Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC
Bài đọc: Isa 60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.
Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.
1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: "Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi."
Chương 60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: "Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi." Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.
1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: "Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông." Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: "Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa." Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.
2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.
2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: "Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây." Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về "kế họach ân sủng" mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.
2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: "Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa." Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.
3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: "Khi Đức Giêsu ra đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."
3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: "Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao." Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.
(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn của họ.
(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
- Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
- Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 2 tháng 1 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:22-28; Jn 1:19-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật và sự dối trá quanh co
Trong xã hội, rất khó cho chúng ta để nhận biết bản chất đích thực của một người qua việc đối thọai. Khi phải nói về mình, con người thường có những khuynh hướng như: mạo nhận danh nghĩa người khác; giả vờ như mình có để người khác phải thán phục mình; khuếch đại: có ít nói nhiều; nói quanh co để người khác khỏi nhận ra con người thực của mình. Khi phải tìm hiểu cá nhân đó qua người khác, người khác thường có khuynh hướng: cắt bớt những công trạng và các đức tính tốt để họ đừng nổi bật quá; thêm những nhận xét của mình để dìm bớt những điều tốt; gán cho họ những tật xấu mà họ không có; hay vơ vào những thói xấu của gia đình họ.
Các Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta phải biết sống thực với con người của mình. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan đưa ra lý do tại sao chúng ta phải sống thực là vì chúng ta đã lãnh nhận dầu Thánh Thần qua Bí-tích Rửa Tội. Thánh Thần giúp chúng ta sống thực, và giúp nhận ra những sự giả trá trong thế gian. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả cho chúng ta một mẫu gương phải sống thực qua cách trả lời cho những người đến điều tra: ngắn gọn: có hoặc không; trực tiếp: không dài giòng quanh co; đơn giản: không dùng những lời nhiều nghĩa; chính xác: những gì mình là, không phải những gì người khác gọi, hay khen mình. Khi phải so sánh mình với Chúa Giêsu, Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường nhìn nhận: "Tôi tuy đến trước, nhưng tôi không xứng đáng để cởi quai dép cho Ngài."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kitô Giáo và các tôn giáo khác
1.1/ Phản-Kitô là người không tin Đức Kitô: Nhiều tôn giáo thờ một Thiên Chúa; chẳng hạn, Do-Thái Giáo, Hồi Giáo, nhưng Kitô Giáo thờ Thiên Chúa và Đức Kitô.
(1) Các lạc giáo: Ngay từ thời Thánh Gioan, khi Kitô Giáo bành trướng vào thế giới, có nhiều những lạc giáo từ chối không tin thiên tính (Do-Thái Giáo) hay nhân tính của Đức Kitô (Chủ-nghĩa thuần Tri-thức). Thánh Gioan đề phòng các tín hữu của ngài các lạc giáo này: "Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô? Kẻ ấy là tên Phản-Kitô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con."
(2) Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Đức Kitô: Đối phương của Gioan có thể thuyết phục ngài: "Tuy khác biệt, nhưng chúng ta cùng tin Một Thiên Chúa." Thánh Gioan thẳng thắn nói lên niềm tin của ngài: "Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha." Theo ngài, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa Chúa Cha và Chúa Con:
- Chúa Giêsu mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, và nếu Ngài không mặc khải, con người không thể biết Chúa Cha: "Không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và những người Con muốn mặc khải cho" (Mt 11:27, Lk 10:22).
- Tin Con là tin Cha (Jn 12:44-45); từ chối Con sẽ bị Cha từ chối (Mt 10, 32-33).
- Nhìn thấy Con là nhìn thấy Cha (Jn 14 :6-9).
1.2/ Hai tiêu chuẩn để nhận ra sự thật: Để chống lại những lạc giáo, Thánh Gioan đưa ra 2 tiêu chuẩn để giúp các tín hữu nhận ra sự thật phải theo và sự dối trá phải tránh: tiêu chuẩn bên ngòai là những Giáo Huấn của Giáo Hội; và tiêu chuẩn bên trong là sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.
(1) Điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu: Ngài nói: "Phần anh em, ước chi điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại trong anh em. Nếu điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu ở lại trong anh em, thì chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là điều mà chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời." Điều nghe từ đầu đây có lẽ là những dạy dỗ về đạo, trước khi một người được lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội.
(2) Sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: Khi một người được chịu Phép Rửa nhân danh Đức Kitô, người ấy được xức dầu của Thánh Thần; và được phong chức làm tư tế, tiên tri, và vương đế. Thánh Gioan quả quyết: "Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa; nhưng dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự - mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá - thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người." Trong khi chủ thuyết "Thuần Tri-thức" cho rằng chỉ có họ mới biết cách giải thóat con người ra khỏi vật chất để kết hợp với Thiên Chúa; Thánh Gioan dạy các tín hữu: một khi đã có Thánh Thần của Thiên Chúa, Thần Sự Thật, trong người, các tín hữu chẳng cần phải được dạy dỗ bởi ai khác nữa.
2/ Phúc Âm: Lời chứng của Gioan
2.1/ Những gì Gioan không là: Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do-Thái từ Jerusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô." Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlijah không? " Ông nói: "Không phải." "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? " Ông đáp: "Không." Sở dĩ Gioan Tẩy Giả trả lời như thế là vì ông không quan tâm đến những điều người khác nói về ông, mà ông chỉ quan tâm đến những gì ông thực sự là. Nhiều người đã coi Gioan Tẩy Giả như một Tiên-tri, và chính Chúa Giêsu đã gọi ông là một Tiên-tri quan trọng hơn hết các tiên-tri.
2.2/ Điều Gioan Tẩy Giả là: Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" Ông nói: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaiah đã nói." Một khi Gioan nhận ra sứ vụ Thiên Chúa trao cho trong cuộc đời, ông dành mọi thời gian, và nỗ lực để chu tòan sứ vụ của mình.
Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisees. Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlijah hay vị ngôn sứ?" Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Chỗ khác, Gioan phân biệt hai Phép Rửa: ông làm Phép Rửa để tha tội, nhưng Đức Kitô làm Phép Rửa để ban Chúa Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần biết mình, biết Thiên Chúa, và biết tha nhân.
- Chúng ta đừng bao giờ mạo nhận những gì chúng ta không có, cũng đừng bao giờ đánh cắp công ơn của người khác; nhưng phải biết nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
- Chúng ta phải đề phòng những kẻ Phản-Kitô và những người không sống xứng đáng với danh hiệu "Kitô hữu" của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 1 tháng 1, Lễ Mẹ Thiên Chúa, Năm ABC
Bài đọc: Num 6:22-27; Gal 4:4-7; Lk 2:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời chúc lành tốt đẹp nhất của Năm Mới.
Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta có thói quen chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất, tùy vào những gì mà người khác muốn nghe; chẳng hạn, đối với các thương gia: phú quí, thịnh đạt; đối với các sinh viên sắp ra trường: thành công và thắng lợi trên đường công danh; đối với nhà nông: mùa màng trù phú; đối với người bệnh: sức khỏe lành mạnh. Nhưng đâu là lời chúc tốt đẹp và hòan hảo nhất của Ngày Đầu Năm? Các tín hữu tin đó là lời chúc có được Thiên Chúa; lý do của niềm tin này: có Chúa là có tất cả. Hơn nữa, chưa chắc có được những gì người khác chúc là đã tốt lành, chẳng hạn như được trúng số mà gia đình tan nát; nhưng nếu được những gì Thiên Chúa ban, chắc chắn sẽ tốt lành cho người lãnh nhận, vì Ngài biết con người cần gì.
Các Bài đọc của Ngày Đầu Năm tập trung trong các ơn lành đến từ Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa dạy cho Aaron biết cách chúc lành cho con cái Israel: phải nhân danh Thiên Chúa, phải xin Thiên Chúa tươi mặt nhìn đến và dủ lòng thương, phải xin Thiên Chúa ghé mắt nhìn đến và ban bình an. Trong Bài Đọc II, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu của Ngài qua Mầu Nhiệm Nhập Thể: Ngài không những giải thóat con người khỏi tội, ban cho con người diễm phúc được làm nghĩa tử, và còn ban Thánh Thần để thúc đẩy con người gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Trong Phúc Âm, Thiên Chúa đã ban cho con người, đại diện qua Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và các Mục-đồng được nhìn thấy Mặt của Thiên Chúa. Vì thế, khi con người có được Thiên Chúa, được Ngài đóai thương nhìn tới, con người sẽ không còn thiếu một ân huệ nào nữa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời chúc tốt đẹp nhất: Xin Thiên Chúa đóai thương nhìn tới anh em!
1.1/ Phải nhân danh Thiên Chúa mà chúc lành: Đức Chúa phán với ông Moses: "Hãy nói với Aaron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Israel, anh em hãy nói thế này: "Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!""
Theo truyền thống Do-Thái, tên là người. Danh của Thiên Chúa, Yaweh, đồng nhất với lòng thương xót, sự tốt lành, và sự bình an. Khi Thiên Chúa hiện ra với ông Moses, Người đã mặc khải tên này cho Moses. Khi chúng ta lấy tên ai để kêu cầu, chúng ta muốn đặt những lời cầu xin dưới sự bảo trợ của người đó; chẳng hạn, khi chúng ta kết thúc lời cầu xin bằng câu: "chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen;" là chúng ta đặt lời cầu dưới sự bảo trợ của Đức Kitô. Trong đọan văn hôm nay, Thiên Chúa cũng bảo đảm điều này: "Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng."
