Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ngày Quốc tế Giới Trẻ cấp hoàn vũ lần thứ 17 sẽ tiến hành tại Hán Thành (Seoul), thủ đô Hàn Quốc, từ ngày 29 tháng Bảy đến ngày 08 tháng Tám năm 2027, với sự tham dự của Đức Thánh cha Lêô XIV.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đây là lần đầu tiên Ngày Quốc tế Giới trẻ được tổ chức tại một nước Á châu, bị chia cắt, các tín hữu Công giáo chỉ là thiểu số. Quốc gia Á châu đầu tiên cử hành Đại hội này là Philippines, tại thủ đô Manila hồi tháng Giêng năm 1995, với sự tham dự của khoảng năm triệu người. Đó là Ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 7.
Hôm 27 tháng Mười vừa qua, Đức cha Phaolô Lý Khánh Thượng (Lee Kyung-sang), Giám mục Phụ tá Tổng Giáo phận Seoul, Tổng điều hành Ban tổ chức ở địa phương, cho biết Ngày Quốc tế Giới trẻ này trùng với cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Lêô XIV tại Hàn Quốc. Ngay từ bây giờ, việc chuẩn bị cho sự kiện được sự tham gia của cộng đồng Công giáo, chính quyền dân sự, cùng nhiều tổ chức giáo hội và xã hội. Đức cha Phaolô Lý nhấn mạnh: “Seoul sẽ không chỉ là một “thành phố đón tiếp”, nhưng còn là thành phố hy vọng, liên đới và truyền giáo, nơi mà “niềm vui Tin mừng” sẽ được loan báo và công bố cho toàn thế giới.”
Về phần Đức cha Phêrô Trịnh Thuần Trạch (Chung Soon-taek), dòng Camêlô nhặt phép (OCD), Tổng giám mục Giáo phận Seoul, Chủ tịch Ủy ban tổ chức toàn quốc địa phương - trong đó có cả đại diện dân sự - nhấn mạnh rằng: “Đây không chỉ là buổi giới thiệu chương trình biến cố này, nhưng là một tuyên ngôn về đức tin và hy vọng, một cam kết long trọng gửi đến giới trẻ toàn cầu, và lời chân thành mời gọi chân thành cùng nhau suy tư về hành trình mà nhân loại được Thiên Chúa hướng dẫn như một gia đình duy nhất.”
Chương trình tổng quát
Theo chương trình được công bố và gửi đến Hãng tin Fides của Bộ Loan báo Tin mừng, Ngày Quốc tế Giới trẻ 2027 gồm:
Giai đoạn đầu tiên, từ ngày 29 tháng Bảy đến ngày 02 tháng Tám, gọi là “Những ngày tại các giáo phận”, sẽ được tổ chức tại 15 giáo phận trên khắp Hàn Quốc. Tại đó, các bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới sẽ có cơ hội trải nghiệm đời sống cộng đoàn địa phương qua các buổi cử hành phụng vụ, gặp gỡ và tá túc trong các gia đình bản xứ.
Các sinh hoạt chính diễn ra tiếp đó, từ ngày 03 đến ngày 08 tháng Tám tại thủ đô Seoul, gồm thánh lễ khai mạc, lễ đón tiếp Đức Thánh cha, lễ hội Giới trẻ, các buổi học giáo lý. Chiều thứ Sáu, ngày 06 tháng Tám, có buổi đi Đàng Thánh giá; tối thứ Bảy sau đó có Đêm canh thức và sáng Chúa nhật hôm sau, ngày 08 tháng Tám có thánh lễ bế mạc. Hai sinh hoạt chót này do Đức Thánh cha chủ sự.
Thánh lễ khai mạc sẽ do Đức Tổng giám mục Phêrô Trịnh Thuần Trạch (Chung Soon-taek) chủ tế, cùng các vị đồng tế, gồm các hồng y, giám mục và linh mục đến từ hơn 160 quốc gia.
Lễ đón tiếp Đức Thánh cha - cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ngài và các bạn trẻ hành hương - sẽ kết hợp các tiết mục văn hóa, nghệ thuật với sứ điệp của Đức Giáo hoàng gửi đến giới trẻ.
Đức cha Phaolo Lý nói thêm rằng lễ hội Giới trẻ sẽ là “một lễ hội sống động của đức tin và sáng tạo”, còn Đàng Thánh Giá sẽ là “một giây phút sâu lắng để người trẻ suy niệm về những đau khổ của nhân loại, từ đó khám phá lại niềm hy vọng và can đảm.”
Đức cha giải thích thêm rằng linh đạo của Ngày Quốc tế Giới Trẻ 2027 xoay quanh ba từ khóa: là tình yêu, chân lý và hòa bình. Chủ đề “tình yêu” bao gồm việc chăm sóc tha nhân, đặc biệt là những người bị gạt ra ngoài lề hoặc đau khổ, cũng như chăm sóc công trình sáng tạo và hoán cải sinh thái. Đức cha cho biết: “Đến nay, hơn 700 cây xanh đã được trồng để bù đắp lượng khí thải carbon, và nỗ lực này sẽ tiếp tục cho đến năm 2027.”
Đức cha cũng công bố việc thành lập các mạng lưới giới trẻ quốc tế, nơi các bạn trẻ có thể chia sẻ sáng kiến và ý tưởng vì lợi ích chung. Đức cha Lý kết luận: “Ngày Giới trẻ Thế giới vượt qua ranh giới của cộng đồng Công giáo: đây là một cơ hội lịch sử để Hàn Quốc chia sẻ với thế giới thông điệp về hòa bình, hòa hợp và tình liên đới.”
Về mặt tổ chức, cha Joseph Young-je Lee, Tổng thư ký Ủy ban tổ chức, nhấn mạnh rằng “việc tham dự hoàn toàn miễn phí”, cho phép các bạn trẻ trên khắp Hàn Quốc, kể cả những người không theo Công giáo, cùng tham gia cử hành. Việc lưu trú của các bạn trẻ quốc tế sẽ được 233 giáo xứ thuộc Tổng giáo phận Seoul đảm trách, với cơ sở vật chất và chương trình đón tiếp phù hợp.
