Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọc: Isa 9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa.
- Một cụ già 93 tuổi, được coi là khá thành công trong cuộc đời: có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa. Về già, có nhiều thời gian nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả ngược xuôi cả cuộc đời cũng chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con đàn cháu thấy giật mình. Đứa thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết con cháu đều xa Chúa, cố gắng khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu nghe. Nếu Chúa không thương đưa con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau này Chúa cho gặp được bao nhiêu người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối đang vây bọc gia đình, nhưng làm sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
- Hòan cảnh của cụ già có lẽ cũng là hòan cảnh của hầu hết gia đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các cường quốc có nhiều cơ hội, chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà không bao giờ chịu cân nhắc những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha mẹ đã không quản ngại hy sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được tiến thân trong việc học hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được chúng báo hiếu sau này, như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn 30 năm vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những cố gắng của mình như cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật mình: gia đình có của nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, làm rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo hiếu cha mẹ; dạy dỗ khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta cũng chép miệng thở than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận một thực tại chúng ta không ao ước!
- Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta đã làm điều gì sai? Làm thế nào để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối sự chết này?
- Câu trả lời: Chúng ta đã không đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự. Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều thời giờ vào việc kiếm tiền, mà quên đi Lời Chúa báo trước: "Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài." Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời sống tâm linh mà chỉ chú trọng đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo trước: "Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra." Chúng ta đã chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian như danh vọng, quyền bính, khóai lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ: "Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi." Nói tóm, chúng ta đã không sống theo những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những gì Chúa dạy, làm sao chúng ta mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã không dạy cho con biết kính sợ Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết tới mình, tôn thờ vật chất, sống buông thả như không có ngày mai.
- Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài đọc đêm nay cung cấp cho chúng ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I: Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi ích khi con người có được Đấng Cứu Thế: Ngài như ánh sáng soi cho con người đang sống trong vùng bóng tối của sự chết. Ngài giúp giải thóat con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu, và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo cho con người: Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo. Chỉ có Mục đồng là những người đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế đến: Ngay trong tuần thứ I Mùa Vọng, Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt giữa người có và không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế trong cuộc đời mỗi người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi." Tình trạng của dân Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con người trước khi Đấng Cứu Thế đến là hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc của Do-Thái sắp sửa bị quân thù Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày. Con người bị bao quanh bởi bóng tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống trong bóng tối là con người chắc chắn sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, và nhất là mang lại Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau khổ: "Vì Chúa đã gia tăng các quốc gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median."
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ của dân Do-Thái trong nơi lưu đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và sự hiện diện của Thiên Chúa không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi Ngài cho họ được trở về quê hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những điều này là do Thiên Chúa làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc nhở cho dân nhớ lại chiến thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi quân lính về hết, kẻo họ nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia và nỗi vui mừng bằng cách loan Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: "Vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền cai trị (arché) trên vai, tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa uy quyền, Người Cha muôn thuở, Hòang Tử hoà bình." Tên là người; những danh hiệu này cần được hiểu thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố vấn phải là người khôn ngoan, có khả năng nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn kỳ diệu cho con người, vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người. Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời, chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy dáng vẻ là con người yếu đuối, nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Con này làm được mọi sự, và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu chúng ta có Ngài trong đời, Ngài sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản tính của người cha là yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của con người. Bằng việc nhập thể, chính Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc từng người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ; trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có bình an, người lãnh đạo phải yêu mến bình an, và phải có khả năng đem lại bình an. Người Con này có khả năng hòa giải giữa con người với con người, và giữa con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người có được Hòang Tử bình an này, con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: "Quyền cai trị của Ngài sẽ gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực, từ nay cho đến mãi muôn đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó."
- Trong khi các vua chúa trần gian gia tăng quyền cai trị của họ bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương quốc của mình bằng hòa bình. Điều này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát triển của Giáo-hội: con số những người tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng, không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
- Tiên-tri Isaiah liên kết giữa triều đại của David và của Người Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và các Tiên-tri, triều đại của Nhà David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện được qua Người Con thuộc giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được tồn tại đến muôn đời.
- Trong khi các vua chúa trần gian củng cố vương quốc của mình bằng đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố vương quốc bằng công bình và chính trực. Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân chúng một thời gian; công bình và chính trực sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời (Lk 1:32-33).
- Tác nhân chính của sự gia tăng là Thiên Chúa và lòng nhiệt thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài năng, hay sức mạnh của con người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con này cho con người (Jn 3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết sống: Con người làm bất cứ một việc gì đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục đích của cuộc đời là "trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang;" họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày đó. Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống thế gian và những đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới mục đích của cuộc đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người: Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô giải thóat con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi); cách tích cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực này làm con người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu Thế: Không giống như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường thuật bởi Thánh sử Luca cách vắn tắt như sau: "Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền Galilee lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc vua David. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ."
Khỏang cách từ Nazareth đến Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn còn tồn tại tới hôm nay. Các hang đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn tại ở Do-Thái cho tới ngày nay. Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở một chỗ; nhưng thích lang thang khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước cho súc vật họ sẽ định cư tại đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì bẩn thỉu và không thể giữ các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm phúc là những người đầu tiên biết Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh này?
Mối Phúc thứ nhất: "Phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ" sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong hòan cảnh nghèo khó, chứ không trong dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm nhận thân phận cùng cực của kiếp người. Vì sinh ra trong hòan cảnh nghèo hèn như thế, chỉ có những người nghèo như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" cũng củng cố cách cắt nghĩa này. Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần loan báo cho các mục-đồng: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã quá yêu thương nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập Thể, con người sẽ chết trong tội.
- Món quà Giáng Sinh quí giá nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta là chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ ân huệ cần thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc đời.
- Ơn Cứu Độ phải trở thành đích điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
- Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ, mà lại chọn sinh ra trong cảnh khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn giản và nghèo khó làm chúng ta dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những nhu cầu của tha nhân hơn.
- Mong sao cho Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay giải thóat các gia đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và đưa chúng ta vào miền ánh sáng, bình an, và hoan lạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 23 tháng 12 MV
Bài đọc: Mal 3:1-4, 23-24; Lk 1:57-66.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Gioan là sứ giả dọn đường cho Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày cuối cùng chuẩn bị cho Mùa Vọng, trước khi chúng ta vui mừng đón Chúa sinh ra trong Thánh Lễ Nửa Đêm. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta chú trọng đến Gioan, vì ông là Sứ-giả dọn đường cho Con Thiên Chúa tới. Ông là nhân vật quan trọng vì nếu ông không chuẩn bị cho dân đón Chúa, dân sẽ không gặp được Ngài. Ông phải chỉ đường thì con người mới biết đường đi. Ông phải hướng dẫn thì con người mới không đi lạc.
Trong Bài đọc I, Tiên-tri Malachi nói trước về nhiệm vụ của sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Truyền thống Do-Thái tin sứ giả này chính là Tiên-tri Elijah. Chính Chúa Giêsu cũng cho các Tông-đồ biết Gioan Tẩy Giả chính là Tiên-tri Elijah.
Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca tường thuật về biến cố sinh ra của Gioan Tẩy Giả và những điều ngạc nhiên chung quanh biến cố này: Cả hai cha mẹ đều muốn đặt tên con mình là Gioan, mặc dù không đàm thọai được với nhau trước; vì ông Zechariah bị Chúa phạt câm. Nhưng sau khi cho biết tên con, miệng lưỡi ông mở ra và nói được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiên-tri Elijah phải đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
1.1/ Sứ-giả và Đấng Cứu Thế: Sách Tiên-tri Malachi được viết sau Thời Lưu Đày, khỏang 515 BC. Cũng như nhiều các Tiên Tri khác, Tiên-Tri Malachi tin triều đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến: "Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo binh phán." Theo lời tiên tri này, một Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.
1.2/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-Thái tin: Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là ngày kinh hòang của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng cho những người Israel còn sót. TT Malachi nói về Ngày này như sau: "Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc."
Hai nhiệm vụ chính của Sứ-giả dọn đường cho Đấng Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân chúng để họ sẵn sàng cho Ngày của Thiên Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của người luyện kim và thuốc tẩy của người thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết vàng nào là vàng thực và tinh luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng để tẩy sạch những vết dơ bám vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và tinh luyện chính là tâm hồn con người, sao cho xứng đáng để có thể đứng vững trong Ngày của Đức Chúa.
Tiên-tri Malachi lên án những lỗi lầm của hàng tư tế vì họ lười biếng và khinh thường Thiên Chúa trong việc thờ phượng. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ, Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà tác giả nhắm tới là hàng tư tế Levi và tâm hồn của họ: "Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Judah và của Jerusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước."
1.3/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế: "Này Ta sai Ngôn-sứ Elijah đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt."
