Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 14 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Eze 2:2-5; II Cor 12:7-10; Mk 6:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật.
Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết tha nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ phản loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết mình, con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giống nòi phản loạn không chịu tin vào Thiên Chúa.
1.1/ Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá: Dân tộc Israel bị Thiên Chúa mắng là giòng giống phản loạn. Thiên Chúa phán với Tiên-tri Ezekiel: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng."
Đặc tính của người phản loạn:
+ Họ không muốn nghe lời của bất cứ ai: Họ lấy mình làm tiêu chuẩn để phán xét mọi người. Họ không muốn nghe lời Thiên Chúa hay những gì Ngài nói qua các ngôn sứ.
+ Họ khó chịu khi thấy ai làm gì không giống họ: Họ không muốn tin Thiên Chúa; đã vậy, họ còn ngăn cản những ai tin vào Thiên Chúa. Lý do: những tín hữu khuấy động lương tâm của họ. Người Do-thái bắt bớ và truy tố các ngôn sứ, vì các ngôn sứ không chịu phản loạn như họ.
+ Họ muốn làm gì thì làm: Giống như con ngựa bất kham, không muốn đeo bất cứ điều gì trên người để tự do bay nhảy tung tăng khắp chốn; nhưng người chủ phải chế ngự nó bằng giây cương hàm thiết, nó mới chịu ngoan ngoãn thi hành lệnh của chủ. Giống người phản lọan cũng thế, họ không muốn giữ bất cứ luật lệ nào của Thiên Chúa cũng như của loài người. Nhưng loại người như thế sẽ không tồn tại lâu dài, vì luật pháp sẽ không dung thứ họ. Cho dù họ có thể qua mặt loài người, họ sẽ không qua khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
1.2/ Các ngôn sứ là khí cụ Thiên Chúa dùng để vạch ra lầm lỗi của họ: Chúa muốn Tiên-tri Ezekiel phải can đảm nói những gì Chúa muốn nói: "Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng."
Thái độ của ngôn sứ: Không được sợ hãi loại người phản loạn này, nhưng phải can đảm vạch ra lầm lỗi của chúng: "Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư bề, hay ngồi trên bò cạp. Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt chúng, cũng đừng khiếp, vì chúng là nòi phản loạn. Ngươi cứ nói với chúng những lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn" (Eze 2:6-7).
2/ Bài đọc II: Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.
2.1/ Đau khổ giúp con người khỏi tự cao tự đại: Phaolô, trước khi trở thành môn đệ của Đức Kitô, là người nhiệt thành và kiêu hãnh. Ông hãnh diện với truyền thống của cha ông, và nhiệt thành truy tố những tín hữu của Đức Kitô, Người mà ông cho là xúi giục dân chúng chống lại Lề Luật của cha ông. Để dạy Phaolô một bài học, Chúa để ông té ngựa và bị mù; đồng thời Ngài cũng mặc khải cho ông biết nguy hiểm của những ai mù quáng giơ chân đạp mũi nhọn. Kể từ đó Phaolô suy nghĩ về thái độ quá khích của mình, và khiêm nhường để Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời của ông.
Trình thuật hôm nay kể: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại." Qua các Thư Phaolô, chúng ta biết ông đã được Đức Kitô thân hành hiện ra dạy dỗ và cho hiểu biết nhiều mầu nhiệm. Chính vì được thấu hiểu các mầu nhiệm mà Satan ganh tị với ông. Không lạ gì khi Satan đến vả mặt ông vì chúng không muốn ai thấu hiểu những mầu nhiệm này. Hơn nữa, biết những điều phi thường dễ đưa con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu. Chúng ta không biết rõ "cái dằm đâm vào thân xác Phaolô" là cái gì: có người cho là cám dỗ thân xác, có người cho là các bệnh tật mà ông phải chịu; nhưng điều quan trọng ông đã nói ra là "cái dằm" ngăn ngừa ông để khỏi tự cao, tự đại.
2.2/ Phaolô nhận ra sức mạnh đến từ Thiên Chúa: Qua kinh nghiệm của biến cố trở lại và của "cái dằm đâm vào thân xác," Phaolô hiểu rõ con người kiêu hãnh và yếu đuối của mình. Ông biết nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa chữa lành và ở với ông, ông sẽ mù lòa suốt đời về cả thể lý và tâm linh; nhưng vì tình yêu Thiên Chúa dành cho ông, Ngài cho ông lại được nhìn thấy ánh sáng và thấu hiểu sự quan trọng của Đức Kitô trong Kế Hoạch Cứu Độ.
Trong trình thuật hôm nay, vì nhiệt thành rao giảng đức tin, Phaolô đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ của "cái dằm;" nhưng Đức Kitô quả quyết với ông: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Chúng ta ít nhiều cũng có những kinh nghiệm như Phaolô, khi đang hăng hái nhiệt thành rao giảng hay làm việc tông đồ, mà chúng ta bị những ngăn trở như bệnh tật, bắt bớ, hiểu lầm; chúng ta muốn Chúa lấy đi những trở ngại này với ý hướng tốt lành, để chúng ta mạnh khỏe và có cơ hội tiếp tục phục vụ Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch khác: nhiều khi Ngài muốn chúng ta chậm lại để có thời giờ suy nghĩ chín chắn hơn, hay muốn chúng ta nghỉ ngơi để chuẩn bị cho sứ vụ sắp tới cam go hơn.
Thái độ chúng ta cần có là học nơi Phaolô: "Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh."
3/ Phúc Âm: Tại sao con người từ chối không tin vào Chúa Giêsu?
3.1/ Đức Kitô chuẩn bị cho người đồng hương để họ tin vào Ngài: Để một người có thể tin vào Đức Kitô, họ cần nhiều yếu tố quan trọng. Ngài chuẩn bị cho họ những điều cần thiết này:
(1) Ngài cho họ có cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày Sabbath, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường.
(2) Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt lên: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?"
(3) Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: "Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?"
3.2/ Người đồng hương không nhận ra Đức Kitô: Lý do chính khiến người đồng hương không nhận ra Đức Kitô là thay vì họ phải phán xét chính Đức Kitô và các việc Ngài làm, họ lại quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người.
Một ví dụ người Việt-nam chúng ta có kinh nghiệm là biến cố thi cử sau 1975, mà chúng ta thường nói khôi hài: "học tài thi lý lịch." Thay vì chấm điểm thí sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình "tư sản mại bản;" họ sẽ bị đánh rớt trước khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.
3.3/ Bụt nhà không thiêng: Đức Giêsu bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." Đây là một thực tế đau lòng, mà người Mỹ có câu "Familiarity breeds contempt." Tục ngữ Việt-nam cũng có câu tương tự: "Quen chó, chó liếm mặt."
(1) Nơi quê hương: Nhiều người chúng ta có thói quen thổi phồng người ngoại quốc. Cái gì của Mỹ cũng hay, cũng tốt, cũng đẹp; cái gì của Việt-nam cũng dở cũng xấu. Họ có biết đâu họ đang bị thành kiến chi phối, vì dân tộc nào cũng có cái hay cái dở; và không phải người Mỹ nào cũng tốt hay người Việt-nam nào cũng xấu.
(2) Giữa họ hàng: Nhiều người thường đánh giá người đồng hương trên bằng cấp, địa vị, hay tài sản. Trình thuật hôm nay cho biết lý do họ khinh thường Chúa Giêsu là vì họ biết gia đình của Ngài. "Con bác xã chùa phải quét lá đa;" con bác thợ mộc, làm sao có cơ hội để quán thông Lề Luật? Qui tụ một đám môn đệ thất học như thế, thầy cũng chẳng hơn trò!
(3) Trong gia đình: Nhiều người trong chúng ta đã từng có kinh ngiệm này. Chúng ta không thể hiểu lý do tại sao khi chúng ta làm cho người ngoài gia đình chỉ một việc rất nhỏ bé như chỉ bài, cho một ly nước, giới thiệu một việc làm, họ đã biết ơn hết sức và trả ơn bội hậu cho chúng ta. Trong khi ở nhà, chúng ta hy sinh tất cả mọi sự cho gia đình đến chỗ chỉ còn chấp nhận cái chết; nhưng người trong nhà vẫn vô ơn, bạc nghĩa, đến chỗ một lời cám ơn cũng không được lãnh nhận. Có lẽ vì người trong gia đình giả sử chúng ta phải làm những việc đó!
Trình thuật Marcô kết luận: "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải dẹp bỏ tính ngông cuồng và phản loạn, vì chúng gây thiệt hại cho chúng ta. Trái lại, chúng ta phải biết vâng lời Thiên Chúa và giữ các huấn lệnh của Ngài.
- Chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, chúng ta hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của mình.
- Khi phải phán xét, hãy phán xét biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì đến biến cố đó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 13 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 27:1-5, 15-29; Mt 9:14-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng nhận định: "Con cái thế gian khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng" (Lk 16:8). Nhưng không phải sự khôn khéo nào của con người cũng tốt lành. Để được coi là khôn ngoan, sự khôn khéo của con người cần được hướng dẫn bởi sự thật; nếu không, nó chỉ là xảo thuật để lừa đảo tha nhân. Hơn nữa, sự khôn ngoan của Thiên Chúa thắng vượt mọi khôn khéo của con người. Ngài có thể dùng chúng để đạt những gì Ngài muốn.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn khéo của thế gian. Trong Bài Đọc I, vì bà Rebekah muốn quyền trưởng nam thuộc về Jacob như Thiên Chúa đã mặc khải cho bà trước khi sinh hai con (Gen 25:23), nên bà đã dùng kế hoạch khôn khéo để Isaac phải chúc lành cho Jacob. Trong Phúc Âm, các môn đệ của Gioan dùng sự khôn ngoan của con người đến chất vấn Chúa Giêsu: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?" Chúa Giêsu trả lời họ: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Esau bị Rebekah và Jacob tước quyền trưởng nam.
1.1/ Kế hoạch của bà Rebekah: Khi ông Isaac đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa; ông bèn gọi Esau, con trai lớn của ông và nói: "Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào. Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của con, ra đồng săn thú cho cha. Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi chết." Theo truyền thống Do-thái cũng như Việt-nam, người cha thường chúc lành cho người con cả; vì người con cả sẽ thay cha để quyết định mọi sự trong gia đình khi cha vắng mặt.
