Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha kêu gọi vun trồng hòa hợp giữa các tôn giáo, chủng tộc, văn hóa
Đức Thánh cha Phanxicô tái kêu gọi hỗ trợ việc vun trồng sự hòa hợp giữa các tôn giáo, chủng tộc và các nền văn hóa.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Ngài đưa ra lời mời gọi này, trong buổi Tiếp kiến sáng ngày 04 tháng Tư vừa qua, dành cho các tham dự viên cuộc Hội thảo đầu tiên giữa Hội đồng Tòa Thánh Đối thoại liên tôn và Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo truyền thống và thế giới.
Trong phái đoàn của Hội nghị này đến từ Cộng hòa Kazakhstan, ngoài các vị lãnh đạo tôn giáo còn có đại diện Thượng viện nước này cũng như Trung tâm Nursultan Nazarbayev đối thoại liên tôn và giữa các nền văn hóa. Đức Thánh cha đã đến phát biểu tại Hội nghị này, trong cuộc viếng thăm hồi tháng Chín năm 2022, tại Kazakhstan.
Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, Đức Thánh cha đã nhắc lại cuộc gặp gỡ lịch sử đó và ca ngợi tinh thần và sáng kiến của Kazakhstan trong lãnh vực này, và ngài gọi “đó là một sáng kiến đầy huân công, rất đáp ứng ơn gọi của quốc gia này, là một “nước gặp gỡ”. Đức Thánh cha đặc biệt nêu bật ba khía cạnh nổi bật của Kazachstan trong việc vun trồng sự hòa hợp giữa các tôn giáo, chủng tộc và văn hóa: đó là tôn trọng những khác biệt, dấn thân cho “căn nhà chung” và sau cùng là thăng tiến hòa bình.
Về khía cạnh thứ nhất, tôn trọng những khác biệt, là yếu tố không thể loại bỏ trong nền dân chủ, cần phải được liên tục thăng tiến, góp phần rất nhiều vào việc kiến tạo hòa hợp, xét vì nhà nước là “đời, trung lập về tôn giáo, một đặc tính đời lành mạnh, không trộn lẫn tôn giáo và chính trị, nhưng phân biệt giữa hai bên để mưu thiện ích cho cả hai, đồng thời nhìn nhận các tôn giáo có vai trò thiết yếu trong xã hội, phục vụ công ích. “Ngoài ra, hòa bình và hòa hợp xã hội được nâng đỡ, tại Kazachstan, nhờ sự đối xử bình đẳng giữa các chủng tộc, tôn giáo và văn hóa về công ăn việc làm, tôn giáo và văn hóa, các chức vụ công quyền và tham gia đời sống chính trị và xã hội của đất nước, để không một ai cảm thấy bị kỳ thị hoặc được ưu đãi vì thuộc về một tôn giáo, chủng tộc và văn hóa nào”.
Khía cạnh thứ hai là bảo tồn thiên nhiên, căn nhà chung của chúng ta. “Sự tôn trọng thiên nhiên là hệ luận không thể từ bỏ được của lòng yêu mến Đấng Tạo Hóa, đối với anh chị em mà chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống trên trái đất, và đặc biệt la đối với các thế hệ tương lai”.
Sau cùng, chiều kích thứ ba là thăng tiến hòa bình. Đức Thánh cha nói: “Ngày nay, có quá nhiều người nói về chiến tranh: những lời hùng biện gây chiến rất tiếc đã trở nên thời thượng. Và trong khi những lời oán ghét được phổ biến, con người chết trong sự tàn bạo của các cuộc xung đột. Trái lại, chúng ta cần nói về hòa bình, mơ ước hòa bình, mang lại những sáng tạo và cụ thể cho những mong đợi về hòa bình, là mong ước đích thực của dân tộc và con người”.
