Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo hội Ba Lan mở án phong chân phước cho một nữ giáo dân trẻ truyền giáo và bị sát hại tại Bolivia
Hồng Thủy - Vatican News
Helena Agnieszka Kmiec
Tôi Tớ Chúa Helena Agnieszka Kmiec sinh ngày 9/2/1991 tại Krakow, là con gái thứ hai của ông bà Jan Kmieć và Agnieszka Bejska. Mẹ cô qua đời chỉ vài tuần sau khi cô bé chào đời. Sau đó, cha cô kết hôn với Barbara Zając và Helena được nuôi dưỡng “trong một ngôi nhà tràn đầy tình yêu thương, sự ấm áp và trên hết là đức tin sâu sắc”.
Từ năm 1998, Helena học tiểu học và trung học tại các trường của Hiệp hội các nhà giáo dục Công giáo ở Libiąż, sau đó cô dành hai năm để nhận học bổng ở Vương quốc Anh. Từ năm 2009 đến 2014, cô học ngành kỹ thuật tại Đại học Công nghệ Silesian ở Gliwice.
Tại trường đại học, Helena biết về Hoạt động Tình nguyện Truyền giáo Salvator của Dòng các Linh mục Chúa Cứu Độ, và trở thành nhà truyền giáo cùng với họ. Năm 2012, cô đến Hungary để tổ chức trại hè cho trẻ em, năm 2013 cô được gửi đến Zambia để làm việc với trẻ em đường phố và năm 2014 đến Rumani để phục vụ thanh thiếu niên.
Đối với Helena, nhận biết Chúa là một món quà cô được nhận cách nhưng không và phải chia sẻ nó. Cô nói: “Món quà lớn nhất là tôi biết Chúa và tôi không thể giữ nó cho riêng mình, tôi phải truyền bá nó! Nếu tôi có thể giúp đỡ ai đó, khiến họ mỉm cười, khiến họ hạnh phúc hơn, dạy họ điều gì đó thì tôi muốn làm điều đó!”.
Vào ngày 8/1/2017, Helena bắt đầu công việc tình nguyện ở Bolivia, nơi cô dự định ở lại sáu tháng. Chỉ vài ngày sau khi đến nơi, vào Thứ Ba, ngày 24/1, cô đã bị một tên cướp tấn công và sát hại bằng dao tại Trường Edmundo Bojanowski, một cơ sở của Dòng các Nữ tỳ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ở thị trấn Pacata ở Cochabamba.
Sắc lệnh mở án phong chân phước
Đức Tổng Giám mục Jędraszewski cho biết ngài đã đưa ra quyết định chính thức mở án phong chân phước cho Helena sau khi tham khảo ý kiến của Hội đồng Giám mục Ba Lan và sau khi nhận được sự đồng ý của Bộ Phong Thánh.
Sắc lệnh khai mạc án phong chân phước này đã được công bố vào Chúa Nhật ngày 14/4/2024, và sẽ được đọc tại tất cả các giáo xứ và nhà nguyện ở Krakow vào Chúa Nhật ngày 21/4/2024. Đức Tổng Giám mục Jędraszewski nhấn mạnh: “Với sắc lệnh này, tôi kêu gọi tất cả những ai có bất kỳ tài liệu, thư từ hoặc thông tin nào về vị Tôi Tớ Chúa, cả tích cực lẫn tiêu cực, hãy gửi chúng đến giáo phận Krakow trước ngày 30/6/2024”.
Sắc lệnh lưu ý rằng Helena Kmiec đã “tham dự Thánh lễ hầu như mỗi ngày khi đang học, đối với cô, đó là thời điểm rất quan trọng trong ngày”. Sắc lệnh cho biết sau khi Helena qua đời, các tín hữu đã nói về đời sống thánh thiện của cô, sự tận hiến cho Thiên Chúa và Giáo hội. Nhiều người đã cầu nguyện và tiếp tục cầu xin sự chuyển cầu của cô.
Đức Tổng Giám mục Jędraszewski kết thúc sắc lệnh với lời khuyến khích rằng “gương mẫu của vị Tôi Tớ Chúa chắc chắn có thể là nguồn cảm hứng cho mọi người, đặc biệt là những người trẻ, theo đuổi ơn gọi nên thánh với niềm đam mê và sự dấn thân thông qua hoạt động tình nguyện và truyền giáo”. (ACI Prensa 14/04/2024)
Hoạt động đấu tranh chống mang thai hộ của Olivia Maurel
Vatican News
Oliva Maurel là một phụ nữ Mỹ gốc Pháp năm nay 30 tuổi, đã kết hôn và có ba con. Gần đây, cô đã dám chia sẻ công khai câu chuyện cuộc đời mình. Sinh ra theo phương pháp mang thai hộ, cô phải đợi đến năm 30 tuổi mới khám ra sự thật nguồn gốc của mình, mặc dù như cô nói luôn cảm thấy rất đau khổ và nghi ngờ về điều này từ khi ý thức được sự hiện hữu của mình trên mặt đất này.
Oliva Maurel nói: “Tôi lớn lên trong một bối cảnh gia đình bình thường, với cha mẹ là những người có tiền, nhưng tôi luôn cảm thấy có một điều gì đó không ổn, đặc biệt giữa mẹ tôi và tôi có một điều khác biệt. Trong thời thơ ấu và từng ngày lớn lên, với một số chi tiết làm cho tôi cho rằng mình sinh ra nhờ phương pháp mang thai hộ.
