Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 8:6-13; I Sam 24:3-21; Mk 3:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khi cái hoàn hảo tới, cái bất toàn phải qua đi.
Con người thường có khuynh hướng tiếc nuối những huy hoàng của quá khứ và từ chối không tiếp nhận những thay đổi trong cuộc sống hiện tại. Họ quên đi nhân loại càng ngày càng phải phát triển để tiến bộ hơn, trong đời sống xã hội cũng như tôn giáo. Tục ngữ Việt-nam có rất nhiều câu khuyên mọi người phải bỏ thái độ thủ cựu, nắm giữ quyền hành: "Tre già, măng mọc" hay "Con hơn cha, nhà có phúc." Trong Kế Hoạch Cứu Độ cũng thế, Thiên Chúa không dựng nên con người toàn hảo hay mặc khải mọi sự cho con người ngay từ đầu; nhưng muốn con người từ từ tiến đến chỗ hoàn hảo và càng ngày càng thấu hiểu về Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài. Vì thế, con người cần có sự khôn ngoan và tâm hồn cởi mở để đón nhận những thay đổi trong cuộc sống; chứ không ích kỷ nắm giữ quá khứ.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự tiệm tiến của những gì Thiên Chúa đã làm cho con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái so sánh hai giao ước cũ và mới mà Thiên Chúa thiết lập với dân: vì giao ước cũ bất toàn nên mới có giao ước mới; giao ước mới hoàn hảo hơn giao ước cũ vì đặt căn bản trên những lời hứa tốt đẹp hơn của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul phải công nhận David là người công chính và xứng đáng làm vua của Israel hơn ông; vì trong khi Vua luôn tìm cơ hội để thủ tiêu David, còn David luôn tìm dịp để giúp đỡ và tha chết cho Vua. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được huấn luyện, trước khi Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng và tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn.
1.1/ Quan niệm về giao ước: Thông thường, giao ước là một hợp đồng giữa hai bên, đồng ý thỏa thuận về một số những điều mà hai bên đồng ý giữ. Nếu một bên không chịu giữ hợp đồng, giao ước ấy sẽ trở nên vô hiệu. Từ ngữ Hy-Lạp thường dùng để chỉ giao ước là suntheke. Điều đáng chú ý trong đọan văn này, tác giả không dùng suntheke, mà dùng diatheke; từ ngữ này được dùng để chỉ một lời hứa mà một người ở cấp bậc cao hơn hứa với một người dưới mình. Trong giao ước của Thiên Chúa với con người, Thiên Chúa là nguồn gốc và là nguyên nhân của những lời hứa.
1.2/ Giao ước mới toàn hảo hơn giao ước cũ:
(1) Giao ước cũ: là giao ước Thiên Chúa thiết lập với Israel qua trung gian của Moses trên núi Sinai. Theo giao ước này, Thiên Chúa hứa sẽ thương yêu và săn sóc Israel nếu họ tuân giữ cẩn thận các giới răn của Ngài (Deut 4:23).
(2) Giao ước mới: là giao ước Thiên Chúa thiết lập với Giáo Hội qua trung gian của Đức Kitô. Tác giả thư Do-thái nêu bật những đặc điểm của giao ước mới:
- Hoàn hảo hơn giao ước cũ: Tác giả dẫn chứng lời đã được tiên báo bởi tiên-tri Jeremiah 31:31-34: "Quả thật, Thiên Chúa khiển trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Israel và nhà Judah. Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của Ta, nên Ta cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán." Tác giả dùng tĩnh từ kainos để chỉ mới cả về thời gian lẫn phẩm giá: "Nhưng hiện nay, Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn."
- Lý do hiện hữu: vì sự bất toàn của giao ước cũ. "Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế." Tác giả lý luận: "Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi."
- Sự khác biệt nền tảng giữa 2 giao ước: Thập Giới của giao ước cũ được khắc ghi trong 2 bia đá; trong khi Lề Luật của giao ước mới sẽ được Thiên Chúa: "ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta."
Con người giữ Lề Luật không chỉ vì bắt buộc, nhưng vì yêu thương Đấng dạy dỗ mình.
- Mọi người đều biết Thiên Chúa, chứ không còn chỉ giới hạn trong vòng dân Do Thái mà thôi: "Không ai còn phải dạy đồng bào mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta."
- Hoàn toàn tha thứ mọi tội lỗi cho dân: "Ta sẽ dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa."
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Saul thú nhận với David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con.''
2.1/ Phản ứng của David: Ông biết Saul muốn tìm dịp hại ông vì ghen tị, không muốn ông làm Vua Israel. Dịp may để hạ sát vua Saul đã tới tại En-Gedi, cạnh Biển Chết, khi Saul vào trong một hang đá để làm việc cần cá nhân. Lúc đó David và người của ông đang ngồi ở cuối hang. Người của ông David nói với ông: "Đây là ngày Đức Chúa phán với ông: "Này ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế nào tùy ý.""
David có thể triệt hạ Saul lúc đó để khỏi phải lo chạy trốn mãi; nhưng ông sợ động tới người Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong. Ông cũng ngăn cấm người của ông không được đụng tới vua Saul; ông chỉ nhẹ nhàng đi tới chỗ Saul treo áo choàng và cắt vạt áo của vua Saul. Hành động cắt vạt áo choàng có lẽ là một biểu tượng để nhắc lại chuyện vua Saul đã vô ý giật rách áo choàng của ngôn-sứ Samuel trong trình thuật 15:27-28.
Sau đó, David ra khỏi hang và kêu lớn tiếng đằng sau vua Saul rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng con!" rồi sấp mặt sát đất mà lạy. David nói với vua Saul: "Tại sao cha lại nghe lời người ta nói rằng David đang tìm cách hại cha? Hôm nay đây, chính mắt cha thấy Đức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay, trong hang; người ta nói đến chuyện giết cha, nhưng con đã thương hại cha và nói: "Tôi sẽ không tra tay hại chúa thượng tôi, vì người là đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong. Thưa cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng của cha trong tay con. Vì con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì xin cha biết và thấy cho rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã không phạm tội hại cha, trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con.'' David cầu xin Thiên Chúa phân xử mối liên hệ giữa ông và Saul: trong khi David luôn đối xử tốt lành với Saul, thì Saul lại luôn tìm cách hãm hại David vì ghen tị. David tin Đức Chúa sẽ giải quyết xung đột giữa hai người; chứ ông không dám ra tay hại người Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.
2.2/ Phản ứng của Saul: Khi ông David nói những lời đó xong, thì vua Saul Saul oà lên khóc. Vua nói với David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con. Hôm nay con đã tỏ ra là con làm điều tốt cho cha, vì Đức Chúa đã nộp cha vào tay con mà con đã không giết cha. Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi yên lành không?" Công chính là tiếp tục sống đúng mối liên hệ của mình, cho dù tha nhân đã không sống đúng mối liên hệ đó.
Vua Saul cũng nhận ra David là người xứng đáng lãnh nhận vương quyền để cai trị Israel, ông cầu chúc cho David: "Xin Đức Chúa thưởng con vì điều tốt con làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết rằng chắc chắn con sẽ làm vua và vương quyền Israel sẽ vững mãi trong tay con.''
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu thành lập Nhóm Mười Hai.
3.1/ Sứ vụ của Nhóm Mười Hai: "Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ." Tại sao phải lập Nhóm Mười Hai?
(1) Để tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Ngài trong tương lai, vì thế Ngài cần những người tiếp tục công việc của Ngài. Người lãnh đạo giỏi là người biết nhìn đến tương lai, và biết huấn luyện những người có khả năng để thay thế mình sau này; vì nếu không huấn luyện người để thay thế, tất cả những cố gắng của mình, cho dù hay đến đâu chăng nữa, cũng sẽ rơi vào quên lãng.
(2) Để Tin Mừng đựơc loan báo sâu rộng và nhiều người được chữa lành hơn: Phương tiện truyền thông duy nhất thời đó là loan báo bằng miệng, và phương tiện di chuyển thịnh hành nhất là đi bộ. Chúa Giêsu băn khoăn làm sao để Tin Mừng có thể đạt tới mọi người, và không còn cách nào hiệu quả hơn là mời gọi nhiều người cộng tác để huấn luyện, và rồi sai họ đi thi hành sứ vụ. Đó là lý do tại sao Ngài không chỉ huấn luyện một, mà 12 Tông-đồ; bên cạnh đó, Ngài còn huấn luyện rất nhiều các môn đệ đi theo Ngài. Điều này dạy chúng ta, để Tin Mừng có thể lan tràn đến mọi người, chúng ta cần sự cố gắng và cộng tác của rất nhiều người, chứ không giới hạn trong một thiểu số có tài năng hay kiến thức mà thôi.
(3) Chúa Giêsu gọi các ông để ở với Ngài: Cách huấn luyện hiệu quả nhất của người thời xưa là cho ở với Thầy; mục đích không những là để cho các trò học tất cả những gì nơi Thầy: sự khôn ngoan cũng như cách cư xử, nhưng còn là cơ hội cho Thầy quan sát các trò của mình và sửa sai những tính xấu cho họ.
3.2/ Thành phần của Nhóm Mười Hai: "Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Simon là Phêrô, rồi có ông Giacôbê con ông Zebedee, và ông Gioan em ông Giacôbê - Người đặt tên cho hai ông là Boarneghese, nghĩa là con của thiên lôi - rồi đến các ông Anrê, Philípphê, Barthôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Tađêô, Simon thuộc nhóm Quá Khích, và Giuđa Iscariot là chính kẻ nộp Người." Nhìn qua danh sách của 12 Tông-đồ, một người có những nhận xét như sau:
(1) Không có ai nổi bật: về danh giá, quyền thế, cũng như về kiến thức. Ngược lại, đa số là những ngư phủ thất học tầm thường. Các ông có thành công và trung thành với sứ vụ hay không là do cách Chúa Giêsu huấn luyện.
(2) Là những con người yếu đuối, tội lỗi: Matthew là người thu thuế, và được xem là tội lỗi thường xuyên và công khai. Judah Iscarioth là người sẽ nộp Chúa. Hai con ông Zebedee, Gioan và Giacôbê, là người nhắm địa vị "ngồi bên tả và bên hữu" Chúa Giêsu trong vương quốc của Ngài. Phêrô chối Chúa 3 lần, và hầu hết các Tông-đồ đều bỏ Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài. Điều này cho chúng ta thấy việc huấn luyện con người không dễ.
(3) Tính khí rất khác nhau: Simon, người thuộc Nhóm Quá Khích, có khuynh hướng bảo vệ quốc gia Do-Thái, rất ghét những người cấu kết với ngọai bang để bóc lột dân như Matthew, người thu thuế. Thế mà Chúa Giêsu chọn hai ông để sống chung với nhau, dẹp bỏ sự khác biệt, và cùng chung lo một sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Phêrô rất nhanh nhẩu đến nỗi làm mà không chịu suy nghĩ, để ở với Gioan, người luôn thâm trầm và cẩn thận suy nghĩ trước khi làm. Nói tóm, sự huấn luyện của Chúa Giêsu và cuộc sống chung đã làm các ông phải dẹp bỏ những khác biệt cá nhân để cùng hy sinh cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong sự quan phòng và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài không dựng nên mọi sự hoàn hảo và tốt đẹp ngay từ đầu; nhưng một cách tiệm tiến, mọi sự dần dần trở nên hoàn thiện. Ngài muốn chúng ta đừng tiếc nuối và níu kéo quá khứ; nhưng biết dùng trí khôn và mở lòng để đón nhận những mặc khải mới, và cố gắng để càng ngày càng trở nên tốt hơn.
