Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Mc 5,1-20
01/02/2016 - THỨ HAI TUẦN 4 TN
Mc 5,1-20
CHỨNG NHÂN TẠI GIA
Kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Chúa. Nhưng Người không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh." (Mc 5,18-19)
Suy niệm: Mọi người đều được mời gọi sống ơn Chúa kêu gọi mình. Người thì sống đời độc thân, người thì sống đời tu trì, đa số thì sống đời gia đình. Tuy rằng hình thức đời sống có khác nhau, nhưng tất cả mọi đời sống đều cùng chung một mục tiêu như Chúa Giê-su đã nói, đó là phải 'mang lại hoa trái'. Tin Mừng hôm nay thuật lại, người bị quỷ ám được Chúa chữa lành ước muốn được ở với Chúa như các tông đồ, muốn đi theo Chúa trên từng cây số trong vùng Pa-lét-tin, muốn 'đi phượt' với Chúa đến vùng thôn quê ra vùng thành thị như một người 'không có nơi gối đầu', không phải bằng xe máy, mà bằng đôi chân trần. Nhưng anh bất ngờ khi nghe Chúa nói với anh, "về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh". Anh khám phá ra rằng, để sinh hoa trái thiêng liêng, điều cốt yếu không phải khăng khăng làm điều anh muốn, mà là tìm điều Chúa muốn. Và điều Chúa muốn anh thực hiện là chia sẻ kinh nghiệm về lòng Chúa thương xót cho người trong gia đình của mình. Một khi anh chia sẻ kinh nghiệm đức tin như thế, anh đã đã sinh hoa trái thiêng liêng trong gia đình của anh rồi.
Mời Bạn: Nhiều người đang quên mất bổn phận về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm. Bạn quyết tâm gì khi nghe lời Chúa hôm nay?
Sống Lời Chúa: Kể cho người thân trong gia đình nghe một kinh nghiệm Chúa yêu thương bạn hay gia đình bạn.
Cầu nguyện: Đọc kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót.
- Viết bởi Lc 4,21-30
31/01/2016 - CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – C
Lc 4,21-30
ĐÓN NHẬN LỜI HẰNG SỐNG
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. (Lc 4,22)
Suy niệm: Nhà bác học lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 là A. Einstein thú nhận: "Khi còn bé, tôi đã học cả Kinh Thánh và sách Talmud. Là người Do Thái, nhưng tôi đã bị khuôn mặt sáng ngời của Đức Giê-su Na-da-rét mê hoặc... Chưa ai đọc các sách Tin Mừng mà không cảm thấy sự hiện diện thật sự của Đức Giê-su. Tính cách của Ngài rung lên trong mỗi từ ngữ. Một đời sống như vậy không huyền thoại nào chứa hết được." Trước Einstein 20 thế kỷ, dân làng Na-da-rét cũng bị mê hoặc bởi những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người như vậy. Đó không chỉ là lời khôn ngoan của bậc vĩ nhân, mà còn là Lời hằng sống, là Ngôi Lời Thiên Chúa, là "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14).
Mời Bạn: "Đức Giê-su là một bậc thầy nghệ thuật không ai bì kịp về khả năng phơi bày cái cốt lõi thâm sâu của chân lý tinh thần" (G. Vermes). Ngài không chỉ nói những lời hay ý đẹp, nhưng còn có thể giúp bạn nhận thức chân lý mang tính sinh tử cho đời mình. Bạn hãy đọc và nghiền ngẫm lời Ngài trong sách Tin Mừng để hiểu được chân lý ấy.
Sống Lời Chúa: Trong năm mới cũng là Năm Thánh này, tôi sẽ dành thời gian mỗi ngày đọc một đoạn Tin Mừng nhằm giúp mình hiểu biết và yêu mến Chúa Ki-tô hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con thán phục lời hay ý đẹp từ miệng Chúa như bao người khác. Thế nhưng, nhiều khi nại cớ bận rộn công việc mỗi ngày, con ngại ngùng khi phải dành thời gian đọc và suy gẫm Lời Chúa. Kế hoạch sống của con trong năm nay là có thời giờ tiếp cận Lời Chúa hằng ngày. Amen.
- Viết bởi Mc 4,35-41
30/01/2016 - THỨ BẢY TUẦN 4 TN
Mc 4,35-41
ĐỨC KI-TÔ LÀ AI ĐỐI VỚI BẠN?
"Người là ai mà cả gió lẫn biển đều phải tuân lệnh Người?" (Mc 4,41)
Suy niệm: Nhạc sĩ P. Kim trong một tác phẩm của mình đã tự hỏi: "Giờ này, đối với tôi, Đức Ki-tô là ai vậy?" Đó là câu hỏi mà các tông đồ thốt lên khi tận mắt chứng kiến Thầy mình chỉ nói một lời mà gió và biển đang ào ào sôi sục phải vâng lệnh lặng im ngay tức khắc. Mặc dù được phúc ở gần Chúa, nhưng mãi đến hôm nay, các tông đồ của Chúa mới đặt câu hỏi về con người Giê-su đó. Đặt câu hỏi cũng có nghĩa là đã trả lời rồi: không phải là thường nhân thì phải chăng là Người được Thiên Chúa sai đến? Thế nhưng, ngay lúc đó, các ông đã không trả lời được rành rọt, mà phải với thời gian, đặc biệt là sau khi Chúa sống lại, các ông mới hiểu và nhận ra Người đích thực là "Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Mời Bạn: "Đối với tôi, Đức Ki-tô là ai?" Đó cũng là câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải thường xuyên tự hỏi mình về Đức Ki-tô và mối tương quan với Ngài. Chúa Ki-tô vẫn đang hiện diện trong mỗi người chúng ta, cùng đồng hành trong mọi vui buồn, thành công và thất bại của cuộc sống. Làm sao có thể nhận ra Chúa nếu như ta không có mối liên hệ mật thiết với Người! Mời bạn xét lại mối tương quan giữa bạn với Chúa. Những hoàn cảnh đổi thay xảy đến trong đời có làm thay đổi mối tương quan đó không? Bạn có than trách Chúa khi gặp khó khăn thử thách không?
Chia sẻ cảm nghiệm của bạn về Chúa Giê-su hiện diện trong đời bạn.
Sống Lời Chúa: Dành thời gian tâm sự với Chúa Giê-su để sống thân thiết hơn với Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su là tình yêu của con, xin cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
- Viết bởi Mc 4,26-34
THỨ SÁU TUẦN 3 TN
Mc 4,26-34
SỨC MẠNH ÂM THẦM
"Chuyện Nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết." (Mc 4,26-27)
Suy niệm: Nếu bạn gieo một hạt lúa xuống đất, rồi cứ 5 phút bạn moi lên coi thử xem chuyện gì đã xảy ra cho nó, có lẽ bạn sẽ tưởng rằng nó đã chết, nhưng chính lúc ấy cả một qui trình vận hành phức tạp đã bắt đầu khởi động bên trong hạt lúa ấy. Những người nông dân tuy không học lập trình, nhưng họ đã biết vận dụng tiến trình phát triển của hạt lúa một cách nhuần nhuyễn trong việc canh tác của mình. Để hạt giống phát triển, họ làm phần của họ: chuẩn bị những điều kiện thuận lợi cho hạt giống: cày xới đất, bón phân, làm cỏ, v.v... Hạt giống cứ âm thầm phát triển theo qui luật: nẩy mầm, mọc lên, trổ bông kết hạt và trở thành một vụ mùa bội thu. Sức mạnh âm thầm của Lời Chúa cũng thế: một khi hạt giống Lời Chúa đã được gieo vào lòng người, hạt giống đó sẽ âm thầm mọc lên và sinh hoa trái, bất chấp mọi thế lực cản phá.
Mời Bạn: cộng tác vào công việc "canh tác Lời" của Thiên Chúa. Chúa muốn tuyển bạn làm người cày bừa, gieo giống, chăm bón, làm cỏ hay thu hoạch hoa màu trong cánh đồng thế giới. Việc của bạn là làm chứng cho Ngài cách kiên trì và luôn luôn hy vọng; phần còn lại hãy để sức mạnh âm thầm của Lời Chúa hoạt động.
