Sức Khoẻ Là Vàng
Để giải thích diễn tiến lão hóa, nhiều khoa học gia đã đưa ra một số thuyết khác nhau. Và, lý thuyết cũng vẫn chỉ là những giả dụ chứ chưa được sự đồng thuận của các khoa học gia. Tại Hoa Kỳ, Viện Sức Khỏe và Viện Lão Khoa (National Institutes of Health – National Institue of Aging) phân chia những lý thuyết này thành hai nhóm :
- Nhóm Lý thuyết Căn Cứ Trên Sự Sắp Đặt Theo Thảo Trình.
a. Hóa già theo thảo trình.
Ngay từ khi thụ thai, gene di truyền đã sắp đặt một hành trình bất biến mà con người sẽ đi qua tám giai đoạn của cuộc đời: thụ thai, phát triển thai nhi, sanh đẻ, tăng trưởng, tuổi dậy thì, tuổi trưởng thành, tuổi già rồi chết.
Ta thấy tuổi dậy thì xuất hiện vào 14-15 tuổi, tắt kinh khi nữ giới được 45 hay 50 tuổi, tóc bạc vào tuổi 55 trở lên, vậy thì sự hóa già cũng được một cái đồng hồ gene sắp đặt sẵn để đến tuổi nào đó, cơ thể suy yếu, già đi rồi mai một.
b.Kích thích tố thuyết.
Trong cơ thể, kích thích tố giữ vai trò quan trọng điều hành nhiều chức năng của các cơ quan, bộ phận: như biến hóa căn bản, tăng trưởng lớn mạnh của cơ thể…vậy thì rất có thể kích thích tố cũng điều khiển, kiểm soát tiến trình sự hóa già. Chẳng hạn kích thích tố tăng trưởng giảm dần với tuổi cao và khi về già kích thích tố này không còn nữa.
c. Miễn dịch thuyết.
Cơ thể khi sanh ra đã được trang bị một hệ thống phòng thủ chống sự xâm nhập của các vật lạ, gọi là sự miễn dịch.
Cũng như bất cứ lực lượng phòng vệ nào, miễn dịch bảo vệ cơ thể bằng nhiều cách. Có thể là các bạch cầu trực tiếp tấn công, vô hiệu hóa vi trùng, nấm bệnh. Có thể là những bạch cầu đặc biệt tạo ra chất kháng thể, lưu thông trong máu và vô hiệu hóa những ngoại xâm.
Lý thuyết hóa già do miễn dịch suy yếu dựa vào hai nhận xét. Thứ nhất là với tuổi già, cơ thể sản xuất ít kháng thể đồng thời phẩm chất cũng kém. Thứ hai là với tuổi già, cơ thể đôi khi tạo ra kháng thể chống lại chính các phân tử protein bình thường, gây ra bệnh tật, suy yếu như trường hợp viêm khớp ở nhiều người già.
Như vậy, do sắp đặt trước, khả năng miễn dịch suy giảm với thời gian, cơ thể dễ bị bệnh, sẽ suy yếu, già rồi chết. Thí dụ như khi bị cúm, người trẻ dễ chống lại nó và mau bình phục hơn một người cao tuổi.
2- Thuyết Về Sự Lầm Lẫn.
a. Sự hư hao, tả tơi.
Cơ thể, thịt xương, chức năng…hao mòn theo thời gian vì những va chạm, xâm lấn…mà nếu không được chữa trị, tu bổ thì chúng sẽ bị tiêu hủy và loại bỏ, mệnh một.
Thuyết này được nhà bác học người Đức August Weismann đưa ra năm 1882. Theo ông ra, sự chết xảy ra là vì một mô hư hao không bao giờ tự nó tân trang được.
Sự hư hao tả tơi còn làm sói mòn các diễn tiến sinh hóa bình thường trong tế bào, mô, cơ quan. Theo Dan Georgakas, cơ thể già vì thường xuyên bị tác hại bởi nhiều áp lực từ bên ngoài như xúc động cảm giác, va chạm thực chất, nhiễm độc môi trường.
b. Phản ứng tròng chéo.
Chất tròng chéo thường là một hóa chất cột hai phân tử riêng rẽ với nhau. Sự trồng chéo (cross linkage) chất đạm làm tổn thương mô và tế bào, ngăn cản sự thu nhập dưỡng chất, bài tiết chất phế thải, đưa đến sự suy yếu của cơ thể. Sự tròng chéo thường thấy ở các phân tử protein trong chất tạo keo (collagen), làm da khô, nhăn, không đàn hồi, hay ở khớp xương kém co ruỗi, khi tuổi cao. Thuyết này cũng liên hệ tới sự sử dụng chất đường. Khi đường vào cơ thể, nó sẽ bám vào chất đạm, làm đạm chất chuyển sang màu vàng, trở nên bất khiển dụng, gây nguy hại và làm già cơ thể.
c.Thuyết về sự tích lũy những sai lầm.
Để tăng trưởng, cơ thể liên tục biến chế các phân tử protein và DNA, nhưng những phân tử này không phải lúc nào cũng được sản xuất hoàn hảo. Có nhiều tổn thương trong sự tổng hợp chất đạm tạo ra chất chất đạm dị hình mà khi tích tụ nhiều sẽ gây hư hao cho tế bào, mô và các bộ phận. Theo thuyết này, khi ta về già thì cơ thể dễ phạm những lầm lỗi kể trên, đưa đến sự già.
đ.Tích trữ những đột biến.
Thuyết này liên quan tới các tế bào thân (somatic cells) là những tế bào luôn luôn sinh sản và hủy diệt. Gene trong tế bào bị ảnh hưởng của tác nhân nguy hại, như tia phóng xạ, hóa chất độc, thay đổi cấu tạo, làm tế bào hư hao, chức năng lêch lạc, khiến cơ thể không còn hoạt động. Sự đột biến này còn truyền sang thế hệ kế tiếp của tế bào khi tế bào này sinh sản.
e. Thuyết gốc tự do.
Sự tích lũy các tổn thất của tế bào do gốc oxy gây ra làm tế bào cũng như cơ quan một ngày nào đó sẽ ngưng hoạt động. Đó là thuyết gốc tự do.
Gốc tự do (free radical) là một phân tử hóa học có một cấu trúc khác với những phân tử thông thường vì nó có một nguồn điện không thăng bằng, một điện tử tự do (free electron). Phản ứng của gốc tự do rất cần thiết cho sự sống vì nó tạo ra năng lực, sự miễn nhiễm, sự phát tín hiệu của hệ thần kinh, sự tổng hợp kích thích tố (hormone), sự co giãn của các thớ thịt nhưng nếu số lượng của gốc tự do quá cao thì lại nguy hại cho sự sinh tồn.
Khi một gốc tự do dính vào một phân tử lành mạnh thì nó biến phân tử này thành một phân tử bất khả dụng, vì gốc này đánh phá cấu trúc của các phân tử, tạo ra những chất phế thải gọi là lipofuscin. Chất lipofuscin chặn đứng khả năng tự sửa chữa và sinh sản của tế bào. Với thời gian, tác hại của gốc tự do dẫn đến sự lão suy của tế bào và tạo ra những tế bào biến thể, nguồn gốc của các bệnh ung thư.
Gốc tự do cũng phá hoại mô collagen và elastin khiến cho da bị mất tính chất co giãn và căng cường, một ví dụ là da mặt bị nhăn nheo ở những người già. Khi hợp với các phân tử protein thì gốc tự do tạo ra phản ứng tròng chéo giữa các phân tử (cross linkage), một hiện tượng của lão suy. Nguyên do của lão suy này là các phân tử riêng rẽ của một phân tử bị một chất hóa học hàn lại với nhau và bị mất khả năng hấp thụ nước, dưỡng khí, hay là các chất bổ dưỡng từ các mạch máu.
Gốc tự do tạo ra nguy cơ ung thư, tình trạng suy nhược của người già, bệnh xơ cứng động mạch và bệnh huyết áp cao.
Nguồn sản xuất gốc tự do gồm có: phó sản của sự căng thẳng tâm thần (stress by- product), bệnh tật, mệt mỏi, môi sinh xấu như không khí ô nhiễm khói thuốc hút, ozone, nitro-oxy và phóng xạ (bao gồm ánh sáng mặt trời, chất phế thải nguyên tử, phóng xạ thất thoát từ lò viba); ngoài ra còn có các chất mỡ oxy-hóa, nước có khử trùng bằng chất chlorine, các chất hóa học trộn vào thực phẩm như sodium nitrite, sulfurdioxide v.v…
Trên đây là tóm lược các lý thuyết cố giải thích sự hóa già. Lý thuyết nào nghe cũng thuận tai nhưng chưa được chứng minh, không có đủ dữ kiện khoa học hỗ trợ và vẫn chỉ còn là lý thuyết.
Kết luận
Tóm lại, khi các tế bào bị hư hại nhanh hơn khả năng tự sửa chữa thì tiến trình lão hóa bắt đầu. Bình thường thì hệ thống miễn nhiễm trong thân thể làm nhiệm vụ phòng ngự và sửa chữa. Hệ thống đó tiêu diệt các tế bào biến thể hoặc bị hư hại do các nguồn tác hại như gene xấu, sự biến thể tự phát, chất độc trong môi trường, vi trùng, vi khuẩn, gốc tự do, phản ứng tròng chéo (cross linkage), sự tích lũy các phế liệu.
Ngoài ra chất thiên nhiên chống oxy-hóa (antioxidants) tìm thấy trong sinh tố C và E, selenium và apteine có thể ngăn chặn sự cấu tạo của gốc tự do và các phản ứng tròng chéo. Tuy nhiên, nếu hệ thống phòng vệ và sửa chữa cơ thể không đủ sức để đối phó với sự thương tổn các tế bào thì khó mà ngăn chặn được lão hóa.
Như đã nói trên đây, rất khó mà định nghĩa tuổi già. Nếu căn cứ theo tuổi niên đại, tức là số năm con người sống kể từ khi sinh ra đời, thì tuổi già bắt đầu từ tuổi nào? Năm mươi? Sáu mươi? Bảy mươi hay Tám mươi?
Những con số này đều vô nghĩa nếu không có một hệ thống đo tuổi già khác đi kèm theo, đó là tuổi sinh lý.Ví dụ nếu một người 50 tuổi mà tóc đã bạc hết và các công năng cơ thể đã giảm sút thì người đó xem như đã già. Trái lại một người 60 tuổi mà thân thể còn cường tráng, các công năng cơ thể còn hoạt động đều đặn thì người đó chưa có thể xem là đã già.
Còn nhớ khi Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan bị ám sát, các bác sĩ mổ lấy viên đạn ra đều nhận xét là ngũ tạng của ông ta tốt như ngũ tạng người trung niên, vì ông ta có đời sống lành mạnh, tích cực, nom ông ta trẻ hơn tuổi thực.
Vì tuổi niên đại có thể ghi chép, thống kê nên các xã hội đều dùng số tuổi niên đại vào các mục đích hành chánh, pháp lý. Ở các nước Âu Mỹ nơi có chương trình an sinh xã hội, người ta lấy tuổi 65 làm mốc cho tuổi già để áp dụng các chương trình hưu bổng, trợ cấp, y tế miễn phí v.v…Hãy tạm gọi tuổi này là tuổi pháp lý.
Người ta suy luận rằng ở tuổi 65 con người không còn khả năng hoạt động hữu hiệu nữa, cho họ về hưu là vừa. Ở Mỹ, nếu có đóng góp vào Quỹ An Sinh Xã Hội thì khi đến tuổi 65, được quyền hưởng hưu bổng an sinh xã hội và y tế miến phí.
Nhưng tuổi 65 cũng chỉ có giá trị tương đối để định tuổi già. Với các tiến bộ khoa học, người dân nước Mỹ nay có tuổi thọ cao hơn nhiều so với tuổi thọ trung bình của họ vào đầu thế kỷ, cho nên đã có đề nghị về phía chánh quyền cũng như về phía Quốc Hội nhằm nâng cao tuổi hưởng An Sinh Xã Hội từ 65 lên 67. Trên thực tế, số người làm việc quá tuổi 70 đã tăng nhiều đến nỗi chính quyền phải ra luật cấm chủ nhân các hãng xưởng, công sở, thải hồi nhân viên vì lý do già quá tuổi 70. Như thế trong xã hội Mỹ, tuổi 70 vẫn chưa hẳn là tuổi “hết xài”, tuổi “lão giả an chi” như trong xã hội Việt Nam khi xưa.
Một điểm đáng lưu ý là, tuổi niên đại trắng đen trên giấy tờ, theo nguyên tắc ta không thay đổi thêm bớt tùy tiện, nhưng tuổi sinh lý là cái mà ta có thể tùy nghi làm tốt xấu. Ta có thể là 60 tuổi với cơ thể một người 40 hay ngược lại. Sự lựa chọn là do chính ta quyết định.