Đức cha Phaolô Lý cho biết việc tổ chức Ngày Quốc tế Giới trẻ 2027 là “một nỗ lực mang tầm quốc gia, không thể thực hiện chỉ bằng nỗ lực cá nhân,” và ca ngợi sự hợp tác tích cực giữa các cơ quan hành chính, an ninh, tài chính, giao thông, y tế và truyền thông trong nước.
Ngày Quốc tế Giới trẻ liền trước đây diễn ra tại Lisbon, thủ đô Bồ Đào Nha hối tháng Tám năm 2023, đã có hơn 1,5 triệu người tham dự, sự kiện này vẫn luôn là dấu chỉ của niềm tin và hiệp nhất giữa các thế hệ trẻ trên toàn cầu.
(Fides, 27/10/2025)
Hôm 29 tháng Mười vừa qua, hãng tin Asia News của Hội Giáo hoàng Truyền giáo hải ngoại Pime, truyền đi từ Milano, cho biết Cộng đoàn Công giáo tỉnh Hà Bắc bên Trung Quốc thương tiếc Đức cha Giulio Giả Chí Quốc (Jia Zhiguo), vị giám mục “hầm trú” can trường của Giáo phận Chánh Định, đã qua đời, hưởng thọ 90 tuổi.
Phúc Nhạc | RVA
Ngài là một khuôn mặt nổi bật và là điểm tựa tinh thần của Giáo hội tại vùng đất có truyền thống Kitô giáo lâu đời này.
Cùng với sự ra đi của ngài, Giáo hội tại Trung Quốc mất đi một chứng nhân đã sống trọn vẹn những đau khổ của Giáo hội, nhưng cũng là người gieo vãi biết bao hy vọng nhờ lòng can đảm kiên trung.
Đức cha Giả Chí Quốc sinh ngày 01 tháng Năm năm 1935 trong một gia đình Công giáo nhiều đời tại làng Wuqiu, thuộc huyện Tổng Thập Trang (Zongshizhuang), nay là thành phố Tấn Châu (Jinzhou). Ơn gọi linh mục của ngài được ươm mầm trong Tu đoàn thánh Vinh Sơn, quen gọi là Dòng Lazarist, nhưng đã gặp rất nhiều trở ngại trong thời Mao Trạch Đông.
Trong Cách mạng Văn hóa thập niên 1960, ngài bị giam lỏng suốt 15 năm chỉ vì đức tin. Sau khi được trả tự do năm 1978, cha Giả Chí Quốc chịu chức linh mục ngày 07 tháng Sáu năm 1980, do Đức cha Giuse Phạm Học Am (Joseph Fan Xueyan) - Giám mục Bảo Định, một trong những vị giám mục cuối cùng được Đức Piô XII bổ nhiệm tại Trung Quốc, cũng từng chịu 15 năm tù.
Chỉ vài tháng sau đó, ngày 08 tháng Hai năm 1981, chính Đức cha Phạm Học Am, khi ấy đã 74 tuổi, bí mật truyền chức giám mục cho cha Giả Chí Quốc, 45 tuổi, để ngài trở thành Giám mục Giáo phận Chánh Định, Tuy nhiên, việc phong chức giám mục bí mật này cùng hai trường hợp khác do Đức cha Phạm Học Am thực hiện đã khiến chính quyền Bắc Kinh chú ý và năm 1982, ngài bị bắt lại và bị kết án 10 năm tù, vì tội gọi là: “cấu kết với các thế lực nước ngoài nhằm đe dọa chủ quyền và an ninh quốc gia”.
Nhờ áp lực ngoại giao mạnh mẽ từ quốc tế, Đức cha Phạm Học Am được phóng thích sớm vào năm 1987, nhưng vẫn bị quản thúc tại gia. Biết trước hoàn cảnh bấp bênh, Đức cha Am đã truyền chức Đức cha Giả Chí Quốc theo những năng quyền đặc biệt để chọn lựa và phong chức giám mục mới trên toàn Trung Quốc.
Nhờ đó, trong thập niên 1980, Đức cha Giả Chí Quốc đã tái thiết cộng đoàn Công giáo tại Hà Bắc và các tỉnh lân cận, đồng thời chủ sự phong chức giám mục cho bốn vị giám mục “hầm trú” khác.
Ngài cũng truyền chức linh mục cho nhiều chủng sinh thuộc Giáo phận Vĩnh Niên (Yongnian), góp phần giải quyết tình trạng thiếu linh mục nghiêm trọng tại khu vực này.
Ngày 04 tháng Tư năm 1989, khi đang gặp gỡ một linh mục Salêdiêng đến từ Hồng Kông tại Bắc Kinh, Đức cha Giulio Chí Quốc lại bị bắt giữ - mở đầu cho chuỗi dài những lần bị giam cầm rồi phóng thích kéo dài hơn 20 năm,
Nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, đã coi Đức cha như một tấm gương sống động của đức tin, và nhiều ơn gọi linh mục mới đã được khơi dậy nhờ gương sáng ấy.
Ngài không hề có của cải riêng, luôn sống giản dị để phục vụ tha nhân.
Với sự cộng tác của một nhóm nữ tu, ngài đã mở cửa tư gia để đón nhận các trẻ em và thanh niên khuyết tật bị gia đình bỏ rơi. Trận chiến cuối cùng của ngài là chống lại lệnh cấm các hoạt động với trẻ vị thành niên mà chính quyền Trung Quốc áp đặt sau đại dịch.
Năm 2020, Đức cha tuyên bố: “Giáo hội phải mở rộng vòng tay cho tất cả mọi người, kể cả những người dưới 18 tuổi.”