Đang khi ông Isaac nói với Esau, con trai ông, thì bà Rebekah, vợ ông, nghe được. Bà vẫn tin khi Thiên Chúa hứa điều gì, điều ấy phải được hoàn tất; nên bà phác họa một kế hoạch để ý Thiên Chúa được hoàn thành. Trong khi Esau đi ra đồng để săn thú mang về; bà Rebekah lấy áo của Esau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Jacob, con trai nhỏ của bà.
Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Jacob, con bà.
1.2/ Isaac chúc lành cho Jacob:
(1) Thiên Chúa dùng con người để đạt những gì Ngài muốn: Trong sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngài vẫn dùng sự khôn khéo và sức mạnh của con người để đạt những gì Ngài muốn. Chẳng hạn, Ngài dùng cái roi là Vua Babylon để sửa phạt Israel; nhưng khi đã sửa phạt xong, Ngài lại bẻ gẫy cái roi Babylon bằng cách trao vương quốc Babylon vào tay Cyrus, vua Ba-tư. Chính vua này đã thi hành ý định của Thiên Chúa qua việc phóng thích dân Do-thái khỏi cảnh lưu đày, cho hồi hương về Jerusalem, và giúp họ xây dựng lại Đền Thờ và quê hương. Điều này chứng minh cho chúng ta thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa vẫn đang điều khiển mọi quyền lực của thế gian, ma quỉ, và con người.
Trình thuật hôm nay là một ví dụ của sự quan phòng: Thiên Chúa muốn trao quyền trưởng nam vào tay Jacob, và Ngài dùng sự khôn khéo của bà mẹ Rebekah để thực hiện điều này; mặc dù nhiều người không thể chịu được sự gian dối trắng trợn này.
(2) Thiên Chúa chọn Israel làm dân riêng dù họ không xứng đáng: Mục đích của trình thuật hôm nay cũng muốn dẫn chứng việc Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái làm dân riêng. Ngài chọn vì Ngài thương họ, mặc dù họ chẳng có gì hơn các dân tộc khác: Họ chỉ là một nhóm người nhỏ bé đang làm nô lệ bên Ai-cập; nhưng vì Lời Hứa với các tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob, nên Ngài đã giải thoát họ khỏi làm nô lệ người Ai-cập và ban Đất Hứa làm sản nghiệp riêng. Lời chúc lành của Isaac cho Jacob hôm nay dẫn chứng những điều này:
- Lời hứa ban Đất Hứa làm gia nghiệp: "Kìa, mùi thơm con tôi như mùi thơm cánh đồng Đức Chúa đã chúc phúc. Xin Thiên Chúa ban cho con, sương trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào."
- Lời hứa chọn làm dân riêng của Thiên Chúa: "Các dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con. Con hãy làm chủ các anh em con, và các con của mẹ con phải sụp xuống lạy con. Kẻ nguyền rủa con sẽ bị nguyền rủa, kẻ chúc phúc cho con sẽ được chúc phúc."
2/ Phúc Âm: Phải khôn ngoan để nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa.
2.1/ Ăn chay có mục đích: Khi con người làm bất cứ việc gì, là cho một mục đích; chứ không làm theo hứng, cũng không theo thời, hay thấy người ta làm mình cũng làm. Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?"
Đức Giêsu trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay." Câu trả lời của Chúa Giêsu nhắc nhở cho các môn đệ của Gioan biết: một trong những mục đích của việc ăn chay là để một người sống mối liên hệ của họ với Thiên Chúa. Nếu một người đang sống mối liên hệ đó như các môn đệ đang có Chúa Giêsu, các môn đệ chưa cần phải ăn chay. Họ sẽ ăn chay khi Chúa Giêsu rời xa họ.
2.2/ Phải có tinh thần mới để đón nhận mặc khải và đạo lý mới: Nếu con người muốn tiến bộ, họ phải có một tinh thần hay thái độ cầu tiến; nếu không có tinh thần này, họ sẽ giữ chặt những gì họ đã có hay đã biết. Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ để khán giả suy xét:
(1) Không ai lấy vải mới vá vào áo cũ: "vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm." Vải mới có độ co dãn mạnh hơn áo cũ, vì chưa được giặt giũ nhiều. Nếu một người vá vải mới vào áo cũ, nó sẽ co lại và làm cho chỗ rách càng tệ hơn.
(2) Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ: "vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai." Một ví dụ tân thời hiện đại giúp chúng ta dễ hiểu hơn: Các softwares mới ra phải được dùng trong các máy vi tính mới, vì chúng đòi nhiều chỗ để chứa các dữ kiện và một vận tốc nhanh hơn, mà các máy vi tính cũ không thể đáp ứng nổi. Nếu một người ngoan cố cứ dùng các softwares mới này trong máy vi tính cũ của mình, mà không chịu update, họ sẽ chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi.
Trong lãnh vực tri thức cũng thế, để có thể hiểu truyền thống của một nước, người nghiên cứu phải đặt mình trong hoàn cảnh và lối suy tư của dân địa phương; nếu không, họ sẽ không bao giờ hiểu được truyền thống của dân địa phương, và dễ đi tới những phê phán sai lầm. Cũng vậy, để tiếp nhận đạo lý của Chúa Giêsu, người nghe phải có một thái độ cởi mở, họ mới có thể tiếp nhận những mặc khải mới của Chúa Giêsu. Nếu họ cho Lề Luật đã hoàn hảo như các kinh-sư, họ sẽ không muốn tiếp nhận đạo lý của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin Thiên Chúa vẫn đang quan phòng mọi sự cách khôn ngoan trong vũ trụ này. Chúng ta phải biết nhận ra và xử dụng cách khôn ngoan để đạt tới ơn cứu độ.
- Để nhận ra sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta cần có một tinh thần cởi mở, để học hỏi và tiếp thu những khôn ngoan mà Thiên Chúa vẫn không ngừng tiết lộ cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Kinh Thánh Thomas Tông Đồ.
Bài đọc: Eph 2:19-22; Jn 20:24-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho những ai tuy không thấy mà tin!
Thánh Thomas Tông Đồ thường được gọi là "Cha của những kẻ cứng lòng tin;" nhưng cũng nhờ ngài mà chúng ta có thêm những lời dạy dỗ của Đức Kitô, và mở mắt cho chúng ta thấy có nhiều cách thức khác để con người phải tin vào Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những cách thức khác nhau một người có thể dùng để tin vào Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Ephesô xác tín đức tin của chúng ta được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, và nền móng là niềm tin của các tông-đồ và các tiên-tri. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách Thomas đã chỉ dựa vào kinh nghiệm giác quan, mà không chịu tin vào lời Ngài đã loan báo trước Cuộc Khổ Nạn và lời chứng của các tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin của chúng ta dựa trên niềm tin nền tảng của các Tông-đồ.
1.1/ Vị thế của người Kitô hữu trong gia đình Thiên Chúa: Tác giả Thư Ephesô xác định: "Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa." Một sự phân tích của 4 từ ngữ dùng trong câu này, cho chúng ta hiểu ý của tác giả:
(1) Người xa lạ (xenos): người ngoại kiều, không có một chút liên hệ nào với người bản xứ, cũng không được bảo vệ bởi luật pháp bản xứ. Đó là tình trạng của Dân Ngoại, khi họ chưa biết Đức Kitô.
(2) Người tạm trú (paroikos): người ngoại kiều được phép trong một quốc gia, nhưng chỉ tạm thời trong một thời gian. Họ chỉ được hưởng một số những quyền lợi của người bản xứ, và phải ra khỏi xứ khi thời gian hết hạn.
(3) Người đồng hương (sumpolithi): người cùng sinh ra trong một làng, một nước; có cùng chung niềm tin, thói quen, truyền thống, và văn hóa. Những người này có thói quen lập Hội Ái Hữu để giúp đỡ nhau khi phải di chuyển đi nơi xa hay nơi đất khách quê người. Ví dụ: Hội Ái Hữu Thức Hóa, qui tụ những đồng hương của làng Thức Hóa, Bùi Chu, Bắc Việt Nam. Tác giả Thư Ephesô gọi các tín hữu là những "đồng hương với các người thuộc dân thánh," vì họ có cùng niềm tin nơi Đức Kitô, và cùng được kêu gọi để trở nên thánh thiện.
(4) Người nhà (onkeios): người có liên hệ ruột thịt hay hoàn cảnh đặc biệt, liên kết thành một nhóm rất thân mật, sống chung trong một mái nhà. Những người này được gọi là những thành viên của một nhà. Họ được chung hưởng mọi quyền lợi và có bổn phận bảo vệ nhà mình. Tác giả gọi các tín hữu là những "người nhà của Thiên Chúa;" vì họ cùng được hưởng ơn cứu độ Thiên Chúa đã dọn sẵn. Họ cùng chung bổn phận làm sao cho mọi người trong nhà đạt được ơn cứu độ.
1.2/ Tòa nhà của Thiên Chúa: được nhân cách hóa để chỉ vị thế và bổn phận của mỗi thành phần của Dân Chúa. Một tòa nhà gồm những phần sau đây:
(1) Đá Tảng góc tường (avkrogwniaios): là chính Đức Giêsu Kitô. Đá Tảng là viên đá góc, viên đá quan trọng nhất nối hai bức tường của tòa nhà và sàn nhà với nhau, trong kiến trúc xây nhà của người Do-thái. Nhiều người cho hai bức tường này tượng trưng một cho Do-thái và một cho Dân Ngoại. Đức Kitô hay niềm tin vào Đức Kitô là Đá Tảng cho tòa nhà này. Nếu không được xây dựng trên Đá Tảng là Đức Kitô, tòa nhà của Thiên Chúa sẽ không thành hình được.
(2) Nền móng (themelios): là các Tông Đồ và ngôn sứ. Cấu trúc quan trọng thứ hai của tòa nhà là nền móng, trên đó tòa nhà được xây dựng lên. Chúa Giêsu đã từng cho chúng ta một ví dụ về việc xây nhà trên đá thay vì trên cát. Các ngôn sứ và các tông-đồ được ví như nền móng của tòa nhà Thiên Chúa, vì đức tin của họ vào Thiên Chúa. Nhờ những cố gắng rao giảng và máu của họ đổ ra, mà đức tin được lan tràn ra cho mọi người.
(3) Các phần khác: là toàn thể các tín hữu. Có thể ví mỗi tín hữu như một viên gạch được xây trong tòa nhà của Thiên Chúa; tuy nhỏ bé, nhưng cần thiết để hoàn thành. Trong Đức Kitô, "toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí."
2/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin!