Song song bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận của con người đối với tha nhân; nhất là những người trong gia đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị lơ là thì mối liên hệ chiều ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường cho Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con người với con người, trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
2/ Phúc Âm: Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả
2.1/ Niềm vui khi Gioan chào đời: Có nhiều lý do để vui mừng chung quanh biến cố chào đời của Gioan Tẩy Giả: (1) Cha mẹ của Gioan vui mừng vì họ được Thiên Chúa cho có con trong lúc cao niên. (2) Niềm vui của ông bà được gấp đôi vì không những có con, mà lại có con trai để nối dõi tông đường. (3) Bên cạnh niềm vui có con, còn một niềm vui khác là ông Zechariah khỏi bệnh câm. (4) Trên hết mọi niềm vui là Gioan được tuyển chọn là Sứ-giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tất cả bà con và láng giềng biết Thiên Chúa đã quá thương ông bà, nên đến chia vui, và họ tự hỏi "tương lai của trẻ này sẽ ra sao," vì quả thực "bàn tay của Thiên Chúa đặt trên con trẻ."
2.2/ Sự lạ chung quanh việc đặt tên: Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và đặt tên cho em. Giống như truyền thống Việt-Nam quan niệm "tên là người," vì thế, phải đặt tên làm sao để mỗi khi nhắc tới tên, người ta nhớ tới hòan cảnh em được sinh ra, hay ước mơ cha mẹ muốn em trở thành. Có 3 ý kiến khác nhau trong việc đặt tên cho con trẻ hôm nay:
(1) Họ hàng tính lấy tên cha là Zechariah mà đặt cho em, vì ông Zechariah không nói được. Đây là điều thông thường vì truyền thống Do-Thái có thói quen lấy tên người cha đặt cho con trẻ; nhất là những gia đình hiếm hoi.
(2) Ý của người mẹ: Bà Elizabeth phản đối: "Không, phải đặt tên cháu là Gioan (John)." Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả." Tên John là tên viết tắt của tiếng Do-Thái, Jeho-hannah, có nghĩa: quà tặng của Thiên Chúa. Nếu xét về hòan cảnh của bà Elizabeth, em đúng thực là quà tặng của Thiên Chúa cho gia đình Bà.
(3) Ý của người cha: Vì có xung đột ý kiến, nên họ làm hiệu hỏi ý kiến người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gioan." Đây là tên mà Sứ-thần Gabriel truyền cho ông phải đặt tên cho con trẻ (Lk 1:13).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta đều là sứ giả dọn đường cho Chúa đến, nơi những người Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
- Bổn phận của chúng ta là làm gương, rao giảng, dạy dỗ, an ủi, và chỉ đường cho họ về với Chúa. Chúng ta chỉ có thể chu tòan những bổn phận này nếu chúng ta đã có Chúa. Làm sao chúng ta có thể hướng dẫn họ đến với Chúa nếu bản thân chúng ta chưa có Ngài?
- Chúng ta phải học hỏi nơi Gioan về cách sống đơn giản, tính thành thật, khiêm nhường, và cách ông chuẩn bị cho dân đến gặp Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 22 tháng 12 MV
Bài đọc: I Sam 1:24-28; Lk 1:46-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhận biết và cám ơn quà tặng của Thiên Chúa.
Nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho đã khó, biết cám ơn Thiên Chúa còn khó hơn. Trong Phúc Âm, Chúa chữa lành 10 người phong cùi; nhưng chỉ có một người ngọai biết quay trở lại để cám ơn Thiên Chúa. Cám ơn Thiên Chúa đã khó, biết dâng lại những gì Thiên Chúa ban còn khó hơn gấp bội. Thế mà có những người mẹ không con, sau khi được Thiên Chúa ban cho một người con, lại dám can đảm hy sinh dâng lại người con duy nhất để làm việc cho Thiên Chúa. Các Bà tuy rất thương và muốn con ở với mình, nhưng lòng biết ơn Thiên Chúa mạnh hơn tính ích kỷ cá nhân. Các bà biết rõ: nếu Thiên Chúa không can thiệp, chẳng bao giờ các bà có được người con đó.
Các Bài đọc hôm nay tường thuật tâm tình biết ơn của hai người mẹ anh hùng này. Trong Bài đọc I, Bà Anna hiểu thấu nỗi ô nhục của người không có con: đối phương của Bà chọc tức Bà. Quá đau khổ, Bà cầu xin Thiên Chúa thương ban cho mình một mụn con, và sẽ dâng nó lại cho Thiên Chúa để phục vụ trong Đền Thờ. Khi được Thiên Chúa ban cho một con trai, Samuel, Bà đã giữ lời hứa, dâng con mình lại cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Trinh Nữ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ tầm thường trước mặt Thiên Chúa; nhưng được Thiên Chúa cất nhắc lên thiên chức "Mẹ Đấng Cứu Thế" là do hòan tòan quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng sẵn sàng dâng Chúa Giêsu lại cho Thiên Chúa, để Ngài hòan tất sứ vụ đã được Chúa Cha trao phó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bà Anna dâng lại đứa trẻ Thiên Chúa ban để nó phục vụ Thiên Chúa.
1.1/ Nỗi ô nhục của người vợ không con: Ông Elkanah có hai vợ: một bà tên là Anna, một bà tên là Peninnah. Bà Peninnah có con, còn bà Anna không có con. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Anna, ông chia cho một phần ngon vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức để hạ nhục bà, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Ông Elkanah vẫn làm như thế năm này qua năm khác, mỗi lần ông lên Nhà của Đức Chúa tại Shiloh; còn bà kia cứ chọc tức bà Anna như thế. Mỗi lần xảy ra, Bà chỉ biết khóc và không chịu ăn.
1.2/ Bà Anna cầu nguyện và xin Thiên Chúa ban cho một đứa con: Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Đức Chúa và khóc nức nở. Bà khấn hứa rằng: "Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó." Tư-tế Eli khuyên: "Bà hãy về bình an. Xin Thiên Chúa của Israel ban cho bà điều bà đã xin Người!" Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp lòng ngài!" Rồi bà Anna ra về; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn sầu khổ như trước nữa.
1.3/ Lời cầu xin của Bà Anna được Thiên Chúa nhận lời: Sau đó, ông Elkanah ăn ở với bà Anna, vợ mình, và Đức Chúa đã nhớ đến bà. Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuel, vì bà nói: "Tôi đã xin Đức Chúa được nó." Năm sau, Elcanah lên Shiloh với cả gia đình, để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa, và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà Anna không lên, và bà nói với chồng: "Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi." Ông Elkanah bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa cho nó. Chỉ xin Đức Chúa thực hiện lời Người."
1.4/ Bà Anna dâng lại cho Thiên Chúa người con Ngài ban tặng: Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Shiloh; đứa trẻ còn nhỏ lắm. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Eli. Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa." Và ở đó, họ thờ lạy Đức Chúa.
2/ Phúc Âm: Đức Mẹ Maria ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa.
2.1/ Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành: Mẹ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ hèn hạ trước mặt Thiên Chúa; hơn nữa, Mẹ cũng chỉ là một tạo vật thấp hèn được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đóai thương nhìn đến, mà Mẹ được cất nhắc lên để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Hồng ân này không những làm cho mẹ được ơn cứu độ, mà còn ban rộng ra đến tất cả mọi người. Với tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Mẹ vui mừng ca tụng Ngài: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!"
2.2/ Thiên Chúa xót thương những ai kính sợ Ngài: Biết kính sợ Thiên Chúa không những là nguồn gốc mọi khôn ngoan, mà còn là điều kiện để được hưởng muôn ơn lành. Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi, tác giả của Bài Magnificat đã nêu lên 3 điều cách mạng chính của Thiên Chúa:
(1) Cách mạng luân lý: Thiên Chúa chống kẻ kiêu căng và đề cao người khiêm nhường; trong khi người thế gian thường thích kiêu căng, cậy sức mình, và khinh thường Thiên Chúa.
(2) Cách mạng xã hội: Thiên Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những kẻ thấp hèn; trong khi người thế gian thường cậy quyền thế và đàn áp kẻ khó nghèo.
(3) Cách mạng kinh tế: Thiên Chúa cho kẻ đói nghèo được dư dật và đuổi người giầu về tay trắng; trong khi ở thế gian: người giầu lại giầu thêm, còn kẻ nghèo càng nghèo hơn.
2.3/ Thiên Chúa trung thành thực thi Lời Hứa: Tất cả những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực thi; không phải vì con người xứng đáng được hưởng, nhưng chỉ vì lòng thương xót của Ngài: "Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương: nếu chúng ta kiên trì biểu lộ niềm tin của chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta xin.
- Chúng ta phải có lòng khiêm nhường và biết kính sợ Thiên Chúa. Chúng ta phải có lòng biết ơn về những quà tặng Thiên Chúa ban.
- Quà tặng Chúa ban là để phục vụ, chứ không ích kỷ giữ cho mình. Chúng ta phải biết dùng những quà tặng Thiên Chúa ban để phục vụ Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 21 tháng 12 MV
Bài đọc: Cant 2:8-14; Lk 1:39-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa viếng thăm Dân Ngài.