Chia sẻ: Bạn có cảm nghiệm gì về sức mạnh âm thầm của Lời Chúa?
Sống Lời Chúa: Mạnh dạn nói Lời Chúa khi được Thánh Thần thúc đẩy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết kiên trì gieo Lời Chúa dù gặp điều kiện thuận lợi hay không.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thánh Thomas Aquinas Tiến Sĩ
Bài đọc: Wis 7:7-10; 15-16; Jn 17:11b-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quí trọng của Đức Khôn Ngoan
Nếu một người muốn biết thánh sư Thomas Aquinas khôn ngoan dường nào, người đó cứ đọc bộ Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae) là sẽ biết ngay. Để thưởng công cho thánh nhân, một ngày kia Đức Kitô hiện ra với ngài và nói: "Thomas! Con viết rất hay về cha. Con cứ việc xin bất cứ sự gì Cha sẽ ban cho con." Không một chút do dự, thánh nhân nói với Đức Kitô: "Không điều gì khác ngoại trừ chính Cha."
Để có thể viết về Chúa hay đến thế, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh tất cả cho việc tìm kiếm khôn ngoan. Ngài thuộc dòng họ quí tộc, Landulph, cha của ngài là Quận Công (Count) của Aquino; mẹ của ngài là Theodora, Quận Chúa (Countess) của Teano. Gia đình của ngài có họ hàng với hoàng-đế Henry VI và Frederick II. Khi quyết định trở thành một tu sĩ Đa-minh, ngài đã gặp nhiều chống cự gay gắt từ phía gia đình đến nỗi cha và các anh chặn đường bắt giam ngài vào trong cây tháp San Giovanni ở Rocca Secca. Họ còn cho cả gái làng chơi vào để quyến dũ ngài bỏ ý định trở thành một tu sĩ nghèo hèn. Sau cùng, Thomas Aquinas đã vượt qua tất cả để tận hiến cuộc đời cho việc cầu nguyện và tìm kiếm sự khôn ngoan.
Hai bài đọc trong ngày lễ kính ngài hôm nay muốn nêu bật sự quan trọng và ích lợi của khôn ngoan. Trong bài đọc I, trình thuật hôm nay là hậu quả của cuộc đàm thoại giữa Thiên Chúa và vua Solomon. Vua Solomon đã xin cho được khôn ngoan và Thiên Chúa đã ban cho Nhà Vua khôn ngoan đến nỗi trước và sau Vua, không ai được khôn ngoan đến thế. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trước khi chịu chết và về trời đã không xin Chúa Cha điều gì khác hơn là xin thánh hiến các môn đệ của Ngài trong Sự Thật. Ngài cầu nguyện để xin Cha ban cho các môn đệ hiểu biết và sống theo Lời của Thiên Chúa, để có thể hoàn thành nhiệm vụ Ngài trao và đạt đến quê Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
1.1/ Hiểu biết khôn ngoan đáng quí trọng hơn mọi sự: Theo truyền thống Do-thái, vua Solomon là "tác giả" của các Sách Khôn Ngoan; vì vua Solomon được coi là người khôn ngoan nhất trong lịch sử của nhân loại. Truyền thống kể lại truyện khi Thiên Chúa hỏi nhà vua muốn xin bất cứ gì, thì Thiên Chúa cũng ban cho. Vua Solomon không xin cho có uy quyền, cũng chẳng xin cho được giầu có, sức khỏe, sống lâu, hay bất cứ điều gì khác; nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết sống và cai trị dân. Thiên Chúa rất hài lòng với điều nhà vua xin; nên Ngài hứa sẽ ban cho vua Solomon được khôn ngoan đến độ không có ai trước và sau vua được khôn ngoan như thế.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn vương quyền: Nắm giữ vương trượng, ngai vàng, mà không biết cách cai trị dân chúng; sớm muộn gì rồi vương quyền cũng vào tay người khác. Nếu có Đức Khôn Ngoan, vua sẽ biết lòng dân mong ước gì, và cai trị họ theo những điều họ mong ước, thì vương quyền sẽ tồn tại lâu dài, và vua không phải chịu trách nhiệm trước tòa phán xét.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn của cải: Vua Solomon thú nhận: ''Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.'' Có giàu có đến đâu chăng nữa, mà không biết cách sống sao để được bình an và hạnh phúc, có lợi gì cho người sở hữu nó đâu. Thực tế chứng minh: nhiều người giàu có, nhưng vẫn không muốn sống, và có người còn tìm cách kết liễu đời mình nữa.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn sức khỏe và sắc đẹp: Đây phải là bài học khôn ngoan cho nhiều người trong xã hội chúng ta, quá chú trọng đến việc tập luyện và nhịn ăn uống để có một thân thể cân đối đẹp đẽ và khỏe mạnh. Dĩ nhiên chúng ta không đả kích những điều đó không quan trọng; nhưng không đủ để mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có đẹp đẽ khỏe mạnh đến đâu chăng nữa, rồi cũng úa tàn theo thời gian. Vua Solomon cho biết lý do ông quí trọng Đức Khôn Ngoan hơn: ''Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.''
Nói tóm, vua Solomon đã suy nghĩ rất nhiều khi xin cho được Đức Khôn Ngoan, vì khi có Đức Khôn Ngoan là có tất cả: ''Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.''
1.2/ Làm sao để có Đức Khôn Ngoan? Khác với khôn ngoan của thế gian, ai muốn có phải cố gắng luyện tập; Đức Khôn Ngoan mà vua Solomon có được là do Thiên Chúa ban: "Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi.''
2/ Phúc Âm: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ khi sống trong thế gian: Chúa Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên Ngài tâm sự với Chúa Cha: "Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha." Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ các môn đệ, cũng là giờ mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một mình. Ngài biết hậu quả sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Nhìn lại kết quả việc chăn chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha: "Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh."
Thế gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ sắp ghét bỏ và truy tố Chúa Giêsu. Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Ngài muốn cho các ông biết rõ điều này; để các ông không ngạc nhiên khi điều đó xảy đến.
2.2/ Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những nguy hiểm sẽ xảy đến cho các môn đệ như thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các ông những điều quan trọng sau:
(1) Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần: "Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian." Chúa Giêsu không xin "cất các môn đệ khỏi thế gian;" nhưng Ngài xin "gìn giữ họ khỏi ác thần." Các ông phải ở lại thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng của Ngài.
(2) Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự thật: Giống như Phaolô, Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật." Sự thật đây là Lời Kinh Thánh và những lời tâm huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động sai bắt đầu từ sự hiểu biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể thiếu cho các môn đệ của Chúa.
Cả hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban cho các môn đệ qua việc ban Thánh Thần. Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và sẽ hướng dẫn các ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là người bảo vệ và giúp các ông có sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu đã xin với Chúa Cha để Ngài gởi tới cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Ngài là Thần Sự Thật, Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu sự thật và dẫn chúng ta tới chân lý toàn vẹn.
- Chúng ta phải biết quí trọng sự thật và cầu xin Chúa Thánh Thần cho chúng ta thấu hiểu những lời dạy dỗ của Thiên Chúa, và có can đảm sống theo những gì Thiên Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 3 TN
Bài đọc: Heb 10:11-18; 2 Sam 7:4-17; Mk 4:1-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời Chúa có tiềm năng sinh lợi ích vô hạn cho con người.
Cha ông chúng ta thường nói "Điều kiện để thành công, phải có đủ 3 yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa." Hay, phải có 4 đúng: "đúng người, đúng vật, đúng nơi, đúng thời." Thiếu một trong những điều kiện đòi hỏi là sẽ không thành công hay không đạt được kết quả mong muốn.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc cộng tác làm việc giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái so sánh hiệu quả của lễ hy sinh của Cựu-Ước và Tân Ước, và của hai Giao Ước cũ và mới. Theo tác giả, Giao Ước mới và lễ hy sinh của Đức Kitô có hiệu quả hơn Giao Ước cũ và các lễ hy sinh của Cựu Ước; vì Giao Ước mới được ghi tạc trong trái tim con người, chứ không trên hai bia đá như Giao Ước cũ. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, mặc dù vua David muốn xây nhà cho Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa không muốn điều đó. Trái lại, Ngài hứa sẽ xây một dòng dõi muôn đời cho nhà David. Trong Phúc Âm, Lời Chúa được ví như hạt giống, có tiềm năng để sinh lợi ích cho con người; nhưng hạt giống có sinh lợi thực sự hay không tùy thuộc vào nơi mà hạt giống được gieo vào; nói cách khác, tùy thuộc vào sự cộng tác tích cực của con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa.