1.2/ Xin Thiên Chúa ghé mặt nhìn tới: "Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!" Truyền thống Do-Thái tin: Chúa nhìn thấy con người, nhưng con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Ai nhìn thấy Thiên Chúa sẽ phải chết. Khi Chúa nhìn đến ai, người đó được Ngài chúc lành; ví dụ, Mẹ Maria ca ngợi Thiên Chúa: "Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đóai thương nhìn tới." Ngược lại, khi Thiên Chúa ngỏanh mặt đi, hay nhìn đến với nét mặt không tươi, người đó bị chúc dữ.
2/ Bài đọc II: Chúa Giêsu làm cho con người nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
2.1/ Thiên Chúa cho Con của Người nhập thể để cứu chúng ta khỏi Lề Luật: "Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử."
Tại sao phải cứu con người thóat khỏi Lề Luật? Vì Lề Luật mà con người phạm tội, không chu tòan những gì Lề Luật dạy. Hậu quả của tội là sự chết. Con người không thể nên công chính trước mặt Thiên Chúa bằng Lề Luật. Để cứu con người thóat khỏi sự chết, hậu quả của Lề Luật, Thiên Chúa đã cho Người Con nhập thể trong cung lòng một con người, Đức Mẹ Maria, để sinh ra làm người. Chính Người Con này sẽ gánh tất cả tội cho con người; vì thế, con người có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Khi Người Con cất đi mọi tội, Ngài đã vô hiệu hóa Lề Luật - làm cho Lề Luật không còn giam hãm con người nữa.
2.2/ Thiên Chúa nhận chúng ta làm nghĩa tử qua Chúa Giêsu: Không những chỉ giải phóng con người khỏi tội, Chúa Giêsu còn ban cho con người muôn vàn ân phúc qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Thánh Phaolô nói: "Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Abba, Cha ơi!" Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa."
(1) Ơn làm con Thiên Chúa: Nhờ Chúa Giêsu, con người trở thành những người con của Thiên Chúa bằng niềm tin vào Đức Kitô, như Thánh Gioan nói: "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa" (Jn 1:12-13). Đã là con, cũng là người thừa kế. Con người được thừa hưởng tất cả những gì Thiên Chúa ban qua Đức Kitô, nhất là ơn được sống đời đời.
(2) Các ơn của Chúa Thánh Thần: Để có thể tin vào Đức Kitô, và gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! con người phải được Chúa Thánh Thần tác động. Nếu đã có Thánh Thần, con người sẽ không thiếu những ơn lành của Ngài, cách cụ thể là 7 ơn của Chúa Thánh Thần.
3/ Phúc Âm: Các Mục-đồng đến thờ lạy Hài Nhi.
3.1/ Ba phản ứng của các Mục-đồng: Sau khi được các Thiên-thần loan báo Tin Mừng, các Mục đồng đã đáp lại bằng 3 phản ứng:
(1) Họ đi tìm và đã thấy: Trình thuật kể: "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà Maria, Ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này." Con người chúng ta cũng phải hối hả và nhiệt thành như các Mục-đồng trong việc tìm kiếm Thiên Chúa; vì nếu không lên đường đi tìm, làm sao chúng ta có thể thấy Ngài được. Yếu điểm của nhiều người chúng ta là nhiệt thành tìm kiếm mọi điều, nhưng không nhiệt thành trong việc tìm kiếm và học hỏi về Thiên Chúa. Với một thái độ như thế, không lạ gì khi chúng ta vẫn còn xa cách Thiên Chúa vạn dặm!
(2) Họ tôn vinh ca tụng tình yêu Thiên Chúa: "Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ." Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa. Các Mục-đồng chắc chắn đã được Hài Nhi cho cảm nghiệm được tình yêu này, khi họ chiêm ngắm Ngài. Chúng ta đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa khi chiêm ngắm Hài Nhi trong máng cỏ chưa?
(3) Phải rao giảng và làm chứng cho tình yêu này: "Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên." Một khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành khí cụ ca rao tình yêu của Thiên Chúa cho muôn người. Thánh Phanxicô Khó Khăn chỉ có thể hát lên "Kinh Hòa Bình" sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho ngài. Nếu các tín hữu đều phản ứng như các Mục-đồng hôm nay, chẳng mấy chốc mọi con người trong thế giới này sẽ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.
3.2/ Mẹ Maria ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy để suy đi nghĩ lại trong lòng: Một gương sáng Đức Mẹ dạy cho con người: đứng trước Mầu Nhiệm Nhập Thể, chúng ta đừng nói nhiều, nhưng hãy ghi nhận mọi sự kiện xảy ra và suy niệm trong lòng. Như một con người, có rất nhiều điều Mẹ có thể hỏi và kêu ca trách Thiên Chúa trong ngày sinh của Chúa Giêsu; chẳng hạn: Con Thiên Chúa mà lại sinh ra trong cảnh khó nghèo như vậy sao? Uy quyền của Thiên Chúa đâu mà để cho Con Ngài mới sinh ra đã phải chạy nạn rồi? Không phải chỉ lúc sinh con, nhưng trong suốt cả cuộc đời, Mẹ đã chứng kiến cuộc sống của Chúa Giêsu: khi thì rất uy quyền làm các phép lạ như tại tiệc cưới Cana, khi thì cô đơn bại trận như lúc sinh thì trên Thánh Giá. Mẹ có thể hỏi Thiên Chúa những lý do tại sao, nhưng Mẹ đã chọn sự thinh lặng và hòan tòan tin tưởng vào Kế Họach và tình yêu của Thiên Chúa cho gia đình Mẹ.
3.3/ Đặt tên cho con trẻ là Jesus: Tên Jesus trong tiếng Do-Thái có nghĩa là "Jaweh cứu thóat," đó là tên mà Sứ-thần đã truyền đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ (Lk 1:31). Trong Cựu-Ước, cũng có một nhân vật mang tên này là Thủ Lãnh Joshua. Ông được chọn để thay Moses mang dân vào Đất Hứa (Num 13:6). Giống như Joshua, Chúa Giêsu cũng được Chúa Cha tuyển chọn để cứu nhân lọai khỏi tội, và mang họ đế cuộc sống đời đời trên Thiên Đàng. Khi ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã sống đúng với Danh của Ngài là Thiên Chúa Thương Xót.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta hãy dùng danh Đức Kitô mà chúc cho nhau được Thiên Chúa đóai thương nhìn tới.
- Vì Thiên Chúa đóai thương, nên Người ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, để gánh tội và để cho chúng ta thành những người con của Ngài.
- Thuở xưa, con người không được phép nhìn mặt Thiên Chúa; nhưng qua Biến Cố Nhập Thể, con người có thể chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa qua khuôn mặt của Chúa Hài Nhi.
- Với nền kinh tế bấp bênh của thế giới và của quốc gia chúng ta đang định cư, chúng ta không biết tương lai sẽ thế nào; nhưng chúng ta biết chắc chắn một điều: "những người được Thiên Chúa đóai thương, sẽ chẳng thiếu chi những điều tốt lành và bình an."
- Cầu chúc quí khán giả khắp nơi luôn hăng hái nhiệt thành trong việc học hỏi Lời Chúa, và luôn sống trong tình yêu và ơn thánh của Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 31 tháng 12, BNGS
Bài đọc: I Jn 2:18-21; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những kẻ Phản-Kitô là những người từ chối tiếp nhận Đức Kitô.
Đối diện với sự xuất hiện của Đức Kitô, con người buộc phải tỏ thái độ: tin hay không tin. Tùy thuộc vào thái độ này, con người tự chọn cho mình phải hư đi hay đạt tới cuộc sống đời đời. Thiên Chúa không cần phán xét con người, nhưng Ngài để cho con người tự phán xét lấy. Điều này đã rõ ràng trong Tin Mừng Gioan: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa" (Jn 3:16-18).
Các bài đọc hôm nay xoay chung quanh việc từ chối tiếp nhận Đức Kitô. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan đề cập đến những kẻ Phản-Kitô và cuộc giao chiến cuối cùng của các Kitô hữu với những kẻ này. Trong Phúc Âm, Thánh Gioan tường thuật hai phản ứng của con người khi Ngôi Lời xuất hiện: (1) Có những kẻ từ chối tiếp nhận Người: "Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Jn 1:10-11). (2) Nhưng nếu ai tiếp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (Jn 1:12).
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cuộc chiến cuối cùng với những kẻ Phản-Kitô
1.1/ Cuộc chiến với những kẻ Phản-Kitô:
(1) Giờ cuối cùng là khi nào? Có 2 ý kiến khác nhau:
- Thời gian trước Ngày Tận Thế: Từ thời các Tông-đồ, con người luôn cố gắng đóan xem khi nào Ngày Tận Thế xảy ra: Thánh Phaolô trong Thư gởi tín hữu Thessalonica I đã tiên đóan Ngày này sẽ xảy ra trong tương lai gần; nhưng sau đó, ngài đã xét lại sự tiên đóan này trong các Thư: Thessalonica II, chương 2; và Corintô I, chương 7.
- Thời gian từ lúc Đấng Cứu Thế đến cho tới Ngày Tận Thế: Đây là ý kiến được đa số công nhận hơn vì được Chúa Giêsu nói tới nhiều lần trong các Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: Ngày ấy chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng khi nào xảy ra không ai biết, trừ một mình Thiên Chúa Cha. Vì không ai biết khi nào Ngày đó xảy ra, nên mọi người phải luôn chuẩn bị.
