy bởi Đức Kitô, một người cần có tâm hồn mới: rộng đủ để nhận ra những bất toàn của đạo lý cũ; đồng thời biết đón nhận những đạo lý mới để làm cho con người ngày càng toàn hảo hơn. Nếu không có tâm hồn mới, con người sẽ ngoan cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ sẽ khước từ những giáo lý mới của Đức Kitô.
Để giúp họ nhận ra sự quan trong của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất quen thuộc với khán giả:
(1) Áo và miếng vá: "Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm."
(2) Rượu và bầu da: "Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô là Thượng Tế mới của giao ước mới hoàn hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài để học hỏi những mặc khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành với chúng ta.
- Vâng lời làm theo những lời dạy dỗ của Thiên Chúa và của Đức Kitô là điều tối quan trọng trong cuộc sống. Chúng ta đừng bao giờ bất tuân những mệnh lệnh của Thiên Chúa.
- Dĩ nhiên chúng ta không đón nhận tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng biết dùng trí khôn để thích ứng với hoàn cảnh: giữ lại những gì tốt, thâu nhận những gì mới, và cải tiến để làm cho tốt hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C (17/01/2015)
[Is 62,1-5; 1 Cr 12, 4-1; Ga 2, 1-11]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Các tác giả 4 Sách Phúc Âm đều kể lại nhiều phép lạ Chúa Giê-su đã làm trong thời gian 3 năm thi hành sứ vụ công khai của Người trên mảnh đất Pa-lét-tin. Phép lạ nào cũng có hai ý nghĩa chính: một là hành động cứu độ con người; hai là dấu chỉ bày tỏ vinh quang của Chúa Giê-su và của Thiên Chúa.
Phép lạ Chúa Giê-su biến nước thường thành rượu ngon trong Tiệc Cưới Ca-na cũng mang hai ý nghĩa ấy. Nhưng trong tường thuật của Tin Mừng Gio-an thì ý nghĩa thứ hai được đề cao hơn ý nghĩa thứ nhất. Chính Thánh Gio-an đã khẳng định điều ấy: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người.”
Chúng ta hãy đọc các bài Sách Thánh của Thánh Lễ hôm nay để hiểu và đón nhận ý nghĩa ấy.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
[Ghi chú: Chúng tôi dùng bản dịch các bài Thánh Kinh của cố linh mục Giu-se Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, đăng trên mạng Tin mừng cho người nghèo]
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 62, 1- 5): Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem.
1 Vì Sion, Ta sẽ không nín thinh, vì Yêrusalem, Ta sẽ không ở lặng, cho đến khi đức nghĩa của nó như vừng quang xuất hiện, và phúc cứu độ của nó như đuốc rực lên. 2 Các nước sẽ thấy đức nghĩa của ngươi, các vua hết thẩy sẽ thấy vinh quang ngươi. Người sẽ gọi ngươi tên mới, tên chính miệng Yavê đã định. 3 Ngươi sẽ nên triều thiên tráng lệ trong tay Yavê, như vương miện nơi tay Thiên Chúa ngươi thờ. 4 Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ bỏ!" và xứ sở ngươi sẽ không còn bị gọi là "Hoang vu!" vì thiên hạ sẽ gọi ngươi “Sùng ái của Ta” và đất đai ngươi: “Đất đá kết duyên”. 5 Như tài trai sánh duyên thục nữ, Đấng xây dựng ngươi sẽ cùng ngươi kết nghĩa giao duyên như tân lang hoan hỉ bên một tân nương, Người sẽ hoan hỉ nơi ngươi Thiên Chúa ngươi thờ.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11): Đặc sủng tuy nhiều nhưng chung một gốc.
4Ðặc sủng chia làm nhiều, nhưng cũng là một Thần khí.5Phục vụ chia làm nhiều, nhưng cũng là một Chúa.6Kỳ công chia làm nhiều, nhưng cũng là một Thiên Chúa, Ðấng ra uy làm nên mọi sự nơi mọi người.7Thần khí hiển thị (như vậy) được ban xuống cho mỗi người để mưu ích lợi chung.8Người thì được Thần khí ban cho lời khôn ngoan, kẻ khác được lời trí tri, thể theo cũng một Thần khí.9Kẻ thì được lòng tin trong cũng một Thần khí; người lại được những đặc ân chữa bịnh tật trong cũng một Thần khí độc nhất.10Người thì được kỳ công phép lạ; kẻ khác được ơn tiên tri; kẻ khác nữa lại được ơn biện phân các thần khí: người thì được các thứ ngôn ngữ; kẻ lại được ơn diễn giải các ngôn ngữ.11Hết thảy mọi điều ấy, cũng một Thần khí độc nhất ra uy làm nên, phân chia cho mỗi người mỗi cách, như Ngài muốn.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 2, 1-11): Tiệc Cưới Ca-na.