(AsiaNews 29-10-2025)
Sáng thứ Tư, ngày 29 tháng Mười vừa qua, lúc gần 9 giờ 45 phút, Đức Thánh cha Lêô XIV đã tiếp kiến chung hơn năm mươi ngàn tín hữu hành hương, tại Quảng trường Thánh Phêrô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Hiện diện trong dịp này, có hơn hai mươi hồng y và giám mục các nước, đặc biệt có một số vị lãnh đạo các tôn giáo không Kitô đã tham dự cuộc gặp gỡ chiều tối hôm trước, ngày 28 tháng Mười, nhân kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Nostra Aetate. Cách riêng cũng có hàng chục nhà sư Phật giáo trong áo cà sa cùng tham dự.
Như thường lệ, sau khi tiến qua các lối đi để chào thăm mọi người, chúc lành cho các em bé, Đức Thánh cha tiến lên lễ đài và bắt đầu buổi tếp kiến, với phần lắng nghe Lời Chúa, qua đoạn Tin mừng theo thánh Gioan (4, 21-24):
“Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari rằng: “Hỡi bà, hãy tin tôi, sẽ đến giờ - mà giờ ấy đã đến - khi người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này, cũng không phải tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng mà các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng mà chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - khi những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật; vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng Ngài như thế. Thiên Chúa là Thần Khí, và những ai thờ phượng Ngài thì phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật.”
Bài huấn giáo
Trong bài huấn giáo tiếp đó, Đức Thánh cha tạm gác lại loạt bài giáo lý Năm Thánh về “Chúa Giêsu Kitô niềm hy vọng của chúng ta”, để trình bày về kỷ niệm 60 năm công bố Tuyên ngôn Nostra Aetate, Thời đại chúng ta, về tương quan giữa Giáo hội Công giáo với các tôn giáo khác.
Mở đầu bài huấn giáo, Đức Thánh cha nói: “Anh chị em thân mến, cách riêng các tín hữu hành hương trong đức tin và đại diện cho các truyền thống tôn giáo khác nhau!
Trọng tâm của buổi suy tư hôm nay, trong buổi Tiếp kiến chung được dành cho đối thoại liên tôn, tôi muốn đặt lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari:
“Thiên Chúa là Thần Khí, và những ai thờ phượng Ngài thì phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật.” (Ga 4,24) Trong Tin mừng, cuộc gặp gỡ này bày tỏ bản chất của đối thoại tôn giáo đích thực: đó là sự trao đổi được hình thành khi con người mở lòng với nhau bằng sự chân thành, lắng nghe cẩn trọng và cùng nhau làm cho đời sống nội tâm được phong phú. Đó là một cuộc đối thoại được nảy sinh từ cơn khát - lòng khao khát của Thiên Chúa đối với tâm hồn con người, và cơn khát của con người đối với Thiên Chúa. Tại giếng nước ở Sicar, Chúa Giêsu vượt qua những rào cản về văn hóa, giới tính và tôn giáo, và mời người phụ nữ Samari đi đến một hiểu biết mới về việc thờ phượng - không còn giới hạn trong một địa điểm cụ thể (“không trên núi này, cũng không tại Giêrusalem”), nhưng là trong Thần Khí và sự thật. Khoảnh khắc này nêu bật cốt lõi của đối thoại liên tôn, đó là khám phá sự hiện diện của Thiên Chúa vượt lên trên mọi ranh giới, và lời mời gọi cùng nhau tìm kiếm Ngài với lòng tôn kính và khiêm tốn.
Tuyên ngôn Công đồng
Sáu mươi năm trước, ngày 28 tháng Mười năm 1965, Công đồng chung Vatican II, qua việc ban hành Tuyên ngôn Nostra Aetate, đã mở ra một chân trời mới cho sự gặp gỡ, tôn trọng và hiếu khách thiêng liêng. Văn kiện sáng ngời này dạy chúng ta đón tiếp những người thuộc các tôn giáo khác không như những người xa lạ, mà như những bạn đồng hành trên con đường đi tìm chân lý; tôn trọng những khác biệt, trong khi vẫn khẳng định nhân tính chung của chúng ta; và nhận ra trong mỗi cuộc tìm kiếm tôn giáo chân thành, một phản chiếu của Mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất đang bao trùm toàn thể tạo thành.
Với Do thái giáo
Đặc biệt, ta không thể quên rằng hướng đi đầu tiên của Nostra Aetate là về phía thế giới Do Thái giáo, với mong muốn của thánh Gioan XXIII là phục hồi mối tương quan nguyên thủy. Lần đầu tiên trong lịch sử, Giáo hội đã soạn ra một văn kiện tín lý về nguồn gốc Do thái của Kitô giáo, đặt nền tảng Kinh thánh và thần học cho một bước ngoặt không thể đảo ngược: “Dân của Giao Ước Mới được liên kết thiêng liêng với dòng dõi Tổ phụ Abraham. Quả thật, Giáo hội Chúa Kitô nhìn nhận rằng khởi đầu của đức tin và ơn tuyển chọn của mình đã được tìm thấy, theo mầu nhiệm Thiên Chúa cứu độ, nơi các tổ phụ, ông Môsê và các ngôn sứ.” (Nostra Aetate, 4) Vì thế, Giáo hội “ý thức về gia sản chung với dân Do thái, và không vì lý do chính trị nhưng do lòng bác ái Tin mừng, lên án sự thù ghét, bách hại và mọi hình thức bài Do thái chống lại người Do thái ở mọi thời và bởi bất kỳ ai.” (ibid.) Kể từ đó, tất cả các vị tiền nhiệm của tôi đều đã lên án chủ nghĩa bài Do thái với những lời rõ ràng. Và hôm nay, tôi cũng xác nhận rằng Giáo hội không bao giờ dung thứ cho chủ nghĩa bài Do thái, nhưng còn tích cực chống lại nó, chính vì Tin mừng.
