Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần Thánh
Bài đọc: Isa 49:1-6; Jn 13:21-33, 36-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người Tôi Trung hoàn toàn tin cậy nơi Thiên Chúa.
Con người thường có khuynh hướng muốn nhìn thấy kết quả ngay; và dễ nản chí bỏ cuộc khi đã cố gắng hết sức mà vẫn không có kết quả gì. Trong những lúc như thế, con người dễ than thân trách phận, trách Trời, và trách người. Hậu quả là con người dễ bỏ đường lối của Thiên Chúa để chạy theo các cách thức của mình, của thế gian, hay của ma quỉ.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những tấm gương để dạy con người phải biết hoàn toàn trông cậy nơi Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Người Tôi Trung nhiều khi cảm thấy những cố gắng của mình hoài công vô ích; nhưng sau khi định thần nhìn lại, ông quyết định tiến tới vì ông biết Thiên Chúa sẽ cho ông phần thưởng sau cùng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chắc cũng phải nhụt chí khi phải đương đầu với sự phản bội của Judah, và nhất là của Phêrô, người Chúa đặt kỳ vọng rất nhiều vào ông; nhưng Chúa vẫn can đảm tiến tới. Ngài tin tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Ngài chiến thắng sau cùng; qua đau khổ của Thập Giá là sự sống lại hiển vinh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ hai về Người Tôi Trung của Thiên Chúa
1.1/ Phải ghi nhớ muôn đời những gì Thiên Chúa đã làm, và loan báo cho mọi người được biết: Người Tôi Trung tường thuật những gì Thiên Chúa đã làm cho ông: “Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người.” Tất cả những gì tôi sở hữu đến giờ này là do Người ban: tài năng, sức mạnh, sự hiểu biết. Người bảo vệ tôi như người dũng sĩ cất giấu các mũi tên bên mình, chứ không hoang phí một mũi tên nào.
Sẽ có những lúc Người Tôi Trung cảm thấy mệt mỏi, vì thấy những cố gắng của mình bị khoang phí và không mang lại kết quả như lòng mong ước, và phải thốt lên: "Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì." Nhiều khi Người Tôi Trung còn phải lãnh nhận những hậu quả ngược lại điều mong ước: phản bội thay vì thương yêu, oán thù thay vì ân nghĩa.
1.2/ Phải tin tưởng hoàn toàn vào sức mạnh của Thiên Chúa:
(1) Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi: Những lúc chao đảo như thế, Người Tôi Trung cần định thần để nhớ lại đâu là nguồn sức mạnh đích thực của mình, và đâu là sứ vụ đã được trao phó: “Nhưng sự thật, đã có Đức Chúa minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng. Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Jacob về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.”
(2) Không chỉ giải thóat Israel, mà còn trở nên ánh sáng cứu độ cho tòan thế giới: Sứ vụ của Người Tôi Trung không chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái, nhưng được mở rộng cho tòan thế giới, vì như Thiên Chúa phán: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Jacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu tuyên bố sự phản bội của Judah và của Phêrô.
2.1/ Sự phản bội của Judah Iscariot: Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến khi phải đương đầu với sự phản bội của Judah, và nhất là phải báo tin cho các tông đồ biết thời giờ đã điểm. Chúa có thể làm ngơ để chuyện gì phải đến sẽ đến, nhưng Chúa muốn chuẩn bị tâm hồn cho các ông để họ đừng ngỡ ngàng khi nó xảy ra; và nhất là biết những chuyện xảy ra đã được xếp đặt trước. Người tuyên bố: "Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy." Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Ông Simon Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: "Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?" Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: "Thưa Thầy, ai vậy?"
Chúa Giêsu cho Judah biết sự phản bội của ông: Để khỏi gây hoang mang và ngộ nhận giữa các tông đồ, và cũng để cho Judah biết không có gì ông tính tóan qua được mắt Chúa, Ngài nói: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy." Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Judah, con ông Simon Iscariot. Có lẽ chỉ có 3 hay 4 người biết kẻ phản bội: Chúa Giêsu, đương sự, Phêrô và Gioan. Khi biết kế họach bị bại lộ; ngay khi Judah vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y. Đức Giêsu bảo y: "Anh làm gì thì làm mau đi!" Judah liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối. Thánh sử Gioan muốn nhấn mạnh cho độc giả hiểu thế nào là “trời đã tối:” trời tối vì khi ăn Lễ Vượt Qua, trời bên ngòai đã vào đêm; nhưng tâm hồn của Judah từ lúc đấy cũng trở nên tăm tối, vì đã quay lưng lại với nguồn ánh sáng chân thật là Thầy mình.
2.2/ Chúa Giêsu nhận ra vinh quang Ngài nhận được giữa hai sự phản bội: Khi Judah đi rồi, cái chết trên Thập Giá chắc chắn sẽ xảy ra. Khi điều đó xảy ra là lúc Chúa Giêsu được tôn vinh. Vinh quang Chúa Giêsu có được là qua con đường Thập Giá: không qua gian khổ sẽ không đạt tới vinh quang. Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người: Chúa Giêsu đã cho Thiên Chúa danh dự và vinh quang tối cao vì Ngài vâng lời Thiên Chúa cho đến nỗi bằng lòng chết trên Thập Giá. Nhờ sự vâng lời của Ngài, kế hoạch của Thiên Chúa cho con người thành sự thật: con người nhận ra tất cả những gì Chúa Con nói là sự thật, và sẵn sàng hy sinh đáp trả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ. Khi Thiên Chúa được tôn vinh, Ngài cũng sẽ tôn vinh Chúa Con. Ngài không những tôn vinh Chúa Con, mà còn siêu tôn Ngài bằng cách: cho sống lại, lên trời, trao vương quốc, và ban một danh hiệu trổi vượt hơn muôn ngàn danh hiệu (x/c Phi 2:10-11).
2.3/ Sự phản bội của Phêrô: Chúa Giêsu biết rõ tính tình của Phêrô: nhanh nhẩu đoảng, hứa đấy rồi quên đấy. Ông rất nhiệt thành, nghĩ sao nói vậy; sống về trái tim hơn là về trí óc. Vì thế, Chúa nhắc nhở ông: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.” Chúa Giêsu biết cả quá khứ, hiện tại, và tương lai của Phêrô. Đó là lý do tại sao Chúa nói với ông: "Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo." Ông chưa sẵn sàng theo Chúa hẳn lúc này, nhưng sẽ đến ngày ông sẽ cùng đi con đường thập giá với Chúa; lúc đó, lời ông nói “Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” thành hiện thực.
Có một sự khác biệt lớn giữa hai sự phản bội của Judah và của Phêrô: Sự phản bội của Judah là sự phản bội có tính toán; sự phản bội của Phêrô là sự phản bội vì yếu đuối, xảy ra cách đột xuất vì không chuẩn bị. Sự phản bội của Judah không dành chỗ cho hối hận và trở lại; sự phản bội của Phêrô tức khắc quay về khi nhận ra mình đã làm điều đó: “Ông òa lên khóc!” (Mk 14:72).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Có những lúc chúng ta cảm thấy chán chường, mệt mỏi, và muốn bỏ cuộc; vì những cố gắng của chúng ta dành cho Chúa đã không mang lại kết quả tốt đẹp, lại còn đưa đến chia ly, phản bội. Khi phải đối diện với những giờ phút như thế, chúng ta phải nhớ lại hình ảnh Người Tôi Trung và Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly. Cứ can đảm tiến tới, vì Thiên Chúa luôn đồng hành, và Ngài là Người sẽ ban cho chúng ta phần thưởng sau cùng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần Thánh
Bài đọc: Isa 42:1-7; Jn 12:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người Tôi Trung thực thi sứ vụ tới cùng.
Chúng ta bước vào Tuần Thánh, Tuần cực trọng nhất của Năm Phụng Vụ. Các Bài Đọc tuần này tập trung hòan toàn vào Chúa Giêsu, Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ nghe tất cả Bốn Bài Ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa từ tiên tri Isaiah: Bài ca thứ nhất hôm nay, Bài ca thứ hai ngày mai, Bài ca thứ ba ngày thứ tư, và Bài ca thứ bốn trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Mỗi Bài ca cho chúng ta nhìn thấy những khía cạnh khác nhau của Người Tôi Trung; tổng kết tất cả bốn Bài ca cho chúng ta cái nhìn rõ ràng về con người và sứ vụ của Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Chúng ta có thể đối chiếu những điều này với những gì xảy ra cho Ngài trong tuần cuối cùng trên trần thế để biết rằng: Tất cả đã được sắp xếp bởi Thiên Chúa, mặc khải bởi tiên-tri Isaiah 700 năm trước công nguyên, và hòan thành bởi Đức Kitô.
Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Người Tôi Trung, sứ vụ của Ngài là làm sáng tỏ đức công chính của Thiên Chúa, và cách Ngài đạt mục đích là qua thái độ khiêm nhường phục vụ, thương yêu mọi người, và trung thành đến cùng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình Judah để bảo vệ hành động yêu thương Chúa của Maria. Ngài không sợ âm mưu của bạo lực khi cho Lazarô sống lại từ cõi chết và dùng bữa với chị em ông tại Bethany.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ nhất về Người Tôi Trung của Thiên Chúa:
1.1/ Liên hệ giữa Thiên Chúa và Người Tôi Trung: Đây không phải là một người thường, nhưng là Người được Thiên Chúa tuyển chọn: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.”
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi sự trong vũ trụ, Đấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan, Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất, ban sinh khí cho toàn thể cư dân. Người phán thế này: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta."
1.2/ Sứ vụ và cách đạt mục đích của Người Tôi Trung:
(1) Sứ vụ của Người Tôi Trung: làm sáng tỏ công lý của Thiên Chúa trước mặt muôn dân: “Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
(2) Cách thi hành sứ vụ: Rất khác với cách của con người thường. Những đức độ của Người Tôi Trung được tiên tri Isaiah mô tả như sau:
- Khiêm nhường: “Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường.”