Cuộc đời con người trên dương thế là những chuỗi ngày kết tụ bằng hạnh phúc và đau khổ, đoàn tụ và ly tán, yêu thương và ghen ghét, tha thứ và hận thù... Con người chỉ hoàn toàn hạnh phúc, vui mừng, và bình an khi con người biết ăn năn trở lại và hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, như tình trạng vô tư nguyên thủy khi con người chưa biết đến tội lỗi. Khi phải sống lưu đày xa Thiên Chúa, cả Thiên Chúa và con người đều đau khổ; vì Ngài dựng nên con người để chung hưởng tình yêu và hạnh phúc với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong niềm vui mừng khi con người được Thiên Chúa đến viếng thăm. Trong Bài Đọc I, Sách Diễm Tình Ca mô tả nỗi vui mừng và sung sướng khi một người con gái được tình quân tới viếng thăm. Trong Cựu Ước, nhiều tác giả đã so sánh mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người nóng bỏng và mật thiết như tình yêu giữa hai vợ chồng: Thiên Chúa là chồng và Israel là vợ (x/c Hos 1-3, Isa 62:5, Jer 3:1-10, Eze 16, 23). Sự bội phản của con người được ví như một người làm điếm, nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ và không ngừng tìm kiếm đưa con người trở lại với tình yêu ban đầu. Trong Phúc Âm, thánh sử Luca tường thuật sự thăm viếng độc nhất vô nhị Thiên Chúa dành cho con người: bề ngoài là cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Elisabeth, bề trong là cuộc gặp gỡ giữa Đấng Thiên Sai và Dân Ngài, được tượng trưng qua sự hiện diện Gioan Tẩy Giả, người tiên tri cuối cùng của Cựu Ước.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào!"
1.1/ Cuộc hò hẹn của hai con người đang yêu nhau: Khi đang yêu, đôi bạn muốn thường xuyên ở bên nhau để được nhìn thấy và nghe tiếng của nhau. Trình thuật hôm nay nói lên nỗi vui mừng của người con gái khi chờ đợi người yêu đến viếng thăm: "Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi. Người yêu của tôi chẳng khác gì linh dương, tựa hồ chú nai nhỏ."
1.2/ Nỗi đau khổ khi hai người phải xa nhau và niềm vui khi được xum họp.
(1) Nỗi đau khổ và nhớ thương khi phải chờ đợi người yêu một thời gian dài: Tác giả diễn tả nỗi đau khổ một cách vắn gọn: "Tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt, đã xa lắm rồi." Mùa Đông tượng trưng cho sự chờ đợi dai dẳng, lạnh lẽo, và đau buồn. Người con gái mong chờ cho những ngày mùa Đông chấm dứt để gặp mặt người yêu. Đây cũng là tâm trạng của con người khi phải lưu đày và sống xa Thiên Chúa: con người phải làm lụng vất vả và phải chịu đựng mọi đau khổ, vì không còn được sống trong vòng tay yêu thương và bảo vệ của Thiên Chúa. Con người mong được Thiên Chúa ghé mắt nhìn đến và ra tay giải thoát. Thiên Chúa cũng chẳng vui sướng gì khi phải lìa xa con người. Ngài luôn tìm mọi dịp để hoán cải và đưa con người trở về.
(2) Niềm vui và hạnh phúc khi hai người được xum họp: Khi mùa Đông lạnh giá qua là mùa Xuân nắng ấm tới. Lòng người con gái vui mừng vì sắp được gặp lại người yêu. Trời đất và các tạo vật cũng thay đổi như cùng chung vui với sự trùng phùng của hai người: "Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào." Nỗi mong muốn được gặp mặt và nghe tiếng của nhau sau bao năm trường xa cách được biểu tỏ qua lời yêu thương của tình quân nói với người yêu: "Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào! Bồ câu của anh ơi, em ẩn trong hốc đá, trong vách núi cheo leo. Nào, cho anh thấy mặt, nào, cho anh nghe tiếng, vì tiếng em ngọt ngào và mặt em duyên dáng."
2/ Phúc Âm: "Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng."
2.1/ Mẹ Maria lên đường thăm viếng chị họ Elisabeth: ''Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Judah. Bà vào nhà ông Zachariah và chào hỏi bà Elisabeth." Nhìn bề mặt, đó là cuộc thăm viếng giữa con người với con người; nhưng nhìn bề trong, đó là cuộc thăm viếng của Thiên Chúa dành cho con người. Đây là cuộc thăm viếng có tính cách lịch sử, vì Thiên Chúa đã chuẩn bị biến cố này lâu năm, ngay từ khi con người sa ngã trong vườn Địa Đàng. Con người khao khát cuộc thăm viếng này; vì nhờ nó, con người được Thiên Chúa đổi vận mạng: từ chỗ phải chết đến chỗ sống muôn đời, từ chỗ bị lưu đày đến chỗ được vào Đất Hứa, từ chỗ phải xa cách Thiên Chúa đến chỗ được đoàn tụ với Ngài muôn đời.
Bà Elisabeth có được hai niềm vui lớn: Thứ nhất, Bà phải chịu cảnh góa bụa đau khổ và tai tiếng của người đời sau bao năm không có con; nhưng Thiên Chúa đã thay đổi cuộc đời Bà, cho Bà được mang thai Gioan Tẩy Giả trong lúc cả hai ông bà đã quá tuổi sinh con. Thứ hai, Bà được Mẹ Thiên Chúa tới viếng thăm, vì Người Con Mẹ Maria sắp sửa sinh ra sẽ mang lại ơn cứu độ cho Bà và cho muôn người.
2.2/ Chúa Giêsu thăm viếng Gioan Tẩy Giả.
(1) Bà Elisabeth nhận ra Người Con Maria đang mang trong lòng là Đấng Cứu Thế: Điều kỳ lạ là Mẹ Maria chưa nói lời gì với Bà Elisabeth cả; trình thuật chỉ nói: "Khi Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" Nguyên do của việc nhận ra là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả nhảy mừng. Thánh Thần là Thần Sự Thật, Ngài giúp cho cả hai mẹ con Bà Elisabeth nhận ra Đấng Thiên Sai. Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả tượng trưng cho gia đình nhân loại trong Cựu Ước, vui mừng khi được Đấng Thiên Sai đến viếng thăm. Bà Elisabeth biết rõ lý do tại sao Đức Mẹ thật có phúc: "vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
(3) Gieo trong đau thương sẽ gặt trong vui mừng: Hai người đàn bà vui mừng vì hai người con sắp được sinh ra là Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả; nhưng đau khổ và chia ly chẳng bao lâu sẽ xảy ra không những cho Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả mà còn cho hai bà mẹ. Tại sao Thiên Chúa yêu thương lại để những đau khổ và chia ly xảy ra trong cuộc đời chúng ta? Có lẽ câu hỏi chúng ta phải đặt lại: Tại sao chúng ta lại nhẫn tâm khinh thường tình yêu Thiên Chúa, cha mẹ, và những người đã yêu thương chúng ta trong cuộc đời? Tại sao chúng ta không quan tâm đến những lo lắng và đau khổ của họ? Khi chúng ta tìm được câu trả lời này, chúng ta đã hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và của đau khổ. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa: những đau khổ, chia ly, than khóc trên đời này chỉ tạm thời chóng qua; khi được về với Thiên Chúa, mọi đau khổ và ly tan sẽ chấm dứt.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài đau khổ khi chúng ta sống xa cách Ngài; và mừng rỡ nhảy mừng khi chúng ta quay trở lại với Ngài. Đau khổ xảy ra khi chúng ta khinh thường tình yêu của Thiên Chúa, của cha mẹ, và của tha nhân dành cho chúng ta; niềm vui có được khi chúng ta biết nhận ra và trân quí những tình yêu đó.
- Khi xa Thiên Chúa, con người chìm đắm trong đau khổ và làm nô lệ cho tội lỗi; khi trở về với Ngài, con người được bình an, hạnh phúc, và phục hồi mọi sự đã mất. Một khi đã trở về với Thiên Chúa, chúng ta hãy sống kết hiệp mật thiết với Ngài, để đừng bao giờ lìa xa Ngài nữa. Chúng ta hãy thưa với Ngài: Emmanuel! Xin Chúa hãy ở với con luôn mãi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Mic 5:1-4a; Heb 10:5-10; Lk 1:39-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, bé nhỏ, nghèo hèn.
Con người ưa thích những gì hoành tráng, uy quyền, và lộng lẫy. Nếu phải chọn nơi để sinh ra, con người sẽ chọn được sinh ra trong hoàng cung, nơi có đầy đủ mọi phương tiện để con người được sung sướng và hạnh phúc. Trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa hành động khác hẳn con người. Ngài chọn cho Con mình một cha mẹ nghèo hèn, khiêm nhường; và chọn cho con mình sinh ra nơi một thành bé nhỏ ít người biết đến. Đây không phải là lần đầu, nhưng trong lịch sử của Cựu Ước cũng như Tân Ước, nhiều lần Ngài chứng tỏ điều này, như Thiên Chúa chọn Jacob thay vì Esau, Giuse thay vì các anh của ông, David trẻ nhất trong số các con của Jesse...