Từ đó, Đức Thánh cha kết luận rằng: “Ước gì cuộc gặp gỡ của anh chị em ở đây, trong sự tôn trọng những khác biệt và với ý hướng làm cho nhau thêm phong phú trở thành một gương mẫu về sự không coi tha nhân như một đe dọa, nhưng như một món quà và là người đối thoại quý giá để cùng nhau tăng trưởng”.
(Sala Stampa 4-4-2024)
Theo tác giả sách Người kế vị, các triều giáo hoàng Đức Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô bổ sung cho nhau
cath.ch, imd, 2024-04-02
“Tôi đề nghị với Đức Phanxicô thực hiện cuộc phỏng vấn này vì tôi có cảm giác ký ức về Đức Bênêđíctô XVI đang bị một mảng trong Giáo hội ‘cầm giữ’”. Đức Phanxicô nhìn lại mối quan hệ của ngài với Đức Bênêđíctô XVI, ngài bày tỏ lòng tôn kính chiều sâu thần học và lòng trung tín của Đức Bênêđictô XVI.
Phóng viên Javier Martìnez-Brocal của nhật báo Tây Ban Nha ABC tại Rôma đã gặp Đức Phanxicô nhiều lần trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2023 đến tháng 1 năm 2024. Ngài tâm sự về mối liên hệ của ngài với Đức Bênêđictô XVI – “người anh em”, “thần đồng thần học”. Trong cuộc phỏng vấn với hãng tin I.Media, tác giả đưa ra nhận thức của ông về tính liên tục lịch sử giữa hai giáo hoàng.
Quyển sách này có phải là câu trả lời cho bầu khí chia rẽ đang đánh dấu trên đời sống của Giáo hội ngày nay không?
Javier Martìnez-Brocal: Đó thực sự là ý định của tôi. Tôi đề nghị với Đức Phanxicô thực hiện cuộc phỏng vấn này vì tôi có cảm giác ký ức về Đức Bênêđíctô XVI đang bị một mảng trong Giáo hội ‘cầm giữ’. Một số người nghĩ rằng nếu chúng ta thích Đức Bênêđíctô XVI thì có nghĩa chúng ta không Đức Phanxicô và ngược lại. Với tôi, đây là kiểu rút gọn không cần thiết. Vì thế, ý tưởng của quyển sách là để nhắc, mọi giáo hoàng đều là người kế vị Thánh Phêrô, vì thế giáo hoàng là của tất cả mọi người. Cả Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô không làm giáo hoàng để tìm lợi ích cá nhân cho mình!
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Phanxicô nói những chi tiết đáng ngạc nhiên về cuối đời của Đức Bênêđictô XVI, đặc biệt ngài bị thư ký và các bác sĩ bảo vệ quá mức… Khi trực tiếp nói như vậy, có phải ngài đang ngầm nói đến chính ngài, việc ngài dứt khoát không muốn bị nghi thức “giam hãm” cả khi cuối đời không?
Ngài làm mọi thứ để ngăn điều này xảy ra. Khi tôi hỏi liệu ngài có để lại hướng dẫn không, chẳng hạn đốt các tài liệu cá nhân, ngài nói không, ngài sẽ tự lo việc này! Ngài không muốn một ai đưa ra quyết định nhân danh ngài, điều này rất rõ ràng kể từ đầu triều của ngài. Với ngài, được bảo vệ có nghĩa là bị giam hãm. Đó cũng là lý do vì sao ngài không muốn có phát ngôn viên, không có người phụ trách giao tiếp. Ngài thích liên lạc trực tiếp với các nhà báo.
Có phải các nghi thức theo sau cái chết của Đức Bênêđíctô XVI, đặc biệt là việc quàn ở Đền thờ Thánh Phêrô, đánh dấu kết thúc của một hình thức biểu tượng nào đó của chức giáo hoàng, với sự trang trọng mà ngài muốn tránh không?