- Thương yêu: “Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.”
- Trung thành đến cùng: “Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu khiển trách Judah Iscariot và bảo vệ hành động của Maria.
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bethany, nơi anh Lazarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Martha lo hầu bàn, còn anh Lazarô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người.
2.1/ Hai con người với hai thái độ ngược nhau:
(1) Maria yêu Chúa không tính tóan: “Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.” Đây là lần thứ hai Maria được tường thuật ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Luca, cô được Chúa Giêsu khen, vì đã ngồi dưới dân Chúa để nghe lời Người trong khi chị Martha bận rộn để nấu ăn đãi khách. Cách cô tỏ tình yêu cho Chúa Giêsu cũng khác mọi người; điều này chứng tỏ khi con người sống trong tình yêu, họ có nhiều sáng tạo trong cách bày tỏ tình yêu của họ.
- Cô dám dùng tới một cân dầu thơm để xức chân Chúa Giêsu mà Judah uớc tính trị giá tới 300 quan tiền; thông thường người ta chỉ xức vài giọt nếu dầu thơm quí giá như vậy. Cô không tính toán với Chúa vì cô chắc chắn được Chúa cho biết sẽ không còn nhìn thấy Chúa trên cõi dương gian này nữa. Cô có lẽ là người yêu thương và hiểu biết Chúa hơn cả trong tuần lễ cuối cùng của Ngài trên dương gian.
- Tóc rất quí với phụ nữ và họ chăm sóc chải chuốt nó mỗi ngày; thế mà cô lại dùng tóc để lau chân Chúa thay vì dùng khăn như thói thường. Hành động này chứng tỏ tình yêu của cô dành cho Chúa. Thông thường người phụ nữ rất kín đáo khi tỏ tình yêu, cô Maria can đảm làm những điều này trước mặt mọi người.
(2) Judah Iscariot luôn tính tóan và phê bình: Thấy hành động của cô, một trong các môn đệ của Đức Giêsu là Judah Iscariot, liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?" Judah được Chúa và các tông đồ trao cho sứ vụ quản lý. Nếu cô Maria muốn giúp người nghèo, 300 quan tiền đó chắc chắn sẽ được trao cho hắn. Thánh sử Gioan có lẽ đã biết tính tình của Judah nên chú thích: “Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.” Vì Judah không ở trong tình yêu nên không biết tình yêu là gì! Khi một người so sánh tình yêu với tiền bạc, người đó không hiểu giá trị của tình yêu.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu và các thượng tế:
(1) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài nói: "Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu." Chúa biết ngày Ngài sắp chết đã gần kề và Ngài biết ý định của Maria khi cô làm những hành động này. Chỉ có ai ở trong tình yêu mới hiểu nổi ý tưởng của nhau mà người ngọai cuộc không bao giờ hiểu được. Chúa Giêsu trưng dẫn lý do xác đáng để bênh vực hành động của Maria: con người không có Chúa Giêsu mãi mãi.
(2) Phản ứng của các thượng tế: Biến cố hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giêsu đã làm một phép lạ cả thể: cho Lazarô đã chết 3 ngày sống lại. Đó là lý do trình thuật kể: “Một đám đông người Do-thái biết Chúa Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Chúa Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Lazarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết.” Khi nhìn thấy đám đông, các thượng tế quyết định giết cả Chúa Giêsu lẫn Lazarô, vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Chúa Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Giống như Chúa Giêsu được Thiên Chúa trao cho một sứ vụ khi vào cuộc trần này, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa trao cho một sứ vụ. Chúng ta hãy tìm ra sứ vụ đó để thi hành tới cùng.
- Cách thức của Thiên Chúa rất khác với cách thức của con người. Để thực thi sứ vụ, Ngài đòi chúng ta phải khiêm nhường phục vụ, trung thành yêu thương, và chấp nhận gian khổ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
CHIÊM NGẮM & YÊU MẾN
ĐỨC GIÊ-SU TRONG CUỘC THƯƠNG KHÓ
CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM B (29/03/2015)
[Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mc 15,1-39]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Tuần Thánh bắt đầu bằng Lễ Lá. Trong phụng vụ Lời Chúa, Mẹ Giáo Hội cho đọc Bài Thương Khó theo Tin Mừng Mác-cô.
Vì không có nhiều thời gian, nên xin đề nghị quý bạn hãy đọc chậm rãi ba Bài Thánh Kinh và hướng mắt hướng lòng về Chúa Giê-su Ki-tô mà chiêm ngắm và yêu mến Người.
Sau mỗi đoạn Thánh Kinh, bạn có thể thầm thĩ với Chúa:
“Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ con, con yêu mến Chúa!”
II.- BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc I của ngôn sứ I-sai-a (50,4-7): Bài ca người tôi trung (là Chúa Giê-su Ki-tô)
4 Đức Chúa là Chúa Thượng
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
2.2 Bài đọc 2 của Thánh Phao-lô (Pl 2,6-11): Thánh thi ca tụng Chúa Giê-su Ki-tô tự hạ tự hủy
6 Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
8 Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ ;
11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng :
"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".
2.3 Bài Thuơng Khó theo Tin Mừng Mác-cô (Mc 15,1-39):
1 Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông Phi-la-tô.
2 Ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." 3 Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, 4 nên ông Phi-la-tô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao ? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" 5 Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.
6 Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. 7 Khi ấy có một người tên là Ba-ra-ba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. 8 Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. 9 Đáp lời họ yêu cầu, ông Phi-la-tô hỏi : "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?" 10 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. 11 Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba thì hơn. 12 Ông Phi-la-tô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" 13 Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" 14 Ông Phi-la-tô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!" 15 Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
16 Lính điệu Đức Giê-su vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. 17 Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. 18 Rồi chúng bái chào Người : "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" 19 Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. 20 Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.
21 Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su. 22 Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ.
23 Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. 24 Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. 25 Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. 26 Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Do-thái". 27 Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (28 Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.)
29 Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" 31 Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. 32 Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
33 Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. 34 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: "Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" 35 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói : "Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a." 36 Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói : "Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không." 37 Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. 38 Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. 39 Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa."
III.- CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
3.1 «Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết treo trên cây thập tự» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho các dân tộc các quốc gia trên thế giới sớm nhìn nhận Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thập giá để cứu chuộc mọi người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
3.2 «Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, để ai nấy biết noi theo gương vâng phục thánh Ý Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, là Chúa và là Thầy cùa mọi Ki-tô hữu.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
3.3 «Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy càng ngày càng xác tín và sống mật thiết hơn với Đấng bị đóng đinh thập giá.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
3.4 «Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em tân tòng của các giáo xứ để họ vững lòng tin vào Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật Lễ Lá, Năm B
Bài đọc: Isa 50:4-7; Phi 2:5-11; Mk 14-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô
Con người không thích kỷ luật, kiêng khem, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa, như thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, mới có thể trở nên hòan thiện như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà Thiên Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong Phúc Âm, Marcô tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/ Người Tôi Trung chịu đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ; nhưng sở dĩ họ có can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào hậu quả sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thóat của Thiên Chúa cho các con của Ngài.
Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.”
1.2/ Người Tôi Trung biết nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy chương sau cuộc đua, người lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo: sức khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường … Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, ngoài việc được tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn có thể nâng đỡ những ai đang phải chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.”
2/ Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/ Đức Kitô khiêm nhường chịu đau khổ: Thánh Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra khỏi thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người.
2.2/ Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Kitô: Vì không ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu; nên như một hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác tín: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa."”
Chúa Giêsu và Thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người” (Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo Thánh Marcô
3.1/ Chuẩn bị Cuộc Thương Khó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động."
Lễ Vượt Qua rơi vào ngày 14 tháng tư. Lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày sau Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là một trong 3 lễ chính của người Do-thái. Các người Do-thái nam, đã đến tuổi trưởng thành, và sống trong khỏang 15 dặm của Jerusalem, phải lên Đền Thờ để mừng Lễ Vượt Qua. Luật ngày Sabbath áp dụng cho các lễ này. Các thượng tế và kinh sư có lý do để lo sợ, vì dân chúng tụ họp rất đông ở Jerusalem trong ngày Lễ Vượt Qua. Các thượng tế và kinh sư thường phải cầu viện với quân đội Roma để tăng cường an ninh trong những ngày này; nhất là tại cứ điểm Antonia Fortress, cạnh Đền Thờ. Theo sử gia Josephus, dân chúng có thể lên tới 2, 3 triệu người, cứ 10 người sát tế một con chiên. Lễ Vượt Qua có lịch sử trong biến cố Xuất Hành của dân Do-thái ra khỏi Ai-cập. Trong đêm này, sứ thần của Thiên Chúa sẽ vào nhà tàn sát tất cả các con đầu lòng của người Ai-cập; nhưng nhà nào có máu chiên bôi trên cửa, các sứ thần sẽ băng ngang qua và không vào tàn sát.
Trong Kế Họach Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày Lễ này, để bắt đầu một Lễ Vượt Qua mới: ngày mà Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với Chúa Cha; ngày mà toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết, nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân lọai, và đưa họ về cho Thiên Chúa.
(1) Xức dầu thơm táng xác Chúa và sự phản bội của Judah Iscarioth:
- “Lúc đó, Chúa Giêsu đang ở làng Bethany, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người.” Bethany là một làng nhỏ, nơi mà Chúa thường xuyên lui tới và cho Lazarus sống lại. Làng này nằm trên một ngọn đồi, đối diện với Jerusalem, và được kể như vùng ngọai ô. Khách tới Jerusalem dự lễ có thể hợp pháp trú ngụ tại đây để mừng lễ. Ai là người phụ nữ đã tỏ hành động yêu thương này với Chúa Giêsu? Có người cho là Mary, em của Martha, người ngồi dưới chân Chúa Giêsu và nghe lời Người, khi Chúa Giêsu đến dùng bữa với hai chị em lần trước. Theo lệ thường, họ chỉ rửa chân và xức vài giọt nước hoa trên đó; nhưng người phụ nữ này dường như đã biết trước những gì sẽ xảy ra cho Chúa Giêsu, cô đập tan nát bình để lấy dầu thơm đổ trên đầu Người.
