Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 17 TN1, Năm B
Bài đọc: Exo 33:7-11, 34:5-9, 28; Mt 13:35-43.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa sẽ trả lại cho con người tùy theo việc làm của họ.
Không ai có thể phủ nhận sự hiện diện của ác thần mà chúng ta gọi là ma quỉ trong cuộc sống. Trong khi người thiện tâm và cầu tiến luôn tìm cách vươn lên; thì có một thế lực luôn kéo ghì con người xuống. Thánh Phaolô đã trình bày kinh nghiệm này như sau: "Điều tôi muốn, tôi không làm; nhưng lại làm điều tôi không muốn... Ai có thể cứu tôi khỏi tình trạng thảm thương này?" Nhiều người lo sợ ác thần đang có cơ hội thắng thế và một ngày sẽ làm chủ thế giới này!
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật sự đối nghịch giữa tình thương của Thiên Chúa dành cho con người với sự phá hủy của ma quỉ, muốn lôi kéo con người về phía chúng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Xuất Hành trình bày sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người qua "cột mây" trước Lều Hội Ngộ và sự đàm đạo với ông Moses như một người bạn để mặc khải kế hoạch của Ngài cho dân chúng; trong khi quỉ thần luôn tìm cách khích động dân phản động quay lưng lại với Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn cỏ lùng cho các môn đệ. Thiên Chúa luôn gieo những hạt giống tốt vào thế gian; trong khi quỉ thần luôn tìm cách gieo những cỏ lùng. Ngài sẽ kiên nhẫn chờ đợi cho đến Ngày Tận Thế, khi các thiên thần của Ngài sẽ đi gom nhặt tất cả các quỉ thần và đồng bọn của chúng để tiêu diệt muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa luôn hiện diện với dân Ngài qua "cột mây" trước Lều Hội Ngộ.
1.1/ Thiên Chúa hiện diện với con cái Israel dưới nhiều hình thức: Suốt 40 năm lang thang trong sa mạc, Thiên Chúa luôn tỏ sự hiện diện của Ngài dưới nhiều hình thức khác nhau:
(1) Lều Hội Ngộ và cột mây: "Ông Moses lấy một chiếc lều và đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa. Ông gọi lều ấy là Lều Hội Ngộ. Ai thỉnh ý Đức Chúa thì ra Lều Hội Ngộ, ở ngoài trại. Mỗi khi ông Moses ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy đứng ở cửa lều mình và nhìn theo ông Moses cho đến khi ông vào trong Lều. Mỗi khi ông Moses vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và Đức Chúa đàm đạo với ông Moses. Khi thấy cột mây đứng ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình."
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn hiện diện với con người dưới hình thức khác nhau, nhất là trong Nhà Tạm, nơi Ngài chờ con người đến thăm viếng và tâm sự với Ngài. Giống như con cái Israel, chúng ta cần có thái độ cung kính trước sự hiện diện của Thiên Chúa, mỗi khi chúng ta đến thăm viếng Thiên Chúa trong nhà thờ.
(2) Thiên Chúa nói với dân qua người lãnh đạo: Trình thuật kể: "Đức Chúa đàm đạo với ông Moses, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau."
+ Đây là một đặc quyền Thiên Chúa ban cho ông Moses, được đàm đạo với Ngài diện đối diện mà không phải chết, dù đây chỉ là kiểu nói của người đời vì Thiên Chúa không có mặt người. Đây cũng là hy vọng tối cao cho mỗi người chúng ta, khi chúng ta được nhìn thấy Thiên Chúa như Ngài là, trong thị kiến tuyệt hảo (beatific vision). Theo mối thứ sáu của Bát Phúc, chỉ có những ai có lòng thanh sạch mới được nhìn thấy Thiên Chúa. Ông Moses phải là người có tâm hồn trong sạch.
+ Thiên Chúa vẫn đang nói với chúng ta qua các nhà lãnh đạo: Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các cha, thầy, sơ, và các cha mẹ chúng ta; để qua họ, chúng ta nhìn thấy rõ hơn những gì Ngài muốn trong cuộc đời chúng ta.
1.2/ Thiên Chúa luôn trung tín và công bằng: Trong thị kiến hôm nay, Đức Chúa mặc khải cho ông Moses những sự thật về Ngài: "Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông."
(1) Tội lỗi và hình phạt: Vì Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, Ngài sẽ tha thứ tội lỗi nếu tội nhân biết ăn năn hối cải; nhưng họ vẫn phải lãnh nhận hình phạt tùy theo tội trạng của mình. Hình phạt có thể là chính những thiệt hại con người gây nên cho mình; ví dụ, tội kiêu căng sẽ bị mọi người xa tránh. Hay con người phải chịu những hình phạt vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; ví dụ, 3 năm tù vì đã gây thiệt hại vật chất cho tha nhân.
(2) Ông Moses bầu cử cho dân chúng: Ông Moses vội vàng phục xuống đất thờ lạy và thưa: "Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài." Giống như tổ-phụ Abraham bầu cử cho dân thành Sodom, ông Moses cũng bầu cử cho con cái Israel. Ông xin Thiên Chúa luôn hiện diện với dân và nhận họ làm dân riêng của Ngài. Chỉ những người được coi là nghĩa thiết với Thiên Chúa, mới có thể làm được điều này.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng cho các môn đệ.
2.1/ Nghĩa biểu tượng (allegorical) của dụ ngôn cỏ lùng: Bấy giờ, Đức Giêsu bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe." Rất ít dụ ngôn có nhiều những nghĩa biểu tượng như Chúa Giêsu cắt nghĩa về dụ ngôn cỏ lùng:
+ Kẻ gieo hạt giống tốt: là Con Người, chính Đức Kitô.
+ Kẻ thù đã gieo cỏ lùng: là quỷ thần, những kẻ đối nghịch với Thiên Chúa.
+ Ruộng: là thế gian. Nhiều người ví thế gian như một bãi chiến trường giữa thiện và ác.
+ Hạt giống tốt: là con cái Nước Trời, những người muốn sống theo sự thật và sự tốt lành.
+ Cỏ lùng: là con cái Ác Thần, những người từ chối sống theo đường lối của Thiên Chúa.
+ Mùa gặt: Như mùa gặt phải đến với nhà nông, Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ đến với con người. Thợ gặt là các thiên thần.
2.2/ Ngày Tận Thế sẽ xảy đến: Mục đích của dụ ngôn thường chỉ muốn nói lên một điều chính yếu. Điều chính yếu trong dụ ngôn cỏ lùng là sự hiện diện của quỉ thần trong cuộc sống con người. Chúng cạnh tranh với Thiên Chúa để lôi kéo con người theo chúng; nhưng chúng chỉ có quyền hạn trên con người cho tới Ngày Tận Thế. Trong ngày đó, quỉ thần và con cái của chúng sẽ bị tiêu diệt muôn đời, như lời Chúa Giêsu tuyên bố hôm nay: "Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến Ngày Tận Thế cũng sẽ xảy ra như vậy."
(1) Số phận của ma quỉ và con cái của chúng: "Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng."
(2) Số phận của con cái Nước Trời: "Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chịu trách nhiệm về tất cả hành động khi còn sống trên dương gian này. Vì thế, chúng ta phải cố gắng hết sức để sống theo những gì Thiên Chúa dạy bảo.
- Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ tới như ngày thu hoạch mùa màng của nhà nông. Trong Ngày đó, quỉ thần và ác nhân sẽ bị tiêu diệt như cỏ lùng; còn người công chính sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời. Chúng ta đừng dại dột để sống theo cám dỗ của chúng để khỏi bị tiêu diệt muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 17 TN1, Năm B
Bài đọc: Exo 32:15-24, 30-34; Mt 13:31-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức tin vững mạnh cần thiết để vượt qua gian khổ cuộc đời.
Trong thực tế, biết bao ví dụ đã chứng minh: càng sung sướng hạnh phúc bao nhiêu, con người càng dễ dàng quay lưng lại với Thiên Chúa và chạy theo những cám dỗ của ba thù bấy nhiêu. Vì thế, con người cần học hỏi để biết làm chủ vật chất, trước khi đương đầu với sự thành đạt cuộc đời. Một khí cụ tối cần thiết để con người có thể làm chủ cuộc đời là sự vững mạnh của đức tin và cuộc sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy sự cần thiết của đức tin trong việc đối đấu với những chước cám dỗ. Trong Bài Đọc I, con cái Israel bỏ quên Thiên Chúa để tự tạo cho mình một con bê bằng vàng để thờ lạy, đang khi Thiên Chúa và ông Moses vất vả để thiết lập Thập Giới cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn để dẫn chứng sự cần thiết phải làm cho đức tin vững mạnh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoại trừ Ta.
1.1/ Con cái Israel tự tạo cho mình một thần bê vàng để thờ lạy.
(1) Thiên Chúa quan tâm dạy dỗ dân qua Thập Giới: Đã dùng cánh tay uy hùng để đưa dân ra khỏi đất nô lệ cho người Ai-cập, Thiên Chúa còn thân hành dạy dỗ bằng cách ban Thập Giới cho con cái Israel qua vị lãnh đạo là ông Moses. Sau khi đã nhận lãnh Thập Giới từ Thiên Chúa, trình thuật kể: "Ông Moses từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Giao Ước; những bia ấy có viết cả hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. Những bia ấy là do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia."
Khi tiến đến gần chân núi, hai ông nghe tiếng dân reo hò. Ông Joshua nói với ông Moses: "Có tiếng giao tranh trong trại!" Nhưng ông Moses nói: "Tôi nghe không phải tiếng ca chiến thắng, không phải lời than bại trận mà là tiếng ca đối đáp!" Và khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa: "Ông tức giận và ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi. Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt nước, rồi bắt con cái Israel uống."
Ông Moses có ít nhất hai lý do để nổi giận với dân: Thứ nhất, con cái Israel đã mù quáng quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa: thay vì phải kính mến yêu thương Người đã làm biết bao điều tốt lành cho mình lại chạy theo thờ phượng một con bò vô tri vô giác. Thứ hai, con cái Israel đã quá ngu dốt: trong khi Thiên Chúa đang lo lắng xây đắp một tương lai huy hoàng và vinh quang cho dân, họ lại chạy theo một bức tượng do bàn tay con người nhào lặn nên, chẳng có tí quyền năng gì cả.