Sau đó, khi đến tuổi 17, Oliva tìm hiểu và phát hiện ở quận Louisville có những trung tâm mang thai hộ. Từ đó, cô suy nghĩ rất nhiều và quyết định làm một điều gì đó để xác định nguồn gốc thật của mình. Vào lần sinh nhật thứ 30, cô đã đi làm xét nghiệm ADN, và kết luận được đưa ra là trong máu cô không có tới 1% dòng máu Pháp, trong khi mẹ cô là người Pháp.
Khám phá này đã cất khỏi vai cô gánh nặng. Bởi vì cuối cùng cô đã có bằng chứng cho thấy sự hiện hữu của mình. Cô rất hạnh phúc vì biết được nguồn gốc của mình. Theo cô, người ta không thể xây dựng cuộc đời nếu không biết rõ nguồn gốc của mình.
Từ đó, cô không ngừng kể câu chuyện đau lòng của mình, với hy vọng sẽ giúp vận động cộng đồng quốc tế xoá bỏ việc mang thai hộ một lần cho mãi mãi. Cô xúc động nói: “Khi còn nhỏ, thật là phức tạp khi nghĩ rằng mình là đối tượng của một hợp đồng, là một thứ bị rao bán. Khi chúng ta biết 50% của chúng ta đang ở đâu đó trên thế giới và không biết hiện nay như thế nào. Điều này thật khó khăn. Điều đau lòng hơn cả là người mẹ phải chia lìa người con mà bà đã mang trong lòng suốt 9 tháng và sau đó phải từ bỏ”.
Câu chuyện đau lòng và dám lên tiếng của Oliva đã được nhiều người ủng hộ. Vào tháng 3/2023, tại Marốc, một trăm chuyên gia và nhà nghiên cứu đã ký một tuyên bố quốc tế về việc bãi bỏ phương pháp mang thai hộ, yêu cầu các quốc gia cam kết đấu tranh chống lại điều này. Họ cũng đề xuất một dự thảo công ước quốc tế về chủ đề mang thai hộ. Hiện Oliva là phát ngôn viên của Tuyên bố Casablanca này. Ngày 5 và 6/4 vừa qua, những người ký tên vào Tuyên bố đã gặp nhau tại Roma để thảo luận và thông báo cho những người đưa ra quyết định công khai về tác hại của việc mang thai hộ và cung cấp một khung pháp lý cho các quốc gia muốn bảo vệ người dân của mình trước thị trường này, với ý tưởng cuối cùng là đưa đến việc thông qua một hiệp ước quốc tế.
Trong dịp này, những người ký tên vào Tuyên bố Casablanca, trong đó có Oliva và chồng cô, đã được Đức Thánh Cha tiếp kiến. Nói về cuộc gặp gỡ này, cô Oliva khẳng định: “Đó là một gặp gỡ thật đẹp. Đức Thánh Cha đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta rằng mang thai hộ là một thị trường và ngài luôn ủng hộ chúng tôi trong nỗ lực xoá bỏ hoạt động này trên toàn cầu. Chủ đề này rất gần gũi với tâm hồn ngài. Đức Thánh Cha cũng chỉ ra rằng khi một phụ nữ mang thai thì em bé sẽ truyền các tế bào cho người mẹ, và sẽ ở lại trong cơ thể bà một thời gian rất dài, như trường hợp tôi cả 30 năm. Đức Thánh Cha muốn nhắc nhở chúng ta về mối liên hệ khoa học giữa người mang thai hộ và em bé”.
Không chỉ lên tiếng kêu gọi bãi bỏ trong lần tiếp kiến những người ký tên của Tuyên bố, trong nhiều dịp Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ yêu cầu dừng lại ngay lập tức hoạt động này. Gần đây nhất, vào tháng 01/2024, ngài đã kêu gọi một lệnh cấm toàn cầu đối với hoạt động “đáng khinh” và “vô nhân đạo”, thể hiện sự vi phạm nghiêm trọng phẩm giá của phụ nữ và trẻ em, đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế cấm thực hành phương pháp này trên toàn thế giới.
Vào ngày 08/4 vừa qua, Bộ Giáo lý Đức Tin đã ra tuyên bố “Dignitas Infinita” về phẩm giá con người, trong đó mạnh mẽ phản đối đối với việc làm mẹ thay thế, vì qua đó em bé, với phẩm giá vô hạn, lại trở thành một đối tượng đơn thuần, một thực hành làm tổn hại nghiêm trọng đến phẩm giá của người phụ nữ và người con dựa trên việc lợi dụng hoàn cảnh của nhu cầu vật chất của người mẹ. Một em bé luôn là một món quà và không bao giờ là đối tượng của một hợp đồng.
Nhà thờ Đức Bà Paris trỗi dậy từ đống tro tàn
Charles de Pechpeyrou
Đức ông Dumas giải thích rằng khi được mở cửa lại vào tháng 12, trong khi công việc trùng tu chính của tòa nhà đang diễn ra - phần lớn bị tàn phá bởi trận hỏa hoạn kinh hoàng vào đêm ngày 15/4/2019 đó - sẽ được hoàn thành trong những tháng tới, nhà thờ sẽ đẹp hơn, nhưng trên hết là chào đón hơn đối với những người Công giáo đến đó để cầu nguyện và đối với mọi khách viếng thăm đang tìm kiếm ý nghĩa và có thể là tìm kiếm Thiên Chúa. Sự tái sinh của nhà thờ mẹ tượng trưng cho dấu hiệu hy vọng cho người Công giáo trong giáo phận và cho toàn thế giới.