2.1/ Đức tin dựa trên kinh nghiệm: Có những người chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe, và tay sờ mó được. Thomas là một trong những người này. Vì ông không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông-đồ lần thứ nhất, nên họ nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
2.2/ Đức tin dựa trên các điều khác: Ngoài đức tin dựa trên kinh nghiệm giác quan như Thomas đòi hỏi, chúng ta còn ít nhất 3 cách khác để tin một điều là sự thật:
(1) Thế giá của người nói: Đây là cách mà chúng ta vẫn áp dụng hằng ngày: con cái tin cha mẹ, học sinh tin thầy cô, nhân viên tin chủ mình ... Chúng ta tin vì chúng ta nghĩ những người này không thể đánh lừa chúng ta. Tòa án các cấp cũng thường áp dụng điều này khi đòi phải có hai hoặc ba nhân chứng để xác định một điều xảy ra là sự thật. Chúa Giêsu trách Thomas cứng lòng tin, vì đã không tin lời của 10 nhân chứng là các tông-đồ.
(2) Hậu quả xảy ra: Nguyên lý nhân quả là nguyên lý mà chúng ta vẫn thường dùng trong cuộc sống hằng ngày. Ví dụ, khi chúng ta thấy khói bốc lên, chúng ta biết ngay có lửa đang cháy. Tuy chúng ta không thấy điện chạy, nhưng chúng ta không dám rờ vào ổ điện, vì chúng ta sợ điện giật. Cũng vậy, tuy chúng ta không thấy Thiên Chúa; nhưng nhìn mọi sự vật do tay Chúa sáng tạo, chúng ta tin có Thiên Chúa.
(3) Ghi chép lịch sử: Khi học lịch sử, chúng ta tin những người ghi chép lại những biến cố lịch sử đã xảy ra. Nếu có nghi ngờ, chúng ta có thể đối chiếu các nguồn lịch sử khác nhau, và dùng trí phán đoán để xác định sự trung thực của các biến cố. Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta cũng dựa trên lịch sử để xác định sự trung thực của các biến cố xảy ra. Chẳng hạn, chúng ta thường gặp những câu trong Tân Ước như: "để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã nói," hay "để làm tròn lời Kinh Thánh đã chép" ...
2.3/ Ông Thomas tuyên xưng đức tin: Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Đức tin dựa trên kinh nghiệm là cách thấp nhất để một người tin, Chúa Giêsu khiển trách Thomas vì đã không chịu dùng các cách khác nữa. Thánh Thomas, tuy cứng lòng tin; nhưng một khi đã xác tín niềm tin vào Đức Kitô, ông không bao giờ lui gót nữa. Ông không chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Thầy, mà còn là Thiên Chúa của ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là những viên đá sống động trong Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là lo sao cho Đền Thờ này luôn sống động và tăng trưởng mỗi ngày.
- Đức tin của chúng ta không chỉ dựa trên kinh nghiệm của giác quan; nhưng còn dựa trên Kinh Thánh, lịch sử, hậu quả, và những lời làm chứng của bao nhiêu chứng nhân trong lịch sử.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 13 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 22:1-19; Mt 9:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức tin mang lại những điều tốt lành và có thể tha tội cho con người.
Trong lãnh vực đức tin, con người không thể nói họ chỉ tin những gì họ có thể hiểu được. Lý do đơn giản là có những mầu nhiệm của Thiên Chúa vượt quá tầm hiểu biết của con người; chẳng hạn các Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, Mình Máu Thánh Chúa, Thánh Giá, đau khổ ... Để hiểu những mầu nhiệm này, con người cần mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng cho chúng ta thấy phải tin tưởng và vâng lời Thiên Chúa, mặc dù con người không luôn hiểu lý do tại sao. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa, qua việc sẵn sàng sát tế người con duy nhất cho Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa người bại liệt và tha thứ tội lỗi vì ông có niềm tin nơi Ngài. Chúa cũng kiên nhẫn mặc khải cho các kinh sư về quyền tha tội của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thử thách đức tin của Abraham.
1.1/ Đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng ta học hỏi được từ câu truyện lịch sử này, hôm nay chúng ta chỉ chú ý đế hai điểm chính:
(1) Abraham không hỏi lý do tại sao Thiên Chúa muốn ông làm điều đó: Nhiều người trong chúng ta chắc chắn sẽ đặt câu hỏi tại sao Thiên Chúa muốn Abraham làm điều đó, vì nó hoàn toàn đi ngược lại với sự suy luận của loài người: Làm sao người cha có can đảm cầm dao giết con, nhất là đứa con thừa tự mà Thiên Chúa ban cho trong lúc tuổi già!
Abraham không thắc mắc, vì ông đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa: Chúa bảo "Đi!" ông đi. Chúa bảo: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Moriah mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho." Sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là Isaac, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Abraham không cần hỏi vì ông quá tin tưởng vào Thiên Chúa; ông biết Thiên Chúa có mục đích khi Ngài truyền ông phải làm bất cứ điều gì. Khi chưa hiểu được lý do, Abraham dùng đức tin để bước đi.
(2) Tình phụ tử vẫn phải đặt sau tình yêu Thiên Chúa: Ba ngày trong cuộc hành trình là khoảng thời gian dài để Abraham có thể đổi ý, không làm theo lệnh truyền của Thiên Chúa, nhất là sau khi nghe câu truyện đối thoại giữa hai cha con:
- Isaac thưa với cha là ông Abraham: "Cha!"
- Ông Abraham đáp: "Cha đây con!"
- Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?"
- Ông Abraham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.
Tuy thế, tình yêu của Abraham dành cho Thiên Chúa mạnh hơn tình phụ tử của Abraham dành cho Isaac; nên khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
1.2/ Phần thưởng dành cho Abraham:
(1) Đức tin cần được tôi luyện trong thử thách: Nếu một người sẵn sàng sát tế người con một của mình để chứng tỏ niềm tin cho Thiên Chúa, chẳng cần gì phải thử thách người đó nữa. Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu mọi bí ẩn trong con người, đã hiểu rõ đức tin của Abraham dành cho Ngài. Một khi Thiên Chúa đã nhìn thấy đức tin của ông, việc sát tế Isaac không còn cần thiết nữa; nên Thiên Chúa ra lệnh cho sứ thần đình chỉ việc sát tế Isaac: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!"
Chúng ta đã so sánh việc sát tế Isaac trên núi Moriah với việc sát tế Chúa Giêsu, Người Con Một của Thiên Chúa, trên đồi Golgotha, không xa Moriah bao nhiêu. Điểm khác biệt giữa hai biến cố là Isaac không chết; nhưng Chúa Giêsu đã đổ máu chết thực sự để chuộc tội cho con người. Lý do Chúa Giêsu phải chết là Thiên Chúa muốn chứng thực tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Con người cần bằng chứng vì con người không thể nhìn thấu tâm tư của Thiên Chúa.
(2) Thiên Chúa chúc lành cho giòng dõi Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói: "Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho giòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."
Một người làm quan cả họ được nhờ. Vì hành động anh hùng và vâng lời của tổ-phụ Abraham, Thiên Chúa chúc lành ông và cho toàn giòng dõi của ông. Cũng như vì sự bất tuân của Adam, mà ông và toàn giòng dõi ông bị chúc dữ. Đức tin của một người không bao giờ chỉ giữ lại trong người đó, nhưng sẽ lan tràn và sinh lợi ích cho nhiều người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có quyền tha tội và quyền chữa lành (Mk 2:1-12; Lk 5:17-26).
2.1/ Các kinh-sư chất vấn quyền tha tội của Chúa Giêsu: Người ta khiêng đến cho Chúa Giêsu một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!"
(1) Phản ứng của các kinh-sư: Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: "Ông này nói phạm thượng!" Truyền thống Do-thái tin: Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết ý nghĩ của họ, liền nói: "Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn?
Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo: "Con đã được tha tội rồi!" vì chẳng ai có thể xác quyết quyền này. Điều khó hơn là truyền cho bệnh nhân: "Đứng dậy mà đi!" vì ai ai cũng có thể chứng nhận người truyền có thể làm việc ấy hay không. Để chứng minh cho họ biết Ngài có cả hai quyền, Chúa Giêsu truyền cho người bại liệt: "Đứng dậy, vác giường đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.
2.2/ Quyền tha tội liên quan đến việc chữa lành:
(1) Chúa Giêsu có quyền tha tội: Bệnh tật là hậu quả của tội; nếu chữa lành bệnh tật là cũng lấy đi tội lỗi, nguyên nhân của bệnh. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội.
(2) Chúa Giêsu là Thiên Chúa: Ngoài ra, như mấy kinh sư tin tưởng: Chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội; mà Chúa Giêsu có quyền tha tội; cho nên Ngài phải là Thiên Chúa. Như thế, lời kết tội Chúa Giêsu của các kinh sư "Ông này nói phạm thượng!" là sai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải vâng lời những gì Thiên Chúa truyền và sự quan phòng của Ngài, cho dù chúng ta không hiểu tại sao xảy ra như vậy. Ngài sẽ soi sáng hay mặc khải cho chúng ta hiểu sau.
- Để hiểu các mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng ta cần khiêm nhường nhận giời hạn hiểu biết của con người, và cầu xin sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 13 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 21:5, 8-20; Mt 8:28-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quan tâm lợi lộc trước mắt mà không nhìn thấy thiệt hại tương lai.
Thiên Chúa khôn ngoan và yêu thương, Ngài biết những gì hữu ích và những gì gây thiệt hại cho con người; nên đã thân hành ban Thập Giới, để con người cứ theo đó sống để có hạnh phúc cả đời này và đời sau. Ma quỉ rất tinh ranh và ghen tị, chúng không muốn con người được yêu thương và hạnh phúc, nên không ngừng cám dỗ và xúi giục con người vi phạm Thập Giới để phải chịu đau khổ cả đời này lẫn đời sau. Theo căn bản của Thập Giới, con người phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình vậy. Ma quỉ, chúng thừa biết sự thiển cận của con người: chỉ biết nhìn cái lợi trước mắt; nên không ngừng bày ra những ảo ảnh của vật chất để xúi giục con người chọn vật chất trên tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những bài học thực tế để cho chúng ta suy tư và học hỏi. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật lý do tại sao bà Sarah bắt ông Abraham phải trục xuất mẹ con Hagar ra khỏi nhà, vì bà không muốn Ismael, con của Hagar, được đồng thừa tự với Isaac, con bà. Trong Phúc Âm, dân làng Gadara, vì quá quan tâm đến sự thiệt hại của đàn heo, và không quan tâm đến sự lành mạnh tinh thần của hai con người; nên đã lạnh nhạt mời Chúa ra khỏi làng, để họ tiếp tục sống nô lệ cho ma quỉ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa vượt xa tính ích kỷ nhỏ nhen của con người.