- Phản ứng của khách dự tiệc: Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: "Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo." Rồi họ gắt gỏng với cô. Bethany còn được mệnh danh theo tiếng Do-thái là “nhà của người nghèo, beth aôni.” Có lẽ đó là lý do mà người ta gắt gỏng với cô. Ba trăm quan là một số tiền lớn, tương xứng với 300 ngày làm việc.
- Phản ứng của Chúa Giêsu: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô." Chúa Giêsu biết rõ ý định của người phụ nữ: ướp xác khi Ngài còn đang sống. Có những lúc cần phải tiêu những món tiền lớn để tỏ tình yêu và sự quan tâm đến người mình yêu; chứ không phải lúc nào cũng so đo tính tóan hơn thiệt. Những gì Chúa Giêsu nói tiên tri trở thành hiện thực. Người phụ nữ tỏ tình yêu cho Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử; mỗi năm, cô đều được mọi người công khai nhớ tới.
- Ngược lại với tình yêu chân thành và không tính tóan hơn thiệt của người phụ nữ là hành động tính tóan và phản bội của Judah Iscarioth: “một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Judah liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” Trình thuật của Matthew nói rõ số tiền bán Chúa là 30 đồng tiền bạc (Mt 16:15). Gioan nói rõ Judah là quản lý của Nhóm Mười Hai, và thường ăn bớt tiền để tiêu riêng (Jn 12:6). Chúng ta phải rất cẩn trọng, vì lòng ham mê tiền bạc làm con người coi thường tín nghĩa; nó có thể làm con người quay lưng lại với sự thật, tình yêu, và sự trung tín.
- Có người cho sở dĩ Judah hành động như thế là để bắt Chúa Giêsu phải ra tay hành động như một Đấng Thiên Sai uy quyền mà dân chúng mong mỏi; nhưng khi Judah tìm ra sự thật – Chúa chết đau khổ thực sự - thì đã quá muộn, hắn quăng tiền trở lại cho người trả hắn; và xấu hổ ra đi thắt cổ tự vẫn! (Mt 27:3-5).
(2) Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Chúa Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?"
- Chúa Giêsu luôn sẵn sàng mọi sự, Ngài không để sự gì “nước tới chân mới nhảy.” Giống như khi Ngài chuẩn bị để có một con lừa để cỡi khi long trọng vào Thành, Chúa Giêsu cũng chuẩn bị sẵn một căn phòng để cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ. Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: "Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta." Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
- Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua và lời tiên đóan phản bội: “Chiều đến, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy." Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. "
- Phản ứng của Chúa Giêsu: Rất can đảm và tự tin nơi kế họach của Thiên Chúa. Ngài có thể chỉ rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi bàn tay của các tông-đồ khác, và Ngài sẽ thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng Chúa Giêsu không tố cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự do và đã chọn để làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
- Phản ứng của các môn đệ: Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: "Chẳng lẽ con sao?" Các môn đệ không biết người sẽ phản bội là ai trong trình thuật của Marcô, và cũng không ngờ người phản bội là Judah. Các ông có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần lượt hỏi Chúa như vậy.
(3) Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ôliu.
- Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như các ngôn sứ của Cựu Ước phải dùng biểu tượng và hành động, khi dân chúng đã quá quen và không còn hiểu được những gì Thiên Chúa muốn dạy dỗ qua các ngôn sứ nữa; chẳng hạn, Ahijah đã xé chiếc áo ra 12 mảnh và cho Vua Jeroboam 10 mảnh tượng trưng cho 10 chi tộc muốn Vua là người lãnh đạo của họ (1 Kgs 11:29-32), hay tiên-tri Jeremiah làm xiềng xích và gông cùm đeo vào người để cho dân biết những điều như vậy sẽ xảy đến cho dân trong tương lai (Jer 27:2). Chúa Giêsu cũng dùng hai biểu tượng của Lễ Vượt Qua cũ để các tông đồ hiểu những gì xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới:
* Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội.
* Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một Giao-ước mới. Theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên Chúa; nhưng hòan tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của Chúa Giêsu sắp đổ ra.
- Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết, nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá, nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.
(4) Chúa Giêsu tiên đoán sự phản bội của các môn đệ: Chúa Giêsu nói với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilee trước anh em."
- Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể cho các tông đồ: dạy dỗ, biến hình, báo trước ... nhưng những gì xảy ra sẽ phải xảy ra, đó là sự bỏ chạy của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và tin vào Ngài chắc chắn hơn sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
- Phêrô không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không." Chúa Giêsu nói với ông: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần." Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình. Vì thế, phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay chính mình nói.
(5) Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Ghetsemane: Sau đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghetsemane. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện." Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức." Trong giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ mật thiết với Cha Ngài và với các môn đệ; nhưng Ngài không nhận được sự đáp trả của bên nào: Cha dường như ẩn mặt; các tông đồ có mặt cũng như không! Loay hoay, chạy đi chạy lại trong vườn, Chúa Giêsu cảm thấy hầu như tất cả đều bỏ mình:
- Cầu nguyện lần thứ nhất: Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: "Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi những gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của Thiên Chúa hơn ý riêng mình. Trong những lúc tăm tối của cuộc đời, con người cũng sẽ cảm thấy như Chúa Giêsu: Thiên Chúa dường như cũng vắng mặt. Trong những lúc như thế, con người càng cần sống niềm tin vào Thiên Chúa hơn lúc nào hết.
Rồi Người trở lại tìm sự an ủi nơi con người, Ngài thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối." Con người hứa hẹn rất nhiều, nhưng khi cần sự an ủi, chẳng có một ai. Trước giờ kinh hoàng sắp xảy đến, các ông vẫn ngủ; dù chỉ một giờ Chúa cần để cùng thức với Ngài, các ông cũng không thức nổi. Chúa nhắc nhở các ông một điều vô cùng cần thiết trong cuộc đời, dù các ông không nghe thấy: Phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối. Con người dễ sa ngã nhất khi con người không chuẩn bị; vì vậy, con người phải luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.
- Cầu nguyện lần thứ hai: Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người.
- Cầu nguyện lần thứ ba: Sau khi cầu nguyện, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
3.2/ Cuộc Thương Khó bắt đầu:
(1) Sự phản bội của Judah: Hắn biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện; và để phân biệt Chúa Giêsu với các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận." Judah tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy!" rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Cái hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có thói quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của Luca, Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah! Anh lấy chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
- Người rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được nói rõ ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với tính khí của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình.
- Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm."
- Đúng như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.” Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy và phải chịu thiệt thân.
(2) Cậu thanh niên theo Chúa bỏ chạy: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.”
Ai là người thanh niên này? Trước hết, hai câu này chỉ có trong Marcô mà thôi. Phải có lý do tại sao câu này chỉ có trong trình thuật của Marcô. Nhiều người suy đoán cậu thanh niên này chính là John Marcô, tác giả Tin Mừng Marcô. Khi những điều này xảy ra, cậu vẫn còn nhỏ; và nhà cậu ở không xa chỗ Chúa Giêsu dùng Lễ Vượt Qua bao nhiêu (Acts 12:12). Có người cho cậu thấy Judah dẫn người Do-thái đến bắt Chúa Giêsu tại nơi dùng Lễ Vượt Qua. Khi nghe Judah nói sẽ dẫn họ tới Vườn Ghetsemane, cậu vội cuốn tấm vải gai vào người và chạy vội đi loan báo cho các môn đệ trong đêm tối; nhưng khi đến nơi, họ đã tới trước cậu. Có người cho cậu đã có mặt trong Vườn Ghetsemane với Chúa ngay từ đầu. Đó là lý do cậu chứng kiến toàn thể cuộc hấp hối của Chúa Giêsu và tường thuật lại chi tiết, vì các môn đệ đều ngủ cả; và Chúa Giêsu không có cơ hội để nói lại cho các môn đệ, nhất là Phêrô, Thầy của Marcô.
Hai câu này có lẽ thuộc về Marcô. Cậu muốn cho mọi người biết cậu là nhân chứng khi những điều này xảy ra. Có lẽ vì khiêm nhường, cậu không muốn mọi người biết tên cậu.
(3) Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được coi như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm có tất cả 71 người: các thượng tế, kỳ mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn đề liên quan đến tôn giáo của người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết người. Thượng Hội Đồng phải họp tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật không được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó. Luật không cho phép: xử người ban đêm, xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ, các nhân chứng không được điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được đúng từng chi tiết, mỗi thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc riêng rẽ, bắt đầu từ người trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần thiết trước khi bản án được thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau.
- Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ thân thể của Ngài.
- Tội phạm thượng: Vị Thượng Tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" Đức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Vị Thượng Tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?"
Vị Thượng Tế vi phạm Luật trầm trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật không cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời có thể liên quan chính mình trong đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời khi hỏi đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối. Chúa Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó là sự thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời, Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương Khó.
Nghe lời Vị Thượng Tế buộc tội Chúa Giêsu, tất cả đều kết án Người đáng chết. Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.
(4) Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ. Hai cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn cách công khai trong dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh.
- Chối lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của Thượng Tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Nazareth, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy, cũng làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi.
- Chối lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy." Nhưng ông Phêrô lại chối.
- Chối lần thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilee!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Chúa Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần." Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông không dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình, và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng cho Chúa Giêsu.