** Trước hết là một câu hỏi riêng tư: Đức ông đã ở đâu khi đám cháy bùng phát ở Nhà thờ Đức Bà?
- Tôi nghĩ rằng ngày 15/4/2019 là một trong những ngày quan trọng, giống như vụ tấn công ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, nơi mọi người đều nhớ mình đã ở đâu và đang làm gì vào thời điểm đó. Vào thời điểm đó, tôi là phát ngôn viên và Tổng Thư ký của Hội đồng Giám mục Pháp và tôi đang ở văn phòng của mình ở Paris khi họ báo với tôi rằng nhà thờ đang cháy. Tôi bắt đầu trả lời các cuộc phỏng vấn từ các nhà báo, những người ngay lập tức gọi đến từ khắp nơi trên thế giới: đài phát thanh, kênh truyền hình, v.v. Tôi đến nhà thờ vào sáng ngày 16/4 (2019) để chào đón Bộ trưởng Bộ Nội vụ đến thăm nơi này, dẫn đầu là chỉ huy Đội cứu hỏa, những người vừa cứu Nhà thờ Đức Bà khỏi bị tàn phá. Về Đức Tổng giám mục Paris, ngài đã có mặt tại chỗ trong đêm cùng với Tổng thống nước Cộng hòa [Pháp].
** Việc trùng tu thánh đường hiện nay đang ở giai đoạn nào?
- Chúng ta hãy nhớ rằng sau vụ hỏa hoạn, rất nhanh chóng, vào tháng 7/2019, một đạo luật đã được thông qua nhằm thành lập cơ quan công quyền chịu trách nhiệm trùng tu nhà thờ thuộc sở hữu của Nhà nước. Công ty này trước tiên thực hiện công việc đảm bảo an toàn, kéo dài khoảng 18 tháng, sau đó là tái thiết. Hiện nay chúng ta đang đi đến giai đoạn cuối cùng của công việc này. Từ cách đây một thời gian, ngọn tháp đã xuất hiện trở lại trên bầu trời, chúng tôi đang che phần khung gỗ của gian giữa, gian ngang và ca đoàn, nơi đã được xây dựng lại hoàn toàn. Hơn nữa, phần bên trong của nhà thờ đã lấy lại được dáng vẻ đặc biệt sau khi các phiến đá và cửa sổ được tẩy sạch và các bức tranh được phục hồi. Chúng ta tìm thấy những kích thước mà trước đây không còn được cảm nhận nữa: cảm giác về độ cao của nhà thờ theo kiến trúc Gothic cũng như chiều rộng của tòa nhà. Các nhà nguyện trước đây toàn màu đen nay được làm nổi bật, đá vàng của nhà thờ mang đến bầu không khí ấm áp. Cuối cùng, hàng cây số dây cáp cần thiết để cung cấp điện đã được lắp đặt.
** Về phần giáo phận Paris, giáo phận đã đảm nhận tất cả việc trang trí nội thất?
- Đây là một dự án có nhiều khía cạnh. Đầu tiên chúng tôi phải chọn những đồ trang trí cho những nơi thánh, cụ thể là giếng rửa tội ở lối vào nhà thờ, bàn thờ ở giữa gian ngang, nhà tạm trên bàn thờ Viollet-le-Duc, ở phía sau nhà thờ, ngai tòa ở phía phía bắc và giảng đài dưới chân tượng Đức Mẹ Đồng trinh, ở phía nam, nơi thoát khỏi ngọn lửa một cách kỳ diệu trong đêm nhà thờ bị cháy. Những đồ vật này, được sản xuất tại một xưởng được chuyển đến miền Nam nước Pháp, sẽ sớm được giao. Thứ hai, những chiếc ghế được ủy ban nghệ thuật đặc biệt giao phó cho nhà thiết kế người Pháp Ionna Vautrin sáng tạo, đang được sản xuất trong xưởng ở Landes, phía tây nam đất nước, với tốc độ 150 chiếc mỗi tháng. Chúng sẽ được sẵn sàng cho việc mở cửa lại nhà thờ. Dự án nội thất thứ ba liên quan đến việc tái phát triển các nhà nguyện ở dọc nhà thờ và ca đoàn: ý tưởng là tạo ra một “tuyến đường hành hương” để đón 15 triệu du khách hàng năm mà chúng tôi mong đợi từ việc mở cửa trở lại (có trung bình 11 triệu trước khi mở cửa trở lại) để trải nghiệm một cuộc gặp gỡ thực sự bên trong thánh đường.