(2) Lý do thờ bê vàng: Ông Moses hỏi ông Aaron, người đã ở lại với dân khi ông lên núi gặp gỡ Chúa: "Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm một tội lớn như thế?" Ông Aaron nói: "Xin ngài chớ bừng bừng nổi giận; chính ngài biết dân này có khuynh hướng xấu. Họ nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Moses này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập. Tôi nói với họ: Ai có vàng? Họ đã gỡ đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này."
Tục ngữ Việt-nam có câu rất thích hợp cho trường hợp này: "no cơm rửng mỡ." Khi con người sống sung sướng hạnh phúc quá, họ bắt đầu làm chuyện đồi bại. Ngược lại, khi con người phải vất vả làm ăn và nghèo khó, họ biết thờ phượng, kính mến, và năng chạy đến với Chúa để kêu xin. Nhiều người lấy làm lạ tại sao trong hoang địa, không có dụng cụ luyện kim, mà ông Aaron có thể tạo thành con bê vàng này? Mục đích của tác giả không phải ở chỗ làm sao có con bê vàng; nhưng ở chỗ muốn chứng minh khuynh hướng sai lạc của con người khi đã có đầy đủ vật chất.
1.2/ Phạm tội phải đền tội:
(1) Ông Moses bầu cử cho dân: Tuy rất cương nghị trong khi sửa phạt con cái Israel; nhưng ông Moses rất có lòng thương họ. Ngày hôm sau, ông Moses nói với dân: "Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây tôi sắp lên gặp Đức Chúa; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em." Đây phải là đức tính của những người lãnh đạo trong Giáo Hội và các bậc làm cha mẹ: vừa phải dứt khoát theo sự thật khi giáo dục, vừa phải thương yêu và tha thứ khi họ đã nhận ra lỗi lầm. Ông Moses trở lại với Đức Chúa và thưa: "Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết." Ông Moses sẵn sàng hy sinh chết để toàn dân được sống.
(2) Thiên Chúa công bằng: Đức Chúa phán với ông Moses: "Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta. Bây giờ, ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã phạm." Tội của ai, người ấy chịu; ông Moses không được phép gánh lấy các hình phạt của dân. Thiên Chúa sẽ sửa phạt họ, nhưng Ngài vẫn cho họ có cơ hội để ăn năn và sửa chữa các khuyết điểm. Nếu cứ ngoan cố trong tội lỗi, họ sẽ tự cách biệt họ khỏi Thiên Chúa ngay từ đời này, chứ chưa cần phải đợi tới đời sau. Con cái Israel bị rắn lửa cắn chết là một điển hình.
2/ Phúc Âm: Phải làm sao cho đức tin lớn mạnh.
2.1/ Dụ ngôn hạt cải: Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác về sự cần thiết của Lời Chúa trong tiến trình tăng trưởng của đức tin. Người nói: "Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được."
+ Hạt cải của Palestine có thể trở thành cây: chứ không giống như hạt rau cải của Việt-nam. Nó có thể cho trở thành cây cao rợp bóng cho chim trời đến trú ngụ.
+ Đức tin là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người khi họ lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội, tuy bắt đầu nhỏ bé; nhưng con người có thể làm cho đức tin trở nên vững mạnh để sinh ích cho mình và cho người khác.
2.2/ Dụ ngôn nắm men: Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men."
+ Men cũ: là chút bột lấy từ lần làm bánh trước; tuy nhỏ nhưng có khả năng làm dậy tới ba thúng bột.
+ Đức tin của con người cũng thế, các tín hữu phải làm sao cho đức tin tăng trưởng và thấm nhập mọi khía cạnh của cuộc sống; để không những sinh ích cho bản thân, mà còn lan rộng đến những người trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ, và toàn thế giới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta luôn luôn phải đương đầu hằng ngày với những cám dỗ của cuộc sống; nếu không có một đức tin vững mạnh, chúng ta dễ bỏ Thiên Chúa để chạy theo cám dỗ của ba thù.
- Đức tin vững mạnh chúng ta có được là do sự luyện tập mỗi ngày qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và học hỏi Kinh Thánh để biết về Thiên Chúa và thực hành mỗi ngày.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 17 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: II Kgs 4:42-44; Eph 4:1-6; Jn 6:1-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin tưởng quyền năng Thiên Chúa và rộng lượng san sẻ cho mọi người.
Ca dao Việt-nam có câu: "Ở đời muôn sự của chung. Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi." Tư tưởng này rất gần với quan niệm của người Công Giáo: Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất và ban cho mọi người cùng hưởng. Ngài muốn con người san sẻ cho nhau để đừng có cảnh người quá giàu trong khi người khác không có của ăn. Để làm được điều này, ca dao Việt-nam đòi con người phải có nhân đức anh hùng; Thiên Chúa đòi con người phải tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng của Ngài. Con người không dám chia sẻ cho tha nhân những gì mình có, vì sợ sẽ không đủ cho mình; nhưng nếu con nguời biết rộng lượng cho đi, Thiên Chúa sẽ cho lại dư đầy. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: "Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất" (Mk 4:24-25).
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai tư tưởng này. Trong Bài Đọc I, tiên tri Elisha truyền tiểu đồng phát quà tặng dân chúng mang đến cho ông, mặc dù chẳng thấm vào đâu; nhưng Đức Chúa đã cho toàn dân ăn no. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu bảo vệ sự hiệp nhất mà họ đã được kêu gọi bằng cách ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, và bác ái. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi năm ngàn người đàn ông ăn và còn dư thừa 12 thúng, từ năm chiếc bánh và hai con cá.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.
1.1/ Phải có lòng rộng lượng để chia sẻ cho tha nhân: "Có một người từ Baal-Shalisha đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Elisha nói: "Phát cho người ta ăn.""
Trình thuật hôm nay nằm trong phần cuối của chương 4 trong Sách Các Vua II. Trong suốt chương 4, tác giả tường thuật sự kiện: Vì hành động tử tế của người đàn bà thành Shunem, tiên-tri Elisha đáp lại bằng cách cho bà có đứa con trai và cứu sống đứa bé khi nó chết vì nhức đầu (II Kgs 4:1-44).
1.2/ Phải tin tưởng nơi quyền năng Thiên Chúa: Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?" Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư." Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán. Chúng ta còn nhớ trình thuật: Vì hành động tử tế của bà góa thành Zarephath mà tiên-tri Elijah đã làm phép lạ cho hũ bột và chai dầu olive của bà không bao giờ vơi và còn cứu sống con trai của Bà (I Kgs 17:1-18).
2/ Bài đọc II: Hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em.
2.1/ Ơn gọi hiệp nhất của người Kitô hữu: Thánh Phaolô viết lá thư này cho các tín hữu Ephesô, khi người đang bị tù tại Rôma. Ngài khuyên các tín hữu như sau: "Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau."
Để hiệp nhất, con người cần biết những lý do tại sao họ phải hiệp nhất. Thánh Phaolô đưa ra 7 lý do quan trọng:
(1) Chỉ có một thân thể: Tất cả các tín hữu là chi thể của một thân thể là Hội Thánh với Đức Kitô là Đầu. Thân thể của Đức Kitô lành mạnh khi tất cả chi thể lành mạnh. Chi thể nào tách rời khỏi thân thể sẽ không thể tồn tại.
(2) Một Thánh Thần: Có nhiều quà tặng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần, Đấng ban mọi quà tặng cho việc xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(3) Một niềm hy vọng: Tất cả các tín hữu đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng là cuộc sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa và với nhau.
(4) Chỉ có một Chúa: là Đức Kitô.
(5) Một niềm tin: là tin vào Đức Kitô.
(6) Một phép rửa: bởi Nước và bởi Thánh Thần.
(7) Chỉ có một Thiên Chúa: Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người.
2.2/ Những đức tính cần thiết của người Kitô hữu: "Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau." Đây là những đức tính tối quan trọng không chỉ cho người Kitô hữu, mà còn cho tất cả những ai muốn thành công và sống bình an với mọi người.
+ Khiêm tốn (tapeinofrosu,nh): Con người khiêm tốn nhận ra chỗ đứng thực sự của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Những người kiêu ngạo không nhận ra điều này, họ tự cho mình đã biết quá nhiều, quá hay, quá đủ; nên bỏ qua những gì Chúa dạy, và lấy mình như tiêu chuẩn để phán xét tha nhân. Họ quên đi một sự thật là sự khôn ngoan của họ chỉ là một giọt nước trong biển khôn ngoan của nhân loại, và chẳng là gì so với sự khôn quan của Thiên Chúa. Người khiêm tốn sẽ được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới và được mọi người quí mến; trong khi kẻ kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa và tha nhân khai trừ.
+ Hiền từ (prau
+ Nhẫn nại (makroqumi,a): Con người nhẫn nại luôn biết kiên trì và tìm mọi cách để vượt qua những khó khăn và gian khổ trong cuộc đời. Họ không dễ nản lòng, ta thán, và bỏ cuộc.
+ Bác ái (avga,ph): Thánh Phaolô nêu bật tầm quan trọng của nhân đức này: "Trên hết mọi sự, anh em hãy có nhân đức yêu thương, vì đó là sợi giây ràng buộc mọi điều toàn thiện." Chúng ta đã nói nhiều lần về nhân đức này, nó chỉ tìm thấy trong khuôn khổ của Kitô Giáo, vì nhân đức này đến từ Thiên Chúa qua Đức Kitô. Chỉ khi nào một người có nhân đức này, họ mới có thể thi hành những điều khó khăn Đức Kitô dạy: phải cầu nguyện, tha thứ, và làm ơn cho kẻ thù; họ mới có thể sẵn sàng hy sinh chết để làm chứng cho Thiên Chúa và bảo vệ tha nhân.
3/ Phúc Âm: Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.
3.1/ Con người phải tin nơi quyền năng của Thiên Chúa: "Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilee, cũng gọi là Biển Hồ Tiberia. Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philíp: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?""