Chỉ còn vài ngày nữa là tới biến cố độc nhất vô nhị xảy ra trong lịch sử; nhưng làm sao để chúng ta nhận ra và đón nhận Đấng Thiên Sai vào trong cuộc đời? Các Bài Đọc hôm nay nêu bật ý định của Thiên Chúa: Nếu con người muốn đón nhận Đấng Thiên Sai, họ phải trở nên khiêm nhường, tin tưởng, và vâng lời. Đừng tìm Ngài trong những huy hoàng tráng lệ; nhưng trong những nơi đơn sơ, bé nhỏ, nghèo hèn. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Micah báo trước gần 700 năm trước khi Đấng Thiên Sai ra đời: Ngài sẽ sinh ra trong một thành nhỏ bé nhất của Judah, trong một thị tộc nhỏ bé nhất Ephratha; nhưng nguồn gốc của Ngài có từ muôn đời và Ngài dùng uy quyền cai trị của Thiên Chúa để mang ơn cứu độ cho mọi người và cứu thoát tất cả các chi tộc của Israel. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái quả quyết Thiên Chúa hài lòng những người tuân phục và làm theo ý muốn của Ngài hơn trăm ngàn của lễ hy sinh chiên cừu. Trong Phúc Âm, Thiên Chúa chọn trinh nữ Maria, một thôn nữ quê mùa, mộc mạc, đơn sơ, để làm Mẹ Đấng Thiên Sai giữa bao phụ nữ khác đẹp đẽ, uy quyền, và sang trọng của cả nước Israel. Lý do: Mẹ khiêm nhường, đơn sơ, kín đáo, thương người và nhất là luôn tìm để làm theo ý Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hỡi Bethlehem Ephratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.
1.1/ Thiên Chúa chọn những gì bé nhỏ nghèo hèn: Nếu một người cha thế gian chọn cho con mình một nơi để sinh ra, chắc chắn ông sẽ chọn Jerusalem, một kinh thành có đầy đủ tiện nghi và nổi tiếng. Ngược lại với khuynh hướng con người, Thiên Chúa chọn cho con mình sinh ra ở Bethlehem, một thành nhỏ nhất của Judah; khoảng 30 dặm về phía Nam của Jerusalem. Bethlehem là nơi sinh trưởng của vua David. Thiên Chúa chọn David là đứa con nhỏ nhất trong gia đình của Jesse, để làm vua thay Saul. Khi David lên ngôi, ông đã dời kinh đô về Jerusalem.
Hơn nữa, Ngài còn chọn một thị tộc nhỏ bé nhất của Judah là Ephratha, để cho Con của Ngài sinh ra, như tiên-tri Micah loan báo gần 700 năm trước khi Đấng Cứu Thế ra đời: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem Ephratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.'' Lời tiên tri này rất quan trọng, vì nó sẽ được các kinh-sư dùng để trả lời cho ba nhà đạo sĩ từ phương Đông đến hỏi: Vua người Do-thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người.
1.2/ Căn tính của Đấng Thiên Sai: Giống như thị kiến của tiên-tri Daniel sau này (7:13-14), tiên tri Micah mặc khải hai căn tính quan trọng của Đấng Thiên Sai:
(1) Nguồn gốc: Tuy Ngài sinh ra trong thời gian, nhưng "nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.'' Theo Daniel, Ngài tuy có hình ảnh của Con Người, nhưng lại "ngự giá mây trời mà đến."
(2) Uy quyền: Tuy Ngài là con người, nhưng Ngài có quyền lực của Thiên Chúa: "Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ." Theo Daniel, "Đấng Lão Thành [Thiên Chúa] trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người."
(3) Triều đại: Không giống như triều đại của vua chúa thế gian, triều đại của Người sẽ an bình, thịnh vượng, và tồn tại muôn đời: "Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Người sẽ chiến thắng Assyria. Chính Người sẽ đem lại hoà bình.'' Theo Daniel, "Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong."
2/ Bài đọc II: "Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài."
2.1/ Vâng lời quan trọng hơn của lễ: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa truyền cho con cái Israel phải dâng của lễ để đền những tội họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; nhưng dần dần, người Do-thái quá chú trọng đến lễ vật bên ngoài, mà quên đi sự xám hối, tình thương, và công bằng bên trong. Nhiều ngôn-sứ trong Cựu Ước đã cảnh cáo dân về việc vụ hình thức bên ngoài, và kêu gọi họ chú trọng đến tâm hồn bên trong. Tác giả Thư Do-thái cũng theo chiều hướng này, khi nói về sự cao trọng hy lễ của Đức Kitô. Ông muốn nêu bật hai điểm chính:
(1) Mục đích của thân xác: "Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể." Đối với con người, việc làm cần thiết để biểu tỏ niềm tin vào Thiên Chúa. Đức Kitô được Chúa Cha ban cho một thân thể để Ngài thi hành thánh ý Thiên Chúa và dạy dỗ con người. Ngài dùng miệng để rao giảng Tin Mừng, dạy dỗ, và an ủi tha nhân, dùng tay để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, và dùng chân để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng... Sau cùng, Ngài dùng chính thân thể của Ngài để chịu đựng đau khổ và chết thay cho con người.
(2) Đức vâng lời: ''Chúa chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.'' Đây là những lời trích từ thánh vịnh 40:6-9, và là một chân lý hiển nhiên, vì tất cả mọi sự trên đời này là của Thiên Chúa. Ngài cũng chẳng có mũi để ngửi hay miệng lưỡi mà thưởng thức các lễ vật của con người. Điều làm Thiên Chúa vui lòng là con người kính sợ và làm theo thánh ý của Ngài.
2.2/ Hy lễ của Đức Kitô vượt xa các lễ vật của Cựu Ước.
(1) Lễ vật của Cựu Ước: " Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.'' Trước hết, máu chiên bò đổ ra thay cho con người không phải là máu của tự nguyện, nhưng bị con người bắt và giết đi. Thứ hai, máu này không đủ để tha tội, nhất là những tội cố tình, nên phải tái diễn nhiều lần. Sau cùng, máu này không có sức thánh hóa con người hay làm cho trở nên tốt hơn.
(2) Hy lễ của Đức Kitô: ''Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.'' Máu của Đức Kitô đổ ra chính là máu của Con Thiên Chúa, Ngài tự nguyện hy sinh chịu chết cho con người. Máu này chỉ cần đổ ra một lần là đủ vì có sức mạnh để tha tất cả các tội của con người. Từ đó đến nay, Đức Kitô đã chấm dứt lễ tế cũ và thay bằng Thánh Lễ. Điều này được chứng minh trong lịch sử là Đền Thờ bị phá hủy hoàn toàn từ năm 70 AD tới giờ; người Do-thái có muốn dâng lễ tế đền tội cũng chẳng còn Đền Thờ mà dâng. Sau cùng máu này không những tha mọi tội, mà còn có sức thánh hóa và làm cho con người trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ các ơn thánh của bí tích Thánh Thể.
3/ Phúc Âm: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
3.1/ Đức Mẹ lên đường thăm viếng bà Elisabeth: "Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Judah. Bà vào nhà ông Zachariah và chào bà Elisabeth."
Không những Thiên Chúa chọn cho con mình sinh ra ở một nơi bé nhỏ nghèo hèn; mà còn chọn cho con mình một người mẹ rất đơn sơ, nhỏ bé, khiêm nhường; nhưng vâng lời làm theo ý Thiên Chúa, và có lòng yêu thương tha nhân. Biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng Elisabeth, người chị họ, cho chúng ta thấy những đức tính nổi bật nơi Đức Mẹ.
Theo truyền thống, Ein Karim là nơi gia đình của ông Zachariah và bà Elisabeth sinh sống nằm giữa đường từ Jerusalem đến Bethlehem. Thông thường, người kém địa vị hơn phải đi thăm người có địa vị cao hơn, hay người cần được ban ơn phải đi thăm người có quyền ban ơn. Mẹ đã chọn đi bước trước để chào thăm và giúp đỡ người chị họ chứ Mẹ không đợi người chị họ Elisabeth đến thăm mình; dù Mẹ biết mình đang cưu mang Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa Tối Cao. Khi một người ở địa vị cao hơn đi bước trước để thăm viếng, người đó biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu chân thật để tỏ sự quan tâm đến người mình yêu. Mẹ cũng mang niềm vui và muôn ơn của Thiên Chúa đến cho bà Elisabeth qua cuộc thăm viếng này. Nếu Thiên Chúa Tối Cao đã biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu khi Ngài viếng thăm con người, chúng ta là ai mà ngồi yên trông chờ người khác đến thăm viếng chúng ta!
3.2/ Bà Elisabeth chúc mừng Đức Mẹ.
(1) Thánh thần ở với Gioan ngay từ khi còn trong bụng mẹ: Trình thuật Lucas tường thuật một sự kiện lạ: Khi "Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần."
Người Mẹ có thể nhận ra sự khác thường của đứa con trong bụng mình. Khi Gioan, đại diện cho những con người trong Cựu Ước nhận ra Đấng Thiên Sai đến viếng thăm, đã nhảy mừng tuy vẫn còn trong bụng bà Elisabeth.