Thành quả dù những khó khăn
Hôm nay, chúng ta có thể tạ ơn Chúa vì tất cả những gì đã đạt được trong đối thoại Do thái - Công giáo suốt sáu thập kỷ qua. Thành quả này không chỉ nhờ vào nỗ lực con người, mà còn nhờ ơn trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng mà theo niềm tin Kitô giáo, chính Ngài là cuộc đối thoại. Chúng ta không thể phủ nhận rằng trong thời gian ấy cùng có những hiểu lầm, khó khăn, xung đột, nhưng chưa bao giờ điều đó khiến cuộc đối thoại bị gián đoạn. Ngay hôm nay, chúng ta cũng không được để những hoàn cảnh chính trị hay bất công của một số người làm chúng ta xa rời tình bạn, nhất là khi chúng ta đã đạt được nhiều điều quý giá.
Tiếp tục hành trình
Đức Thánh cha nói thêm: “Tinh thần của Tuyên ngôn Nostra Aetate vẫn tiếp tục soi sáng con đường của Giáo hội. Văn kiện ấy nhìn nhận rằng mọi tôn giáo đều có thể phản chiếu “một tia sáng của chân lý soi sáng mọi người” (số 2), và cùng tìm kiếm lời giải cho những mầu nhiệm lớn lao của kiếp người. Do đó, đối thoại không chỉ mang tính trí thức, mà còn phải sâu sắc về mặt thiêng liêng. Tuyên ngôn mời gọi tất cả tín hữu Công giáo - giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân - chân thành dấn thân trong đối thoại và hợp tác với những người thuộc các tôn giáo khác, nhận ra và cổ võ tất cả những gì là chân thật, tốt đẹp và thánh thiện trong các truyền thống ấy (ibid.). Điều này, hôm nay càng cần thiết hơn bao giờ hết, vì ở hầu hết các thành phố trên thế giới, do sự di chuyển của con người, chúng ta được mời gọi sống chung và gặp gỡ nhau trong tinh thần huynh đệ. Nostra Aetate nhắc chúng ta rằng đối thoại đích thực bén rễ trong tình yêu, vốn là nền tảng duy nhất của hòa bình, công lý và hòa giải, đồng thời mạnh mẽ bác bỏ mọi hình thức kỳ thị hay bách hại, khẳng định phẩm giá bình đẳng của mọi con người (x. NA, 5).
Tái dấn thân
Vậy, anh chị em thân mến, sáu mươi năm sau Nostra Aetate, chúng ta có thể tự hỏi: Chúng ta có thể làm gì cùng nhau? Câu trả lời thật đơn giản: Hãy cùng hành động! Hơn bao giờ hết, thế giới chúng ta cần sự hiệp nhất, tình bạn và sự hợp tác. Mỗi tôn giáo đều có thể góp phần xoa dịu đau khổ của con người và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, đó là Trái đất. Các truyền thống tôn giáo của chúng ta dạy về chân lý, lòng cảm thương, sự hòa giải, công lý và hòa bình. Chúng ta phải tái khẳng định việc phục vụ nhân loại, trong mọi thời khắc. Cùng nhau, chúng ta phải cảnh giác trước việc lạm dụng danh Thiên Chúa, tôn giáo hay chính đối thoại, cũng như trước những nguy cơ do chủ nghĩa cực đoan và cuồng tín tôn giáo. Chúng ta cũng cần đối diện với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo một cách có trách nhiệm, vì nếu nó được hình thành như một thay thế cho con người, thì có thể xâm phạm nghiêm trọng đến phẩm giá vô biên và làm tê liệt trách nhiệm căn bản của con người. Các truyền thống của chúng ta có thể đóng góp to lớn vào việc nhân bản hóa công nghệ, và từ đó truyền cảm hứng cho việc điều chỉnh nó nhằm bảo vệ các quyền con người cơ bản.
Tái hy vọng hòa bình
“Như chúng ta đều biết, hòa bình bắt đầu từ trong lòng người. Theo nghĩa này, tôn giáo có thể đóng vai trò nền tảng. Chúng ta cần mang hy vọng trở lại trong đời sống cá nhân, trong gia đình, khu xóm, trường học, làng mạc, đất nước và cả thế giới. Niềm hy vọng này được xây dựng trên đức tin tôn giáo của chúng ta, trên niềm xác tín rằng một thế giới mới là điều khả thi.
Sáu mươi năm trước, Nostra Aetate đã mang lại hy vọng cho thế giới sau chiến tranh. Hôm nay, chúng ta được kêu gọi tái xây dựng niềm hy vọng ấy trong một thế giới bị tàn phá bởi chiến tranh và môi trường tự nhiên đang bị suy thoái. Hãy cùng cộng tác, vì nếu chúng ta hiệp nhất, mọi điều đều có thể. Đừng để điều gì chia rẽ chúng ta. Trong tinh thần đó, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc vì sự hiện diện và tình bạn của anh chị em. Hãy truyền lại tinh thần hữu nghị và hợp tác này cho các thế hệ tương lai, vì đó là nền tảng đích thực của đối thoại.
Và giờ đây, chúng ta cùng thinh lặng cầu nguyện một lúc: Bởi vì lời cầu nguyện có sức biến đổi tâm hồn, tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta.
Chào thăm và nhắn nhủ
Sau bài huấn giáo bằng tiếng Ý, chín độc viên đã tóm tắt bài huấn giáo của Đức Thánh cha và những lời chào thăm và nhắn nhủ nhóm hành hương bằng các ngôn ngữ khác nhau.
Khi chào các nhóm nói tiếng Pháp, Đức Thánh cha nói: “Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho cuộc đối thoại liên tôn của chúng ta bằng sự thật và tình yêu, để chúng ta có thể yêu thương tất cả anh chị em mình theo gương Chúa Giêsu.”
Với các tín hữu nói tiếng Anh, Đức Thánh cha đặc biệt nhắc đến những người đến từ Anh, Ireland, Na Uy, Thụy Điển, Ghana, Kenya, Nigeria, Uganda, Zimbabwe, Úc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Hàn Quốc, Canada và Hoa Kỳ.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Tôi đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với sự hiện diện của các nhà lãnh đạo và đại diện của các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Nguyện xin Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả mọi người nam nữ, đổ tràn vào lòng chúng ta tinh thần huynh đệ, để chúng ta có thể nhận ra dấu ấn của lòng nhân hậu và vẻ đẹp của Thiên Chúa nơi mỗi con người.”