** Không phải ngài đang cố tình không sử dụng thuật ngữ “khách du lịch” đó chứ?
- Tôi thích nói về khách viếng thăm hơn là khách du lịch vì khách viếng thăm thực hiện một cuộc viếng thăm thực sự, một cuộc gặp gỡ có thể với Chúa Kitô, điều này có thể được gợi lên bởi chứng tá đức tin của các tín hữu, những người sẽ cầu nguyện bên trong nhà thờ chính tòa, đặc biệt nhờ các Thánh lễ sẽ được cử hành ở bàn thờ chính, nghĩa là ở giữa các khách viếng thăm. Cuộc gặp gỡ này với Thiên Chúa cũng được trải nghiệm thông qua nghệ thuật hiện diện khắp mọi nơi trong tòa nhà, vì vẻ đẹp nói với chúng ta về Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao việc tái phát triển các nhà nguyện là điều cơ bản để giúp khách viếng thăm hiểu được sự mạch lạc trong đề xuất của chúng tôi, bao gồm cả hành trình mà tôi đã nói: chúng ta bắt đầu từ phía bắc của nhà thờ chính tòa - nơi nói về sự kiện giáng sinh và cuộc đời công khai của Chúa Giêsu - lên phía nam, dọc theo sông Seine, nơi kể về sự phục sinh của Chúa Kitô. Giữa hai không gian này, để tượng trưng cho giai đoạn trung gian được thể hiện bởi Cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, chúng tôi sẽ đặt một hòm đựng thánh tích có mão gai. Với các tình nguyện viên, các giáo sĩ, các tuyên úy, 30 cha giải tội, chúng tôi cố gắng biến nhà thờ này thành một nơi của đức tin, nơi diễn tả phụng vụ, cử hành và cầu nguyện. Chúng tôi muốn khuyến khích lòng đạo đức bình dân, chiều kích cá nhân và cộng đoàn của việc cầu nguyện.
** Nhà thờ sẽ được chính thức mở cửa trở lại vào ngày 8/12, lễ trọng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Những cử hành nào được dự kiến nhân dịp này?
- Vào chiều tối ngày 7/12, nghi lễ long trọng mở cửa Nhà thờ Đức Bà sẽ diễn ra trước sự chứng kiến của chính quyền, sau đó là nghi thức làm phép đàn organ (đã được tháo dỡ hoàn toàn và sau đó được lắp ráp lại), hát thánh thi Te Deum và Magnificat. Vào sáng ngày 8/12, Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, bàn thờ mới sẽ được thánh hiến, sau đó là Thánh lễ. Vào ngày 9/12, lễ trọng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và ngày cuối cùng của 3 ngày đặc biệt này, Thánh lễ sẽ được cử hành với sự hiện diện của đông đảo các giám mục và linh mục đến từ Pháp và trên toàn thế giới. Chúng tôi hy vọng rằng người dân Paris sẽ có mặt trong thánh đường, chỉ có 1.500 chỗ ngồi, và trong sân nhà thờ sẽ có dựng một chiếc lều lớn. Những màn hình khổng lồ sẽ được lắp đặt ở những nơi khác ở thủ đô để không chỉ người Công giáo mà tất cả người dân Paris có thể nhìn thấy lại nhà thờ chính tòa của họ, nhà thờ canh giữ thành phố. Trong những ngày tiếp theo, cho đến ngày 15/12, vào buổi sáng, các Thánh lễ trọng sẽ được cử hành cho các hiệp hội bác ái, cho người nghèo, cho các cộng đoàn tu trì, cho giới trẻ, cho các nhà hảo tâm, cho những người đồng hành, v.v. Cuối cùng, trong những tháng tiếp theo, Nhà thờ Đức Bà sẽ chào đón những người hành hương đầu tiên từ vùng Paris, sau đó từ khắp nước Pháp.
** Những công trình trùng tu này và việc mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà có ý nghĩa gì đối với Giáo hội Công giáo ở Pháp?
- Trong khi chúng ta đang sống trong một thế giới rạn nứt, căng thẳng, thất vọng, việc mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà là một dấu hiệu hy vọng to lớn: những gì tưởng như đã chết vẫn còn đứng vững, nhờ vào tình liên đới của tất cả những người đã biến điều này thành hiện thực. Đó chính là dấu hiệu cho thấy tình huynh đệ có ý nghĩa thực sự và khi chúng ta hợp lực, chúng ta sẽ làm được điều gì đó vĩ đại và tốt đẹp, trong khi 5 năm trước, chúng ta thậm chí còn không biết liệu mình có thể đạt được kết quả như vậy hay không. Đó là một dấu hiệu hy vọng không chỉ đối với người Công giáo ở Paris mà còn đối với toàn thế giới, cũng lớn lao như cảm xúc mà vụ cháy nhà thờ chính tòa đã khơi dậy cách đây 5 năm ngay cả ở nước ngoài. Thứ hai, việc mở cửa lại nhà thờ chính tòa này là dịp thức tỉnh tâm linh: đó không phải là việc tái thiết một bảo tàng mà là một nhà thờ, được kêu gọi trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa và việc thờ phượng Chúa ở trung tâm thành phố. Tất cả những người làm việc ở đây đều hoàn toàn nhận thức được rằng họ không chỉ ở bên trong bất kỳ toà nhà nào mà còn ở một nơi đầy lịch sử, sức mạnh thiêng liêng và Tin Mừng. Vì vậy, chúng tôi mong muốn các cử hành phụng vụ phải đẹp, trang nhã, dễ hiểu và để Nhà thờ Đức Bà trở thành chứng từ đức tin cho tất cả những ai bước vào. Đây cũng là cơ hội để kết nối lại với linh hồn của nước Pháp: thực tế, kể từ khi được xây dựng, thánh đường luôn hiện diện trong các biến cố của đất nước chúng tôi, dù vui hay buồn.
** Vụ hỏa hoạn bi thảm và sự tái sinh của Nhà thờ Đức Bà có làm tăng thêm danh tiếng cho nhà thờ không?
- Trước vụ cháy có lẽ chúng ta đã không nhận ra rằng cả thế giới gắn liền với Nhà thờ Đức Bà đến mức nào. Ngay sau đó, học giả người Pháp Adrien Goetz đã nói về “Đức Bà của Nhân Loại”. Điều này được giải thích bởi thực tế là nhà thờ này không thuộc về ai, không thuộc về người Công giáo hay người Pháp, mà đại diện cho một phần lợi ích chung của nhân loại, nơi mà dưới sự bảo vệ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, mọi người đều có thể tìm được nơi nương tựa. Tôi hy vọng rằng trong những thập kỷ tới, nhiều người sẽ gặp Chúa Kitô trong nhà thờ, theo bước chân của nhà văn và nhà thơ người Pháp Paul Claudel, khi bước vào Nhà thờ Đức Bà trong thánh lễ Giáng sinh ngày 25/12/1886, ngay lập tức đã tin [vào Chúa].