1.1/ Hiệu quả của hy lễ đền tội: Trong Cựu Ước, "Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi." Điều này có thể thấy qua việc dâng hai con chiên mỗi ngày: một con ban sáng và một con ban chiều. Đấy là chưa kể việc sát tế các súc vật trong Ngày Xá Tội mỗi năm bởi thầy Thượng Tế. "Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. Và từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo." Hy lễ của Chúa Giêsu không thể và cũng không cần lặp lại.
1.2/ Hiệu quả của Giao Ước cũ và mới: Giao Ước cũ được ghi khắc trong hai bia đá, đến từ bên ngòai con người; nhưng Giao Ước mới được Thiên Chúa phán qua Tiên-tri Jeremiah như sau: "Đây là giao ước Ta sẽ lập với chúng sau những ngày đó, thì Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng, sẽ khắc vào lòng trí chúng lề luật của Ta. Ta sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm và việc gian ác của chúng nữa. Mà nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa."
Những gì đến từ bên ngoài đều tạm thời chóng qua, và không có đủ sức mạnh để thay đổi lòng trí con người. Những gì được ghi khắc trong tâm khảm sẽ vững bền lâu dài, và có sức mạnh để thay đổi con người, làm cho họ biết nhận ra sự thực và đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): "Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi."
2.1/ Không phải David sẽ xây nhà cho Thiên Chúa: Việc xây dựng đền thờ hay nhà cho Thiên Chúa ngự tự nó không xấu; nhưng ý hướng xây dựng nhà thờ phải được thấu hiểu cách rõ ràng:
(1) Thiên Chúa không cần con người xây nhà cho Ngài; vì mọi sự là của Thiên Chúa. Điều này hiển nhiên, vì con người không thể giới hạn hay đóng khung Thiên Chúa trong phạm vi của ngôi nhà. Sở dĩ Thiên Chúa muốn hiện diện trong căn lều hay trong ngôi thánh đường là vì Ngài muốn cho con người một dấu chứng, để họ biết chắc Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Ngài nhắc nhở tiên-tri Nathan về cuộc hành trình vào Đất Hứa của con cái Israel và sự hiện diện của Ngài ở giữa họ: "Trong suốt thời gian rày đây mai đó với toàn thể con cái Israel, có bao giờ Ta đã lên tiếng hỏi một trong các thủ lãnh Israel mà Ta đã đặt lên chăn dắt dân Ta là Israel: "Sao các ngươi không xây cho Ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương?""
(2) Đền Thờ được dựng nên không phải cho lợi ích của Thiên Chúa; nhưng cho lợi ích của con người. Con người cần sự hiện diện của Thiên Chúa để được Ngài dạy dỗ, bảo vệ và ban ơn. Đền thờ là nơi con người qui tụ để lắng nghe và học hỏi Lời Chúa; nếu không có cơ hội học hỏi, làm sao con người biết thi hành những gì Ngài dạy? Đền thờ cũng là nơi Thiên Chúa ban ơn cho con người: tha tội qua những lễ vật hy sinh của Cựu Ước hay ban ơn thánh qua các bí-tích của Tân Ước. Vì thế, điều con người cần tránh là thái độ tự mãn khi xây nhà thờ: cho là mình đã có công khi xây dựng cho Thiên Chúa một chỗ ở.
2.2/ Chính Thiên Chúa sẽ "xây nhà" cho David: Trong mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người, Thiên Chúa luôn là người đi bước trước trong mọi sự, con người chỉ là người đáp trả tình yêu và ân phúc của Thiên Chúa. Phía của Thiên Chúa luôn chắc chắn và vững bền; phía của con người hay thay đổi và nông nổi. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa liệt kê những gì Ngài đã, đang, và sẽ làm cho vua David và dòng dõi của ông.
(1) Những gì Thiên Chúa đã làm cho vua David: "Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Israel. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi."
(2) Những điều Thiên Chúa hứa sẽ làm cho nhà David:
- Cho cá nhân của David: Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất... Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa.
- Cho dân chúng một nơi cư ngụ vĩnh viễn: "Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Israel."
- Cho Solomon, người kế vị vua David: "Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra - và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Saul, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi."
- Cho dòng dõi của vua David: Ngai vàng của David sẽ vững bền muôn thuở: "Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi." Tất cả các vua cai trị Israel sẽ xuất thân từ dòng dõi David; điều này bao gồm Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Ngài cũng xuất thân từ dòng dõi David, và Ngài sẽ làm vua cai trị toàn dân đến muôn đời.
Tất cả những gì Thiên Chúa hứa, Ngài đã thực hiện; cho dù phải trải qua thời gian chờ đợi về phía con người, vì những việc làm hay những quyết định nông nổi của họ.
3/ Phúc Âm: Hiệu quả tùy thuộc ở các nơi mà Lời Chúa được gieo vào.
Dụ ngôn Chúa Giêsu nói tới hôm nay nhắm tới 2 điểm chính: (1) Hạt giống là Lời Chúa, tự nó có tiềm năng sinh lợi như hạt giống có tiềm năng sinh nhiều hạt khác; (2) Nơi gieo vào là lòng trí con người, Lời Chúa có sinh lợi hay không, và sinh lợi bao nhiêu, tùy thuộc vào lòng trí con người.
3.1/ Bốn nơi mà hạt giống Lời Chúa được gieo vào:
(1) Vệ đường: Chúa giảng: "Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất." Chúa cắt nghĩa: "Những kẻ ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Satan liền đến cất lời đã gieo nơi họ." Hạng người này là những người dửng dưng và vô tâm, họ coi Lời Chúa không quan trọng trong cuộc đời của họ.
(2) Sỏi đá: Chúa giảng: "Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô." Chúa cắt nghĩa: "Những kẻ được gieo trên sỏi đá là những kẻ khi nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, nhưng họ không đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, họ vấp ngã ngay." Hạng người này không chịu suy xét để đào sâu và sống Lời Chúa, nên dễ dàng bỏ cuộc sau một thời gian ngắn.
(3) Bụi gai: Chúa giảng: "Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả." Chúa cắt nghĩa: "Những kẻ khác là những kẻ được gieo vào bụi gai: đó là những kẻ đã nghe Lời, nhưng những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt lời khiến lời không sinh hoa kết quả gì." Đây là những kẻ đã nghe Lời, nhưng không chịu mang ra sinh sống trong cuộc đời. Thay vào đó, họ chạy theo bả vinh hoa phú quí, hay theo tính đam mê xác thịt.
(4) Đất tốt: Chúa giảng: "Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm." Chúa cắt nghĩa: "Còn những người khác nữa là những người được gieo vào đất tốt: đó là những người nghe Lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm." Đây là những kẻ nghe, hiểu thấu, và mang ra sống trong cuộc đời. Tùy thuộc vào cách ứng dụng, họ sinh lời được 30, 60, hay 100.
3.2/ Bí mật của Mầu Nhiệm Nước Trời: Khi còn một mình Đức Giêsu, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn. Người nói với các ông: "Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ."
Thoạt nghe những lời này, một người có thể hiểu Mầu Nhiệm Nước Trời chỉ ban cho một số người thuộc về Thiên Chúa; và sẽ dễ rơi vào chủ thuyết "tiền định:" người nào được Thiên Chúa tiền định cho được cứu rỗi, Ngài sẽ ban cho hiểu; và ngược lại. Hiểu biết như vậy là sai vì 2 lý do sau đây:
(1) Marcô trích dẫn Isa 6:10 của Bản Bảy Mươi, nhưng không hoàn toàn cả câu: "Vì tim của dân này đã bị chai đá, tai của họ đã điếc, và mắt họ đã nhắm lại, kẻo mắt nó thấy, tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được chữa lành." Một điều khác biệt là Bản Bảy Mươi dùng thời thụ động cho động từ đầu tiên "đã bị chai đá," và muốn hiểu như thế cho 2 động từ theo sau. Điều này muốn nói người chịu trách nhiệm cho những hậu quả này là dân chúng chứ không phải Thiên Chúa. Bản dịch của MT dùng thời truyền lệnh: Chúa phán: "Hãy đi nói với dân này rằng: Cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kỹ, nhưng đừng nhận ra. Hãy làm cho lòng dân này ra đần độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó mù; kẻo mắt nó thấy, tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà nó trở lại và được chữa lành." Bản dịch này xem ra có vẻ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa.