1.1/ Cách cư xử ích kỷ và bất công của bà Sarah: Đọc Sách Sáng Thế, chúng ta biết rõ lý do tại sao Hagar có con với Abraham: đó là do kế hoạch của bà Sarah, vì bà không thể sinh con cho Abraham có con nối giòng. Nhưng khi được Thiên Chúa đoái thương và ban cho bà có một con trai là Isaac trong lúc tuổi già, bà đổi ý định và đày đọa Hagar và con của nàng.
Khi bà Sarah thấy đứa con mà Hagar, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông Abraham, đang cười giỡn, bà liền nói với ông Abraham: "Ông hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với Isaac, con trai tôi." Lý do chính bà lo lắng là Ismael sẽ được cùng thừa kế gia tài của Abraham để lại với Isaac con bà!
Sự việc xảy ra là hoàn toàn do ý định của bà Sarah, lẽ ra bà phải có can đảm lãnh trách nhiệm do quyết định của mình, bà lại đổ xuống trên Abraham và mẹ con Hagar. Ông Abraham rất bực mình vì lời ấy, bởi đó là con ông. Nhưng Thiên Chúa phán với ông Abraham: "Đừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ của ngươi. Tất cả những gì Sarah nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ Isaac mà ngươi sẽ có một giòng dõi mang tên ngươi. Còn con trai của người nữ tỳ, Ta cũng sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn, vì nó là giòng dõi ngươi."
1.2/ Kế hoạch của Thiên Chúa cho mẹ con Hagar: Nghe lời Thiên Chúa, sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Hagar. Ông đặt đứa bé lên vai nàng và bắt nàng phải đi.
(1) Phản ứng của Hagar: Mẹ góa con côi, hành trang lên đường chỉ có ít bánh và nước. Nàng đi mà không biết đi về đâu. Chán nản, mệt mỏi, tuyệt vọng ... Khi nước trong bầu da đã cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, rồi đi ngồi đối diện, cách xa khoảng tầm cung bắn. Nàng nói: "Sao cho tôi đừng nhìn thấy đứa bé chết!" Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc.
(2) Thiên Chúa vẫn rộng tình thương: Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời Ngài sai sứ thần đến an ủi Hagar: "Sao thế, Hagar? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn." Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung.
(3) Hậu quả của cách cư xử của bà Sarah: Chúng ta không phủ nhận tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa; nhưng mối thù truyền kiếp giữa dân tộc Do-thái và người Hồi-giáo là do kết quả của hành động thiếu khôn ngoan của bà Sarah. Abraham là tổ phụ của cả hai bên: Do-thái và Hồi-giáo. Nếu bà biết khiêm nhường dàn xếp để bà và Hagar có thể ở chung một nhà, và hai con trẻ Isaac và Ismael có thể cười giỡn và đối xử với nhau như anh em; mối thù truyền kiếp chắc đã không xảy ra và kéo dài như ngày nay.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trục xuất quỉ thần ra khỏi hai người.
2.1/ Chúa Giêsu đương đầu với quyền lực ma quỉ: Khi Đức Giêsu sang bờ bên kia của Biển Hồ đến miền Gadara, có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Gặp Chúa Giêsu, chúng la lên rằng: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?"
(1) Thiên Chúa và ma quỉ không thể ở chung: chỗ nào có sự hiện diện của Thiên Chúa, là không có sự hiện diện của ma quỉ và ngược lại. Ma quỉ biết Thiên Chúa sẽ tiêu diệt chúng vĩnh viễn trong Ngày Phán Xét. Thời gian trước ngày đó, chúng được quyền cám dỗ con người. Đó là lý do chúng nhắc khéo Chúa Giêsu là "chưa tới lúc" để Ngài tiêu diệt chúng.
(2) Kế hoạch của ma quỉ: Nhiều người thắc mắc tại sao ma quỉ xin nhập vào đàn heo và tại sao chúng lại lao xuống biển? Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng đã có sẵn kế hoạch để dân làng mời Chúa Giêsu đi khỏi!
2.2/ Sợ hãi mất lợi tức làm dân thành quyết định thiếu khôn ngoan: Trình thuật của Matthew không cho biết số lượng của bầy heo lao xuống biển; trình thuật của Marcô cho biết số lượng khoảng 2,000 con. Nhiều tác giả thắc mắc lý do tại sao Chúa Giêsu cho quỉ nhập vào đàn heo để gây thiệt hại cho dân làng như vậy. Chúng ta cần công bằng khi phán xét: Chúa Giêsu không phải là lý do chính gây ra việc đàn heo lao xuống biển; ma quỉ là nguyên nhân chính và chúng có uy quyền để gây ra thiệt hại cho đàn heo. Hơn nữa, mục đích của chúng khi gây thiệt hại là để dân làng mời Chúa Giêsu đi khỏi, để chúng có dịp tác hại dân làng.
Đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ dẫn chứng con người hành xử thiếu khôn ngoan và không theo thứ tự ưu tiên của cuộc đời:
(1) Mời Đức Kitô ra khỏi thành của họ: Mối liên hệ với Thiên Chúa phải là mối liên hệ được ưu tiên hàng đầu; thế mà vì lợi nhuận vật chất, dân làng mời Chúa Giêsu ra khỏi làng của họ, để họ tiếp tục sống dưới ảnh hưởng của quỉ thần. Chúng biết con người chỉ biết nhìn lợi lộc thấp hèn như chúng đã từng cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc.
(2) Coi linh hồn và an sinh của con người thua kém một bầy heo: Mối liên hệ giữa con người với con người phải được đặt trên những lợi lộc vật chất; thế mà dân làng không vui vì hai con người được chữa lành và từ nay không gây thiệt hại cho dân làng nữa, nhưng buồn giận vì đàn heo bị thiệt hại!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người chỉ biết nhìn lợi lộc trước mắt, Thiên Chúa quan tâm đến tương lai. Chúng ta cần học cách đối xử công bằng của Thiên Chúa, để tránh thiệt hại cho tương lai.
- Con người luôn nhìn lợi lộc vật chất, Thiên Chúa quan tâm đến sự lành mạnh của linh hồn. Chúng ta cần học biết cách suy xét và hành động như Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 13 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 19:15-19; Mt 8:23-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin là món quà quí giá nhất của cuộc đời.
Con người lo âu sợ hãi khi phải đương đầu với những thiên tai và đau khổ của cuộc sống. Biết được yếu điểm này, ma quỉ và thế gian dùng nó để đe dọa con người không dám sống theo sự thật. Con người cần tập luyện để có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa; chỉ như thế họ mới có thể đương đầu với cám dỗ và những phong ba của cuộc đời, để sống cho sự thật.
Các Bài Đọc hôm nay liệt kê những hoàn cảnh sợ hãi và lo âu của con người. Trong Bài Đọc I, ông Lot và gia đình lo âu và sợ hãi khi nhìn thấy hai thành Sodom và Gomorrah bị thiêu hủy bởi lửa diêm sinh; mặc dù đã được Đức Chúa cứu thoát và chỉ đường cho chạy trốn. Trong Phúc Âm, các môn đệ lo âu và sợ hãi khi phải đương đầu với sóng gió của Biển Hồ. Chúa Giêsu thức dậy và dẹp tan sóng gió. Ngài mắng các ông là những kẻ hèn tin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Án phạt của Thiên Chúa trên hai thành Sodom và Gomorrah
1.1/ Đức Chúa cứu gia đình ông Lot khỏi bị tàn sát:
(1) Lý do Sodom bị tàn sát: Hai sứ thần của Đức Chúa nhận lời mời và vào nhà ông Lot để tá túc qua đêm. Tối hôm ấy, nhiều nam nhân trẻ cũng như già trong vùng đến đập cửa nhà ông Lot, để đòi ông mang hai người khách ra cho họ phạm tội "sodomy, có nghĩa nam nhân ăn ở với nam nhân trước mặt mọi người." Ông Lot năn nỉ chuộc bằng hai cô con gái; nhưng họ nhất định không chịu. Hai sứ thần của Thiên Chúa nghe những lời phạm thượng của họ từ trong nhà, nên đã quyết định số phận của thành Sodom.
(2) Sứ thần cứu gia đình ông Lot: Khi hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: "Đứng lên! Đưa vợ và hai con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt."
Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và tay hai người con gái ông, vì Đức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để bên ngoài thành.''
Một điều kỳ lạ làm chúng ta phải suy nghĩ: Sống trong một nơi nguy hiểm và tội lỗi như vậy, mà ông Lot vẫn quyến luyến. Ông đã không có can đảm từ chối những cám dỗ vật chất để đưa gia đình ra khỏi nơi đó, để tìm một môi trường lành mạnh và thánh thiện hơn. Điều này hoàn toàn là do ý riêng của ông ngay từ đầu, khi Abraham để cho ông tự do lựa chọn. Nếu hai sứ thần không quyết liệt cầm tay lôi gia đình ông đi, mà để tùy ông lựa chọn, ông đã chung số phận với dân thành tội lỗi đó.
(3) Lệnh truyền của sứ thần: Khi đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói: "Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình! Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả vùng. Hãy trốn lên núi kẻo bị chết lây."
1.2/ Ông Lot thương lượng với sứ thần: Không biết vì tiếc nuối tài sản đã gầy dựng được, hay sợ cuộc sống trên núi, ông Lót nói với hai người khách: "Thưa ngài, xin miễn cho! Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!"
Trước hết, ông Lot không có niềm tin nơi Thiên Chúa như Abraham, cậu ông. Chết đến nơi rồi mà ông vẫn thương lượng với sứ thần. Ông không tin Thiên Chúa có thể lo cho cuộc sống tương lai của gia đình ông trên núi, nên ông thương lượng với sứ thần để xin vào tị nạn trong thành nhỏ Zoar gần đó.
Bà vợ của ông Lot, không biết vì quá tiếc của hay vì tò mò, Bà bất tuân lệnh sứ thần và ngoái lại nhìn, lập tức Bà hóa thành tượng muối. Biến cố này phải giúp chúng ta đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa, và cẩn thận giữ các điều Ngài truyền. Con người chúng ta không biết trước tương lai, cũng không sáng suốt đủ để biết những gì có lợi cho mình; vì thế, chúng ta cần phải tuyệt đối vâng lời và làm theo thánh ý của Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!"