Với các tín hữu Ba Lan, Đức Thánh cha nhắc nhở: “Trong những ngày sắp tới, phụng vụ sẽ tưởng niệm các tín hữu đã qua đời. Lời cầu nguyện cho những người thân yêu đã khuất nhắc chúng ta rằng quê hương đích thực của chúng ta là ở trên trời. Những nỗ lực nhằm đạt được các của cải tạm thời cần thiết cho đời sống trần gian, phải luôn phát xuất từ tình yêu và lòng trung thành với chân lý Tin mừng, vốn không bao giờ qua đi, vì chúng bắt nguồn từ chính Thiên Chúa.”
Sau cùng, bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha nói: “Tôi nồng nhiệt chào thăm các tín hữu nói tiếng Ý, đặc biệt là các nữ tu Dòng Phanxicô Alcantarine, đang cử hành Tổng hội của dòng, và cộng đoàn Đan tu Monte Oliveto Maggiore.
Tôi cũng thân ái chào đón đoàn hành hương của các giáo phận, và cầu xin Đức Trinh Nữ Maria ban cho anh chị em mọi ơn lành mong ước, và tha thiết nguyện chúc mỗi người có thể nơi đâu cũng trở nên chứng nhân quảng đại cho Tin mừng.
Tôi cũng chào hiệp hội quốc gia các nhà quản lý và chuyên viên cao cấp của ngành giáo dục, và các nhóm khác.
Sau cùng, anh chị em bệnh nhân thân mến, xin Đức Mẹ hãy luôn giúp anh chị em bước theo Chúa Giêsu, trên con đường thử thách.
Đức Thánh cha không quên chào thăm khoảng năm mươi đôi tân hôn và nhiều bạn trẻ hiện diện đông đảo tại Quảng trường.
Buổi Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha được kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.
Chế độ cánh tả cực đoan của Venezuela đang gia tăng chiến dịch đe dọa Giáo hội Công giáo.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Theo các phương tiện truyền thông địa phương, Đức Hồng y Baltazar Porras, nguyên Tổng giám mục thủ đô Caracas, đã bị ngăn cản vài ngày trước khi lên đường dâng lễ kính thánh “Bác sĩ của người nghèo” José Gregorio Hernández - vị mới được phong thánh hôm 19 tháng Mười vừa rồi. Dù vậy, khoảng 100.000 tín hữu vẫn tham dự thánh lễ.
Tối thứ Sáu, ngày 24 tháng Mười vừa qua, Thứ trưởng phụ trách tôn giáo đã gọi điện cho Đức Hồng y, nói rằng chuyến đi của Đức Hồng y tới Isnotu là “không phù hợp”, vì có bất ổn tại khu vực đó. Đến nửa đêm, ngài lại nhận được tin nhắn qua WhatsApp thông báo chuyến bay của hãng hàng không quốc doanh Conviasa bị hủy.
Đức Hồng y Porras nói: “Tôi là người duy nhất nhận được thông báo này, trong khi chuyến bay vẫn hạ cánh bình thường tại Valera”. Dù đã 81 tuổi, Đức Hồng y vẫn không bỏ cuộc.
Tại sân bay, Đức Hồng y và nhóm đi cùng định thuê xe di chuyển đường bộ tới nơi hành lễ ở miền Bắc Venezuela. Ngài kể lại: “Chúng tôi bị một nhóm binh sĩ có vũ trang bao vây, dù chỉ có năm người trong nhóm chúng tôi.” Họ cấm chúng tôi thuê xe. “Chúng tôi không được phép rời sân bay và phải quay lại; chúng tôi hầu như bị giam lỏng”.
Trước đó, Đức Hồng y đã lên án các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng ở Venezuela và kêu gọi chế độ của Tổng thống Nicolás Maduro, nhân lễ phong hai thánh của nước này, hãy trả tự do cho 866 tù nhân chính trị. Theo lời ngài, đất nước đang ở trong “tình trạng đạo đức không thể chấp nhận được” vì hạn chế tự do dân sự, nghèo đói gia tăng, quân phiệt hóa, bạo lực và tham nhũng. Sau đó, ông Maduro cáo buộc Đức Hồng y Porras cố tình thao túng Đức Giáo hoàng Lêô XIV và “lừa dối ngài về tình hình thực tế tại Venezuela”.
Một nhân vật định hình Giáo hội Venezuela
Đức Hồng y Porras là một nhân vật trụ cột của Giáo hội Venezuela trong nhiều thập kỷ, được xem là một trong những nhà lãnh đạo Công giáo có ảnh hưởng nhất ở Mỹ Latinh. Diễn biến mới này đã gây ra làn sóng phản ứng trong nước. Chính trị gia đối lập bà Maria Corina Machado, người vừa đoạt Giải Nobel Hòa bình, tuyên bố:
“Trong vài giờ qua, sự đàn áp của chế độ Maduro đã leo thang và trực tiếp tấn công Đức Hồng y Baltazar Porras của chúng ta.”
Bà khẳng định rằng lễ mừng phong thánh lịch sử sẽ không thể bị ngăn cản bằng bạo lực hay thủ đoạn chính trị. Đáp lại việc bà Machado được trao giải Nobel, chính quyền Venezuela tuyên bố đóng cửa Đại sứ quán tại Na Uy.
Hội đồng Giám mục Venezuela cũng ra tuyên bố, nhấn mạnh “vai trò nền tảng và kiên trì của Đức Hồng y Porras trong tiến trình dẫn đến việc phong thánh cho thánh José Gregorio Hernández và Mẹ Carmen Rendiles.” Trước tình hình này, các giám mục kêu gọi không sử dụng các biểu tượng đức tin và lòng đạo đức bình dân cho mục đích chính trị phe phái.