(2) Thực ra, nếu xét toàn bộ văn mạch và tất cả Kinh Thánh, đây chỉ là lối nói của người Do-thái khi qui trách mọi việc xảy ra là trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu xét theo kinh nghiệm cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cũng như của tiên-tri Isaiah, mặc dù cả hai đã cố gắng rao giảng, nhưng nếu con người không chịu mở lòng để đón nhận, mở tai để nghe, mở mắt để nhìn; làm sao họ có thể hiểu và thi hành những lời rao giảng? Và nếu không hiểu, làm sao có thể thi hành để sinh hoa kết quả? Đó chính là mục đích mà trình thuật nhắm tới hôm nay.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn trung thành yêu thương và ban mọi ơn lành. Vấn đề là về phía chúng ta có nhận ra tình yêu và cộng tác với Ngài để sinh lợi ích cho chính chúng ta và tha nhân hay không. Chúng ta không thể sinh lợi ích gì cho Thiên Chúa.
- Lời Chúa có tiềm năng sinh lợi ích vô hạn cho con người. Lời Chúa có sinh ích hay không hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ và khả năng lãnh nhận của chúng ta.
- Chúng ta cần phải chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa, dành nhiều thời gian để học hỏi và suy niệm, đồng thời phải để Lời Chúa hướng dẫn mọi sự trong cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 3 TN
Bài đọc: Heb 10:1-10; 2 Sam 6:12b-15, 17-19; Mk 3:31-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Có một câu truyện dẫn chứng sự quan trọng của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa như sau: Một vị vua kia muốn trao tài sản cho các con; nhưng để dạy các con một bài học phải tránh xa sự hào nhoáng bên ngòai, nhà vua cho gói những thứ thật quí vào những hộp trông có vẻ tầm thường, và những thứ tầm thường vào những hộp trông rất lộng lẫy bên ngoài. Sau đó, vua cho gọi các con vào để lựa chọn, bắt đầu từ hoàng tử lớn nhất. Đa số các hoàng tử đều chọn các hộp lộng lẫy. Đến phiên hoàng tử út, chàng tần ngần một lát, rồi nói nhỏ với cha: Con không biết cách chọn; nhờ cha chọn cho con. Nhà vua đã chọn của quí nhất cho hoàng tử út.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh chủ đề sự quan trọng của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái tiếp tục so sánh giữa 2 lễ vật hy sinh: máu chiên bò theo Lề Luật của Cựu Ước và máu Đức Kitô của Tân Ước. Máu chiên bò không thể xóa sạch tội cho con người, nên Ngày Xá Tội phải tái diễn mỗi năm. Máu Đức Kitô chỉ cần đổ ra một lần là đủ xóa sạch tội cho con người, vì là máu đổ ra tự nguyện để làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua David học được bài học phải làm theo ý Thiên Chúa; chứ không theo ý nhà vua. Vì thế, vua đổi ý để đi lên Obededom di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa về thành của vua David. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa không đặt căn bản trên liên hệ ruột thịt, nhưng trên căn bản làm theo thánh ý của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Lạy Thiên Chúa! Này Con đây, Con đến để thực thi ý Ngài.
1.1/ Lề Luật và hy lễ chiên bò: "Lề Luật chỉ là hình bóng của những gì tốt đẹp hơn sẽ tới, chứ không phải là phản ánh chính xác những thực tại đó. Lề Luật không bao giờ có thể làm cho những người tiến lại gần Thiên Chúa được nên hoàn thiện, nhờ những hy lễ người ta dâng năm này qua năm khác." Điều tác-giả muốn nói ở đây, trong sự quan phòng của Thiên Chúa, cái hoàn hảo đến sau sẽ thay thế cho cái bất toàn đến trước. Lề Luật chỉ là hình bóng của những gì tốt đẹp hơn mà Đức Kitô sẽ mang đến cho con người.
Tác giả lý luận: Nếu các hy lễ mà Lề Luật đòi buộc có thể cất đi tội lỗi của con người, họ đâu cần phải dâng đi dâng lại mỗi năm. Hay nếu máu chiên bò thực sự thanh tẩy tội lỗi trong tâm hồn, con người đâu còn ý thức mình có tội nữa. Hơn nữa, hy lễ dâng hàng năm nhắc nhở cho con người ý thức tội lỗi của họ. Vì vậy, con người cần có một lễ tế hy sinh hoàn hảo hơn.
1.2/ Điều đẹp lòng Thiên Chúa: Tác giả dẫn chứng Thánh Vịnh 40:6-9 với ít nhiều sửa đổi, "Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy sinh và lễ tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ đền tội." Những thứ Thiên Chúa không thích này lại là những thứ mà Lề Luật truyền. Thực ra, không phải chỉ tác-giả Thư Do-thái nói những điều này, rất nhiều tác giả khác của Cựu Ước cũng đã nói tới sự bất toàn của hy sinh và của lễ. Họ cũng nhấn mạnh đến những điều khác quan trọng hơn như: Ông Samuel nói với vua Saul: "Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu" (I Sam 15:22). Hay như lời tiên-tri Hosea: "Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu" (Hos 6:6).
Tác giả nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu một thân thể để Ngài có thể chịu đựng đau khổ và dâng nó như một hy lễ để đền tội cho con người. Đồng thời tác giả cũng nhấn mạnh tới việc vâng lời làm theo ý Thiên Chúa như lời Thánh Vịnh 40: "Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa! Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con." Khi con người phạm tội là họ đã bất tuân thánh ý Thiên Chúa; làm sao họ có thể bắt những chiên bò đổ máu để xóa tội cho họ được? Để có thể xóa đi tội bất tuân của con người, Con Thiên Chúa đã tình nguyện mang thân xác con người và đổ máu của chính mình. Chỉ có lễ hy sinh tự nguyện và cao đẹp này mới có thể xóa đi tội lỗi của con người, và làm cho con người được giao hòa với Thiên Chúa mà thôi.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vua David cuốn áo choàng bằng vải gai và nhảy múa hết sức mình trước nhan Đức Chúa.
2.1/ Cuộc rước Hòm Bia Thiên Chúa về thành David lần thứ hai: Cuộc rước Hòm Bia Thiên Chúa lần thứ nhất bị cắt đứt dở dang vì ông Uzzah bị Thiên Chúa phạt chết. Lý do Uzzah bị chết vì đã giơ tay đỡ Hòm Bia khi sắp rơi xuống đất. Sự kiện xảy ra cách đột ngột làm vua David buồn bực (6:8) và sợ hãi; nên nhà vua cho di chuyển Hòm Bia đến nhà ông Obededom, một người Dân Ngoại; thay vì di chuyển Hòm Bia về thành vua David.
Tại sao David lại chuyển Hòm Bia Thiên Chúa đến nhà một người Dân Ngoại? Có thể vua David sợ nếu ở gần Thiên Chúa, vua sẽ phải lãnh nhận hình phạt tương tự (6:9). Có thể vua David buồn bực (6:8), vì Thiên Chúa đã không làm theo ý vua muốn: đang vui mừng đón Thiên Chúa, Ngài lại giáng phạt biến vui mừng thành khổ đau!
2.2/ David học để làm theo ý Thiên Chúa: Khi Hòm Bia Thiên Chúa ở nhà ông Obededom, vua David nghe tin Thiên Chúa chúc phúc cho gia đình ông. Vì thế, vua David đổi ý định, nhà vua liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Obededom lên Thành vua David.