(2) Ai là kẻ Phản-Kitô? Giới từ anti có 2 nghĩa trong tiếng Hy-Lạp: chống lại hay thay chỗ của. Vì thế từ Phản-Kitô cũng có 2 ý nghĩa:
- Kẻ chống lại Đức Kitô: những ai trực tiếp và đơn giản chống lại Ngài, chẳng hạn: các bè rối chống thiên tính hay nhân tính của Đức Kitô hay Con Thú trong Sách Khải Huyền.
- Kẻ muốn thay thế chỗ của Đức Kitô: những ai muốn thay thế chỗ của Đức Kitô cách gián tiếp và không minh bạch, chẳng hạn: thay vì chỉ cho mọi người tới với Chúa, họ lợi dụng những gì Chúa nói để chỉ vào mình hay từ từ đưa con người xa Chúa.
1.2/ Dấu để nhận ra kẻ Phản-Kitô:
(1) Là người ở giữa chúng ta: không phải là quỉ vương ra đời như nhiều người lầm tưởng. Thánh Gioan chỉ rõ: "Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta; vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: không phải ai ai cũng là người của chúng ta." Vì kẻ Phản-Kitô lẫn lộn trong cộng đồng, nên các tín hữu cần cẩn thận đề phòng, vì khó nhận ra họ.
(2) Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra kẻ Phản-Kitô: "Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết. Tôi đã viết cho anh em, không phải vì anh em không biết sự thật, nhưng vì anh em biết sự thật, và vì không có sự dối trá nào phát xuất từ sự thật." Chúa Thánh Thần là sự thật, chính Ngài sẽ giúp các tín hữu nhận ra ai là kẻ Phản-Kitô.
2/ Phúc Âm: Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Người.
2.1/ Ngôi Lời tỏ mình cho thế gian: Thánh Gioan nêu ra ít là 3 cách Ngôi Lời đã tỏ mình:
(1) Trong việc tạo dựng: "Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại." Con người có thể nhận ra Thiên Chúa qua việc tạo dựng và quan phòng.
(2) Qua nhân chứng Gioan: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin." Gioan Tẩy Giả là nhân chứng đã biết và đã chỉ cho dân chúng thấy khi Ngài xuất hiện: "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian" (Jn 1:29).
(3) Qua biến cố Nhập Thể: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật." Các Tông-đồ đã nhìn thấy Ngôi Lời bằng xương thịt. Ngài đã ở giữa họ, đã dạy dỗ, và đã làm bao phép lạ để chứng tỏ uy quyền của Ngài. Thánh-sử Gioan làm chứng cho chúng ta, những người không có kinh nghiệm nhìn thấy Chúa, trong cả Phúc Âm và Thư của ngài.
2.2/ Phản ứng của con người: Có 2 phản ứng chính:
(1) Từ chối và không tin Ngài: "Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận." Có những người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc tạo dựng. Họ cũng chẳng nhận ra Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau cùng, họ cũng chẳng tin vào lời các người làm chứng cho Thiên Chúa. Thời của Chúa cũng như thời nay, vẫn có những hạng người này.
(2) Tiếp nhận và tin vào Ngài: "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin vào Đức Kitô để được làm con Thiên Chúa và để đạt được cuộc sống đời đời.
- Con người tự phán xét lấy mình trong việc lựa chọn tin hay không tin vào Đức Kitô.
- Chúng ta phải cẩn thận đề phòng những kẻ Phản-Kitô: những người từ chối Đức Kitô, những người mạo nhận danh nghĩa của Ngài, và những người muốn thay Ngài bằng những điều khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 30 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:12-17; Lk 2:36-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng ta được trang bị đầy đủ để sống theo ý của Thiên Chúa.
Một lầm lẫn lớn nhất của con người là tội chạy theo các lòai thụ tạo Thiên Chúa dựng nên thay vì chạy theo Chúa, Người dựng lên chúng. Nếu con người chịu khó suy nghĩ, họ có thể nhận ra sự phi lý của lối sống này: Làm sao những thụ tạo có thể so sánh với Đấng đã tạo dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng? Mục đích Thiên Chúa tạo dựng lên chúng không phải để cho con người thờ phượng chúng, nhưng để con người biết dùng chúng như phương tiện để sinh sống trong những ngày còn sống trên dương gian mà thôi. Nhiều người tức cười khi thấy có người quỳ lạy con bò; nhưng chính họ nhiều khi đang tôn thờ "bò vàng" mà họ không hay biết!
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải hết lòng từ bỏ lối sống theo kiểu thế gian, và tập sống theo ý của Thiên Chúa. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan xác quyết Thiên Chúa đã trang bị cho con người đầy đủ những khí cụ cần thiết để có thể thắng vượt được những cám dỗ của thế gian và sống theo ý của Thiên Chúa. Gioan liệt kê một số các khí cụ như: sự chiến thắng của Đức Kitô, ơn tha tội, Lời Chúa. Trong Phúc Âm, Thánh Luca cho chúng ta tấm gương của một nữ ngôn sứ biết sống theo ý Thiên Chúa: Bà Anna, con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa trang bị mọi sự cho con người.
1.1/ Những hồng ân con người đã lãnh nhận từ Đức Kitô: Thánh Gioan liệt kê 3 điều chính:
(1) Ơn tha tội nhờ Danh Đức Kitô: Nhờ cái chết của Đức Kitô, Ngài đã xóa đi tội Tổ Tông và mọi tội con người đã, đang, và sẽ phạm. Không những thế, Ngài còn thiết lập Bí-tích Hòa Giải và ban quyền tha tội cho các Tông-đồ và những người kế vị các Ngài. Điều Ngài đòi hỏi nơi các tín hữu là năng xét mình và chạy đến với Bí-tích Hòa Giải để được tha tội.
(2) Biết Đức Kitô, Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu: Nhờ sự mặc khải của Kinh Thánh và của Đức Kitô, con người biết Ba Ngôi Thiên Chúa và tất cả các việc Thiên Chúa làm, nhất là Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người. Một đời sống cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa sẽ làm cho con người càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa hơn.
(3) Đã thắng ác thần: nhờ chiến thắng của Đức Kitô và nhờ Lời Thiên Chúa ở lại trong anh em. Vì Đức Kitô đã chiến thắng mọi quyền lực của ác thần (Satan) và của thế gian (giới cai trị), con người được giải thóat khỏi mọi quyền lực này.
1.2/ Lối sống theo thế gian và lối sống theo ý Thiên Chúa:
(1) Lối sống theo thế gian: Trước tiên, Thánh Gioan không có ý khinh thường thế gian vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều tốt. Hơn nữa, Thánh Gioan còn nói: "Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã hy sinh Người Con Một của mình" (Jn 3:16). Điều ngài muốn nhấn mạnh ở đây là các khuynh hướng xấu của thế gian đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa.
- Những dục vọng của tính xác thịt: không chỉ giới hạn trong những ham muốn về tình dục, mà còn cả những ham muốn khác nữa như: danh vọng, quyền hành, của cải, và các thú vui làm con người không còn thời giờ cho Chúa, và ngăn cản con người trên đường về với Chúa.
- Những ham muốn của đôi mắt: Con mắt là cửa sổ của linh hồn, vì qua đó các hình ảnh được thâu nhận vào trí óc. Khi có dịp thuận tiện, các hình ảnh này sẽ thao túng linh hồn và làm cho con người phải khốn đốn. Hai điều răn thứ chín và thứ mười là tội liên quan đến con mắt, vì từ chỗ nhìn ngắm sẽ đưa tới chỗ tham muốn. Để tránh những tội này, điều con người có thể tránh là "ăn chay" con mắt. Với phương diện truyền thông liên mạng hiện nay, việc ăn chay con mắt càng cần hơn bao giờ hết.
- Thói ba hoa chích chòe, hay tiếng thời đại quen dùng "nổ": Bản dịch của Nhóm PVCGK không sát nghĩa khi dịch: "thói cậy mình có của," vì tiếng Hy-Lạp dùng từ avlazonei,a, có nghĩa ám chỉ không những cậy mình mà còn cậy vào cái mình không có. Câu truyện sau đây dẫn chứng sự hợm hĩnh của lọai người này: Có một bà mới khai trương cửa hiệu của mình. Khi Bà thấy một người kéo cửa vào tiệm, Bà vội bốc điện thọai lên và khoe tiệm ầm ĩ, với mục đích để cho người mới vào biết tiệm Bà tuy mới mở nhưng đông khách là chừng nào. Sau một hồi khoe khoang khóac lác, Bà bỏ điện thọai xuống và hỏi khách hàng cần gì; người ấy thưa ông là nhân viên của hãng điện thọai xuống để nối đường giây điện thọai cho Bà. Lúc ấy, mặt Bà đỏ ửng lên vì biết người đối diện đã biết "tẩy"của Bà.
(2) Lối sống theo ý Thiên Chúa: là ngược lại hòan tòan với lối sống theo thế gian vì "tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi." Thánh Gioan khuyên: "Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha."
2/ Phúc Âm: Mẫu gương của những người biết sống và làm theo ý Thiên Chúa.