Venezuela đã rơi vào khủng hoảng chính trị nội bộ sâu sắc trong nhiều năm. Khoảng tám triệu người đã rời khỏi đất nước do thiếu thốn nhu yếu phẩm và bạo lực nhà nước. Các tổ chức nhân quyền cáo buộc chế độ Maduro giết người ngoài pháp luật, tra tấn và ám sát. Các quan sát viên quốc tế nghi ngờ kết quả bầu cử tổng thống năm 2024, cho rằng ứng viên đối lập Edmundo Gonzalez thực ra đã giành ưu thế rõ rệt.
(KAP 28-10-2025)
Đức Thánh cha Lêô XIV liên đới và kêu gọi cứu trợ các nạn nhân của cuồng phong Melissa thổi vào nước Jamaica và tiến tới Cuba.
Phúc Nhạc | RVA
Cuồng phong Melissa, với sức gió 240 km/giờ đã đổ bộ vào Jamaica với sức mạnh của một cơn bão cấp 5, là mức cao nhất, sau đó giảm xuống cấp 3, nhưng vẫn được coi là “siêu bão”. Theo Hội Chữ thập đỏ quốc tế, sự kiện này có thể ảnh hưởng tới 1,5 triệu người.
Theo chính quyền địa phương, hàng ngàn người đã được sơ tán khỏi các vùng ven biển. Dự kiến trong đêm, bão sẽ đổ bộ phần phía Đông Cuba, gần thành phố Santiago, rồi hướng tới quần đảo Bahamas. Tại cả Cuba và Bahamas, cảnh báo khẩn cấp đã được ban bố, kèm lệnh sơ tán bắt buộc tại các khu vực ven biển có nguy cơ cao.
Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng ngày 29 tháng Mười vừa qua, tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh cha nói:
“Trong những ngày này, bão “Melissa” - một cơn bão có sức tàn phá khủng khiếp - đã đổ bộ vào Jamaica, gây ra những trận lũ lụt dữ dội, và hiện nay với cùng sức mạnh hủy diệt ấy, đang quét qua đất nước Cuba. Hàng ngàn người đã phải sơ tán, trong khi nhà cửa, cơ sở hạ tầng và nhiều bệnh viện đã bị hư hại.
Tôi bày tỏ sự gần gũi và cảm thông sâu sắc, cầu nguyện cho những người đã mất, cho những ai đang phải chạy trốn, và cho các cộng đồng dân cư đang sống trong lo lắng và sợ hãi khi chờ đợi diễn biến tiếp theo của cơn bão.
Tôi khích lệ các nhà chức trách dân sự hãy làm mọi điều có thể, và xin gửi lời cảm ơn đến các cộng đoàn Kitô hữu cùng các tổ chức thiện nguyện vì những hoạt động cứu trợ mà họ đang thực hiện.”
(Sala Stampa 29-10-2025)
Đức cha Pierre Suon Hang Ly, 53 tuổi, tân Giám mục Phó hạt Đại diện Tông tòa Phnom Penh - vị giám mục người Campuchia đầu tiên kể từ thời Khmer Đỏ, cho biết Giáo hội Công giáo tại Campuchia đang bắt đầu bước đi bằng chính đôi chân của mình sau nhiều năm đen tối.
Phúc Nhạc | RVA
Trong một quốc gia Phật giáo từng là thuộc địa của Pháp, đạo Công giáo vẫn giữ một ảnh hưởng đáng kể. Việc phong chức cho Đức cha Hang Ly là dấu chỉ cho thấy Giáo hội đang thích nghi với văn hóa địa phương trong thế giới hiện đại.
Trong cuộc phỏng vấn mới đây danh cho hãng tin Công giáo Á châu UCANews, Đức cha Hang Ly nói:
“Đã đến lúc Giáo hội Công giáo tại Campuchia cần chủ động hơn, đứng lên như một phần của Giáo hội hoàn vũ - nhưng với bản sắc riêng của mình.”
Hiện nay, số người Công giáo tại Campuchia khoảng 75.000 người, chiếm chưa tới 2% dân số 17,5 triệu người. Phần lớn là người Khmer gốc Việt hoặc người Chăm thiểu số. Nhiều vị lãnh đạo trong hàng giáo sĩ vẫn là người nước ngoài, chủ yếu từ Hội Truyền giáo Paris (MEP).
Đức Cha cũng nói rằng: “Việc tôi được bổ nhiệm xác nhận rằng Giáo hội tại Campuchia đang dần học cách tự bước đi - từng bước một. Đôi khi có thể vấp ngã, nhưng rồi sẽ đứng dậy - với sự hướng dẫn của người cha, người mẹ.”
Campuchia là vương quốc Phật giáo chính thức, nhưng tôn trọng tự do tôn giáo. Gần đây, chính phủ còn tổ chức Hội chợ Du lịch Hồi giáo kéo dài ba ngày, kết thúc hôm 11 tháng Mười vừa qua.
Đức cha Hang Ly cho biết: “Việc tôi được bổ nhiệm cho thấy Giáo hội nhận ra đã đến lúc để Campuchia tự vươn cánh. Tôi nhớ lời Đức cố giám mục tiên khởi Joseph Chhmar Salas, người Khmer: “Hãy để thế giới biết đến chúng ta. Và giờ đây, qua việc tấn phong một giám mục người Khmer, thế giới bắt đầu nhận ra Giáo hội Công giáo tại Campuchia.”
Năm 1975, khi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ lên nắm quyền, nhiều người Công giáo đã chạy trốn khỏi đất nước. Đức cha Joseph Chhmar Salas, vị giám mục bản xứ đầu tiên, ở lại và chết vì đói trong trại tập trung năm 1977.
Hãng Ucan thuật lại lời của một giáo dân người nước ngoài nói rằng: “Các giáo dân mô tả Đức cha Hang Ly là “hiền lành và khiêm tốn”: Ngài là người chủ động đến hỏi thăm chúng tôi trước. Không giống các giám mục ngoại quốc thường xa cách và nặng tính giáo quyền, ngài rất gần gũi và chân thành”.