David học được một bài học quan trọng: Con người cần có sự hiện diện của Thiên Chúa để được Ngài che chở và chúc lành. Thiên Chúa không mắc nợ nần gì với con người; nhưng con người mắc nợ Thiên Chúa tất cả. David được phong vương làm vua là vì Thiên Chúa đã truất phế vua Saul, và sai Samuel đến xức dầu phong vương khi ông vẫn là cậu bé chăn chiên ngoài đồng. David có thắng được quân thù Philistines là vì bàn tay hùng mạnh của Thiên Chúa ở với ông. David nhận ra: con người phải làm theo thánh ý Thiên Chúa; chứ không bắt Thiên Chúa phải làm theo ý mình. Khi con người làm theo ý Thiên Chúa, Ngài sẽ chúc lành và ban ơn cho con người.
3/ Phúc Âm: Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.
3.1/ Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự: Thoạt đọc trình thuật hôm nay, một người không tránh khỏi bất mãn với Chúa Giêsu vì đã khinh thường Đức Mẹ và anh em của Ngài, và Ngài đã không giữ giới răn thứ bốn. Nhưng Chúa Giêsu có vi phạm những điều này không? Một trong những sứ vụ của Chúa Giêsu là dạy dỗ và sửa chữa những hiểu biết sai lầm. Trong bài học hôm nay, Chúa Giêsu không đi ra ngoài 2 giới răn quan trọng nhất: trước tiên, mến Chúa; sau đó, yêu người. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thứ tự ưu tiên của hai giới răn, mà con người rất nhiều lần đã đảo lộn thứ tự ưu tiên của nó. Việc Chúa Giêsu đang rao giảng Tin Mừng là Ngài đang làm theo thánh ý Thiên Chúa; và Ngài phải đặt nó lên trên tất cả các việc khác. Ngài không thể hy sinh việc rao giảng để tiếp chuyện với thân nhân. Tuy nhiên, khi nào không làm việc Thiên Chúa, Ngài vẫn yêu thương và săn sóc Đức Mẹ; như khi Chúa Giêsu trao Đức Mẹ cho Thánh Gioan chăm sóc dưới chân Thập Giá.
3.2/ Yêu mến Thiên Chúa là làm theo thánh ý Ngài: Bài học thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy con người hôm nay: tình yêu phải biểu tỏ cụ thể bằng hành động. Con người thường nghĩ mình có thể yêu Thiên Chúa bằng lời nói, hay bằng những hành động bên ngoài như tham dự Thánh Lễ, đọc kinh, cầu nguyện. Những điều này tốt, nhưng không quan trọng bằng việc tìm ra và làm theo thánh ý của Thiên Chúa. Cuộc đời Chúa Giêsu là một mẫu mực cho con người học thế nào là yêu thương Thiên Chúa: Ngài muốn nhập thể để thi hành Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong những năm ở trần gian, thánh ý Thiên Chúa là động lực sống của Ngài đến nỗi Ngài thốt lên những câu phải là châm ngôn cho chúng ta như: "Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta, và chu toàn các việc của Ngài" (Jn 4:34). "Điều Ta tìm kiếm không phải ý Ta, nhưng là ý của Đấng đã sai Ta" (Jn 5:30). "Ý của Chúa Cha là hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài, sẽ có sự sống đời đời" (Jn 6:40). Những giờ phút sau cùng trong vườn Ghetsemane, Chúa Giêsu bị giằng co giữa đau khổ sắp đến và thánh ý Thiên Chúa, nhưng sau cùng Ngài đã thốt lên: "Lạy Cha! Nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha" (Mt 26:42).
3.3/ Người nhà của Chúa Giêsu là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa: Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi." Chúa Giêsu loại bỏ tất cả những lý do khác con người có thể dựa vào để nhận họ là người nhà của Chúa; nhưng chỉ còn giữ lại điều kiện duy nhất là nghe và thực hành ý muốn của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Mẹ Maria và các môn đệ là người nhà của Chúa vì họ luôn thực thi ý muốn của Thiên Chúa.
Thi hành thánh ý Thiên Chúa không phải chỉ bằng làm những công việc vĩ đại; nhưng bằng chu toàn các bổn phận Ngài đã trao phó cho trong cuộc sống hàng ngày. Nói cách rõ hơn, bổn phận của người môn đệ là phải: "từ bỏ ý riêng mình, vác thập giá của mình hàng ngày, và theo Chúa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa không hài lòng về hy sinh và lễ vật chúng ta dâng, cho bằng về những cố gắng của chúng ta tìm ra và làm theo thánh ý Ngài.
- Thánh ý của Thiên Chúa, cách tổng quát, là lo sao cho chính bản thân chúng ta và mọi người đạt được ơn Cứu Độ.
- Bổn phận của chúng ta là phải học biết và thi hành thánh ý Thiên Chúa; chứ không bắt Ngài phải làm theo ý chúng ta mong muốn.
- Để tìm ra thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta phải học hỏi Kinh Thánh để hiểu biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa; và làm hết sức có thể để làm cho Ơn Cứu Độ lan rộng đến mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Cuộc Trở Lại của Thánh Phaolô
Bài đọc: Acts 22:3-16; Mc 16:15-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự trở lại chứng minh sức mạnh của ơn thánh.
Có rất nhiều cuộc trở lại trong lịch sử được tường thuật như của Phêrô, Matthew, Mary Magdala, Augustine... , cũng như không được tường thuật như của đa số con người; nhưng chỉ có một cuộc trở lại Giáo Hội mừng kính là cuộc trở lại của thánh Phaolô. Cuộc trở lại của Phaolô được tường thuật ít nhất là 3 lần trong Sách CVTĐ (9:1-19; 22:3-16; 26:12-18), và rất nhiều lần được ám chỉ tới cách vắn gọn bởi chính Phaolô trong các Thư của ngài.
Bài đọc I có thể coi là lời tự thú đầy đủ nhất của Phaolô. Trong trình thuật này, một người có thể nhìn thấy động cơ chính của cuộc trở lại là do ơn thánh của Thiên Chúa. Ngài thay đổi hoàn toàn lề lối suy nghĩ và cách cư xử của ông bằng cách để ông ngã ngựa và bị mù, cho ông nghe thấy tiếng của Đức Kitô để chứng tỏ Ngài vẫn sống, và truyền cho ông đến gặp ông Hananiah để được chữa lành và nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, tuy không được liệt vào Nhóm Mười Hai, nhưng Phaolô cũng được coi như một Tông-đồ, vì ông đã nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được chính Ngài trao cho sứ vụ làm Tông-đồ Dân Ngoại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự trở lại của Phaolô chứng minh sức mạnh của ơn thánh.
1.1/ Cuộc đời của Phaolô trước khi trở lại: Phaolô là người Do-thái lưu vong, sinh ra và lớn lên tại Tarsus, miền Cilicia, vùng Asia Minor (Turkey bây giờ). Ông được giáo dục bởi thầy Gamaliel để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt; và nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như bao người Do-thái khác. Ông Gamaliel là một Pharisee có thế giá trong dân, tiến sĩ về Luật, một thành viên của Thượng Hội Đồng, đã từng khuyên những người trong Thượng Hội Đồng phải cẩn thận khi xét xử Phêrô và các Tông-đồ (x/c Acts 5:34-40).
Phaolô đã bắt bớ Đạo của Đức Kitô, không ngần ngại giết ai theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, như cả vị thượng tế lẫn toàn thể Thượng Hội Đồng có thể làm chứng cho ông. Ông còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Damascus, Syria, để ông đi bắt trói những người ở đó, giải về Jerusalem trừng trị.
Một biến cố quan trọng đã xảy ra cho ông trên đường đi Damascus để bắt bớ các Kitô hữu. Biến cố này đã thay đổi toàn bộ cuộc đời của ông. Theo như lời ông tường thuật: "Đang khi tôi đi đường và đến gần Damascus, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: "Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ. Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa, con phải làm gì?" Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào Damascus, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm."
1.2/ Cuộc đời của Phaolô sau khi trở lại: Một chuỗi những biến cố xảy ra sau khi bị ngã xuống trên đường đi Damascus.
(1) Phaolô bị mù: Vì ánh sáng chói loà kia làm cho ông không còn trông thấy nữa, nên ông đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Damascus. Ở đó, Đức Kitô đã chuẩn bị cho ông Hananiah, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở Đa-mát chứng nhận là tốt.