(5) Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Như đã nói, THĐ chỉ có quyền trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử hình cho bị cáo. Vì thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, họ phải tìm một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu; vì họ biết rằng Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn giáo, như trình thuật của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để Philatô có thể kết án Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng mình là Vua dân Do-thái là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế Caesar.
- Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái: Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
Câu trả lời của Chúa Giêsu không hoàn toàn tích cực “Đúng vậy;” nhưng "Đúng như ngài nói đó." Chúa Giêsu muốn nói với Philatô: không phải là vua theo nghĩa chính trị như người Do-thái tố cáo; nhưng là vua theo nghĩa tôn giáo mà thôi. Trong trình thuật của Gioan, Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Nước tôi không thuộc về thế gian này ... ” (Jn 18:36).
- Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên cướp, Barabba: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Barabba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Barabba thì hơn.”
- Họ kêu xin đóng đinh Chúa Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!"
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Barabba, truyền đánh đòn Chúa Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai: “Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.”
- Chúng bắt ông Simon Cyrene vác đỡ Thánh Giá Chúa: “Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Cyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alexandre và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Đồi Sọ. Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống.”
(6) Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá:
- Quân dữ nhục mạ và thách thức Chúa Giêsu: “Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Do-thái." Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp).”
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!"
- Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.”
- Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: "Eloi, Eloi, lama sabacthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Elijah." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Để xem ông Elijah có đến đem hắn xuống không."”
- Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở.Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.”
- Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa."
- Các phụ nữ dưới chân Thập Giá: 3 phụ nữ? Đức Mẹ Maria? Nhiều bà khác?“ Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Magdala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Joseph, cùng bà Salômê. 41 Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilee. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Jerusalem, cũng có mặt tại đó.”
(7) Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu:
- Ông Joseph Arimathea xin thi hài Chúa Giêsu: “Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày Sabbath, nên ông Joseph tới. Ông là người thành Arimathea, thành viên có thế giá của Hội Đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu.”
- Quan Philatô ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu đã chết: “Nghe nói Người đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa.Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Joseph lãnh lấy thi hài.”
- Táng xác Chúa Giêsu trong mồ: “Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Magdala và bà Maria mẹ ông Joseph, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu chịu đau khổ để con người được sống.
- Đau khổ giúp con người nên hoàn thiện và giúp con người thông cảm với những người đồng cảnh ngộ.
- Qua Cuộc Thương Khó, chúng ta nhận ra rõ ràng tình thương Thiên Chúa và sự gian dối ác độc của con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần V MC
Bài đọc: Eze 37:21-28; Jn 11:45-57.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa sẽ ban cho Dân Người một Đấng Cứu Độ.
Nhìn lại lịch sử nhân lọai và lịch sử Cứu Độ, chúng ta thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa con người và Thiên Chúa: Con người gây thiệt hại tàn phá, Thiên Chúa xây dựng và tái tạo. Con người gây hận thù chia rẽ, Thiên Chúa tạo đoàn kết yêu thương. Con người gây chiến tranh chết chóc, Thiên Chúa ban hòa bình an lạc.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ tương phản giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Ezekiel tuy còn đang sống trong nơi lưu đày, nhưng đã nhìn thấy trước ngày mà Thiên Chúa sẽ làm hai việc cho dân Israel: (1) “Ta sẽ cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở, đã phạm tội, và sẽ thanh tẩy chúng;” và (2) “Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng.” Trong Phúc Âm, những người Pharisees triệu tập Thượng Hội Đồng để bàn tính kế họach giết Chúa Giêsu. Thượng Tế Caiaphas đã “vô tình” nói lên hai mục đích về cái chết của Chúa Giêsu: (1) Ngài phải chết thay cho tòan dân; và (2) cái chết của Ngài sẽ quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ quy tụ dân thành một đoàn chiên, được chăn dắt bởi một Chúa Chiên.
1.1/ Thiên Chúa sẽ quy tụ dân Người về một mối: Ba điều tiên-tri Ezekiel tuyên sấm:
(1) Dân Do-thái sẽ được hồi hương: Vì không vâng lời Thiên Chúa dạy, dân tộc Do-thái bị mất quê hương và bị lưu đày: miền Bắc bị thất thủ và lưu đày sang Assyria năm 721 BC; miền Nam bị thất thủ và lưu đày sang Babylon năm 587 BC. Sống cực khổ nơi lưu đày, tiên-tri Ezekiel được Thiên Chúa cho thấy và tuyên phán: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này chính Ta sẽ lấy con cái Israel từ giữa các dân tộc chúng đã đi tới. Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng.”
(2) Dân Do-thái sẽ thống nhất: Dân tộc Do-thái bị chia đôi thành hai vương quốc Bắc và Nam trước Thời Lưu Đày. Tiên-tri Ezekiel cũng nhìn thấy cảnh đòan tụ hai miền Nam Bắc: “Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất trong xứ, trên các núi Israel; tất cả chúng chỉ có một vua duy nhất; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, không còn chia thành hai vương quốc.”
(3) Dân Do-thái sẽ được thanh tẩy: Dân chúng bị lưu đày là vì họ đã quay lưng lại với Thiên Chúa và thờ phượng các thần ngọai, và các tội bất công xã hội. Thời gian lưu đày là để thanh luyện các tội của dân, và để Thiên Chúa tha thứ cho dân khi họ thật lòng quay trở về với Ngài: “Chúng sẽ không còn ra ô uế vì những ngẫu tượng, những đồ gớm ghiếc và mọi tội ác của chúng nữa. Ta sẽ cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở và đã phạm tội; Ta sẽ thanh tẩy chúng. Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.”
1.2/ Thiên Chúa sẽ cho David, lãnh đạo dân chúng đến muôn đời.
(1) Vua David lãnh đạo dân: Vua David được coi như một vị vua nổi tiếng nhất trong các vua của Do-thái. Thời của Vua, tất cả 12 chi tộc sống bình an và lãnh thổ được thái bình thịnh trị. Vị Vua sẽ lãnh đạo dân cũng thuộc giòng dõi và nổi tiếng như Vua David. Vị Vua này “sẽ làm vua cai trị chúng; sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy. Chúng sẽ sống theo các phán quyết của Ta, sẽ tuân giữ các thánh chỉ của Ta và đem ra thực hành. Chúng sẽ định cư trên đất Ta đã ban cho tôi tớ Ta là Jacob, phần đất mà tổ tiên các ngươi đã cư ngụ. Chính chúng và con cháu chúng sẽ định cư mãi mãi trên đó. David, tôi tớ Ta, sẽ là ông hoàng lãnh đạo chúng cho đến muôn đời.”
(2) Thiên Chúa sẽ thiết lập giao ước mới với nhà Israel: “Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta.”
(3) Dân Chúa sẽ mở rộng đến các dân tộc: “Bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hoá Israel, khi Ta đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời.”
2/ Phúc Âm: Thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.
2.1/ Thiên Chúa dùng Chúa Giêsu để quy tụ dân Người về một mối: Việc Chúa Giêsu truyền cho Lazarus đã chết ba ngày sống lại làm cho nhiều người tin vào Ngài. Đây là lý do chính để những người Pharisees lập kế giết Ngài. Họ nói: "Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta." Những gì họ lo nghĩ đã thành hiện thực vào năm 70 AD, nhưng Chúa Giêsu không phải là lý do người Roma phá hủy nước Do-thái. Thượng Hội Đồng (Sandherin) bao gồm những người Pharisees, giữ cẩn thận Lề Luật, và những người Sadducees, quan tâm đến chính trị và xã hội.
(1) Chúa Giêsu chết thay cho tòan dân: Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Caiaphas, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: "Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt." Có một sự trùng hợp giữa những gì Caiaphas nói và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa: Chúa Giêsu phải chết để tòan dân được hưởng ơn cứu độ.
(2) Chúa Giêsu chết để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối: Có một sự trùng hợp khác nữa giữa thánh ý của Thiên Chúa và những gì Caiaphas nói. Thiên Chúa dùng ông để mặc khải ý định của Ngài: “Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.” Như lời tiên-tri Ezekiel báo trước trong Bài Đọc I, Chúa Giêsu đến để quy tụ dân thành một đòan chiên, và Ngài chính là Mục Tử Tốt Lành duy nhất chăn giữ đòan chiên này.
2.2/ Chúa Giêsu chuẩn bị chết thay cho toàn dân: Chúa Giêsu biết ý định của họ và biết ngày của mình trên dương gian sắp hòan tất, nên Ngài không đi lại công khai giữa người Do-thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Ephraim (gần Bethel). Người ở lại đó với các môn đệ.
Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên Jerusalem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. Họ tìm Đức Giêsu và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: "Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không?" Họ nghĩ Chúa Giêsu không có can đảm để đối đầu với các thế lực chính trị và tôn giáo. Họ đã lầm, vì Chúa Giêsu không những dám vào, mà còn long trọng vào Thành Jerusalem với dân từ Bethany, trong Chủ Nhật Lễ Lá mà chúng ta sẽ cử hành để nhớ lại biến cố này ngày mai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy học để làm như Thiên Chúa: xây dựng thay vì phá hoại, tạo đòan kết thay vì gây chia rẽ, yêu thương thay cho hận thù.
- Chúa Giêsu đã chết thay cho tất cả chúng ta. Ngài chết để đưa tất cả nhân lọai về cho Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng mà chúng ta cần tin tưởng và loan báo cho mọi người.