Đức Phanxicô thực sự muốn dỡ bỏ mọi thứ liên quan đến logic của chế độ quân chủ, của Triều đình… Ngài không muốn quàn thi thể, ngài muốn chôn cất như một tín hữu bình thường, như người kế vị Thánh Phêrô, người được chôn cất đơn giản. Ngài muốn quay về một hình thức đơn giản nào đó, bảo đảm hình ảnh giáo hoàng được công nhận về phẩm chất thiêng liêng, không thái quá. Ngài cũng tìm cách trao nhiều tự do hơn cho các giáo hoàng kế vị: cố gắng lâu dài để bảo vệ tự do của mình cũng nhằm mục đích mang lại nhiều tự do hơn cho những người sau ngài.
Khi Jorge Bergoglio được bầu, Giáo hội bị sốc vì Đức Bênêđictô XVI từ nhiệm. Thông điệp ngài muốn truyền đi, đó là các giáo hoàng thực sự có thể từ nhiệm, họ không nên bị hoàn cảnh ép buộc phải từ nhiệm. Đức Bênêđictô XVI không còn khả năng cai trị vì những người bảo vệ ngài quá nhiều. Rất khiêm tốn, ngài không muốn gây khó khăn cho ai, muốn tuân theo mọi tiêu chuẩn, nhưng rốt cuộc lại làm cho ngài không thể thực hiện hết chức năng của mình.
Bài giảng ngắn gọn của Đức Phanxicô trong tang lễ của Đức Bênêđictô XVI làm mọi người ngạc nhiên… Ngài giải thích điều này như thế nào?
Mới đầu, bài giảng của ngài có vẻ lạnh lùng, như các bài giảng trong một số lễ phong thánh, đặc biệt là lễ phong thánh của Đức Gioan XXIII và Đức Gioan-Phaolô II. Nhưng ngài cho rằng các bài giảng phải tập trung vào các văn bản phụng vụ, không tán dương, khen ngợi những người đi trước. Về tang lễ của Đức Bênêđictô XVI, ngài chỉ muốn cho thấy, làm thế nào người tín hữu kitô này có thể giúp các kitô hữu khác sống đức tin của họ.
Tôi nghĩ sẽ sai lầm nếu cho đây như một khoảng cách. Ngược lại, Đức Phanxicô nghĩ ngài đang nói chuyện với tín hữu kitô trưởng thành, những người không cần thiết phải nhắc Đức Bênêđictô XVI là ai, vì ai cũng biết! Ngài muốn hướng sự chú ý đến Chúa Giêsu, dựa vào các đoạn trích trong các bài viết của Joseph Ratzinger.
Đức Phanxicô tiết lộ những chi tiết quan trọng về mật nghị năm 2005. Cuối cùng hồng y Bergoglio trực tiếp ủng hộ việc bầu hồng y Ratzinger?
Trên máy bay từ Brazil về Rôma năm 2013, Đức Phanxicô nói ngài rất vui với việc bầu chọn hồng y Ratzinger năm 2005, nhưng ngài chưa bao giờ nói ngài bỏ phiếu cho hồng y Ratzinger. Khi nói trong cuộc phỏng vấn “tôi đã bầu cho ngài”, ngài đã tiến một bước. Điều này giúp chúng ta hiểu, ngài đã nắm trong tay tương lai của Giáo hội công giáo. Nếu ngài đồng ý trả lời một cách thuận lợi trước những thủ đoạn của những người muốn biến ngài thành ‘người có khả năng làm giáo hoàng’ chống lại Ratzinger, thì sẽ không có triều giáo hoàng của Bênêđíctô XVI, không có từ nhiệm, không có giáo hoàng Phanxicô, sau tất cả những chuyện này…
Trên thực tế, triều giáo hoàng của ngài có liên quan đến sự từ nhiệm của người tiền nhiệm.
“Hồng y Bergoglio xem hồng y Ratzinger là người trung thực nhất trong Giáo triều Rôma và đánh giá cao việc được gặp ngài ở bộ Giáo lý Đức tin”.