(2) Bà Elisabeth lớn tiếng ca tụng Mẹ Maria: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Bà Elisabeth tuyên xưng những sự thật về Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ; không một phụ nữ nào được Thiên Chúa ban ơn và chúc phúc cho hơn Đức Mẹ. Bà cũng được linh hứng của Chúa Thánh Thần để tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa; điều mà phải đợi đến Công Đồng Êphesô vào năm 430, Giáo Hội mới chính thức công nhận danh hiệu này. Thứ hai, con trẻ Gioan đang trong dạ mẹ cũng được chúc phúc; vì Thiên Chúa đã đoái thương và viếng thăm dân Ngài. Khi Thiên Chúa đến viếng thăm, Ngài mang ơn cứu độ đến cho con người. Sau cùng, bà Elisabeth nói rõ lý do của mọi phúc lành: Vì Mẹ Maria đã tin vào những gì Thiên Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện. Đức tin làm cho con người được chúc phúc và trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa, chứ không do bất cứ sự cao trọng nào hay sự xứng đáng của con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để tìm kiếm và nhận ra Thiên Chúa, chúng ta đừng mong tìm Ngài trong những lộng lẫy xa hoa của thế gian; nhưng trong những nơi nghèo nàn, nhỏ bé như Bethlehem của Judah.
- Thiên Chúa không quan tâm đến những thành quả hay việc to lớn mà chúng ta đạt được; nhưng Ngài yêu thích sự khiêm nhường, tin tưởng, và vâng lời làm theo thánh ý của Ngài.
- Noi gương Đức Mẹ, chúng ta phải luôn thương yêu, quan tâm, và khiêm nhường đi bước trước để tỏ tình yêu cho tha nhân. Tất cả những điều này sẽ giúp chúng ta đón nhận Thiên Chúa, và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi ơn cần thiết trong cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 19 tháng 12, MV
Bài đọc: Judg 13:2-7, 24-25; Lk 1:5-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng trong thất vọng.
Mùa Vọng là mùa của hy vọng và của những lời hứa được ứng nghiệm và hòan thành. Những gì Thiên Chúa hứa qua những lời chúc lành của các tổ-phụ được hòan thành, và các lời tiên báo của các tiên-tri qua các thời đại được ứng nghiệm. Thời gian chờ đợi thường làm cho con người mệt mỏi và ngã lòng trông cậy; nhưng Thiên Chúa có kế họach và thời gian của Ngài. Một điều chắc chắn là những gì Thiên Chúa hứa sẽ xảy ra; còn chuyện khi nào xảy ra, không ai biết được.
Cả hai Bài đọc hôm nay đều tường thuật hòan cảnh sinh con của hai cha mẹ đã cao niên và không thể có con theo luật tự nhiên. Họ hòan tòan thất vọng và xấu hổ với mọi người; nhưng Thiên Chúa đã can thiệp và cho có con. Bài đọc I trong Sách Thủ Lãnh tường thuật về hòan cảnh sinh ra của Thủ-Lãnh Sampson. Tin Mừng Luca tường thuật về hòan cảnh sinh ra của Gioan Tẩy Giả. Mục đích của các tác giả là để chứng minh chân lý: "Không có điều gì là không thể đối với Thiên Chúa;" và để dẫn con người tới một niềm hy vọng lớn lao hơn, một phép lạ cả thể hơn, một niềm hy vọng duy nhất có thể giải thóat con người khỏi tội lỗi và sự chết: đó là sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hòan cảnh sinh ra của Thủ-Lãnh Sampson.
1.1/ Tin Mừng được loan báo:
(1) Cha mẹ của Sampson: Sách Thủ Lãnh nói vắn tắt về cha mẹ của Sampson như sau: "Có một người đàn ông ở Zorah, thuộc chi tộc Dan, tên là Manoah. Vợ ông son sẻ và không sinh con. Sứ giả của Đức Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà: "Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai.""
(2) Con trẻ Sampson được thánh hiến ngay từ lòng mẹ: Sứ-thần nói với người mẹ: "Vậy bây giờ Bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch.Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một Nazirite của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Israel khỏi tay người Philistines."
Nazarite là người được dành riêng và thánh hiến đặc biệt cho Thiên Chúa, được mô tả chi tiết trong Num 6:2-21. Mặc dù không thấy được đề cập đến bất cứ người nào trước Sampson; tuy nhiên, nó hiện hữu trước thời gian của Moses. Lời thề của người Nazarite bao gồm 3 điều: (1) không được uống rượu và thức uống mạnh; (2) không được cắt tóc trong suốt thời gian thề hứa; và (3) không được tiếp xúc với xác chết. Khi thời gian thánh hiến hết, người Nazarite phải đến cửa đền thờ để dâng lễ vật như được mô tả bởi các tư tế. Sau đó, ông phải cắt tóc và quăng vào lửa khi thầy tư tế dâng lễ vật giao hòa.
(3) Phản ứng của bà mẹ: Bà đi vào và nói với chồng rằng: "Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. Nhưng người nói với tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một Nazirite của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết.""
1.3/ Tin Mừng được ứng nghiệm: "Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sampson. Đứa bé lớn lên, và Đức Chúa chúc lành cho nó. Thánh Thần Đức Chúa bắt đầu tác động trên Sampson tại Trại Dan giữa Zorah và Eshtaol." Sampson lớn lên với sức mạnh phi thường và giải phóng dân khỏi sự áp bức của người Philistines.
2/ Phúc Âm: Hòan cảnh sinh ra của Gioan Tẩy Giả
Tin Mừng Luca tường thuật vắn tắt về cha mẹ của Gioan Tẩy Giả, Ông Zechariah và Bà Elizabeth, như sau: "Thời vua Herode cai trị miền Judah, có một vị tư tế thuộc nhóm Abijah, tên là Zechariah; vợ ông là Elizabeth cũng thuộc dòng tộc tư tế Aaron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng họ lại không có con, vì bà Elizabeth là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên."
2.1/ Tin Mừng được loan báo
(1) Cha của Gioan Tẩy Giả: "Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông: Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài. Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Zechariah bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: "Này ông Zechariah, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: Bà Elizabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời."
(2) Con trẻ Gioan Tẩy Giả được chọn và thánh hiến ngay từ lòng mẹ: Sứ-thần Gabriel nói: "Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa; rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần." Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả được loan báo rõ bởi Sứ-thần: "Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy Thánh Thần và quyền năng của ngôn sứ Elijah, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa."
(3) Phản ứng của ông Zechariah: Vì ông nghĩ mình không thể có con theo luật tự nhiên, nên ông thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi." Sứ thần đáp: "Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi."
2.2/ Tin Mừng được ứng nghiệm: "Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. Ít lâu sau, bà Elizabeth vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ: "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.""
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có kế họach và thời gian của Ngài. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào Kế Họach của Thiên Chúa qua sự mặc khải của Đức Kitô và các sứ giả của Ngài.
- Thiên Chúa cho con người vào đời và chuẩn bị cho mỗi người một sứ vụ trong Kế Họach của Ngài. Chúng ta phải hòan tất sứ vụ Ngài giao phó.
- Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể xảy ra. Chúng ta phải đặt trọn vẹn niềm tin vào Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 18 tháng 12 MV
Bài đọc: Jer 23:5-8; Mt 1:18-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công chính và tội lỗi
Mọi người đều phạm tội. Làm thế nào để con người trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa? Con người có thể trở nên công chính bằng việc giữ luật không? Thánh Phaolô quả quyết rằng "Không!" vì không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, mới có thể làm con người nên công chính. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Jeremiah tiên báo: Đức Chúa (Chúa Kitô) là sự công chính của chúng ta. Trong Phúc Âm, Thánh Giuse là "người công chính," muốn bỏ Mẹ Maria cách kín đáo; nhưng khi được Thiên Thần mộng báo, đã vâng theo ý Thiên Chúa và chấp nhận Bà Maria và Chúa Giêsu về nhà mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta.
1.1/ Giòng dõi David từ chỗ hy vọng tan tành tới chỗ hòan tất của lời hứa: Khi người Do-Thái sống trong nơi lưu đày, chắc họ đã nhận thấy hy vọng của họ vào những gì Thiên Chúa đã chúc lành cho họ qua Tổ-phụ Jacob và những lời tiên tri của Isaiah, quyển I, Micah, và các tiên tri khác bị tan tành theo mây khói. Làm sao có thể khôi phục lại đất nước trong hòan cảnh lưu đày? Làm sao có thể khôi phục lại vương triều của giòng dõi Judah để Đấng Cứu Thế xuất hiện? Nhưng Tiên Tri Jeremiah vẫn hy vọng: "Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh."
1.2/ Vua công chính: "Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."
(1) Đấng đưa con cái Israel lên khỏi đất Ai-Cập: chỉ biến cố Xuất Hành, khi Thiên Chúa đưa dân ra khỏi đất nô lệ của Ai-Cập qua sự lãnh đạo của Moses và Aaron.
(2) Đấng đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất phương Bắc: chỉ sự hồi hương và tái thiết quốc gia cùng Đền Thờ, khi Thiên Chúa giải thóat dân khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
2/ Phúc Âm: Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội.
Tin Mừng Matthêu tường thuật hòan cảnh đính hôn của cha mẹ Chúa Giêsu như sau: "Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: Bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo."