- Thiên Chúa điều khiển mọi người và mọi sự. Tất cả những gì Ngài muốn sẽ hiện thực. Con người không thể làm bất cứ gì để vô hiệu hóa dù chỉ một kế họach của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
CÁI GIÁ CỦA YÊU THƯƠNG & VÂNG PHỤC
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY NĂM B (22/03/2015)
[Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Kinh nghiệm của mọi người, nhất là của những người từng trải là “cái gì cũng có cái giá của nó.” Nếu không có đầu tư (công sức, tài năng, tiền của và thời gian) thì chúng ta chẳng có thể có công trình gì đáng giá cả. Nếu muốn tạo được lòng yêu mến, ngưỡng mộ nơi người xung quanh, chúng ta phải chứng tỏ mình thật sự là người có giá trị bằng sự cống hiến cho tha nhân và cộng đồng xã hội! Đó là kinh nghiệm của đời thường.
Trong lãnh vực tâm linh chúng ta cũng nghiệm thấy như vậy. Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết trên thập giá là “cái giá phải trả” cho Tình Yêu “vô biên” và “nhưng không” của Thiên Chúa, đối với con người.
Để đáp lại Tình Yêu “vô biên” và “nhưng không” ấy của Thiên Chúa thì chúng ta cũng phải trả giá bằng một đời sống hy sinh, hãm mình, từ bỏ và nhiệt thành với công cuộc xây dựng Vương Quốc của Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa ngày hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Gr 31,31-34): Ta sẽ lập một giao ước mới và không còn nhớ đến lỗi lầm của dân Ta nữa.
(31) Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, (32) không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của Đức Chúa. (33) Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. (34) Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
2.2 Trong bài đọc 2 (Dt 5,7-9): Đức Ki-tô đã học biết thế nào là vâng phục và trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu.
(7) Thưa anh em, khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. (8) Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; (9) và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 12,20-33): Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó sẽ sinh được nhiều hạt khác.
(20) Vào dịp lễ Vượt Qua năm ấy, trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. (21) Họ đến gặp ông Phi-lip-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." (22) Ông Phi-lip-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! (24) Thật, Thày bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thày, thì hãy theo Thày; và Thày ở đâu, kẻ phục vụ Thày cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thày, Cha của Thày sẽ quý trọng người ấy."
(27) "Bây giờ, tâm hồn Thày xao xuyến! Thày biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!" (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: "Đó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" (30) Đức Giê-su đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các ngươi. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
III. TÌM HIỂU CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
(1°) Trong bài đọc 1 (Gr 31,31-34), ngôn sứ Giê-rê-mi-a chia sẻ với chúng ta cảm nghiệm về một Đấng Thiên Chúa
* chỉ biết yêu thương và tha thứ hết mọi lỗi lầm, thậm chí cả mọi tội ác, của dân Ít-ra-en,
* chỉ có một thao thức và kế hoạch là tái lập lại mối tương quan của Giao ước ban đầu bằng một Giao ước mới: “Chúa là Chúa của dân (Ít-ra-en) và dân (Ít-ra-en) là dân của Chúa”,
* chỉ có một bận tâm khi hành động là làm sao cho mọi người (lớn/nhỏ) ghi nhớ và tuân giữ Lề Luật của Người.
(2°) Trong bài đọc 2 (Dt 5,7-9) Thánh Phao-lô Tông đồ nhắc đến cái giá cực đắt (mắc) mà Chúa Giê-su đã phải trả trong cuộc Thương Khó Khổ nạn Thập giá, để thiết lập Giao Ước mới với Ít-ra-en mới là toàn thể nhân loại. Trong cuộc Khổ nạn Thập giá, Chúa Giê-su vừa thể hiện sự vâng phục tuyệt đối đối với Thánh Ý và Chương trình Cứu độ của Cha, vừa thể hiện lòng yêu thương tột cùng của Người đối với loài người là anh em của Người.
(3°) Trong bài Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 12,20-33), Chúa Giê-su như trải cõi lòng mình ra với các môn đệ, để họ thấy:
(a) những tâm tư thầm kín riêng tư nhất của Người và
(b) mối tương quan mật thiết đặc biệt của Người với Chúa Cha,
với ước mong là các môn đệ thấu hiểu và chia sẻ tâm tình với Người mà bước theo chân Người, để:
* Thày ở đâu, môn đệ ở đó,
* và được Cha Thày quí trọng.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh hôm nay là:
Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô
đã nhận lấy phần thiệt về mình để yêu thương và cứu vớt nhân loại.
Vậy các môn đệ Chúa Giê-su, là các Ki-tô hữu chúng ta, hãy học lấy bài học của hạt lúa được gieo vào lòng đất “chịu chết đi” để sinh ra nhiều hạt lúa khác, cũng là bài học “dám coi thường mạng sống mình” vì Chúa và vì anh em mà chính Chúa Giê-su đã thực hiện và mời chúng ta làm theo!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là mở rộng tâm hồn và cuộc sống để Thiên Chúa và Chúa Giê-su, chia sẻ tình yêu dành cho nhân loại và cách các Ngài thể hiện tình yêu ấy bằng sự hy sinh vĩ đại với cái giá ngất trời là Thập giá.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Muốn sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay thì mỗi người/cộng đoàn Ki-tô hãy chọn con đường
tự hạ
tự hiến
tự hủy
coi thường mạng sống mình vì Nước Trời mà chính Chúa Giêsu đã chọn.
Trong cụ thể,
mỗi người hãy suy nghĩ,
mỗi cộng đoàn hãy trao đổi
xem trong tuần này mình nên làm những việc gì để thể hiện việc tự hạ/tự hiến/tự hủy/coi thường mạng sống mình vì Nước Trời?
rồi hãy cố gắng thực hiện những việc ấy trong tinh thần khiêm tốn và vâng phục!
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới.» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban các dân tộc các quốc gia trên thế giới ý thức rằng Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa cũng chính là Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với mọi dân mọi nước.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, biết noi theo gương sống và vâng phục của Chúa Giê-su Ki-tô, là Chúa và là Thầy cùa mọi Ki-tô hữu.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Thày bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, càng ngày càng biết sống hy sinh từ bỏ để đem lại hoa trái cho mình và cho gia đình, giáo xứ và xã hội.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Ai phục vụ Thày, Cha của Thày sẽ quý trọng người ấy.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tông đồ giáo dân trên khắp thế giới, để họ xác tín và cảm nghiệm sâu sắc tấm lòng ưu ái của Chúa Cha đối với họ, trong mọi hoạt động tông đồ của họ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần V MC
Bài đọc: Jer 20:10-13; Jn 10:31-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn sứ của Thiên Chúa bị truy tố và bị ném đá.
Quyền hành đến từ Thiên Chúa. Khi con người nắm quyền hành, họ phải biết dùng quyền được trao để phân xử công minh: trừng trị kẻ gian ác và bảo vệ quyền lợi cho kẻ vô tội. Thế nhưng nhiều người khi có quyền, đã không làm như thế. Họ nghĩ họ có thể bắt mọi người làm theo lệnh truyền của họ, bất chấp sự thật và công bình.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc lạm dụng uy quyền để đấu tố người công chính. Trong Bài Đọc I, tư tế Pathhur lạm dụng uy quyền của mình để bắt bớ, đánh đập, và bỏ tù tiên-tri Jeremiah, vì ông đã tuyên sấm tội lỗi và hình phạt của dân thành Jerusalem. Trong Phúc Âm, những người Do-thái lượm đá ném Chúa Giêsu vì cho Ngài phạm thượng, là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng Kinh Thánh để cắt nghĩa và dùng các việc làm để chứng minh Ngài được Thiên Chúa thánh hiến và sai đến thế gian; nhưng họ vẫn ngoan cố không tin vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngôn sứ Jeremiah bị truy tố.
1.1/ Jeremiah bị tư tế Pathhur chống đối: Là ngôn sứ của Đức Chúa, tiên-tri Jeremiah phải tuyên sấm những gì Thiên Chúa muốn nói cho vua Judah, các tư tế, và dân thành Jerusalem. Tư tế Pathhur, con ông Immer, tổng quản đốc Nhà Đức Chúa, chẳng những đã không nghe lời Jeremiah tuyên sấm, lại còn cho đánh đòn ngôn sứ Jeremiah và cho cùm ông tại cửa Bengiamin, tức là Cửa Trên trong Nhà Đức Chúa. Lão “Tứ phía kinh hoàng” là tên của Jeremiah đặt cho tư tế Pashhur, sau khi ông này bắt bớ, đánh đập, và giam cầm tiên tri (Jer 20:3).
Jeremiah nói tiên tri về vận mạng của Pathhur và của tòan dân: “Quả thật, Đức Chúa phán như sau: Này Ta sẽ biến ngươi thành nỗi kinh hoàng cho chính ngươi và tất cả bạn bè của ngươi. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm quân thù, chính mắt ngươi sẽ chứng kiến điều đó. Ta sẽ trao nộp toàn thể Judah vào tay vua Babylon; nó sẽ bắt chúng đi lưu đày ở Babylon; sẽ dùng gươm tàn sát chúng. Tất cả của cải thành này cùng với mọi công lao vất vả và mọi đồ quý giá, cũng như tất cả kho tàng của các vua Judah, Ta sẽ nộp vào tay quân thù chúng; bọn này sẽ cướp phá, tịch thu đem về Babylon. Còn ông, hỡi Pathhur, chính ông và tất cả những người ở trong nhà ông sẽ phải đi lưu đày. Ông sẽ đi Babylon, sẽ chết tại đó và sẽ phải chôn tại đó; ông cũng như tất cả bạn bè, tức là những người đã nghe ông tuyên sấm láo!"
1.2/ Ngôn sứ Jeremiah tìm sức mạnh nơi Thiên Chúa: Một mình phải đương đầu với bao nhiêu chống đối từ gia đình, bạn bè, các tư tế, và triều đình nhà vua, tiên-ri Jeremiah biết mình sẽ không thể địch nổi với bè lũ hung tàn, nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa. Tiên tri tin tưởng và cầu nguyện: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, chúng sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.”