1Ngày thứ ba, xảy ra có tiệc cưới ở Cana, xứ Galilê. Và có mẹ Ðức Yêsu ở đó.2Ðức Yêsu và các môn đồ của Ngài cũng được mời vào tiệc cưới.3Bởi hết rượu, nên mẹ Ðức Yêsu mới nói với Ngài: "Họ không có rượu nữa!"4Ðức Yêsu đáp lại: "Này bà, giữa tôi và bà, nào có việc gì? Giờ của tôi chưa đến!"5Mẹ Ngài nói với các người hầu: "Ngài có bảo gì, hãy làm theo!"
6Ở đó có đặt sáu chum đá, chiếu theo lệ quán tẩy của người Do Thái, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng nước.7Ðức Yêsu bảo họ: "Hãy đổ đầy nước các chum!" Và họ đã đổ đầy thấu lợi.8Rồi Ngài bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho ông quản tiệc". Và họ đã đem đi.9Một khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu, mà ông không biết tự đâu đến - còn các người hầu, những người đã múc nước thì biết - ông mới gọi vị tân lang10mà nói: "Phàm người ta, trước tiên ai cũng thết rượu hảo hạng; khi khách ngà ngà thì đãi rượu xoàng hơn. Còn ông, ông đã giữ rượu hảo hạng cho đến bây giờ!"
11Dấu lạ đầu hết này, Ðức Yêsu đã làm tại Cana xứ Galilê, và đã tỏ vinh quang Ngài ra và môn đồ đã tin vào Ngài.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Is 62, 1- 5) là những lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a nói về cảnh huy hoàng của thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Thiên Chúa thực hiện cuộc biến đổi thành Giê-ru-sa-lem và dân Ít-ra-en một cách kỳ diệu. Giê-ru-sa-lem sẽ huy hoàng, Ít-ra-en sẽ trở nên xinh đẹp được Thiên Chúa yêu thương và trở thành tân nương của Người.
à Trong đoạn Is 62,1-5 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa có một tình yêu lạ lùng và tuyệt diệu đối với Giê-ru-sa-lem và dân riêng của Người. Tình yêu ấy đã biến đổi hoàn toàn thân phận của Giê-ru-sa-lem và số phận của Ít-ra-en. Giê-ru-sa-lem là thành Giê-ru-salem. Ít-ra-en là dân tộc Ít-ra-en. Nhưng theo nghĩa bóng của Thánh Kinh, Giê-ru-sa-lem và Ít-ra-en là mỗi cộng đoàn, mỗi con người tôn thờ Thiên Chúa.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11) là đoạn văn “bất hủ” của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về các ơn, các đặc sủng dồi dào, phong phú và muôn hình vạn trạng của Thần Khí Thiên Chúa tức của Chúa Thánh Linh. Đó là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn đức tin, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định thần khí, ơn nói các tiếng lạ và ơn giải thích các tiếng lạ.
à Qua đoạn thư 1 Cr 12,4-11 trên, chúng ta nhận ra Thần Khí Thiên Chúa là Đấng vừa quyền năng vô biên, vừa yêu thương vô bờ bến đối với Cộng Đoàn Hội Thánh. Vì là Đấng quyền năng vô biên nên Người có đủ mọi ơn, có đủ thứ đặc sủng. Vì yêu thương Hội Thánh vô bờ bến nên Người rộng tay ban phát các ơn, các đặc sủng của Người cho con cái Hội Thánh. Những người nhận ơn, những kẻ được phân phát đặc sủng không phải là vì họ đạo đức thánh thiện mà là vì quyền năng vô hạn và tình yêu không tính toán của Thần Khí. Ơn hay đặc sủng được ban không phải cho riêng những người nhận được ơn hay đặc sủng ấy, mà là cho cả Cộng đoàn, cho hết mọi người đang cần đến ơn hay đặc sủng ấy để củng cố và tăng cường lòng tin yêu, để được giải thoát khỏi bệnh hoạn, tật nguyền hay cảnh tăm tối trong tâm hồn và để được chứng kiến hoạt động hết sức kỳ diệu của Chúa Ngôi Ba mà ca tụng vinh quang của Thiên Chúa!