2.1/ Cuộc đời của Bà Ngôn-sứ Anna: Bà con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Một cuộc sống quanh quẩn nơi Đền Thờ như thế đã giúp Bà nhận ra những gì là chính yếu hay phụ thuộc trong cuộc đời. Khi được Thánh Thần thúc đẩy cho nhận ra Đấng Cứu Thế, Bà tiến lại gần bên Gia Đình Thánh, Bà cảm tạ Thiên Chúa và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jerusalem.
2.3/ Gia đình Thánh trở về Nazareth: "Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nazareth, miền Galilee. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa." Thánh Giuse trở về với công việc của người thợ mộc để kiếm tiền nuôi sống gia đình, chứ không xin Thiên Chúa làm phép lạ để có tiền cho Chúa Giêsu ăn học. Mẹ Maria trở về với công việc nội trợ để chăm sóc cho Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong suốt 30 năm Ngài sống trên dương thế. Riêng Chúa Giêsu, tuy là Thiên Chúa, Ngài đã ẩn mình trong 30 năm bên Thánh Giuse và Đức Mẹ: vâng lời và giúp đỡ các Ngài, và chuẩn bị trước khi bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng. Cả ba thành phần của Gia Đình Thánh đều sống âm thầm thực hiện ý Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn thờ phượng một mình Thiên Chúa, và đừng bao giờ để những cám dỗ của thế gian lôi kéo chúng ta xa Ngài.
- Một cách để chúng ta nhận ra nếu chúng ta đã làm điều này chưa là năng kiểm điểm cuộc sống, nhất là thời giờ và những nỗ lực chúng ta dành cho Thiên Chúa. Nếu chúng ta bận rộn làm ăn đến nỗi chúng ta không còn thời giờ để cầu nguyện, tham dự Thánh-lễ, và tham gia các họat động mở mang Nước Chúa; chúng ta đang chạy theo các thần không phải là Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 29 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:3-11; Lk 2:22-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Thiên Chúa là bước đi trong đường lối của Ngài.
Quan niệm về "biết" của người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người Hy-Lạp quan niệm biết là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan niệm biết phải ảnh hưởng đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm "tri hành phải đồng nhất" thì mới mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng ta đặt tầm quan trọng trên việc làm hơn là lời nói: "lời nói mới lung lay, nhưng gương bày lôi kéo." Biết mà không làm, có lợi chi đâu?
Các Bài đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường lối của Người. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm "biết Thiên Chúa" cho người Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức, nhưng liên quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: "Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy." Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm gương của những người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
1.1/ Hai lối hiểu biết khác nhau: Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ Do-Thái tràn vào Hy-Lạp, Thánh-sử Gioan phải đương đầu với sự hiểu biết và lý luận của người Hy-Lạp; một trong những điều ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm "biết Thiên Chúa."
(1) Theo Hy-Lạp: Biết Thiên Chúa là lãnh vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực của luân lý; vì thế, một người có thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ giới răn của Ngài. Đối với người Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng kiến thức và suy luận (Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2) Theo Do-Thái: Biết Thiên Chúa là bước đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận các giới răn của Ngài. Đó là lý do tại sao ngài cắt nghĩa: "Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi."
1.2/ Giới răn yêu thương vừa cũ vừa mới: "Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức Giêsu và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng."
(1) Là giới răn cũ: vì đã được nhắc tới ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lev 18:19).
(2) Là giới răn mới: vì được thực hiện bởi Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ, nhưng trở nên mới vì người thực hành nó; chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được trình bày theo lối mới. Cũng vậy, khi Đức Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở ra cho con người một chân trời hòan tòan mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương tới tội nhân và kẻ thù. Ngài dạy: "không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người dám thí mạng sống cho người mình yêu." Ngài đã đi trước làm gương cho con người bằng cái chết trên Thập Giá.
1.3/ Ánh sáng và bóng tối: Thánh Gioan đồng nhất:
- Ánh sáng là yêu thương: "Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm."
- Bóng tối là hận thù: "Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối... Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng."
2/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
2.1/ Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/ Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
2.3/ Ông Simeon nói tiên tri:
(1) Về con trẻ: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra." Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: "Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chứng minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ những gì Thiên Chúa truyền dạy.
- Giới răn quan trọng nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là "mến Chúa yêu người." Chúng ta không chỉ biết giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 28 tháng 12, Lễ Các Thánh Anh Hài Tử Đạo
Bài đọc: I Jn 1:5-2:2; Mt 2:13-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa và tội lỗi con người
Nhiều người thường thắc mắc về biến cố tử đạo của các thánh anh hài hôm nay: "Tại sao Thiên Chúa thương yêu nhân loại đến độ cho Con Một của mình bỏ trời cao xuống nhập thể để ở với con người, lại để cho vua Herode đối xử tàn nhẫn với các trẻ thơ như vậy?" Rồi họ kết luận: hoặc Thiên Chúa không có uy quyền để ngăn chặn, hoặc Thiên Chúa không yêu thương con người thật; cả hai lý do đều làm họ không tin vào Thiên Chúa.
Trước tiên, chúng ta phải xác nhận vì Đức Kitô đã xuống trần, nên chết không phải là điều tai hại; nhưng là bước qua ngưỡng cửa đời sau để hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Đó là mục đích của cuộc đời, nếu cho con người lựa chọn khi mới sinh ra: hoặc là về hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa ngay, hoặc phải sống đủ thời gian trên dương thế chịu đựng đau khổ, bệnh tật, và chưa chắc đã được cứu độ, chúng ta sẽ chọn đàng nào?
Thứ đến, Thiên Chúa không chịu trách nhiệm cho những tội lỗi của con người: việc vua Herode giết các anh hài hoàn toàn do sự lạm dụng tự do Thiên Chúa ban cho ông; vì ông kiêu căng và sợ mất quyền bính. Tuy nhiên, uy quyền Thiên Chúa vẫn chiếu sáng trong thảm trạng đau khổ này: máu của trẻ thơ vô tội đổ ra để làm chứng cho biến cố Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn dùng tình thương để hoán cải lòng dạ chai đá và tính ngông cuồng tội lỗi của con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự tương phản giữa Thiên Chúa và con người
1.1/ Tình thương và uy quyền của Thiên Chúa:
(1) Thiên Chúa là ánh sáng, Đấng tuyệt đối thánh thiện: Gioan xác tín: "Đây là lời loan báo của Đức Giêsu Kitô mà chúng tôi đã nghe, và nay chúng tôi loan báo cho anh em: Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào." Ánh sáng và bóng tối là một trong những chủ đề chính của Gioan cả trong Phúc Âm cũng như trong các thư. Thiên Chúa là ánh sáng từ trời xuống trần gian để giúp con người nhìn ra sự thật, và sự thật sẽ giải thoát con người (Jn 8:32). Ai đi trong ánh sáng sẽ vững tâm vì không sợ bị lạc đường.
(2) Thiên Chúa thanh tẩy bóng tối tội lỗi con người qua Máu của Đức Kitô: Bóng tối là tội lỗi con người, là tất cả những gian tà, dối trá, ẩn giấu trong tâm hồn con người. Bóng tối và ánh sáng không thể ở chung với nhau: kẻ thích bóng tối ghét ánh sáng vì ánh sáng làm cho những tà tâm của họ bị phơi bày; nhưng người lành thích và đến cùng ánh sáng, để họ được hưởng những lợi ích của ánh sáng: được thanh tẩy mọi bóng tối tội lỗi và được hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau. Khi con người nói mình được kết hiệp với Đức Kitô mà lại đi trong bóng tối, thì con người tự dối mình và không hành động theo sự thật.
1.2/ Yếu đuối và tội lỗi của con người:
(1) Tội lỗi hiện hữu nơi con người: Thánh Gioan nêu lên một sự kiện thực tế: mọi phàm nhân đều phạm tội. "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta." Nhiều người không cho mình có tội, vì nhiều lý do: (1) Họ không chịu xét mình cẩn thận; (2) Họ không biết các giới răn và hiểu biết những dạy dỗ của Thiên Chúa; (3) Lương tâm của họ đã ra chai đá vì đã quá quen ở trong tội. Khi ở trong bóng tối quá lâu, con người mất khả năng cảm nghiệm ánh sáng; khi đã quá quen với dối trá, con người dị ứng với sự thật. Khi con người nói họ không phạm tội, họ biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối: "Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta."
(2) Mọi người đều cần lãnh nhận ơn tha thứ: Nếu đã phạm tội, con người cần thú nhận tội lỗi để được tha thứ. Đức Kitô đã chuẩn bị cho con người được tha tội qua việc trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho các Tông đồ và những người kế vị. "Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính." Khi con người tự cho mình là công chính, họ sẽ không cần đến với Thiên Chúa để lãnh nhận ơn tha thứ.
2/ Phúc Âm: Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.
2.1/ Sự khôn ngoan của Thiên Chúa: Ngài thấu suốt ý định độc ác của vua Herode, nên sai sứ thần làm hai chuyện để cứu Chúa Giêsu, Con của Ngài:
(1) Báo cho các nhà đạo sĩ biết kế hoạch độc ác của vua Herode, để họ tìm đường khác trở về quê hương, mà không cần trở lại Jerusalem gặp vua Herode.
(2) Sai sứ thần báo mộng cho ông Giuse đang đêm trong giấc mộng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Herode sắp tìm giết Hài Nhi đấy!" Giuse vâng lời sứ thần, ông liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập.