(2) Phaolô được nhìn thấy: Khi gặp Saul, ông Hananiah đến, đứng bên ông và nói: "Anh Saul, anh thấy lại đi!" Ngay lúc đó, ông thấy lại được.
(3) Phaolô được trao sứ vụ: Ông Hananiah nói: "Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Người, được thấy Đấng Công Chính, và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe."
(4) Phaolô được chịu bí-tích Rửa Tội: Hananiah truyền cho Saul: "Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người."
1.3/ Ý nghĩa của cuộc trở lại của Phaolô: Có rất nhiều ý nghĩa mà Phaolô đã thu nhận được từ biến cố này, và là nền tảng cho những giáo huấn của ông sau này:
(1) Đức Kitô đã chết, nhưng Ngài đã sống lại, và vẫn đang sống để phù trợ và bảo vệ các tín hữu. Tất cả mọi người phải tin nơi Ngài và giữ những gì Ngài dạy để được cứu độ. Lề Luật không có sức mạnh để giải thoát con người khỏi tội và ban ơn cứu độ.
(2) Tất cả là ơn thánh, con người không làm gì xứng đáng để được hưởng ơn thánh. Thiên Chúa ban ơn thánh, thúc đẩy sự trở lại, và cứu độ con người khi họ còn là tội nhân đáng phải chết. Trường hợp của ông là một điển hình: lẽ ra ông xứng đáng phải chết hay bị mù suốt đời vì đang trên đường đi tiêu diệt Hội Thánh của Chúa; nhưng Ngài đã cứu sống và cho ông được thấy.
(3) Con người phải tìm ra và làm theo thánh ý Chúa để được sống, làm ngược lại chỉ như "giơ chân đạp mũi nhọn." Sứ vụ rao giảng Tin Mừng là bổn phận phải làm vì được Đức Kitô sai đi. Người Kitô hữu phải là nhân chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng và sống Tin Mừng.
2/ Phúc Âm: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo."
2.1/ Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu nói với các Tông-đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa.
2.2/ Ban uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao giảng Tin Mừng: Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ:
(1) Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts 16:18).
(2) Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói các thứ tiếng của thổ dân trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-11).
(3) Tránh được nguy hiểm: Phaolô đã vượt qua rất nhiều nguy hiểm trong 3 chuyến truyền giáo như: ra khỏi tù do thiên thần hướng dẫn, bị ném đá tưởng chết mà vẫn chỗi dậy để tiếp tục rao giảng, vượt qua bao nhiêu những ghen tị và xúi giục của những đối phương Do-thái.
(4) Chữa lành: Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn đệ.
Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhận ra bàn tay của Ngài luôn thương yêu ấp ủ, ân cần chỉ dẫn, và ban mọi ơn cần thiết để chúng ta có thể sống như những môn đệ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật III Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Neh 8:2-4a, 5-6, 8-10; I Cor 12:12-30; Lk 1:1-4, 4:14-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sách Thánh giúp con người giải quyết mọi vấn nạn của cuộc đời.
Thiên Chúa không để con người lầm lẫn trong tối tăm của thế giới, Ngài ban cho con người một tấm gương soi là Kinh Thánh, Lời của Người. Con người có thể nhìn vào đó để nhận ra lỗi lầm quá khứ, để phiên dịch những gì đang xảy ra trong hiện tại, và để biết chuẩn bị cho tương lai đang tới. Điều cần là con người phải bỏ thời giờ để học hỏi và hiểu biết Kinh Thánh; nếu không, con người sẽ lầm lẫn trong bóng tối của cuộc đời, và không biết cách giải quyết những vấn nạn của cuộc sống.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những ví dụ cụ thể của việc áp dụng Kinh Thánh trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, nhiều người Do-thái không hiểu lý do Thiên Chúa để Đền Thờ bị phá hủy, quốc gia bị xâm lăng, và dân chúng phải chịu lưu đày cực khổ khắp nơi. Trong ngày khánh thành Đền Thờ mới, tư tế Ezra cho đọc Sách Luật và các thầy Lêvi thay phiên nhau cắt nghĩa cho dân chúng. Họ hiểu ra lý do của những tai ương là tội của toàn dân đã khinh thường Lời Chúa và đã không thi hành Lề Luật. Họ khóc vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa hằng yêu thương và săn sóc họ.
Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra một ví dụ về thân thể mà con người có thể áp dụng trong cuộc sống để bảo trì sự hiệp nhất, thực thi đức bác ái, và cùng nhau xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô đến mức thập toàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaiah để nói cho khán giả biết Ngài chính là sự ứng nghiệm của những lời ấy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật.
1.1/ Sách Thánh giúp dân chúng hiểu biết những gì đang xảy ra trong cuộc đời: Hoàn cảnh lịch sử của trình thuật hôm nay là ngày khánh thành Đền Thờ thứ hai. Sở dĩ có ngày khánh thành Đền Thờ thứ hai là Thiên Chúa đã đổi lòng vua Ba-tư là Cyrus và Darius, để hai vua này ban chiếu chỉ phóng thích cho dân Israel được hồi hương và giúp đỡ tài chánh để xây dựng lại Đền Thờ. Tư tế Ezra "đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật."
Sự kiện đọc Sách Luật và giải thích cho dân chúng nghe hôm nay là một hiện tượng mới. Trước năm 538 BC, người Do-thái chỉ biết nghe theo lời những người lãnh đạo và các ngôn sứ của Thiên Chúa gởi tới, cầu nguyện và dâng lễ vật đền tội trong Đền Thờ. Sau biến cố này, người Do-thái thiết lập các hội đường để thường xuyên cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh trong ngày Sabbath. Việc nghe Kinh Thánh giúp dân chúng nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến tình thương của Thiên Chúa; đó là lý do dân chúng khóc vì nhận ra họ đã không trung thành với Thiên Chúa.
1.2/ Khinh thường Kinh Thánh là nguyên do của mọi đau khổ trong cuộc đời: Trong trình thuật hôm nay, dân chúng phải nghe giảng giải Kinh Thánh từ sáng sớm tới trưa, chứ không phải chỉ 15 phút trong thánh lễ mỗi tuần như nhiều người quan niệm. "Ông Ezra và các thầy Lêvi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc."
Điều mọi người đều nhận ra là Kinh Thánh không dễ hiểu, và có rất nhiều những giải thích sai lạc. Để hiểu, con người cần có thời giờ chuẩn bị tâm hồn cho tâm hồn lắng đọng và xin Thánh Thần soi sáng trước khi nghe Lời Chúa. Ngoài ra, dân chúng cần có những người chuyên môn am tường Kinh Thánh như các thầy Levi, để cắt nghĩa cho dân chúng về ý nghĩa và cách áp dụng Kinh Thánh trong cuộc sống.
Kinh Thánh không phải là thứ sách đọc qua rồi bỏ; nhưng là tấm gương soi để con người thường xuyên dựa vào đó để xét mình xem coi mình đã thực hành Lời Chúa được đến đâu. Kinh Thánh giúp con người nhận ra những lỗi lầm họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến tha nhân.
Kinh Thánh là nguồn khôn ngoan giúp con người dựa vào đó để tìm ra những giải pháp cụ thể cho mọi vấn nạn của cuộc đời. Thực hành những điều Thiên Chúa dạy dỗ sẽ giúp con người tránh được tội lỗi và những đau khổ sẽ xảy đến trong tương lai. Ngoài ra, Kinh Thánh giúp con người nhận ra tình thương Thiên Chúa và trung thành với Ngài trong suốt cuộc đời.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn.
Trình thuật hôm nay muốn nhấn mạnh đến mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với tha nhân nằm trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. Hiểu biết nền thần học thân thể của Phaolô sẽ giúp chúng ta loại bỏ những chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, kỳ thị, và hưởng thụ; đồng thời sẽ giúp chúng ta biết xây dựng gia đình, cộng đoàn, xã hội và Giáo Hội được bình an, tăng trưởng, và hạnh phúc.