3.1.3 Bài Tin Mừng (Ga 2, 1-11) là bài tường thuật vắn gọn, đơn sơ về phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” của Chúa Giêsu trong khung cảnh một tiệc cưới ở Ca-na. Đây là phép lạ đầu tiên mà Ngôi Hai Thiên Chúa thực hiện, khởi đầu cho một giai đoạn của phép lạ, của chuyện kỳ diệu do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa thực hiện giữa và cho con cái loài người chúng ta!
à Qua đoạn Phúc Âm Ga 2,1-11 này, Chúa Giê-su đã bộc lộ “chân tướng” và “tấm lòng” thần linh của mình. Vì thế phép lạ Ca-na có nhiều ý nghĩa:
- Trước hết “làm phép lạ” là việc làm vượt khả năng của con người.
- Kế tiếp “làm phép lạ” để cứu giúp con người trong cơn khốn khó hầu đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người (cụ thể là đôi tân hôn, gia chủ và quan khách) thì chỉ có các thần linh tốt lành thánh thiện mới làm. Các thần dữ, nếu có thể làm phép lạ, thì chúng chỉ làm để lừa gạt người nhẹ dạ hòng lôi cuốn người ấy vào vòng kiềm tỏa của chúng mà thôi.
- Sau cùng “làm phép lạ” đầu tiên trong/cho một tiệc cưới Chúa Giê-su còn muốn gửi cho chúng ta hai sứ điệp quan trọng khác: một là Chúa Giê-su muốn báo hiệu sự hiện diện tràn đầy niềm vui của Nước Trời giống như Tiệc Cưới mà Người khai trương trong trần gian này. Thánh Kinh luôn dùng Tiệc Cưới để diễn tả cuộc gặp gỡ và sự kết hợp hân hoan và lâu bền giữa Thiên Chúa và con người; hai là Chúa Giê-su tỏ lòng ưu ái đặc biệt đối với các cặp vợ chồng và đời sống hôn nhân. Thánh Kinh cũng luôn dùng hôn nhân và Tình Yêu Vợ Chồng để diễn tả mối tương quan “độc hữu” giữa Thiên Chúa và con người.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có ba phần liên kết chặt chẽ với nhau:
Phần thứ nhất: Chúa Giê-su là thần linh tốt lành và quyền năng, là Thiên Chúa yêu thương và toàn năng. Người dùng quyền năng để thể hiện lòng yêu thương và đáp ứng mọi nhu cầu chính đáng của con người.
Phần thứ hai: Chúa Giê-su xuất hiện công khai để khai mở một Triều Đại Mới, và thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa giữa loài người. Trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy niềm vui và hoan lạc tràn đầy như rượu bia ê hề trong Tiệc Cưới vậy!
Phần thứ ba: Chúa Giê-su làm phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” cho/trong tiệc cưới là Người chúc lành, thánh hóa, nâng cấp mọi giao ước hôn nhân của con người, mọi thực tại của đời sống gia đình.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Chalà Thiên Chúa vĩ đại và gần gũi yêu thương dân riêng Người khi giao việc giải thích Luật Chúa cho một số người được tuyển chọn cho công việc hệ trọng ấy; Sống với Chúa Giê-su Ki-tô là Lời và là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để nói Lời Yêu Thương, Lời Cứu Độ; Sống với Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh của các Sấm Ngôn, là Thần Khí của các Ngôn Sứ mọi thời đại!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi quyết tâm thực hiện ba việc này:
Việc thứ nhất: Tôi luôn tin tưởng và phó thác con người và cuộc sống của tôi cho Chúa Giê-su Ki-tô. Nhất là trong những lúc khó khăn, thử thách, trước những nhu cầu chính đáng, tôi chỉ chạy đến với Chúa Giê-su mà không tìm đến hay cậy dựa vào bất cứ một quyền lực hay thần linh nào khác (tử vi, bói toán, bùa ngải, cầu cơ, tướng số…).