Trong lãnh vực nghiên cứu, các nhà lão khoa đã phân chia tuổi già làm 7 loại mà khi nhìn kỹ ta có thể thấy tại sao mỗi cá nhân già theo cách khác nhau.
1- Tuổi niên đại. Đây là tuổi mà ta nghĩ tới trước tiên, nhưng các thầy thuốc lại ít quan tâm tới. Đó là số năm con người sống trên trái đất kể từ khi thoát thai khỏi lòng mẹ.
2-Tuổi di truyền. Khi cha mẹ ông bà thọ lâu thì con cháu cũng có cơ hội sống lâu hơn, vì những hậu duệ này đã được hưởng nhiều gene trường thọ nơi tiền nhân.
3-Tuổi theo thống kê. Đây là số năm trung bình mà con người có hy vọng sống. Tuổi này thay đổi theo thời gian, không gian, và cùng nơi cùng lúc, tùy theo giống tính, phái tính, nghề nghiệp, lối sống, tình trạng sức khỏe.
4-Tuổi theo cấu tạo cơ thể. Các bộ phận cơ thể khi tới một tuổi cao nào đó sẽ có nhiều thay đổi về cấu tạo, thí dụ như chiều cao con người ngắn lại, thủy tinh thể mắt vẩn đục, thành động mạch cứng, tuyến giáp trạng teo. Thành ra dù ta không có bị bệnh hoạn, tai nạn, tới một thời điểm không định trước, sự chết cùng xảy ra.
5-Tuổi sinh lý. Các chức năng của cơ quan, bộ phận con người trải qua nhiều thay đổi đưa tới sự suy yếu toàn diện.
6-Tuổi theo bệnh tật. Khi qua khỏi một cơn bệnh hiểm nghèo, nhiều người trông thấy, cảm thấy như già đi cả chục tuổi.
7-Tuổi tâm lý. Tâm trí con người trải qua nhiều thay đổi với tuổi cao, nhưng thường chậm hơn so với các thay đổi khác.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.
Vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi, sống được tới tuổi 40, là các cụ ta đã mở tiệc ăn mừng "tứ tuần đại khánh", mà sống tới 70 tuổi thì cả là một sự hiếm có ( nhân sinh thất thập cổ lai hy ).
Cho nên, chúc tụng nhau, ngoài sự giàu có, ruộng cả ao liền, con cái tốt lành “như tranh, như rối “, các cụ còn chúc nhau ”Trăm Tuổi bạc đầu râu”. Với vua chúa, thì được kính chúc Thánh Thọ vô cương, thọ tỷ Nam Sơn.
Ở các nước Tây phương Âu Mỹ cũng vậy, sự ước muốn được sống lâu vẫn là một ám ảnh của mọi người. Từ tuổi thọ tối đa 17 tuổi vào thời Cổ Hy Lạp, 25 tuổi thời Cesar Đại Đế tới 45 tuổi vào đầu thế kỷ hai mươi, thì con người luôn luôn tìm đủ mọi cách để tăng tuổi thọ. Ngày nay, sống tới tuổi 75 là một sự bình thường. Và người ta đang nghĩ tới sự lập câu lạc bộ những lão trượng 100 tuổi trở lên vào năm 2020 với con số hội viên dự đoán là 200.000 người ở nước Mỹ .
Nói đến việc tìm kiếm thuốc trường sinh bất tử, ta phải nghĩ ngay tới ông bạn hàng xóm vĩ đại Trung Hoa. Kể từ các triều đại Châu, Tần, Hán, Tấn trở đi, đều có những phương sĩ, người luyện kim, chuyên luyện kim đan cho vua uống. Mục đích là để các ngài sống mãi mà trị vì thiên hạ cũng như là để mình vàng gần gũi với nhiều người đẹp, không bị chê là bất lực. Tần Thủy Hoàng Đế, để tìm thuốc trường sinh, cũng cử hai phái đoàn phương sĩ do Từ Phước, Lư Sinh ra biển Đông kiếm thần dược.
Đến ngay như trên thiên đình cũng còn có vị Thái Thượng Lão Quân chuyên luyện linh đan cho Thượng Đế, khiến cho Hầu Già Tề Thiên Đại Thánh, nhập cung Đâu Xuất, uống vào một bụng, thọ ngang Ông Bành Tổ .
Các khoa học gia Âu, Á đã dầy công nghiên cứu, tìm tòi những phương thức, những dược liệu để trì hoãn sự lão suy cũng như kéo dài tuổi thọ. Gần đây, một số đông giới trẻ cũng có khuynh hướng chuyên về ngành lão khoa. Sinh viên dự bị Y khoa Nguyễn Khải của Đại học UCLA, mới 22 tuổi mà đã quyết định chuyên nghiên cứu về ngành này ngõ hầu chăm sóc cha già ngoài 70 tuổi và các vị lão trượng đồng hương, bản xứ.
Và mới đây, sau khi hoàn tất chuyến du hành không gian, lão-Thượng- Nghị -sĩ John Glen lại chẳng mang lại cho nhân loại một số kiến thức về vài vấn đề liên quan đến người già.
Nói chung, kết quả của mọi nghiên cứu đều rất lạc quan, khích lệ. Ta thấy tuổi thọ con người đã tăng và biết bao nhiêu người, dù tuổi đã cao, mà nom còn son trẻ như tuổi 18, 20. Nhất là ở quý vị nữ giới, phu nhân...
Trở laị vấn đề tuổi Vàng, tuổi Hạc, thì người trong cuộc nhiều khi cũng có những suy tư, những ý nghĩ lẩn thẩn về mình, về niên kỷ của mình, nhất là sống ở một thời đại khoa học quá tiến bộ, thiên hạ sinh hoạt theo vi tính, nhẹ tình người.
Chẳng hiểu taị sao ta lại có câu “đa thọ, đa nhục” rồi “lão giả an chi”, già an phận.
Tại mình cho rằng mình đã thành vô dụng, phụ thuộc con cái, đau yếu, bệnh hoạn, cô đơn, gánh nặng của gia đình, không thích nghi với hoàn cảnh, chỉ nghĩ tới qúa khứ, ngày một hao mòn... chờ ngày chết.
Hay là xã hội không biết được và xử dụng được nhiều ưu điểm, nhiều tích cực của người già. Những khôn ngoan, từng trải, những chín chắn, già dặn, gừng càng già càng cay.
George Burns, trên 100 tuổi vẫn hoạt bát, hấp dẫn trong hoạt động kịch nghệ.
Khi 68 tuổi, Charles de Gaulle được coi như là người duy nhất tránh được cuộc nội chiến cho nước Pháp, bằng cách trao trả độc lập cho Algérie năm 1958.
Tài danh Michelangelo để lại cho hậu thế nhiều kiệt tác, chỉ ngưng làm việc khi ông mất vào tuổi 89.
Và còn biết bao nhiêu người già không vô dụng khác nữa như Pablo Picasso, Mohandas Gandhi, Vương Hồng Sển, Nguyễn Hiến Lê...
Cũng có vị cao niên cảm thấy không thoải mái với việc những chính trị gia, kinh tế gia, xã hội học. Họ coi con số người già một ngày một tăng, sẽ là một gánh nặng cho ngân sách quốc gia, cho gia đình, con cái, vì tình trạng không sản xuất, quá phụ thuộc của họ. Nào trợ cấp an sinh xã hội, nào tiền già, nào thẻ khám bệnh miễn phí…
Theo rõi trên truyền thông, báo chí, ta thấy “Vấn đề về Người Già “đã được ồn ào nêu lên:
An sinh Xã hội lâm nguy !
Ai trả tiền cho người già đây?
Gánh nặng chăm sóc bố mẹ già một ngày một tăng cho con cái !
Tình cảnh khốn đốn của người già ! v...v...
Sự thực thì phần tích cực, phần đóng góp có xây dựng của người cao niên vào xã hội, cộng đồng cũng như gia đình đã và đang được tuyên dương, nhất là khi tỷ số quý cụ trong tổng số dân chúng ngày một gia tăng.
Cơ quan Kiểm Kê Dân Số Hoa Kỳ dự đoán vào năm 2050, nước Mỹ sẽ có 300 triệu công dân và số quý cụ trên 65 tuổi là 68 triệu, tức là gần 30% tổng dân số. Sự gia tăng này sẽ tạo ra nhiều dịch vụ, công việc và nghề chuyên môn mới.
Đọc tuần báo Newsweek số cuối tháng 10 năm 1999, ta thấy một bài báo có tiêu đề lớn:”Với các nhà doanh nghiệp, các luật sư, các bác sĩ, thì tuổi già sẽ đem lại cho họ cả một kho vàng”
Bài báo có một câu sau đây đáng để các bạn trẻ chọn nghề lưu ý: “Bất cứ một sinh viên nào xuất chúng về khoa học nghiên cứu tuổi già và tiến trình già, lại có thêm một bằng cấp luật khoa hay hành chánh tài chánh thì coi như đã có giấy phép in bạc giấy “
Mà để có được sự đóng góp hữu hiệu, cụ thể, các cụ chắc cũng phải có một sự sửa sọan, làm sao duy trì được phần lớn cái nhiệt huyết, hăng say, cái khả năng tinh thần và thể xác của thuở trung niên.Ta vừa an hưởng tuổi vàng, vừa làm việc hữu ích với bà con, họ hàng, lối xóm .
Tài liệu AN HƯỞNG TUỔI VÀNG này được giới thiệu tới quý vị để chúng ta cùng làm cái công việc sửa soạn đó.
Thực tâm mà nói thì chúng tôi cũng gần đến tuổi hưu hành chánh lại cũng mon men gần vào bảng Cổ Lai Hy. Nên trong những năm vừa qua đã cố gắng học cách thức sống tuổi già, qua kinh nghiệm của quý vị đàn anh lão trượng, hoặc qua kiến thức thu lượm trong sách báo. Giờ đây, chúng tôi xin chia sẻ cùng quý vị. Cùng như khẩn cầu quý vị góp ý thêm cho bằng những kinh nghiệm của quý vị, để hy vọng duy trì được hiện tình, tuổi đời gần bẩy bó, mà Tâm Thân cố giữ được an lạc, dáng đi chưa đến nỗi ngả nghiêng, người anh em đồng hao cho chục viên Viagra mà vẫn chưa phải dùng tới, và người bạn đường trên ba mươi năm không khiếu nại. Lâu lâu, khi stocks lên, còn cao hứng đòi “đầu tư ”thêm .
Đọc sách Hoàng Đế Nội Kinh, thấy ghi câu vấn đáp sau đây bèn học lấy làm lòng : “Người đời thượng cổ, đều sống đến cả trăm tuổi là mức thường, mà hoạt động không suy giảm; người đời nay tuổi vừa nửa trăm, mà hoạt động đã suy giảm. Có phải chăng là do thời thế xưa và nay khác nhau ?
Đáp: Người đời Thượng cổ, ăn uống có chừng đỗi, thức ngủ có giờ giấc, không phí sức bậy bạ. Cho nên thể chất cũng như tinh thần đều được câu toàn, mà hưởng trọn tuổi trời, sống đúng với mức trăm tuổi mới chết.
Người đời nay thì không phải thế. Lấy rượu làm nước uống, lấy quấy làm thường, ăn uống no say thì chui vào buồng kín, vì dâm dục làm khô tinh dịch, hao tán chân khí; không biết cách bảo trì cho sức khoẻ được đầy đủ, không biết theo thời ngự trị tinh thần, chuyên theo việc khoái trí vui lòng, vui chơi nghịch với lẽ sống, ăn uống thức ngủ không chừng mực. Cho nên tuổi thọ vừa mới năm mươi mà sức khoẻ đã hao mòn vậy ”.-Nguyễn Đồng Di dịch.
Kinh nghiệm người xưa rõ ràng là thế đó.
Giờ đây, với sự hỗ trợ của Y khoa học tân tiến cộng thêm chút quyết tâm, tích cực, lạc quan, chẳng lẽ ta lại không nối gót được các cụ Bành tổ xa xưa.
Khi chúng tôi hỏi ý kiến người bạn nghệ sĩ vong niên, nhạc sĩ Phạm Nghệ, về cách thức làm sao ông ta sống được tới tuổi này mà vẫn vui đời, khoẻ mạnh.
Thì người nghệ sĩ cao niên nhấn mạnh ở nghĩa NHÂN-QỦA và kết luận một cách hết sức vô tư, dễ thương: “Bây giờ tớ cũng chẳng cần gì, chỉ mong sống thêm bằng khoảng thời gian từ ngày tớ sang Mỹ là đủ lắm rồi ”.