Đức Thánh cha sẽ tiếp sáu ngàn học sinh và giáo chức
Thứ Sáu, ngày 19 tháng Tư tới đây, Đức Thánh cha Phanxicô sẽ gặp sáu ngàn học sinh cùng với các giáo chức và giám đốc các trường hòa bình, như một giai đoạn tiến về Ngày Thế giới các Trẻ em lần đầu tiên, vào các ngày 25 và 26 tháng Năm tới đây tại Roma.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Cuộc gặp gỡ vào thứ Sáu nói trên cũng là thành phần của chương trình giáo dục công dân, với chủ đề là: “Chúng ta hãy biến đổi tương lai. Cho hòa bình với sự chăm sóc”. Mục đích là đào tạo một thế hệ mới những người xây dựng hòa bình.
Một cuộc họp báo giới thiệu cuộc gặp gỡ này, diễn ra tại thính đường tu viện thánh Maximiliano Kolbe của Dòng Phanxicô Viện Tu ở Roma (Đường San Teodoro 41). Lên tiếng trong dịp này cũng có cha Enzo Fortunato, cùng dòng, điều hợp viên Ngày Thế giới các Trẻ em.
(Vatican News 15-4-2024)
Đức Thánh cha nhóm họp Hội đồng Hồng y Cố vấn (14.04.2024)
Trong những ngày này, Đức Thánh cha Phanxicô đang nhóm họp Hội đồng chín vị Hồng y Cố vấn của ngài, quen gọi là C-9.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Cuối khóa họp, trưa thứ Tư này, ngày 17 tháng Tư, như thường lệ sẽ có thông cáo báo chí tường trình tổng quát.
Khóa họp hồi tháng Hai năm nay, từ ngày 05 đến ngày 07, đặc biệt có sự tham dự của 3 phụ nữ, để trình bày cho Đức Thánh cha và các hồng y thành viên một đóng góp phần vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Đó là nữ tu Linda Pocher, Dòng Con Đức Mẹ Phù hộ, giáo sư về Kitô và Thánh Mẫu học ở Học viện Auxilianum của dòng; tiếp đến là chị Giuliva Di Berardino, thuộc đoàn trinh nữ thánh hiến của Giáo hội Verona, Bắc Ý, giáo viên và cũng là người đặc trách về linh đạo và tĩnh tâm; sau cùng là Jo Bailey Wells, nữ Giám mục Anh giáo và cũng là Phó Tổng thư ký Liên hiệp Anh giáo.
Trong các cuộc phỏng vấn sau đó, nữ tu Linda Pocher cho biết Đức Thánh cha Phanxicô rất ủng hộ việc phong chức phó tế cho phụ nữ (Religión Digital).
Ngoài vấn đề trên đây, trong khóa họp tháng Hai vừa nói, Hội đồng Cố vấn của Đức Thánh cha cũng bàn đến tiến trình Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới trong Giáo hội về đồng hành, và vấn đề loan báo Tin mừng, với một bài tường trình của Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, người Philippines, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng. Sau cùng, Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, cũng là Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, Phân bộ các vấn đề cơ bản, cũng trình bày tại khóa họp.
Hội đồng C-9 hiện nay được Đức Thánh cha cải tổ, với việc bổ nhiệm một số hồng y thành viên mới, ngoài một số vị cũ. Các vị mới là Đức Hồng y Omella, Tổng giám mục Barcelona và cũng là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, Đức Hồng y Gérald Lacroix, Tổng giám mục Giáo phận Québec, Canada, và Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Dòng Tên, Tổng giám mục Luxemburg.
(Vatican News 15-4-2024)
Phái đoàn Hội đồng Giám mục Pháp viếng thăm Ai Cập để liên đới
Trong những ngày, từ mùng 09 đến ngày 13 tháng Tư vừa qua, phái đoàn của Hội đồng Giám mục Pháp đã viếng thăm Cairo, thủ đô Ai Cập để khẳng định “tình thân hữu và hỗ trợ các tín hữu Kitô Đông phương, cũng như tầm quan trọng của việc duy trì sự hiện diện của các Kitô hữu ở miền này”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Phái đoàn chính thức này do Đức cha Chủ tịch Eric de Moulins-Beaufort, Tổng giám mục Giáo phận Reims, hướng dẫn, cùng với Đức cha Laurent Ulrich, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô Paris và cũng là vị bản quyền đặc trách các tín hữu Công giáo nghi lễ Đông phương ở Pháp, cùng với Đức giám mục Giáo phận Nanterre và cha Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Pháp.
Thông cáo của các giám mục Pháp nói rằng: “Trong khi các tín hữu Kitô thấy từ nhiều năm nay, tình trạng của họ ở Trung Đông ngày càng tệ hơn, đặc biệt với sự xuất hiện của Nhà nước Hồi giáo IS, các giám mục Pháp đã tái khẳng định tình thân hữu của Giáo hội Pháp đối với các anh chị em Kitô ở Ai Cập” và nhắc nhớ những mối liên hệ lịch sử nối kết các tín hữu Công giáo Pháp với các anh chị em Kitô ở miền này, mà Tổ chức bác ái “L’Oeuvre d’Orient” là một trong những ví dụ cụ thể”.