2.1/ Nỗi khó khăn của Thánh Giuse: Để hiểu lời tường thuật của Matthêu, chúng ta phải hiểu phong tục của Do-Thái liên quan tới việc kết nghĩa vợ chồng. Giống như phong tục Việt-Nam, có 3 giai đọan:
(1) Hứa hôn: Khi hai trẻ còn nhỏ, cha mẹ hai bên muốn kết nghĩa sui gia; nên cha mẹ hai bên hứa hẹn với nhau, sẽ gả con cho nhau khi hai trẻ tới tuổi lập gia đình. Đây chỉ là một lời hứa và không bị ràng buộc về khía cạnh pháp lý. Nếu hai trẻ không đồng ý hay hai cha mẹ đổi ý, lời hứa không còn hiệu lực.
(2) Đính hôn: Đó là từ chính xác Matthêu dùng để chỉ hòan cảnh của Ông Giuse và Bà Maria hôm nay. Khi gia đình hai bên và hai trẻ đồng ý tiến tới, họ bước vào giai đọan đính hôn để tìm hiểu nhau kỹ càng hơn trong thời hạn một năm. Trong giai đọan này, theo luật Do-Thái, lời hứa bị ràng buộc, hai người được coi như vợ chồng; mặc dù chưa được "ăn ở" với nhau như vợ chồng. Nếu chồng không tiến tới, ông phải làm đơn xin ly dị và nêu rõ lý do. Nếu chồng chết trong giai đọan này, người vợ được gọi là "góa phụ đồng trinh."
(3) Thành hôn: Sau thời hạn đính hôn một năm, hai người tiến tới giai đọan chính thức thành vợ chồng.
Nỗi khó khăn của Ông Giuse, như trình thuật nói, vì ông là người công chính nên ông không thể dung thứ tội lỗi cho Bà Maria. Theo Lề Luật, Ông phải tố cáo Bà Maria để bị ném đá cho tới chết vì đứa con trong bào thai không phải là của Ông. Nhưng Ông chắc cũng linh tính một trường hợp đặc biệt liên quan đến Bà Maria và đứa con trong bụng, nên cuối cùng Ông quyết định lìa bỏ Bà cách âm thầm kín đáo.
2.2/ Ý muốn của Thiên Chúa: Trong khi Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Tên Giêsu là tiếng Hy-Lạp dịch từ tiếng Do-Thái Joshua, có nghĩa là "giải thóat hay cứu độ." Chúa Giêsu được gọi là Đấng Giải Thóat, Cứu Thế, hay Chuộc Tội, vì Ngài gánh tội và giải thóat cho nhân lọai khỏi tội.
Sứ Thần của Thiên Chúa biết những gì Ông Giuse đang suy nghĩ và cung cấp câu trả lời cho Ông: người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Để hiểu "quyền năng Chúa Thánh Thần," chúng ta cần hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần trong chương trình của Thiên Chúa. Truyền thống Do-Thái hiểu 4 công việc chính của Thánh Thần:
(1) Ngài là Sự Thật, Ngài đem sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người. Chúa Giêsu hứa với các môn đệ Ngài: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến" (Jn 16:13).
(2) Ngài làm cho con người hiểu và nhận ra sự thật. Thánh Gioan hiểu rõ: Nếu không có Thánh Thần giúp sức, con người không thể hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: "Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Jn 14:26).
(3) Ngài hiện diện với Thiên Chúa ngay từ khi sáng tạo vũ trụ. Ngài là hơi thở của Thiên Chúa: để phát ra Lời (Ngôi Hai) và ban hơi thở và sự sống cho muôn lòai. Tác giả của Thánh Vịnh 33 hiểu rõ sứ vụ của Ba Ngôi Thiên Chúa trong việc sáng tạo: "Một Lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú" (Psa 33:6). Sự khôn ngoan của Thiên Chúa phải có Hơi (pneuma) và Lời (logos) để tạo thành vũ trụ.
(4) Ngài cũng là nguyên nhân chính của "đổi mới và tái tạo." Thị kiến của Tiên Tri Ezekiel về "Ruộng Xương Khô" là một ví dụ cho công việc này của Thánh Thần: "Người lại bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh." Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể" (Eze 37:9-10). Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu tới để đổi mới và ban sinh lực cho con người. Ngài tiêu diệt tội lỗi trong con người cũ và ban ơn thánh để làm cho con người trở nên con người mới tinh tuyền và thánh thiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì chúng ta đều phạm tội, chúng ta không thể trở nên công chính bằng sức mình.
- Chúng ta chỉ có thể trở nên công chính bằng tin vào Đức Kitô, Đấng gánh tội và giải thóat chúng ta khỏi mọi quyền lực của tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 17 tháng 12 MV
Bài đọc: Gen 49:2, 8-10; Mt 1:11-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đấng Cứu Thế được sinh ra trong lịch sử.
Niềm tin của con người vào Đấng Cứu Thế không phải là một niềm tin trừu tượng; ví dụ, tin vào một vị thần không có nguồn gốc; nhưng là một niềm tin vào Đấng có gia phả trong lịch sử con người. Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa hứa ngay từ thuở ban đầu, và được nhắc đi nhắc lại cho con người nhớ theo giòng lịch sử. Kinh Thánh gọi đó là Kế Họach Cứu Độ.
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa đã có sẵn từ thuở ban đầu, và đã được mặc khải cho con người ngay từ khi Ông Adong và Bà Evà sa ngã trong Vườn Địa Đàng, khi Thiên Chúa tuyên án con rắn: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa giòng dõi mi và giòng dõi người ấy; giòng dõi đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (Gen 3:15).
Trải qua giòng lịch sử của Do-Thái, Thiên Chúa không ngừng chuẩn bị cho Kế Họach Cứu Độ này. Trong Bài Đọc I từ Sách Sáng Thế Ký, Tổ-phụ Jacob đã chúc lành đạc biệt cho giòng dõi Judah; vì Tổ-phụ đã nhìn thấy trước ngày giòng dõi này sẽ làm vua và cai trị các anh em mình. Đồng thời, Tổ-phụ cũng tiên đóan Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ giòng dõi Judah. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Matthêu tường thuật gia phả của Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Bắt đầu từ thời các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob cho đến thời Vua David là 14 đời; từ thời Vua David cho đến Thời Lưu Đày Babylon là 14 đời; sau Thời Lưu Đày cho đến thời Đấng Cứu Thế sinh ra cũng 14 đời. Trình thuật Matthêu hôm nay chỉ tường thuật từ Thời Lưu Đày cho đến khi Đấng Cứu Thế sinh ra.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tổ phụ Jacob chúc lành cho giòng dõi Judah.
Chương 49 của Sách Sáng Thế Ký là những lời chúc lành và trăn trối của Tổ-phụ Jacob (Israel) cho 12 con mình, tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel. Nhà Giuse được chia thành 2 chi tộc: Benjamin và Manasseh. Tổ phụ Jacob kêu các con đến trước khi chúc lành: "Hỡi các con của Jacob, hãy tụ tập lại mà nghe, hãy nghe Israel, cha các con." Trình thuật hôm nay chỉ chú ý đặc biệt đến chi tộc Judah; vì từ chi tộc này sẽ phát sinh Đấng Cứu Thế.
1.1/ Giòng dõi Judah sẽ cai trị các anh em: Judah là đứa con duy nhất được khen ngợi trước khi chúc lành. Tổ-phụ Jacob chúc lành và nói tiên tri về chi tộc Judah: "Con sẽ được anh em con ca tụng, tay con sẽ đặt trên ót các địch thù, anh em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con. Judah là sư tử con. Con ơi, săn mồi xong con lại trở về. Nó quỳ xuống, nằm phục như sư tử và như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?"
1.2/ Giòng dõi Judah sẽ làm vua: Thời của Tổ-phụ Jacob là thời của Bộ-tộc, Israel chưa có vua. Hàng ngũ lãnh đạo gồm các thượng tế, bô lão, và thủ lãnh. Israel chỉ có vua sau thời Moses gần 200 năm, bắt đầu với Vua Saun, sau đó tới David, Solomon. Thế mà tổ phụ Jacob đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày giòng dõi Judah sẽ làm vua: "Vương trượng sẽ không rời khỏi Judah, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục."
1.3/ Từ giòng dõi Judah sẽ phát sinh Đấng Cứu Thế: Không những nhìn thấy ngày giòng dõi Judah sẽ nối nhau làm vua, tổ phụ Jacob còn được Thiên Chúa cho nhìn thấy Ngày Đấng Cứu Thế ra đời. Ngài tuy xuất thân từ giòng dõi Judah, nhưng lại là chủ của vương trượng. Ngài không chỉ cai trị dân Do-Thái, nhưng muôn dân phải vâng phục quyền bính của Ngài.
2/ Phúc Âm: Đấng Cứu Thế sinh ra từ giòng dõi Judah.