Người nghệ sĩ đó năm nay 76 tuổi và tái ngộ ở traị tỵ nạn Fort Chaffee với chúng tôi vào giữa tháng năm, một chín bẩy nhăm. Vị chi là bạn ta hy vọng sống tới 103 tuổi.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức.
Đã có một thời kỳ, và ngay cả bây giờ, người ta đã gán ghép cho người già một số những điều hoang tưởng, những một nửa sự thật có dụng ý kỳ thị, phân chia.
Họ xếp người già vào nhóm người đầu bạc, răng long, suy yếu; nom ai cũng giống ai, cũng vô dụng, hết sài, không tự lo thân được; sức khỏe yếu, nay nằm nhà thương, mai đi bác sĩ, kém trí nhớ, lú lẫn; sống cô đơn xa lánh mọi người; luôn luôn than buồn chán, không còn hấp dẫn cả về hình dáng lẫn tình dục.
Đừng đả động tới họ nữa. Cứ đưa họ vào viện dưỡng lão hay tập trung vào các nông trại cho tiện việc.
Trên truyền thông báo chí, chỉ thấy hình ảnh những người thuộc lớp trẻ đầy sinh lực hấp dẫn, khỏe mạnh. Nhóm người già được mời vào mép chiếu của các sinh hoạt xã hội,gia đình.
Tuổi già có đáng để mang nhiều hư cấu như vậy không? Tuổi già có đành an phân: già là vô dụng, là không hoạt động, không thích nghi, kém khả năng tình dục, là gánh nặng cho gia đình, cộng đồng?!
Đã có nhiều dẫn chứng khoa học, nhiều thống kê cụ thể phủ nhận những huyền thoại, những vô nghiã đó.
1-Có phải những người trên 60 tuổi đều già cả rồi.
Ở nhiều quốc gia, để cân bằng sự cung cầu nhân lực và do hoàn cảnh kinh tế, tới một tuổi nào đó người đi làm được cho về hưu, nhường công việc cho lớp người sanh sau. Họ được khuyến dụ là về để vui thú điền viên, là đã đóng góp, trả nợ đầy đủ cho xã hội.
Việt nam hiện nay đàn bà 55 tuổi nghỉ việc, đàn ông làm thêm tới 60. Bên Hoa Kỳ, trước đây khi đáo hạn tuổi 65 thì bắt buộc nghỉ việc. Nhưng từ năm 1986, sự bắt buộc về hưu này được hủy bỏ vì có tính cách kỳ thị tuổi tác, giống như kỳ thị chủng tộc, nam nữ.
Từ cái tiêu chuẩn hành chánh đó nhiều người đã suy luận ra một khi về hưu là họ đều già rồi. Và hãy gom họ vào một nhóm những người có nhiều khó khăn về mọi phương diện từ sức khỏe, tài chánh, đến sinh hoạt trong những năm cuối cuộc đời. Ngay cả người về hưu cũng nghĩ là: thôi đã đến lúc ta nghỉ cho khỏe thân, rồi còn dành thì giờ dối già, đi chơi đây đó chứ.
Về phương diện y khoa, không có một chứng cớ sinh học nào hỗ trợ cho quan điểm coi về hưu là lúc cơ thể bắt đầu già. Có người bẩy tám mươi tuổi mà nom còn dắn dỏi, nhanh nhẹn; trái lại có người mới gần năm chục mà nom đã hom hem, móm mém, tóc bạc khô, đi đứng không vững.
Hóa già là do thể chất, gen di truyền, cách thức sống, ảnh hưởng của môi trường quyết định. Thực ra rất khó mà xác định là ở khoảng thời gian nào của đời người ta sẽ bắt đầu già. Có người nói là ta già từ khi còn ở trong lòng mẹ.
Người ta đã cố gắng đo một số mốc sinh lý để coi xem già bắt đầu từ tuổi nào, như là đo sức mạnh của bắp thịt, chỉ số huyết áp, giảm thính, thị giác, dung tích của phổi... nhưng kết quả còn phôi thai. Thôi thì cứ đành nhận là khi nào ta cảm thấy già thì ta già vậy.
2-Mấy người già, người nào cũng như nhau.
Có ý kiến cho rằng mọi người đều già đi theo cùng một phương thức, do đó họ đều giống nhau. Tất cả đều có bề ngoài già như nhau, suy nghĩ, hành động già như nhau và chỉ cần thấy một người già thì coi như ta đã hình dung ra cả nhóm người già.
Thực ra, có rất nhiều khác biệt trong sự hóa già. Và ở mỗi cá nhân, sự hoá già đều rất cá biệt. Diễn tiến này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: gen di truyền, chủng tộc, giống tính, địa phương, khí hậu, nếp sống, hoàn cảnh gia đình, xã hội.
Cho nên có người già suy yếu, bệnh tật chỉ chờ chết. Có người già khoẻ mạnh, còn hoạt động đều đặn. Có người sống rất phóng khoáng, lại có người mang nhiều định kiến, bảo thủ. Có người sống lẻ loi, tự cô lập thì có nhiều người giữ giao tiếp với bạn bè cũ mới, đi đó đi đây.
Sự già giữa người nam, người nữ cũng không giống nhau. Người nữ có tuổi thọ cao hơn, nhân số nhiều gấp rưỡi người nam già. Họ hay bị bệnh trầm kha hơn như các bệnh tiểu đường, cao huyết áp, phong thấp, loãng xương. Đáp lại thì người nam già thường hay bị tai biến động mạch não, bệnh tim.
Vì sống lâu hơn lão nam nên nhiều lão nữ lâm vào cảnh góa bụa, ít có cơ hội tái giá. Người nam ít tuổi kiếm đối tượng trẻ hơn, mà người nam nhiều tuổi hơn mình thì mình chẳng chịu, lãnh về để thay tã cho ổng suốt ngày hay sao!. Vì vậy, họ nhiều sầu muộn đơn côi, tương đối kém lợi tức nên cảnh già thường đạm bạc, thiếu thốn.
Thành ra cho rằng người già đều như nhau thì có vẻ nông nổi, cả tin
3-Không phải hễ già thì yếu đuối, kém sức khoẻ.
Thường thường khi nói tới già là ta cứ gắn vào chữ yếu.
Họ đều già yếu rồi, người thì đi xe lăn, người chống gậy, lủng lẳng mang thêm bình dưỡng khí để thở, một tháng đi bác sĩ vài ba lần, nhập bệnh viện thường xuyên, đâu còn sức lực gì.
Nhiều khi cả thầy thuốc cũng giải thích cho bệnh nhân là các vấn đề của sức khoẻ đều do sự chồng chất của những ngày sinh nhật gây ra.
Câu chuyện nghe được trong một phòng mạch: Một ông già than phiền sao cái cánh tay bên trái cứ nhức mỏi hoài. Bác sĩ bảo: cụ đã 80 tuổi rồi thì nó vậy đó, bệnh già mà, cụ chỉ đau như vậy thôi là may lắm rồi, còn muốn gì hơn. Bệnh nhân lại hỏi thế tại sao tay phải tôi cũng 80 tuổi lại không nhức? Bác sĩ im lặng, quay đi.
Thực tế ra, đa số người cao tuổi đều có một sức khoẻ tốt, đều duy trì tình trạng tự cáng đáng các nhu cầu hàng ngày, duy trì khả năng làm việc. Đối với người cao tuổi, duy trì bình thường các chức năng cũng quan trọng như làm sao để không bị bệnh hoạn.
Tám mươi phần trăm các vấn đề sức khoẻ của người già có thể tránh hoặc trì hoãn được khi cơ thể được chú ý chăm sóc, đồng thời sự hoá già cũng đến từ từ, nhẹ nhàng hơn.
Sự hóa già và bệnh hoạn đôi khi trùng hợp nhưng không có liên hệ nhân, quả.
4-Tránh thành kiến hễ già thì nói trước quên sau.
Có nhiều thành kiến gán cho sự hóa già là nguồn gốc của sự nói trước quên sau, trí tuệ trì trệ. Có thời kỳ, ngay cả các nhà khảo cứu cũng cho là về già trí tuệ suy yếu.
Nhưng mới đây nhiều bằng chứng kết luận là trí tuệ không giảm với tuổi cao, ngoại trừ khi người già đồng thời mắc một số bệnh thần kinh đặc biệt và ngoại trừ ta chẳng may bị chứng bệnh sa sút trí tuệ. Nói chung thì sự sáng suốt của con người còn duy trì được tới tuổi ngoài 70.
Bác sĩ Robert Butler, nhà lão khoa có uy tín đã từng xác định:“Cứ tin tưởng rằng khi sống lâu trí tuệ ta trở thành suy thoái là điều không đúng. Hãy thử để con người sống trong cô lập, không giao tiếp với ngoài đời, thụ động, thì chỉ một thời gian ngắn sau đó họ sẽ trở thành bất thường, không có lý trí, lệ thuộc, buông suôi.Trái lại, nếu sống năng động với nhiều thử thách thì không những tinh anh hơn mà còn thọ lâu, khoẻ mạnh hơn”.
Có thể là cũng như ở lứa tuổi khác, người cao tuổi có giảm đi phần nào trí nhớ ngắn hạn, như đột nhiên quên tên người quen, quên một sự kiện vừa xẩy ra hay không nhớ để chiếc chìa khóa xe ở đâu, hoặc không làm hai việc một lúc. Nhưng với sự tập luyện lập đi lập lại, sửa soạn và dành thì giờ rộng rãi cho công việc, làm việc theo thứ tự ưu tiên, thì khả năng trí óc cuả họ sẽ khá hơn.
5-Già không có nghĩa là cô lập
Xưa kia, có một thời gian ngắn ngủi, người cao tuổi được mời lên chiếu trên của các sinh hoạt cộng đồng xã hội trong vai trò hướng dẫn, cố vấn, nhờ ở những kinh nghiệm khôn ngoan từng trải của họ.
Rồi với sự thay đổi quan niệm sống cộng thêm sự lên xuống của cung cầu kinh tế, người già xuống cấp, đôi khi bị coi là gánh nặng. Họ được đẩy vào bóng tối của xã hội.
Ngay cả trong giới thần tiên, sự già cũng có số phận hẩm hiu.
Câu chuyện nữ thần sắc đẹp Aurora yêu say mê Thimonus, xin Thượng Đế được kết hôn cùng chàng, xin cho chàng được sống mãi mãi. Nhưng quên không xin cho chàng được khỏe mạnh, sung sức. Cho nên khi chàng vừa già vừa yếu đuối, hết hấp dẫn, không thỏa mãn được nhu cầu của nàng thì nàng bèn cô lập, ruồng bỏ người yêu xưa.
Nhiều người cứ nghĩ là khi về già, họ sẽ sống thu mình, xa cõi nhộn nhịp, tranh đua, giảm bớt liên lạc với bạn bè. Để có thì giờ vật lộn với lãng tai, mắt kém, với táo bón, khó tiêu, với đau nhức mình mẩy, với huyết áp cao... Thêm vào đó, cố tri lần lượt ra đi, rồi cuối cùng người bạn đường cũng giã từ, vĩnh biệt càng khiến họ có nhiều nguy cơ rơi vào cảnh cô lập, lẻ loi, buồn thảm.
Sự thực thì sau những mất mát, chia tay, con người nói chung, người cao tuổi nói riêng, cũng đều rơi vào thời gian tiếc nhớ. Thời gian này dài ngắn tùy hoàn cảnh, tùy khả năng ứng phó của mỗi cá nhân. Nhưng bình thường thì chỉ vài năm là ta đã có thể thích nghi được.
Bạn bè không bỗng chốc tan hàng hết. Người muốn an hưởng tuổi vàng không thiếu gì cách để thực hiện ý muốn của mình. Tìm bạn mới ở các nhóm họp người già. Tham gia những sinh hoạt chung của cộng đồng, lối xóm. Trao đổi thư tín, tin tức về vấn nạn, giải đáp khó khăn của đồng tuế. Thăm nom vui chơi cùng cháu chắt. Tránh những ưu tư không cần thiết.
Có rất nhiều cơ hội để người cao tuổi làm cuộc sống cuối đời vui nhẹ nhàng, thoải mái.
Chỉ cần một chút tích cực, một vươn tay ra tiếp nhận. Cũng cần cảnh giác với những gán ép lệ thuộc ..
6-Người già không phải là vô dụng.
Mới đây, phóng sự của hai ký giả Đức Hà, Lý Hoàng Thu, nói về một người Việt Nam 66 tuổi khai trương vào ngày 15-4-2000 một tiệm hớt tóc ở thị trấn San José, khiến độc giả đi từ ngạc nhiên đến cảm phục người phụ nữ đó. Bà ta một tay phụ vói chồng mang mười đứa con còn thơ ấu từ miền quê hương nhỏ bé, thiếu thốn mọi thứ, sang miền đất phì nhiêu vật chất, tinh thần.