Trong một cuộc họp báo, hôm 13 tháng Tư vừa rồi, trực tuyến từ thủ đô Cairo của Ai Cập, Đức cha Chủ tịch de Moulins-Beaufort, Đức cha Ulrich và các vị tháp tùng đã ca ngợi “chất lượng các cuộc trao đổi với các Giáo hội và các Thượng phụ địa phương mà các vị đã gặp trong 5 ngày viếng thăm tại Cairo và Giáo phận Giza”. Phái đoàn giám mục Pháp đã nhắc đến những “thách đố lớn đối với miền này, ở trung tâm những căng thẳng lớn về địa chính trị, kinh tế, và xã hội, việc duy trì sự hiện diện của Kitô hữu ở Đông phương, đặc biệt qua nhiều trường học Công giáo ở Ai Cập. Đó là đề tài được các giám mục bàn đến trong cuộc gặp gỡ với Đại sứ Pháp ở Ai Cập, ông Eric Chevallier, và Tổng thư ký tổ chức giáo dục Công giáo ở địa phương”.
Đây không phải là lần đầu tiên một phái đoàn các giám mục Pháp đến Trung Đông. Sau Liban năm 2022, và Irak năm 2023, đây là lần thứ ba phái đoàn Hội đồng Giám mục Pháp thăm các Giáo hội ở Đông phương.
(Sir 14-4-2024)
Đức Hồng y Tổng giám mục New York viếng thăm Trung Đông
Từ ngày 12 tháng Tư vừa qua, Đức Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục Giáo phận New York ở Mỹ, đang viếng thăm Israel và Palestine, trong tư cách là Chủ tịch Hiệp hội từ thiện an sinh Công giáo Trung Đông và nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Sứ bộ Tòa Thánh tại Palestine, do Đức Giáo hoàng Piô XII.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tuy có những biến động với cuộc tấn công của Iran chống Israel, bằng các tên lửa và máy bay không người lái, trong đêm 13 rạng ngày 14 tháng Tư vừa qua, và phái đoàn Đức Hồng y phải trú ẩn, nhưng đoàn vẫn tiếp tục cho đến ngày 18 tháng Tư tới đây. Phái đoàn trọ ở Trung tâm Đức Bà của Tòa Thánh ở Jerusalem.
Trong một Video phổ biến từ Bethlehem, Đức Hồng y trấn an các thân hữu và tín hữu về sự bình an của phái đoàn và đoàn tiếp tục chương trình viếng thăm mục vụ.
Chúa nhật, ngày 14 tháng Tư vừa qua, Đức Hồng y Dolan đã cử hành thánh lễ tại cộng đoàn Công giáo La tinh ở Beit Jala, sau đó viếng thăm các nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Phù hộ ở thung lũng Cremesan, cầu nguyện tại Vương cung thánh đường Chúa Giáng Sinh ở Bethlehem, sau đó viếng thăm những người tị nạn tại thành này.
Từ khi được thành lập đến nay, Hiệp hội an sinh Công giáo Trung Đông (CNEWA) đã trợ giúp rất nhiều cho Giáo hội tại Thánh địa, trong lãnh vực giáo dục, từ thiện và sức khỏe, không phân biệt tôn giáo, như: Công giáo, Hồi giáo, Do thái và các tín hữu Kitô khác.
(Vatican News 15-4-2024)
Công trình củng cố và tu sửa Đền thờ Thánh Mộ
Mặc dù chiến tranh, công trình củng cố và tu bổ Đền thờ Thánh Mộ Jerusalem vẫn tiếp tục tiến hành để ngăn cản nơi thánh thiêng nhất này của Kitô giáo khỏi bị sụp đổ, tuy nhiên thời biểu hoàn tất phải kéo dài thêm.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Lẽ ra, công trình này phải được tiến hành vào năm 2016 vì tình trạng đổ nát và mất ổn định của nơi thánh thiêng này. Nhưng công việc này đã bị hoãn lại, vì dưới nền nhà thờ được lát bằng những tấm ván quá mỏng, đôi khi bị hư hại nặng, và có nhiều chỗ thủng, cong vênh. Nhà thờ nằm trên một mỏ đá với nhiều mức độ khác nhau, một số khu vực nằm trực tiếp trên đá tảng đã trưởng thành, trong khi những khu vực khác có một lớp đất, và đống đổ nát dày 5 mét ở giữa, hoặc thậm chí là những hốc đá.
Vào dịp lễ Phục sinh vừa qua, các cửa thánh đường được tạm thời mở và đóng với sự thoả thuận của ba Giáo hội sở hữu, là Công giáo, Chính thống Hy Lạp và Armeni.
Sau lễ Phục sinh, theo lịch Latinh và lịch của Giáo hội Đông phương, cánh cửa có từ 200 năm của nhà thờ được đóng lại.
Trước sàn nhà thờ, nơi Chúa chịu đóng đinh, an táng và sống lại được niêm phong trong một thời gian dài, để các nhà khảo cổ từ Đại học La Sapienza ở Roma điều tra lòng đất. Họ cố gắng làm sáng tỏ lịch sử tiền xây dựng và trong thời kỳ kiến thiết thánh đường này. Thánh đường được khởi sự từ 1.300 năm trước với Hoàng đế Constantino. Sau vài lần phá hủy và xây dựng lại, thánh đường có hình dáng như hiện nay trong thời kỳ Đạo binh Thánh Giá.