2.1/ Từ thời cực thịnh của vương triều David đến thời Lưu Đày Babylon: "Josiah sinh Jechoniah và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Babylon." Trong lịch sử Do-Thái, thời của Vua David được coi là thời cực thịnh; vì Vua David thống nhất tòan lãnh thổ, tất cả 12 chi tộc Jacob, và lên làm vua. Tuy nhiên, điểm yếu của Vua David là biến cố ngọai tình với Bà Bathsheba và sinh ra Vua Solomon. Vì biến cố này, mà vương quốc bị chia đôi, và giòng họ Nhà Vua bị suy thóai dần dần cho đến thời Lưu Đày. Trong thời Lưu Đày, nước Israel bị xóa sạch trên bản đồ, giòng họ Judah bị đày sang Babylon, và dân Do-Thái hầu như không còn hy vọng gì nơi lời chúc lành của Tổ-phụ Jacob. Họ kêu cầu Thiên Chúa:
"Đâu cả rồi, lạy Thiên Chúa, nghĩa cũ với tình xưa Ngài hứa cùng David nhân danh chữ tín thành? Lạy Chúa, xin nhớ rằng: các tôi tớ Ngài bị thoá mạ, những lời phỉ báng của chư dân, con đây vẫn chất chứa trong lòng. Vâng, lạy Chúa, kẻ thù Ngài thoá mạ, theo sát gót mà buông lời thoá mạ đấng Ngài đã xức dầu tấn phong" (Psa 89:50-52).
2.2/ Sau thời Lưu Đày Babylon: Trong hòan cảnh hầu như tuyệt vọng tại nơi lưu đày, Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm việc, và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn trên đường tiến tới. Theo trình thuật của Tin Mừng Matthêu: "Sau thời lưu đày ở Babylon, Jechoniah sinh Shealtiel; Shealtiel sinh Zerubbabel; Zerubbabel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Zadok; Zadok sinh Achim; Achim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Matthan; Matthan sinh Jacob; Jacob sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đức Kitô. Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Abraham đến vua David, là mười bốn đời; từ vua David đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời.
Nhìn lại gia phả của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, chúng ta học được nhiều bài học: (1) Tổ tiên của Chúa Giêsu gồm cả người thánh thiện (các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob) và kẻ tội lỗi (Bà Tamar giả làm gái điếm để được có con với Judah, Vua David ngọai tình với Bà Bathsheba); cả những người thờ phượng Thiên Chúa và người thờ nhiều thần (Bà Ruth); cả những người Do-Thái và Dân Ngọai. (2) Tuy có những lúc cực thịnh (triều đại của David và Solomon) và những lúc cực suy (thời Lưu Đày), lời hứa của Thiên Chúa và lời chúc lành của Tổ-phụ Jacob vẫn tiếp tục ứng nghiệm. Ngài vẽ đường thẳng của Kế Họach Cứu Độ trên những đường cong của lịch sử Do-Thái. Thiên Chúa là Đấng Trung Thành: những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, không phải là niềm tin trừu tượng và mơ hồ, nhưng được bám rễ sâu trong lịch sử con người qua gia phả của Chúa Giêsu.
- Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa hứa ban cho con người ngay từ khởi thủy, và Ngài đã không ngừng chuẩn bị và mặc khải cho con người qua các thời đại. Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục họat động trong thời đại chúng ta cho đến Ngày Phán Xét.
- Chúng ta hãy đặt hòan tòan niềm tin nơi Thiên Chúa trong mọi khúc quanh của cuộc đời. Cho dù trời đất có thay đổi, nhưng những gì Thiên Chúa đã hứa không bao giờ đổi thay.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần III MV2
Bài đọc: Isa 45:6b-8, 18, 21b-25; Lk 7:18b-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.
Con người có thể lỗi phạm đến Thiên Chúa cả khi sung sướng hạnh phúc lẫn khi đau khổ buồn sầu. Con người quên Thiên Chúa trong lúc được sung sướng hạnh phúc, vì họ cho đó là công sức của họ hay một thần nào khác. Con người từ chối Thiên Chúa khi phải đương đầu với nghịch cảnh và đau khổ, vì họ đặt câu hỏi nếu Thiên Chúa có uy quyền thay đổi và yêu thương rất mực, tại sao Ngài lại để những đau khổ xảy ra cho con người, nhất là những người "vô tội?" Vì thế, họ kết luận hoặc Thiên Chúa không uy quyền hoặc Thiên Chúa không yêu thương, nên họ từ chối tin vào Ngài!
Các Bài Đọc hôm nay xác tín chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và Ngài quan phòng mọi sự trong trời đất này. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết chỉ có một Thiên Chúa, Ngài tạo dựng mọi sự trong vũ trụ, quan phòng mọi chuyện xảy ra: tốt cũng như xấu, và có quyền giải thoát và ban ơn cứu độ cho những ai vững tin vào Ngài. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" Chúa Giêsu trả lời hai người ấy rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta là Đức Chúa, ngoài Ta ra, không có thần nào nữa.
1.1/ Thiên Chúa duy nhất: Khi nói đến uy quyền của Thiên Chúa, truyền thống Do-thái cũng như Giáo Hội thường đề cập đến ba hoạt động chính của Ngài: tạo dựng, quan phòng, và cứu độ. Trình thuật của Isaiah hôm nay dẫn chứng ba điều này như sau:
(1) Ngài tạo dựng nên mọi sự trong vũ trụ: Tiên-tri Isaiah loan báo: "Đây là lời của Đức Chúa, Đấng tạo dựng trời cao - chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững; Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ."
(2) Ngài quan phòng mọi sự xảy ra trong trời đất: "Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác. Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm, làm ra bình an và dựng nên tai hoạ. Ta là Đức Chúa, Ta làm nên tất cả." Theo giáo huấn của Giáo Hội, Thiên Chúa, trong sự quan phòng trời đất, dựng nên cả ánh sáng và tối tăm, những tai họa của trời đất như: núi lửa, động đất, mưa bão... nhưng tội lỗi luân lý là hoàn toàn do con người, vì Ngài đã cho con người được tự do chọn lựa.
(3) Ngài ban ơn cứu độ cho con người: Thiên Chúa có quyền dạy dỗ con người bằng cách để những tai nạn xảy ra cho họ, như bệnh tật, đau khổ, tù đày; nhưng nếu con người biết ăn năn xám hối, chỉ một mình Ngài có uy quyền giải thoát con người. Trong lịch sử, Ngài giải thoát họ bằng cách sai Moses và Aaron đưa dân ra khỏi đất nô lệ Ai-cập; hay dùng Cyrus, vua Ba-tư để phóng thích cho dân hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và quê hương; hay gởi Đấng Thiên Sai tới để chuộc tội cho dân, như lời tiên-tri Isaiah loan báo: "Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên. Ta là Đức Chúa, Ta đã làm điều ấy."
1.2/ Thái độ của con người trước Thiên Chúa: Trước tiên, con người cần xác tín: những gì Thiên Chúa đã hứa, Ngài không bao giờ rút lại. Tiên-tri Isaiah dẫn chứng điều này qua sấm ngôn của Đức Chúa: "Ta lấy chính danh Ta mà thề, lời chân thật này thốt ra khỏi miệng Ta, Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình Đức Chúa mới cứu độ và làm cho mạnh sức."
Để được Thiên Chúa cứu độ, con người cần qui hướng và đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa: Nếu con người cậy dựa vào Thiên Chúa, họ sẽ chiến thắng vẻ vang; nhưng nếu con người cậy dựa vào sức mình hay nơi các thần khác, Ngài sẽ để mặc họ cho các sức mạnh của ma quỉ và của thế gian hành hạ họ, và họ sẽ phải nhục nhã và thẹn thùng xấu hổ.
2/ Phúc Âm: Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.
2.1/ Câu hỏi của Gioan Tẩy Giả: Có nhiều giả thuyết khác nhau chung quanh câu hỏi của hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
(1) Ông nghi ngờ Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền, khi Ngài tới, Ngài sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để đanh đuổi ngoại bang và phục hồi địa vị ưu việt cho người Do-thái. Khi không thấy điều này xảy ra, niềm tin của ông vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai bị lung lay.
(2) Tuy Gioan tin Chúa Giêsu, nhưng ông muốn hai môn đệ của ông tự tìm ra và củng cố niềm tin của họ bằng cách gởi họ trực tiếp tìm câu trả lời từ miệng Chúa Giêsu. Một người có thể nghe người khác nói về Chúa Giêsu hay đọc những sách nói về Ngài; nhưng để có niềm tin vững mạnh vào Ngài, họ cần có kinh nghiệm trực tiếp với Chúa Giêsu.
(3) Gioan đang bị giam giữ khốn khổ trong ngục thất, và sự giam giữ này làm lung lay đức tin của Gioan. Tại sao Chúa Giêsu không dùng uy quyền ra tay giải thoát hay sai các thiên sứ của Ngài đến để cứu ông thoát khỏi cảnh tù tội?
Cả ba giả thuyết đều có lý do, vì dựa trên câu trả lời của Chúa Giêsu cho hai môn đệ.
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Thánh sử Lucas chú trọng đến ba điều quan trọng trong câu trả lời của Chúa Giêsu:
(1) Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: "Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy." Hai môn đệ của Gioan đã chứng kiến tất cả những việc này, và niềm tin của hai ông phải được củng cố bởi những phép lạ của Chúa Giêsu.