(1) Uy quyền của Thiên Chúa trong biến cố Vượt Qua: Sự kiện Gioan đề cập đến Lễ Vượt Qua không phải là chuyện tình cờ, nhưng mang ý nghĩa thần học. Ngài có ý nhắc cho dân Do-thái nhớ lại uy quyền lớn lao của Thiên Chúa đã mang dân vượt Biển Đỏ an toàn; trong khi quân đội của vua Pharao bị nhận chìm giữa lòng đại dương. Nếu một Thiên Chúa có quyền năng đưa dân Do-thái vượt qua Biển Đỏ, Ngài cũng có thể làm cho dân có bánh ăn no nê trong sa mạc, điều bị coi là không thể đối với con người.
(2) Uy quyền của Chúa Giêsu khi nuôi năm ngàn người ăn: Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi." Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng.
(3) Hình bóng của Bí-tích Thánh Thể: Chúa Giêsu dư biết sự cứng lòng của con người, nên Ngài chuẩn bị cho họ bằng phép lạ "Bánh hóa nhiều." Nếu Chúa Giêsu có thể làm phép lạ "Bánh hóa nhiều" để nuôi năm ngàn người đàn ông ăn no nê, Ngài cũng có thể hiến thân mình để trở nên của ăn nuôi dân hàng ngày. Hơn nữa trong Tin Mừng Gioan, chúng ta không thấy tường thuật sự kiện Chúa Giêsu lập BT Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, chúng ta chỉ có công thức truyền phép "Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó," và diễn từ về Thánh Thể trong phần kế tiếp của chương 6.
3.2/ Thiên Chúa đòi hỏi sự cộng tác của con người.
(1) Con người chỉ quan tâm đến mình: Hai lý do làm con người sợ không dám chia sẻ:
+ Sợ tốn tiền: Ông Philíp đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." Các môn đệ không muốn bỏ tiền của mình để mua bánh cho người khác, nhất là với một số dân đông đảo như thế. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, các môn đệ khuyên Chúa Giêsu giải tán dân để họ vào các thành mà mua lương thực. Ngược lại, Chúa Giêsu truyền: "Chính anh em hãy cho họ ăn."
+ Sợ không đủ cho mình: Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!" Phản ứng của con người là lo đầu cơ tích trữ, nhất là trong những lúc khan hiếm lương thực và mạng sống bị đe dọa.
(2) Thiên Chúa muốn sự cộng tác của con người: Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng Ngài muốn con người biểu lộ niềm tin giống như em bé sẵn sàng đưa cho Chúa 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá để chia sẻ với mọi người. Trong Kinh Tiền Tụng, chúng ta cũng dâng bánh và rượu là hoa mầu ruộng đất và lao công của con người lên Thiên Chúa, để xin Ngài làm cho trở thành Bánh Trường Sinh và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Khi linh mục dâng bánh và rượu lên cho Thiên Chúa, người linh mục cũng dâng những đau khổ của chính mình và của dân chúng, cộng với lễ hy sinh đau khổ của Đức Kitô. Tất cả những điều này có sức mạnh để Thiên Chúa chấp nhận và sinh ích cho con người.
(3) Thiên Chúa không muốn con người chỉ quan tâm đến nhu cầu vật chất: Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" Con người chỉ quan tâm đến những nhu cầu vật chất. Họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua để Ngài cung cấp bánh ăn cho họ, như ma quỉ đã từng cám dỗ Chúa trong sa mạc để biến đá thành bánh. Chúa Giêsu từ chối việc dân tôn Ngài làm vua để có bánh ăn nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình. Ngài muốn họ yêu mến Ngài và thực sự muốn mời Ngài làm vua trong lòng của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có dám rộng lượng cho đi để được Thiên Chúa cho lại dư thừa không? Nếu không dám cho đi, ngay cả cái chúng ta đang có cũng sẽ dần dần hao hụt dần.
- Thiên Chúa vì yêu thương đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để gia tăng nghị lực cho tâm hồn chúng ta. Sau khi đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh để nuôi sống anh em về phần hồn cũng như về phần xác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thánh Giacôbê Tông Đồ
Bài đọc: II Cor 4:7-15; Mt 20:20-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối của con người.
Con người bị bao vây bởi những yếu đuối về thể xác cũng như tinh thần: về thể xác: nghèo đói, bệnh tật, nguy hiểm, chết chóc; về tinh thần: ghen ghét, hận thù, tội lỗi. Tuy thế, lịch sử Giáo Hội không ngừng chứng minh: sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động nơi những con người yếu đuối. Ví dụ: Phêrô chối Chúa 3 lần thành người điều khiển Giáo Hội, Phaolô nhiệt thành bắt bớ Đạo thành người nhiệt thành rao truyền Đạo, Augustino một thanh niên chơi bời hư hỏng thành thánh Giám-mục loan truyền tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa ...
Các Bài Đọc hôm nay muốn làm sáng tỏ tư tưởng Thiên Chúa hoạt động trong sự yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô so sánh sức mạnh của Thiên Chúa như kho tàng chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối và tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm, vì ham muốn quyền bính và địa vị, người mẹ của Giacôbê và Gioan xin với Chúa Giêsu cho hai con mình được một đứa ngồi bên phải và một đứa ngồi bên trái trong vương quốc của Ngài. Điều này gây sự ghen tị và chia rẽ trong hàng ngũ các môn đệ. Chúa Giêsu gọi các ông lại và chỉ dạy các ông con đường lãnh đạo: hy sinh chịu gian khổ và phục vụ mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.
1.1/ Kho tàng chứa đựng trong bình sành: Kho tàng là các hồng ân của Thiên Chúa và sức mạnh của Đức Kitô. Một sự phân tích những tư tưởng sau cho chúng ta thấy kho tàng của Thiên Chúa chứa đựng trong bình sành là thân xác yếu đuối của con người:
+ Bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp: Phaolô phải chịu bao áp lực nhưng ông vẫn có thể tìm cách thoát ra. Ví dụ: khi bị giam hãm trong lao tù, ông vẫn có thể cầu nguyện và kết hiệp với Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa muốn, Ngài vẫn có cách để giải thoát ông nhiều lần.
+ Bị hoang mang, nhưng không tuyệt vọng: Nhiều lần trong đời, Phaolô cũng như chúng ta hoang mang không biết đâu là thánh ý Chúa để theo. Thánh Gioan Thánh Giá gọi đây là "những đêm tăm tối," khi chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa; nhưng chúng ta vẫn dùng đức tin để vượt qua và tiến tới. Khi đã trải qua rồi, chúng ta nhìn lại và nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa.
+ Bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi: Người môn đệ của Đức Kitô sẽ bị người đời ngược đãi: nói hành, bôi nhọ, bắt bớ, tù đày... vì họ không sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Ngài hứa sẽ ở cùng các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế, và Thánh Thần sẽ giúp họ biết phải nói gì và làm gì khi bị thế gian ngược đãi.
+ Bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt: Phaolô cũng như các tín hữu đã nhiều lần bị quật ngã: hoặc cách thể lý như bị ngược đãi bởi người đời, hoặc cách tâm linh như những lúc sa ngã phạm tội. Nhưng với sức mạnh và ơn thánh của Chúa, họ lại trỗi dậy, giao hòa với Chúa, và tiếp tục phấn đấu cho đến hơi thở cuối cùng.
Hiểu như thế, cuộc đời mỗi tín hữu là cuộc đời luôn vác thánh giá theo chân Đức Kitô, như Phaolô diễn tả: "Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi."
1.2/ Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Đức Kitô là người đi tiên phong mở đường cứu độ bằng cách mặc lấy thân xác yếu đuối của con người để rao truyền Tin Mừng, để huấn luyện các môn đệ trước khi sai đi, và hy sinh chịu gian khổ để chuộc tội cho con người.
Noi gương Đức Kitô, Phaolô và các môn đệ cũng đi theo con đường đó: Các ông được sai đi rao giảng Tin Mừng, thu thập và huấn luyện các môn đệ để tiếp tục sai đi, và cũng phải hy sinh chịu gian khổ để làm chứng cho Đức Kitô và cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi. Các môn đệ dám hy sinh tất cả cho dẫu phải đổ máu vì các ông biết rằng: "Đấng đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy cũng sẽ làm cho các ông được trỗi dậy với Chúa Giêsu, và đặt các ông bên hữu Người."
Các tín hữu sau khi đã nhận được đức tin từ Phaolô và các môn đệ lại tiếp tục tiến trình đó, và cứ như vậy cho đến ngày Đức Kitô trở lại. Nếu tất cả đều trung thành với sứ vụ của mình và làm chứng cho Đức Kitô, toàn thế giới sẽ được nghe Tin Mừng và trở thành những môn đệ của Ngài. Lúc đó Nước Chúa sẽ trị đến, như Phaolô hy vọng: "Như thế, ân sủng càng dồi dào, thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn vinh Người."
2/ Phúc Âm: Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.
2.1/ Tính mỏng giòn yếu đuối của con người:
(1) Lòng ham muốn địa vị: "Bấy giờ bà mẹ của các con ông Zebedee đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà: "Bà muốn gì?" Bà thưa: "Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy."
Có sự khác biệt giữa hai trình thuật giữa Marcô và Matthew về biến cố này: Theo trình thuật của Marcô, chính hai anh em yêu cầu điều này với Chúa Giêsu. Theo trình thuật của Matthew, lời yêu cầu được làm qua người mẹ. Dù sao chăng nữa, đây cũng là điều yếu đuối rất thường xảy ra nơi con người: ai cũng mong được hơn người, có quyền hành và địa vị, và được người khác kính nể, phục vụ. Hai anh em không ngại đi theo Chúa, nhưng đi theo để đạt mục đích trần thế của mình.
(2) Lòng ghen tị khi thấy người khác hơn mình: "Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó." Điều này cũng là yếu đuối con người nữa: Dưới mắt các ông, chỉ có hai chỗ cao trọng nhất mà hai anh em nhà Zebedee đã giành, còn mình ngồi đâu? Hơn nữa, hai anh em cùng với Phêrô, thường được coi là những người "thân tín" của Chúa!
2.2/ Sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
(1) Lãnh đạo bằng hy sinh chịu đựng gian khổ: Đức Giêsu bảo họ: "Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?" Họ đáp: "Thưa uống nổi."
Đức Giêsu bảo: "Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được." Lịch sử chứng minh Giacôbê cũng uống chén đắng của Chúa bằng việc tử đạo tại Jerusalem (Acts 12:1-2), và Gioan uống chén đắng bằng cách sống trung thành với Đức Kitô cho đến tuổi già.