2.1/ Phận vụ của các chi thể trong một thân thể: Thánh Phaolô liệt kê những kiến thức căn bản về thân thể:
- thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều chi thể, mà các chi thể của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể;
- các chi thể đều thuộc về thân thể cho dù chúng muốn hay không. Ví dụ, giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể", thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: "Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể," thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể;
- mỗi chi thể đều cần thiết cho thân thể hoạt động theo ý định của Thiên Chúa: "Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Giả như tất cả chỉ là một chi thể, thì làm sao mà thành thân thể được?"
- những chi thể xem ra yếu đuối nhất lại được coi là cần thiết nhất; và những chi thể coi là tầm thường nhất, lại được tôn trọng hơn cả;
- tất cả các chi thể đều góp phần trong việc xây dựng thân thể: nếu một chi thể đau, thì toàn thân đều đau.
2.2/ Mỗi người tín hữu là chi thể của một Nhiệm Thể là Hội Thánh và Đức Kitô là Đầu: Thánh Phaolô áp dụng sự phân tích về thân thể vào Nhiệm Thể của Đức Kitô. Ngài dùng câu so sánh: "Đức Kitô cũng vậy."
- tất cả chúng ta, dầu Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
- mỗi người được Thánh Thần ban cho mỗi đặc sủng khác nhau: người được ơn làm phép lạ, người được đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ.
- đặc sủng khác nhau đưa đến những ơn gọi khác nhau: Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy...
- đừng bắt người khác giống mình, vì điều đó đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa và không mang lại kết quả tốt đẹp: "Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?"
3/ Phúc Âm: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
3.1/ Mục đích của thánh sử Lucas khi viết Tin Mừng: Tin Mừng được viết cho một khán giả đặc biệt và mục đích được Lucas tuyên bố rõ ràng: "Thưa ngài Theophile đáng kính ... mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc."
Theo truyền thống Do-thái, lời chứng của hai, ba, hay nhiều người, là lời chứng vững chắc. Lucas nhắc nhở lời chứng của thế hệ thứ hai, những người đã nghe thế hệ thứ nhất thuật lại: "Có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta." Và Lucas thêm vào lời chứng của mình: "Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài." Điều cần lưu ý ở đây về cách cấu trúc văn chương của đoạn văn: cả đoạn đều là một câu; việc chia thành 4 câu là công việc của các học giả Kinh Thánh sau này.
3.2/ Chúa Giêsu đọc và giải thích Kinh Thánh.
(1) Chúa Giêsu nhận ra tầm quan trọng của việc đọc và dạy dỗ Kinh Thánh: Trình thuật kể: "được Thánh Thần thúc đẩy Ngài đi khắp miền Galilee để giảng dạy dân chúng trong các hội đường." Như đã nói trên, kể từ thời Ezra trở đi, người Do-thái có thói quen thành lập các hội đường tại địa phương để cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh mỗi ngày Sabbath. Trong trình thuật hôm nay, "Đức Giêsu trở về Nazareth, nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh."
(2) Ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." Đây là lời của ngôn sứ Isaiah, 61:1-2a, về sứ vụ của ông nhận được từ Thiên Chúa, để loan tin cho dân Do-thái nơi lưu đày biết họ sắp được phóng thích để hồi hương.
Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Đoạn văn của Isaiah không chỉ đúng cho Isaiah và người đương thời của ông, mà còn đúng cho Chúa Giêsu và khán giả thời của Ngài. Thánh Thần cũng xức dầu cho Đức Kitô trong biến cố Ngài chịu phép rửa tại sông Jordan. Ngài cũng được sai đi để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, không chỉ cho dân Do-thái, mà còn cho tất cả mọi người. Ngài giải thoát con người không phải khỏi ách nô lệ của ngoại bang, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi và các quyền lực của ma quỉ.
Lời Kinh Thánh vẫn tiếp tục ứng nghiệm mỗi ngày trong cuộc đời cho đến tận thế. Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cũng nhận lãnh sứ vụ rao truyền Tin Mừng để giải thoát con người khỏi ảnh hưởng của những gian trá và tội lỗi. Khi chúng ta thực hành những gì Kinh Thánh dạy, chúng ta tìm thấy niềm vui và được hưởng những hiệu quả tốt đẹp. Ngược lại, khi chúng ta không làm những gì Kinh Thánh dạy, chúng ta không có sự bình an và phải lãnh nhận mọi đau khổ do tội lỗi mang lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lời Chúa là ánh sáng soi đường, là tấm gương soi chiếu cuộc đời, là nguồn khôn ngoan giúp chúng ta nhận ra sự thật và giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
- Chúng ta cần biết tận dụng thời giờ để học hỏi và cố gắng thực thi Lời Chúa để tránh được những đau khổ không cần thiết trong cuộc đời. Nếu không chịu học hỏi, chúng ta sẽ lầm lũi trong đêm tối và phải lãnh nhận mọi hậu quả không tốt đẹp.
- Lời Chúa giúp chúng ta không những nhận ra những gian trá của ba thù, mà còn giúp chúng ta biết cách thức xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô, mang bình an và hạnh phúc đến cho cá nhân và cộng đoàn.
- Lời Chúa vẫn tiếp tục ứng nghiệm hằng ngày trong cuộc đời mỗi người, gia đình, và nhân loại.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy, Tuần II TN2
Bài đọc: Heb 9:2-3, 11-14; II Sam 1:1-4, 11-12, 19, 23-27; Mk 3:20-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa và của tha nhân.
Khi yêu, con người làm những việc bị người khác coi là điên khùng; chẳng hạn, đứng chờ người yêu dưới mưa, hay sẵn sàng chết vì người mình yêu. Nhưng đối với những người đang yêu, họ được thúc đẩy phải biểu lộ để chứng tỏ tình yêu. Chính Chúa Giêsu đã từng rửa chân cho các tông-đồ và căn dặn các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Ngài cũng đã nói với các ông: "Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình của người chết vì yêu." Ngài không chỉ nói, nhưng đã vác Thập Giá lên đồi Golgotha để chết cho con người, để chứng tỏ tình yêu của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc phải nhận ra những biểu lộ tình yêu qua những hy sinh của Chúa Giêsu và của tha nhân. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-thái so sánh máu của Chúa Giêsu đổ ra để xóa tội cho con người với máu của chiên bò rảy trên con người của Cựu Ước. Nếu máu chiên bò có thể cất đi tội cho con người, huống hồ là máu của Con Thiên Chúa! Trong Bài Đọc I, năm chẵn, David và toàn dân khóc thương vua Saul, con vua là Jonathan, và những người đã tử trận. Tất cả nhớ lại những gì hai cha con và binh lính đã hy sinh xương máu để bảo vệ dân chúng trong suốt cuộc đời. Trong Phúc Âm, vì quá yêu thương dân chúng, Chúa Giêsu và các môn đệ làm việc không ngơi nghỉ đến nỗi không có thời giờ để ăn uống. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Máu của Đức Kitô đổ ra có sức thanh tẩy hiệu quả hơn máu của chiên bò.
1.1/ Lều Hội Ngộ và Lều của Đức Kitô: Sau khi đã so sánh phẩm trật thượng tế và lễ vật hy sinh, tác giả Thư Do-thái muốn so sánh nơi chốn mà thượng tế dâng lễ vật. Lều Hội Ngộ, nơi mà các thượng tế dâng lễ hy sinh trong Ngày Đền Tội mỗi năm, được dựng nên bởi con người theo kiểu mẫu Thiên Chúa mặc khải cho Moses. Lều này chỉ là hình bóng của một thực tại, một cái Lều lớn hơn và hoàn hảo hơn; không do bàn tay con người xây dựng và không thuộc về thế giới này, nhưng do chính Thiên Chúa tạo dựng.
(1) Lều Hội Ngộ: Trong Cựu-Ước, Lều này được cấu trúc theo mô hình mà Thiên Chúa đã mặc khải cho Moses. Tác giả mô tả vắn tắt như sau: "Lều này được gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến. Đằng sau bức màn thứ hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh." Các tư tế có thể vào Nơi Thánh để dâng lễ vật hàng tuần; nhưng chỉ có thượng tế mới được vào Nơi Cực Thánh, mỗi năm một lần, để dâng lễ vật cho mình và cho dân.