Gây dựng cho các con đầy đủ, dư hoàn cảnh để nghỉ ngơi vui hưởng cảnh già nhưng bà ta nói: “Tôi sẽ làm việc cho đến khi nào không còn đủ sức nữa mới thôi ”.
Bà còn nói rằng bà có mấy đứa cháu thành ra bà muốn làm gương cho các cháu thấy rằng phải luôn luôn cố gắng học hành và làm việc để trở thành những con người tốt cho xã hội cho dù bao nhiêu tuổi đi nữa. Bà là một trong nhiều người già không vô dụng.
Cái quan niệm già vô dụng, không sản xuất có lẽ chỉ đúng phần nào vào thuở nhân loại phải lấy sức người kéo cầy thay trâu, khuân mang những tảng đá khổng lồ lên xây Kim Tự Tháp, kéo thuyền rồng cho vua chúa ngự cảnh dọc sông. Có lẽ người già không còn dẻo dai để làm những việc tay chân như vậy nhưng ngay khi đó cũng có những người tuổi cao ngồi tham mưu, đóng góp tâm sức, thực hiện kế hoạch. Giảm đi một vài chức năng của cơ thể không đồng nghĩa với mất khả năng lao động.
Ngày nay với sự tiến bộ kỹ thuật, khoa học, nhu cầu sức lao động chân tay đã bớt và người khiếm khuyết một vài chức năng của cơ thể vẫn còn hữu dụng trong nhiều lãnh vực. Ấy là chưa kể nhiều người già phục vụ những công việc không chính thức, không sổ sách lương bổng như thiện nguyện, giữ trẻ, săn sóc thân nhân, phối ngẫu đau ốm.
Đồng thời cũng có nhiều dẫn chứng rằng người cao tuổi làm việc chuyên cần, đáng tin cậy, ít gây ra tai nạn, ít bị ảnh hưởng của những căng thẳng vu vơ. Một vài phản ứng chậm chạp, đắn đo, một số chậm hiểu tính toán đôi khi lại giúp hoàn tất công việc an toàn hơn.
Rồi còn những hoang tưởng như già hết duyên, khô cạn tình dục, chấm dứt cuộc đời trong nhà dưỡng lão, cả ngày chỉ ngồi nuối tiếc quá khứ, ám ảnh với kinh kệ, sẽ là nạn nhân của lạm dụng người già, của tội phạm.
Ôi, sao mà nhiều gán ghép độc địa!
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas-Hoa Kỳ.
Loại sấu có biết khóc bao giờ! Theo truyền khẩu, mỗi khi nuốt xong con mồi, thì ở khóe mắt của nó lại tuôn ra nước mắt. Vì buồn tủi chăng? Hối hận chăng? Chắc chắn là không mà trái lại.
Nước mắt chảy ròng mà chẳng hề khóc than, nực cười thay! Ta mới có câu "nước mắt cá sấu" với nhiều ý nghĩa.
Ở đây chúng ta chỉ dụng ý đề cập đến lớp tuổi người cao niên mà ta thường thấy khăn tay kề cạnh không rời, dùng để thấm dậm nước mắt, lắm lúc giàn giụa ướt đẫm trên cả gò má.
Họ không khóc ai, chẳng buồn tủi ai, mà cũng chẳng hận hờn ai, ấy thế mà lệ vẫn tuôn? Ta tự hỏi tại sao người già hay khóc? Khóc thật lòng hay khóc dối? Khóc bề ngoài mà ta thường nói là "nước mắt cá sấu"? Thưa rằng không.
"Khóc hổ-ngươi, cười ra nước mắt" phải chăng? Cũng thưa không. Vậy lý do nào mắt vẫn tuôn lệ?
Muốn tìm hiểu, ta hãy đi sâu vào một thế giới lặng như tờ, hầu như bị lãng quên của người cao niên. Một xã hội khép kín, huyền bí của người già, mà chóng chầy, dầu muốn dầu không, tương lai của chúng ta mai đây cũng đã trực thuộc vào con đường duy nhất đó.
Phân tách: trên khía cạnh sinh lý học, ta được biết nước mắt có vị hơi mặn (vì có chất muối) độ pH gần như huyết tương (plasma sanguin) được phân chất như sau: protéines 7g/l, đường 0,6g, Cl- 4g, Na+ 4,5g, K+ 1g/l. Lysozyme chứa đựng trong protéines được xem như một chất sát trùng thiên nhiên. Nước mắt được tiết ra thường trực với số lượng trung bình là 50l / mỗi giờ.
Với đặc tính, tươi nhuận tinh vi thấm nhuần, nước mắt mang lại thủy dịch để bảo toàn trạng thái ẩm ướt cho phần kết mạc của mắt. Chẳng may, mắt bị khô (secheresse oculaire) thì kết mạc dễ bị loét như trường hợp nặng trong chứng liệt mặt v.v.
NGUYÊN NHÂN:
Ở đây chúng ta chỉ bàn về trạng thái khí hóa (évolution énergétique)
- Ngoại sinh (origine exogène): do phong nhiệt (vent-chaleur) hay phong ôn (vent-tiède) gây nên. Cũng nên nhớ rằng, gió là nguyên nhân của trăm bệnh (Nội Kinh).
Người bệnh rất sợ ánh sáng (photophobie) mắt đỏ ngứa, mắt rặm (yeux irrités) nước mắt giàn giụa (larmoiement), mũi chảy liên miên (rhinorrhée), nhức đầu thường trực.
- Nội sinh (origine endogène):
- Theo giải thích tây phương dựa trên cơ thể sinh lý học, là do sự kích thích ở võng mạc (irritation rétinienne) vì xúc động tinh thần (đau, buồn, vui v .v.) làm gây động tuyến nước mắt. Nhưng ở đây không biện minh được lý do ở người già.
- Giải thích theo quan niệm người đông phương trong Nội Kinh, theo đó thì:
Tâm là chủ tề của năm tạng sáu phủ; mắt là nơi tập trung của tất cả mạch lạc, mà cũng là nơi tụ hợp của các tinh khí (quintessence énergétique) của năm tạng, sáu phủ; lại là con đường thủy dịch (liquide organique) chảy ra của nước mắt, nước mũi, nước dãi. Cho nên khi buồn phiền v.v. làm cho tâm thần kích động, do đó làm cho cơ năng của năm tạng sáu phủ bị rối loạn khiến cho các mạch tương ứng bị lôi cuốn theo; đường dịch của mắt, miệng, mũi theo đó bị hé hở; cho nên nước mắt, mũi theo đó mà tuôn ra.
* Ta cũng thường nghe rằng khóc quá độ khiến cho nước mắt sẽ khô cạn, một trong những lý do gây nên mắt mờ, mà thuật ngữ chuyên khoa gọi là "mục hôn"(amblyopie).
* Cũng theo trong sách cổ, trường hợp ngược lại, có những người khóc mà nước mắt không ra, nước mắt không tiết; Là vì khóc mà nguyên nhân không phải do sự buồn phiền gây nên, tinh thần không bị xáo động. Nói về mặt khí hóa thì trục thiếu âm là thận và tâm, thủy hỏa (axe chaoyin) không bị hề hấn gì cả.
* Trường hợp lớp người lớn tuổi, nước mắt chảy ròng là do nguyên nhân thần kinh não (neuro-centrale). Khi tuổi về già, tất cả sự chuyển hóa (métabolisme) hoạt động kém dần, do đó các tinh khí (quintessence énergétique) hư hao và kiệt lần sự dinh dưỡng. Tinh ở não (Jing cérébral) không kiềm chế được các hoạt động nội tiết của tân dịch (liquide organique). Ngoài ra, người già thường lắm ưu tư, lo sợ, tâm thần bất ổn, xúc động thường xuyên, bị kích thích liên miên làm động đến các tôn lạc (vaisseaux capillaires) ở mặt. Chính vì lý do đó, nước mắt được thoát ra ở khóe mắt (canthus) trong gọi là nội tý và ngoài gọi là nhuệ tý, chứ không phải do ống dẫn lệ (canal lacrymal) như ta lầm nghĩ, và ngoài sự kiểm soát của tinh khí.
- Ở đây chúng ta không đề cập đến các chứng bệnh kể dưới này, vì nó cũng gây nên chứng chảy nước mắt (larmoiement) nhưng thuộc về cơ thể bệnh lý học:
- Vật lạ (corps étranger) nằm trong phần kết mạc gây kích thích thường xuyên, gây chứng chảy nước mắt.
- Chứng chảy nước mắt cũng được thấy ở trường hợp liệt mặt (paralysie faciale) gọi là nước mắt cá sấu (larmes de crocodile) vì không nhắm mắt lại được.
- Chảy nước mắt khi ăn phải vị cay, chua, nồng, hăng (larmoiement paroxystique đồng nghĩa với réflexe gusto-lacrymal déclenché par salivation prandiale).
- Chứng chảy nước mắt vì chứng thần kinh hệ (larmoiement réflexe).
- Chứng chảy nước mắt vì liệt cơ Horner (larmoiement tabétique).
- Chứng chảy nước mắt trong trường hợp bị mục phong tắc, hay mục dương, cũng được gọi là viêm mí mắt (blépharite).
- Chảy nước mắt vì viêm kết mạc cấp (conjonctivite aigue).
- Chảy nước mắt vì viêm mống mắt cấp (iritis aigue).
- Chứng chảy nước mắt vì bệnh tăng nhãn áp cấp (glaucome aigu).
- Chảy nước mắt vì viêm thượng củng mạc (épisclérite)
- Chứng chảy nước mắt vì phản xạ giải giây thần kinh sinh ba (réflexe lacrymal par excitation du nerf trijumeau).
ĐIỀU TRỊ
TÂY PHƯƠNG:
Điều trị chứng chảy nước mắt ở người già, hầu như không có, hoặc rất ít thấy ghi toa. Phần nhiều chỉ có loại thuốc nhỏ, gọi là nước mắt nhân tạo (larmes artificielles) nếu là ngược lại trường hợp mắt khô (secheresse oculaire).
ĐÔNG PHƯƠNG
A) Sợ gió, sợ ánh sáng, nước mắt chảy, ta hãy dùng một vài huyệt chánh như:
- Phong trì, trị các chứng như đau mắt, mắt mờ, viêm kết mạc, v.v.
- Hợp cốc, trị mắt, mắt nom không rõ, tả phong độc.
- Thái xung, Dương lăng tuyền, trị mắt đau, và tả tà khí.
- Quang minh, rất thường dùng trong mọi chứng thuộc về mắt.
- Thiên trụ, trị chứng chảy nước mắt, nước mũi và nhức đầu (Linh Khư)
- Toán trúc, trị chứng chảy nước mắt, mắt đỏ, viêm kết mạc, mắt mờ (amblyopie), mắt ngứa, theo Đại Thành. v..v..
B) Chứng chảy nước mắt do tuổi cao:
- Nên bổ can, thận là việc làm đầu tiên, và tối ư quan trọng, vì tạng phủ yếu kém dần.
C) Một vài kỳ huyệt dưới đây rất hữu dụng cho chứng chảy nước mắt ở lớp tuổi người già:
Chú ý, nên rất thận trọng khi châm vì thuộc bộ phận thị giác, dễ xẩy ra tai nạn khó lường.
- Ngư yêu (lưng cá)
- Đầu quang minh,
- Ngư vĩ (đuôi cá)
- Tiểu cốt không, Đầu lâm khấp chữa trị chứng chảy nước mắt và viêm kết mạc (Đại Thành). v..v...
KẾT LUẬN
Chứng chảy nước mắt ở lớp tuổi người cao niên, thực sự không phải là bệnh chẳng phải là tật, nhưng xem đó như là dấu hiệu của một cơ thể đang yếu dần (décrépit) mà bên kia bóng chiều đã ngả, đang tiến lại gần chúng ta. Bệnh lý ở người già rất phức tạp. Cách chữa trị ở đây không có nghĩa là "cải lão hoàn đồng", nhưng "còn nước còn tát" ta chớ nên vội vã buông chèo. Hãy tận dụng những gì ta còn có thể làm được hầu kiềm hãm và ngăn chận trước sự biến hóa sinh lý biến chuyển nhanh chóng của tạo hóa. Cuộc đời là một sự tranh đấu không ngừng. Ta tiến, nó ngừng; nếu ta ngừng, nó sẽ lấn áp. Vì vậy cách chữa trị ở người già phải được thích ứng, nói một cách cụ thể hơn, ta không thể nào thay một bộ phận tinh xảo vào một hệ thống máy móc đã cũ, đã mòn mỏi qua thời gian (acharnement thérapeutique). Chữa trị bằng cách phòng ngừa, bồi đắp, dậm vá ở lớp tuổi người già, thiết tưởng đấy là chánh sách trung dung và thích hợp. Chữa trị bệnh tật, đã là việc làm cao quý rồi, nhưng kính ái người cao niên, lại còn hoàn hảo hơn. Giáo lí còn ghi khắc trong lòng chúng ta rằng "Kính lão đắc thọ ".