Lý do vua Herode tìm giết con trẻ là vì ông sợ con trẻ sẽ lấy đi ngai vàng của ông! Ông tìm giết con trẻ khi vẫn còn thơ và khi trong tay không có một vũ khí để tự vệ. Con người ngày nay vẫn đang tìm giết các trẻ thơ yếu đuối vô tội, ngay khi còn là thai nhi trong lòng mẹ, vì đủ mọi lý do tưởng tượng mà con người có thể nghĩ tới: bảo vệ tương lai, tự do, và sức khỏe cho người mẹ, hay sợ thai nhi phải đau khổ và không được giáo dục sau này.
1.2/ Tính ngông cuồng cường bạo của vua Herode: Trình thuật kể vua tức giận vì bị các nhà đạo sĩ "đánh lừa." Thực ra, các nhà đạo sĩ không đánh lừa nhà vua mà chỉ sông theo sự thật. Họ được sứ thần Thiên Chúa cho biết ý nghĩ ác độc của vua Herode, nên họ theo lối khác mà về quê hương của họ. Chẳng lẽ họ trở lại để mách đường cho nhà vua đến giết Người mà họ đã vất vả tìm kiếm để thờ lạy? Vua Herode nổi giận, ''nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bethlelem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các đạo sĩ."
Matthew tường thuật sự ứng nghiệm lời của ngôn sứ Jeremiah (Jer 31:15): "Ở Ramah, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rachel khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa." Để hiểu lời ngôn sứ Jeremiah, chúng ta phải trở về với (Gen 35:19), tường thuật hoàn cảnh đau khổ của bà Rachel: bà chết khi sinh Benjamin trong lúc tuổi già; chứ không đau khổ vì con bị lấy đi. Tiên tri Jeremiah dùng cách giải thích Kinh Thánh Midrash của người Do-thái, thay lý do chính tại sao bà Rachel than khóc trong câu kế tiếp (Jer 31:16), vì các con Bà bị lưu đày bên Ai-cập; nhưng Thiên Chúa sẽ cho các con của Bà được trở về. Trong trình thuật hôm nay, Ngài cũng đem con Ngài từ Ai-cập trở về.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa rất mực tốt lành và yêu thương, nơi Ngài không ẩn giấu một chút gian tà và thù hận; ngược lại, nơi con người đầy dẫy những yếu đuối, tội lỗi, và thù hận. Chúng ta cần ánh sáng, sự thật và tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
- Nguy hiểm xảy ra là khi con người tự cho họ có đủ khôn ngoan để xét xử Thiên Chúa và tự cho là công chính để không cần đến tình thương Thiên Chúa. Những người này đã bị ma quỉ lừa dối để họ từ chối lãnh nhận ơn cứu độ của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật Lễ Thánh Gia, Năm ABC
Bài đọc: Sir 3:2-6, 12-14; Col 3:12-21; A: Mt 2:13-15, 19-23, (B: Lk 2:22-40, C: Lk 2:41-52).
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bí quyết để có một gia đình Thánh
Mọi người trong chúng ta đều đã nhìn thấy và cảm nghiệm được sự khủng hỏang của gia đình hôm nay. Chúng ta phải đương đầu với bao nhiêu những vấn nạn liên quan đến gia đình như: săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, cho vào viện dưỡng lão, giết người già bằng cái chết êm dịu; ly dị, ly thân, và độc thân; hạn chế sinh sản và phá thai; con cái bỏ học, bỏ nhà, và bỏ đạo.
Gia đình Thánh cũng có những vấn đề như gia đình chúng ta: Thánh Giuse cũng toan bỏ Đức Mẹ cách kín đáo để bảo tòan sự công chính; Đức Mẹ cũng có những quyết định riêng cho đời mình bằng cuộc sống độc thân để phục vụ Chúa trong Đền Thờ; Chúa Giêsu cũng để cho cha mẹ vất vả mệt nhọc đi tìm kiếm mình, khi cha mẹ tìm thấy trong Đền Thờ lại còn hỏi: "Tại sao cha mẹ đi tìm con? Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?" Nhưng làm sao Gia Đình Thánh có thể vượt qua những trở ngại trong đời sống gia đình? Câu trả lời đơn giản là họ biết lắng nghe và làm theo ý Thiên Chúa.
Các vấn nạn xảy ra khi con người quá ích kỷ chỉ biết lo cho mình, và đánh mất tính tương giao với người khác. Họ không biết định giá, cám ơn, và trả ơn những gì Thiên Chúa và những người khác đã làm cho họ. Họ không biết kiên nhẫn và tha thứ cho người khác như Thiên Chúa và những người khác vẫn tha thứ cho họ. Họ quên đi rằng nếu Thiên Chúa và những người khác cũng ích kỷ như thế, họ sẽ không có cơ hội để có mặt trên trái đất này.
Hậu quả phải lãnh nhận: Vì gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội, nên khủng hỏang gia đình đứa tới khủng hỏang trong xã hội và Giáo Hội. Một ví dụ cụ thể: Việc hạn chế sinh sản dẫn tới việc mất quân bằng dân số trong quốc gia, các thống kê cho biết mỗi gia đình cần có 2.2 người con thì mới giữ được sự thăng bằng về dân số, các nước Âu Châu, Bắc Mỹ, và một số nước kỹ nghệ đã không có đủ tỉ lệ này. Hạn chế sinh sản cũng là lý do chính của việc khan hiếm linh mục và tu sĩ; nếu chỉ có một hay hai con, rất khó cho cha mẹ dâng con để phục vụ Chúa!
Các Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những chất liệu suy tư và nhìn lại hòan cảnh gia đình của mỗi người chúng ta. Trong Bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca khuyên con cái phải săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, dẫu các ngài đã lú lẫn và không tự săn sóc mình được nữa. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô liệt kê những đức tính và các cách cư xử cần có để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Trong Phúc Âm, Thánh Luca tường thuật Ngày Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ của Thánh Gia. Một gia đình hạnh phúc phải biết kính sợ Thiên Chúa, và giữ cẩn thận Lề Luật của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già.
1.1/ Giới răn thứ tư: Phải thảo kính cha mẹ.
(1) Lời Thiên Chúa dạy: "Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người."
(2) Lập luận của con người: Quá bận, không có thời giờ lo cho cha mẹ! Già yếu bệnh họan như thế đưa vào viện dưỡng lão tốt hơn. Có bác sĩ và y tá săn sóc thường trực. Thỉnh thỏang vào thăm tí được rồi. Thực tế: Có những viện dưỡng lão cả ngày không thay tã cho cha mẹ; có những y tá đã không săn sóc, chẳng để ý cha mẹ có ăn không, lại còn đánh luôn cha mẹ. Chúng ta cứ thử hỏi: Nếu cha mẹ đứt ruột đẻ ra và hy sinh chăm sóc cho mình, mình còn không chịu đựng săn sóc được, sao chờ đợi người khác chăm sóc cẩn thận? Điều chúng ta cần nhận ra là người già rất dễ cô đơn và tủi nhục. Họ không cần những chăm sóc bên ngòai, nhưng cần tình thương của con cháu. Chúng tôi đã từng đi xức dầu, và từng thấy các bậc cha mẹ từ giã cuộc đời trong cay đắng của nước mắt.
(3) Điều nên làm: Mọi người trong gia đình sẽ học được rất nhiều điều khi săn sóc cha mẹ già. Tất cả đều nhận ra sự mong manh của cuộc sống và biết nương tựa vào nhau hơn. Các anh chị em biết đòan kết với nhau để chia sẻ trách nhiệm. Các trẻ học biết cách chia sẻ bổn phận với cha mẹ: Khi thấy cha mẹ quá vất vả trong việc làm ăn và săn sóc ông bà, chúng sẽ tình nguyện chia sẻ gánh nặng với cha mẹ; điều này sẽ giúp chúng trưởng thành hơn so với những trẻ không có cơ hội thực tập. Các trẻ cũng sẽ học kinh nghiệm chăm sóc và đối xử với người già, và chúng sẽ áp dụng những gì chúng học được khi săn sóc cha mẹ.
1.2/ Ơn lành Thiên Chúa ban cho những ai hiếu thảo với cha mẹ: Sách Huấn Ca liệt kê những ơn lành như sau:
(1) Con cái cũng hiếu thảo với mình: "Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con." Tục ngữ Việt Nam cũng khuyên: "Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó." Người biết hiếu thảo và chăm sóc cha mẹ cũng sẽ được hưởng sự hiếu thảo và chăm sóc từ con cái mình. Ngược lại, người đối xử tàn tệ với cha mẹ, sẽ bị con cái mình đối xử tàn tệ hơn nhiều.
(2) Tội lỗi được tha thứ, ân sủng được thương ban: "Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu... Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con."
(3) Lời cầu xin được Thiên Chúa nhận lời: "Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe."
(4) Được sống trường thọ: "Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng." Khi một người săn sóc cha, người ấy cũng làm vui lòng mẹ.
2/ Bài đọc II: Những đức tính và cách xử thế cần có để giữ gia đình hạnh phúc.
2.1/ Những đức tính cần học:
(1) Đức bác ái yêu thương: "Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo... Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh, và yêu thương." Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch yêu thương; gia đình nào năng tham dự Thánh-lễ và lãnh nhận Mình Thánh, sẽ có tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu này mới mạnh đủ để xóa tan những bất hòa và khác biệt trong gia đình, và liên kết mọi người trong gia đình với nhau.