- Sự ghen tị là lý do ngăn cản đà tiến của nhân loại, chúng ta đừng để nó làm mờ mắt đến nỗi chúng ta không nhận ra thánh ý của Thiên Chúa; nhất là làm chúng ta mù quáng đến độ muốn tiêu diệt sự thật và giết hại những người lành.
- Chúng ta hãy tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Giêsu, vì Ngài là trung gian của một giao ước hoàn hảo. Ngài luôn yêu thương và lo lắng mọi sự cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 7:25-8:6; I Sam 18:6-9, 19:1-7; Mk 3:7-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, con người phải trải qua nhiều giai đọan thử thách và vấp ngã, trước khi đạt tới chỗ toàn hảo. Tục ngữ Việt Nam cũng nói lên điều này trong câu: "Thất bại là mẹ thành công." Tác giả Thư Do-Thái đề cập đến quan niệm này ngay từ đầu Thư: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài." Khi cái hoàn hảo tới thì cái tạm thời qua đi. Điều quan trọng là con người cần nhận ra cái hoàn thiện và tin theo, chứ không ngoan cố giữ lại cái cũ.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên vai trò quan trọng của Chúa Giêsu trong Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến 3 yếu tố quan trọng trong việc Chúa Giêsu hiến mình làm của lễ đền tội cho con người: Ngài vừa là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, vừa là của lễ toàn hảo, và nơi Ngài dâng của lễ lên Thiên Chúa là ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trên trời. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul ghen tị và muốn giết David, vì David được dân chúng ca ngợi nhiều hơn ông; nhưng Jonathan con ông ngăn cản ông đừng làm chuyện đó. Trong Phúc Âm, khi nghe những gì Chúa Giêsu đã làm, dân chúng từ khắp nơi kéo đến để được nghe giảng và chữa lành bởi Chúa Giêsu; ngay cả các thần ô uế cũng khiếp sợ Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế thập toàn, vừa là của lễ hy sinh toàn hảo.
1.1/ Của lễ của Thượng Tế Giêsu dâng thánh thiện và vẹn toàn hơn của lễ của Cựu Ước: Để chứng minh điều này, tác giả Thư Do-thái đề cao những đặc tính của Chúa Giêsu: "Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời."
(1) Chỉ dâng hy lễ một lần là đủ: "Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ." Để hiểu ý tác giả, chúng ta cần so sánh vai trò của Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek với vai trò của thượng tế theo phẩm trật Aaron:
- Các thượng-tế: có vai trò nổi bật trong Ngày Xá Tội, mỗi năm một lần. Trong ngày này, ông được quyền vào trong nơi Cực Thánh để dâng lễ đền tội cho dân. Trước khi có thể dâng lễ đền tội cho dân chúng, ông phải dâng lễ đền tội cho ông trước bằng lễ vật của chính ông. Sau đó, ông dâng lễ vật của dân để đền tội cho họ. Ngày Xá Tội cứ tiếp diễn mỗi năm như thế.
- Thượng Tế Giêsu: Vì Ngài thánh thiện vẹn toàn, nên Ngài không cần dâng của lễ đền tội cho mình. Để đền tội cho dân, Ngài dâng chính thân mình làm của lễ đền tội. Đây là lễ vật hy sinh thánh thiện và tinh tuyền nhất, không một của lễ nào có thể so sánh được. Chính vì vậy, Ngài chỉ cần dâng một lần là đủ. Vì thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là lễ vật hy sinh; và vì Ngài sống mãi, nên biến cố hy sinh của Ngài trên đồi Golgotha thay thế của lễ đền tội trong Ngày Xá Tội. Con người không cần lễ vật hy sinh của theo Luật Cựu Ước nữa.
(2) Chúa Giêsu là Thượng Tế của Thiên Chúa và của con người: Tác giả kết luận: "Vì Luật Moses thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời." Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế toàn hảo, và của lễ Ngài dâng để đền tội cho dân cũng toàn hảo vì là chính bản thân của Ngài.
1.2/ Thánh Điện để dâng của lễ là ngai vàng Thiên Chúa trên trời: Sau khi đã đề cập tới chức vụ Thượng Tế, và của lễ hy sinh đề tội, tác giả tiến đến chỗ dâng của lễ. Trong Cựu Ước, chỗ dâng của lễ là nơi Cực Thánh trong Đền Thờ. Trong Tân Ước, chỗ dâng của lễ là chính ngai vàng Thiên Chúa ngự: "Điểm chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời."
(1) Nơi Cực Thánh trong Đền Thờ dưới đất: là nơi Thiên Chúa hiện diện với con người. Nơi này được xây cất bởi con người theo một kiểu mẫu mà Thiên Chúa đã chỉ dạy cho Moses trên núi, nhưng nơi này "chỉ là hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời."
(2) Ngai Thiên Chúa trong Thánh Điện trên trời: Khi Chúa Giêsu dâng lễ vật hy sinh, Ngài dâng "trong lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không phải do người phàm dựng lên."
Nói tóm, "Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn."
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao ngài lại muốn phạm tội đổ máu người vô tội, mà vô cớ giết David?
2.1/ Vua Saul ghen tị với David: Trình thuật hôm nay tiếp theo biến cố David chiến đấu với tên khổng lồ người Philistine và đã chặt đầu hắn mang về. Khi nghe tin David chiến thắng trở về, các phụ nữ của Israel vui đùa ca hát rằng: "Vua Saul hạ được hàng ngàn, ông David hàng vạn." Khi vua Saul nghe những lời ca tụng ấy, vua giận lắm và nói: "Người ta cho David hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!" Từ ngày đó, vua Saul nhìn David với con mắt ghen tị.
Con người khi quen sống trong cảnh giàu sang, danh vọng, và uy quyền, thường dễ quên đi quá khứ và lý do mình được hưởng những điều kiện đó. Trường hợp của Saul cũng thế, ông thuộc chi tộc Benjamin, một trong chi tộc nhỏ bé nhất của 12 chi tộc Israel; nhưng chỉ vì Đức Chúa đoái thương nhìn tới, mà ông được xức dầu phong vương. Một sự thật nữa ông cần khiêm nhường nhìn nhận là Đức Chúa đã cho ông cơ hội và ban ơn để ông thi hành sứ vụ; nhưng ông đã không vâng lời Đức Chúa, nên bị thất sủng trước mặt Đức Chúa.
2.2/ Jonathan lập mưu cứu David khỏi kế hoạch của cha mình: Từ chỗ ghen tị với David, vua Saul đi tới ý định muốn giết David. Vua Saul nói với ông Jonathan, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định giết ông David. Nhưng ông Jonathan, con vua Saul, lại rất có cảm tình với ông David. Ông Jonathan báo cho ông David rằng: "Vua Saul, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi. Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh."
Jonathan nhìn ra sự thật mà vua Saul, cha mình không nhìn thấy; ông nói với vua: "Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là David, vì anh ấy đã không phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. Anh đã liều mạng và hạ được tên Philistine, và Đức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ toàn thể Israel. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ máu vô tội, mà vô cớ giết David?" Con người cần biết dẹp bỏ tính tự ái và ích kỷ để hy sinh cho lợi ích chung. David đã can đảm chiến đấu để giết được tên Philistine, là mối đe dọa cho nền an ninh của quốc gia, mà vua Saul không làm được. Ngoài ra, vua Saul phải sáng suốt nhìn nhận, nhà vua không thể làm mọi sự; mỗi thời Đức Chúa gởi tới một người để lo cho lợi ích chung. Khi mình đã chu toàn sứ vụ, hãy can đảm để thế hệ trẻ tiếp nối sứ vụ của mình. Người đau khổ, bất an, là người không biết thời mình đã hết; nhưng cứ ngoan cố bảo vệ và hãnh diện về những gì mình đã bỏ công xây dựng.
Vua Saul nghe theo lời ông Jonathan, và vua Saul thề rằng: "Có Đức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ không bị giết." Ông Jonathan gọi ông David đến và ông Jonathan thuật lại tất cả những điều ấy; rồi ông Jonathan dẫn ông David đến với vua Saul, và ông David lại phục vụ vua như trước.
3/ Phúc Âm: Mọi người từ khắp nơi kéo đến với Chúa Giêsu.
Bước đầu trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu thành công tốt đẹp: phần vì những lời giảng dạy của Ngài, phần vì những phép lạ Ngài làm cho dân chúng. Tiếng lành đồn xa, nên như trình thuật hôm nay kể, mọi người trong khắp vùng Cận Đông tuôn đến với Chúa Giêsu: "Đức Giêsu cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Galilee, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Judah, từ Jerusalem, từ xứ Idumea, từ vùng bên kia sông Jordan và vùng phụ cận hai thành Tyre và Sidon, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm."
(1) Chúa Giêsu chữa con người khỏi mọi bệnh họan tật nguyền: Điều có sức hấp dẫn con người nhất là được chữa lành khỏi mọi bệnh họan tật nguyền. Dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu để được chữa bệnh. Ngài có năng lực của Thiên Chúa đến nỗi "ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người." Nếu cứ để họ chen lấn xô đẩy nhau để được đến gần và sờ vào Chúa, không khéo sẽ có nhiều tai nạn không may xảy ra. Hơn nữa, Chúa đến không phải chỉ để chữa bệnh, mà còn giảng dạy và mặc khải về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã khôn ngoan "bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ."
(2) Các thần ô uế biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa: Danh xưng "con Thiên Chúa" không nhất thiết chỉ bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu, vì danh xưng này được dùng để chỉ nhiều người như: các thiên thần (Gen 6:2), dân Do-thái là con Thiên Chúa (Hos 11:1), vua của Do-thái là con Thiên Chúa (II Sam 7:14), người công chính là con Thiên Chúa (Sir 4:10)... Các thần ô uế có thể nhận thấy một thứ quyền lực thánh thiện từ Chúa Giêsu đối chọi với sự ô uế của chúng, làm cho chúng không thể tồn tại, nên hỏang sợ kêu lên: "Ông là Con Thiên Chúa!" Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy tin tưởng và học hỏi nơi Ngài để biết về Thiên Chúa.
- Vì chúng ta không có thời gian nhiều để học hỏi mọi điều hay trong vũ trụ; điều quan trọng và cần thiết nhất chúng ta phải học là kiến thức về Thiên Chúa.
- Chỉ một người duy nhất có thể mang đến cho chúng ta Ơn Cứu Độ là Chúa Giêsu qua hiến lễ hy sinh của Ngài trên Thập Giá.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 7:1-3, 15-17; I Sam 17:32-33, 37, 40-51; Mk 3:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin tưởng nơi uy quyền của Thiên Chúa.