Uống Vitamin D
Có thể ngăn ngừa gãy xương nơi người cao niên
NEW YORK.- Ngăn ngừa gãy xương do lớn tuổi có thể dễ dàng hơn bằng cách dùng Vitamin D chỉ 3 lần trong một năm. Việc ngăn ngừa bị rỗng xương và gãy xương ở người già đặc biệt quan trọng. Thực tế gãy xương hông nơi người cao niên có thể làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh sưng phổi hay máu đông thành cục vì nằm bất động trên giường. Những cuộc nghiên cứu đầu tiên cho thấy rằng việc dùng phối hợp giữa Vitamin D và calcium có thể làm giảm nguy cơ gãy xương. Tuy nhiên, trong một cuộc nghiên cứu mới đây, những nhà nghiên cứu muốn biết xem, liệu Vitamin D không thôi có đem lại hiệu quả như khi uống phối hợp với calcium. Kết quả của cuộc nghiên cứu được đăng tải trên tờ báo y khoa British Medical Journal số ra Tháng Ba.
Những nhà nghiên cứu đã nghiên cứu khoảng 2.500 người tuổi từ 65 đến 85. Mỗi người dùng 100.000 đơn vị (IU) vitamin D, một liều lượng cao so với liều lượng bình thường cho một người là 400 (IU). Những người đã dùng một liều lượng vitamin D, nguy cơ gãy xương giảm xuống 22% trong 5 năm nghiên cứu. Thật ra, theo như cuộc nghiên cứu này thì không có phản ứng phụ bởi Vitamin D và chi phí cũng ít, khoảng 1.59 đô la một năm. Nếu trong tương lai, cuộc nghiên cứu xác nhận Vitamin D có hiệu quả trong việc ngăn ngừa gãy xương, ngay cả khi một người chỉ uống vài lần trong một năm, thì điều này sẽ trở thành một khám phá mới lạ và quan trọng để giúp những người cao niên tránh khỏi các hiểm họa khi bị té ngã.
BSNK Anne-Marie Hoà Nguyễn là một nha sĩ chuyên khoa về ngành nướu răng đang hành nghề tại vùng Tây Nam Houston. BSNK A-M Nguyễn tốt nghiệp nha khoa tại trường Baylor College of Dentistry và chuyên khoa về bệnh nướu răng tại viện đại học Texas-San Antonio. Mọi ý nghĩ và kiến thức trong bài viết này đều được trích dịch từ sách vở đã được đăng tải trên những tờ báo uy tín.
Nhiều người tin rằng ‘Cứ sanh 1 đứa bé là mất một cái răng’. Tuy có tính cách khôi hài, câu nói dí dỏm này cũng đúng sự thật một phần. Trong lúc mang thai, cơ thể của người mẹ có nhiều thay đổi kể cả trong khoang miệng. Để trấn an tinh thần và để mở mang kiến thức cho những phụ nữ sắp hoặc đang bước vào con đường làm mẹ, bài viết này được viết theo hình thức Hỏi Đáp sẽ giúp bạn hiểu thêm về những biến đổi liên quan đến nha khoa trong thời kỳ thai nghén.
H. Mang thai có ảnh hưởng gì trong khoang miệng?
Đ. Những hiện tượng tiêu biểu thường xảy ra trong miệng khi mang thai là:
1. Viêm nướu răng [Pregnancy Gingivitis]. Đây là chứng bệnh thông thường nhất có thể xảy ra cho 60-70% phụ nữ mang thai. Nướu răng sẽ bị sưng đỏ và chảy máu. Hiện tượng này thường thấy vào tháng thứ 3, gia tăng đến tháng thứ 8 và giảm dần đến lúc sanh. Sự thay đổi về nướu răng này có thể do sự gia tăng của kích thích tố progesterone gây ra. Chính vì sự thay đổi này cũng làm cho 1 số vi trùng sinh sôi gây ra bệnh nướu răng có cơ hội phát triển. Tình trạng này có thể nhẹ hoặc nặng, làm ảnh hưởng tới một ít hoặc nhiều chân răng.
2. Bướu răng [Pregnany Tumor] chữ này nếu được hiểu là ‘bướu’ theo đúng nghĩa như bướu trong những bệnh ung thư, thì không được chuẩn cho lắm, vì thật ra nó không phải là 1 cái bướu theo ý nghĩa đó. Bướu này hoàn toàn lành chứ không phải là bướu dữ. Bướu răng này có thể xảy ra cho tới 10% tổng số phụ nữ mang thai. Bướu răng có thể lớn từ 1-2 mm tới 1-2 cm. Bướu có màu đỏ ửng thường hiện ra vào chu kỳ thứ 2 hoặc trễ hơn. Bướu răng có thể bị nặng hơn cho những bệnh nhân bị bựa răng hoặc cao răng đóng nhiều chung quanh chân răng. Tuy không làm đau đớn, nhưng có thể chảy máu nhiều và làm cho sản phụ khó chịu và sợ hãi. Bướu răng mọc ra vì do sự tăng trưởng những mạch máu ở vùng viêm nướu. Vì tình trạng này xảy ra vào điểm cuối chu kỳ mang thai và tự động trở lại bình thường sau khi sanh nở, thì sự thay đổi này có thể là do sự gia tăng của kích thích tố estrogen.
3. Răng lung lay toàn bộ. Liên hệ tới độ nặng nhẹ của bệnh nướu răng. Hiện tượng này do sự lỏng lẻo của giây gân chằng quấn chung quanh rễ / chân răng. Bệnh này thông thường chấm dứt sau khi sanh.
4. Bệnh khô miệng. Do sự thay đổi của kích thích tố trong thời kỳ thai nghén. Cảm giác khô miệng xảy ra cho 40% tổng số phụ nữ có thai. Trong trường hợp này thì nên uống nhiều nước lã hoặc nhai kẹo cao su ‘không đường’ [sugarless] thì sẽ giúp giảm bớt chứng khô miệng.
5. Bênh sâu răng. Nhiều phụ nữ mang thai thường bị buồn nôn và ói mửa. Mỗi lần như vậy, chất acid từ dạ dày dội lên làm cho miệng chua và làm mòn tan chất men răng. Thêm vào đó, người mẹ lúc nào cũng cảm thấy đói và hay ăn vặt. Thức ăn bám vào chân răng và đổi thành chất acid. Hai hiện tượng này làm tan men răng dẫn đến bệnh sâu răng.
H. Làm sao tránh được những hiện tượng xảy ra như trên?
Đ. Điều quan trọng nhất là luôn luôn gìn giữ sạch sẽ bộ răng của mình. Chúng ta nên dùng những kem đánh răng có chất fluoride. Nên đánh 2 lần mỗi ngày và sau những bữa ăn. Cũng nên dùng chỉ răng (dental floss) mỗi ngày. Nếu buồn nôn ói mửa thì nhớ súc miệng ngay bằng nước ấm hoặc dùng những thuốc nước có chất fluoride. Nên ăn uống chừng mực, và đầy đủ chất bổ dưỡng cho người mẹ và thai nhi. Nên đi khám răng thường xuyên theo định kỳ để nha sĩ có thể theo dõi, chẩn bệnh và giúp phòng ngừa bệnh sâu răng hoặc bệnh nướu răng trước khi hoặc trong lúc mang thai.
H. Có nên tiếp tục chữa trị răng trong lúc mang thai không?
Đ. Nên đi khám răng thường xuyên để phòng bệnh đau răng. Hội đồng Nha Khoa khuyên bảo chúng ta nên hoãn lại những tác động làm răng không cần thiết trong lúc có thai như là tẩy trắng răng (dental bleaching), trám răng thẩm mỹ (veneers, cosmetic bonding), giải phẫu thẩm mỹ nướu răng (cosmetic periodontal surgery). Nếu không có gì khẩn cấp hay cần thiết, nên chờ sau 3 tháng đầu rồi hãy chữa răng. Nhưng cũng không nên chờ cận đến ngày sanh, vì lúc đó bụng người mẹ quá lớn làm cấn thai và khó thở lúc nằm trên ghế nha khoa. Hơn nữa, bào thai nằm đè nặng lên tĩnh mạch máu chủ dưới (inferior vena cava) làm giảm sự lưu thông máu từ mẹ đến bào thai.
H. Nếu cần phải chữa trị răng, thì uống thuốc nào an toàn?
Đ. Tất cả phụ nữ mang thai nên cẩn thận khi dùng tất cả những loại thuốc có toa hoặc thuốc bán tự do. Đa số những thuốc chích tê răng (local anesthetics) được coi là an toàn trong lúc có thai. Thuốc trụ sinh như penicillin, amoxicillin và clindamycin cũng có thể dùng được trong thời kỳ mang thai. Nên tránh dùng thuốc trụ sinh tetracycline, doxycycline vì thuốc này sẽ làm cho răng của thai nhi bị đổi thành màu vàng hoặc màu nâu. Cũng nên tránh những thuốc đau nhức có chất ibuprofen, vì thuốc này làm ảnh hưởng đến sự lưu thông của mạch máu cho thai nhi. Nếu bị đau răng thì có thể dùng thuốc Tylenol. Tốt hơn hết, nên tham khảo ý kiến của BS Sản Khoa nếu phải uống bất cứ loại thuốc nào.
H. Có nên chụp hình quang tuyến X-ray răng trong khi có thai không?
Đ. Độ lượng quang tuyến dùng trong phòng nha rất thấp so với những quang tuyến trong ngành Y khoa như chụp phổi, ruột, xương, v..v.. Chỉ nên chụp quang tuyến trong những trường hợp rất cần thiết giúp trong việc chẩn bệnh và để được chữa trị. Khi cần chụp hình X-ray, nên dùng áo chì [lead shield] để che cho bệnh nhân từ cổ xuống bụng. Hiện tại nhiều văn phòng nha khoa được trang bị máy quang tuyến bằng điện tử (digital X-ray), nên số lượng quang tuyến được giảm đi nhiều.
H. Bệnh nướu răng có ảnh hưởng gì trên thai nhi?
Đ. Trong một cuộc khảo cứu của viện đại học Birmingham ở Alabama năm 2001, bệnh nướu răng đã được đề cập là một trong những bệnh có thể làm sanh non. Sự nghiên cứu này cho biết khoảng 13.6% phụ nữ mang thai sinh con sớm (sanh trước 37 tuần) nếu bị bệnh nướu răng. Sau khi đã loại bỏ những yếu tố như là hút thuốc lá, uống rượu, chủng tộc, và tuổi tác thì kết quả xác định bệnh sinh non gia tăng gấp 4 tới 7 lần nếu bệnh nhân mắc bệnh nướu răng.
Một cuộc khảo cứu khác cũng cho biết là những phụ nữ bị mắc bệnh nướu răng thời kỳ nặng cũng có thể bị một chứng bệnh áp suất cao [PRE-ECLAMPSIA] gấp đôi so với người không bị bệnh nướu răng.
Tuy nhiên, cũng không thể kết luận được rằng nếu chữa bệnh nướu răng là sẽ giảm đi phần nguy cơ sinh non. Kết quả của những khảo cứu này cho thấy cần có một sự phối hợp giữa nha khoa và sản khoa để giúp cho sức khỏe của người mẹ và thai nhi được gia tăng.
H. Tóm lại, khi mang thai thì phụ nữ phải làm những điều gì cần thiết?
Đ. Hội đồng Nha Khoa khuyên bảo chúng ta nên luôn luôn gìn giữ bộ răng cho sạch.
Bảo trì và khám răng định kỳ
Thời gian an toàn để chữa răng (nếu cần thiết) là sau tuần thứ 12 (sau 3 tháng) mang thai.
Đình hoãn những tác động làm răng không cần thiết cho tới khi sanh nở xong
Trong những trường hợp khẩn cấp, bệnh nhân có thể được chữa răng vào bất cứ chu kỳ nào của bào thai. Nếu bệnh răng không chữa có thể làm nguy hiểm đến sức khỏe người mẹ.
Tham khảo và theo ý kiến BS sản phụ khoa trước khi uống thuốc trụ sinh (antibiotics) hoặc đau nhức (pain killers)
Nên chọn cách chích thuốc tê vào chân răng (Local anesthesia) hơn là cách gây mê toàn bộ (general anesthesia) hoặc gây mê sảng (conscious sedation).
Tác giả xin chân thành cảm tạ BS Nguyễn Tiến Dỵ và BS Nguyễn Thành Tâm đã đóng góp ý kiến và sửa chữa trong bài viết này.
Bệnh này thường được thấy ở nam giới, lớp tuổi ngoài 50.