Đức cha Hang Ly ý thức rõ nhiệm vụ nặng nề phía trước, khi nói: “Giáo hội tại Campuchia vẫn còn rất non trẻ, vì đã chịu đau khổ nặng nề dưới thời Khmer Đỏ - gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Nhưng Thiên Chúa đã gìn giữ và cho Giáo hội hồi sinh từ năm 1990.” Sau khi Việt Nam lật đổ Khmer Đỏ năm 1978 và Liên Hiệp Quốc can thiệp năm 1991, Giáo hội mới bắt đầu phục hồi. Đức cha nói: “Ngày nay, Giáo hội Công giáo Campuchia chỉ mới hơn 35 năm tuổi và thiếu hụt nhân sự nghiêm trọng. Chức vụ mà tôi đang đảm nhiệm đã bị bỏ trống suốt 15 năm. Tất cả các giám mục, linh mục người Khmer thời đó đều đã hy sinh, cùng với nhiều tu sĩ, giáo lý viên và tín hữu. Vì thế, Giáo hội mất đi toàn bộ kinh nghiệm và truyền thống phụng vụ Khmer để đào tạo các thế hệ mới. Phải đến nay, Giáo hội mới đủ khả năng trao trách nhiệm lãnh đạo cho một giám mục bản địa.”
Hiện nay, Giáo hội Công giáo Campuchia có 15 linh mục người Khmer, gồm 13 linh mục triều và 2 linh mục dòng.
Đức cha Olivier Schmitthaeusler, thuộc Hội Thừa sai Paris, nhận định rằng:
“Việc phong chức Đức cha Hang Ly là dấu hiệu trưởng thành của Giáo hội địa phương, là thông điệp mạnh mẽ về việc bén rễ sâu hơn trong xã hội, văn hóa và đời sống người dân... “Giáo hội Công giáo cùng với dân tộc Khmer đã chịu đau khổ nặng nề trong thời kỳ Pol Pot - “Năm Zero” - khi mọi cơ cấu của Giáo hội bị phá hủy và các giám mục, tu sĩ, giáo dân đều bị giết.”
Vậy Giáo hội tại Campuchia sẽ đi về đâu trong thời đại mà nhiều nơi trên thế giới đang quay lưng với Kitô giáo? Đức cha Hang Ly trả lời: “Dẫn dắt người Phật tử đến với niềm tin đích thực nơi Đức Kitô là một thách đố lớn, vì họ gắn bó sâu sắc với truyền thống và phong tục tổ tiên.”
(Ucan News)
Vatican News
Ông Mitri – một tín hữu Chính thống Hy Lạp, thành viên Hội đồng Đại kết các Giáo hội – vừa được Đức Thánh Cha và Đức Hồng y Pietro Parolin tiếp kiến tại Vatican. Ông cho biết chính phủ Libăng đang hỗ trợ ngành tư pháp trong cuộc điều tra về nguyên nhân vụ nổ, dù tiến trình này “rất chậm và phức tạp”. Sau 5 năm, vẫn chưa xác định được liệu đây là hành động cố ý hay tai nạn do sơ suất, và “nếu là do cẩu thả, thì chính điều đó cũng là một tội lỗi”, ông nói.
Ông nhận định chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại trung tâm Beirut – nơi từng là chiến trường của các cuộc nội chiến – sẽ là “dấu chỉ hy vọng cho một dân tộc đã chịu quá nhiều đau thương”. Theo ông, người dân mong Đức Thánh Cha mang đến một lời bình an và khẳng định rằng Libăng vẫn là đất nước nơi đối thoại và chung sống là điều có thể, vì bất chấp bạo lực, những giá trị ấy chưa bao giờ biến mất.
Theo Phó thủ tướng Libăng, “sự chung sống tại Libăng mạnh mẽ hơn mọi xung đột”. Dù có khác biệt tôn giáo, người dân vẫn chia sẻ “những giá trị chung về sự sống, cái chết, tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa”. Chính điều đó, ông gọi là “đối thoại của cuộc sống”.
Ông cũng nhận định rằng giữa các tôn giáo không có vấn đề, nhưng có thể có bên lợi dụng tình cảm tôn giáo, thậm chí cả tư tưởng và giáo lý tôn giáo, để châm ngòi cho xung đột. Do đó, “tìm kiếm một giải pháp chính trị cho xung đột là chưa đủ”. Điều quan trọng là “loại bỏ sự can thiệp của tôn giáo vào xung đột chính trị và sử dụng tôn giáo như một nguồn lực cho hòa bình, thay vì làm trầm trọng thêm xung đột”.
Ông nhấn mạnh rằng hòa bình chỉ bền vững khi được xây dựng trên nền tảng công lý và sự thật. Theo ông, “Công lý và sự thật không thể tách rời, và chỉ trong sự tha thứ, ký ức mới được chữa lành”.
Vatican News
Đây là một sự kiện vui mừng đối với người dân Đông Timor bởi vì họ đặt nhiều kỳ vọng vào nó. Đặc biệt, giới trẻ Đông Timor nhìn thấy trong việc hội nhập này cánh cửa mở ra cho cơ hội việc làm và tương lai tốt đẹp hơn.
Cha Pereira chia sẻ với hãng tin Fides, “cả quốc gia đã chờ đợi thời khắc này suốt hơn hai mươi năm, và giờ đây ước mơ ấy đã thành hiện thực”. Việc trở thành thành viên ASEAN được xem là bước ngoặt tích cực, mở ra khả năng hợp tác, giao thương và phát triển kinh tế cho quốc gia trẻ này. Cha nhấn mạnh: “Nhưng người dân Đông Timor cũng ý thức rằng đây không chỉ là việc đón nhận, mà còn là cơ hội để trao tặng – trao tặng văn hóa, căn tính, tài nguyên, và cả đức tin, vốn là phần không thể tách rời trong đời sống chúng tôi”.
Nói về một thách đố lớn là vấn đề di cư của người trẻ vì nạn thất nghiệp, Cha Pereira nhận định cách tích cực khi nói rằng “điều này cũng có thể giúp nhiều bạn trẻ được học tập và làm việc tại các quốc gia trong khu vực, rồi mang kiến thức và kinh nghiệm trở về”. Cha cho rằng đây là cơ hội quý giá để nâng cao trình độ giáo dục đại học và đào tạo nghề tại Đông Timor.