Tôn giáo hiện hữu là để đưa con người tới Thiên Chúa. Để làm việc này, con người cần giữ luật. Bao lâu con người tuân giữ những luật Thiên Chúa truyền, con người giữ mối liên hệ tốt lành với Thiên Chúa. Nhưng con người đã không thể giữ mãi mối liên hệ với Thiên Chúa vì họ phạm tội; và như thế, con người cần dâng lễ vật để đền tội và nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa. Đó là lý do chức tư tế và luật dâng lễ vật hiện hữu. Theo từ ngữ Latin, từ ngữ dùng để chỉ tư tế là pontifex, có nghĩa người xây cầu để nối giữa 2 điểm. Tư tế là người xây cầu để nối giữa Thiên Chúa và con người bằng dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền thống Do-thái, lễ vật hy sinh chỉ có thể đền những tội vô tình xúc phạm đến Luật mà thôi; những tội cố ý, không lễ vật hy sinh nào có thể đền được. Tác giả Thư Do-thái nhìn thấy sự bất toàn của chức tư tế và các lễ vật hy sinh trong Đạo Do-thái; ông nhận ra con người cần một phẩm trật tư tế cao trọng hơn phẩm trật tư tế theo Aaron, và một lễ vật hy sinh cao trọng hơn máu chiên bò, để có thể tha thứ các tội cho con người, và cung cấp cho con người cách thức an toàn để nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa sau khi phạm tội.
Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả dùng Thánh Vịnh 110:4 và Sách Sáng Thế 14:18-20, để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek; phẩm trật này cao trọng hơn phẩm trật Aaron, vì "Melkizedek không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế." Trong Bài Đọc I, năm chẵn, trẻ David tình nguyện đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vì cậu tin uy quyền của Thiên Chúa sẽ giúp cậu chiến thắng. Vì biến cố vĩ đại này, Thiên Chúa chuẩn bị lòng dân chúng dành chấp nhận David làm vua thay thế Saul. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tức giận vì nhóm Pharisees lòng chai dạ đá: trong khi Ngài muốn chữa lành con người khỏi mọi tội lỗi và bệnh hoạn, tật nguyền, nhưng họ luôn tìm cách để tố cáo và luận tội Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek.
1.1/ Thượng Tế Melkizedek: Khi truy tầm tên Melkizedek mà Thánh Vịnh 110 đề cập tới, Tác-giả Thư Do-Thái tìm thấy trong Sách Sáng Thế nói về Ông như sau: "Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc cho ông Abraham và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho Abraham! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch của ông!" Rồi ông Abraham biếu ông Melkizedek một phần mười tất cả chiến lợi phẩm" (Gen 14:18-20).
Tác-giả dựa vào những gì Sách Sáng Thế trình bày, và suy diễn thêm về những gì tuy Kinh Thánh không nói tới, nhưng quan trọng về vị Thượng Tế này như sau: "Trước hết, ông tên là Melkizedek, nghĩa là "Vua công chính;" rồi ông lại là vua Salem, nghĩa là "Vua bình an." Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế."
1.2/ Sự khác biệt giữa 2 phẩm trật tư tế: Tác giả so sánh những gì ông tìm ra về Thượng Tế Melkizedek và so sánh với những gì ghi chép trong Luật về phẩm trật tư tế Aaron, ông tìm ra những khác biệt trong Chương 7, chúng tôi chỉ tóm tắt như sau:
(1) Phẩm trật Aaron: Theo Luật Do-Thái, một người trở thành tư tế vì thuộc giòng dõi Aaron; mà không tùy thuộc vào đặc tính và khả năng của vị tư tế. Chức tư tế của những người theo phẩm trật Aaron chấm dứt cùng với cái chết của người ấy. Thiên Chúa không bao giờ thề hứa với phẩm trật theo Aaron. Sau cùng, các tư tế theo phẩm trật này phải luôn dâng hy lễ đền tội cho mình, trước khi có thể dâng lễ đền tội cho người khác.
(2) Phẩm trật Melkizedek: Chức tư tế của Melkizedek không tùy thuộc vào giòng dõi con người, nhưng tùy thuộc vào đặc tính và khả năng của ông. Hơn nữa, Melkizedek không có gia phả con người, và Kinh Thánh không thấy nói tới sự chết của ông; vì thế, chức tư tế của ông tồn tại đến muôn đời. Chức tư tế theo phẩm trật Melkizedek được Thiên Chúa thề hứa và không bao giờ thay đổi (x/c Psa 110:4). Đức Kitô không bao giờ phạm tội, và Ngài không cần dâng lễ đền tội cho mình, chỉ dâng hy lễ một lần để đền tội cho con người là đủ.
1.3/ Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek: Tác giả Thư Do-Thái kết luận: "Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông Melkizedek xuất hiện; vị này đã trở nên tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời chứng nhận rằng: "Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek"" (Psa 110:4).
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng.
Đây là câu truyện nói lên uy quyền của Thiên Chúa. Thoạt nhìn, không ai có thể nghĩ David sẽ thắng tên Philistine; ngay cả vua Saul là người to lớn nhất trong Israel cũng phải đầu hàng. Khi David tỏ ý định muốn đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vua Saul nói với David: "Con không thể đến với tên Philistine ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ." Nhưng David tin tưởng vào uy quyền Thiên Chúa, ông nói: "Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Philistine này." Vua Saul nói với David: "Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con!" Cậu cầm gậy chăn chiên trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Philistine.
(1) Tên Philistine cậy vào thể lực của mình: Khi thấy có người Israel tiến lên, tên Philistine từ từ tiến lại gần David, đi trước mặt nó là người mang thuẫn. Tên Philistine nhìn, và khi thấy David, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. Tên Philistine nói với David: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên Philistine lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa David. Tên Philistine nói với David: "Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú."
(2) David chiến đấu nhân danh Thiên Chúa: David bảo tên Philistine: "Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày thách thức."
- David tin tưởng nơi Thiên Chúa sẽ ban chiến thắng, không chỉ chiến thắng cá nhân giữa cậu và tên Philistine, mà còn chiến thắng giữa quân đội Israel trên quân đội Philistines: "Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Philistine làm mồi cho chim trời và dã thú."
- Cậu tin chiến thắng là nhờ Danh Chúa, Đấng dựng nên trời đất, chứ không nhờ gươm giáo. David nói với tên Philistine: "Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Israel, và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!"
(3) Kết quả của cuộc chiến: "Khi tên Philistine bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với David, thì David vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Philistine. David thọc tay vào bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà bắn trúng vào trán tên Philistine. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. Thế là David thắng tên Philistine nhờ dây phóng và một hòn đá. Cậu hạ tên Philistine và giết nó. Nhưng trong tay David không có gươm. David chạy lại, đứng trên xác tên Philistine, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu nó."
Vì vua Saul bất tuân lệnh của Thiên Chúa, Ngài đã truất phế Saul khỏi ngôi vua. Thiên Chúa đã sai ngôn sứ Samuel xức dầu phong vương cho trẻ David, và Ngài muốn dùng chiến thắng này để chuẩn bị lòng dân chúng để tiếp nhận David làm vua thay thế Saul. Điều này một lần nữa chứng minh: một khi Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ ban ơn đủ cho người ấy thi hành nghĩa vụ của mình.
3/ Phúc Âm: Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá.
3.1/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm Pharisees: Chỉ trong hai câu mô tả ngắn ngủi, Marcô cho chúng ta nhìn thấy sự xung đột giữa hai bên: "Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày Sabbath không, để tố cáo Người." Trong khi Chúa Giêsu chính thức rao giảng và chữa lành dân chúng trong các hội đường, Nhóm Pharisees cũng có mặt. Mục đích của họ không phải để nghe giảng, nhưng để "rình xem" Chúa Giêsu có chữa bệnh trong ngày Sabbath.
3.2/ Hai phản ứng khác nhau:
(1) Phản ứng của của Chúa Giêsu: Khi nhìn thấy người bại tay, Chúa Giêsu động lòng thương anh, và Ngài muốn chữa lành, nên bảo anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" Ngài có thể bảo anh ngày mai trở lại, hay bảo anh đi đến một nơi nào đó cho khuất mắt những người đang rình; nhưng để dạy cho họ có cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày Sabbath, Chúa Giêsu mời gọi họ đối thoại với Ngài: "Ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm thinh. Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
(2) Phản ứng của Nhóm Pharisees: Làm thinh không nói có thể vì không biết câu trả lời; nhưng họ đã biết câu trả lời: phải luôn làm việc lành trong cả ngày Sabbath, và phải luôn cứu mạng người; nhưng vì họ sợ nếu phải công nhận những gì Chúa Giêsu dạy trước mặt mọi người, họ phải tin theo và làm những gì Ngài đòi hỏi nên họ làm thinh. Không phải chỉ có thế, nhưng sau khi ra khỏi đó, Nhóm Pharisees lập tức bàn tính với phe Herode, để tìm cách giết Đức Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa; nhưng qua Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, chúng ta đã có con đường an toàn để nối lại tình nghĩa với Ngài.
- Chúng ta hãy vâng lời làm theo những gì Đức Kitô dạy. Nếu không hiểu, hãy chịu khó bỏ thời giờ để nghiên cứu học hỏi; đừng ngoan cố như những người biệt-phái để cố tình sống trong tội lỗi của mình.
- Chúng ta có chiến thắng được ba thù là nhờ uy quyền của Thiên Chúa, chứ không do sức lực, tài năng, và sự khôn ngoan của cá nhân.
- Tôn giáo không phải chỉ là tuân theo những luật lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là tâm tình đồng cảm với những khổ đau của nhân loại. Chúng ta hãy cố gắng và tìm cách để làm vơi đi những khổ đau của tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 6:10-20; I Sam 16:1-13; Mk 2:23-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người quí trọng hơn luật lệ.
Phẩm giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật Ngài ban là để bảo vệ và phục vụ con người. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho con người phải làm nô lệ cho Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con người và làm cho đời sống con người được bảo vệ và an toàn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu phải bền lòng trông cậy vào lời Thiên Chúa đã hứa. Một khi Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thi hành. Tác giả đưa ra một ví dụ là lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abraham. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Kitô, khi Ngài đi tiên phong vào nơi Cực Thánh để mở đường cho con người đến trực tiếp với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả tường thuật việc Thiên Chúa chọn người và phong vương cho một trẻ chăn chiên nhỏ nhất và không ai ngờ trong những người con của ông Jesse; vì Ngài nhìn thấu tâm hồn cao đẹp của David. David đã trở thành vị vua sáng giá nhất của Israel. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo với Chúa Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết luật lệ làm ra là vì con người, chứ không phải con người cho luật lệ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Mọi việc chúng ta làm đều được ghi nhận bởi Thiên Chúa.
1.1/ Phải kiên nhẫn trong khi Chúa thực hiện lời hứa: Tác giả Thư Do-thái xác tín: "Quả thế, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng." Qua đoạn văn này, tác giả muốn khuyên các tín hữu 2 điều:
(1) Những lúc tăm tối của cuộc đời: Đừng nản lòng! Hãy nắm giữ niềm hy vọng vào lời Thiên Chúa hứa. Con người ai cũng phải trải qua những đêm tăm tối này. Trong những lúc như thế, tác giả khuyên cứ giữ vững đức tin, thực hành các việc lành như đã và đang làm. Chắc chắn tăm tối sẽ qua, và ánh sáng của Thiên Chúa lại tiếp tục chiếu sáng.
(2) Bắt chước gương tổ-phụ Abraham: "Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa... Như thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Abraham đã nhận được lời hứa."