Một chứng bệnh nay đang được đề cập đến nhiều qua các báo chí y khoa, vào khoảng trên dưới mười năm gần đây.
Theo thống kê thu thập qua nhiều quốc gia, số người mắc phải chứng này lên rất cao, và tuổi càng cao, chứng bệnh lại càng gia tăng.
Hỏi: Khối u tiền liệt tuyến là gì (adénome de la prostate)?
Đáp: tiền liệt tuyến (prostate), là giải tuyến tinh khí ở nam giới (glande sexuelle masculine) bao quanh khúc đầu niệu đạo (urètre) mà trong đó có bọc ống dẫn tinh (canaux éjacula-teurs), nằm phía dưới cổ bọng bàng quang (col vésical) và ngay phía trước trực tràng (rectum). Nó mang hình thù như hạt dẻ (châtaigne) cân nặng cỡ chừng 15 đến 20 gờ-ram.
Hỏi: sự ích lợi của giải tuyến này ở giới nam nhi?
Đáp: Tuyến tiền liệt (prostate) và túi tinh (vésicules séminales) thuộc về tuyến phụ tinh khí nam (glandes séminales) dự phần đóng góp trong công việc hoàn thành dịch tương (plasma séminal) và từ đấy sẽ cho tinh dịch (sperme).
Hỏi: tại sao bị khối u (adénome) thường chỉ thấy vào lớp tuổi cao niên 60, 70?
Đáp: theo con số ước tính mới đây, tỉ lệ số người vào lớp tuổi này chiếm tới 50%, và cho đến 80% khi tuổi ngoài 80. Theo một vài dịch vụ nghiên cứu mới đây cho hay, dân tộc da trắng, da đen, so sánh với số người mắc chứng bệnh này thì tương tự ngang nhau, riêng dân tộc da vàng thì ít bị. Ngược lại người da vàng sanh sống lâu năm ở các quốc gia âu châu, thì cho thấy con số mắc phải có phần gia tăng, nhưng vẫn theo sở nghiên cứu, ta nên cẩn thận khi phân tách vì còn nhiều yếu tố khác liên hệ. Phải chăng cách ăn uống có khả năng ảnh hưởng đến chứng bệnh này? Người dân Nhật bản thường dùng sữa, các thực phẩm đồ hộp, nhưng lại ít dùng các loại rau cỏ tươi, cho thấy con số người bị mắc phải vượt lên rất cao. Vẫn theo lời tường thuật của dịch vụ sở nghiên cứu, tình trạng kích thích tố (état hormonal) đã đóng một vai trò chính yếu, vì rằng những người bị thiến, bị hoạn (castrat) không hề bị mắc phải chứng bệnh này.
Hỏi: Nguyên nhân tại sao?
Đáp:
a) Tây phương: cho đến nay theo giải thích tây phương, các nhà nghiên cứu không bíết nguyên do từ đâu gây ra, nhưng một điều hầu như chắc chắn là do dưới sự kiểm soát của hocmon nam (hormones) do tinh hoàn bài tiết. Tuổi càng cao, tỉ lệ mắc bệnh càng gia tăng.
b) Bên phương đông: quan niệm rằng, khi cơ thể về già yếu, tất cả các hoạt động bộ máy sinh dưỡng (métabolisme) đều kém dần đi, khí huyết lưu thông trở nên chậm chạp, tạng phủ hoạt động kém năng xuất không thể cung nạp và đáp ứng theo nhu cầu của con người. Các y gia thời xưa đã am hiểu được điều này và xét rằng thận, một trong ngũ tạng rất quan trọng, là gốc của tiên thiên, là tạng chứa tinh, cũng là tạng của hậu thiên, tư dưỡng tạng phủ và các tổ chức toàn thân. Thận chủ thủy, thủy dịch đi xuống từ thận, thận là cơ quan trọng yếu điều tiết thăng bằng thủy dịch, thức đục do khí hóa của thận và do bàng quang bài tiết ra ngoài, thứ trong (pur) giữ lại, thứ đục (impur) lọc ra. Do đó thận đóng một vai trò liên hệ trực tiếp với sự bài tiết thủy dịch. Ngoài ra, mạch đốc cũng kém suy theo tuổi già. Khởi đầu là dương khí hư, tinh huyết thiếu, thận và mạch đốc suy kém không thể quản đốc được dương khí của toàn thân do đó mà cơ thể, khí huyết bị ứ đọng lại tạo ra nhiều chứng như khối u tiền liệt tuyến và gây ra chứng lung bế (bí đái). Chứng lung bế cũng có thể do bại tinh (épuisement de jing) gây nên v.v.
CÓ NHỮNG TRIỆU CHỨNG GÌ?
Những loạn chức năng (troubles fonctionnels) thường thấy: tiểu đêm nhiều lần, tiểu ngày vô kể, tiểu vặt, tiểu nhắt, tiểu gắt, tiểu nhỏ giọt, tiểu són, tiểu buốt, tiểu không tự chủ, cũng gọi là tiểu tiện bất cấm (miction impérieuse), tiểu tiện lâm lịch là chứng tiểu nhiều lần, lượng ít và khó khăn (pollakiurie). Tiểu bí, tia vòi nước tiểu kém và không thông (jet faible et saccadé). Nói chung, tiểu tiện bất lợi (dysurie), các y gia ngày xưa, gọi là chứng lung, cũng gọi là lung bế.
Có những trường hợp kèm theo chứng dương nụy, có nghĩa là dương vật không cương hoặc cương yếu, không có khả năng giao hợp, không phóng tinh được (impotence sexuelle) do đó trong sự đi lại giữa vợ chồng bị suy kém dần.
Hỏi: khi có những triệu chứng kể trên, phải làm những gì?
Đáp: phải đi khám Bác sĩ
KHÁM NGHIỆM:
* Thăm hậu môn (toucher rectal) cho biết tình trạng lớn nhỏ, cứng mềm, trơn tru hay sần sùi v.v. của tiền liệt tuyến.
* Chụp quang tuyến (échographie rénale, vésicale ou prostatique) tùy từng trường hợp khả nghi để dò thăm tình trạng của thận, đo lường lượng khối u và xem lượng nước tiểu còn ứ đọng lại trong bàng quang (résidu vésical post-mictionnel)
* Thử máu: PSA (antigène prostati-que spécifique) trường hợp khả nghi và xem kết quả của chất créatininémie để tìm những gì phát hiện của ung thư (dépistage).
* Sinh thiết (biopsie) nếu có khả nghi và cũng trong chiều hướng thăm dò đó.
*Thử nước tiểu, v.v.
Chữa Trị
-Tây phương
* Thuốc: chữa trị chỉ khi nào có triệu chứng mà thôi và tùy sự định liệu của y-sĩ
-a) Liệu pháp thực vật (phytothé-rapie) như: pygeum africanum, serenoa repens, hay ortie dioĩque, v.v.
-b) Inhibiteur de la 5-alpha-réduc-tase như: finastéride v.v.
-c) alphabloquants như: afluzosine, doxazosine v.v.
* Giải phẫu chỉ áp dụng cho những trường hợp nặng bất khả kháng và phương hại đến thận và bộ phận tiết niệu phần trên
-Đông phương
* Một vài phương dược chính thường được dùng tới như:
- Chữa trị sưng tấy tiền liệt tuyến ở người cao tuổi, dược vị gồm có:
Nấm hương (Lentinus Edodes), Nấm linh chi (Ganoderma Lucidum), còn gọi là nấm trường thọ (champignon d'im-mortalité) hay nấm lim, cũng gọi là thuốc thần tiên, hay là linh chi thảo, Mộc nhĩ,còn gọi là nấm tai mèo (Auriculariaceae) v.v.
Hoặc phương thang với dược vị chính gồm có: Cam thảo (Radix Glycyrrhi-zae), Hoàng bá (Cortex Phellodendri), Hoàng kỳ (Radix Astragali), Nhục quế (Cinnamomum), Tri mẫu (Rhizoma Anemarrhenae), có tác dụng, bổ mạnh trung khí, tư thận,thông quan, chống phù sưng, trị bàng quang không khí hoá được gây nên tiểu bí, tiền liệt tuyến có khối u.
Hay công thức với dược vị chính gồm có: Bạch quả (Ginkgo Biloba), Cam thảo, Đảng sâm (Radix Codonopsis), Hoàng kỳ, Liên tử (Nelumbonaceae), Ngô thù du (Fructus Evodiae), Nhục quế, Nhục thung dung (Herba Cistan-ches- Caulis Cistanchis), Phục linh (Poria Cocos) v.v. có tác dụng ích khí, kiện tỳ, ôn bổ thận dương, trị tỳ thận đều hư, tiền liệt tuyến có khối u kèm tiểu bí, v.v.
Nhân sâm (Radix Ginseng), tăng cường năng lực trung tâm sinh hệ thần kinh, bổ mạnh khí huyết. Bạch truật (Rhizoma Atractylodis Alba), chống sưng phù (Sdème) đàm giải. Ích tri nhân (Fructus Alpiniae Oxyphyllae) chống đái vãi (incontinence d'urines), đái dầm (énurésie), v.v.
* Châm cứu: Một vài huyệt chánh dưới đây thường mang lại kết quả khả quan.
-Mệnh môn, Thận du, Quan nguyên để ôn bổ thận suy kém,
-Thượng liêu, Trung liêu trường hợp bị sung huyết (congestion) làm nghẽn đường tiểu (bí đái)
-Trung cực, Trung liêu để giảm bớt tuyến tiền liệt bi phì trướng (hypertro-phie),
-Bàng quang du và huyệt Trung cực để giảm hạ chứng lâm lịch (năng tiểu, lượng ít và đi khó khăn), hoặc đái són... nói chung là chứng lung bế. v.v.
KẾT LUẬN
Một chứng bệnh của giới mày râu ở lớp tuổi cao niên thường ngoài lục tuần.
Thực ra, khối u tiền liệt tuyến, không phải là bệnh, cũng chẳng phải là tật, mà như ta thường gọi là “bệnh tuổi già” (décrépit), thứ nữa, khi mà không có triệu chứng nào đáng kể, hay mang chứng bệnh nào thực thọ, thì ta chớ nên quấy nhiễu phiền hà họ với thuốc thang rầm rộ hay dùng đến giải pháp giải phẫu quá đáng, hầu để tránh bớt những hậu chứng (effets secondaires) khó lường, mà chứng liệt dương là mối lo ngại đáng kể trong tình nghĩa vợ chồng. Với phẩm dược tân kỳ, với kĩ thuật tối tân, với những phát minh vượt bực hiện đại, ta nên thận trọng, dè dặt vì rằng chẳng có thần dược hay đũa thần nào có thể thay đổi bộ máy kỳ diệu của con người được. Các y gia thời xưa có nói, ta nên “bổ những gì hư, tả những gì thực” tùy theo tiềm lực (potentiel) của mỗi cá nhân mà áp dụng. Muốn đạt được điều ấy, thiết tưởng với đường lối chữa trị bằng cách phòng ngừa (traitement préventif) là điều thích hợp và chính yếu. Ý thức được nguyên nhân của sự sa sút suy kém của giải tuyến tiền liệt, việc làm đầu tiên của người thầy thuốc là chăm bón, bồi bổ khí lực tiềm năng của thận. Thận, theo quan niệm cổ Y, một trong ngũ tạng tối ư quan trọng, đặc biệt trong giới nam là tạng chứa tinh, và chức năng là quản đốc dương khí của toàn thân, trong đó tuyến tiền liệt (prostate) tượng trưng cho một trong những bộ phận tối ư quan trọng, sánh với tử cung, một trong những phủ kỳ hằng (entrailles curieuses) của giới nữ. Vậy ta thường có câu: "Ngừa bệnh hơn chữa bệnh".
“ Bác sĩ ơi, bác sĩ nói tôi thiếu máu, sao không cho tôi uống thuốc?”
Thiếu máu là một tình trạng do sự bất thường của các hồng huyết cầu (red blood cell), ngay từ lúc sinh ra hay mới bị sau này, hoặc là biểu hiện của một bệnh không phải bệnh về máu. Khi có thiếu máu, khối lượng hồng huyết cầu lưu thông trong máu sút giảm, trị số hemoglobin của người thiếu máu dưới 12 g/dl nếu là phụ nữ, dưới 14 g/dl nếu là đàn ông.
TRIỆU CHỨNG
Triệu chứng tùy vào nguyên nhân gây thiếu máu, mức độ thiếu máu nhẹ hay nặng, thiếu máu xảy ra từ từ hay mau chóng. Nhiều trường hợp thiếu máu nặng vẫn không gây triệu chứng gì cả nếu thiếu máu xảy ra chậm chậm qua nhiều ngày tháng; nhưng thường, khi trị số hemoglobin (viết tắt Hb) xuống dưới 7 g/dl, người bệnh sẽ thấy mau mệt, nhức đầu, khó thở, choáng váng, đau ngực. Khi người bệnh trông xanh quá, than nhìn không còn rõ, xỉu, tim đập nhanh, ta nên mau chóng thăm khám và chữa trị ngay.