2.1/ Hai phản ứng khi phải đương đầu với sóng gió:
(1) Phản ứng của Chúa Giêsu: Tin Mừng tường thuật: "Biển động mạnh đến độ sóng nước ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ!" Tại sao Chúa Giêsu có thể ngủ được khi sóng biển động mạnh như thế? Thưa có hai lý do: Thứ nhất, Ngài không sợ hãi chi cả. Chỉ một người không biết sợ là gì mới có tâm hồn bình an như vậy; như chúng ta thường khôi hài chọc nhau: "Điếc không sợ súng!" Nếu một người không nghe thấy tiếng súng, người ấy sẽ không sợ súng đạn. Thứ hai, mọi quyền lực thế gian phải sợ Ngài. Khi các môn đệ hoảng hốt đánh thức Chúa dậy, "Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ."
(2) Phản ứng của các môn đệ: Có ngư phủ nào mà không sợ sóng gió, vì họ biết sóng gió chẳng những đe dọa, mà có thể lấy đi mạng sống của họ bất cứ lúc nào. Truyền thống ngư phủ có thói quen cầu trời khấn Phật bắt đầu mùa tôm cá và trước khi ra khơi, để xin Trời Phật phù hộ cho qua khỏi những cơn sóng gió lúc nào cũng đe dọa. Nếu đã cầu xin, họ phải tin tưởng sự phù hộ của Trời Phật; nhưng phản ứng sợ hãi khi sóng gió xảy đến chứng tỏ họ không tin, hay đức tin của họ còn yếu kém như Chúa mắng các môn đệ hôm nay. Các môn đệ đã từng nhìn thấy Chúa Giêsu làm các phép lạ mà sức con người không thể làm nổi; vả lại, các ông đang có Chúa Giêsu quyền năng trong thuyền, thế mà các ông vẫn lo sợ sóng gió!
2.2/ Niềm tin cần thiết để con người chống chọi với sóng gió của cuộc đời: Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!" Đức tin có thể ví như kinh nghiệm mà một người sở hữu trong đời. Cả hai đều cần phải được thử thách. Người đã có kinh nghiệm hay từng trải không dễ sợ hãi như người mới ra trường, chưa có kinh nghiệm. Cũng vậy, người đã có đức tin vững mạnh, sẽ không sợ hãi trước những đe dọa và bắt bớ của các quyền lực thế gian, ngay cả việc chấp nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
Khi con người không sợ hãi ngay cả cái chết, họ bắt đầu sống và sống tròn đầy. Khi con người không sợ hãi các quyền lực thế gian, thế gian phải sợ hãi họ. Chúng ta có thể thấy điều này nơi các môn đệ của Đức Kitô: Trước khi Ngài về trời, các môn đệ là những người nhát sợ khi phải đương đầu với quyền lực thế gian, nên các ông chạy trốn Chúa và Phêrô đã chối Ngài 3 lần; nhưng khi đã thấy Chúa sống lại từ cõi chết, các ông không còn sợ hãi chi cả. Tại sao vậy? Vì các ông biết rằng quyền lực thế gian có thể lấy đi sự sống thể lý, nhưng Đức Kitô sẽ cho các ông sống lại; và không một quyền lực thế gian nào có thể động tới linh hồn của các ông. Vì thế, sau khi được Thánh Thần tác động, các ông mở tung cửa để vào đời làm chứng cho Đức Kitô. Những người trong Thượng Hội Đồng phải ngạc nhiên, vì thấy các ông không còn sợ hãi họ nữa. Các ông tranh luận với họ cách công khai và họ không thể đối đầu với các ông. Thay vì thẳng tay đàn áp như trước, giờ đây họ sợ phải đàn áp các ông. Lý do không phải họ không còn quyền, nhưng vì họ sợ dân chúng ném đá họ khi dân chúng đã nhận ra sự giả hình của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta sống trên đời này là để lo làm sao đạt được đích điểm của cuộc đời; chứ không phải để kiếm tiền hay hưởng thụ. Vì thế, chúng ta phải có can đảm quyết định và tránh xa những nơi ngăn cản không cho cá nhân hay gia đình đạt tới đích.
- Chúng ta cần đào tạo để có một niềm tin vững mạnh nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, thì mới có thể đương đầu với những phong ba bão táp của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ của ba thù và bị tiêu diệt với chúng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
Bài đọc: Acts 12:1-11; 2 Tim 4:6-8, 17-18; Mt 16:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng.
Hội Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột trụ, sẽ không đứng vững, giống như người chỉ có một chân. Phêrô rao giảng cho dân Do-thái, Phaolô rao giảng cho Dân Ngoại. Phêrô lo tổ chức và bảo vệ Hội Thánh, Phaolô lo phát triển và bành trướng Hội Thánh.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự lựa chọn, bảo vệ, và ban ơn của Thiên Chúa dành cho hai ông. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật việc thiên sứ giải thoát Phêrô khỏi ngục tù. Trong Bài Đọc II, Phaolô xác quyết nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, ông đã chiến đấu một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường, và đã trung thành giữ vững đức tin. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô được Thiên Chúa soi sáng để nhận ra và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Ngài đã chính thức thiết lập Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô; và Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực của thế gian và ma quỉ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Phêrô được thiên sứ giải thoát khỏi ngục tù.
1.1/ Giáo Hội bị bách hại: Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông-đồ: "Tôi tớ không trọng hơn chủ và môn đệ không hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Sau khi Chúa Giêsu về trời, Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, bắt đầu bằng cuộc tử đạo tiên khởi của phó tế Stephanô. Trình thuật hôm nay liệt kê cuộc bắt bớ của vua Herode: "Thời kỳ ấy, vua Herode ra tay ngược đãi một số người trong Giáo Hội. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng."
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ giết chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Phêrô, Giacôbê, và Gioan được coi như những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu; giờ đây Giacôbê đã bị giết, Phêrô bị cầm tù. Vì thế, Giáo Hội không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
1.2/ Thiên sứ giải thoát Phêrô: Đức Kitô biết đau khổ do bắt bớ và tù đày cần thiết để tôi luyện niềm tin của các tông-đồ và để bành trướng đức tin; nên Ngài để cuộc bách hại xảy ra. Nhưng Ngài cũng biết Giáo Hội của Ngài cần sự lãnh đạo của Phêrô, nên Ngài sai một thiên sứ tới để giải thoát ông khỏi ngục tù, như Ngài sẽ làm tương tự với Phaolô sau này.
- Xiềng xích và lính canh trở nên vô hiệu trước quyền lực của Thiên Chúa: Trình thuật kể: "Trong đêm trước ngày bị vua Herode đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: "Đứng dậy mau đi!" Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông."
- Phêrô làm theo lệnh thiên sứ một cách vô thức: "Thiên sứ nói tiếp: "Thắt lưng lại và xỏ dép vào!" Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: "Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!" Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi." Tất cả những việc này xảy ra khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn khóa.
- Phêrô ý thức mình đã được cứu thoát: "Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: "Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Herode, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu."" Khi Thiên Chúa muốn, Ngài vô hiệu hóa mọi quyền lực thế gian.
2/ Bài đọc II: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.
2.1/ Chiến đấu cho chính nghĩa: Giống như Chúa Giêsu khi sắp rời bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa, Ngài dành thời gian để kiểm điểm những gì Ngài đã làm, những gì sắp xảy đến, và vinh quang Ngài sẽ được hưởng trong tương lai; Phaolô cũng thế.
(1) Nhìn lại quá khứ: "Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin."
+ Cuộc thi đấu cao đẹp: Thế gian là một bãi chiến trường để Thiên Chúa thử luyện đức tin của con người. Nhìn lại quá khứ, Phaolô biết mình đã cố gắng hết sức vượt qua các gian khổ để chu toàn sứ vụ Đức Kitô đã trao phó cho ngài.
+ Đã chạy hết chặng đường: Cuộc đời con người có thể ví như một cuộc chạy Marathon, có nguồn gốc từ quốc gia Hy-lạp. Đây là một cuộc chạy đường dài rất gian khổ, đòi người chạy phải có sức khỏe dẻo dai để chịu đựng. Nhiều người ghi danh, không nhằm chạy nhanh để đạt đích trước, nhưng chỉ cần thử xem mình có thể dẻo dai để về tới đích hay không. Nhiều người không chịu nổi phải bỏ cuộc dọc đường.
+ Đã giữ vững niềm tin: Đây là điều tối quan trọng để lãnh phần thưởng từ Đức Kitô. Nếu ai chạy đến đích mà đánh mất niềm tin ở dọc đường, người ấy sẽ không được lãnh nhận phần thưởng từ Đức Kitô.
(2) Kiểm điểm hiện tại: "Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi." Thánh Phaolô được Đức Kitô hiện ra cho biết trước: ông sẽ bị bắt ở Jerusalem để làm chứng cho Ngài; không những thế, ông sẽ còn làm chứng cho Đức Kitô tại Rôma nữa. Nhiều tín hữu khóc thương ngăn cản; nhưng ông vẫn quyết chí lên Jerusalem để chịu bắt bớ như Đức Kitô đã từng trải qua.
(3) Hy vọng tương lai: Con người chiến đấu là cho một mục đích. Giống như lực sĩ thắng giải được khoác vòng hoa chiến thắng, Phaolô biết rõ mình cũng sẽ được Đức Kitô đeo vòng hoa chiến thắng cho như vậy. Ngài nói: "Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy."Phaolô dùng kinh nghiệm cá nhân để động viên tinh thần các môn đệ: "Và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện." Nếu Timothy, Titô, hay bất cứ một tín hữu nào trung thành giao chiến tới cùng, họ cũng sẽ lãnh nhận phần thưởng của các chứng nhân từ Đức Kitô.
2.2/ Phaolô chiến thắng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: Ông biết rõ con người yếu đuối của mình, nhất là qua biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus; nhưng ông cũng biết sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động để nâng đỡ các yếu đuối của ông. Ông xác tín niềm tin này nhiều lần, và trong trình thuật hôm nay: "Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. "
3/ Phúc Âm: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
3.1/ Người môn đệ phải biết Thầy của mình là ai:
(1) Kiến thức về Đức Kitô: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Vua Herode đã từng nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết. Elijah là một tiên tri làm nhiều phép lạ như Chúa Giêsu; truyền thống tin ông sẽ trở lại trước thời Đấng Thiên Sai, vì ông chưa chết. Jeremiah là tiên tri rất khí khái dám nói và làm chứng cho sự thật, mà không lui bước trước bất cứ quyền lực nào của vua chúa. Tất cả các nhận định này chỉ nói lên một khía cạnh của Đức Kitô, nhưng chưa nói lên được căn tính của Ngài.