(2) Kiên nhẫn chịu đựng và tha thứ cho nhau: "Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau." Mọi người trong gia đình cùng nhau năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải là cách thức để học và thực hành 2 nhân đức quan trọng này.
(3) Tâm tình biết ơn: "Ước gì sự bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng sự bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân." Trước tiên là biết ơn Thiên Chúa đã lo lắng mọi sự cho con người. Thứ đến là biết ơn cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục, và cầu nguyện cho mình. Sau cùng là biết ơn tất cả những ai đã góp phần làm cuộc đời mình được thăng hoa và ý nghĩa.
2.2/ Tầm quan trọng của Thiên Chúa trong đời sống gia đình:
(1) Lời Chúa: "Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan." Để làm được điều này trong gia đình, cha mẹ cần học hỏi để hiểu biết Lời Chúa và gây phong trào học và áp dụng Thánh Kinh trong gia đình; vì cha mẹ không thể cho con cái mình không có.
(2) Thánh Ca: "Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi, và thánh ca, do Thánh Thần linh hứng." Điều này cũng nhắc nhở chúng ta tránh nghe và hát những bài hát vô nghĩa và lãng mạn, những chương trình hài hước và kịch nghệ vô bổ, có chủ tâm khinh thường Thiên Chúa và các giá trị đạo đức.
(3) Cầu nguyện: "Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha." Mẹ Têrêxa cũng quả quyết điều này: "Gia đình nào dành thời giờ cùng nhau cầu nguyện sẽ ở với nhau lâu dài."
2.3/ Cách cư xử trong gia đình: Tất cả các mối liên hệ đều đòi hỏi hai chiều thì mới có kết quả tốt đẹp được. Thánh Phaolô liệt kê 2 mối liên hệ chính và cách cư xử cần có:
(1) Liên hệ vợ chồng: "Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ."
(2) Liên hệ cha con: "Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng."
3/ Phúc Âm: Những tâm tình biết ơn
Năm A:
3.1/ Sự vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa của Giuse: "Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Herode sắp tìm giết Hài Nhi đấy!" Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Herode băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập."
Chúng ta học được rất nhiều nơi cách hành xử của Giuse: Ông không hiểu nổi kế hoạch của Thiên Chúa: Hài Nhi vừa mới được các nhà đạo sĩ tôn thờ và dâng lễ vật như một vì vua; giờ lại phải lẩn trốn như một tội nhân! Ông không than trách Thiên Chúa tạo hoàn cảnh khó khăn hay xin Thiên Chúa sai sứ thần bảo vệ gia đình. Ông không suy nghĩ đi Ai-cập rồi phải làm gì để sinh sống, nhưng ông hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông không trì hoãn để sáng mai; nhưng trỗi dậy trong đêm rét mướt và đưa gia đình đi ngay.
3.2/ Giuse bảo vệ Hài Nhi khỏi mọi nguy hiểm: Định cư bên Ai-cập chưa được bao lâu, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi." Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel. Khi nghe biết Archelaus đã kế vị vua cha là Herode, cai trị miền Judah, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilee,
và đến ở tại một thành kia gọi là Nazareth, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nazareth."
Di chuyển chỗ ở không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan tới nghề nghiệp, nhà cửa, đồ đạc, trường học của con cái... nhưng Giuse vững tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa cho gia đình, ông vâng lời sứ thần bỏ đất Ai-cập trở về quê hương, ông can đảm tránh nơi nguy hiểm cho dù là quê cha đất tổ, gần Đền Thờ, để đi đến Nazareth, một nơi xa lạ, để tránh nguy hiểm cho con.
Những người cha hôm nay phải học nơi gương Giuse: Họ cần can đảm tránh những nơi gây nguy hiểm cho con cái và chọn những môi trường lành mạnh để con cái có thể lớn lên tốt đẹp. Họ không thể hy sinh tương lai của con cái bằng lý do việc làm hay nhà cửa.
Năm B:
3.1/ Gia Đình Thánh cảm tạ Thiên Chúa: Thánh Giuse và Mẹ Maria cám ơn Thiên Chúa về món quà gia đình, cho hai người thành vợ chồng; và món quà sự sống, Chúa Giêsu. Họ cùng nhau lên Đền Thờ để dâng Con cho Thiên Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa." Tuy nghèo, nhưng họ cũng cố gắng chuẩn bị một đôi chim gáy và một cặp bồ câu non để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền. Sau khi hòan tất, họ trở về Nazareth, còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
3.2/ Ông Simeon cảm tạ Thiên Chúa: Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh hứng cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simeon nói về Người. Ông Simeon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và vì thế, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
3.3/ Nữ Ngôn-sứ Anna cảm tạ Thiên Chúa: Bà là con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jerusalem.
Năm C:
3.1/ Phải vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng ta cần học nơi gia đình thánh hôm nay:
(1) Mọi người trong gia đình phải tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Thánh Luca mô tả gia đình thánh tuân giữ Luật Thiên Chúa: "Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Jerusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ." Nếu muốn con cái giữ Luật Thiên Chúa, cha mẹ phải tuân giữ trước và tạo mọi cơ hội cho con giữ Luật. Cha mẹ không thể bắt con đi lễ, nếu cha mẹ không đi và không tạo cơ hội cho con.
(2) Phải kiên nhẫn và tôn trọng nhau cho dù phải đương đầu với thử thách của cuộc sống; nếu không, sự hiệp nhất trong gia đình sẽ có nguy cơ bị tan vỡ. Trong trình thuật hôm nay, mặc dù hai ông bà đau buồn và có thể tức giận vì phải vất vả lo lắng tìm con suốt ba ngày; nhưng thái độ kiên nhẫn của Mẹ Maria phải trở thành gương mẫu cho các cha mẹ học hỏi: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
(3) Cha mẹ phải tôn trọng con cái khi chúng muốn làm theo thánh ý Thiên Chúa: Chúa Giêsu đáp lời Mẹ Maria: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" Bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận hàng đầu phải chu toàn. Các cha mẹ đừng bắt buộc con cái phải chu toàn bổn phận với cha mẹ trước khi chu toàn bổn phận với Thiên Chúa; nhưng phải vui mừng khi thấy con cái làm điều đó. Cha mẹ không bao giờ được ngăn cản con cái khi chúng muốn tận hiến cuộc đời để làm việc cho Thiên Chúa.
(4) Khi chưa hiểu thánh ý Thiên Chúa, hãy giữ thái độ thinh lặng, cầu nguyện, và suy niệm trong lòng để tìm ra thánh ý. Trình thuật hôm nay kể "nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói;" tuy vậy họ không lớn tiếng tranh cãi hay đổ lỗi cho nhau.
3.2/ Chúa Giêsu vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria: Trình thuật Luca tiếp tục: "Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta."
(1) Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa, hạ mình và khiêm nhường vâng phục loài người: Thiên Chúa tôn trọng sự thật, cho dẫu sự thật đòi Ngài phải vâng phục con người. Để có bình an thực sự trong gia đình, mọi phần tử trong gia đình đều phải tôn trọng và sống theo sự thật; nếu không, sự bình an có được chỉ là giả tạo và sớm muộn gì cũng tan vỡ. Ví dụ, con cái có thể vâng lời cha mẹ làm điều sai trái vì sợ hãi; nhưng khi có dịp, chúng sẽ không ngần ngại phản ứng và thoát ly gia đình.
(2) Vâng phục Thiên Chúa và cha mẹ làm con người lớn lên trong khôn ngoan và gặt hái được mọi điều tốt đẹp cho cuộc đời: Nhiều người cho vâng phục là nhu nhược hay hèn kém; nhưng kinh nghiệm khôn ngoan cho thấy khi tuân phục luật của Thiên Chúa và những lời dạy dỗ khôn ngoan của cha mẹ, con cái tránh được tội lỗi và những cám dỗ nguy hiểm trong cuộc đời; nhất là được đẹp lòng Thiên Chúa, sống thuận hòa với tha nhân, và gặt hái nhiều thành công.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải diệt trừ tính ích kỷ trong con người, vì đó là mầm mống của mọi khủng hỏang trong gia đình. Đồng thời, chúng ta cần biết rộng lượng để yêu thương và lo lắng cho người khác như Thiên Chúa và người khác đã yêu thương và lo lắng cho chúng ta.
- Chúng ta cần biết xét mình và xưng tội thường xuyên để nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của con người chúng ta. Nếu chúng ta có can đảm xin Thiên Chúa tha thứ tôi lỗi và kiên nhẫn với chúng ta, chúng ta cũng phải sẵn sàng kiên nhẫn và tha thứ những yếu đuối và tội lỗi của tha nhân; vì họ cũng là những con người yếu đuối và tội lỗi như chúng ta. Người không năng xét mình và xưng tội sẽ dễ rơi vào thái độ tự nhận mình tốt lành để dễ phê phán, kết tội, và khai trừ tha nhân.
- Chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận: chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Nếu chúng ta muốn làm môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải "từ bỏ ý riêng mình, làm theo ý Thiên Chúa, và vác Thập Giá hằng ngày để theo Ngài."