Hiện nay, các Ủy viên của Giáo hội đang nóng lòng chờ đợi phúc trình thứ ba của các sử gia và các nhà khảo cổ về những di tích cổ xưa, đặc biệt là từ thời La Mã mà họ đã phát hiện dưới lòng đất, vốn đã bị đóng lại trong nhiều thế kỷ. Trong khi đó, phụng vụ tại nơi thánh này vẫn tiếp tục, theo quy chế Status Quo, có từ 160 năm nay, về việc điều hành và hoạt động của các nơi thánh. Các tín hữu Chính thống Hy Lạp, Công giáo, Armeni, cả các tín hữu Armeni và Siriac muốn tránh tình trạng đóng hoàn toàn Đền thờ Mộ Thánh để tu bổ, ít nhất là bàn thờ nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
Các tu sĩ, các nhà khảo cổ và các chuyên gia xây cất không đồng ý với nhau về ảnh hưởng của chiến tranh hiện nay trên thời khóa biểu của công trình tu bổ. Các chuyên gia người Ý đã rời khỏi Jerusalem, sau vụ Hamas tấn công Israel, ngày 07 tháng Mười năm ngoái. Nhưng sau hai tháng, họ đã trở lại làm việc. Ban đầu, người ta dự định công trình tu bổ sẽ hoàn tất cuối năm nay để bắt đầu Năm thánh ở Roma cũng như tại Thánh địa. Nhưng nay các vị hữu trách không chắc chắn về vấn đề này. Họ chỉ chắc chắn về thời biểu mở lại bàn thờ nơi Chúa chịu đóng đinh của Công giáo: vào Thứ Sáu Tuần thánh năm tới, 2025.
(Kath.de 13-4-2024)
Nở rộ các lễ rửa tội: “Một sức mạnh ngược dòng bác bỏ chủ nghĩa hư vô”
la-croix.com, Jean-Louis Schlegel, triết gia, nhà xã hội học về tôn giáo, 2024-04-03
Theo nhà xã hội học Jean-Louis Schlegel, sự bùng nổ số lượng người được rửa tội, hiện đang dấy lên mối quan tâm ở Pháp và các nước châu Âu rất thế tục khác, đó cũng là một phần trong việc đi tìm một không gian thở, tìm niềm an ủi sau những “thử thách của cuộc đời” làm chấn động những người trẻ tuổi.
Sự phát triển “theo cấp số nhân” ở Pháp về số lượng người lớn được rửa tội (+ 31% so với năm ngoái và + 120% trong vòng 10 năm qua) làm một số người hài lòng, họ xem đây là hứa hẹn cho một mùa xuân của Giáo hội sau nhiều năm liên tục giảm sút và có nhiều dấu hiệu tiêu cực, một số khác hoài nghi, có khi họ còn khó chịu, họ cho rằng thật là lạc điệu khi đưa ra thông báo mang tính chiến thắng trong một Giáo hội còn những thiếu sót và bị chấn thương – đặc biệt là các tội ác và lạm dụng tình dục – vẫn còn chưa lành.
Các thông tin báo La Croix đăng chắc chắn sẽ đem lại các chìa khóa cần thiết giúp chúng ta hiểu một hiện tượng bất ngờ trong bối cảnh suy thoái hiện nay của Giáo hội công giáo Pháp. Nhưng rõ ràng câu hỏi tuy không nói ra của những người vui mừng cũng như những ai hoài nghi vẫn là câu hỏi về tương lai. Liệu trong những năm tới có thể có chuyện tương tự như vậy không, hay sẽ còn tốt hơn? Hay tình hình tốt đẹp của năm 2024 – chủ yếu mang tính cơ hội – sẽ lắng xuống, và con số tăng mạnh là ngoại lệ?
Sự hồi sinh của các lễ rửa tội sẽ tiếp tục
Tôi có xu hướng nghĩ sẽ tiếp tục, dù không theo cấp số nhân. Chắc chắn chúng ta cần thêm thông tin về những gì đang xảy ra ở những nơi khác trên thế giới, nhưng nếu chỉ xét ở châu Âu trong những năm gần đây, ít nhất là ở hai quốc gia Bỉ và Hà Lan, thì chúng ta đã thấy có sự gia tăng tương tự về số người lớn được rửa tội. Hai nước này, đặc biệt là Hà Lan cũng đang trải qua quá trình phi kitô giáo hóa mạnh mẽ. Do đó, câu hỏi có thể được đặt ra là liệu chúng ta có phải “chạm tới đáy” của sự suy giảm trên thực tế, đặc biệt là việc rửa tội cho trẻ em, thì mới có sự gia tăng việc rửa tội nơi người lớn không.
Trong 20 năm qua, ở Pháp số trẻ em dưới 3 tuổi được rửa tội đã giảm một nửa, từ 400.000 xuống chưa đầy 200.000. Còn ở các nước công giáo khác như Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan, Croatia thì sao? Và ở Đức, nước có nhiều lo ngại về việc giáo dân rời bỏ Giáo hội thì sao? Dù sao chúng ta thấy số người lớn rửa tội sẽ không thể bù đắp được số trẻ em rửa tội, ít nhất trong một thời gian dài.