1.2/ Lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abraham: "Ta sẽ ban phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số" (Gen 22:16-18).
(1) Lời hứa được bảo đảm bằng lời thề: Con người thường lấy danh ai cao hơn mình mà thề để bảo đảm lời mình đã long trọng hứa. Khi Thiên Chúa hứa với ông Abraham, Người đã không thể lấy danh ai cao trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề. Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta.
(2) Lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: "Chúng ta có điều này như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, là hy vọng được vào cung điện cực thánh bên trong, đàng sau tấm màn. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Melkisedek."
Đối với các thủy thủ, cái neo là khí cụ cần thiết cho việc sinh tồn. Một khi đã thả neo là không còn sợ sóng gió làm thuyền lật được nữa. Trong thế giới ngày xưa, cái neo là biểu tượng của hy vọng. Pythagore nói: "Của cải là cái neo mỏng giòn; danh vọng còn yếu hơn. Khôn ngoan, rộng lượng, và can đảm, là những cái neo mà không sóng gió nào có thể vùi giập được." Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh người tín hữu có một hy vọng lớn lao nhất trong thế giới là hy vọng của họ vào Lời Thiên Chúa hứa.
Niềm hy vọng đó là được vào trong thánh điện đàng sau bức màn. Trong Đền Thờ, chỗ cực thánh là nơi chứa đựng Hòm Bia Thiên Chúa, được che phủ bởi bức màn. Đây là nơi Thiên Chúa ngự. Trong nơi này, chỉ độc quyền có một người được vào, mỗi năm một lần; đó là vị thượng tế trong Ngày Xá Tội mà thôi. Tác giả Thư Do-Thái có ý muốn nói: Giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đã mở đường vào nơi đó cho tất cả con người ở mọi nơi và mọi thời. Từ ngữ ông dùng để chỉ Chúa Giêsu như prodromos = người tiên phong mở đường. Chúa Giêsu đi tiền phong mở đường vào nơi hiện diện của Thiên Chúa, và Ngài bảo đảm an toàn cho tất cả những ai theo sau. Nói cách khác, trước khi Đức Kitô xuất hiện, Thiên Chúa là Người Khách xa lạ và cách biệt với con người; chỉ một số nhỏ có thể đến gần và luôn sợ bị thiệt mạng. Nhưng sau khi Đức Kitô đến, Thiên Chúa trở nên bạn hữu của tất cả; mọi người đều có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.
2.1/ Cuộc lựa chọn người làm vua trong số các con của ông Jesse: Thiên Chúa hứa Ngài sẽ hành động trong ngôn-sứ Samuel ngay tại nơi đang diễn ra cuộc lựa chọn người làm vua trong gia đình ông Jesse. Cả ngôn sứ Samuel và ông Jesse đều không hay biết hậu quả của những gì sắp xảy ra.
- Phản ứng của ngôn-sứ Samuel: Thoạt trông thấy Eliab, ông nghĩ: "Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!" Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng."
- Ông Jesse gọi Abinadab và cho cậu đi qua trước mặt Samuel, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho Samah đi qua, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: "Đức Chúa không chọn những người này."
2.2/ Thiên Chúa chọn một trẻ út chăn chiên làm vua cai trị dân Người: Samuel lại hỏi ông Jesse: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Jesse trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Samuel liền nói với ông Jesse: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây."
- Ông Jesse cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!" Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào David từ ngày đó trở đi.
- Chính ông Jesse cũng không ngờ Thiên Chúa chọn David, một đứa trẻ út đang chăn chiên ngoài đồng. Đó là lý do mà ông không buồn cho gọi con về; nhưng Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn đẹp và các việc tốt lành của David. Ngài muốn chọn cậu làm vua cai trị dân Ngài và David đã trở thành vị vua nổi danh nhất của dân tộc Israel.
3/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.
3.1/ Người Pharisees tố cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người Pharisees liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!" Có tất cả 39 luật về ngày Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị bữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố cáo các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.
3.2/ Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày Sabbath.
(1) Trường hợp vua David (I Sam 21:1-6): Người đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa Giêsu có ý muốn nói: trong trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm Lề Luật.
(2) Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp: "Ngày Sabbath được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath." Điều này hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng trước khi luật về ngày Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở thành nạn nhân hay làm nô lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày Sabbath là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được nghỉ ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi, và sự chết.
- Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung gian; đến bất cứ lúc nào chứ không phải đợi một ngày cố định trong năm.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai, Tuần 2 TN2
Bài đọc: Heb 5:1-10; I Sam 15:16-23; Mk 2:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tuyệt đối vâng phục Thiên Chúa.
Xung đột giữa tư tưởng và ý thức hệ cũ và mới thường xảy ra ở mọi nơi và mọi thời như các chính thể, trong tôn giáo, cách cư xử. Ví dụ: Phong trào canh tân của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào đầu thế kỷ 20, điển hình trong tác phẩm Đoạn Tuyệt của Khái Hưng. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-thái khi Ngài mang những mặc khải mới của Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi được đặt ra: Phải tuân theo điều nào?
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người, giữa cái cũ và cái mới. Trong mọi trường hợp, con người phải luôn vâng phục Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái dùng tiêu chuẩn cũ để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế mới có khả năng đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người về cho Thiên Chúa; vì Ngài vừa có kinh nghiệm của Thiên Chúa, vừa có kinh nghiệm của con người. Chính vì sự vâng phục tuyệt đối của Ngài vào Thiên Chúa, Ngài đã trở nên nguồn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Ngài.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa sai Samuel đến để truất phế ngôi vua của Saul, vì nhà vua đã không tuân phục Thiên Chúa để tru diệt toàn bộ quân Amalek. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại cũ để giúp họ nhận ra thời đại mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn mới để lãnh nhận giáo lý mới của Ngài mang đến.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu là Thượng Tế thập toàn vì Ngài vâng phục Thiên Chúa.
Bản văn chúng ta nghiên cứu hôm nay, Heb 5:1-10, được tác giả sắp xếp theo cấu trúc hình nón, với chóp đỉnh là thượng tế Aaron của Cựu Ước. Mục đích của tác giả là chứng minh Chúa Giêsu là Thượng Tế thập toàn của Tân Ước. Để làm điều này, tác giả dùng một tam đoạn luận: trước tiên, tác giả liệt kê 3 đặc tính của chức thượng tế; sau đó, tác giả chứng minh Chúa Giêsu hội đủ 3 điều kiện này; cuối cùng, tác giả kết luận: "Thiên Chúa tôn xưng Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek."
1.1/ Ba đặc tính của Thượng Tế:
(1) Thượng Tế đại diện cho con người: "Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội."
(2) Thượng Tế phải cảm thông với con người: "Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy."
(3) Thượng Tế phải được Thiên Chúa gọi: "Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi."
1.2/ Chúa Giêsu là Thượng Tế:
(3) Chúa Giêsu được chọn làm Thượng Tế: "Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek."
(2) Chúa Giêsu cảm thông với con người: "Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục."
(1) Chúa Giêsu đại diện cho con người: "và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedek."
1.3/ Đức Kitô vâng phục Thiên Chúa Cha cho đến chết: Để hiểu tầm quan trọng của việc vâng phục Thiên Chúa, chúng ta phải trở lại tội nguyên tổ. Chính vì sự bất tuân của ông Adong và bà Evà, nhân loại phải chịu mọi đau khổ và phải chết. Để cứu con người thoát khỏi những cực hình này, Đức Kitô hoàn toàn vâng phục và làm mọi sự theo thánh ý Thiên Chúa Cha. Có kinh nghiệm của Thiên Chúa, Ngài biết sự vâng phục Thiên Chúa quan trọng như thế nào. Con người không có kinh nghiệm này, nên họ đã khinh thường và bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Để được lãnh nhận ơn cứu độ, con người cũng phải tùng phục Đức Kitô, như Ngài đã vâng phục Thiên Chúa Cha.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu.
2.1/ Saul không vâng lời Thiên Chúa: Samuel được Đức Chúa sai tới để truyền lệnh cho vua Saul phải lên đường giao chiến với vua và quân đội của người Amalek. Lý do là vì cách họ đã đối xử và chặn đường con cái Israel khi từ Ai-cập đi lên; những gì Đức Chúa đã phán, Ngài sẽ thi hành. Lời của Đức Chúa truyền cho Saul qua ngôn-sứ Samuel rất rõ ràng: "Các ngươi phải tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến chiên dê, từ lạc đà đến lừa" (I Sam 15:3).
Sau khi giao chiến và thắng trận, Saul đã không thực thi trọn vẹn lời Đức Chúa truyền, hai điều Saul đã bất tuân Thiên Chúa: (1) ông đã không tru diệt Agag, vua Amalek; và (2) ông đã để cho quân lính giữ lại những thú vật béo tốt. Việc làm của Saul không qua mặt được Đức Chúa; Ngài sai Samuel tới để hạch tội bất tuân của Saul: "Tại sao ngài đã không nghe theo tiếng Đức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái mắt Đức Chúa?"
Vua Saul nói với ông Samuel: "Tôi đã nghe theo tiếng Đức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Đức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa Agag, vua Amalek về và đã tru hiến Amalek. Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại Gilgal." Vua Saul nghĩ mình làm như thế là đẹp lòng Thiên Chúa!
2.2/ Vâng lời Thiên Chúa trọng hơn mọi hy lễ: Ông Samuel nói: "Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu." Đây là điều quan trọng mà tác giả Sách Thánh Vịnh cũng như các ngôn sứ đã không ngừng lập đi lập lại để răn bảo dân chúng (x/c Psa 40:6, 51:16; Isa 1:10-17; Mic 6:5-8; Amo 5:21-24; Hos 6:6). Bất tuân lệnh Thiên Chúa được đồng hóa với những tội nặng như tội như bói toán và thờ ngẫu tượng.
Hậu quả của tội bất tuân là Saul bị Thiên Chúa truất quyền làm vua: "Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời của Đức Chúa, nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."
Tuân theo mệnh lệnh của cấp trên là điều tối quan trọng trong quân đội để bảo vệ an ninh và trật tự. Nếu một người lãnh đạo không tuân theo luật lệ, họ sẽ không thể làm gương cho cấp dưới và không thể điều khiển binh lính dưới quyền mình. Hơn nữa, cấp dưới không luôn biết những nguy hiểm sẽ xảy ra; vì thế, họ cần tuyệt đối vâng theo lệnh của cấp trên. Nếu điều này đúng cho quân đội, nó càng khẩn thiết hơn cho mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ của mình.
3.1/ Tại sao môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay? "Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pharisees đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: "Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?"
Giao thời giữa Cựu và Tân Ước là thời gian người Do-thái gia tăng việc chay tịnh và khổ chế, không những chỉ có trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân như các việc đạo đức. Chay tịnh, cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi là ba trụ chính của đời sống đạo đức (Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh là cách để xin ơn lành từ Thiên Chúa (Jdt 4:9). Lối sống chay tịnh và khổ chế của Gioan Tẩy Giả trong sa mạc là muốn đề cao lối sống đơn giản và sự tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa.
3.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến 2 điểm chính:
(1) Lý do ăn chay: Ăn chay phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của Ngài chưa ăn chay: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được." Chúa Giêsu nhận Ngài chính là chàng rể, và khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các môn đệ.