Hồng y Bergoglio hiểu ngài đang bị một nhóm lợi dụng và ngài không vào trong trò chơi này, ngài rất nhạy cảm với vấn đề hiệp nhất và sẽ là điều nhục nhã nếu ngài trở thành công cụ gây chia rẽ. Thái độ của ngài đã quyết định phần còn lại của lịch sử Giáo hội. Nếu ngài không ủng hộ, hồng y Ratzinger sẽ rút lui, và một hồng y người Ý chưa có tên trong các cuộc bỏ phiếu có lẽ đã được bầu.
Mối quan hệ của hai vị trong triều của Đức Bênêđíctô XVI là gì?
Trước năm 2005, hồng y Bergoglio xem hồng y Ratzinger là người trung thực nhất trong Giáo triều Rôma và rất vui được gặp ngài tại bộ Giáo lý Đức tin. Sau đó, hồng y Bergoglio biết ơn Đức Bênêđíctô XVI vì đã không chấp nhận đơn từ chức của ngài năm 2011, sau sinh nhật 75 (tất cả các giám mục được yêu cầu từ chức khi đến tuổi 75, vì thế Jorge Bergoglio vẫn là tổng giám mục Buenos Aires năm 2013). Ngài xem quyết định này là dấu hiệu của sự tin tưởng, trong khi một phần Giáo triều đã chống ngài.
Vài năm trước đó, ngài cũng đi ngược lại lời khuyên của Giáo triều và Quốc vụ khanh để Đức Bênêđictô XVI đích thân tham gia cuộc họp Aparecida của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh, đây là một cử chỉ mạnh mẽ. Tuy nhiên, Đức Bênêđictô XVI đã không ký vào tài liệu cuối cùng, bị cho là do Rôma dè dặt trong việc thúc đẩy các cộng đồng giáo hội địa phương.
Đức Bênêđíctô XVI thường nhấn mạnh đến chủ đề “giải thích tính liên tục” giữa các giáo hoàng, trước và sau Công đồng. Đức Phanxicô giải thích chủ đề này như thế nào?
Tôi đặt tựa quyển sách này là Người Kế Vị, nghĩ rằng Đức Phanxicô là người kế vị Đức Bênêđíctô XVI, nhưng sau đó tôi nhận ra, trên hết ngài là người kế vị Thánh Phêrô. Vai trò của giáo hoàng là truyền sứ điệp Chúa Giêsu trao cho Thánh Phêrô gần 2000 năm trước vào bối cảnh thế giới ngày nay. Tình cờ tôi tìm được một bài giáo lý rất hay của Đức Gioan Phaolô II về sứ vụ Phêrô, ngài giải thích chìa khóa của Thánh Phêrô được dùng “để mở chứ không phải để đóng”. Tôi giới thiệu bài này cho Đức Phanxicô, ngài thực sự đánh giá cao hình ảnh này.
“Yếu tố nổi bật nhất của sự gián đoạn đã xảy ra… chính Đức Bênêđíctô XVI là người đã mang đến qua việc ngài từ nhiệm.”
Tôi nghĩ sứ vụ của giáo hoàng là giúp nhân loại gặp Thiên Chúa, nhờ đó tạo nên một ranh giới liên tục, nhưng các phương pháp nhất thiết phải khác nhau tùy theo thời điểm. Ngay cả khi ở trong thời kỳ đương đại, rõ ràng Đức Phanxicô không thể hành động theo phong cách của Đức Phaolô VI chẳng hạn. Thế giới đã thay đổi. Và yếu tố nổi bật nhất của sự gián đoạn đã đến… chính Đức Bênêđíctô XVI đã mang đến qua việc ngài từ nhiệm, vì ngài cho rằng kế hoạch về ngôi vị giáo hoàng trọn đời không còn phù hợp nữa.