Tiên-tri biết Thiên Chúa có uy quyền để trừng phạt và sức mạnh để giải thóat người công chính: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bị người Do-thái ném đá.
2.1/ Lý do Chúa Giêsu bị ném đá: Chúa Giêsu chất vấn người Do-thái tại sao ném đá Ngài, người Do-thái cho Chúa Giêsu biết lý do: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa." Lời mà họ vịn vào để ném đá Chúa Giêsu là “Tôi và Chúa Cha là một” (Jn 10:30). Chúa Giêsu biết rất khó để cắt nghĩa cho họ hiểu câu này, nên Ngài dùng cách cắt nghĩa bằng việc làm. Chúa Giêsu dùng lời Thánh Vịnh 82:6: “Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh (elohim), là con Đấng Tối Cao (benê Elyôn).” Trong Cựu Ước, Thiên Chúa thường chọn các Quan Án và gởi họ đến cho dân để họ xét xử dân theo lẽ công bình. Các Quan Án này thường được coi như các vị thần của dân chúng. Ý tưởng này rõ ràng hơn trong Sách Xuất Hành khi Đức Chúa phán với ông Moses: "Coi này, Ta làm cho ngươi nên một vị thần (elohim) đối với Pharao, còn Aaron, anh ngươi, sẽ là ngôn sứ của ngươi” (Exo 7:1). Chúa Giêsu kết luận: “Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: "Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: "Tôi là Con Thiên Chúa?"”
2.2/ Chúa Giêsu chứng minh bằng việc làm: Chúa Giêsu không chỉ chứng minh cho họ bằng lời Kinh Thánh, mà còn bằng các việc Người đã làm: nuôi dân chúng ăn, chữa lành mọi bệnh tật, trục xuất quỷ, cho người chết sống lại … Những việc này chứng minh Ngài có uy quyền của Thiên Chúa. Chúa Giêsu hỏi họ: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha." Không thể tranh luận với Ngài lời, cũng không thể bắt lỗi Ngài bằng việc làm; lẽ ra họ phải phục thiện và tin vào Ngài, nhưng họ lại chọn dùng vũ lực để uy hiếp Người vô tội như trình thuật kể: “Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.”
Chúa Giêsu trở về chỗ Ngài đã chịu Phép Rửa bởi Gioan và Ngài ở lại đó: Tại sao Chúa Giêsu tìm đến nơi này? Ngài biết giờ của Ngài trên dương gian sắp hết và Ngài muốn tìm lại nguồn sức mạnh nơi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng để có đủ sức đương đầu với những người chống đối. Đây là chỗ mà Thiên Chúa Cha đã làm chứng cho Ngài bằng tiếng vọng từ Trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng." Họ nhận ra sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và Gioan: Ông Gioan là ngôn sứ nói cho họ biết về Chúa Giêsu, nhưng không làm một phép lạ nào cả. Chúa Giêsu chứng minh những gì Gioan nói về Ngài là sự thật bằng các việc Ngài làm. Tổng hợp cả hai lời chứng và việc làm, “Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải sáng suốt để nhận ra sự thật, cho dù sự thật có phũ phàng và thiệt hại đến đâu đi nữa; vì chỉ có sự thật mới thực sự giải thóat con người.
- Làm ngôn sứ cho Thiên Chúa là phải đương đầu với quyền lực của thế gian và ma quỉ; chúng ta không được khiếp sợ những quyền lực này đến độ không dám nói và làm chứng cho sự thật.
- Chúng ta phải tôn trọng những người dám nói và làm chứng cho sự thật. Đừng bao giờ lạm dụng uy quyền để bịt miệng, đàn áp, bỏ tù, và thủ tiêu họ. Thiên Chúa là Đấng Chí Công, Ngài sẽ bảo vệ, giải thóat, và trả thù cho những người công chính.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Truyền Tin, Năm ABC
Bài đọc: Isa 7:10-14; Heb 10:4-10; Lk 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự vâng phục mang lại ơn cứu độ cho con người.
Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để làm quyết định; nhưng khi con người quyết định chọn điều gì, là con người phải lãnh nhận hậu quả do quyết định ấy mang lại. Thói quen của con người là không muốn phải vâng lời ai, muốn tự mình có thể quyết định mọi sự. Trong cuộc cám dỗ đầu tiên tại Vườn Địa Đàng, con rắn gian manh biết Bà Evà không muốn vâng phục Thiên Chúa, nên cám dỗ Bà ăn trái cây “biết lành biết ác” mà Thiên Chúa đã cấm không được ăn. Hậu quả của cuộc bất tuân là ông bà mất nghĩa cùng Thiên Chúa, và truyền nọc độc của tội Tổ Tông cho con cháu.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc tuân phục hay bất tuân lời Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, mặc dù đã được tiên-tri Isaiah truyền chỉ tuân phục một mình Thiên Chúa, vua Ahaz của Judah vẫn bất tuân sang cầu viện Ai-cập. Hậu quả là nước mất nhà tan, từ vua đến dân bị lưu đày qua Babylon. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái so sánh các hy lễ đền tội của Cựu Ước với sự vâng phục của Đức Kitô, và đưa đến kết luận: Thiên Chúa trân quí sự vâng phục của Đức Kitô hơn ngàn vạn chiên cừu, và cái chết của Ngài trên Thập Giá có sức mạnh xóa sạch tội và mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong Phúc Âm, lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin đã bắt đầu kỷ nguyên cứu độ: Chúa Thánh Thần đã rợp bóng trên Mẹ, và hài nhi Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, đã hình thành trong lòng Mẹ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vua Ahaz bất tuân lời Thiên Chúa.
1.1/ Vua Ahaz nghi ngờ Thiên Chúa: Rezin là vua sau cùng của Damascus. Năm 732 BC, vua Assyrian, Tiglath-pileser III phá hủy Damascus và giết vua Rezin. Sự liên hiệp giữa Assyria và Israel làm vua Judah khủng hỏang, vua sợ liên hiệp này sẽ đem quân thôn tính Judah. Liên hiệp hai nước phác họa kế họach truất phế vua Ahaz, và thay thế ông với hòang tử của Bet Tabel, một lãnh thổ của Aram, miến Bắc của khu vực Transjordan. Hoàng tử này có lẽ là người Judah, con trai của Jotham hoặc Uzziah với công chúa của Tabel.
(1) Sự bất trung của vua Ahaz: Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz để khuyên nhà vua tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài mới có thể bảo tòan lãnh thổ của nhà Judah. Vua Ahaz không tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa, và vào lời khuyên của tiên tri Isaiah; ông cầu viện với vua Ai-cập để xin sự bảo vệ. Hậu quả là Chúa để cho vương quốc của ông rơi vào tay vua Babylon.
1.2/ Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz lần thứ hai.
(1) Hãy xin một dấu lạ để Thiên Chúa làm cho: “Một lần nữa Đức Chúa phán với vua Ahaz rằng: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Vua Ahaz trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa." Vua không xin một dấu từ Thiên Chúa vì vua ngoan cố, không muốn nghe những lời khuyên của tiên-tri Isaiah.
(2) Dấu lạ Đấng Cứu Thế: Tiên-tri Isaiah bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà David! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.”
- Isaiah không dùng chữ đặc biệt để chỉ trinh nữ (betula), nhưng dùng chữ (alma) để chỉ một phụ nữ trẻ tới tuổi thành hôn, có thể là trinh nữ kay không. Lời tuyên sấm này được loan báo trước hòang gia, có thể mang ý nghĩa giòng dõi của David sẽ bị tận diệt. Nếu điều ấy xảy ra, lời hứa của Thiên Chúa đã làm với giòng dõi David sẽ bị chấm dứt (2 Sam 7:12-16).
- Con trẻ sắp sinh ra có thể là trẻ Hezekiah, mà Judah đang hy vọng sẽ tiếp tục sự hiện diện của Chúa giữa dân Ngài, và là một canh tân của lời hứa đã được ký kết với vua David.
- Dẫu vậy, sự nghiêm trọng của lời tuyên sấm và tên con trẻ tương lai “Emmanuel” cho chúng ta thấy lời của tiên-tri Isaiah không chỉ dừng lại với sự sinh ra của Hezekiah; nhưng chỉ thẳng tới vị vua lý tưởng của giòng tộc David, mà qua vị vua này, Thiên Chúa mới thực sự ở với con người.
- Thánh sử Mathhew và Giáo Hội đã nhìn sự sinh ra của Đấng Cứu Thế bởi Trinh-Nữ Maria là sự hòan tất của lời tiên tri này.
2/ Bài đọc II: Thi hành ý muốn của Thiên Chúa cao trọng hơn các hy lễ tòan thiêu và hiến tế chiên bò.
2.1/ Máu thú vật không thể xóa bỏ tội lỗi con người: Trong Cựu Ước, mỗi khi con người muốn được Thiên Chúa tha tội, họ lên Đền Thờ, sát tế thú vật, và dâng cho Thiên Chúa như trong ngày lễ Day-at-onement. Nhưng những hy lễ này chỉ có thể tha những tội vô tình họ xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; còn những tội cố tình, không một hy lễ nào có thể xóa được; đó là lý do tại sao tác giả Thư Do-thái nói: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi.” Vì thế, con người cần một cách khác để được tha tội; và Thiên Chúa đã chuẩn bị một cách thức hiệu quả để tha tội cho con người: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.” Tạo cho Chúa Giêsu một thân thể để Ngài có tai để lắng nghe và vâng lời; có trí óc để hiểu và có ý chí để làm theo những gì Thiên Chúa muốn; và có một thân xác để có thể hy sinh, chịu đựng đau khổ, để đền tội thay cho con người.
2.2/ Đức Kitô thi hành thánh ý Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho con người: Tác giả trưng dẫn Thánh Vịnh 40:6-9: “Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.”