(2) Thời gian ăn chay: Chay tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết khi nào các môn đệ của Ngài sẽ ăn chay: "Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó."
3.3/ Phải có tâm hồn mới để lãnh nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là mốc thời gian để phân biệt giữa cái cũ và mới. Những người Pharisees và môn đệ của Gioan đại diện cho lớp người cũ, các môn đệ của Chúa Giêsu đại diện cho lớp người mới. Để có thể lãnh nhận những đạo lý mới được giảng dạy bởi Đức Kitô, một người cần có tâm hồn mới: rộng đủ để nhận ra những bất toàn của đạo lý cũ; đồng thời biết đón nhận những đạo lý mới để làm cho con người ngày càng toàn hảo hơn. Nếu không có tâm hồn mới, con người sẽ ngoan cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ sẽ khước từ những giáo lý mới của Đức Kitô.
Để giúp họ nhận ra sự quan trong của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất quen thuộc với khán giả:
(1) Áo và miếng vá: "Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm."
(2) Rượu và bầu da: "Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô là Thượng Tế mới của giao ước mới hoàn hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài để học hỏi những mặc khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành với chúng ta.
- Vâng lời làm theo những lời dạy dỗ của Thiên Chúa và của Đức Kitô là điều tối quan trọng trong cuộc sống. Chúng ta đừng bao giờ bất tuân những mệnh lệnh của Thiên Chúa.
- Dĩ nhiên chúng ta không đón nhận tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng biết dùng trí khôn để thích ứng với hoàn cảnh: giữ lại những gì tốt, thâu nhận những gì mới, và cải tiến để làm cho tốt hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C (17/01/2015)
[Is 62,1-5; 1 Cr 12, 4-1; Ga 2, 1-11]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Các tác giả 4 Sách Phúc Âm đều kể lại nhiều phép lạ Chúa Giê-su đã làm trong thời gian 3 năm thi hành sứ vụ công khai của Người trên mảnh đất Pa-lét-tin. Phép lạ nào cũng có hai ý nghĩa chính: một là hành động cứu độ con người; hai là dấu chỉ bày tỏ vinh quang của Chúa Giê-su và của Thiên Chúa.
Phép lạ Chúa Giê-su biến nước thường thành rượu ngon trong Tiệc Cưới Ca-na cũng mang hai ý nghĩa ấy. Nhưng trong tường thuật của Tin Mừng Gio-an thì ý nghĩa thứ hai được đề cao hơn ý nghĩa thứ nhất. Chính Thánh Gio-an đã khẳng định điều ấy: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người.”
Chúng ta hãy đọc các bài Sách Thánh của Thánh Lễ hôm nay để hiểu và đón nhận ý nghĩa ấy.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
[Ghi chú: Chúng tôi dùng bản dịch các bài Thánh Kinh của cố linh mục Giu-se Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, đăng trên mạng Tin mừng cho người nghèo]
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 62, 1- 5): Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem.
1 Vì Sion, Ta sẽ không nín thinh, vì Yêrusalem, Ta sẽ không ở lặng, cho đến khi đức nghĩa của nó như vừng quang xuất hiện, và phúc cứu độ của nó như đuốc rực lên. 2 Các nước sẽ thấy đức nghĩa của ngươi, các vua hết thẩy sẽ thấy vinh quang ngươi. Người sẽ gọi ngươi tên mới, tên chính miệng Yavê đã định. 3 Ngươi sẽ nên triều thiên tráng lệ trong tay Yavê, như vương miện nơi tay Thiên Chúa ngươi thờ. 4 Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ bỏ!" và xứ sở ngươi sẽ không còn bị gọi là "Hoang vu!" vì thiên hạ sẽ gọi ngươi “Sùng ái của Ta” và đất đai ngươi: “Đất đá kết duyên”. 5 Như tài trai sánh duyên thục nữ, Đấng xây dựng ngươi sẽ cùng ngươi kết nghĩa giao duyên như tân lang hoan hỉ bên một tân nương, Người sẽ hoan hỉ nơi ngươi Thiên Chúa ngươi thờ.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11): Đặc sủng tuy nhiều nhưng chung một gốc.
4Ðặc sủng chia làm nhiều, nhưng cũng là một Thần khí.5Phục vụ chia làm nhiều, nhưng cũng là một Chúa.6Kỳ công chia làm nhiều, nhưng cũng là một Thiên Chúa, Ðấng ra uy làm nên mọi sự nơi mọi người.7Thần khí hiển thị (như vậy) được ban xuống cho mỗi người để mưu ích lợi chung.8Người thì được Thần khí ban cho lời khôn ngoan, kẻ khác được lời trí tri, thể theo cũng một Thần khí.9Kẻ thì được lòng tin trong cũng một Thần khí; người lại được những đặc ân chữa bịnh tật trong cũng một Thần khí độc nhất.10Người thì được kỳ công phép lạ; kẻ khác được ơn tiên tri; kẻ khác nữa lại được ơn biện phân các thần khí: người thì được các thứ ngôn ngữ; kẻ lại được ơn diễn giải các ngôn ngữ.11Hết thảy mọi điều ấy, cũng một Thần khí độc nhất ra uy làm nên, phân chia cho mỗi người mỗi cách, như Ngài muốn.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 2, 1-11): Tiệc Cưới Ca-na.
1Ngày thứ ba, xảy ra có tiệc cưới ở Cana, xứ Galilê. Và có mẹ Ðức Yêsu ở đó.2Ðức Yêsu và các môn đồ của Ngài cũng được mời vào tiệc cưới.3Bởi hết rượu, nên mẹ Ðức Yêsu mới nói với Ngài: "Họ không có rượu nữa!"4Ðức Yêsu đáp lại: "Này bà, giữa tôi và bà, nào có việc gì? Giờ của tôi chưa đến!"5Mẹ Ngài nói với các người hầu: "Ngài có bảo gì, hãy làm theo!"
6Ở đó có đặt sáu chum đá, chiếu theo lệ quán tẩy của người Do Thái, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng nước.7Ðức Yêsu bảo họ: "Hãy đổ đầy nước các chum!" Và họ đã đổ đầy thấu lợi.8Rồi Ngài bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho ông quản tiệc". Và họ đã đem đi.9Một khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu, mà ông không biết tự đâu đến - còn các người hầu, những người đã múc nước thì biết - ông mới gọi vị tân lang10mà nói: "Phàm người ta, trước tiên ai cũng thết rượu hảo hạng; khi khách ngà ngà thì đãi rượu xoàng hơn. Còn ông, ông đã giữ rượu hảo hạng cho đến bây giờ!"
11Dấu lạ đầu hết này, Ðức Yêsu đã làm tại Cana xứ Galilê, và đã tỏ vinh quang Ngài ra và môn đồ đã tin vào Ngài.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)
3.1.1 Bài đọc 1 (Is 62, 1- 5) là những lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a nói về cảnh huy hoàng của thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Thiên Chúa thực hiện cuộc biến đổi thành Giê-ru-sa-lem và dân Ít-ra-en một cách kỳ diệu. Giê-ru-sa-lem sẽ huy hoàng, Ít-ra-en sẽ trở nên xinh đẹp được Thiên Chúa yêu thương và trở thành tân nương của Người.
à Trong đoạn Is 62,1-5 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa có một tình yêu lạ lùng và tuyệt diệu đối với Giê-ru-sa-lem và dân riêng của Người. Tình yêu ấy đã biến đổi hoàn toàn thân phận của Giê-ru-sa-lem và số phận của Ít-ra-en. Giê-ru-sa-lem là thành Giê-ru-salem. Ít-ra-en là dân tộc Ít-ra-en. Nhưng theo nghĩa bóng của Thánh Kinh, Giê-ru-sa-lem và Ít-ra-en là mỗi cộng đoàn, mỗi con người tôn thờ Thiên Chúa.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 12, 4-11) là đoạn văn “bất hủ” của Thánh Phao-lô Tông đồ, nói về các ơn, các đặc sủng dồi dào, phong phú và muôn hình vạn trạng của Thần Khí Thiên Chúa tức của Chúa Thánh Linh. Đó là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn đức tin, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định thần khí, ơn nói các tiếng lạ và ơn giải thích các tiếng lạ.
à Qua đoạn thư 1 Cr 12,4-11 trên, chúng ta nhận ra Thần Khí Thiên Chúa là Đấng vừa quyền năng vô biên, vừa yêu thương vô bờ bến đối với Cộng Đoàn Hội Thánh. Vì là Đấng quyền năng vô biên nên Người có đủ mọi ơn, có đủ thứ đặc sủng. Vì yêu thương Hội Thánh vô bờ bến nên Người rộng tay ban phát các ơn, các đặc sủng của Người cho con cái Hội Thánh. Những người nhận ơn, những kẻ được phân phát đặc sủng không phải là vì họ đạo đức thánh thiện mà là vì quyền năng vô hạn và tình yêu không tính toán của Thần Khí. Ơn hay đặc sủng được ban không phải cho riêng những người nhận được ơn hay đặc sủng ấy, mà là cho cả Cộng đoàn, cho hết mọi người đang cần đến ơn hay đặc sủng ấy để củng cố và tăng cường lòng tin yêu, để được giải thoát khỏi bệnh hoạn, tật nguyền hay cảnh tăm tối trong tâm hồn và để được chứng kiến hoạt động hết sức kỳ diệu của Chúa Ngôi Ba mà ca tụng vinh quang của Thiên Chúa!
3.1.3 Bài Tin Mừng (Ga 2, 1-11) là bài tường thuật vắn gọn, đơn sơ về phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” của Chúa Giêsu trong khung cảnh một tiệc cưới ở Ca-na. Đây là phép lạ đầu tiên mà Ngôi Hai Thiên Chúa thực hiện, khởi đầu cho một giai đoạn của phép lạ, của chuyện kỳ diệu do quyền năng và tình thương của Thiên Chúa thực hiện giữa và cho con cái loài người chúng ta!
à Qua đoạn Phúc Âm Ga 2,1-11 này, Chúa Giê-su đã bộc lộ “chân tướng” và “tấm lòng” thần linh của mình. Vì thế phép lạ Ca-na có nhiều ý nghĩa:
- Trước hết “làm phép lạ” là việc làm vượt khả năng của con người.
- Kế tiếp “làm phép lạ” để cứu giúp con người trong cơn khốn khó hầu đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người (cụ thể là đôi tân hôn, gia chủ và quan khách) thì chỉ có các thần linh tốt lành thánh thiện mới làm. Các thần dữ, nếu có thể làm phép lạ, thì chúng chỉ làm để lừa gạt người nhẹ dạ hòng lôi cuốn người ấy vào vòng kiềm tỏa của chúng mà thôi.