Quyển sách cho chúng ta hiểu chiều sâu thần học và triết học của Đức Phanxicô, nguồn cảm hứng của ngài, kể cả trong văn hóa Đức. Có thể nói thần học gia và triết gia Romano Guardini (1885-1968), thường được Joseph Ratzinger trích dẫn và là người mà Jorge Mario Bergoglio viết luận văn, đã là cầu nối trí tuệ giữa Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô không?
Đây là điểm cần đưa vào quan điểm vì tôi chưa tìm thấy một bài can thiệp hay bài viết nào của Joseph Ratzinger về chủ đề chính xác của luận án Jorge Mario Bergoglio làm ở Đức về Gegensatz, khái niệm vượt lên của ‘sự phân cực’ trong tư tưởng của Romano Guardini. Nhưng cả hai đều đánh giá cao tác giả này. Có một gốc rễ trí tuệ chung ở đó.
Tôi nghĩ trong những năm 1980, Cha Bergoglio đã nghiên cứu tư tưởng của Romano Guardini sau khi bản thân bị đau khổ vì những chia rẽ nội bộ của Dòng Tên ở Argentina. Ngài tìm thấy trong mình một tư tưởng mạch lạc về những đối “cực”, để lập luận ý tưởng, chúng ta có thể có những suy nghĩ khác nhau nhưng không chống đối nhau. Suy tư này giúp suy nghĩ về triều của Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô theo khía cạnh bổ sung chứ không đối lập, và điều này giúp chúng ta tìm các chuẩn mực trong một thế giới ngày càng bị phân mảnh và phân cực.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Thượng Phụ Constantinople thúc đẩy các Giáo hội Kitô cử hành lễ Phục Sinh chung một ngày
Hồng Thủy - Vatican News
Trong bài giảng Đức Thượng Phụ Bartolomeo đã gửi lời chúc mừng Phục Sinh đến các Kitô hữu không thuộc Chính Thống giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ và đến tất cả Kitô hữu trên thế giới cử hành Phục Sinh vào ngày 31/3/2024.
Ngài viết trong thông điệp: “Vào ngày này, thông điệp vượt thời gian về Sự Phục Sinh vang vọng sâu sắc hơn bao giờ hết, khi anh chị em Kitô hữu không Chính thống của chúng ta kỷ niệm sự phục sinh của Chúa chúng ta từ cõi chết, mừng lễ Phục Sinh”. Đức Thượng phụ nói thêm: “Chúng tôi xin gửi lời chào yêu thương đến tất cả các Kitô hữu trên thế giới cử hành Lễ Phục Sinh hôm nay”.
Thật là một điều tai tiếng nếu cử hành riêng biệt Sự Phục Sinh của một Chúa duy nhất
Và Đức Thượng phụ của Constantinople mời gọi các Kitô hữu: “Chúng ta nài xin Chúa Vinh Quang để lễ Phục sinh vào năm tới sẽ không chỉ là một sự kiện ngẫu nhiên mà còn là khởi đầu cho một ngày thống nhất cử hành lễ Phục Sinh trong cả Kitô giáo Đông phương và Tây phương”.
Đến nay, các Giáo hội Kitô Đông phương và Giáo hội Kitô Tây phương cử hành lễ Phục Sinh vào hai ngày khác nhau. Năm nay (2024), các Giáo hội Kitô Tây phương cử hành lễ Phục Sinh vào Chúa Nhật 31/3 vừa qua, còn các Giáo hội Kitô Đông phương sẽ cử hành vào ngày 5/5. Nhưng vào năm 2025, lễ Phục Sinh của cả các Giáo hội Kitô Đông phương và Giáo hội Kitô Tây phương sẽ vào cùng ngày 20/4.