Về phương diện đức tin, Cha Pereira nhấn mạnh: “Người trẻ Đông Timor, khi ra nước ngoài, luôn mang theo đức tin của mình. Họ không sợ làm chứng cho Tin Mừng. Trong các dịp lễ, dù ở đâu, họ cũng tổ chức Thánh lễ để tạ ơn Chúa”. Đức tin – vốn gắn chặt với bản sắc văn hóa – trở thành chứng tá nơi những quốc gia mà người Công giáo là thiểu số. Hội đồng Giám mục cũng thường xuyên gửi các linh mục đến phục vụ cộng đoàn di dân Đông Timor tại châu Âu, Úc và Hàn Quốc.
Với dân số khoảng 1,3 triệu người, đa số là Công giáo, Đông Timor trở thành thành viên thứ 11 của ASEAN sau hội nghị thượng đỉnh tại Kuala Lumpur ngày 26/10. Việc gia nhập giúp quốc gia nhỏ bé này tiếp cận thị trường chung gồm 680 triệu dân – một bước tiến mang ý nghĩa cả về kinh tế lẫn sứ mạng đức tin.
Vatican News
Chính quyền tổng thống Trump cho biết các khoản trợ cấp theo Chương trình Hỗ trợ Dinh dưỡng Bổ sung sẽ không được cấp bắt đầu từ ngày 1/11/2025 nếu tình trạng đóng cửa chính phủ liên bang vẫn còn hiệu lực.
Hiện có khoảng 42 triệu người Mỹ phụ thuộc vào chương trình này để có đủ lương thực hằng ngày. Dữ liệu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cho thấy trong năm tài khóa 2023, 79% hộ nhận trợ cấp có ít nhất một trẻ em, người cao tuổi hoặc người khuyết tật.
Đức Tổng Giám mục Broglio lo ngại “Điều này sẽ là thảm họa cho các gia đình và cá nhân phụ thuộc vào chương trình để có cái ăn mỗi ngày và gánh nặng của việc chính phủ đóng cửa lại đè nặng nhất trên vai người nghèo và người dễ bị tổn thương – những người vốn ít có khả năng tự vượt qua”.
Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ xác nhận trên trang web rằng “nguồn quỹ đã cạn kiệt” và “sẽ không có khoản trợ cấp nào được cấp vào ngày 1/11”. Bộ trưởng Nông nghiệp Brooke Rollins cho biết bộ “không có đủ 9,2 tỷ USD cần thiết để duy trì chương trình”.
Tình trạng bế tắc khiến hai đảng Dân chủ và Cộng hòa tiếp tục đổ lỗi cho nhau.
Đức Tổng Giám mục Broglio kêu gọi Quốc hội và chính quyền “hợp tác lưỡng đảng” nhằm khôi phục nguồn tài trợ cho các chương trình thiết yếu, đồng thời thông qua dự luật ngân sách “để chấm dứt việc chính phủ đóng cửa trong thời gian sớm nhất”.
Vatican News
Đức Tổng Giám mục Anthony Fisher của Sydney gọi đây là “một cụm từ tóm gọn toàn bộ lịch sử Kitô giáo”, diễn tả không chỉ cuộc Thương khó, cái chết và Phục sinh của Chúa Kitô, mà còn là lời mời gọi các tín hữu noi theo cùng khuôn mẫu tình yêu ấy – tình yêu tự hiến. “Những lời này,” ngài nói, “mời gọi chúng ta sống cùng một tinh thần trao ban mà Đức Kitô đã sống và đã ban cho chúng ta như thước đo của đời môn đệ”.
Theo Đức Tổng Giám mục Fisher, ý nghĩa của chủ đề vượt xa phạm vi phụng vụ: nó mang chiều kích mục vụ và xã hội, mời gọi Giáo hội khám phá lại Thánh Thể như sức mạnh đổi mới đời sống Kitô hữu. “Sự phong phú của chủ đề này,” ngài nhận định, “sẽ mở ra nhiều cơ hội giáo lý và canh tân sự dấn thân đối với ơn gọi linh mục, đời thánh hiến, hôn nhân thánh thiện, cũng như tinh thần phục vụ người nghèo và người dễ bị tổn thương”.
Cha Corrado Maggioni, Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về các Đại hội Thánh Thể Quốc tế, xác nhận Đức Thánh Cha đích thân chọn câu này để làm nổi bật “hy tế thực sự và hữu hình của Đức Kitô – một hy tế hoàn toàn vì tình yêu”. Đây không phải là thần học trừu tượng. Ngài giải thích: “Hy tế được thúc đẩy bởi tình yêu là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Khi nghe ‘Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con’, chúng ta không thể lãnh nhận Mình Thánh Chúa mà vẫn không biến đổi”.
Đức cha phụ tá của Sydney, Richard Umbers, Chủ tịch Ủy ban tổ chức địa phương, nói cách giản dị: “Thánh Thể không phải là điều chúng ta làm cho Thiên Chúa, mà là điều Đức Kitô thực hiện cho chúng ta. Đó là lý do tại sao chủ đề này hướng đến bản chất của đức tin Công giáo”.
Các công tác chuẩn bị đã khởi động trên khắp các giáo phận Úc. Đại hội dự kiến quy tụ hàng chục ngàn tín hữu từ khắp thế giới, với các buổi cử hành phụng vụ, giáo lý, sinh hoạt văn hóa và chứng từ công khai về mầu nhiệm Thánh Thể.
Từ Đại hội đầu tiên tại Lille (Pháp) năm 1881 đến nay, các kỳ Đại hội Thánh Thể đã trở thành những dấu chỉ sống động của Giáo hội hoàn vũ. Trong thế giới ngày nay đầy chia rẽ và khát khao ý nghĩa, lời Chúa Giêsu vẫn vang lên: “Đây là mình Thầy, hiến dâng vì anh em”. Đó chính là thước đo của tình yêu – và là con đường mà Giáo hội được mời gọi tiếp tục bước đi.