(2) Mối liên hệ của người môn đệ với Đức Kitô: Chúa Giêsu không chỉ bằng lòng với những gì các môn đệ biết về Ngài qua người khác; nhưng Ngài muốn các ông nghĩ sao về Ngài, nên Ngài hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ, tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe: Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã nói tới; đồng thời, Ngài cũng là Người Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Chỉ khi nghe được lời tuyên xưng này từ miệng các môn đệ, Chúa Giêsu mới hoàn thành sứ mệnh mặc khải của Ngài.
3.2/ Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là Phêrô: Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Này anh Simon, con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời." Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ ràng điều này hơn: Không ai tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần soi sáng. Thánh Thần được gởi tới cho các tông-đồ là do sự can thiệp của Chúa Giêsu với Chúa Cha.
Nhận ra niềm tin xác thực của Phêrô, Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội khi Ngài nói với Phêrô: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." Trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai, Ngài tin tưởng và trao sứ vụ cho người ấy. Ví dụ, Abraham từ Abram, Phaolô từ Saul, và Phêrô từ Simon ... Chúa Giêsu muốn trao quyền điều khiển Giáo Hội vào tay Phêrô và các người kế vị ông. Tảng Đá đây không phải là con người yếu đuối của Phêrô với ba lần chối Thầy; nhưng là đức tin của ông vào Đức Kitô sau nhiều lần sa ngã và chịu gian khổ.
Đức tin của Giáo Hội được đặt trên niềm tin nền tảng của các tông-đồ. Đức tin này được ví như "đá," có nghĩa vững chắc và không thay đổi với thời gian. Nhiều người chỉ trích Giáo Hội cổ hủ, cứng nhắc, không chịu theo thời ... nhưng cũng chính vì điều này mà Giáo Hội được thiết lập. Nếu Giáo Hội cũng thay đổi để được con người chấp nhận, hòa giải nhượng bộ trước áp lực của ma quỉ và thế gian, Giáo Hội sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay.
Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời để nói lên quyền cầm buộc và tháo cởi: "Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." Công dụng của chìa khóa là để mở ra và đóng lại, cho phép vào và từ chối không cho vào. Giáo Hội dùng quyền này để tha thứ hay cầm buộc hối nhân nơi tòa cáo giải.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô cần cả Phêrô lẫn Phaolô. Ngài muốn hai ông hợp tác để củng cố, bảo vệ, và phát triển Giáo Hội. Chúng ta cũng phải biết cộng tác với nhau trong việc mở mang Nước Chúa.
- Để có thể làm việc cho Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội, chúng ta không chỉ cần biết về Đức Kitô, nhưng phải sống mối liên hệ với Ngài.
- Giáo Hội không phải chỉ là Đức Thánh Cha và hàng Giáo Phẩm; nhưng là tất cả các tín hữu ở khắp nơi. Tất cả đều có bổn phận trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 13 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 1:13-15, 2:23-24; II Cor 8:7, 9, 13-15; Mk 5:21-43.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có toàn quyền trên đau khổ và sự chết.
Theo Sách Sáng Thế, Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, và Ngài mong muốn cho mọi loài tồn tại; nhưng con người luôn phải đương đầu với đủ loại đau khổ và cái chết. Câu hỏi được đặt ra: Đâu là nguyên nhân của đau khổ và cái chết? Sách Sáng Thế tường thuật biến cố cám dỗ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng. Vì con người lạm dụng quyền tự do để bất tuân lệnh Thiên Chúa và nghe lời quỷ dữ, nên tội lỗi và sự chết đã đột nhập vào thế gian và tác hại trên con người.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh ý hướng và quyền năng của Thiên Chúa trong việc tạo dựng và quan phòng vũ trụ. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành và tiền định cho muôn loài được trường tồn; nhưng quỉ dữ cám dỗ con người và là nguyên nhân của đau khổ và sự chết. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Corintô giúp đỡ Giáo Hội tại Jerusalem để duy trì sự sống trong trận đói đang xảy ra tại đây. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có toàn quyền trên đau khổ và sự chết qua việc chữa lành người phụ nữ bị loạn huyết và cho con gái ông Jairus sống lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sáng tạo con người và cho họ được trường tồn bất diệt.
1.1/ Thiên Chúa muốn con người được sống trường sinh bất tử: Tác giả Sách Khôn Ngoan, dựa theo trình thuật tạo dựng thế giới và con người trong Sách Sáng Thế, quả quyết: Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành, không một loài nào là xấu hay mang những nọc độc trong người. Vì Thiên Chúa tạo dựng, nên mọi loài hiện hữu; nếu Thiên Chúa không tạo dựng, không loài nào có cả. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, và muốn cho con người được sống trường sinh bất tử. Ngài không sáng tạo cái chết, cũng chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong.
1.2/ Lý do tại sao con người phải chết: Tác giả Sách Khôn Ngoan ý thức rõ sự hiện hữu của cái chết và cố gắng đi tìm nguyên nhân của nó, vì Thiên Chúa không tạo dựng nên cái chết. Ông tìm ra nguyên nhân là: "Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết."
Sách Sáng Thế tường thuật rõ ràng cám dỗ của quỉ dữ và sự sa ngã của con người trong vườn Địa Đàng. Vì lý do này mà tội lỗi đã xâm nhập con người và làm cho họ phải chết. Sách Sáng Thế cũng tường thuật sự lan tràn của tội lỗi nơi con người: Cain giết Abel, em ông; Lụt Hồng Thủy là hậu quả của tội lỗi con người đã xúc phạm đến Thiên Chúa quá nhiều; việc xây tháp Babel không thành vì Thiên Chúa làm cho con người không hiểu nhau...
Không những nọc độc của tội lan tràn và cư ngụ trong con người, mà tất cả các tạo vật của Thiên Chúa đều bị ảnh hưởng bởi tội của con người. Trước khi phạm tội, con người sống chung với muôn thú. Sau khi phạm tội, chúng rời xa con người. Nọc độc của rắn lửa hay bò cạp, phản ứng hung hăng của muông thú, các thiên tai, động đất, bão lụt ... đều là những hậu quả từ sự phạm tội của con người.
2/ Bài đọc II: Người tín hữu phải có tinh thần tương thân, tương ái.
Bối cảnh lịch sử của Bài Đọc II là Phaolô muốn tổ chức cuộc lạc quyên để giúp các tín hữu tại Jerusalem, đang chịu một nạn đói dữ dội. Thánh Phaolô muốn các tín hữu Corintô hiểu lý do tại sao họ phải đóng góp; ông muốn họ rộng lượng giúp đỡ các anh/chị/em đang lâm cảnh túng thiếu.
2.1/ Chúng ta phải giúp đỡ mọi người trong cảnh túng thiếu: Ngài cho họ ít là hai lý do để đóng góp:
(1) Đã nhận lãnh nhưng không, cũng phải cho đi nhưng không: Ngài nói: "Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên này nữa." Thánh Phaolô muốn các tín hữu biết ngài đã hy sinh rất nhiều thời gian, tài năng, và sức khỏe để giúp các tín hữu Corintô có đức tin và hiểu biết về Thiên Chúa. Để trả ơn, họ phải hăng hái đóng góp cho các tín hữu tại Jerusalem.
(2) Gương của Đức Kitô: Ngài nói: "Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có." Ví dụ: Chúa chọn mang kiếp phàm nhân để chịu đau khổ, hầu mang lại ơn cứu độ cho con người. Chỉ cần một ơn cứu tử này thôi, con người có hy sinh tất cả những gì mình có cũng chưa báo đền được. Đó là chưa kể biết bao ơn lành Đức Kitô mang lại cho con người qua cái chết của Ngài.
2.2/ Tha nhân sẽ giúp lại khi chúng ta lâm cảnh khốn khó: Con người ích kỷ thường kiếm đủ mọi lý do để biện minh cho việc từ chối đóng góp: phải mua cái này, đang cần cái kia, phải để dành cho con cái ăn học, cần tiết kiệm để lo cho tuổi già hay khi bệnh tật ... Thánh Phaolô biết rõ những điều này, nên ngài cắt nghĩa: "Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu."
Lịch sử xoay vần, không ai sung sướng mãi, cũng như không ai khổ cực mãi. Kinh ngiệm của biến cố 30 tháng tư năm 1975 là một trường hợp điển hình: Cả thế giới xúc động về những đau khổ của người tỵ nạn Việt-nam phải đổ xô ra biển cả để tìm đường sinh sống, nên đã giúp đỡ đồng bào ta có nơi ăn, chốn ở, và định cư nơi quốc gia đệ tam. Giờ đây, hầu hết chúng ta đã ổn định cuộc sống, chúng ta phải góp phần phát triển các quốc gia đã giúp đỡ chúng ta: những người bản xứ nghèo, những người di dân mới tới, những đồng bào bị thiên tai bão lụt trong nước. Làm ngơ trước những nhu cầu này là vô ơn với Thiên Chúa và những người ân nhân của chúng ta. Hơn nữa, cuộc đời chúng ta chưa hết, mọi sự khó đếu có thể xảy ra, ai sẽ giúp đỡ khi chúng ta lâm nạn?
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu có toàn quyền trên sự chết và sự đau khổ.
3.1/ Chúa làm cho con gái ông Trưởng Hội Đường Jairus được sống lại: Trình thuật Chúa chữa con gái của ông được xen kẽ bởi trình thuật Chúa chữa người đàn bà bị loạn huyết. Chúng ta sẽ phân tích 3 phản ứng trong trình thuật này:
(1) Phản ứng của ông Jairus Trưởng Hội Đường: Niềm tin của ông được biểu lộ qua hành động ông sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khỏan nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống." Là một Trưởng Hội Đường, ông Jairus phải là người có danh giá và địa vị; thế mà ông lại sụp lạy công khai một nhà rao giảng mà các kinh sư và luật sĩ khinh thường. Thấy niềm tin và lòng thương xót của ông dành cho con, Chúa Giêsu chấp nhận về nhà ông để chữa lành em bé.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài muốn ông Jairus phải tiếp tục tin tưởng, ngay trong khi vừa nghe hung tin về cái chết của con gái mình: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." Để dạy các môn đệ luôn tin tưởng và can đảm đối diện với cái chết, Ngài không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan.Người bắt tất cả những kẻ không có lòng tin ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay nó và nói: "Talitha qum," nghĩa là: "Này bé, hãy trỗi dậy đi!" Lập tức em bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Mọi người hiện diện sững sờ, kinh ngạc. Đức Giêsu ngiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
(3) Phản ứng của những người chung quanh: Họ không tin Chúa Giêsu có uy quyền làm cho người chết sống lại. Vì thế, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" Khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ tiến vào nhà và Ngài bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" Họ chế nhạo Người.