(2) Lãnh đạo bằng khiêm nhường phục vụ tha nhân: Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng bao giờ nản chí khi phải đương đầu với yếu đuối của thân xác và sa ngã của linh hồn, vì sức mạnh của Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong chúng ta.
- Chúng ta phải sống theo chỉ đạo và đường lối của Thiên Chúa: lãnh đạo bằng hy sinh và phục vụ. Đừng sống theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian để đòi danh vọng và chức quyền.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 16 TN1, Năm B
Bài đọc: Exo 20:1-17; Mt 13:18-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giữ cẩn thận Lời của Thiên Chúa.
Có hai quan niệm rất khác nhau về Lề Luật: Thứ nhất, quan niệm đương thời cho Lề Luật là những gì gò bó, ngăn cản sự tự do của con người. Vì thế, họ chủ trương càng ít luật càng tốt. Hiện đang có phong trào chống lại việc trưng bày Mười Điều Răn nơi các tòa án. Thứ hai, quan niệm của người Do-thái, họ rất hãnh diện với Thập Giới, vì đây là những điều mà Thiên Chúa đã thân hành ban cho họ để biết cách sống hạnh phúc.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nói lên sự quan trọng tuyệt đối của Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa đã thân hành hiện ra và ban Thập Giới cho dân Israel qua Moses trước khi họ vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các môn đệ dụ ngôn "Người gieo giống." Ngài đưa ra những lý do tại sao tất cả cùng nghe Lời Chúa, thế mà có người chẳng được lợi ích chi cả; trong khi những người khác sinh hoa kết trái, người được 30, được 60, hay được 100.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thập Giới (deca-logue tiếng Anh, deka-logoi, tiếng Hy-lạp): là mười lời hay 10 câu mà Thiên Chúa ban cho dân Israel. Những lời này là món quà vô giá của Thiên Chúa. Ngài mong muốn con người phải tuyệt đối thi hành để được sống hạnh phúc muôn đời. Theo trình thuật của Sách Xuất Hành hôm nay và Sách Đệ Nhị Luật (Deut 5:6-21), Thiên Chúa là tác giả của Thập Giới, vì những lời ngay từ đầu: "Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây." Một số học giả Kinh Thánh cho đây là những qui luật mà các nhà lãnh đạo Israel tổng hợp lại qua các thời đại. Thập Giới được chia thành hai phần: phần một gồm 3 điều và phần hai gồm 7 điều.
1.1/ Phần một: Phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự: Phần này mô tả sự liên hệ giữa Thiên Chúa và con người.
(1) "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi ... Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta" là phần chính yếu. Các câu khác thêm vào có mục đích cắt nghĩa cho rõ ràng hơn. Giới răn thứ nhất ngăn cấm con người không được thờ bất cứ thần nào khác ngoài Thiên Chúa.
(2) Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng. Giới răn thứ hai ngăn cấm con người kêu tên cực trọng của Thiên Chúa, YHWH, cách vô cớ: chỉ được kêu để chúc lành (Gen 4:26, Psa 72:19); không được kêu để chửi rủa hay thề thốt.
(3) Ngươi hãy nhớ ngày Sabbath. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sabbath kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi.
1.2/ Yêu thương tha nhân: Nhiều người gọi 7 luật kế tiếp là những luật tự nhiên (natural laws), những điều này mô tả sự liên hệ giữa con người với con người.
(4) Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Đây là giới răn duy nhất có kèm theo lời hứa được sống lâu.
(5) Ngươi không được giết người. Giới răn thứ năm muốn bảo vệ sự thánh thiêng của sự sống. Giết người ngoài chiến trận được phép vì để bảo vệ quyền sống của mình.
(6) Ngươi không được ngoại tình. Giới răn thứ sáu bảo vệ sự thánh thiêng của hôn nhân và bảo vệ quyền của cả hai vợ chồng.
(7) Ngươi không được trộm cắp. Giới răn thứ 7 bảo vệ quyền sở hữu của tất cả mọi người trong xã hội.
(8) Ngươi không được làm chứng gian hại người. Giới răn thứ 8 ngăn cấm việc làm chứng gian cả nơi tòa án lẫn đời sống thường ngày.
Truyền thống Công Giáo chia giới răn cuối cùng làm hai phần. Hai giới răn thứ 9 và 10 ngăn cấm tất cả những ham muốn bất chính.
(9) Ngươi không được ham muốn vợ (hay chồng) người ta. Giới răn này dựa trên lời Chúa Giêsu dạy: "Ai nhìn xem người phụ nữ và ước ap phạm tội với họ, thì đã phạm tội ngoại tình rồi."
(10) Ngươi không được ham muốn nhà người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu cắt nghĩa dụ ngôn người gieo giống.
Như nhà nông phải chuẩn bị thửa ruộng bằng cách cầy bừa để nhặt đi tất cả sỏi đá và gai góc, san phẳng và giữ đất cho ẩm trước khi gieo hạt giống vào; con người cũng phải chuẩn bị tâm hồn bằng cách dành thời gian cho tâm hồn lắng đọng xuống, xua đi tất cả những lo toan và bất an của cuộc sống, cầu xin Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn trước khi nghe Lời Chúa. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể của những người nghe Lời Chúa và hậu quả:
(1) Miền vệ đường: Chúa Giêsu cắt nghĩa: "Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường."
Đây là những người có thái độ khinh thường hay không quan tâm đến những gì Chúa dạy: Những người tham dự Thánh Lễ cách chiếu lệ, đi lễ trễ khi Lời Chúa đã bắt đầu, ra ngoài hút thuốc, hay nói chuyện, hay ngủ gật, hay để trí óc viễn du, khi linh mục cắt nghĩa Lời Chúa. Những người không bao giờ chịu tham dự các dịp tĩnh tâm giáo xứ hay học hỏi Lời Chúa dưới bất cứ hình thức nào. Với thái độ khinh thường Lời Chúa như thế, làm sao Lời Chúa có thể vào trong tâm hồn để sinh lợi ích được!
(2) Miền sỏi đá: Chúa Giêsu cắt nghĩa: "Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay."
Đây là những người cũng chịu chú ý nghe Lời Chúa, nhưng không chịu bỏ thời gian để học hỏi, để suy gẫm, và để đào sâu Lời Chúa. Họ dành rất nhiều thời gian để giải trí, trò chuyện, hay đọc những sách vô bổ; nhưng luôn than không có giờ để đọc Lời Chúa hay Lời Chúa khó hiểu! Nếu họ không hiểu Lời Chúa, làm sao họ có thể áp dụng trong cuộc sống để sinh ích cho cuộc đời họ!
(3) Miền bụi gai: "Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì."
Đây là những người chỉ quan tâm hay quá đặt nặng sự quan trọng của đời sống vật chất: Họ đặt những mối lợi vật chất trên sự kính mến Thiên Chúa và hiểu biết Lời Chúa. Họ chọn đi lễ nào cha giảng ngắn nhất, giờ lễ tiện nhất, mặc dù chẳng hiểu gì Lời Chúa hay Bài Giảng; để còn kịp giờ làm hay có nhiều giờ đi chơi, giải trí. Đây cũng là những người đặt lợi lộc vật chất trên tình nghĩa anh em. Họ không dám hy sinh lợi lộc vật chất để sống và làm chứng cho Lời Chúa.
(4) Miền đất tốt: "Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục."
Đây là những người luôn đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, ham muốn học hỏi, và thi hành Lời Chúa. Họ biết chuẩn bị tâm hồn, đọc trước và suy gẫm Lời Chúa trước khi tới nhà thờ tham dự Thánh Lễ. Hơn nữa, họ luôn tìm dịp để học hỏi và nghiên cứu thêm; đồng thời biết áp dụng Lời Chúa trong mọi trường hợp của cuộc đời. Không lạ gì khi đời sống của họ luôn tăng trưởng về mọi phương diện: tâm linh, trí tuệ, tình cảm, và nhân bản.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thập Giới không giới hạn tự do của con người, nhưng là những điều tối cần để con người sống hạnh phúc và tránh cho con người những nguy hiểm trong cuộc đời.
- Để Lời Chúa có thể vào tâm hồn, đâm rễ sâu, và sinh hoa kết trái, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn, cầu xin sự soi sáng của Thánh Thần, và chuyên chăm học hỏi mỗi khi nghe Lời Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 16 TN, Năm B
Bài đọc: Exo 19:1-2, 9-11, 16-20; Mt 13:10-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần biết kính trọng và chuẩn bị, để đón nhận hồng ân Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn không ngừng quan tâm, mặc khải, và thi ân cho con người. Vấn đề ở chỗ là con người có biết nhận ra và đáp trả cách xứng đáng hay không. Nếu biết nhận ra và đáp trả, con người càng ngày càng sở hữu hồng ân nhiều hơn; nếu không, ngay cả những gì con người đang sở hữu cũng từ từ biến mất. Một trong những điều nguy hiểm nhất làm con người xa cách Thiên Chúa là thái độ tự mãn: cho mình đã biết, đã có quá đủ, và không cần nhờ đến Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng một lần nữa tình yêu của Thiên Chúa, biểu lộ qua sự quan tâm và chăm sóc Ngài dành cho con người. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa muốn ông Moses chuẩn bị tâm hồn dân chúng để Ngài hiện xuống với dân Israel trên đỉnh núi Sinai. Mục đích của cuộc thần hiện là để dân chúng biết uy quyền Thiên Chúa; đồng thời củng cố địa vị cho Moses, người lãnh đạo Ngài đã chọn để đưa dân vào Đất Hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cắt nghĩa tại sao người dùng dụ ngôn để nói với dân chúng, vì trí óc họ chưa hiểu được những mầu nhiệm của Nước Trời như các môn đệ. Họ phải siêng năng học hỏi và cần sự trợ giúp của Thiên Chúa mới có thể hiểu được; nếu không, ngay cả những gì họ nghe Chúa Giêsu nói cũng sẽ mất.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cuộc thần hiện trên núi Sinai
1.1/ Mục đích của cuộc thần hiện: là để dân chúng nhận ra uy quyền Thiên Chúa, và để củng cố địa vị cho Moses, người lãnh đạo Thiên Chúa chọn để đưa dân vào Đất Hứa. Bổn phận của dân là phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa cũng như Moses.