Đức Thượng phụ Bartolomeo nói thêm: “Khát vọng này đặc biệt có ý nghĩa trong dịp kỷ niệm 1700 năm sắp tới, vào năm 2025, đánh dấu việc triệu tập Công đồng Đại kết đầu tiên ở Nixêa. Trong số các cuộc thảo luận quan trọng có vấn đề thiết lập khung thời gian chung cho lễ Phục sinh. Chúng tôi lạc quan vì cả hai bên đều có thiện chí và sự sẵn lòng. Bởi vì, quả thực, thật là một điều tai tiếng nếu cử hành riêng biệt biến cố duy nhất về Sự Phục Sinh duy nhất của một Chúa duy nhất!”. (SIR 02/04/2024)
ĐHY Tagle: Cha mẹ đỡ đầu là mẫu mực đức tin, không phải người cho quà
Hồng Thủy - Vatican News
Theo Đức Hồng Y đứng đầu Phân bộ phụ trách về loan báo Tin Mừng lần đầu và các giáo phận mới của Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc, cha mẹ đỡ đầu nên giàu có về đời sống thiêng liêng và tình trạng tài chính của họ không quan trọng.
Ngài lưu ý: “Thật không may, một số người chọn cha mẹ đỡ đầu là những người tham nhũng và tham lam”. “Hãy nhớ rằng vai trò của cha và mẹ đỡ đầu không phải là tặng quà. Họ phải là những mẫu mực của đời sống Kitô hữu”.
Đức Hồng y Tagle nhấn mạnh rằng ý nghĩa của Bí tích Rửa tội là “chết đối với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa”. Ngài nói: “Xin hãy tôn trọng cái chết của Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá và Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết để mang đến cho chúng ta sự sống mới”.
Đức Hồng y cũng kêu gọi các tín hữu “đừng lãng phí” món quà Phục sinh, bằng cách chia sẻ ân sủng của Bí tích Rửa tội với toàn thế giới. “Hãy truyền lại ân sủng của Bí tích Rửa tội này cho con cháu của anh chị em, cho bạn bè của anh chị em. Chúng ta đừng lãng phí món quà Phục sinh này”. (LiCAS 02/04/2024)
Tiếng Kannada là ngôn ngữ thứ 53 có mặt tại Vatican News
Vatican News
Về sự kiện này, Đức Tổng Giám mục Bangalore, Peter Machado nhận xét: “Tôi rất vui vì sự ra mắt của trang thông tin Vatican News bằng tiếng Kannada. Tin tức về Đức Giáo hoàng, Vatican, Giáo hội hoàn vũ và thế giới sẽ rất được Giáo hội địa phương Kamataka quan tâm. Tôi cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô, vì ngài đã tiếp tục nhấn mạnh đến tính hiệp hành và đưa Giáo hội đến các vùng ngoại vi. Các tín hữu chắc chắn sẽ được giúp ích từ việc đọc những bài viết này, và khi có thể ở giai đoạn sau, cũng được truyền tải của audio và video. Tôi chắc chắn rằng Trung tâm Truyền thông của Tổng Giáo phận Bangalore của chúng tôi sẽ đưa Giáo hội hoàn vũ đến gần hơn với người dân”.
Ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Bộ Truyền thông Tòa thánh nói: “Một ngôn ngữ mới được thêm vào những ngôn ngữ được Vatican News sử dụng. Cộng đoàn Công giáo đã giúp đỡ chúng tôi trong công việc nhỏ bé ý nghĩa này: nói ngôn ngữ của 35 triệu người Ấn Độ. Một hành động vinh danh nền văn hóa của họ. Đây là một việc phục vụ và hiệp hành đích thực”.
Ông Andrea Tornielli, giám đốc biên tập của Vatican News cho biết: “Việc lựa chọn bổ sung thêm ngôn ngữ Kannada vào 52 ngôn ngữ đã có trên Radio Vatican - Vatican News, nhằm đưa những lời của Đức Thánh Cha bằng tiếng mẹ đẻ của hàng triệu người Ấn Độ, khẳng định ơn gọi của chúng tôi là phục vụ Giám mục Rôma và Giáo hội hoàn vũ. Trong một thời đại với những khó khăn và bất ổn, chiến tranh và bạo lực, thật an ủi khi Giáo hội nhìn thấy sự hiệp thông và chia sẻ, củng cố mối liên hệ giữa Rôma và thế giới”.