- Trước hết, Đức Kitô nói: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.” Điều này hiển nhiên vì tất cả những điều này thuộc về Thiên Chúa. Con người có dâng tiến những lễ vật này cũng là lấy những của Thiên Chúa ban để dâng lại cho Ngài. Đó là chưa kể đến tội mà các tiên tri đã tố cáo con người nhiều lần: dâng của dư thừa, dâng cho qua lần chiếu lệ, dâng lễ vật mà vẫn đang toan tính phạm tội, dâng lễ vật mà lòng xa Thiên Chúa vạn dặm …
- Rồi Người nói: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” Sự vâng phục của Chúa Giêsu là lễ hiến tế duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa, và máu của Người đổ ra chỉ một lần là đủ để Thiên Chúa tha thứ tất cả cho con người.
- Nếu chúng ta muốn thiết lập mối giao hòa với Thiên Chúa, vâng lời làm theo thánh ý Ngài là cách thức duy nhất. Thiên Chúa muốn con người tin và tuân phục những gì Đức Kitô đã mặc khải và dạy dỗ con người.
3/ Phúc Âm: Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria bắt đầu Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
3.1/ Biến cố Truyền Tin: Khi Bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David. Trinh nữ ấy tên là Maria.
- Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Thông thường, con người dễ hãnh diện khi được người khác khen mình; nhưng Mẹ là người rất khiêm nhường, Mẹ biết mình không xứng đáng với lời chào này; nên bối rối, băn khoăn về lời chào ấy.
- Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh để lo việc của Thiên Chúa. Điều khó hiểu ở đây là thánh Luca đã đề cập tới việc Mẹ đã đính hôn với Giuse ở đầu trình thuật. Tại sao đã khấn giữ mình đồng trinh, lại còn đính hôn với Giuse? Điều này chỉ có thể giải nghĩa hoặc Luca lầm lẫn hoặc bản văn bị sắp xếp lẫn lộn thứ tự giữa 2 biến cố: truyền tin và đính hôn.
- Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”
3.2/ Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Chúng ta không chắc Mẹ Maria có thể hiểu thế nào là sinh ra bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần; nhưng Mẹ tin những gì thiên thần Gabriel nói vì hai lý do:
(1) Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Nếu Ngài có thể làm cho bà Elisabeth, người họ hàng với Mẹ, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai; còn việc gì Thiên Chúa không làm được?
(2) Niềm tin của Mẹ vào Thiên Chúa: Mẹ biết Thiên Chúa là ai, và Mẹ biết mình là ai. Mẹ tuy không hiểu những gì Thiên Chúa nói, nhưng sự khôn ngoan dạy Mẹ cứ mau mắn vâng lời; vì tất cả những gì Thiên Chúa muốn đều tốt đẹp. Vì thế, Mẹ thưa với thiên thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tuân phục Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa biết chắc các điều tốt đẹp cho con người. Bất tuân Thiên Chúa là cách dễ dàng nhất gây ra đau khổ cho con người.
- Vâng lời Thiên Chúa không lấy đi sự tự do của con người, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan. Giống như một con trẻ chưa đủ khôn ngoan để làm quyết định cho mình, em phải vâng lời cha mẹ là những người khôn ngoan hơn. Chúng ta cũng thế, khi chưa hiểu kế họach của Thiên Chúa cho cuộc đời, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu và Đức Mẹ: xin vâng làm theo ý Thiên Chúa.
- Mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ những gì Thiên Chúa hứa ban cho tới khi thành sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần V MC
Bài đọc: Num 21:4-9; Jn 8:21-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết nắm lấy cơ hội để được sống.
Để thành công trong thương trường, một người cần 4 yếu tố: con người, cơ hội, thời gian, và sản phẩm; điều quan trọng hơn cả là cơ hội. Cơ hội sẽ đến với mọi người, nhưng để có thể sinh lợi ích, con người phải nắm lấy cơ hội. Khi cơ hội đã qua, có thể chúng sẽ không bao giờ trở lại. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế: con người không sống mãi, họ chỉ có nhiều nhất 100 năm để học hỏi và tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô. Ngài sẽ ban cho mọi người có cơ hội để học biết và tin tưởng vào Đức Kitô. Họ phải biết lợi dụng thời gian và nắm lấy cơ hội để học biết Đức Kitô và tin vào những gì Ngài rao giảng. Nếu họ không biết dùng thời gian và bỏ lỡ cơ hội để học biết và tin vào Ngài, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của họ: được cứu độ hay phải hư đi.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải biết nắm lấy cơ hội. Trong Bài Đọc I, Sách Dân Số tường thuật việc dân chúng không biết nắm lấy cơ hội luyện tập trong sa mạc. Họ kêu trách Thiên Chúa và Moses vì thiếu thức ăn hợp khẩu và nước uống. Hậu quả của việc kêu trách là họ bị rắn lửa tiêu diệt. Nhưng Thiên Chúa vẫn thương yêu và cho họ cơ hội thứ hai: ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng mà Moses giương cao trên cây, sẽ được cứu sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho người Do-thái ý nghĩa của biến cố trong Sách Dân Số: Họ phải tin vào Ngài, nếu không họ sẽ chết trong tội của họ. Nếu họ không tin vào Ngài khi còn sống, họ phải tin Ngài khi Ngài bị giương cao trên Thập Giá. Nếu họ bỏ lỡ cả hai cơ hội để tin vào Ngài, họ sẽ chết trong tội của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Moses giương cao “con rắn” trong sa mạc để cứu dân khỏi chết.
1.1/ Thiên Chúa thanh luyện dân 40 năm trong sa mạc: Mục đích của Thiên Chúa khi bắt dân phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm là để chuẩn bị cho dân trước khi vào Đất Hứa. Họ phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa bằng cách vượt qua những trở ngại trên đường đi: thức ăn, nước uống, khí hậu khắc nghiệt, mệt mỏi … Trong cuộc hành trình qua sa mạc, nhiều lần dân chúng Israel mất kiên nhẫn và kêu trách Thiên Chúa và Moses như trình thuật hôm nay. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Moses rằng: "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này." Bấy giờ Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Israel phải chết.
Mỗi năm, Giáo Hội đều cử hành biến cố này bằng cách kêu gọi các tín hữu ăn chay, cầu nguyện, và làm các việc lành trong 40 ngày của Mùa Chay. Mục đích là để các tín hữu có cơ hội luyện tập con người để đừng quá lệ thuộc vào vật chất, biết dành thời giờ để định vị lại cuộc đời và trau dồi cho đời sống thiêng liêng, xét mình và thú tội để lãnh nhận ơn tha thứ, và biết chia sẻ của cải với các người thiếu thốn. Nếu các tín hữu biết lợi dụng cơ hội, họ sẽ có sức mạnh để chế ngự các tính hư nết xấu, và thăng tiến trên đường thiêng liêng.
1.2/ Thiên Chúa cứu dân khỏi chết bằng nhìn lên rắn đồng: Rắn được nhiều dân tộc thờ như thần, nhất là các quốc gia Á Châu và Cận Đông. Ngành khảo cổ tìm ra nhiều hình ảnh con rắn đồng khắc trên các tấm bia tại Timnah, gần Biển Chết. Timnah, nằm trong vùng sa mạc Sinai, là vùng có nhiều đồng nhưng cũng rất nhiều rắn lửa, thợ đến đây tìm đồng thường bị rắn cắn chết nên họ rất tin và thờ phượng thần rắn. Rắn được coi như biểu tượng của cả thần chết và chữa lành. Rắn độc cắn người và làm cho chết, nhưng nọc độc của rắn được dân tộc Ân-độ dùng để chữa lành nhiều bệnh như tục ngữ Việt-nam nói “lấy độc trị độc.” Rắn cuộn tròn trên cây cột đã trở thành biểu tượng của ngành y khoa từ lâu đời. Câu truyện rắn cám dỗ bà Evà phạm tội và trình thuật hôm nay có thể có ít nhiều liên hệ với lịch sử của lòai rắn.
Khi dân Israel bị rắn cắn và nhiều người tử thương, họ đến nói với ông Moses: "Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi." Ông Moses khẩn cầu cho dân. Đức Chúa bảo ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống." Ông Moses vâng lời Đức Chúa, làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chịu giương cao trên Thập Giá để cứu chuộc con người.
2.1/ Cơ hội lần đầu để tin vào Đức Kitô khi Ngài còn sống: Chúa Giêsu đối thọai với người Do-thái và thuyết phục họ tin vào Ngài, bằng cách mặc khải cho họ những điều sau:
(1) Những gì sẽ xảy ra cho Ngài và cho họ trong tương lai: Ngài sẽ trải qua Cuộc Thương Khó và sẽ sống lại về cùng Chúa Cha. Họ sẽ hối tiếc và tìm Ngài, nhưng quá muộn; vì họ không thể lên Trời với Ngài. Họ phải tin Ngài, tội của họ mới được tha; vì họ không tin Ngài, tội của họ vẫn còn. Người Do-thái không hiểu những gì Ngài mặc khải, họ nghĩ chỉ khi nào Ngài tự tử, họ mới không trông thấy Ngài; và theo truyền thống, những ai tự tử sẽ bị giam cầm dưới địa ngục; và như vậy câu Ngài nói "Nơi Tôi đi, các ông không thể đến được," là đúng sự thật.
(2) Sự khác biệt giữa Ngài và họ: Ngài có nguồn gốc từ Trời, nguồn gốc của họ là ở thế gian này. Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng họ thuộc về thế gian. Chúa Giêsu nhắc họ lần nữa: Họ phải tin Ngài để tội của họ được tha. Họ không hiểu những gì Ngài mặc khải, nên họ hỏi Người: "Ông là ai?"