Tự do đi vào thì cũng tự do đi ra
Để phần nào bớt “tâm lý chiến thắng” nói trên, nhiều người nhắc lại lòng nhiệt thành của nhiều người lớn rửa tội đã giảm mạnh sau vài năm họ vào Giáo hội. Nói cách khác, lễ rửa tội của họ hẳn là một “tấm vé vào cửa” hơn là một cam kết… Nhận xét này là đúng, nhưng tại sao chúng ta lại muốn người lớn sau khi rửa tội phải ứng xử hoàn toàn khác với người đã ở với Giáo hội từ thơ ấu?
Đối với người lớn sau khi rửa tội, thì chính kinh nghiệm sống trong Giáo hội nhất thiết phải là quan trọng, thậm chí mang tính quyết định, để họ tiếp tục tích cực ở đó hay tiếp tục sống như thể “người khách”, hoặc thậm chí ra đi. Tự do đi vào thì cũng hoàn toàn tự do đi ra, ngay cả khi các cộng đồng giáo xứ chắc chắn phải làm tốt hơn và nhiều hơn nữa để bảo đảm sự đồng hành và hỗ trợ các cựu dự tòng: chúng ta có thể có ấn tượng chính đáng, sự đồng hành và hỗ trợ các tân tòng tỷ lệ nghịch với sự sốt sắng và chào đón nồng nhiệt thường dành cho các dự tòng.
Đúng là các cộng đồng công giáo, cũng như Giáo hội, không phải là các giáo phái nhưng đôi khi “bao vây” những người mới gia nhập theo đúng nghĩa đen và làm mọi cách để giữ họ lại. Hơn nữa, theo khảo sát của báo La Croix, con đường của những người mới được rửa tội, mặc dù không đổi, vẫn có nhiều hướng khác nhau. Vì sao phải tuyệt đối “bình thường hóa” theo khuôn rất công giáo để đưa họ vào trong những khuôn mẫu đã có?
Vượt lên trên những cuộc khủng hoảng…
Qua những chứng từ được kể, vượt lên những khác biệt trong công việc khám phá hoặc tái khám phá Giáo hội và đức tin công giáo, chúng ta có cảm tưởng những người mới rửa tội có một kinh nghiệm tương đối chung hay một yếu tố chung là: muốn tìm một lối thoát, một giải pháp, một hơi thở, một an ủi trước “thử thách cuộc đời”, “những cú đánh mạnh” làm họ chấn động, làm họ cảm thấy mình ở dưới đáy, làm cho một số người cảm thấy mình bị bật gốc, bị mồ côi của một truyền thống chưa được truyền lại.
Cuối cùng, chúng ta gần với những gì bà Danièle Hervieu-Léger đã nói về cuộc trở lại ngày nay nói chung: đó là tự xây dựng lại chính mình, khôi phục chính bản thân, hoặc – nếu đó là người xuất thân từ một gia đình công giáo – là việc tìm lại chính mình, gặp lại với bản sắc bị mất. Khi đó chúng ta có thể hiểu, cuộc cải tổ Giáo hội, hay những cuộc khủng hoảng của Giáo hội không phải là vấn đề của những người lớn được rửa tội này.
Maria Tô Diệu Lan dịch
Nguồn: phanxico.vn
50.000 người Ba Lan tham gia cuộc tuần hành vì sự sống
Vatican News
Trong dịp này, chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan khẳng định: “Sự sống là một hồng ân đến từ Thiên Chúa và vì thế là một quyền bất khả xâm phạm của mỗi con người, đó là lý do tại sao sự sống phải được bảo vệ và hỗ trợ ở mọi giai đoạn phát triển. Tôn trọng sự sống, vốn thuộc về những giá trị quan trọng nhất, là một trong những nghĩa vụ cơ bản của mỗi con người”. Về cuộc tuần hành quốc gia vì sự sống, Đức cha Chủ tịch nhấn mạnh rằng đó là biểu hiện tôn trọng sự sống được thụ thai, đón nhận cuộc sống này trong tình yêu và bày tỏ lòng biết ơn đối với những khó khăn trong vai trò làm cha mẹ, mang đến cho trẻ em cơ hội lớn lên và phát triển.
Người phát ngôn cuộc tuần hành, Lidia Sankowska-Grabczuk giải thích về sự kiện: “Cuộc tuần hành của chúng tôi là một sự khẳng định sự sống, gia đình, và tất cả các quyền cơ bản của mỗi người. Nhưng đồng thời trước cuộc cách mạng đang muốn hạn chế quyền của cha mẹ và quyền sống của con người, chúng tôi cũng tuần hành với một dấu hiệu thách đố mạnh mẽ nhằm ngăn chặn sự sụp đổ về nhân khẩu học ở Âu châu”.
Tại sự kiện, Chủ tịch Quỹ Thánh Biển Đức, tuyên bố sẽ không bỏ cuộc bất cứ điều gì diễn ra tại Quốc hội Ba Lan. Tổ chức sẽ đứng vững cho tới khi quyền của thai nhi được bảo đảm.
Ngày 12/4 vừa qua, Quốc hội Ba Lan đã bỏ phiếu về bốn đề xuất, trong đó sẽ đưa trở lại luật phá thai như trước năm 2020. Nghĩa là được phép phá thai trong trường hợp hiếp dâm, loạn luân hoặc đe doạ đến sức khoẻ và tính mạng người mẹ. Các đề xuất được phê duyệt cũng bao gồm đề xuất từ đảng của thủ tướng Donald Tusk, cho phép phá thai khi thai nhi được 12 tuần tuổi. Tuy nhiên, để việc này được tiến hành, phải có sự tán thành của tổng thống.