(1) Phải tránh thái độ khinh thường Thiên Chúa và các ngôn sứ của Ngài: Tục ngữ Việt-nam có câu lột tả được thái độ của dân chúng đối với Thiên Chúa và với các người đại diện của Ngài: "Gần chùa gọi bụt bằng anh!" Khi con người thấy Thiên Chúa quá thương và luôn làm ơn cho mình, con người cho đó là bổn phận của Thiên Chúa. Khi con người được hiện diện trong Thánh Điện quá thường xuyên, con người tỏ dấu khinh thường bằng cách nói chuyện và chơi giỡn với nhau ngay trước mặt Thiên Chúa. Khi con người đã quá quen với nhà lãnh đạo vì đã từng ăn nhậu, chơi giỡn với nhau, họ coi nhà lãnh đạo cũng như "cá mè một lứa." Vì thế, Thiên Chúa phải tỏ uy quyền cho dân biết có một khoảng cách vô định giữa Thiên Chúa và con người; nếu Thiên Chúa không yêu thương và quan tâm tới, con người cũng chỉ là hạt cát trong sa mạc. Ngài có thể làm con người ra hư vô bất cứ lúc nào.
(2) Phải chuẩn bị tâm hồn trong sạch để ra gặp Thiên Chúa: Đức Chúa phán với ông Moses: "Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Đức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Sinai trước mắt toàn dân."
Được ra mắt Thiên Chúa, vị Chúa Tể Trời Đất, không phải là điều tầm thường; vì thế, con người cần phải chuẩn bị cả tâm hồn lẫn thể xác. Các thánh thường lấy ví dụ: nếu con người phải chuẩn bị kỹ càng thế nào khi gặp vua chúa trần gian, họ cần phải chuẩn bị kỹ càng hơn nữa khi ra mắt vị Chúa Tể Trời Đất. Thế mà có những người mặc đồ ngủ hay đồ tắm biển đi nhà thờ, miệng nhai kẹo cao su khi lên lãnh nhận Mình Thánh Chúa, để con chạy chơi giỡn trong nhà thờ như đang ở ngoài công viên. Nếu Thiên Chúa tiếp tục trừng phạt những người vô phép như trong Cựu Ước, hỏi mấy người chúng ta còn sống sót để vào diện kiến Thánh Nhan?
1.2/ Thiên Chúa tỏ uy quyền trước mặt dân chúng trên đỉnh núi Sinai: Theo truyền thống, Thiên Chúa thường tỏ mình trên các đỉnh núi: cho tiên-tri Elijah trên đỉnh núi Horeb, cho ba tông-đồ yêu dấu trên đỉnh núi Thabor. Núi Sinai là một ngọn núi rất đặc biệt vì vẻ linh thiêng của nó, lúc nào cũng có mây mù che phủ. Khách hành hương rất thích được ở trên đỉnh núi khi mặt trời mọc để nhìn thấy cảnh hùng vĩ của quang cảnh chung quanh; vì thế, họ phải bắt đầu leo khi trời vẫn còn tối.
Trình thuật Sách Xuất Hành kể: "Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Moses đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Sinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Moses nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Đức Chúa ngự xuống trên núi Sinai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Moses lên đỉnh núi, và ông đi lên."
2/ Phúc Âm: Con người cần khiêm nhường học hỏi mới có thể nhận ra Thiên Chúa.
2.1/ Dụ ngôn và mầu nhiệm: Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: "Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp: "Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, lý do Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, vì họ nhìn mà không thấy, lắng nghe mà không nghe, cũng không hiểu."
+ Dụ ngôn (parabolh,): là một trình thuật hay một câu có thể dài hay ngắn. Mục đích là để dẫn chứng một sự thật qua việc so sánh hay đồng nhất. Tác giả thường dùng những gì con người đã biết để dẫn họ đến một thực tại cao hơn.
+ Mầu nhiệm (musth,rion): chúng ta thường hiểu là những gì tối nghĩa, khó hiểu, hay không thể hiểu. Người Rôma và Hy-lạp hiểu mầu nhiệm là những gì không thể hiểu với những khách bàng quang; nhưng đối với những người trong cuộc, những điều này quá rõ ràng. Lý do, người trong cuộc đã được dạy dỗ, soi sáng, và trải qua kinh nghiệm.
+ Định luật trần gian: "Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất." Thoạt nghe, một người có thể cho Thiên Chúa bất công, nhưng thực tế chứng minh đây là một định luật. Đối với những chuyên gia, vì họ càng ngày càng nghiên cứu, hội thảo, và thí nghiệm, nên kiến thức của họ ngày càng sâu hơn trong chuyên nghành của họ; nhưng nếu một người cũng học về lãnh vực đó, nhưng không có cơ hội áp dụng, họ dần dần sẽ mất luôn kiến thức mà họ đã có lúc đầu.
2.2/ Thiên Chúa tiền định? Chúa Giêsu trưng dẫn lời sấm của ngôn sứ Isaiah. Đây là lời sấm khó hiểu và nhiều người dựa vào để chứng minh Thuyết Tiền Định: Nếu Thiên Chúa đã định cho ai phải hư mất, họ sẽ không có cách nào để được cứu độ! Trước tiên, chúng ta cần hiểu truyền thống của Do-thái: không một sự việc nào xảy ra trong cuộc đời ngoài thánh ý Chúa; vì thế, việc con người cứng lòng không tin cũng nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không có ý quy trách nhiệm cho Thiên Chúa, nhưng quy trách nhiệm vào sự cứng lòng của con người. Chương 9 của Gioan khi Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh, giúp chúng ta nhận ra chân lý này: Chúa làm phép lạ chữa người mù, các kinh-sư thẩm vấn anh mù để biết ai đã chữa lành anh và cách thức chữa, họ còn thẩm vấn cha mẹ anh để có thể chắc chắn anh bị mù ... Nhưng sau cùng, họ từ chối nhận Chúa Giêsu đã làm phép lạ đó và kết tội Chúa đã vi phạm ngày Sabbath; trong khi người mù không chỉ được trông thấy, còn được nhận ra và tin vào Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn mỗi khi lắng nghe và học hỏi Lời Chúa, mỗi khi tiếp nhận Chúa vào lòng, và nhất là ra nghênh đón Thiên Chúa trong ngày cuối của đời chúng ta.
- Để hiểu những mầu nhiệm Nước Trời, chúng ta cần có thái độ khiêm nhường và bỏ thời gian để học hỏi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 16 TN1, Năm B
St. Mary Magdala
Bài đọc: Exo 16:1-5, 9-15; Jn 20:1, 11-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh.
Nhu cầu ăn uống tuy là nhu cầu căn bản của con người; nhưng không phải là tất cả nhu cầu của cuộc sống con người. Cám dỗ của ma quỉ xưa cũng như nay là làm cho con người giản đơn tất cả cuộc đời vào nhu cầu ăn uống này, như chúng đã từng cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc: "Ông hãy biến những hòn đá này thành bánh, thì người ta sẽ tin và theo ông." Chẳng lạ gì mà rất nhiều người thời nay dành hầu như trọn ngày cho nhu cầu này: lao động, mua thực phẩm, nấu nướng, ăn uống ... đến nỗi chẳng còn thời giờ cho các nhu cầu tâm linh, trí tuệ, và tình cảm!
Các Bài Đọc hôm nay cho hai ví dụ tương phản của những người tìm vật chất và người tìm Chúa. Trong Bài Đọc I, chỉ mới một tháng sau biến cố xuất hành qua Biển Đỏ, dân Israel đã quên tình thương và uy quyền của Thiên Chúa, và họ nhớ những đồ ăn thức uống bên Ai-cập. Họ than phiền với ông Moses: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!" Trong Phúc Âm, vì yêu mến Chúa, nên bà Mary Magdala đã ra mộ tìm Chúa khi mọi người vẫn còn an giấc. Hiểu tình thương của Bà, Chúa Giêsu đã tỏ cho Bà thấy Ngài vẫn sống, và truyền cho Bà mang Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hiểu biết về Thiên Chúa giúp con người tránh được tầm nhìn thiển cận.
1.1/ Cái nhìn thiển cận của con người: Những lời ta thán của con cái Israel cho chúng ta thấy họ đã quên đi mục đích, tình thương, và uy quyền của Thiên Chúa; mà chỉ còn bận tâm đến
nhu cầu ăn uống của con người. Một sự nhìn lại sẽ cho ta thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề:
(1) Mục đích: Thiên Chúa giải phóng dân Israel khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập là để phục hồi nhân phẩm và đem dân vào Đất Hứa mà Ngài đã hứa với các Tổ-phụ. Trước khi cho dân vào Đất Hứa, Ngài đem dân vào sa mạc để thử thách đức tin và thanh luyện mọi tính hư tật xấu. Cuộc sống của dân Israel lang thang trong sa mạc 40 năm có thể ví như cuộc đời dương thế của mỗi người. Thiên Chúa muốn con người chứng tỏ cho Ngài thấy niềm tin yêu của họ vào Thiên Chúa, qua những đau khổ và thử thách, để xứng đáng được vào Đất Hứa là Thiên Đàng mai sau.
Thời gian cần thiết để con người nhận ra sự quan trọng của mục đích và để thanh luyện. Thiên Chúa muốn con người phải chờ đợi và chứng tỏ họ xứng đáng để được vào Đất Hứa; trong khi con người lại muốn được vào ngay.
(2) Tình thương: là động lực thúc đẩy Thiên Chúa quan tâm đến những khổ cực mà con cái Israel phải chịu. Vì tình thương, Thiên Chúa muốn cứu thoát họ khỏi cảnh làm nô lệ cho người Ai-cập, và cõng họ trên vai như đại bàng cõng con qua Biển Đỏ. Khi than trách Thiên Chúa và ham muốn "có bánh ăn và ngồi bên nồi thịt" hơn là được tự do thờ phượng Thiên Chúa, họ đã khinh thường kế hoạch cứu độ và nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa dành cho họ.