(3) Sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài: Thiên Chúa Cha sai Ngài đến thế gian để chịu chết và gánh tội cho con người. Nếu họ không chịu tin vào Ngài, tội của họ vẫn còn, và họ sẽ chết trong tội của họ. Tất cả những điều này Thiên Chúa, Đấng Chân Thật, muốn Ngài loan báo cho họ, và Ngài đã loan báo; nhưng họ không tin vào lời Ngài.
2.2/ Cơ hội thứ hai để tin vào Đức Kitô khi Ngài bị giương cao: Ngài cho họ biết trước Ngài sẽ phải chết cách nào: Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu nói cho dân chúng biết Ngài sẽ phải chết cách nào trong Tin Mừng Gioan. Lần đầu tiên, khi Chúa Giêsu đàm đạo với Nicodemus, Ngài gợi lại cho họ về biến cố rắn lửa cắn người Do-thái trong sa mạc Sinai như chúng ta đọc trong Sách Dân Số hôm nay: “Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Jn 3:14-15). Trong trình thuật hôm nay, Người bảo họ: "Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu, và biết Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy Tôi thế nào, Tôi nói như vậy. Đấng đã sai Tôi vẫn ở với Tôi; Người không để Tôi một mình, vì Tôi hằng làm những điều đẹp ý Người."
Chúa Giêsu muốn nói với người Do-thái: Tuy các ông không tin Tôi bây giờ; nhưng các ông phải tin Tôi khi nhìn thấy những gì Tôi đã nói với các ông xảy ra: cách chính xác, khi các ông giương Tôi cao trên Thập Giá. Lúc đó, các ông sẽ biết tất cả những gì Tôi nói với các ông là sự thật: sự liên hệ giữa Chúa Cha và Tôi, Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, các ông phải tin Tôi thì tội của các ông mới được tha … Khi Đức Giêsu nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết nắm lấy cơ hội để học hỏi và để tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô; vì cơ hội có thể qua đi và không bao giờ đến nữa.
- Đừng bao giờ đợi đến khi về già, vì chúng ta không biết sẽ sống được bao năm; và có còn đủ trí khôn sáng suốt để hiểu, hay đủ nghị lực để học mà tin vào Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần V MC
Bài đọc: Dan 13:1-9, 15-17, 19-30, 33-62; Jn 8:1-11 or 8:12-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không được kết án tha nhân.
Con người thường dễ phê bình và kết án tha nhân, hơn là nhìn vào chính mình để xét mình và để nhận ra những ước muốn sai trái và tội lỗi của mình. Nhiều khi vì ham muốn tình dục, uy quyền, danh vọng, hay của cải, con người có thể sẵn sàng làm chứng gian để kết án người vô tội, hay tìm đủ mọi cách để tha bổng kẻ đắc tội. Chúa Giêsu dạy các môn đệ không được kết án bất cứ ai, vì quyền phán xét là quyền của Thiên Chúa, và không ai sạch tội để có thể kết án tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh vấn đề kết án tha nhân. Trong Bài Đọc I, TT Daniel phá vỡ âm mưu của hai vị thẩm phán làm chứng gian để kết án người vô tội. Họ ham muốn sắc đẹp của Bà Suzanna và lập mưu để thông gian với Bà. Khi Bà từ chối không chịu, họ đã tri hô Bà phạm tội ngọai tình với một thanh niên trẻ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng phá vỡ âm mưu của các kinh-sư và Biệt-phái khi họ đặt Ngài vào thế lưỡng nan: hoặc phải giữ luật Moses hoặc phải giữ luật yêu thương. Ngài trả lời họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Không được làm chứng gian để kết án người lành.
1.1/ Sự ác độc của hai vị thẩm phán:
(1) Lòng ham muốn tình dục của hai vị thẩm phán: Là những người xét xử dân chúng, lẽ ra họ phải giữ tâm hồn sáng suốt để xét xử công minh cho dân, hai vị thẩm phán này đã để “tâm trí ra đồi bại, quay mắt đi để khỏi nhìn lên trời cao và chẳng nhớ đến những phán quyết công minh của Thiên Chúa.” Họ ham muốn sắc đẹp của bà Suzanna, rình rập khi Bà tắm trong vườn, và sửa sọan sẵn một âm mưu để cưỡng bức Bà hoặc phải thông gian với họ, hoặc sẽ bị ném đá chết vì tội ngọai tình.
(2) Làm chứng gian khi âm mưu không thành: Hai kỳ lão đó đứng dậy đặt tay lên đầu bà, và làm chứng gian: "Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra. Một gã thanh niên núp sẵn ở đó, đến bên mụ và nằm với mụ. Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn, thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới. Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với nhau, nhưng không tóm được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa chạy mất. Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là ai. Nhưng mụ không chịu nói cho chúng tôi. Chúng tôi xin làm chứng về những điều ấy."
1.2/ Thiên Chúa bảo vệ những ai biết kính sợ Người.
(1) Khác với hai vị thẩm phán, Bà Suzanna là người biết kính sợ Thiên Chúa. Cha mẹ bà là người công chính, đã dạy dỗ con gái theo Luật Moses. Khi bị cưỡng bức bởi hai vị thẩm phán, Bà Suzanna biết họ có quyền phán xét luận tội mình, nên phân vân: "Tôi bị khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa!" Vì thế, Bà Suzanna liền kêu lớn tiếng và hai kỳ lão cũng la lên để hại bà. Khi bị kết án oan uổng, Bà vừa khóc vừa ngước mắt lên trời, vì bà đầy lòng trông cậy vào Chúa. Bà Suzanna kêu lớn tiếng: "Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi chúng xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con."
(2) Thiên Chúa gởi TT Daniel đến để xét xử cho Bà: Trời có mắt, Thiên Chúa đã nghe tiếng bà kêu. Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm trí thánh thiện của một thiếu niên tên là Daniel. Thiếu niên đó kêu lớn tiếng rằng: "Tôi vô can trong vụ đổ máu người phụ nữ này!" Toàn dân đều quay về phía cậu thiếu niên và hỏi: "Lời cậu vừa nói có nghĩa gì?" Cậu đứng giữa họ và nói: "Các người ngu xuẩn đến thế sao, hỡi con cái Israel? Các người đã lên án một người con gái Israel mà không xét hỏi và cũng không biết rõ sự việc ra sao! Hãy trở lại nơi xét xử, vì những người kia đã làm chứng gian để hại người phụ nữ này."
Cách xét xử của Daniel: Cậu ra lệnh: "Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét hỏi." Câu hỏi của Daniel: Nếu đã thấy họ phạm tội, thì phạm tội dưới cây nào? Hai người làm chứng khác nhau:
* Người thứ nhất: "Dưới cây trắc."
* Người thứ hai: "Dưới cây dẻ."
Bấy giờ toàn thể cộng đồng lớn tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng cứu những kẻ trông cậy vào Người. Rồi người ta quay lại chống hai kỳ lão, vì Daniel đã dựa vào lời chính miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian. Theo luật Moses, người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người khác phải chịu, đó là giết các ông. Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan.
2/ Phúc Âm: Không được kết án tha nhân vì không ai sạch tội.
2.1/ Bẫy giăng để hại Chúa Giêsu: Trình thuật của Gioan nói rõ: “Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người.” Chúa Giêsu bị họ đặt vào giữa hai thế lưỡng nan: hoặc trung thành với giáo huấn Ngài dạy là luật yêu thương và không được kết án tha nhân, hoặc vi phạm Luật Moses dạy phải ném đá chết người bị bắt quả tang phạm tội ngọai tình.
2.2/ Chúa Giêsu muốn mọi người phải xét mình.
(1) Phải sạch tội trước khi tố cáo người khác: Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi." Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa.
(2) Cách Chúa Giêsu đối xử với người phụ nữ: Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!" Qua những lời đối thọai này, Chúa Giêsu muốn chị nhận ra những điều sau:
a) Chúa cho chị cơ hội thứ hai để trở nên tốt đẹp hơn: Tôi biết chị đã phạm tội, nhưng cuộc đời chị vẫn còn thời gian để sửa đổi. Tôi cho chị cơ hội thứ hai để chị làm lại cuộc đời.
b) Chúa tha thứ lỗi lầm của chị: Không giống như những người biệt-phái và kinh-sư chỉ lo tìm dịp để luận tội và kết án chị, Chúa lợi dụng cơ hội để tha thứ và để chữa lành chị.
c) Chúa khuyến khích chị trở thành người tốt hơn: Tội lỗi hủy diệt con người. Chị hãy tránh xa tội lỗi để cuộc đời chị tốt đẹp hơn.
d) Chúa tin tưởng mọi người đều có thể trở nên tốt nếu được cho cơ hội: Tôi tin chị sẽ trở nên tốt nếu tôi cho chị cơ hội để sửa đổi.
e) Chúa cũng cảnh cáo chị hậu quả sẽ xấu hơn nếu chị không chịu thay đổi: Nếu chị không nắm lấy cơ hội để sửa đổi, chị sẽ phải lãnh nhận hậu quả nghiêm trọng hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không bao giờ được làm chứng gian để hại người khác (điều răn thứ 9).
- Quyền xét đóan thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta không có quyền xét đóan tha nhân nếu chúng ta không có bổn phận với họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- 22/3 Sự vâng phục và đau khổ mang lại ơn Cứu Độ cho con người
- 21/3 Thiên Chúa sẽ ban cho Dân Người một Đấng Cứu Độ
- 20/3 Tin thế nào sẽ sống như vậy
- 19/3 Thánh Giuse trở nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa
- 18/3 Thiên Chúa yêu thương chăm sóc dân Người
- 17/3 Sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại sự sống cho con người
- 16/3 Niềm tin vào Thiên Chúa có thể làm được mọi sự
- 15/3 Ân sủng & lòng tin
- 15/3 Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người
- 14/3 Phải biết Thiên Chúa và biết mình