3.2/ Chúa chữa lành một bà bị băng huyết 12 năm: "Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác."
(1) Phản ứng của bà bị băng huyết: Bà đã nghe đồn về Chúa Giêsu, và đây là cơ hội ngàn năm một thuở để Bà xin Chúa cứu. Tại sao Bà không can đảm đến xin Ngài chữa lành mà lại sờ vào tua áo của Ngài? Có ít nhất hai lý do ngăn cản Bà: Thứ nhất, đây là thứ bệnh đàn bà, có lẽ Bà cảm thấy xấu hổ khi phải thú nhận bệnh của Bà trước đám đông chăng? Hơn nữa, Bà cũng muốn tránh cho Chúa khỏi phải trở nên không sạch, vì Lề Luật ngăn cấm không cho đụng tới những người có bệnh như thế. Thứ hai, Chúa Giêsu đang bận rộn trên đường đi chữa bệnh, và cả một đám đông chen lấn theo sau Ngài; làm sao một phụ nữ yếu đuối như Bà có thể chen lại đám đông? Vì thế, Bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu." Với niềm tin đó, Bà chạy theo và sờ vào tua áo Chúa; tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi?" Và Đức Giêsu ngó quanh để tìm người đã làm điều đó. Đây là giây phút giao linh giữa người được tin và người tin. Giống như tình yêu, hai kẻ yêu nhau không cần phải nói; chỉ một hành động được làm từ một trong hai người, họ có thể hiểu tình yêu người khác dành cho mình. Người đàn bà loạn huyết sợ phát run lên, vì Bà không ngờ hành động bí mật của Bà bị phát hiện. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Tưởng rằng Ngài sẽ la mắng Bà, nhưng Chúa Giêsu nói với Bà: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
Trình thuật này phải giúp chúng ta tin tưởng vững mạnh vào Ngài khi mang bệnh phần hồn cũng như phần xác. Chúa thấu hiểu sức mạnh của lòng tin chúng ta dành cho Ngài, và Ngài sẽ ban ơn cần thiết để chữa lành. Ngài cũng thấu hiểu mọi bí mật trong tâm hồn chúng ta; vì thế, chúng ta hãy thú nhận và đừng giấu diếm chi cả. Chúng ta sẽ hưởng được bình an thực sự khi làm như thế.
(3) Phản ứng của các môn đệ: Các môn đệ dùng sự suy nghĩ của con người để thưa với Chúa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ''Ai đã sờ vào tôi?" Khi nói như thế, các môn đệ đã tỏ vẻ khinh thường Thầy mình, và không hiểu những gì xảy ra trong lãnh vực đức tin. Phản ứng của Chúa Giêsu hôm nay phải dạy chúng ta biết thận trọng khi phán xét những điều thuộc lãnh vực tinh thần. Đừng bao giờ lấy sự khôn ngoan con người để phán xét những sự thuộc về Thiên Chúa; nhưng phải biết khiêm nhường và lấy đức tin để hiểu những sự thuộc về Thiên Chúa và phán xét tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có toàn quyền trên sự chết và sự đau khổ
- Chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ sự sống và tiêu diệt sự chết.
- Để bảo vệ sự sống, chúng ta phải can đảm sống theo nền "văn minh tình thương" và loại bỏ nền "văn hóa sự chết," như lời ĐGH Gioan-Phaolô II kêu gọi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
SỰ SỐNG LÀ THÁNH THIÊNG
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (28/06/2015)
[1 Kn 1,1315;2,2324; 2 Cr 8,7.9.1315; Mc 5,2143]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Không biết trong lịch sử loài người có giai đoạn nào mà cuộc chiến bảo vệ và bênh
vực sự sống lại quyết liệt như ngày hôm nay không? Những chuyện tiêu cực như
tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, lãng phí tài sản của nhân dân, chà đạp nhân
phẩm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, phá thai, cướp giật, lừa đảo v.v.. thường xuyên
được nhắc đến trên các trang báo nhà nước cũng như báo lề trái và trên các đài
truyền thanh truyền hình. Người đọc dễ có cảm tưởng rằng thế lực của hủy diệt và
tàn phá đang thắng thế và tự hỏi: Phải chăng lực lượng bảo vệ và bênh vực sự sống
đang bị yếu thế?
Là Kitô hữu chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Đấng tạo nên và bảo vệ sự sống. Vì
xuất phát từ chính Thiên Chúa sự sống là thánh thiêng vô cùng cao quý nên chúng ta
có bổn phận phải bênh vực và bảo vệ!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Kn 1,1315; 2,2324): Chính vì quỷ ganh tỵ mà cái chết đã
xâm nhập thế gian.
13 Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. 14 Vì
Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều
hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại. Âm phủ không thống
trị địa cầu. 15 Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử.
23 Phải Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được
Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. 24 Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.
2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 8,7.9.1315): Anh em có được dư giả là để giúp đỡ
những người đang lâm cảnh túng thiếu.
7 Thưa anh em, cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự
hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học
được nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc
quyên này nữa. 9 Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng
quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo
khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có. 13 Vấn
đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều
cần thiết là phải có sự đồng đều. 14 Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả,
là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ
cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng
đều, 15 hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không
thiếu.
2.3 Trong bài Tin Mừng(Mc 5,2143): Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy
đi.
21 Khi ấy, Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại
quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22 Có một ông trưởng hội
đường tên là Giaia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người,
23 và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên
cháu, để nó được cứu thoát và được sống." 24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất
đông đi theo và chen lấn Người.
25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 bao phen khổ sở vì chạy thầy
chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm
nặng là khác. 27 Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía
sau Người, và sờ vào áo của Người. 28 Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người
thôi, là sẽ được cứu." 29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được
khỏi bệnh. 30 Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra,
Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi? " 31 Các môn đệ
thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đã sờ vào
tôi?" 32 Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Bà này sợ
phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người,
và nói hết sự thật với Người. 34 Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã
cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh."
35 Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo:
"Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" 36 Nhưng Đức Giêsu nghe được
câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." 37 Rồi
Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là
ông Gioan. 38 Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giêsu thấy người ta
khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39 Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc
lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!" 40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người
bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi
nó đang nằm. 41 Người cầm lấy tay nó và nói: "Talitha kum", nghĩa là: "Này bé,
Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! " 42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó
đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43 Đức Giêsu nghiêm cấm
họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI
THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa
1o) Bài đọc 1 (Kn 1,1315; 2,2324) là một đoạn văn của sách khôn ngoan cho
chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng Phò Sự Sống: từ ý định cho đến chương trình và
hành động của Thiên Chúa đều là vì Sự Sống, ủng hộ Sự Sống! Cái chết, sở dĩ có
mặt, là do quỷ dữ ganh tỵ mà ra. Vì ganh tỵ, quỷ dữ mới cám dỗ nguyên tổ phạm tội
bất tuân mà ăn trái cấm nên cái chết mới xâm nhập vào thế gian.
2o) Bài đọc 2 (2 Cr 8,7.9.1315) là một đoạn văn của thư 2 Côrintô trong đó
Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Côrintô hãy noi gương bắt chước Chúa Giêsu
là Đấng vô cùng quảng đại, mà tích cực tham gia cuộc lạc quyên mà ngài đang vận
động nhằm giúp anh chị em đồng đạo ở Giêrusalem đang gặp cảnh khó khăn. Lý
lẽ mà Thánh Phaolô Tông đồ đưa ra để thuyết phục các tín hữu Côrintô là "của
cải dư giả là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu" tức cứu sống những
người đang bị cái chết đe dọa.
3o) Bài Tin Mừng (Mc 5,2143): là bài tường thuật của Phúc Âm Máccô về hai
phép lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện trong cùng một chuyến đi: trong khi đi đường
Chúa đã chữa lành người phụ nữ bị băng huyết lâu năm và khi đến nhà ông trưởng
hội đường Giaia, Chúa đã làm cho cô con gái của ông sống lại. Cả hai câu truyện
đều được kể lại cách sinh động với nhiều tình tiết cụ thể và tinh tế. Cả hai câu truyện
đều làm nổi bật "lòng tin" của những người chạy đến cầu cứu Chúa và nhất là lòng
cảm thông sâu sắc và hành động cứu chữa của Chúa Giêsu, là Đấng đã đến trong
thế gian để con người "được sống và sống dồi dào" như lời khẳng định của Người
trong Phúc Âm theo Thánh Gioan (x. Ga 10,10).
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là:
Thiên Chúa là Đấng đã sáng tạo ra sự sống và là Đấng luôn bảo vệ và bênh vực sự
sống ấy, vì sự sống là thánh thiêng vô cùng quý giá, vì con người là hình ảnh của
Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là để
bênh vực, bảo vệ và phục hồi sự sống bằng chính cái chết và sự phục sinh của
Người!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã ban tặng cho chúng ta sự sống thánh thiêng
cao quý và đã giao cho chúng ta sứ mạng bênh vực, bảo vệ và phát huy sự sống ấy.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay bằng nhiều cách sau đây:
* Một là biết trân trọng sự sống của chúng ta cũng như sự sống của những người
khác vì đó là quà tặng vô cùng quý giá của Thiên Chúa. Sự sống được hiểu là sự
sống thể lý cũng như sự sống tinh thần và tâm linh.
* Hai là có tâm tình và lời kinh cảm tạ đối với Thiên Chúa là Đấng đã ban sự sống
cho chúng ta và cho muôn người, muôn vật.