Việc thứ hai: Tôi luôn cảm tạ ngợi khen Chúa Giê-su Ki-tô vì Chúa đã khai mở một Triều Đại Mới, và thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa trong trần gian và đã đưa tôi vào trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy. Được sống trong hân hoan, tôi sẽ tích cực đóng góp công sức của mình vào việc mở rộng Nước Chúa trong các tâm hồn, gia đình và môi trường chung quanh.
Việc thứ ba: Tôi luôn cảm tạ ngọi khen Chúa Giê-su Ki-tô vì Chúa đã chúc lành, thánh hóa, nâng cấp cuộc hôn nhân của vợ chồng tôi và mọi thực tại của đời sống gia đình tôi. Để đáp lại lòng yêu thương và sự chăm sóc của Chúa Giê-su, tôi luôn trân trọng lời cam kết trong thánh lễ hôn phối và xây dựng gia đình tôi thành một “Hội Thánh nhỏ”, một “Hội Thánh tại gia” sáng ngời đức tin và đức ái.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI
5.1 «Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước được phúc khám phá và chiêm ngưỡng đức công chính của Thiên Chúa hiển hiện nơi Hội Thánh và con cái Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục và linh mục, để các ngài được ơn khôn ngoan và ơn hiểu biết mà giảng dậy và trình bày Mầu Nhiệm của Thiên Chúa cho các tín hữu và lương dân.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người sống hiệp nhất yêu thương nhau, vì cùng tin thờ một Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: "Họ hết rượu rồi.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trên toàn thế giới biết noi gương bắt chước Mẹ Ma-ri-a mà quan tâm đến nhu cầu của tha nhân và cầu xin Chúa Giê-su Ki-tô can thiệp giúp đỡ những người thiếu thốn phần hồn phần xác.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.5 «Ngài có bảo gì hãy làm theo.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết thực hiện lời nhắn nhủ của Đức Ma-ri-a mà thi hành mọi mệnh lệnh, yêu cầu của Chúa Ki-tô Giê-su.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 2 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Isa 62:1-5; I Cor 12:4-11; Jn 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành hiệp nhất trong những khác biệt của nhau.
Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, ban ân sủng, và trao sứ vụ khác nhau. Ngài muốn mỗi người chu toàn sứ vụ của mình theo như những gì được ban cho, để xây dựng gia đình, xã hội, và Nhiệm Thể của Đức Kitô. Nhưng rất nhiều người không hiểu sự quan phòng của Thiên Chúa, họ lấy mình làm tiêu chuẩn để nhận xét, phê bình và đòi hỏi tha nhân phải giống họ. Hậu quả là họ phải gánh là bất đồng ý kiến, chia rẽ, và hận thù.
Các Bài Đọc hôm nay mời gọi con người hãy nhận ra sự khác biệt trong mỗi cá nhân, về quà tặng cũng như sứ vụ; để tôn trọng tha nhân và cùng nhau xây dựng Nước Chúa. Trong Bài Đọc I, vì không biết vâng lời Thiên Chúa và tôn trọng tha nhân, Jerusalem được ví như một người vợ bị chồng là Thiên Chúa bỏ rơi và con cái bị lưu đày cực khổ các nơi; nhưng tiên-tri Isaiah nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ đoái thương nhìn đến và nối lại tình xưa nghĩa cũ với Jerusalem, vì Ngài là Thiên Chúa trung thành yêu thương. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu bật một chìa khóa quan trọng để gìn giữ sự hiệp nhất và hạnh phúc trong gia đình cũng như cộng đoàn, là phải nhận ra những gì có chung và những gì khác biệt, để tôn trọng những khác biệt của nhau và cùng nhau xây dựng lợi ích chung. Mô hình lý tưởng là sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Mẹ Maria nhận ra ngay sự khó khăn của đôi tân hôn trong ngày trọng đại nhất của cuộc đời họ. Mẹ biết chỉ một người duy nhất có thể cứu vãn tình thế là Chúa Giêsu; nhưng Mẹ chỉ biết cầu cứu Chúa và nhắn nhủ các người giúp việc: "Hễ người bảo gì, cứ làm như vậy."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa.