- Sau cùng “làm phép lạ” đầu tiên trong/cho một tiệc cưới Chúa Giê-su còn muốn gửi cho chúng ta hai sứ điệp quan trọng khác: một là Chúa Giê-su muốn báo hiệu sự hiện diện tràn đầy niềm vui của Nước Trời giống như Tiệc Cưới mà Người khai trương trong trần gian này. Thánh Kinh luôn dùng Tiệc Cưới để diễn tả cuộc gặp gỡ và sự kết hợp hân hoan và lâu bền giữa Thiên Chúa và con người; hai là Chúa Giê-su tỏ lòng ưu ái đặc biệt đối với các cặp vợ chồng và đời sống hôn nhân. Thánh Kinh cũng luôn dùng hôn nhân và Tình Yêu Vợ Chồng để diễn tả mối tương quan “độc hữu” giữa Thiên Chúa và con người.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có ba phần liên kết chặt chẽ với nhau:
Phần thứ nhất: Chúa Giê-su là thần linh tốt lành và quyền năng, là Thiên Chúa yêu thương và toàn năng. Người dùng quyền năng để thể hiện lòng yêu thương và đáp ứng mọi nhu cầu chính đáng của con người.
Phần thứ hai: Chúa Giê-su xuất hiện công khai để khai mở một Triều Đại Mới, và thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa giữa loài người. Trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy niềm vui và hoan lạc tràn đầy như rượu bia ê hề trong Tiệc Cưới vậy!
Phần thứ ba: Chúa Giê-su làm phép lạ “biến nước lã thành rượu ngon” cho/trong tiệc cưới là Người chúc lành, thánh hóa, nâng cấp mọi giao ước hôn nhân của con người, mọi thực tại của đời sống gia đình.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa Chalà Thiên Chúa vĩ đại và gần gũi yêu thương dân riêng Người khi giao việc giải thích Luật Chúa cho một số người được tuyển chọn cho công việc hệ trọng ấy; Sống với Chúa Giê-su Ki-tô là Lời và là Ngôn Sứ của Thiên Chúa, Đấng đã đến trần gian để nói Lời Yêu Thương, Lời Cứu Độ; Sống với Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh của các Sấm Ngôn, là Thần Khí của các Ngôn Sứ mọi thời đại!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi quyết tâm thực hiện ba việc này:
Việc thứ nhất: Tôi luôn tin tưởng và phó thác con người và cuộc sống của tôi cho Chúa Giê-su Ki-tô. Nhất là trong những lúc khó khăn, thử thách, trước những nhu cầu chính đáng, tôi chỉ chạy đến với Chúa Giê-su mà không tìm đến hay cậy dựa vào bất cứ một quyền lực hay thần linh nào khác (tử vi, bói toán, bùa ngải, cầu cơ, tướng số…).
Việc thứ hai: Tôi luôn cảm tạ ngợi khen Chúa Giê-su Ki-tô vì Chúa đã khai mở một Triều Đại Mới, và thiết lập một Vương Quốc Mới của Thiên Chúa trong trần gian và đã đưa tôi vào trong Triều Đại và Vương Quốc Mới ấy. Được sống trong hân hoan, tôi sẽ tích cực đóng góp công sức của mình vào việc mở rộng Nước Chúa trong các tâm hồn, gia đình và môi trường chung quanh.
Việc thứ ba: Tôi luôn cảm tạ ngọi khen Chúa Giê-su Ki-tô vì Chúa đã chúc lành, thánh hóa, nâng cấp cuộc hôn nhân của vợ chồng tôi và mọi thực tại của đời sống gia đình tôi. Để đáp lại lòng yêu thương và sự chăm sóc của Chúa Giê-su, tôi luôn trân trọng lời cam kết trong thánh lễ hôn phối và xây dựng gia đình tôi thành một “Hội Thánh nhỏ”, một “Hội Thánh tại gia” sáng ngời đức tin và đức ái.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI
5.1 «Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước được phúc khám phá và chiêm ngưỡng đức công chính của Thiên Chúa hiển hiện nơi Hội Thánh và con cái Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục và linh mục, để các ngài được ơn khôn ngoan và ơn hiểu biết mà giảng dậy và trình bày Mầu Nhiệm của Thiên Chúa cho các tín hữu và lương dân.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người sống hiệp nhất yêu thương nhau, vì cùng tin thờ một Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: "Họ hết rượu rồi.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trên toàn thế giới biết noi gương bắt chước Mẹ Ma-ri-a mà quan tâm đến nhu cầu của tha nhân và cầu xin Chúa Giê-su Ki-tô can thiệp giúp đỡ những người thiếu thốn phần hồn phần xác.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.5 «Ngài có bảo gì hãy làm theo.»Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết thực hiện lời nhắn nhủ của Đức Ma-ri-a mà thi hành mọi mệnh lệnh, yêu cầu của Chúa Ki-tô Giê-su.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 2 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Isa 62:1-5; I Cor 12:4-11; Jn 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành hiệp nhất trong những khác biệt của nhau.
Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, ban ân sủng, và trao sứ vụ khác nhau. Ngài muốn mỗi người chu toàn sứ vụ của mình theo như những gì được ban cho, để xây dựng gia đình, xã hội, và Nhiệm Thể của Đức Kitô. Nhưng rất nhiều người không hiểu sự quan phòng của Thiên Chúa, họ lấy mình làm tiêu chuẩn để nhận xét, phê bình và đòi hỏi tha nhân phải giống họ. Hậu quả là họ phải gánh là bất đồng ý kiến, chia rẽ, và hận thù.
Các Bài Đọc hôm nay mời gọi con người hãy nhận ra sự khác biệt trong mỗi cá nhân, về quà tặng cũng như sứ vụ; để tôn trọng tha nhân và cùng nhau xây dựng Nước Chúa. Trong Bài Đọc I, vì không biết vâng lời Thiên Chúa và tôn trọng tha nhân, Jerusalem được ví như một người vợ bị chồng là Thiên Chúa bỏ rơi và con cái bị lưu đày cực khổ các nơi; nhưng tiên-tri Isaiah nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ đoái thương nhìn đến và nối lại tình xưa nghĩa cũ với Jerusalem, vì Ngài là Thiên Chúa trung thành yêu thương. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô nêu bật một chìa khóa quan trọng để gìn giữ sự hiệp nhất và hạnh phúc trong gia đình cũng như cộng đoàn, là phải nhận ra những gì có chung và những gì khác biệt, để tôn trọng những khác biệt của nhau và cùng nhau xây dựng lợi ích chung. Mô hình lý tưởng là sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Mẹ Maria nhận ra ngay sự khó khăn của đôi tân hôn trong ngày trọng đại nhất của cuộc đời họ. Mẹ biết chỉ một người duy nhất có thể cứu vãn tình thế là Chúa Giêsu; nhưng Mẹ chỉ biết cầu cứu Chúa và nhắn nhủ các người giúp việc: "Hễ người bảo gì, cứ làm như vậy."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa.
1.1/ Jerusalem hoang phế sẽ được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới: Jerusalem được tiên tri Isaiah nhân cách hóa như một người vợ để chỉ nhà Israel. Jerusalem bị Thiên Chúa bỏ rơi, vì đã bất trung với Thiên Chúa và bất công với tha nhân. Hậu quả là quân thù đã tiêu hủy bình địa Jerusalem và đem tất cả dân chúng đi lưu đày. Tuy nhiên, tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa là lý do Jerusalem được phục hồi. Thiên Chúa không đành lòng khi thấy Jerusalem điêu tàn hoang phế; nhưng Ngài phải sửa phạt để Jerusalem nhận ra những khuyết điểm của mình mà ăn năn xám hối và quay về với tình yêu đích thực. Nếu không sửa phạt, Jerusalem sẽ chết trong tội của mình và xa lìa Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay, tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày Jerusalem được phục hồi qua lời tuyên sấm: "Tới ngày đức công chính xuất hiện tựa hừng đông, ơn cứu độ của thành rực lên như ngọn đuốc. Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho. Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Đức Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay."
1.2/ Hạnh phúc có được khi Jerusalem biết sống mối liên hệ với Thiên Chúa: Vì bất trung và không giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa mà Jerusalem bị mang tiếng là "Đồ bị ruồng bỏ!" Xứ sở bị mang tiếng là "Phận bạc duyên đơn." Nhưng một khi quay trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ yêu thương và chăm sóc Jerusalem như một người vợ yêu dấu. Lúc đó, Jerusalem sẽ được chồng là Thiên Chúa gọi: "Ái khanh lòng Ta hỡi!" Xứ sở sẽ được nổi danh là "Duyên thắm chỉ hồng." Jerusalem sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, Chúa sẽ lập hôn ước cùng xứ sở ngươi và Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Khi biết sống mối liên hệ của người vợ trung thành, Jerusalem sẽ trở thành niềm vui và niềm hãnh diện của Thiên Chúa.
2/ Bài đọc II: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.
Đây là một tư tưởng quan trọng trong nền thần học về thân thể của Phaolô, và là chìa khóa hiệu nghiệm để xây dựng hiệp nhất, bình an, và hạnh phúc. Thánh Phaolô khuyên con người nhận ra hai đặc điểm quan trọng:
2.1/ Những gì mọi người cùng có chung: Để có thể sống chung và cùng nhau làm việc, con người phải nhận ra những gì mọi người có chung. Ngài liệt kê ra những điểm có chung quan trọng:
(1) Một Thánh Thần: Đấng ban những đặc sủng khác nhau cho mỗi người để xây dựng lợi ích chung và Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(2) Một Chúa Kitô: Đấng hy sinh chịu chết cho mọi người được tha tội và mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Tất cả chúng ta là chi thể của một Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(3) Một Thiên Chúa: Đấng dựng nên và quan phòng mọi sự trong mọi người. Mỗi ngôi vị của Ba Ngôi Thiên Chúa tuy thi hành một sứ vụ khác nhau; nhưng cả ba cùng chung một mục đích là mưu cầu lợi ích cho con người.
(4) Chỗ khác, thánh Phaolô còn liệt kê thêm các tín hữu chỉ có một Phép Rửa, một niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa, và được tiền định để hướng về cùng một đích điểm.
2.2/ Những gì mọi người khác nhau: Bên cạnh những gì con người có chung, họ còn có rất nhiều khác biệt:
(1) Mỗi người được ban các đặc sủng khác nhau: "Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ.'' ''Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người."
(2) Đặc sủng khác nhau dẫn tới những ơn gọi khác nhau: giáo sư để giảng dạy, cha xứ để chăm sóc phần linh hồn cho dân, giáo dân để cung cấp nhân lực và giúp đỡ cho xã hội và Giáo Hội, bác sĩ để chữa lành ... Mỗi người một công việc khác nhau, không có ơn gọi này quan trọng hơn ơn gọi khác; nhưng tất cả đều góp phần trong việc xây dựng lợi ích chung.
(3) Mỗi người được tạo thành cách khác nhau: phái tính; tính khí; cơ thể ...
(4) Ngoài ra, mỗi người còn sống trong môi trường và những nền văn hóa khác nhau; được nuôi dưỡng, dạy dỗ, và trưởng thành trong những gia đình khác nhau.
Chúng ta không thể nào tìm được hai cá nhân giống nhau về mọi phương diện; vì thế, chúng ta đừng bao giờ bắt tha nhân phải suy nghĩ và hành xử giống mình về mọi phương diện.
3/ Phúc Âm: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
Trình thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu và là phép lạ đầu tiên trong Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là phép lạ quan trọng, vì nó khơi mào kỷ nguyên của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu tỏ uy quyền và sự quan tâm của Ngài cho Đức Mẹ, cho các môn đệ, và cho dân chúng để họ tin vào Ngài. Có ba phản ứng khác nhau trong trình thuật hôm nay.