(3) Uy quyền của Thiên Chúa: Dân Israel đã chứng kiến không biết bao nhiêu phép lạ Thiên Chúa tỏ uy quyền trên người Ai-cập, nhất là phép lạ Chúa cho họ qua Biển Đỏ an toàn trong khi toàn bộ quân đội Ai-cập bị nhận chìm trong Biển Đỏ. Nếu Thiên Chúa có thể làm những phép lạ huy hòang như thế, việc cung cấp cho dân có của ăn thức uống trong sa mạc thấm chi đối với Ngài. Lẽ ra thay vì mở miệng than trách những lời đau lòng Thiên Chúa, họ biết quỳ gối xuống cầu nguyện xin Người cho bánh ăn, thì kết quả sẽ tốt đẹp chừng nào!
(4) Thử thách: là cơ hội để con người chứng tỏ niềm tin. Nếu con cái Israel hiểu biết những điều trên và luôn suy niệm trong lòng, họ sẽ lợi dụng thử thách để tăng cường niềm tin và chứng tỏ niềm tin yêu của họ vào Thiên Chúa; chứ không càm ràm, khó chịu, và thốt lên những lời độc địa xúc phạm đến Thiên Chúa, làm nản chí các nhà lãnh đạo, và gây gương mù cho người khác. Hơn nữa, dù không muốn bị thử thách và chịu đau khổ, họ vẫn phải ngang qua tiến trình đó, vì thử thách nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu họ có thái độ tích cực và lạc quan hơn để xin sức mạnh của Thiên Chúa, họ có thể vượt qua thử thách và trở thành những người có bản lãnh hơn, vì gian nan rèn nhân đức.
1.2/ Thiên Chúa có dư quyền năng để cung cấp thực phẩm cho dân trong sa mạc: Đức Chúa phán với ông Moses: "Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."
Chúa nói và Chúa giữ lời. Ngài tìm được bánh ăn và thịt cho dân trong sa mạc, nơi không một cây cỏ nào có thể sống được. Điều này Ngài muốn chứng minh cho con người: Không chuyện gì là không thể đối với Thiên Chúa. Con người đừng thử thách uy quyền của Ngài.
(1) Chim cút: Để cho dân có thịt ăn, "buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại." Thiên Chúa là Đấng dựng nên và điều khiển muôn loài. Theo sự quan phòng khôn ngoan, Ngài có thể truyền lệnh cho bất kỳ tạo vật nào, chúng phải vâng theo lệnh của Ngài.
(2) Manna: Để co dân có bánh ăn, buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau: "Manhu?" có nghĩa: "Cái gì đây?" Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Moses bảo họ: "Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!" Manna là hình bóng của Bí-tích Thánh Thể: Nếu Thiên Chúa có thể nuôi phần xác của dân bằng việc cho manna rơi từ trời xuống trong sa mạc, Chúa Giêsu có thể nuôi sống phần hồn của con người bằng Bánh Thánh Thể mỗi ngày. Thế mà vẫn còn biết bao con người nghi ngờ sự hiện diện của Chúa trong BT Thánh Thể!
2/ Phúc Âm: Cuộc hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Mary Magdala.
2.1/ Mary Magdala nhận ra Chúa Giêsu: Bà nhận ra Chúa Giêsu không bằng những gì nghe và thấy bên ngòai, vì Bà đã nghe và thấy Chúa như trình thuật ở trên; nhưng bằng sự rung động từ trong trí óc và con tim. Thánh sử Gioan mô tả phút giây hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Mary Magdala thật ngắn ngủi, nhưng vô cùng tuyệt vời. Đức Giêsu gọi bà: "Mary!" Bà quay lại và nói bằng tiếng Do-thái: "Rabbouni!" Chỉ có hai con tim đang yêu mới hiểu được ý nghĩa tuyệt vời của hai tiếng gọi này. Sự kiện Chúa gọi tên Bà gợi lại cho bà nhiều điều: Chúa đang sống, Ngài nhận ra Bà, Ngài hiểu sự đau khổ của Bà, và Ngài yêu thương Bà. Nhận ra tiếng gọi thân thương của người mình yêu mến trong khi đang tuyệt vọng đi tìm, còn gì xúc động và vui mừng hơn, Bà quay lại để nhìn Chúa. Khi nhận ra Chúa, bà chạy đến, gieo mình xuống ôm chân Ngài, và sung sướng kêu lên "Thầy của con."
2.2/ Yêu Chúa không phải giữ chặt Chúa, nhưng làm theo những gì Ngài muốn: Hành động của Mary Magdala như thầm nói với Chúa: "Con sẽ không để Thầy xa con nữa." Nhưng Đức Giêsu bảo bà: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em."" Khác với tình yêu con người, khi con người yêu ai, họ muốn giữ người họ yêu làm của riêng cho mình; tình yêu Thiên Chúa đòi con người tiếp tục cho Chúa đi, chứ không giữ Chúa lại làm của riêng cho mình. Con người tìm thấy niềm vui khi nhìn thấy mọi người yêu Chúa. Chúa Giêsu muốn bảo Mary: Nếu con thương Thầy, hãy làm cho nhiều người nhận biết Thầy! Thầy còn nhiều anh, chị, em mà con phải mang tin mừng đến cho họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không thể nào đơn giản hóa cuộc sống vào những nhu cầu vật chất, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng cho những mục đích cao quí hơn loài vật.
- Chúng ta phải dành thời giờ để học hỏi Lời Chúa và phát triển đời sống tâm linh cũng như trí tuệ, để có thể nhận ra sự thật từ giữa bao cám dỗ sai trái và đạt đích điểm của cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 16 TN1, Năm B
Bài đọc: Exo 14:21-15:1; Mt 12:46-50.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Có thể nói cuộc đời con người là một mầu nhiệm, vì chúng ta không luôn luôn hiểu rõ những gì chúng ta phải làm; nhưng chúng ta vẫn thi hành những gì Thiên Chúa muốn, vì chúng ta tin tưởng vào sự thương yêu và uy quyền của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chỉ khi nhìn thấy kết quả sau này chúng ta mới nhận ra sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc thi hành thánh ý Thiên Chúa mặc dù chúng ta không luôn hiểu rõ ràng. Trong Bài Đọc I, con cái Israel dưới sự chỉ đạo của Moses, xuất hành khỏi Ai-cập mà không biết phải làm sao; nhưng khi đã an toàn vượt qua Biển Đỏ, họ mới nhận ra uy quyền và sự thương yêu của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa. Đó là điều kiện để trở thành phần tử trong đại gia đình của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Israel nhìn thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
1.1/ Cuộc vượt Biển Đỏ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại: Thiên Chúa truyền cho Moses giơ tay trên mặt biển, để khiến nước của Biển Đỏ rẽ ra làm hai, tạo thành một lối đi giữa biển cho dân Israel băng qua. Trình thuật kể: "Ông Moses giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu."
Thấy dân Israel đi giữa biển được, quân Ai-cập đuổi theo sau cũng tiến vào; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pharao tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Israel. Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: "Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ."
Nhưng đã quá trễ để quay đầu trở lại... Khi dân Israel đã lên bờ bên kia hết, Đức Chúa phán với ông Moses: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng." Ông Moses giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharao đã theo dân Israel đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.
1.2/ Dân Israel nhận ra và ngợi khen uy quyền của Thiên Chúa: "Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Israel khỏi tay quân Ai-cập. Israel thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển. Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Moses, tôi trung của Người."
Chiến thắng Biển Đỏ hoàn toàn do uy quyền của Thiên Chúa. Như ông Moses báo trước cho dân Israel: Họ không cần phải giao chiến, chỉ cần đứng nhìn xem cánh tay uy hùng của Thiên Chúa sẽ nhận chìm quân đội của vua Pharao dưới lòng biển.
Mỗi năm, dân tộc Israel nhớ lại cuộc Xuất Hành của mình ra khỏi Ai-cập và chiến thắng huy hoàng của Thiên Chúa trên Biển Đỏ, để nhắc nhở cho nhau biết tình thương và uy quyền của Thiên Chúa. Với chân không, đoàn di dân cả hàng triệu người, chưa kể súc vật đã vượt qua Biển Đỏ ráo chân. Với tay không, họ đã chiến thắng vẻ vang trên quân đội hùng mạnh và tinh nhuệ của Ai-cập. Họ có thể làm được chuyện này vì bàn tay của Thiên Chúa ở với họ. Dân Israel muốn nhắc nhở cho nhau trong đêm này: Đừng bao giờ quên tình thương và uy quyền của Thiên Chúa.
Bài ca chiến thắng của nữ tiên tri Miriam: Bấy giờ ông Moses cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng: "Tôi xin hát mừng Đức Chúa, Đấng cao cả uy hùng:
Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương." Lời Việt mà các ca đoàn hát trong Bài Đáp Ca của Đêm Phục Sinh: "Vang lên muôn lời ca, ta ca tụng Chúa, vì uy danh Ngài cao cả à á a. Chiến mã với kỵ binh, Người đã quăng chìm đáy biển à á a."
2/ Phúc Âm: Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.
2.1/ Thi hành thánh ý Thiên Chúa là cách thức để gia nhập gia đình Thiên Chúa: Khi Chúa Giêsu đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy." Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Bất cứ ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi."
Khi nói những lời này, Chúa Giêsu không có ý khinh thường Mẹ Ngài hay mối liên hệ gia đình; nhưng Ngài muốn nhấn mạnh 2 điểm:
(1) Mọi người đều có thể trở thành phần tử của gia đình Thiên Chúa, nếu họ nhận ra và thực thi thánh ý của Thiên Chúa.
(2) Cách trở thành phần tử trong gia đình Thiên Chúa khác với cách của người đời. Theo cách của người đời, một người trở thành phần tử trong gia đình, hoặc bằng cách sinh ra trong gia đình, hoặc do gia trưởng trong gia đình nhận làm con nuôi (Jn 1:13). Theo cách của Thiên Chúa, một người trở thành con Thiên Chúa bằng cách làm theo thánh ý Thiên Chúa; hay một cách rõ nét hơn: bằng cách tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa (Jn 1:12).
2.2/ Đức Mẹ là người thi hành thánh ý Thiên Chúa cách trọn vẹn: Giống như Chúa Giêsu, cả cuộc đời của Đức Mẹ là làm theo thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta có thể trưng dẫn ba nét chính:
(1) Trong biến cố Truyền Tin: Khi sứ thần Gabriel hiện đến báo tin về Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Mặc dù Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh; nhưng sau khi đã nhận ra thánh ý của Thiên Chúa, Mẹ đã khiêm nhường thưa với sứ thần lời Xin Vâng: "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần truyền" (Lk 1:38).