Ông Massimiliano Menichetti, người điều phối Radio Vatican - Vatican News nói: “Hơi thở của Giáo hội thật tuyệt vời. 93 năm trước Đức Giáo Hoàng Piô XI đã giao cho Guglielmo Marconi xây dựng Đài phát thanh Vatican để mang hy vọng đến cho thế giới, loan truyền sứ điệp Kitô giáo, và xây dựng Giáo hội của Đức Kitô. Vào những năm 80, sóng Radio Vatican của Giáo hoàng đã đến Việt Nam, một Giáo hội sống động mới. Ngày nay các công nghệ mới (sóng, vệ tinh, internet) mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội để mang Tin Mừng đến cho một thế giới thường xuyên bị tổn thương. Ngôn ngữ Kannada là một ví dụ khác về sức sống và tình huynh đệ. Và hy vọng của chúng tôi là tiếp tục dệt nên những con đường này trong tinh thần trách nhiệm và hiệp nhất”.
Đức Thánh cha tái kêu gọi ngưng chiến tại Gaza
Đức Thánh cha Phanxicô tái kêu gọi ngưng chiến tức khắc tại Gaza và bày tỏ đau buồn vì vụ bảy nhân viên thiện nguyện quốc tế bị Israel sát hại bằng máy bay không người lái, hôm mùng 02 tháng Tư vừa rồi.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Lên tiếng vào cuối buổi Tiếp kiến chung, sáng mùng 03 tháng Tư vừa qua, Đức Thánh cha nói:
“Rất tiếc những tin buồn từ Trung Đông tiếp tục được gửi tới. Tôi lập lại lời kêu gọi kiên quyết hãy ngưng chiến tức khắc tại Gaza. Tôi bày tỏ sự cay đắng sâu đậm vì những người thiện nguyện bị giết, trong khi họ dấn thân trao tặng phẩm vật cứu trợ tại Gaza. Tôi cầu nguyện cho họ và gia đình họ. Tôi tái kêu gọi hãy để cho các thường dân, bị kiệt quệ và đau khổ, được nhận viện trợ nhân đạo và kêu gọi trả tự do ngay cho các con tin. Hãy tránh mọi toan tính vô trách nhiệm nới rộng cuộc xung đột trong vùng và hãy nỗ lực để sớm có thể chấm dứt cuộc xung đột này và các cuộc chiến tranh khác, đang tiếp tục gây chết chóc và đau khổ tại bao nhiêu miền trên thế giới. Chúng ta hãy cầu nguyện và hoạt động không biết mệt mỏi để võ khí im tiếng và hòa bình tái hiển trị.
“Và chúng ta đừng quên Ucraina đau thương, bao nhiêu người chết! Tôi đang cầm trong tay đây một xâu chuỗi Mân côi và một cuốn Tân ước do một binh sĩ chết trên chiến trường để lại. Binh sĩ ấy tên là Oleksandr, Alessandro, 23 tuổi. Anh đọc Tân ước hằng ngày, và đã nhấn mạnh thánh vịnh thứ 129 trong sách các thánh vịnh: “Từ vực thẳm con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin lắng nghe tiếng con”.
Thanh niên 23 tuổi này đã chết ở Avdiivka, trong chiến trận. Anh đã rời bỏ cuộc sống trước mặt. Đây là chuỗi Mân côi của anh và sách Tân ước, mà anh đã đọc và cầu nguyện. Tôi muốn giữ một lúc thinh lặng trong lúc này, tất cả, chúng ta hãy nghĩ đến thanh niên này và bao nhiêu người khác giống như anh. Chiến tranh luôn tàn phá! Chúng ta hãy nghĩ đến họ và cầu nguyện”.