- Chúng ta có tự do để làm theo ý chúng ta; nhưng đồng thời chúng ta cũng phải lãnh nhận mọi hậu quả do sự cố chấp, thờ ơ, và khinh thường những lời giảng dạy của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 26 tháng 12, Lễ Thánh Stephanô TĐ
Bài đọc: Acts 6:8-10, 7:54-59; Mt 10:17-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Stephanô là người đầu tiên đổ máu làm chứng cho Đức Kitô.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Giáo Hội cử hành Lễ Thánh Stephanô, tử đạo, ngay sau Lễ Giáng Sinh? Câu trả lời có lẽ liên kết mục đích của việc Nhập Thể với bổn phận của Kitô hữu: "Niềm vui Giáng Sinh là con người được nhìn thấy Ơn Cứu Độ; nhưng để đạt được Ơn Cứu Độ, con người phải chứng minh niềm tin của mình nơi Người Con." Sau những vui mừng nhộn nhịp của Ngày Giáng Sinh, con người dễ có khuynh hướng trở lại cuộc sống bình thường, Giáo Hội muốn nhắc nhở cho các tín hữu bổn phận làm chứng cho Đức Kitô trong cuộc sống hằng ngày.
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh việc làm chứng cho Đức Kitô. Trong Bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc tử đạo của Stephanô, chứng nhân đầu tiên cho Đức Kitô. Trong Vuơng Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh tại Đất Thánh, trong Học-viện Thánh Kinh École Biblique, có vẽ 3 tấm hình: một của Gioan Tẩy Giả đang chỉ tay vào Chúa Giêsu, Người đứng giữa và nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian." Một của Phó-tế Stephanô cũng chỉ tay vào Chúa Giêsu và nói: "Đây là Đấng mà tôi đã đổ máu làm chứng cho Ngài." Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ giá phải trả của sứ vụ làm chứng cho Ngài: "Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con."
1.1/ Tiểu sử của Stephanô: Phó-tế Stephanô là một trong 7 Phó-tế đầu tiên được chọn để giúp các Tông-đồ. Lý do có Phó-tế là để các Tông-đồ chuyên lo việc cầu nguyện và giảng dạy (Acts 6:1-6). Điều kiện để làm Phó-tế là phải có thanh danh tốt, đầy tràn Thánh Thần và khôn ngoan. Chúng ta không biết nhiều về lịch sử của ông. Tên của ông Stephanô, tiếng Hy-Lạp có nghĩa là "triều thiên." Trên tấm bia tìm được nơi mộ ông, có khắc chữ Kelil, một từ Aramaic cho Stephanos của Hy-Lạp. Có lẽ đây là tên nguyên thủy của ngài.
Không ai biết rõ địa điểm nơi ngài bị ném đá. Có người cho là tại Cổng Stephanô của Thành Jerusalem ngày nay; điều này không chắc chắn vì không thấy tài liệu lịch sử nào ghi lại. Hơn nữa, các Cổng Thành hiện nay cũng mới được xây lại từ thế kỷ 16. Nguồn sử liệu chắc chắn hơn và dựa trên khám phá khảo cổ mới tại Đất Thánh, xương cốt của ngài được để tại Vương Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh trong khuôn viên của Học-viện Kinh Thánh. Vương Cung Thánh Đường mới được xây dựng lại trên nền nhà của Vương Cung Thánh-đường Byzantine cũ, xây dựng vào năm 431 bởi Juvenal, Giám-mục của Jerusalem, với sự trợ giúp của Bà Hòang Eudocia. Thánh Cyril, Giám-quản của Alexandria, khánh thành Thánh Đường vào ngày 15 tháng 5 năm 439. Trong khi khánh thành, Thánh Cyril đã cho di chuyển xương cốt của Stephanô, Thánh Tử Đạo Tiên Khởi, từ một nhà thờ trên Núi Sion đã giữ xương cốt này trong 24 năm vào Thánh Đường này. Bà Hòang Eudocia cũng được chôn cất tại đây.
Sách Công Vụ Tông Đồ mô tả vắn tắt cuộc đời của Stephanô: Ông Stephanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Địch thù tranh luận với ông là những người thuộc hội đường gọi là hội đường của "nhóm nô lệ được giải phóng," gốc Cyrene và Alexandria, cùng với một số người gốc Cilicia và Asia. Hậu quả của cuộc tranh cãi: "Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thánh Thần đã ban cho ông. Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stephanô." Vì họ không thể cãi lại ông, nên họ dùng những con người gian dối để tố cáo ông tội phạm thượng tới Thiên Chúa và Moses, để có cớ ném đá ông (Acts 6:14).
1.2/ Biến cố tử đạo của Stephanô: Trình thuật kể: "Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa." Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saul. Họ ném đá ông Stephanô, đang lúc ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con.""
2/ Phúc Âm: Ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được cứu thóat.
2.1/ Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em: Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ biết những gì sẽ xảy ra cho các ông: "Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết." Con người dễ bị thuyết phục khi nhìn thấy những tấm gương anh hùng của những người coi thường cái chết. Có lẽ vì lý do này mà người ta nói: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sẽ trổ sinh niềm tin Công-giáo, và là men làm thăng tiến Nước Chúa Kitô." Thực tế đã chứng minh: nơi nào bách hại càng nhiều, nơi đó càng có nhiều người tin theo Đức Kitô.
2.2/ Lời hứa ban Thánh Thần: "Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em." Có rất nhiều vị tử đạo thân thể yếu ớt, nói năng nhút nhát; nhưng khi phải ra để bị tra khảo trước vua quan, đã anh hùng khí khái nói lên những lời khôn ngoan lưu truyền cho hậu thế.
Chúa Giêsu cũng báo trước cho các môn đệ biết: Kẻ thù không phải chỉ có những người ngòai, nhưng có thể cả những người trong gia đình: "Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét."
Kẻ thù có thể giết được thân xác, nhưng không động đến được linh hồn các môn đệ của Đức Kitô. Ngài động viên tinh thần các môn đệ: "Can đảm lên, Đừng sợ! vì Thầy đã chiến thắng thế gian." Và Ngài hứa ban phần thưởng cứu độ cho những ai trung thành: "Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Ơn Cứu Độ thuộc về con người khi Đức Kitô nhập thể và hiến thân làm của lễ hy sinh trên Thập Giá. Tuy nhiên, để được hưởng Ơn Cứu Độ này, chúng ta phải chứng minh niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô trong khi còn ở thế gian này.
- Nhiệm vụ của chúng ta là rao giảng và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, để mọi người nhận ra chứng tá của chúng ta và tin vào Ngài. Trong khi làm chứng cho sự thật, chúng ta sẽ gặp những gian nan, thử thách, và chống đối; nhưng Đức Kitô đã hứa sẽ ở cùng, và ban Thánh Thần giúp chúng ta vượt qua tất cả.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 25 tháng 12, Lễ Giáng Sinh
Bài đọc: Isa 52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa họat động trong lịch sử con người.
Nhiều người trong chúng ta dễ dàng bị thuyết phục bởi câu nói xem ra rất chí lý, "đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy con người làm điều lành tránh điều ác!" Từ đó, nhiều người đưa đến kết luận, ai theo đạo nào cũng được. Nếu chúng ta chỉ dựa vào đạo lý để tin vào các thần, sẽ có rất nhiều thần trong thế giới này; nhưng những thần này có làm lợi gì cho chúng ta đâu? Có những vị thần do trí tưởng tượng của con người tạo nên, có những vị thần do con người tự nhận, có những vị thần do con người phong chức cho; đâu là Vị Thần đích thực và là Người điều khiển thế giới này? Một trong những tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra là dựa vào giòng lịch sử của con người để tìm hiểu, kiểm chứng, và xác nhận ảnh hưởng và sự can thiệp của Vị Thần này vào đời sống nhân lọai.
Trong suốt Mùa Vọng qua, và trong các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Vị Thần đích thực này chính là Thiên Chúa. Ngài không phải là một vị thần sống xa cách và không quan tâm gì đến cuộc sống của dân chúng; trái lại cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều sống mật thiết và quan tâm đến mọi khía cạnh của con người suốt giòng lịch sử: từ khi tạo dựng cho đến Ngày Cánh Chung. Trong Bài đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa vào cuộc sống của dân trước, đang, và sau thời gian Lưu Đày. Trong Bài đọc II, Tác giả của Thư Do-Thái cho thấy 2 cách can thiệp khác nhau của Thiên Chúa: thuở xưa Ngài phán dạy qua các Tiên-tri; thời nay Ngài dạy dỗ con người qua chính Người Con Nhập Thể. Điều này cũng đã được Tiên-tri Isaiah và Jeremiah loan báo trước: "Mọi người sẽ được dạy dỗ bởi chính Thiên Chúa" (Isa 54:13, Jer 31:33, Jn 6:45). Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nhìn thấy vai trò của Ngôi Hai ngay từ ban đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người; và vai trò của Người trong Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Chính Người Con này đã nhập thể để ở với con người, để yêu thương dạy dỗ, và để hiến mình thành của lễ hy sinh đền tội cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: "Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion." Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1) Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được Tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.
(2) Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người: tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3) Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng Dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: "Hỡi Jerusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Jerusalem. Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: người bốn bể rồi ra nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta." Sự kiện Chúa giải phóng dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức cố gắng của dân Do-Thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, Vua Ba-Tư vào Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-Thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc Rôma.