Nhiều trường hợp thiếu máu được khám phá khi bác sĩ tình cờ thử CBC (complete blood count, đếm máu toàn diện: cho biết các trị số bạch cầu, hồng cầu, Hb, tiểu cầu, thể tích hồng cầu, xem hồng cầu bình thường, to hoặc nhỏ... Thường ta thử CBC mỗi 3 năm để truy tìm thiếu máu, và các bệnh về máu khác).
NGUYÊN NHÂN
Nguyên nhân tạo thiếu máu rất nhiều:
- Thiếu máu do thiếu chất sắt: chiếm đến 25-35% các trường hợp thiếu máu, xảy ra trong những trường hợp mất máu lâu ngày, như phụ nữ ra máu nhiều khi có kinh; ung thư ruột già khiến máu âm thầm chảy rỉ rả ngày này sang ngày khác, dù mắt ta không nhìn thấy...
- Do bệnh kinh niên: cũng chiếm 25-35% các trường hợp thiếu máu. Các bệnh kinh niên như bệnh thận, bệnh gan, bệnh tuyến nội tiết... lâu ngày có thể khiến ta đâm thiếu máu.
- Tan huyết (hemolytic anemia, các hồng huyết cầu bị phá hủy) và tủy xương không tạo đủ máu: 15% các trường hợp thiếu máu.
- Bệnh myelodysplasia: 10% các trường hợp thiếu máu.
- Bệnh thalassemia (khiến hồng huyết cầu có dạng nhỏ): 5-10% các trường hợp thiếu máu.
- Các bệnh khác: 5-10% các trường hợp thiếu máu. Chẳng hạn như bệnh thiếu chất sinh tố B12, thiếu chất folate...
THĂM KHÁM
Bạn thấy, thiếu máu có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Có nguyên nhân lành thôi (tại ra kinh hơi nhiều mỗi tháng), song cũng nhiều nguyên nhân độc (ung thư ruột già, ung thư máu...). Thiếu máu, không giản dị chỉ cho “thuốc bổ máu” rồi xoa tay yên tâm. Ta cần tìm hiểu tại sao lại thiếu máu vậy.
Việc tìm hiểu tại sao thiếu máu nếu không khéo sẽ rất tốn kém. Thử máu lung tung vừa tốn kém, đã vậy lắm khi không đưa đến định bệnh. Thế nên, tìm hiểu tại sao bạn thiếu máu ta nên làm từng bước một.
Bệnh gì cũng thế, trừ trường hợp khẩn cấp, tìm hiểu bao giờ cũng bắt đầu bằng phần trò chuyện, danh từ chuyên môn gọi là bệnh sử (history). Bác sĩ thân mật hỏi bạn, xem bạn có biết bạn thiếu máu, và từ hồi nào. Nếu bạn trả lời: “Ôi, bác sĩ lo gì. Tôi bị bệnh thalassemia từ hồi mới đẻ, hồng cầu có dạng nhỏ, thử ra lúc nào cũng thấy thiếu máu, nhưng tôi khỏe lắm. Đây tôi đem kết quả thử CBC 10 năm trước, so với thử máu của bác sĩ vừa làm, cũng vẫn vậy”. Thế thì ta yên tâm, không cần làm gì thêm, chỉ thỉnh thoảng thử lại CBC xem có gì thay đổi.
Còn bạn trả lời: “Không bác sĩ ạ, trước giờ chưa bác sĩ nào nói tôi thiếu máu cả. Mới năm trước, tôi mua bảo hiểm nhân thọ, họ thử máu, rồi vui vẻ bán bảo hiểm cho tôi, có thấy họ nói gì đâu. Bây giờ bác sĩ bảo Hb tôi có 9 thôi, thấp quá, thảo nào tôi hay thấy mệt mệt”, thì ta phải tìm hiểu tiếp tại sao bạn lại thiếu máu.
Bước kế trên đường tìm sao bạn bỗng nhiên đâm thiếu máu trong vòng 1 năm qua, xin bạn cho biết ngoài chuyện bạn hay thấy mệt mệt, bạn còn triệu chứng gì khác (ra kinh nhiều, đi cầu ra máu...), hiện có bệnh gì quan trọng (bướu tử cung, suy tuyến giáp trạng, bệnh gan, bệnh thận...) và đang dùng những thuốc gì (một số thuốc có thể làm tan huyết).
Sang phần thăm khám, bác sĩ cẩn thận tìm xem bạn có nổi hạch bất thường (ung thư máu, ung thư hạch...), bạn có vàng da, vàng mắt (bệnh gan, bệnh tan huyết...), gan và lá lách (spleen) bạn có to lên (bệnh gan, bệnh về máu...), xương bạn sờ thấy thốn đau (ung thư máu...), tử cung bạn to lên vì bướu (nên bạn ra kinh nhiều), trong phân bạn có máu (ung thư bao tử, ung thư ruột già)...
THỬ NGHIỆM
Phần này hơi chuyên môn một chút, mong bạn tiếp tục theo dõi, và bạn sẽ hiểu tại sao bác sĩ chưa vội cho thuốc (thực ra, bác sĩ đã biết bạn vì sao thiếu máu đâu).
Khi làm thêm các thử nghiệm để tìm hiểu nguyên nhân gây thiếu máu, ta luôn nên thử hemoglobin (Hb) và hematocrit (Hct), reticulocyte count (đếm tế bào reticulocyte), mean corpuscular volume, và làm peripheral blood smear (xem phết máu ngoại biên).
Hemoglobin (Hb) và hematocrit (Hct) là hai trị số biểu hiệu cho khối lượng của hồng huyết cầu (red blood cell mass), giúp ta biết có thiếu máu hay không: có thiếu máu khi Hb dưới 12 g/dl (hematocrit dưới 36%) ở phụ nữ, và dưới 14% (hematocrit dưới 41%) ở đàn ông. Hai trị số hemoglobin (Hb) và hematocrit (Hct) thường đi song hành với nhau, cao cùng cao, thấp cùng thấp.
“Reticulocyte count” (đếm tế bào reticulocyte) phản ảnh mức độ sản xuất hồng huyết cầu mau hay chậm, cho biết tủy xương (bone marrow) đã đáp ứng ra sao trước sự thiếu máu. Nếu reticulocyte count thấp, sẽ cho ta thấy tủy xương bệnh, không sản xuất đủ các hồng cầu; ngược lại, khi trị số này cao, ta biết đang có sự thất thoát hồng cầu quá mức (như chảy máu đường tiêu hóa, chảy máu đường sinh dục...), hoặc đang có hiện tượng tan huyết, hủy hoại hồng cầu bất thường trong cơ thể (vì chuyền sai máu, vì dùng thuốc...)
“Mean corpuscular volume” (MCV, đo khối lượng trung bình của hồng cầu) thường được dùng để phân loại thiếu máu: thiếu máu với hồng huyết cầu có dạng nhỏ (trị số MCV sẽ thấp, như trong trường hợp thiếu máu do thiếu chất sắt, do bệnh bẩm sinh thalassemia); thiếu máu với hồng huyết cầu có dạng bình thường (trị số MCV bình thường, như trường hợp thiếu máu vì có bệnh kinh niên); thiếu máu với hồng huyết cầu có dạng to (trị số MCV gia tăng, như trường hợp thiếu máu do thiếu sinh tố B12, thiếu chất folate...).
Để tìm nguyên nhân gây thiếu máu, xem một phết máu ngoại biên dưới kính hiển vi (peripheral blood smear) cũng là điều cần thiết. Dưới kính hiển vi, ta có thể thấy hồng huyết cầu nhỏ dạng hay to vóc, các hồng huyết cầu cùng lứa hay đứa to đứa nhỏ, trông giống nhau hay đứa tròn đứa méo. Đồng thời, dưới kính hiển vi, ta cũng có thể xem các bạch huyết cầu (white blood cell) và tiểu cầu (platelet, có nhiệm vụ trong sự đông máu) có bất thường không; nhiều bệnh về máu không những gây thiếu máu, còn tạo những bất thường cho bạch huyết cầu và tiểu cầu.
Trên là những thử nghiệm sơ khởi trên bước đường đi tìm nguyên nhân gây thiếu máu. Tùy kết quả những thử nghiệm trên, có khi còn cần thêm nhiều thử nghiệm kế tiếp nữa. Nếu cần, chúng ta sẽ nhờ đến bác sĩ chuyên khoa về máu (hematologist) tiếp tay, làm những thử nghiệm đặc biệt, kể cả việc đâm kim vào tủy xương rút ra chút tủy để nhuộm và xem dưới kính hiển vi (bone marrow biopsy): việc này giúp cho thấy có thiếu chất sắt trong tủy hay không, có bệnh lao hoặc ung thư ăn lan vào tủy...
CHỮA TRỊ
Đến đây, bạn đã rõ vấn đề thiếu máu lắm khi rất nhiêu khê, việc chữa trị không giản dị chỉ cho “thuốc bổ máu” rồi xoa tay yên tâm, đêm ngủ thẳng giấc. Việc chữa trị tùy nguyên nhân gây thiếu máu ta tìm ra, và con đường truy tìm nguyên nhân nhiều trường hợp phải trải từng giai đoạn một. Bạn đừng ngạc nhiên và giận khi thấy bác sĩ cứ thử máu bạn hoài.
Rồi nhiều khi tìm ra nguyên nhân gây thiếu máu, bệnh lại không có thuốc chữa (như bệnh thalassemia, khiến hồng cầu có dạng nhỏ). Như vậy, chữa thiếu máu quả tùy từng trường hợp. Sợ bài dài quá, nên chỉ xin lấy hai trường hợp thiếu máu do thiếu chất sắt sau làm thí dụ chữa trị.
Có cháu gái 16 tuổi, than hay choáng váng, mắt tối đen lúc ngồi xuống đứng lên. Khi khám trông cháu hơi xanh. Hỏi thêm, cháu nói kinh cháu ra đều mỗi tháng nhưng khá nhiều, mỗi lần ra có máu cục. Thử máu thấy Hb thấp, chỉ 9.2 (bình thường 12-16 ở phụ nữ), trị số MCV thấp, và chất sắt trong máu cũng thấp nốt: ta biết cháu thiếu máu do thiếu chất sắt vì kinh ra nhiều. Chữa bằng chất sắt, trong vòng vài tuần thử lại sẽ thấy Hb trở về bình thường, và cháu không còn thấy choáng váng, mắt tối đen lúc ngồi xuống đứng lên nữa. Ta dặn cháu tiếp tục uống chất sắt cho đều.
Một bác gái khác, trên 50, mãn kinh đã mấy năm, gần đây có triệu chứng tương tự như cháu gái 16 tuổi kể trên, thử máu ra cũng thấy y vậy: Hb thấp, chỉ 9.2, trị số MCV thấp, và chất sắt trong máu cũng thấp nốt. Hỏi bác, bác cho biết từ nhỏ đến giờ, bác chưa từng bị thiếu máu. Trường hợp này đáng lo lắm, không coi thường được, ung thư ruột già hay xảy ra cho người trên 50 tuổi, hay gây chảy máu đường tiêu hóa âm thầm đưa đến thiếu máu. Ta cho bác uống tạm chất sắt, rồi gửi đến bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa nhờ soi ruột già. Ta căn dặn bác đừng tin vào “thuốc bổ máu”, uống thử trước đã, triệu chứng không bớt mới đi soi ruột già, không, bác nên đi xem bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa càng sớm càng tốt.
Vậy, thiếu máu, do nhiều nguyên nhân lành, mà cũng có thể do những nguyên nhân rất dữ. Việc định và chữa thiếu máu thường phải qua nhiều giai đoạn, cần lấy thêm máu để thử. Có khi, ta cần đến cả sự giúp đỡ của bác sĩ chuyên khoa máu. Bạn có thể kêu trời, “Tôi đã thiếu máu, chẳng thấy cho thuốc bổ máu gì cả, lại cứ lấy máu thêm! Hết bác sĩ chính (primary care physician), rồi bác sĩ chuyên khoa máu, còn đòi lấy tủy xương đem thử nữa chứ”. Thưa bạn, nhiều trường hợp thiếu máu, tìm nguyên nhân không dễ, việc phải làm ta nên làm, xin bạn hiểu cho.
Kỳ này, mời quí độc giả đọc một bài viết của Bác sĩ Thiện Y về bệnh tiểu đường. Bác sĩ Thiện Y là bác sĩ Y khoa, hiện cư ngụ tại Tennessee, Hoa Kỳ.