1.1/ Jerusalem hoang phế sẽ được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới: Jerusalem được tiên tri Isaiah nhân cách hóa như một người vợ để chỉ nhà Israel. Jerusalem bị Thiên Chúa bỏ rơi, vì đã bất trung với Thiên Chúa và bất công với tha nhân. Hậu quả là quân thù đã tiêu hủy bình địa Jerusalem và đem tất cả dân chúng đi lưu đày. Tuy nhiên, tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa là lý do Jerusalem được phục hồi. Thiên Chúa không đành lòng khi thấy Jerusalem điêu tàn hoang phế; nhưng Ngài phải sửa phạt để Jerusalem nhận ra những khuyết điểm của mình mà ăn năn xám hối và quay về với tình yêu đích thực. Nếu không sửa phạt, Jerusalem sẽ chết trong tội của mình và xa lìa Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay, tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày Jerusalem được phục hồi qua lời tuyên sấm: "Tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho. Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay."
1.2/ Hạnh phúc có được khi Jerusalem biết sống mối liên hệ với Thiên Chúa: Vì bất trung và không giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa mà Jerusalem bị mang tiếng là "Đồ bị ruồng bỏ!" Xứ sở bị mang tiếng là "Phận bạc duyên đơn." Nhưng một khi quay trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ yêu thương và chăm sóc Jerusalem như một người vợ yêu dấu. Lúc đó, Jerusalem sẽ được chồng là Thiên Chúa gọi: "Ái khanh lòng Ta hỡi!" Xứ sở sẽ được nổi danh là "Duyên thắm chỉ hồng." Jerusalem sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, Chúa sẽ lập hôn ước cùng xứ sở ngươi và Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Khi biết sống mối liên hệ của người vợ trung thành, Jerusalem sẽ trở thành niềm vui và niềm hãnh diện của Thiên Chúa.
2/ Bài đọc II: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.
Đây là một tư tưởng quan trọng trong nền thần học về thân thể của Phaolô, và là chìa khóa hiệu nghiệm để xây dựng hiệp nhất, bình an, và hạnh phúc. Thánh Phaolô khuyên con người nhận ra hai đặc điểm quan trọng:
2.1/ Những gì mọi người cùng có chung: Để có thể sống chung và cùng nhau làm việc, con người phải nhận ra những gì mọi người có chung. Ngài liệt kê ra những điểm có chung quan trọng:
(1) Một Thánh Thần: Đấng ban những đặc sủng khác nhau cho mỗi người để xây dựng lợi ích chung và Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(2) Một Chúa Kitô: Đấng hy sinh chịu chết cho mọi người được tha tội và mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Tất cả chúng ta là chi thể của một Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(3) Một Thiên Chúa: Đấng dựng nên và quan phòng mọi sự trong mọi người. Mỗi ngôi vị của Ba Ngôi Thiên Chúa tuy thi hành một sứ vụ khác nhau; nhưng cả ba cùng chung một mục đích là mưu cầu lợi ích cho con người.
(4) Chỗ khác, thánh Phaolô còn liệt kê thêm các tín hữu chỉ có một Phép Rửa, một niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa, và được tiền định để hướng về cùng một đích điểm.
2.2/ Những gì mọi người khác nhau: Bên cạnh những gì con người có chung, họ còn có rất nhiều khác biệt:
(1) Mỗi người được ban các đặc sủng khác nhau: "Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ.'' ''Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người."
(2) Đặc sủng khác nhau dẫn tới những ơn gọi khác nhau: giáo sư để giảng dạy, cha xứ để chăm sóc phần linh hồn cho dân, giáo dân để cung cấp nhân lực và giúp đỡ cho xã hội và Giáo Hội, bác sĩ để chữa lành ... Mỗi người một công việc khác nhau, không có ơn gọi này quan trọng hơn ơn gọi khác; nhưng tất cả đều góp phần trong việc xây dựng lợi ích chung.
(3) Mỗi người được tạo thành cách khác nhau: phái tính; tính khí; cơ thể ...
(4) Ngoài ra, mỗi người còn sống trong môi trường và những nền văn hóa khác nhau; được nuôi dưỡng, dạy dỗ, và trưởng thành trong những gia đình khác nhau.
Chúng ta không thể nào tìm được hai cá nhân giống nhau về mọi phương diện; vì thế, chúng ta đừng bao giờ bắt tha nhân phải suy nghĩ và hành xử giống mình về mọi phương diện.