* Ba là cố gắng bênh vực, bảo vệ và phục hồi sự sống ở nơi ta cũng như ở quanh ta,
bằng cách chống lại các thế lực hủy diệt và hỗ trợ các nỗ lực phò sự sống trong gia
đình và cộng đồng xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý
thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ
bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Phải Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ
được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.» Chúng ta hiệp lời cầu
nguyện cho nhân loại ngày hôm nay, nhất là cho những người, hoặc vì không nhìn
nhận sự thánh thiêng của sự sống, hoặc vì lợi ích vật chất mà hủy diệt sự sống. Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.2 « Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng
đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó
vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Đức Hồng Y,
Tổng Giám Mục và Giám Mục, cho các linh mục và phó tế, luôn trung kiên với sứ
mạng rao giảng sự thánh thiêng của sự sống và đem hết khả năng Chúa ban mà bảo
vệ và bênh vực sự sống.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.3 «Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn
bệnh.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả giáo dân thuộc giáo xứ chúng ta,
nhất là những người đang phải đau khổ, bệnh tật, thất vọng..., để mọi người biết đặt
lòng tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa Ngôi Hai mà được cứu
chữa. Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.4 «Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.» Chúng ta
hiệp lời cầu nguyện cho những người đang nỗ lực xây dựng một xã hội công bằng
và bác ái để những người nghèo được tôn trọng và giúp đỡ mà có một cuộc sống
xứng đáng với phẩm giá của con cái Thiên Chúa. Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
[Cũng có thể đọc Kinh của Sự Sống sau đây]
Lạy Cha rất nhân từ, Sự Sống do chính Cha dựng nên. Cha lại sai Con Một của
Cha là Đức Giêsu Kitô đến để thánh hoá và duy trì Sự Sống, và chính Thần
Khí của Cha là Sự Sống.
Xin Cha thương ngăn chặn ngay những hành vi phá hoại Sự Sống con người,
nhất là hành vi nạo phá thai. Vì lầm lỡ, vì yếu đuối, vì ích kỷ, vì hèn nhát, vì
thiếu yêu thương, con người chúng con đã mê lầm mà nảy sinh ra điều ác độc.
Xin Cha gieo vào lòng con người Tình Yêu và Bình An của Cha, Tình Yêu và
Bình An mà thế gian không thể ban cho con người.
Xin Cha hoán cải tâm hồn chúng con, để chúng con luôn nhận ra Cha là Đấng
giàu lòng xót thương và đầy nhân ái đối với mọi người. Xin Cha trải lòng
thương xót của Cha trên thân phận của chúng con.
Chúng con nguyện xin Cha, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria,
Thánh Cả Giuse và các Thánh Anh Hài.
Amen.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 12 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 18:1-15; Mt 8:5-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa ban ơn cho ai tin Ngài và đối xử tử tế với mọi người.
Một trong những hiểm họa mà chúng ta đang phải đương đầu với là lối sống ích kỷ và hưởng thụ của con người hiện đại: họ không quan tâm đến người khác, cho dù là Thiên Chúa, cha mẹ, hay thân nhân; nhưng chỉ quan tâm đến bản thân và nhu cầu cá nhân của họ. Chẳng cần phải dùng đến đạo lý sâu xa, chúng ta cũng biết những người này sẽ không tiến xa trên đường đời, vì họ sẽ bị Thiên Chúa và tha nhân đào thải.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những tấm gương sáng trong cách đối xử với Thiên Chúa và tha nhân. Bài Đọc I dạy chúng ta tinh thần hiếu khách của tổ-phụ Abraham: Tuy không biết người khách đến thăm mình là ai, Abraham nài nỉ xin quí khách ở lại để nghỉ chân, ăn uống và dưỡng sức. Nhận ra tinh thần hiếu khách của Abraham, khách đã loan báo tin vui là Abraham sẽ có một người con trai để nối dõi tông đường vào cũng thời gian này năm sau. Trong Phúc Âm, một viên Đại Đội Trưởng người Rôma khiêm nhường đến nài xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho người đầy tớ của ông đang nằm bại liệt ở nhà. Biết Chúa là người Do-thái và tin Chúa có quyền năng chữa bệnh bằng lời, ông xin Thiên Chúa không cần đến nhà, mà chỉ cần phán một lời, là đầy tớ của ông sẽ khỏi bệnh. Nhận ra đức tin và lòng thương xót của ông, Chúa ban cho ông được toại nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lòng hiếu khách của tổ-phụ Abraham
1.1/ Ông Abraham ân cần và nồng hậu tiếp khách: Nhiều học giả Kinh Thánh dùng đoạn này để chứng minh mầu-nhiệm Chúa Ba Ngôi. Trong câu thứ nhất, Đức Chúa được xử dụng ở ngôi thứ nhất số ít: "1 Đức Chúa hiện ra với ông Abraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày." Trong câu thứ hai, Abraham nhìn thấy ba người: "2 Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông." Câu thứ ba lại tiếp tục dùng ở số ít, trong khi câu thứ 4 và thứ 5 lại dùng ở số nhiều: "Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!" Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông vừa nói!"
1.2/ Khách loan tin mừng có con cho gia chủ: Nhận được lòng hiếu khách của Abraham, khách nói với ông: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sarah vợ ông sẽ có một con trai." Đây là một tin ông bà đang mong, nhưng không thể nào xảy ra theo lối thường, vì ông Abraham và bà Sarah đã già nua tuổi tác, và bà Sarah không còn điều thường xảy đến cho đàn bà. Vì thế, Bà Sarah cười thầm tự bảo: "Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!" Đức Chúa phán với ông Abraham: "Tại sao Sarah lại cười và nói: "Có thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng?'' Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Đức Chúa? Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ngươi, và Sarah sẽ có một con trai."''
2/ Phúc Âm: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.
2.1/ Đức tin của viên Đại Đội Trưởng thành Capernaum:
(1) Cách biểu lộ đức tin của ông:
- Ông là người có lòng thương xót: Người ông van xin Chúa Giêsu chữa khỏi bại liệt không phải là máu mủ ruột thịt gì của ông, nhưng chỉ là một người đầy tớ. Theo truyền thống Rôma, người đầy tớ chỉ được coi như một món hàng để mua bán và để xử dụng. Chúng ta không lạ gì khi Chúa Giêsu đáp trả lòng thương xót của ông, vì Ngài là Đấng Thương Xót.
- Ông là người rất tinh tế và khiêm nhường: Ông biết truyền thống Do-thái không cho phép người Do-thái vào cùng một mái nhà với người Dân Ngoại; vì thế, để tránh tai tiếng cho Chúa Giêsu, viên Đại Đội Trưởng đáp: "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh." Câu trả lời này đã được Giáo Hội dùng để chuẩn bị tâm hồn các tín hữu trước khi rước Mình Thánh Chúa.
- Ông là người rất tin tưởng: Khi nghe Chúa Giêsu trả lời "Chính tôi sẽ đến chữa nó;" ông không một chút nghi ngờ quyền năng của Chúa Giêsu. Hơn nữa, với kinh nghiệm của một sĩ quan, ông còn tin Chúa Giêsu có thể chữa bệnh mà không cần hiện diện.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Trước cách biểu lộ đức tin của một viên sĩ quan Dân Ngoại,
Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Tôi bảo thật các ông: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế." Sự thật đau lòng, nhưng phải mở mắt tất cả tín hữu: những người vô đạo biểu lộ đức tin cách sâu xa hơn những người có đạo!
- Ngài cũng cảnh cáo những con cái trong nhà mà thiếu đức tin: "Tôi nói cho các ông hay: từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacob trong Nước Trời; nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng." Con cái trong nhà có quyền thừa hưởng gia tài của cha ông để lại; nhưng nếu con cái bất nhân bất nghĩa, gia tài sẽ được trao cho những ai có lòng tin yêu và biết cách xử dụng gia tài tốt hơn. Quyền thừa hưởng gia tài của Thiên Chúa chỉ dành cho những ai tin và trung thành với Thiên Chúa.
- Niềm tin yêu của viên Đại Đội Trưởng được đền đáp xứng đáng: Rồi Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: "Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!" Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.
2.2/ Người đã mang lấy các tật nguyền của ta: Matthew tiếp tục tường thuật hai phép lạ nữa và trích dẫn lời tiên-tri Isaiah trong Bài Ca Thứ Tư về Người Tôi Trung của Yahveh: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta."
- Gương sáng của bà mẹ vợ Phêrô: Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà, vì bà là mẹ vợ của Phêrô, môn đệ yêu mến của Ngài. Được Chúa Giêsu chữa khỏi, Bà không nại cớ mới bệnh dậy để nghỉ ngơi dưỡng sức; nhưng vội vã chỗi dậy để phục vụ Chúa và các môn đệ của Ngài. Đây phải là gương sáng cho chúng ta noi theo: Đã nhận được cách nhưng không thì cũng phải cho đi cách nhưng không. Người chỉ biết đưa tay nhận lãnh sẽ không tiến xa trong cuộc đời.
- Chúa Giêsu chữa lành mọi người bị đau khổ tật nguyền: "Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giêsu. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau." Điều này chứng minh: Thiên Chúa không muốn con người phải đau khổ. Các đau khổ xảy ra là do chính con người gây nên hay ảnh hưởng của thời tiết; tuy nhiên, Ngài để các đau khổ xảy ra cho các mục đích tốt đẹp hơn mà chúng ta đã nhiều lần đề cập tới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn đối xử tử tế với mọi người, vì "ở hiền gặp lành." Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ sai các thiên sứ của Người đến phù trợ và bảo vệ chúng ta.
- Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là chúng ta phải tuyệt đối tin và yêu Thiên Chúa, bằng cách thực thi những gì Ngài dạy bảo. Cãi lời Thiên Chúa bằng cách lý luận quanh co để biện minh cho các hành động sai trái của mình, là lý do để bị quăng ra ngoài Nước Trời.
- Chúng ta phải luôn nhớ: danh hiệu Kitô hữu không đủ để cứu chúng ta phải hư mất; nhưng chúng ta phải thành tâm thi hành thánh ý của Thiên Chúa mọi ngày trong cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 26/6 Thiên Chúa có thể làm mọi sự
- 25/6 Phải thực hành Lời Chúa
- 24/6 Sứ vụ của Gioan là chỉ đường cho mọi người đến với Đức Kitô
- 23/6 Chọn đường khó khăn và hẹp để đi
- 22/6 Không xét đoán tha nhân và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa
- 21/6 Thiên Chúa có uy quyền trên sóng gió
- 21/6 Sóng Gió Cuộc Đời
- 19/6 Phải có mắt sáng và trí tuệ khôn ngoan để nhận ra sự thật
- 18/6 Phải đặt cùng đích của cuộc đời lên trên những lợi lộc vật chất
- 17/6 Bổn phận làm việc lành phúc đức