2/ Bài đọc II: Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
2.1/ Thánh Tử cao trọng hơn các tiên-tri: Trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, những gì Thiên Chúa muốn được mặc khải qua hai giai đọan:
(1) "Thời xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ." Các tiên-tri, vì khả năng giới hạn, không thể lĩnh hội một lần; nên Thiên Chúa phải mặc khải nhiều lần và qua nhiều người. Mỗi thời đại có những vấn đề khác nhau, nên mặc khải của các tiên tri cũng khác nhau, chẳng hạn: Tiên-tri Amos chú trọng đến công bằng xã hội; Tiên-tri Isaiah chú trọng đến việc sửa dạy để thanh luyện dân chúng; Tiên-tri Hosea chú trọng đến sự trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của dân. Các tiên-tri chỉ biết một khía cạnh về Thiên Chúa, không một tiên tri nào biết tất cả các khía cạnh của Thiên Chúa. Các tiên tri cũng dùng các cách khác nhau để mặc khải: tuyên sấm (Amos, Isaiah), hành động như đóng kịch (Jeremiah).
(2) Thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta trực tiếp qua Thánh Tử: Mặc khải do Thánh-Tử hòan hảo hơn tất cả mặc khải của các tiên-tri, vì Thánh-Tử biết rõ tất cả những gì xảy ra nơi Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu. Các tiên-tri là những bạn hữu của Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu là Người Con của Thiên Chúa. Ngài không chỉ biết một phần sự thật như các tiên tri; nhưng nơi Ngài ẩn chứa tất cả sự thật. Qua Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái không chủ ý khinh thường các tiên tri; nhưng muốn làm nổi bật vai trò của Thánh Tử.
Người Do Thái quan niệm họ đang sống giữa hai thời đại: thời hiện tại và thời cánh chung; thời hiện tại hòan tòan xấu và thời tương lai là thời huy hòang của Đức Chúa. Giữa hai thời đại là Ngày của Đức Chúa đến và Đức Kitô là Người bắt đầu triều đại của Thiên Chúa.
2.2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần.
1/ Sự cao trọng của Thánh Tử: C.J. Vaughan chỉ ra 6 điều quan trọng liên quan đến Đức Kitô:
(1) Vinh quang nguyên thủy của Thiên Chúa thuộc về Đức Kitô: "Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa." Vinh quang của Thiên Chúa gồm chứa không trong sự đánh phạt con người hay giảm họ xuống hàng tôi tớ, nhưng trong phục vụ, yêu mến, và chết cho con người.
(2) Vương quốc thuộc về Đức Kitô: "Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài." Các tác giả Tin Mừng không bao giờ nghi ngờ sự chiến thắng thuộc về Đức Kitô; đơn giản vì Ngài là Con Thiên Chúa. Khi mọi việc hòan tất, Ngài sẽ trao vương quốc lại cho Thiên Chúa.
(3) Công cuộc tạo dựng cũng thuộc về Đức Kitô: "Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ." Thiên Chúa tạo dựng bằng Lời "Hãy có!" tức thì mọi vật liền có.
(4) Công việc quan phòng vũ trụ cũng thuộc về Đức Kitô: "Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật." Thiên Chúa không những dựng nên vũ trụ, nhưng còn quan phòng điều khiển nó theo một trật tự hòa điệu. Ngài điều khiển nó theo sự khôn ngoan, mà Ngôi Lời là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(5) Công cuộc cứu chuộc là do Đức Kitô: Bằng cái chết, Ngài gánh tội cho con người; bằng sự hiện diện liên tục với con người, Ngài giải phóng con người khỏi tội.
(6) Cuộc vinh thắng khải hòan cũng thuộc về Đức Kitô: "Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời." Theo tác giả Sách Do-Thái, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa để làm Trạng-sư bênh vực cho con người.
2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần: Truyền thống Do-Thái tin thiên thần là các sứ giả (aggeloi, Hy-Lạp, và mal'akim, Do-Thái) của Thiên Chúa: các thiên-thần có nhiệm vụ trao mệnh lệnh của Thiên Chúa cho con người và tường thuật những gì con người làm hay cầu xin lên Thiên Chúa. Quan hệ trực tiếp giữa Thiên Chúa và con người không thể xảy ra; nếu con người nhìn thấy Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ phải chết (Acts 7:53, Gal 3:19). Vì thế, dễ dàng cho người Do-Thái chấp nhận các thiên thần hơn là chính Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái muốn nhấn mạnh Đức Kitô không phải là một trong số các thiên thần; nhưng cao trọng hơn các thiên thần bội phần. "Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu. Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con; hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người."
3/ Phúc Âm: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta."
3.1/ Sự hiện hữu và vai trò của Ngôi Lời:
(1) Ngôi Lời hiện hữu từ khởi thủy: "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa." Từ ngữ "Ngôi Lời" có lịch sử trong cả Do-Thái và Hy-Lạp. Cả hai lịch sử đều cho "Lời" là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là trí tuệ của Ngài. Thánh sử Gioan dùng từ Hy-Lạp để nói về Đấng Thiên Sai của Do-Thái, cho người Hy-Lạp hiểu. Nếu Ngôi Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngôi Lời luôn hiện hữu với Thiên Chúa từ khởi thủy.
(2) Vai trò của Ngôi Lời trong việc tạo dựng vũ trụ: "Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại." Nếu Ngôi Lời là trí tuệ của Thiên Chúa, cái gì có trong trí tuệ thì sẽ có; cái gì không có trong trí tuệ thì sẽ không có. Sự sống và Ánh sáng là hai chủ đề chính trong Tin Mừng Gioan, và có liên quan mật thiết với nhau. Sự sống không chỉ thuần túy thể lý, nhưng mở rộng tới sự sống đời đời. Chỉ có Ngôi Lời có khả năng đem sự sống đời đời này cho con người.
(3) Ngôi Lời là ánh sáng: "Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng." Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Ta là ánh sáng thế gian; ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống" (Jn 8:12). Bóng tối đối ngược với ánh sáng, và con người cần ánh sáng xua tan bóng tối để con người có thể nhìn thấy; nhưng cũng có những con người muốn ở trong bóng tối nên muốn diệt trừ ánh sáng, vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những tội lỗi của họ cho người khác nhìn thấy.
3.2/ Phản ứng của con người: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người." Ánh sáng của Ngôi Lời chính là sự thật Ngài mang từ Thiên Chúa đến cho con người. Đứng trước sự thật, Thánh-sử Gioan tường thuật 2 phản ứng chính:
(1) Không nhận biết và không tiếp nhận Người: "Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận." Con người ít nhất hai lần từ chối Ngôi Lời: Lần thứ nhất, Thánh Phaolô đồng ý với Gioan khi tố cáo: "Con người phải nhận biết Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa tạo dựng, nhưng họ đã không nhận ra Thiên Chúa" (Rom 1:19-20). Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời, con người chẳng nhận ra Ngôi Lời cũng chẳng nhận biết Thiên Chúa. Lần thứ hai là qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, rất nhiều người đã nhìn thấy Ngôi Lời, nhưng vẫn từ chối tiếp nhận Ngài.
(2) Phần thưởng dành cho những ai tiếp nhận Người: "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa." Phần thưởng trọng đại dành cho những ai tin vào Ngôi Lời là họ trở thành con Thiên Chúa; và được hưởng tất cả mọi ơn lành dành cho người con.
3.3/ Những hồng ân Ngôi Lời ban cho con người: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật... Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có."
(1) Ân sủng:"Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác." Đức Kitô, tuy trong thân xác con người, nhưng chứa đựng tất cả khôn ngoan, uy quyền, tình thương, và sự bình an của Thiên Chúa (như các tên gọi của Ngài trong Thánh Lễ Nửa Đêm). Bất cứ ai có được Ngài, là hưởng được tất cả những gì Ngài có. Ngài là sự tòan hảo của Thiên Chúa, và Ngài ban cho con người đời sống thần linh của Ngài.
(2) Sự thật: "Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Người Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết." Ngôi Lời mặc khải cho con người biết sự thật về Thiên Chúa và tất cả các ý định của Ngài. Khi Philip xin Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa, Đức Kitô bảo ông: "Ai đã xem thấy Thầy là đã thấy Cha" (Jn 14:9).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lịch sử rất quan trọng trong việc hiểu biết và củng cố niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Người không biết lịch sử sẽ dễ dàng chạy theo những niềm tin mơ hồ. Nguy hiểm của những niềm tin này là con người không đạt được mục đích của đời mình.
- Lịch sử của Do-Thái quan trọng cho niềm tin của các Kitô hữu, vì Thiên Chúa đã chọn họ làm Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta cần học hỏi lịch sử của họ qua các Sách Cựu Ước để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người.
- Theo Lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã dùng những cách thức khác nhau để dạy dỗ con người: thời Cựu Ước, Ngài dùng các tiên-tri để nói thay và dạy dỗ con người; thời Tân-Ước, Thiên Chúa cho Người Con nhập thể để dạy dỗ và mặc khải rõ ràng Kế Họach Cứu Độ cho con người.
- Mọi người chúng ta đều cần được dạy dỗ bởi chính Người Con này. Chúng ta phải có Đức Kitô trong cuộc đời để Ngài soi sáng, dạy dỗ, ban ơn, và chỉ đường cho chúng ta về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 24/12 Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa
- 23/12 Gioan là sứ giả dọn đường cho Thiên Chúa
- 22/12 Nhận biết và cám ơn quà tặng của Thiên Chúa
- 21/12 Thiên Chúa viếng thăm Dân Ngài
- 20/12 Thiên Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, bé nhỏ, nghèo hèn
- 19/12 Hy vọng trong thất vọng
- 18/12 Công chính và tội lỗi
- 17/12 Đấng Cứu Thế được sinh ra trong lịch sử
- 16/12 Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi
- 15/12 Phải sống theo sự thật