3.1/ Phản ứng rất tinh tế của Đức Mẹ: Mẹ Maria, tuy là khách dự tiệc; nhưng Mẹ không giống như đa số khách dự tiệc đến để ăn. Mẹ là người đầu tiên nhận ra hoàn cảnh khó khăn của đôi tân hôn. Mẹ hiểu biến cố hết rượu trong ngày cưới sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc của đôi tân hôn, nên Mẹ đến cầu cứu với Chúa Giêsu cho đôi trẻ, và nói với con mình: "Họ hết rượu rồi." Sự kiện Mẹ chọn đến thưa chuyện với Chúa Giêsu chứng minh hai điều:
(1) Niềm tin của Mẹ vào uy quyền của Chúa Giêsu: Mẹ biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể cứu vãn tình thế cho đôi trẻ.
(2) Mẹ không truyền lệnh; nhưng cầu cứu để Chúa Giêsu tự do đáp trả.
Sau đó, Mẹ ra ngoài bếp và nhắn nhủ những người giúp việc một điều quan trọng: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo."
3.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu: Khi nghe lời Mẹ cầu cứu, Đức Giêsu trả lời: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến." Giờ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan là giờ mà Ngài được vinh quang khi bị treo trên Thập Giá. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu trên dương thế đều hướng về giờ này.
Thoạt nghe câu trả lời của Chúa Giêsu, nhiều người có thể cho là Ngài bất hiếu; nhưng họ cần phải suy xét thêm: Trong cuộc đời, mỗi người có một sứ vụ Thiên Chúa trao để chu toàn và có một thời gian cố định để chu toàn sứ vụ đó. Chúng ta đừng bao giờ bắt người khác phải thi hành sứ vụ đó theo yêu cầu và thời gian của chúng ta. Đây là chìa khóa để giữ bình an, hiệp nhất và hạnh phúc của gia đình.
Lời nhận xét của người quản tiệc là một ví dụ khác cho việc đừng bắt người khác phải luôn theo truyền thống, vì mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Ông trách tân lang: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ."
3.3/ Phản ứng của những người giúp việc: Trình thuật kể: "Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước."
- Đức Giêsu bảo các người giúp việc: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Đây không phải một lệnh truyền dễ thi hành vì phải ra đi kín một lượng nước lớn trong ngày lễ cưới; nhưng họ đã vâng theo lệnh truyền của Chúa và đổ đầy tới miệng.
- Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Lại một lệnh truyền không dễ làm vì đòi hỏi một niềm tin; nhưng họ vâng lời và đem cho ông quản tiệc.
- Kết quả: Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết rượu từ đâu ra, chỉ có gia nhân đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang lại và hỏi: Tại sao giữ rượu ngon đến giờ này?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tránh thái độ tự tôn cho mình có thể làm mọi việc mà không cần sự giúp đỡ của tha nhân.
- Chúng ta phải tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đừng bao giờ bắt họ phải giống mình trong cách nhận xét, trình bày, và giải quyết các vấn đề.
- Điều chúng ta có thể làm là trình bày sự thật và mời gọi con người đáp trả; nhưng phải để cho tha nhân suy nghĩ và tự do đáp trả theo hoàn cảnh và thời gian của họ.
- Chúng ta đừng vội kết tội và đoạn tuyệt với tha nhân vì họ đã không nhận ra sự thật và làm theo ý muốn của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 9:1-4, 17-19, 10:1a; Mk 2:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công hiệu của Lời Chúa
Theo truyền thống Do-Thái, một khi lời nói phát xuất từ miệng một người, nó có thể hiện hữu cách độc lập. Nó không chỉ là một âm thanh với một ý nghĩa, nó còn có một năng lực thoát ra để hoàn thành ý định của người nói. Ví dụ, biết bao việc làm là hậu quả của những lệnh truyền của vua chúa và các vĩ nhân trên thế giới. Điều này càng đúng hơn với Lời Chúa. Theo tiên-tri Isaiah: "Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó" (Isa 55:10-11).
Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong việc đề cao sự quan trọng của Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa chọn ông Saul để làm vị vua đầu tiên của Israel, và Ngài xếp đặt mọi sự để ông ngôn-sứ Samuel gặp và xức dầu phong vương cho ông. Trong Phúc Âm, Lời của Chúa Giêsu có sức hấp dẫn một người thu thuế như Matthew, làm cho ông bỏ dĩ vãng và sự nghiệp thu thuế, để trở nên một Tông-đồ và một Thánh-ký nhiệt thành của Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): Đức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người.
1.1/ Thiên Chúa chọn Saul làm vua đầu tiên của Israel: Nhìn lại cách chọn người lãnh đạo của Thiên Chúa, chúng ta thấy Ngài không theo cách chọn lựa của con người. Con người thường có khuynh hướng chọn người trong những dòng tộc quan trọng, Thiên Chúa chọn Saul từ dòng dõi Benjamin, một dòng tộc nhỏ nhất trong 12 chi tộc của Israel. Khi chọn David để thay thế Saul cũng thế, Thiên Chúa không chọn các người con lớn và khỏe mạnh của ông Jesse; nhưng lại chọn David, người con út là đứa chăn chiên đang ở ngoài đồng.
Sau khi đã chọn lựa, Ngài quan phòng để ngôn-sứ Samuel có cơ hội gặp Saul bằng việc mất các con lừa. Vì chuyện mất lừa, nên ông Kish, cha ông Saul, sai con ông đi tìm lừa: "Con hãy đem một trong các người đầy tớ đi với con và lên đường đi tìm lừa." Ông Saul đi qua miền núi Ephraim, rồi đi qua đất Shalishah, mà không tìm thấy. Họ đi qua đất Saalim: cũng không thấy gì. Ông đi qua đất Benjamin, mà không tìm thấy. Khi thấy trời đã tối, Saul muốn quay trở về nhà để cha mình khỏi mong mỏi; nhưng người đầy tớ thúc giục ông đi vào thành trước mặt để vấn ý thầy thị kiến cho biết những con lừa cái thất lạc hiện đang ở đâu.
1.2/ Ông Samuel xức dầu phong vương cho Saul: Cùng lúc ấy, Thiên Chúa cũng mặc khải cho ông Samuel trong một thị kiến, về người mà Ngài đã chọn để làm vua đầu tiên của Israel (I Sam 9:16). Khi ông Samuel thấy ông Saul thì Đức Chúa mách bảo ông: "Đây là người mà Ta đã nói với ngươi: chính nó sẽ cai trị dân Ta."
Khi ông Saul lại gần ông Samuel ở giữa cửa thành và nói: "Xin ông làm ơn cho tôi biết nhà thầy thị kiến ở đâu." Ông Samuel trả lời ông Saul rằng: "Tôi là thầy thị kiến đây. Ông hãy lên nơi cao, trước mặt tôi. Các ông sẽ dùng bữa với tôi hôm nay. Sáng mai tôi sẽ để cho ông đi và sẽ nói cho ông biết tất cả những gì đang làm ông bận tâm."
Hôm sau, ông Samuel dậy sớm để tiễn Saul lên đường; và trên đường đi, ông Samuel lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Saul, rồi hôn ông và nói: "Chẳng phải Đức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao?'' Và ông Samuel cũng cho ông Saul biết về chuyện những con lừa cái đã được cha ông tìm lại được.
Qua sự quan phòng kỳ diệu này cho chúng ta thấy tất cả tiến trình chọn người và phong vương được xếp đặt bởi Thiên Chúa. Saul không biết và cũng không có ý định trở thành vua. Khi Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ xếp đặt mọi sự để việc ấy thành sự.
2/ Phúc Âm: Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.
2.1/ Chúa Giêsu gọi Lêvi, người thu thuế: "Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người."
Người Do-Thái quan niệm: người thu thuế như ông Lêvi là người tội lỗi công khai, vì đã toa rập với nước ngòai để bóc lột dân chúng. Họ bị ngăn cấm không cho vào Đền Thờ, và được xếp hạng cùng với hàng đĩ điếm và trộm cướp. Chúa Giêsu không những chọn Matthew, mà còn công khai dùng bữa với các người thu thuế khác tại nhà ông. Thái độ của Matthew rất anh hùng và dứt khoát, vì một khi đã bỏ nghề thu thuế là ông đã mất tất cả về phương diện vật chất. Nhưng bù lại, ông đã nhận được rất nhiều về phương diện tinh thần: bình an vì từ nay không còn bị khinh thường, trở thành Tông-đồ, và trở thành Thánh-sử để loan báo Tin Mừng của Chúa.
2.2/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm Biệt-phái: Có hai phản ứng chính trong cuộc trở lại của Matthew:
(1) Những kinh-sư thuộc nhóm biệt-phái: Thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: "Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!" Họ có lý phần nào khi kết tội Chúa Giêsu, vì như quan niệm của cha mẹ Việt-nam "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng." Nhưng quan niệm này không thể áp dụng cho Đức Kitô, vì Ngài đến để chinh phục và mang con người về cho Thiên Chúa.
(2) Đức Giêsu nói với họ: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." Ngược lại với cách cư xử của con người, Thiên Chúa không giữ quá khứ tội lỗi của con người; trái lại Ngài không ngừng kêu gọi con người từ bỏ quá khứ tội lỗi để hướng về tương lai. Như một bác sĩ rành nghề, Chúa Giêsu biết Ngài có thể chữa bệnh cho Matthew, và dùng những tài năng sẵn có của ông cho việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lời Chúa có sức để làm hiện thực những chuyện không thể đối với con người. Chúng ta đừng bao giờ khinh thường hiệu quả của Lời Chúa.
- Lời Chúa có uy quyền thay đổi những tâm hồn tội lỗi thành thánh thiện. Khi chúng ta quyết định áp dụng Lời Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ gặt hái những kết quả mà chúng ta không bao giờ nghĩ có thể đạt được.
- Chúng ta phải dành địa vị quan trọng cho Lời Chúa trong cuộc đời, được chứng tỏ qua việc chúng ta dành thời gian, cố gắng khắc phục khó khăn, và thực thi Lời Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 8:4-7, 10-22a; Mk 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa.
Thiên Chúa luôn dạy dỗ và hướng dẫn con người trong mọi sự, ngày xưa cũng như thời nay; nhưng rất ít người chịu lắng nghe, tìm hiểu, và mang ra thực hành. Vì thế, không lạ gì mà con người vẫn tiếp tục cuộc sống triền miên đau khổ trong tội lỗi của mình.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người cần lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến việc: nếu con người không chịu tuân giữ Lời Chúa dạy, họ sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Người. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel xin ngôn-sứ Samuel chọn cho họ một vị vua như bao quốc gia khác để cai trị họ, vì họ đã mất tin tưởng nơi ông, và không còn muốn nghe lời hướng dẫn của Thiên Chúa qua ông nữa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng uy quyền chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội; và như một hậu quả, Ngài đến từ Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng."
1.1/ Con người không thấu hiểu điều mình xin: "Đứng núi này trông núi kia" luôn là ảo tưởng của con người. Họ thường không bao giờ bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại và cảm nhận được hạnh phúc trong những gì họ đang có; nhưng luôn mong muốn, tìm tòi, và cầu xin cho được những gì họ nghĩ phải có thì mới hạnh phúc. Kết quả là họ chẳng bao giờ có được bình an và hạnh phúc như lòng mong muốn. Trình thuật hôm nay là một ví dụ điển hình.