(2) Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho Gioan: Đau khổ khi bị tù đày cần thiết để thanh luyện và củng cố đức tin cho con người. Trong câu cuối, Ngài gián tiếp nhắn nhủ Gioan và hai môn đệ của ông: "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
(3) Chúa Giêsu nhắc nhở cho Gioan biết Ngài là Đấng mà tiên-tri Isaiah đã loan báo, và Ngài làm cho lời tiên-tri Isaiah được ứng nghiệm: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa phải được củng cố và làm cho lớn mạnh mỗi ngày, để có thể giúp chúng ta đứng vững trước phong ba của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần khác.
- Khi phải đương đầu với nghịch cảnh, thay vì trách Thiên Chúa, chúng ta hãy tự kiểm điểm xem tại sao những điều ấy xảy ra: có thể là tiếng kêu gọi thức tỉnh để trở về với Thiên Chúa hay có thể là dịp để chúng ta luyện tập đức tin cho vững vàng hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần III MV2
Bài đọc: Zeph 3:1-2, 9-13; Mt 21:28-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải sống theo sự thật.
Khi con người phải đối diện với sự thật, có nhiều phản ứng khác nhau: Có những người dửng dưng với sự thật, vì không nhìn ra được sự quan trọng của nó. Có những người sợ sự thật, vì sự thật mất lòng. Nếu họ biết, họ phải thi hành sự thật. Ví dụ, nhiều người biết những gì Chúa nói là sự thật; nhưng họ không muốn tin, vì nếu tin họ phải giữ những gì Chúa dạy. Có những người muốn tiêu hủy sự thật, vì nó phơi bày những giả dối của họ ra ánh sáng cho mọi người nhìn thấy. Sau cùng, có những người yêu mến sự thật và nhiệt thành tìm kiếm; vì sự thật giúp họ nhận ra những lầm lỗi khuyết điểm để sửa chữa thành những người tốt đẹp hơn. Điều quan trọng con người cần biết là sự thật giải thóat. Dù con người không có tội vì không biết sự thật, họ vẫn phải lãnh nhận mọi hậu quả vì tội dửng dưng, quay lưng, hay tiêu diệt sự thật.
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh vấn đề cần biết và sống theo sự thật. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Isaiah vạch ra cho dân thấy tai hại của việc quay lưng lại với Thiên Chúa, nguồn gốc của sự thật; và chạy theo những ảo tưởng như tin vào sức mình hay các thần ngọai bang. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vạch ra cho các Kinh-sư và Biệt-phái biết: Các người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước họ; vì mặc dù tội lỗi, nhưng họ biết ăn năn hối cải để lãnh nhận ơn tha thứ và làm lại cuộc đời. Nếu họ không chịu tin và thi hành những gì Gioan Tẩy Giả và chính Ngài nói với họ, họ sẽ không được hưởng Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giống nòi phản lọan không nghe tiếng kêu mời, cũng chẳng tiếp thu lời sửa dạy.
1.1/ Dân Israel không nghe lời Thiên Chúa: Tiên Tri Sophonia là tiên tri sống trong Thời Lưu Đày, ông cho dân biết lý do tại sao Jerusalem bị thất thủ và dân bị lưu đày: "Khốn cho thành phản loạn và ô uế, khốn cho thành tàn bạo, không nghe tiếng kêu mời, chẳng tiếp thu lời sửa dạy, không cậy trông vào Đức Chúa, chẳng đến gần Thiên Chúa của mình." Thành Jerusalem là Thành Thánh của Thiên Chúa ngự; thế mà nay trở nên Thành phản lọan, ô uế, và tàn bạo. Lý do là vì dân Thành đã làm ngơ trước những lời kêu mời và sửa dạy của các tiên tri Chúa gởi tới. Họ không còn trông cậy vào Thiên Chúa nữa, nhưng tin tưởng vào sức mạnh của mình, và chạy theo các thần ngọai bang.
1.2/ Chúa sửa sọan một dân mới: Mục đích Thiên Chúa sửa phạt không phải để tiêu diệt, nhưng để thanh luyện làm cho dân biết nhận ra và sống theo sự thật, theo ý muốn và đường lối của Ngài. Dân mới Thiên Chúa sửa sọan để mang trở về Jerusalem sẽ gồm 2 lọai người: những người không phải là dân Do-Thái, nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa và phục vụ Ngài; những người Do-Thái còn sót lại, họ nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và ăn năn trở lại với Ngài. TT viết: "Bấy giờ, Ta sẽ làm cho môi miệng chư dân nên tinh sạch để tất cả đều kêu cầu danh Đức Chúa và kề vai sát cánh phụng sự Người. Từ bên kia sông ngòi xứ Kush, những kẻ tôn thờ Ta, những kẻ đã bị Ta phân tán, sẽ mang lễ vật đến kính dâng Ta. Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh của Ta nữa."
1.3/ Dân còn sót lại sẽ nghe lời và làm theo ý Thiên Chúa: Thời gian Lưu Đày làm cho người Do-Thái nhận ra những sai trái của họ vì đã không tin tưởng và cậy trông nơi Thiên Chúa; đồng thời cũng khích lệ họ biết khiêm nhường và sống theo những gì Thiên Chúa dạy. Khi dân đã nhìn ra điều này, Thiên Chúa sẽ tiếp tục chăm sóc họ: "Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Israel còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ."
2/ Phúc Âm: Nói nhưng không làm theo ý Thiên Chúa.
2.1/ Dụ ngôn hai người con: Để dạy cho các Kinh-sư và Biệt-phái một bài học về sự thật, Chúa Giêsu đưa ra cho họ một dụ ngôn: "Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." Nó đáp: "Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?" Họ trả lời: "Người thứ nhất."
2.2/ Hai người con tượng trưng cho hai hạng người:
(1) Những người thu thuế và gái điếm: Chúa Giêsu ví những người này như người con thứ nhất. Nếu xét theo bề ngòai, họ là những người tội lỗi, và không để tâm đến những gì Chúa dạy bảo. Nhưng khi họ được cơ hội nghe những gì Gioan Tẩy Giả rao giảng hay được Chúa Giêsu kêu mời, họ lập tức thay đổi cuộc sống, và tin vào Tin Mừng. Như lời Đức Giêsu nói với họ: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy." Những người đã ăn năn và tin theo Chúa Giêsu cũng không thiếu. Tin Mừng kể ra những người như: Matthêu và Jachaeus là những người thu thuế; Mary Magdalene là gái điếm; người trộm lành tin vào Chúa Giêsu trong những giây phút cuối của cuộc đời anh ta.
(2) Những Biệt-phái và Kinh-sư: Chúa Giêsu ví những người này như người con thứ hai. Nếu chỉ xét bề ngòai: thẻ kinh và những tua áo họ đeo, thông biết Lề Luật, đọc kinh sách nhiều lần trong ngày; họ là những người tốt lành vì họ giữ cẩn thận những gì Chúa dạy. Nhưng Thiên Chúa không chỉ nhìn và xét theo dáng vẻ bên ngòai, Ngài thấu suốt và phán xét theo tâm tình bên trong. Ngài nhìn thấy họ chỉ thờ Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng lòng họ xa Thiên Chúa vạn dặm, đeo thẻ kinh lớn và mang nhiều tua áo để được tiếng khen, thông biết Lề Luật nhưng không thi hành, đọc kinh nhiều để nuốt trọn gia tài các bà góa. Gioan Tẩy Giả nghiêm khắc răn bảo họ hãy thật lòng ăn năn xám hối, vì cây rìu đã chờ sẵn dưới gốc cây; nhưng họ vẫn cứng lòng không chịu trở lại. Chúa Giêsu nhìn thấu tận đáy lòng và mắng họ như những mồ mả tô vôi, bên ngòai trông rất đẹp, nhưng bên trong tòan những giòi bọ rúc rỉa. Họ không những không ăn năn trở lại, mà còn tìm cách để giết luôn Chúa Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không chỉ cần biết sự thật, nhưng còn phải thi hành sự thật.
- Phải biết nhìn nhận tội lỗi và sửa sai kịp thời. Chúng ta đừng bao giờ có thái độ tự nhận mình là người công chính và khinh thường người khác; nhưng phải luôn biết khiêm nhường xét mình và thú nhận tội lỗi với Thiên Chúa.
- Chúng ta phải lãnh nhận mọi tai hại và thiệt thòi của việc khinh thường và không sống theo sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 14/12 Phải yêu mến sự thật
- 13/12 Hãy vui mừng vì ơn cứu độ đã gần đến
- 12/12 Thiên Chúa tôn vinh những ai khiêm nhường
- 11/12 Đừng bắt người khác phải làm mọi sự theo ý mình
- 10/12 Đường lối và tiêu chuẩn của Thiên Chúa
- 09/12 Thiên Chúa yêu thương và săn sóc mọi người
- 08/12 Khiêm nhường và vâng phục Thiên Chúa
- 07/12 Tội lỗi
- 06/12 Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời con người
- 05/12 Thiên Chúa lo lắng mọi sự cho Dân Ngài