3/ Phúc Âm: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
Trình thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu và là phép lạ đầu tiên trong Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là phép lạ quan trọng, vì nó khơi mào kỷ nguyên của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu tỏ uy quyền và sự quan tâm của Ngài cho Đức Mẹ, cho các môn đệ, và cho dân chúng để họ tin vào Ngài. Có ba phản ứng khác nhau trong trình thuật hôm nay.
3.1/ Phản ứng rất tinh tế của Đức Mẹ: Mẹ Maria, tuy là khách dự tiệc; nhưng Mẹ không giống như đa số khách dự tiệc đến để ăn. Mẹ là người đầu tiên nhận ra hoàn cảnh khó khăn của đôi tân hôn. Mẹ hiểu biến cố hết rượu trong ngày cưới sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi tân hôn, nên Mẹ đến cầu cứu với Chúa Giêsu cho đôi trẻ, và nói với con mình: "Họ hết rượu rồi." Sự kiện Mẹ chọn đến thưa chuyện với Chúa Giêsu chứng minh hai điều:
(1) Niềm tin của Mẹ vào uy quyền của Chúa Giêsu: Mẹ biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể cứu vãn tình thế cho đôi trẻ.
(2) Mẹ không truyền lệnh; nhưng cầu cứu để Chúa Giêsu tự do đáp trả.
Sau đó, Mẹ ra ngoài bếp và nhắn nhủ những người giúp việc một điều quan trọng: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
3.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu: Khi nghe lời Mẹ cầu cứu, Đức Giêsu trả lời: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến." Giờ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan là giờ mà Ngài được vinh quang khi bị treo trên Thập Giá. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu trên dương thế đều hướng về giờ này.
Thoạt nghe câu trả lời của Chúa Giêsu, nhiều người có thể cho là Ngài bất hiếu; nhưng họ cần phải suy xét thêm: Trong cuộc đời, mỗi người có một sứ vụ Thiên Chúa trao để chu toàn và có một thời gian cố định để chu toàn sứ vụ đó. Chúng ta đừng bao giờ bắt người khác phải thi hành sứ vụ đó theo yêu cầu và thời gian của chúng ta. Đây là chìa khóa để giữ bình an, hiệp nhất và hạnh phúc của gia đình.
Lời nhận xét của người quản tiệc là một ví dụ khác cho việc đừng bắt người khác phải luôn theo truyền thống, vì mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Ông trách tân lang: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ."
3.3/ Phản ứng của những người giúp việc: Trình thuật kể: "Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước."
- Đức Giêsu bảo các người giúp việc: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Đây không phải một lệnh truyền dễ thi hành vì phải ra đi kín một lượng nước lớn trong ngày lễ cưới; nhưng họ đã vâng theo lệnh truyền của Chúa và đổ đầy tới miệng.
- Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Lại một lệnh truyền không dễ làm vì đòi hỏi một niềm tin; nhưng họ vâng lời và đem cho ông quản tiệc.
- Kết quả: Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết rượu từ đâu ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang lại và hỏi: Tại sao giữ rượu ngon đến giờ này?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tránh thái độ tự tôn cho mình có thể làm mọi việc mà không cần sự giúp đỡ của tha nhân.
- Chúng ta phải tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đừng bao giờ bắt họ phải giống mình trong cách nhận xét, trình bày, và giải quyết các vấn đề.
- Điều chúng ta có thể làm là trình bày sự thật và mời gọi con người đáp trả; nhưng phải để cho tha nhân suy nghĩ và tự do đáp trả theo hoàn cảnh và thời gian của họ.
- Chúng ta đừng vội kết tội và đoạn tuyệt với tha nhân vì họ đã không nhận ra sự thật và làm theo ý muốn của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 16/01 Công hiệu của Lời Chúa
- 15/01 Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa
- 14/01 Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả xấu
- 13/01 Chúa Giêsu là Thượng-tế nhân-từ và trung-tín
- 11/01 Cùng nhau làm việc
- 10/01 Đức Kitô được tuyển chọn để thi hành sứ vụ
- 10/01:Chúa Giêsu chịu phép rửa
- 09/01 Phải tránh xa tội lỗi
- 08/01 Làm chứng nhân cho Đức Kitô
- 07/01 Yêu Chúa là thi hành thánh ý của Ngài