(1) Dân chúng không muốn nghe lời ông Samuel, ngôn sứ của Thiên Chúa: Toàn thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Samuel ở Ramah. Họ nói với ông: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi, như trong tất cả các dân tộc."
(2) Dân chúng không muốn Thiên Chúa làm vua cai trị họ: Ông Samuel rất bực mình với lời yêu cầu và ông cầu nguyện với Đức Chúa cho biết phải giải quyết cách nào. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng.''
1.2/ Con người phải lãnh nhận hậu quả của những gì mình mong muốn.
(1) Thiên Chúa báo trước hậu quả: Dân chúng không đủ khôn ngoan để tiên liệu trước những gì sẽ xảy ra do việc có vua cai trị; vì thế, Thiên Chúa phải báo trước những hậu quả do việc có vua: "Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em: Các con trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông... Các con gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. Đồng ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi của ông... Các tôi tớ nam nữ, các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà dùng vào việc của ông. Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Đức Chúa sẽ không đáp lời anh em."
(2) Dân chúng chấp nhận hậu quả: Nếu những người có khôn ngoan đủ, họ sẽ nhận ra điều các kỳ mục xin là rồ dại, vì những lý do sau: Thứ nhất, làm sao kiếm được một vị vua nào cai trị dân khôn ngoan hơn Thiên Chúa? Thứ hai, họ được tự do khi Thiên Chúa cai trị; nhưng họ và con cháu họ phải làm nô lệ khi có vua. Thứ ba, họ phải đóng đủ mọi thứ thuế để có tiền trang trải cho những nhu cầu của nhà vua. Sau cùng, nếu họ đã lựa chọn có vua, họ sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả; lúc đó, họ có kêu trách, cũng đã quá muộn.
Nhưng dân vẫn cứng đầu, không chịu nghe theo những lời cắt nghĩa của ông Samuel. Họ nói: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi." Ông Samuel nghe tất cả những lời của dân và nói lại những lời ấy cho Đức Chúa nghe. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là Thiên Chúa vì Ngài làm được những việc Thiên Chúa làm.
2.1/ Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: Trình thuật kể: "Đang khi Người giảng dạy cho họ, người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống." Mái nhà của người Do-Thái không xuôi ra hai bên như mái nhà chúng ta, mà phẳng như hình chữ nhật để người ta có thể dùng làm sân thượng để hóng mát. Vì thế, việc dỡ mái nhà xuống cũng đơn giản và ít gây thiệt hại. Khi thấy cách biểu lộ niềm tin của họ, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi." Tội này có thể là tội dỡ mái nhà hay tội của người bại liệt.
2.2/ Chúa Giêsu có quyền tha tội:
(1) Tội lỗi và hình phạt: Theo truyền thống Do-Thái, hình phạt là hậu quả của tội lỗi: có thể của cá nhân hay của cha mẹ (Job 4:7, Jn 9:2). Các Rabbi có câu: "Không người bệnh nào được lành bệnh cho tới khi tất cả tội lỗi của anh được tha thứ."
(2) Lý luận của Chúa Giêsu: Khi Ta tha hình phạt qua việc chữa lành, là Ta tha tội, nguyên nhân của hình phạt.
(3) Lý luận của các Kinh-sư: Trong đám đông, có nhiều các Kinh-sư đến không phải để nghe Thiên Chúa giảng, nhưng để bới lá tìm sâu để có thể kết án Chúa, và họ nghĩ họ đã tìm ra lý do để kết án Chúa phạm thượng: " Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?"
(4) Chúa Giêsu dùng lý luận của các Kinh-sư và việc chữa lành để chứng minh cho họ biết Ngài là Thiên Chúa: "Tâm trí Đức Giêsu thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi," hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi," điều nào dễ hơn?" Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo "Con đã được tha tội rồi;" vì không ai có thể kiểm chứng được, còn điều khó làm là bảo "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi;" phải là người có uy quyền mới làm được và mọi người đều kiểm chứng.
"Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nghe giảng là để dẫn tới đức tin hay làm cho đức tin tăng trưởng hơn, chứ không phải nghe cho qua lần chiếu lệ. Cả người rao giảng lẫn các tín hữu, chúng ta phải tôn trọng lúc lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa.
- Nếu chúng ta khinh thường hay không chịu chuẩn bị, chúng ta đã hoang phí thời giờ của người rao giảng cũng như người nghe; và nhất là không đạt được mục đích của cuộc đời: được sống với Thiên Chúa muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 4:1-11; Mk 1:40-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả xấu.
Trong cuộc sống, mọi người chúng ta đều nhận ra nguyên tắc: nếu muốn kết quả tốt đẹp, phải thi hành những điều kiện đòi hỏi; vì nếu làm ngược lại, chúng ta sẽ phải lãnh mọi hậu quả xấu. Ví dụ, để có thể lành bệnh, con người phải làm theo những gì bác sĩ căn dặn; nếu không, sẽ không khỏi bệnh. Để có thể thu thập kiến thức và đạt được điểm cao, học sinh phải lắng nghe giáo sư và viết lại những gì giáo sư nói; nếu nói ngược lại và không có lý do chứng minh, sẽ bị điểm xấu và có thể bị ở lại lớp.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải vâng lời Thiên Chúa và thi hành những gì Ngài dạy, nếu muốn được Thiên Chúa săn sóc và ban ơn. Làm ngược lại những gì Thiên Chúa dạy là tự chuốc hậu quả xấu cho mình. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel nghĩ nếu họ cứ mang Hòm Bia Thiên Chúa ra chiến trường, mà không cần biết có lệnh Thiên Chúa hay không, là sẽ toàn thắng quân thù. Kết quả là họ đã thảm bại và Hòm Bia Thiên Chúa rơi vào tay quân Philistines. Trong Phúc Âm, mặc dù đã được ngăn cấm bởi Đức Kitô, người phong hủi vẫn không vâng lời. Sự bất tuân của anh làm cho Chúa Giêsu không thể vào thành và dạy dỗ dân chúng được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao hôm nay Đức Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại?
1.1/ Đừng nghĩ Thiên Chúa luôn bảo vệ mà dân chúng không cần ăn năn: Trong lịch sử Cựu Ước, cứ khi nào dân chúng vâng lời làm theo những gì Thiên Chúa dạy, họ được Ngài bảo vệ khỏi tay quân thù, và làm việc gì cũng thành công; nhưng khi họ bất tuân lệnh Thiên Chúa, Ngài sẽ bỏ mặc họ cho quân thù tứ bề xâu xé, và họ sẽ phải chịu mọi thảm bại cách nhục nhã. Trình thuật hôm nay là một dẫn chứng: Các con cái của thầy cả Eli là Hophni và Phinehas và nhiều người trong con cái của Israel càng ngày càng bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả khi họ giao chiến với quân đội của Philistines, họ bị thảm bại và bị thiệt hại khoảng 4,000 người.
(1) Phản ứng của các kỳ mục Israel: Khi dân trở về trại, các kỳ mục Israel nói: "Sao hôm nay Đức Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại? Chúng ta hãy đi Shiloh lấy Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa về: Hòm Bia sẽ đến giữa chúng ta và sẽ cứu chúng ta khỏi bàn tay quân thù." Họ chỉ nghĩ đơn giản là họ sẽ chiến thắng quân thù nếu có sự hiện diện của Hòm Bia Thiên Chúa. Thế là họ sai người đi Shiloh; từ đó họ mang về Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá; ở đó, bên cạnh Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, có hai con ông Eli là Hophni và Phinehas. Khi Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa xuống trại, toàn thể Israel hò reo vang dội khiến đất rung chuyển.
(2) Phản ứng của người Philistines: Khi người Philistines nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau: "Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Do-thái là gì vậy?" Khi chúng biết là Hòm Bia Đức Chúa đã đến trại, chúng sợ hãi và nói với nhau: "Một vị thần đã đến trại!" Rồi chúng bảo nhau: "Khốn thân ta, vì trước đây không có như vậy! Khốn thân ta! Ai sẽ giải thoát ta khỏi tay những thần hùng mạnh ấy? Đó là những thần đã dùng mọi thứ đòn mà đánh phạt người Ai-cập trong sa mạc." Nhưng vì bị dồn vào thế phải chiến đấu, nên người lãnh đạo quân đội Philistines phải lên tiếng động viên tinh thần các binh sĩ: "Hỡi người Philistines, can đảm lên, hãy tỏ ra là nam nhi, kẻo phải làm nô lệ cho bọn Do-thái như chúng đã làm nô lệ cho anh em. Hãy tỏ ra là nam nhi và chiến đấu!" Và họ tiến lên giao chiến với quân đội của Israel.
1.2/ Kết quả của cuộc chiến: Hôm đó là một cuộc thảm bại nhục nhã của Israel. Họ bị quân đội Philistines đánh bại tan tành. Phía Israel có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. Hòm Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con ông Eli là Hophni và Phinehas bị giết. Số còn lại chạy trốn về lều của mình.
Con cái Israel học được một bài học: Không phải cứ có Hòm Bia Thiên Chúa là tự động được Thiên Chúa bảo vệ. Họ không thể điều khiển Thiên Chúa; nhưng bổn phận của họ là phải vâng lời Ngài, nếu muốn được Ngài bảo vệ.
2/ Phúc Âm: Người phong cùi được chữa lành, nhưng không nghe lời Thiên Chúa.
2.1/ Chúa Giêsu chữa lành người phong cùi: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.
2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu: Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." Mục đích tại sao Chúa Giêsu làm phép lạ là vì thương bệnh nhân và muốn cho họ nhận ra Ngài là Thiên Chúa, chứ không phải để được tán dương ca tụng. Nếu sau khi lãnh nhận phép lạ, mà vẫn không tin vào Ngài, phép lạ đó coi như đã không đạt được mục đích.
2.3/ Anh được chữa lành phong hủi không nghe lời Chúa Giêsu: Trình thuật kể: "Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành." Chúng ta cứ thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra cho anh phong cùi này, nếu Chúa Giêsu là một ông vua hay nhà lãnh đạo quân sự?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận của chúng ta là phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa và tuân giữ những gì Ngài truyền dạy.
- Vâng lời Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo đại diện cho Ngài không phải là hèn kém hay nô lệ, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan của chúng ta; vì chúng ta biết họ khôn ngoan và yêu thương chúng ta.
- Chúng ta được Thiên Chúa bảo vệ và gìn giữ không phải vì danh xưng là những người Kitô hữu; nhưng vì chúng ta vâng lời và thực hành những gì Ngài truyền dạy chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 13/01 Chúa Giêsu là Thượng-tế nhân-từ và trung-tín
- 11/01 Cùng nhau làm việc
- 10/01 Đức Kitô được tuyển chọn để thi hành sứ vụ
- 10/01:Chúa Giêsu chịu phép rửa
- 09/01 Phải tránh xa tội lỗi
- 08/01 Làm chứng nhân cho Đức Kitô
- 07/01 Yêu Chúa là thi hành thánh ý của Ngài
- 06/01 Tình yêu hòan hảo lọai trừ sự sợ hãi
- 05/01 Tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện cho con người qua Đức Kitô
- 04/01 Phải học Lời Chúa để nhận ra sự thật