(2) Tại tiệc cưới Cana: Khi nhận ra sự lúng túng của đôi tân hôn vì hết rượu, Mẹ đến kêu cầu với Chúa: "Họ hết rượu rồi!" Mặc dù Chúa nói với Mẹ: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến;" Mẹ vẫn căn dặn gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Jn 2:4-5).
(3) Khi tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền Thờ: Sau ba ngày vất vả tìm thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy giáo và đàm thoại với họ, mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!" Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?"
Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lk 2:48-51).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong cuộc đời, chúng ta không luôn sống theo sự hiểu biết; vì có những lúc chúng ta phải sống bằng đức tin qua việc làm theo thánh ý của Thiên Chúa.
- Chúng ta làm theo thánh ý Thiên Chúa vì chúng ta tin tưởng Ngài là Thiên Chúa có quyền trên mọi sự và thương yêu chúng ta hơn bất cứ ai trong cuộc đời này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 16 TN1, Năm B
Bài đọc: Exo 14:5-18; Mt 10:38-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đừng thử thách Thiên Chúa.
Thiên Chúa không mắc nợ gì con người; trái lại, con người mắc nợ tất cả với Thiên Chúa. Để khơi niềm tin, Thiên Chúa sẽ cho con người cơ hội để nghe những lời khôn ngoan và chứng kiến các phép lạ. Con người phải biết nắm lấy những cơ hội này để phát triển niềm tin. Con người không thể tiếp tục đòi những dấu lạ xảy ra theo ý mình muốn, và càng không thể thử thách sự kiên nhẫn của Thiên Chúa trước khi đặt niềm tin vào Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những trường hợp con người thử thách Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, vua Pharao và người Ai-cập tiếp tục thử thách Thiên Chúa, mặc dù đã được nghe lời yêu cầu của Moses phóng thích dân Israel khỏi Ai-cập và đã chứng kiến những thiên tai khủng khiếp của Thiên Chúa đổ xuống trên nước ông. Nhà vua tiếc vì khối nô lệ khổng lồ dân Israel cung cấp cho Ai-cập; nên đã huy động toàn thể quân đội đuổi theo dân Israel để bắt họ về. Ngay cả dân Israel, dù đã được dạy dỗ và chứng kiến bao quyền năng của Thiên Chúa; vẫn run sợ và ta thán khi thấy quân đội của vua Pharao đuổi theo mình. Trong Phúc Âm, khi một số kinh-sư và luật sĩ đòi Chúa Giêsu làm phép lạ trước mặt họ để họ có thể tin nơi Ngài; Chúa Giêsu từ chối lời yêu cầu của họ, nhưng hứa sẽ cho họ thấy phép lạ Con Người sống lại sau ba ngày trong huyệt mộ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên.
1.1/ Phản ứng của người Ai-cập: Sau thiên tai cuối cùng, các thiên thần đi khắp xứ để giết các con đầu lòng của người Ai-cập; vua Pharao đã đồng ý để Moses đưa dân ra khỏi Ai-cập, vì nhà vua không thể chịu nổi hậu quả của thiên tai.
(1) Sợ không còn người làm nô lệ: Nhưng khi dân Israel xuất hành khỏi Ai-cập, "vua Pharao và bề tôi liền thay lòng đổi dạ với dân. Chúng nói: "Ta đã làm gì vậy? Ta đã thả cho Israel đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho ta! Nhà vua cho thắng chiến xa và đem quân đi theo.
Vua lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh." Lý do nhà vua và người Ai-cập đuổi theo là họ sợ mất mối lợi nô lệ mà dân Israel phục vụ họ. Điều này cho ta thấy lý do chính đáng Thiên Chúa muốn giải phóng dân. Con người không có quyền đối xử với người khác như những nô lệ.
(2) Đức Chúa làm cho lòng Pharao vua Ai-cập ra chai đá? Có nhiều người thắc mắc về tình thương của Thiên Chúa trong câu này: "Đức Chúa làm cho lòng Pharao vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái Israel, trong khi con cái Israel đi ra, giơ tay đắc thắng." Tại sao Thiên Chúa thương dân Israel và trừng trị người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa không làm cho nhà vua nhận ra lẽ ngay để đừng chai đá mà tiếp tục lãnh hình phạt?
Chúng ta biết đây chỉ là lối diễn tả của người Do-thái, vì họ tin mọi việc xảy ra đều là do thánh ý của Thiên Chúa, chứ họ không quan tâm đến việc giải thích hợp lý cách thần học như thời đại chúng ta. Theo quan điểm thần học, Thiên Chúa ban cho con người có trí tuệ để nhận ra điều phải hay trái, và có tự do để thi hành. Thiên Chúa đã bảo Moses và các kỳ-mục vào xin phép nhà vua để phóng thích dân Israel. Khi vua không chịu, Thiên Chúa mới gởi các thiên tai tới, không chỉ một vài lần, mà tới bảy lần. Vì thế, lỗi không phải là ở Thiên Chúa, mà tại sự cứng lòng và lối cư xử bất công của nhà vua và dân Ai-cập với đồng loại của mình.
1.2/ Phản ứng của con cái Israel:
(1) Yếu lòng tin dù đã thấy những việc Thiên Chúa làm qua 7 thiên tai: Khi con cái Israel nhìn thấy quân đội Ai-cập tiến đến sau lưng họ, con cái Israel kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu Đức Chúa. Họ nói với ông Moses: "Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập? Đó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!"
Người anh hùng thà chết vinh hơn sống nhục; con cái Israel thà sống nhục hơn chết vinh. Hai tội của con cái Israel chúng ta có thể nhận ra ở đây: (1) Họ không có niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa dù đã thấy quá nhiều các uy quyền của Ngài qua việc chọn Moses và 7 thiên tai. (2) Họ chọn làm nô lệ cho người Ai-cập để có của ăn dư thừa, hơn là tự do mà phải sống thiếu thốn! Khi đức tin bị thử thách, con người phải chứng minh cho Thiên Chúa biết niềm tin của họ.
(2) Đức tin của nhà lãnh đạo Moses: Ông Moses nói với dân: "Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Đức Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. Đức Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên." Những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực thi. Ông Moses bày tỏ đức tin vững vàng của ông vào Thiên Chúa cho dân Israel thấy, ông làm tất cả những gì Ngài truyền.
2/ Phúc Âm: Chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Jonah.
2.1/ Niềm tin cần thiết để có dấu lạ: Trong hầu như tất cả phép lạ Chúa Giêsu làm, Ngài đòi con người phải chứng tỏ niềm tin của mình trước. Khi không có dấu chỉ của niềm tin, Chúa không làm phép lạ như trình thuật Chúa về quê hương Nazareth trong Tin Mừng của Chủ Nhật vừa qua.
(1) Đòi hỏi của các luật sĩ và kinh sư: "Bấy giờ có mấy luật sĩ kinh sư và mấy người kinh-sư nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ."" Họ đã từng được nghe hay chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Điều họ yêu cầu hôm nay chỉ là một thử thách. Chúa biết đối với những người cứng lòng như họ, có làm bao nhiêu phép lạ nữa cũng không lay chuyển được sự ngoan cố của họ.
(2) Câu trả lời của Chúa Giêsu: Người đáp: "Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Jonah. Quả thật, ông Jonah đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy." Tuy Chúa không thỏa mãn lời yêu cầu của họ, nhưng Chúa hứa sẽ cho họ thấy sự kiện Chúa chết ba ngày trong phần mộ và sẽ phục sinh khải hoàn.
2.2/ Kẻ có cơ hội đến nhiều, sẽ bị phán xét nặng hơn:
(1) Dân thành Nineveh: Tiên tri Jonah sau khi đã nhận ra uy quyền của Thiên Chúa qua biến cố sống trong bụng cá 3 ngày, đã vâng lời đi rao giảng tại Nineveh. Khi ông mới chỉ rao giảng có một ngày, toàn thể dân thành, từ nhà vua đến dân chúng, từ con người đến thú vật, đều ăn năn xám hối, xức tro trên đầu, và mặc áo nhặm đền tội. Vì thế, Chúa nói: "Trong cuộc phán xét, dân thành Nineveh sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Jonah rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Jonah nữa." Những luật sĩ và kinh sư sẽ bị kết án nặng nề hơn dân thành Nineveh, vì họ đã được nghe chính Chúa dạy dỗ và tỏ uy quyền.
(2) Nữ hoàng Phương Nam: là người đã từ phương xa mang theo bao lễ vật lặn lội tới để được nghe những lời khôn ngoan của vua Solomon. Vì thế, "trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Solomon; mà đây thì còn hơn vua Solomon nữa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không bao giờ được quyền đòi Thiên Chúa phải tỏ khôn ngoan và uy quyền. Chúng ta phải khiêm nhường học hỏi và nhìn ra những điều này trong trời đất.
- Chúng ta phải chứng minh niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa, khi đức tin của chúng ta bị thử thách. Đừng bao giờ chọn những lợi lộc vật chất thay vì chọn Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 16 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Jer 23:1-6; Eph 2:13-18; Mk 6:30-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng trong thất vọng
Trong cuộc đời, có những lúc con người cảm thấy lo âu, sợ hãi, chán nản đến tuyệt vọng, vì phải đương đầu với quá nhiều vấn đề: căng thẳng, chia rẽ, hận thù, bất an ... Thiên Chúa muốn con người phải tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Ngài, và Đức Kitô là nguồn hy vọng của mọi người, là giải pháp của mọi vấn nạn của cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: chỗ nào có lo âu, thất vọng, chỗ đó có hy vọng và giải quyết tuyệt vời của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah tường thuật nguy hiểm của các chủ chăn vô trách nhiệm làm chiên lạc bầy và niềm hy vọng có được Người Mục Tử Nhân Lành sẽ đến chăm sóc và quy tụ chiên về. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô tường thuật sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, giữa Do-thái và Dân Ngoại; và niềm hy vọng Thánh Giá sẽ hòa giải những mối xa cách thù địch này. Trong Phúc Âm, các tông đồ làm việc quá tải mà vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu săn sóc đoàn chiên. Chúa Giêsu bảo các ông hãy lui vào trong nghỉ ngơi để chính Ngài dạy dỗ và săn sóc dân chúng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền.