(2) Lều lớn và hoàn hảo hơn: "Nhưng Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này." Có học-giả cho rằng, Lều này chính là thân xác Chúa Giêsu, nhưng thân xác Chúa Giêsu được cưu mang và thành hình bởi Đức Mẹ, một con người. Lối giải thích hợp lý hơn cho Lều này chính là con người Chúa Giêsu, kết hợp bởi cả thiên tính và nhân tính, như Thánh Ambrosio nói: "Bàn thờ tượng trưng thân thể Chúa Kitô, và thân thể của Chúa Kitô ở trên bàn thờ" (GLCG trưng Ambrosio, Sacer. 4, 7). Hiểu như thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Lễ Hy Sinh, vừa là Bàn Thờ.
1.2/ Máu của Đức Kitô và máu của chiên bò: Tác giả đã so sánh lễ hy sinh của Cựu Ước với Lễ Hy Sinh của Thượng Tế Giêsu; giờ đây, tác giả so sánh về hiệu quả của máu đổ ra của hai lễ hy sinh này. Trong Cựu Ước, máu đổ ra là máu của chiên, dê, bò; trong Tân Ước, máu đổ ra là chính máu của Thượng Tế Giêsu, Người Con của Thiên Chúa. Máu của Đức Kitô đem lại cho con người những hiệu quả sau:
(1) Sự vững bền: Máu súc vật phải đổ mỗi lần con người phạm tội. Máu Đức Kitô đổ một lần là đủ: "Người chỉ đổ máu một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta."
(2) Hiệu quả: Theo truyền thống Do-thái, máu súc vật chỉ có thể lấy đi những tội phạm vì vô tình; những tội cố ý phạm, không máu súc vật nào có thể lấy đi được. Máu của Đức Kitô vì là máu của tự nguyện, của yêu thương, của Con Thiên Chúa, có thể tha thứ tất cả các tội: "Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống."
2/ Bài đọc I (năm chẵn): "Hỡi Israel, trên các đồi của ngươi, những người con ưu tú đã bỏ mình."
2.1/ Phải biết tri ân những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ quốc gia:
(1) Nhà lãnh đạo biết đặt lợi ích quốc gia lên trên những xung đột cá nhân: Thông thường, nhiều người sẽ vui mừng khi thấy đối phương của mình không còn nữa, không còn phải lo đề phòng tai hại, và nhất là ngày mình được làm vua sẽ thành tựu. Điều này không đúng trong trường hợp của David, vì ông tôn trọng vua Saul, người đã được Đức Chúa xức dầu phong vương; và yêu mến Jonathan, con vua, vì tình bằng hữu và ơn cứu tử đã dành cho David. Hơn nữa, David còn đau buồn vì tình đồng bào và nghĩa anh em của những người dân trong cùng một nước; vì thế ông đau đớn khi nghe tường thuật hung tin bởi một binh lính thoát chết trở về: "Dân đã bỏ chiến trường mà chạy trốn; nhiều người trong dân tử trận, cả vua Saul và con vua là ông Jonathan cũng đã chết."
(2) Nhà lãnh đạo phải có lòng biết ơn đối với những người đi trước: Tiền đồ của dân tộc được xây dựng trên công lao và hy sinh xương máu của những thế hệ đi trước; vì thế, bổn phận của những người đi sau là phải biết ơn, cầu nguyện, và cố gắng bảo vệ gia sản của tiền nhân để lại. Để tỏ lòng thương tiếc và biết ơn, David nắm lấy áo mình mà xé ra, và tất cả những người ở với ông cũng làm như vậy. "Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Saul và ông Jonathan, con vua, thương tiếc dân Đức Chúa và nhà Israel, vì những người này đã ngã gục dưới lưỡi gươm." Tất cả những việc làm như: xé áo, bỏ đất lên đầu, khóc lóc, và ăn chay là theo truyền thống khóc thương thân nhân của con cái Israel.
2.2/ David khóc thương Saul và Jonathan:
(1) Vua Saul và Jonathan đã hy sinh xương máu để lo lắng và bảo vệ dân: Con người rất dễ quên công ơn của các tiền nhân; nhất là những người mà họ có vấn đề với. Điều này đã không xảy ra cho David, ông nhận ra những công ơn mà cha con của vua Saul đã làm cho quốc gia. Sự hy sinh của họ là lý do đất nước được hưng thịnh và bảo vệ. David khuyên các phụ nữ hãy khóc thương vua Saul và con ông vì những gì hai cha con đã mang lại cho họ: "Thiếu nữ Israel hỡi, hãy khóc Saul, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng. Than ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh! Trên các đồi của ngươi, Jonathan đã bỏ mình!"
(2) David trân quí tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan: Tình bằng hữu giữa David và Jonathan bắt đầu bằng việc tôn trọng sự thật. Jonathan nhận thấy cha mình đã không cư xử đúng đắn với tình yêu của David dành cho vua, lý do chỉ vì ghen tị những thành công mà David đã gặt hái được qua việc giết tên khổng lồ Philistine. Jonathan quyết định ngăn cản vua cha về việc đối xử bất công với David, bằng cách cho David biết tất cả ý đồ của nhà vua (I Sam 19-20). Khi nghe tin Jonathan bỏ mình trên chiến trường, David trân quí tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan dành cho mình nên khóc thương ông như sau: "Jonathan, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ. Than ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành!"
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu và các môn đệ quên mình để lo cho dân chúng.
3.1/ Lòng yêu thương của Chúa Giêsu dành cho con người: "Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được." Những việc này xảy ra là vì Chúa Giêsu và các môn đệ quá thương dân chúng. Nếu Chúa Giêsu không muốn những điều này xảy ra, Ngài chỉ cần đình chỉ việc chữa lành hay lánh đi một nơi hẻo lánh, là giải quyết được vấn đề. Chỉ có tình yêu cho dân chúng mới thúc đẩy Chúa Giêsu và các môn đệ lâm vào hoàn cảnh này; tuy vậy, các ngài vẫn vui vẻ phục vụ.
3.2/ Thân nhân không thể hiểu nổi những gì Chúa Giêsu làm: "Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí." Theo thói thường, người không yêu không thể hiểu nổi lý lẽ của tình yêu. Các thân nhân của Chúa Giêsu không thể nào hiểu nổi tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho con người. Theo họ, cuộc sống như Chúa Giêsu đang sống là một điên khùng và thất bại, vì Ngài phải:
(1) Lang thang khắp nơi, nay đây mai đó, không có nghề nghiệp gì nhất định; trong khi theo họ, con người phải có mái nhà an toàn và nghề nghiệp vững chắc để sinh sống.
(2) Kết bạn với những người nghèo khổ và thất học; trong khi theo họ, phải có kiến thức và địa vị cao trọng trong xã hội.
(3) Dám đương đầu với quyền lực của giới cai trị tôn giáo như Biệt-phái, Kinh-sư, Cao-niên. Theo họ, làm như thế là tự mang án tử cho mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhìn vào những gì Chúa Giêsu đã, đang, và sẽ làm cho con người, chúng ta cảm nhận được tình yêu thâm sâu của Ngài dành cho chúng ta. "Không ai dám hy sinh tính mạng cho người khác; họa chăng có người dám chết vì người công chính. Đức Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân."
- Chúng ta cần loại bỏ tính ích kỷ, kẻ thù của tình yêu và là mối đe dọa cho lợi ích chung; để biết nhận ra và tri ân những hy sinh cao quí của mọi người đã làm ơn cho chúng ta trong đời.
- Vì Đức Kitô đã yêu thương và hy sinh tất cả cho chúng ta, chúng ta không được ích kỷ để chỉ biết sống cho mình; nhưng phải yêu thương và hy sinh cho người khác như Đức Kitô đã dạy chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 22/01 Khi cái hoàn hảo tới, cái bất toàn phải qua đi
- 21/01 Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa
- 20/01 Phải tin tưởng nơi uy quyền của Thiên Chúa
- 19/01 Con người quí trọng hơn luật lệ
- 18/01 Phải tuyệt đối vâng phục Thiên Chúa
- Ý NGHĨA DẤU LẠ Ở CA-NA
- 17/01 Trung thành hiệp nhất trong những khác biệt của nhau
- 16/01 Công hiệu của Lời Chúa
- 15/01 Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa
- 14/01 Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả xấu