BS. Nguyễn Văn Đức
Xe chạy được phải có xăng. Cơ thể của ta cũng thế, đường là nhiên liệu cần thiết để vận hành. Đường ta ăn hằng ngày. Cơm gạo, bánh mì, sắn, khoai... nghĩa là những chất bột ăn vào sẽ biến thành đường (glucose) hết.
Như xăng chạy máy, đường sẽ đốt thành năng lượng cho cơ thể. Không có xăng thì máy chết. Nhịn mãi, không có đường chúng ta không sống nổi. Nhưng hiện diện quá độ ở trong máu, đường sẽ bị thận tống ra trong nước tiểu. Thế là ta bị bệnh tiểu đường.
Bộ máy con người tinh vi hơn máy xe hơi. Sau một bữa ăn thịnh soạn, cơm gà cá gỏi chừa bứa lại thêm “đét xe” (“đì dợc” = tráng miệng = tráng mồm) bánh ngọt, số lượng đường biến chế ra trong cơ thể phải thật cao, ấy thế mà thử đo trong máu, thấy cũng chỉ nhinh nhích lên chút thôi. Số là cơ thể ta biết điều chỉnh, dư thừa thì cất đi. Đúng thế, nhờ biết điều chỉnh mà dù ta có nhịn đói ít lâu, đường trong máu cũng không xuống thấp quá, vì cơ thể lại mang đường dự trữ trong gan ra xài.
Thường thì mấy ai nhịn đói. Thời buổi này đâu cũng thế, ở nước giầu cũng như nước nghèo, ăn uống luôn là thái quá. Thành ra đường dư thừa hết cỡ, dự trữ riết không nổi, gây ra tình trạng mập béo. Và tai hại là cơ thể lâu ngày hết chịu nổi, phải phế thải đuờng ra trong nước tiểu.
Bệnh tiểu đường thường không xuất hiện ngày một ngày hai, mà âm ỷ cả hằng nhiều năm, cho đến khi biết thì biến chứng đã đầy dẫy ra rồi.
Đường cao trong máu làm hư thần kinh, hỏng tim, óc, mắt, thận... Bao nhiêu người chịu cảnh mù loà vì tiểu đường. Khối người tê chân, cụt cẳng vì đường cao kinh niên. Người bị cơ tim nhồi máu (myocardial infarction = heart attack = kích tim) do bệnh đường cao lâu ngày. Tai biến mạch não (cerebral vascular accident = stroke = kích não, thường bảo là đứt gân máu, thực ra thì cả đứt lẫn nghẹt) cũng vì đường thái quá kinh niên. Máu cao, bại thận, cũng hậu quả của tiểu đường….
Ta nên để ý xem có mắc tiểu đường không. Tiểu đường có thể gây những triệu chứng sau:
- Đi tiểu hoài
- Khát quá
- Xuống cân vô cớ
- Háu đói
- Cứ mệt cả ngày
- Chân hoặc tay thấy rần rần hay tê tê
- Da dẻ khô
- Lở lâu lành
Nhưng đa số các trường hợp tiểu đường âm thầm, không gây triệu chứng.
Phải khám phá kịp thời tiểu đường để còn có biện pháp đối phó trước khi biến chứng nguy hại xẩy ra. Tiểu đường rất thường thấy. Chỉ trong khoảng 10 năm qua thôi, số người bị tiểu đường ở Mỹ đã tăng gấp đôi. Người Á Châu dễ bị tiểu đường hơn nữa. Ở Mỹ, con số người bị tiểu đường ước lượng là 16 triệu, trong đó có 6 triệu không hay biết mình đang bệnh. Tiểu đường thường âm thầm. Bởi thế chúng ta phải để ý định bệnh sớm để ngừa các biến chứng nguy kịch cho tính mạng do độ đường cao kinh niên gây ra.
Thử nghiệm GHbA1C (Glycohe-moglobin) sẽ cho ta biết tỷ số đuờng bám vào hồng cầu trong máu. Ở người bình thường, thử nghiệm GHbA1C dưới 6%. Đường cao khi GHbA1C trên 7%.
Ai nên thử nghiệm? Người có triệu chứng ghi trên, và những người mập. Người đang điều trị tiểu đường cũng ít tháng thử A1C một lần, ngoài việc thử đường tự làm lấy ở nhà. Người nghi ngờ bị tiểu đường… nếu có GHbA1C trên 7%, nên được trị liệu ngay.
Có thể bệnh nhân chỉ cần thay đổi nếp sống là đủ: tập thể dục, cữ ăn sẽ đem độ đường xuống. Nếu cần bác sĩ sẽ kê toa thuốc uống hạ đường hay cả thuốc uống lẫn thuốc chích insulin.
Khắp hoàn cầu, tiểu đuờng mỗi ngày mỗi gia tăng. Thị trấn hoá, kỹ nghệ hoá, cơ giới hoá đã làm con người trở nên tĩnh tại, bước bước xe, ngồi tại chỗ, hết tám chín tiếng hay hơn ở sở là về nhà nằm khểnh xem truyền hình. Cơ thể thiếu vận động, thực phẩm lại dư thừa. Chúng ta ăn nhiều quá. Thuở củi châu gạo quế, ăn uống còn chừng mực, bây giờ cái ăn đã sẵn lại rẻ, thôi thì cứ việc chén thả giàn. Quen với đời đạm bạc xưa (có khi vì hoàn cảnh còn đói khát nữa), nay bất thần phải đương đầu với nếp sống quá sung mãn, cơ thể không kham nổi số đường cung cấp chừa bứa mỗi ngày mà đâm “liệt” như máy bị ngộp xăng vậy.
KẾT LUẬN:
Lối sống của chúng ta thật nguy hiểm: ăn nhiều vận động ít, tiểu đường thật dễ mắc, rất âm thầm, không hay biết.
Nhiều người chúng ta nghĩ, ha, cúm thì có gì đâu, nặng hơn cảm chút đỉnh ấy mà, hai năm qua tôi chả chích ngừa, cũng chẳng sao! Thế mà, theo một bài trong tạp chí “Patient Care” dành cho các bác sĩ số tháng 11 này, các chuyên gia y tế hàng đầu của ba cơ quan National Foundation for Infectious Diseases, National Coalition for Adult Immunization, và Centers for Disease Control and Prevention (CDC) đều khẩn thiết khuyên các bác sĩ năm nay cố thuyết phục những vị bệnh nhân cần chích ngừa cúm song đến giờ vẫn chưa, nên thực hiện việc này ngay đi.
CÚM NĂM NAY CÓ LẼ SẼ DỮ
Hai Mùa Đông qua, cúm đến rồi đi nhẹ nhàng thôi nên nhiều vị trong chúng ta coi thường. Nhưng năm nay có lẽ nó sẽ rất dữ.
Úc Châu đang trải qua một mùa cúm nặng nhất trong vòng 5 năm rồi. Và từ trước giờ, khi nào cúm ở Úc hoành hành mạnh, thì y như rằng ở Mỹ, nó cũng hung hăng ghê lắm. Vì thế, các chuyên gia y tế mới lo ngại Mùa Đông tháng giá sắp tới chúng ta sẽ khó yên lành với cúm.
“Nếu ở Mỹ ta, mà có nhiều người sẽ đau khổ và chết vì cúm, thì thực không thể chấp nhận được,” Bác Sĩ Julie Gerberding, Giám Đốc Trung Tâm Kiểm Soát Và Phòng Ngừa Bệnh Tật (CDC) phát biểu, tại Hiệp Hội Báo Chí Quốc Gia (National Press Club) vào tháng 09 vừa qua.
Đúng, thuốc ngừa cúm năm nay rất nhiều, không khan hiếm đến giành giật như mấy năm trước, nên để đau khổ hoặc tử vong vì cúm thì thật uổng. 85 triệu lượng thuốc chích ngừa cúm đã được chế sẵn sàng cho năm nay, thêm vào đó, 4 triệu lượng thuốc ngừa qua đường xịt vào mũi (FluMist), cho những người khỏe mạnh trong hạn tuổi 5 đến 49 muốn ngừa, nhưng không thích bị chích.
Năm nay, các chuyên gia y tế đặc biệt lưu ý những người bệnh suyễn nên chích ngừa cúm. Nhiễm cúm, sẽ khiến suyễn quay lại, hoặc trở nặng, và người lớn cũng như trẻ em mang bệnh suyễn rất dễ có biến chứng gây do cúm, như sưng phổi, nhiễm trùng hô hấp cấp tính, và chết. Theo Chương Trình Giáo Dục Và Phòng Ngừa Suyễn (National Asthma Education and Prevention Program), chích ngừa cúm là “một trong những mặt chữa trị thiết yếu giúp người bệnh suyễn vui sống”.
Tuy vậy, một khảo cứu gần đây cho biết, số người bệnh suyễn không ít (đến 5-10% dân số), song điều đáng ngạc nhiên là đa số những người bệnh suyễn lại không được chích ngừa cúm hàng năm. Những vị làm khảo cứu thấy, theo những dữ kiện ghi nhận trong các năm 1999-2001, chỉ có 1/3 (một phần ba) người lớn có bệnh suyễn, và 1/5 (một phần năm) người lớn có bệnh suyễn dưới 50 tuổi được chích ngừa cúm. Khảo cứu đưa ra một số lý do có thể vì đó, số người bệnh suyễn chích ngừa cúm không nhiều, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh việc các bác sĩ nên cố vượt qua những trở ngại này, và tích cực chích ngừa cúm cho người bệnh suyễn.
Các chuyên gia y tế cũng khuyên những vị cần chích cúm, cùng lúc, nên chích ngừa luôn bệnh sưng phổi gây do vi trùng Pneumococcus (loại vi trùng gây bệnh sưng phổi nhiều nhất). Ngừa cúm thì hàng năm, trước và trong mùa cúm (tốt nhất vào tháng 10 đến giữa tháng 11 trước khi cúm đến), còn chích ngừa bệnh sưng phổi do vi trùng Pneumococcus, thường chỉ cần một mũi trong đời. Chương trình Medicare trả cho cả chích ngừa cúm lẫn chích ngừa bệnh sưng phổi do vi trùng Pneumococcus.
NHỮNG AI CẦN CHÍCH NGỪA CÚM?
Cơ Quan Y Tế Công Cộng Hoa Kỳ (US Public Health Service) đề nghị chích ngừa cúm cho các trẻ em (từ 6 tháng trở lên) và những người lớn bị nguy hiểm nếu nhiễm cúm:
- Người lớn 50 tuổi trở lên, dù không có bệnh gì quan trọng.
- Trẻ em trong khoảng tuổi 6-23 tháng.
- Phụ nữ mang thai, thai kỳ sẽ vào tháng thứ 4 trở đi khi mùa cúm đến.
- Trẻ em tuy ngoài khoảng tuổi 6-23 tháng và người lớn tuy dưới 50, tuy không mang thai, nhưng đang mang các bệnh kinh niên như bệnh tim, bệnh phổi (kể cả suyễn như chúng ta đã đọc ở đoạn trên), bệnh thận, bệnh tiểu đường, thiếu máu nặng, bệnh AIDS, v.v.. hoặc người đang dùng những loại thuốc khiến sức kháng cự của cơ thể suy giảm (như thuốc Prednisone), thuốc chống ung thư.
- Người trong các viện chăm sóc đặc biệt (nursing homes).
- Người dưới 19 tuổi đang phải uống Aspirin lâu dài (vì họ có thể bị hội chứng Reye nếu nhiễm cúm).
- Các bác sĩ, y tá và nhân viên y tế, có nhiệm vụ trực tiếp săn sóc những người thuộc các thành phần kể trên, cả người nhà (household contacts) nữa, cũng nên chích ngừa để tránh nhiễm cúm rồi lây lại cho người thuộc các thành phần cần được chích ngừa cúm kể trên.
Ngoài ra, tuy không thuộc các thành phần trên, song sợ cúm dữ, ai trong chúng ta cũng có thể chích ngừa (trừ người nào bị nhạy ứng với trứng). Năm nay có thêm thuốc ngừa FluMist xịt vào mũi, nhưng FluMist chứa các siêu vi còn hoạt tính, chỉ yếu đi thôi, vẫn có thể gây bệnh, nên chỉ dùng ngừa cho người khỏe trong khoảng tuổi 5 đến 49, và không ở chung nhà với những vị thuộc các thành phần cần chích ngừa cúm kể trên. Các nhân viên y tế cũng không được dùng FluMist.
Các chuyên gia y tế bấm quẻ, Mùa Đông năm nay coi bộ dữ nhiều lành ít, chúng ta chẳng nên giỡn mặt với cúm làm gì, vị nào cần chích ngừa cúm song vẫn còn chưa nên chích ngay đi thôi. Nhiều nơi bắt đầu có cúm hoành hành rồi.