1.1/ Nguy hiểm của các mục tử không làm tròn bổn phận: Xưa cũng như nay, chúng ta luôn có những mục tử không làm tròn bổn phận của mình như tiên tri Jeremiah cảnh cáo: "Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác - sấm ngôn của Đức Chúa - Vì thế, Đức Chúa, Thiên Chúa Israel, phán như sau để lên án các mục tử, những người chăn dắt dân Ta: chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của Đức Chúa."
Những dấu hiệu cho thấy người chăn chiên không chu toàn nhiệm vụ người mục tử:
- không chịu lưu tâm chăm sóc chiên: Họ không dạy dỗ cho chiên của mình biết về Thiên Chúa và các Lề Luật của Ngài. Họ không làm gương sáng cho chiên noi theo; ngược lại còn làm gương mù. Họ không quan tâm đến các nhu cầu phần hồn cũng như phần xác của chiên.
- không yêu thương chiên cách vô vị lợi: Họ chỉ quan tâm đến lông chiên và thịt chiên của những con béo tốt, những con chiên có thể làm lợi cho họ mà thôi (Eze 34:7).
- không bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm: Họ xua đuổi chiên đi cách trực tiếp hay gián tiếp, hay làm chiên lạc bầy bằng những học thuyết sai lạc hay lối sống vô luân.
1.2/ Hy vọng: Những dấu hiệu của người Mục Tử Nhân Lành:
- chăm sóc chiên cẩn thận: Họ dạy dỗ chiên biết kính sợ Thiên Chúa và tuân hành các Lề Luật của Ngài.
- yêu mến và lo lắng cho chiên: Họ băng bó chiên bị thương, vỗ béo chiên gầy còm, đi tìm con chiên lạc và quy tụ tất cả chiên lạc về một đàn.
- bảo vệ chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì chiên: Họ bảo vệ chiên khỏi thú dữ giết hại, khỏi tay của những phường trộm cướp, khỏi những vùng nguy hiểm đe dọa tính mạng chiên.
Hai cách Thiên Chúa có thể làm để chăm sóc chiên:
(1) Hoặc Chính Chúa Thượng sẽ chăn dắt chiên như lời sấm của Jeremiah: "Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."" Thánh sử Gioan đồng nhất vị Mục Tử này với Đức Kitô (Jn 10).
(2) Hoặc Chúa sẽ huấn luyện và gởi tới các mục tử tốt lành: "Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của Đức Chúa."
2/ Bài đọc II: Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét.
Hận thù xa cách xảy ra là do sự không hiểu biết, ghen ghét, thiếu cảm thông, hay tính kiêu hãnh coi mình hay giòng giống mình trổi vượt hơn người khác. Thánh Phaolô nêu lên hai mối hận thù xa cách chính:
2.1/ Giữa con người với Thiên Chúa: "Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần." Khi con người phạm tội, họ xa cách Thiên Chúa, và không xứng đáng làm con cái của Ngài. Nhưng nhờ máu của Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đổ ra, con người được sạch mọi tội lỗi và giao hòa với Thiên Chúa. Nhờ vậy, họ lại được hưởng quyền làm con cái Thiên Chúa.
2.2/ Giữa Do-thái và Dân Ngoại: Khi con người được hòa giải với Thiên Chúa, họ cũng được đòi phải hòa giải với nhau, như lời thánh Phaolô: "Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên Thập Giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét." Có tác giả giúp chúng ta nhớ tư tưởng này bằng cách cắt nghĩa Thập Giá gồm 2 mảnh: mảnh đứng tượng trưng cho sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, mảnh ngang tượng trưng cho sự hòa giải giữa con người với nhau.
Thánh Phaolô cắt nghĩa tiến trình hòa giải giữa Do-thái và Dân Ngoại như sau: "Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người." Trước khi Đức Kitô đến, có một sự phân cách rõ ràng giữa người Do-thái và tất cả các sắc dân khác. Người Do-thái coi chỉ có họ mới xứng đáng là "Dân Riêng" của Thiên Chúa, vì Ngài đã chọn, bảo vệ, và ban Lề Luật cho họ; tất cả dân tộc khác được xếp hạng Dân Ngoại, không thanh sạch, và không được hưởng những đặc quyền như họ. Vì thế, người Do-thái sống cách biệt với các dân tộc khác, và không muốn có sự chung đụng gì với các dân tộc khác. Khi Đức Kitô đến, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng và bao trùm tất cả mọi dân tộc. Điều kiện được cứu độ là niềm tin vào Ngài, chứ không dựa trên việc giữ Lề Luật nữa. Dĩ nhiên, Đức Kitô không hủy bỏ tất cả Lề Luật, nhưng các tín hữu vẫn phải giữ các Luật căn bản để chứng tỏ đức tin của họ.
Để hiểu những gì thánh Phaolô nói về sự xa cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại, chúng ta cần hiểu cách cấu trúc của Đền Thờ Jerusalem thời đó: Có 3 bức tường ngăn cách các hạng người khác nhau. Bức tường thứ nhất ngăn cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại; người dân ngoại nào vượt bức tường này là động chạm đến người Do-thái và sẽ bị tử hình. Bức tường thứ hai ngăn cách giữa phái nam và phái nữ của người Do-thái; người nữ không được phép bước vào chỗ của người nam. Bức tường thứ ba ngăn cách giữa người giáo dân và hàng tư tế; chỉ có tư tế mới được vào trong để dâng của lễ hy sinh lên Thiên Chúa. Ngoài ra, còn có một bức màn đóng kín từ trên xuống dưới để ngăn cách giữa nơi thánh của các tư tế và nơi Cực Thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện; chỉ có các Thượng Tế mới được vào nơi Cực Thánh trong Ngày Xá Tội, mỗi năm một lần mà thôi.
- Khi Đức Kitô đến, Ngài đập tan các bức tường ngăn cản giữa con người với con người, như lời thánh Phaolô diễn tả: "Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và Dân Ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét." Không chỉ đập tan bức tường thứ nhất mà mọi bức tường ngăn cản giữa con người với con người: không còn Do-thái hay Hy-lạp, không còn nô lệ hay tự do, nhưng tất cả được rửa để tháp trong một Nhiệm Thể duy nhất là Đức Kitô (I Cor 12:13).
- Hơn nữa, Đức Kitô cũng xé đi bức màn ngăn cách giữa con người với Thiên Chúa, như lời Tin Mừng diễn tả: Màn trong Đền Thờ xé ra làm hai khi Chúa Giêsu gục đầu xuống và trút hơi thở cuối cùng (Mt 27:51, Mk 15:39, Lk 23:45). Kể từ giờ ấy, con người không còn xa lạ với Thiên Chúa nữa; họ có thể trực tiếp đến với Ngài bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, chứ không cần phải qua trung gian thầy Thượng Tế, và cũng không cần đợi đến Ngày Xá Tội một năm một lần. Thánh Phaolô diễn tả tư tưởng này như sau: "Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thánh Thần duy nhất mà đến cùng Chúa Cha."
3/ Phúc Âm: Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.
3.1/ Căng thẳng nguy hiểm giữa chủ chăn và đòan chiên
(1) Quá tải của sứ vụ tông đồ: "Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy... Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa."
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, làm sao các tông-đồ có thể đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng? Làm sao các ông có thể thăng bằng giữa đời sống cá nhân với mục vụ tông đồ?
(2) Chiên vất vưởng không người chăn: "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài." Làm sao để có đủ mục tử chăm sóc cho dân khi càng ngày càng ít người đi tu? Xã hội càng tiến bộ, đời sống luân lý và gia đình càng sa sút. Làm sao kiếm được các thợ rành nghề để săn sóc dân chúng?
3.2/ Hy vọng: Chúa Giêsu là giải quyết cho cả hai bên, các mục tử và đoàn chiên.
(1) Người tông-đồ phải có thời giờ nghỉ ngơi với Đức Kitô: Chúa Giêsu nhận ra sự bận rộn trong công tác mục vụ của các tông-đồ. Để tránh cho các ông nguy cơ bị "làm việc quá độ," Ngài bảo các ông: ''Các con hãy vào trong để nghỉ ngơi một chút." Chính Ngài đi tìm chỗ nghỉ cho các ông. Đây phải là một kinh nghiệm sống cho chúng ta: Chúa không đòi chúng ta làm việc quá độ, cũng không khuyến khích sự lười biếng. Chúng ta phải giữ sao cho cân bằng, khi nào quá mệt mỏi, chúng ta phải kiếm giờ để nghỉ ngơi dưỡng sức trong Chúa; chứ không phải phí sức vào những cuộc vui chơi làm chúng ta càng mệt mỏi hơn.
(2) Người dạy dỗ họ nhiều điều: Không phải chỉ có các mục tử là người chủ chăn, Đức Kitô là Mục Tử Tốt Lành và trên hết. Chính Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, và bảo vệ dân chúng, như trình thuật hôm nay: " Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành: Tất cả chúng ta hãy học hỏi, đặt trọn niềm tin tưởng, và niềm hy vọng nơi Ngài.
- Cha mẹ hay cha xứ đều là các mục tử chăm sóc những chiên của Thiên Chúa. Trên hết mọi sự, người mục tử phải dạy cho dân biết và quí mến Đức Kitô.
- Mỗi người chúng ta đều là các chiên của Thiên Chúa. Chúng ta phải học biết về Đức Kitô và cầu nguyện cho các mục tử của mình. Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta đang cầu nguyện cho chính chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 19/7 VINH DỰ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA MỤC TỬ
- 18/7 Thiên Chúa luôn bảo vệ sự sống
- 17/7 Lề Luật làm ra là để bảo vệ sự sống
- 16/7 Thiên Chúa muốn giúp con người vượt qua những đau khổ
- 15/7 Thiên Chúa mặc khải cho những người bé mọn
- 14/7 Cơ hội càng nhiều, phán xét càng nặng
- 13/7 Sợ sự thật làm con người chia rẽ
- 12/7 ƠN GỌI & SỨ MẠNG CỦA KITÔ HỮU
- 12/7 Ơn gọi của con người qua Đức Kitô
- 11/7 Sự thật sẽ toàn thắng