Vụ bảy người thiện nguyện thuộc các quốc tịch khác nhau, trong đó có ba người Mỹ, phần còn lại người Anh, Úc, Ba Lan, Canada bị sát hại do máy bay không người lái của Israel bắn ba quả rocket, trong lúc họ chuyên chở các đồ cứu trợ để trao tặng cho những người cần cứu trợ. Vụ này gây xúc động lớn trong dư luận các nước tây phương. Thủ tướng Netanyahu nhìn nhận đó là sai lầm đáng tiếc. Tổng thống Mỹ Biden phẫn nộ và yêu cần điều tra tức khắc. Bảy người thiện nguyện thuộc tổ chức từ thiện “World Central Kitchen” (WCK), chuyên chở bằng tàu hàng ngàn tấn thực phẩm đến phân phát cho dân chúng ở Gaza. Sau vụ tấn công này, tổ chức từ thiện đã rút khỏi vùng Gaza.
(Rei 3-4-2024)
Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Không có đức công bằng thì cũng chẳng có hòa bình
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trước 9 giờ, Đức Thánh cha đã tiến ra Quảng trường, đi xe mui trần qua các lối đi để chào thăm mọi người, trước khi mở đầu buổi tiếp kiến với phần lắng nghe Lời Chúa, qua một đoạn trích từ sách Châm Ngôn (21,3.7.21):
“Thực thi điều công minh chính trực thì đẹp lòng Chúa hơn là dâng hy lễ. Bạo hành của kẻ ác sẽ cuốn phăng kẻ ác, vì chúng không chịu thực thi công bằng. Người theo đuổi công chính và nhân nghĩa, sẽ được sống lâu và vinh dự”.
Trong bài giáo lý tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục loạt bài về các nết xấu và các nhân đức. Bài thứ mười bốn này có tựa đề là: Đức công bằng.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Đức công bằng là gì?
Nhân đức thứ hai trong các nhân đức trụ là đức công bằng. Đó là một nhân đức xã hội tuyệt hảo. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo định nghĩa nhân đức này: là “một nhân đức luân lý hệ tại ý chí liên lỉ và kiên quyết trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân điều thuộc về họ” (n.1807). Thông thường, khi nói đến đức công bằng, người ta cũng trưng dẫn khẩu hiệu: “unicuique suum”, trả cho mỗi người điều thuộc về họ”. Đó là nhân đức thuộc về luật, nhắm điều hành một cách công chính những tương quan giữa con người với nhau.
Nhân đức này được tượng trưng bằng cán cân, vì nhắm “quân bình điểm số giữa con người, nhất là khi những điểm ấy có nguy cơ bị bóp méo vì sự mất quân bình nào đó. Mục đích của nhân đức này là trong xã hội, mỗi người được đối xử theo phẩm giá của họ. Nhưng các bậc tôn sư xưa kia đã dạy rằng để đạt tới điều đó, cũng cần những lối cư xử đạo đức khác, như lòng từ nhân, tôn trọng, biết ơn, dễ mến, lương thiện: đó là những đức tính góp phần để con người có thể sống chung tốt đẹp với nhau.
Tầm quan trọng của đức công bằng
Tất cả đều hiểu rằng đức công bằng là điều rất quan trọng đối với sự sống chung hòa bình trong xã hội: một thế giới không có luật lệ sẽ là một thế giới không thể sống trong đó, nó giống như một khu rừng hoang vu. Không có công bằng, thì cũng chẳng có hòa bình. Thực vậy, nếu công bằng không được tôn trọng, thì người ta chấp nhận sự đồi bại kẻ mạnh đè nén kẻ yếu.
Đặc tính của công bằng
Nhưng công bằng là một nhân đức hành động trong những việc lớn cũng như việc nhỏ: nó không chỉ liên hệ tới các tòa án, nhưng cả luân lý đạo đức nổi bật trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Nó ấn định những tương quan chân thành: thực hiện giới luật Tin mừng, theo đó Kitô hữu phải là người: “có thì nói có, không thì nói không, phần thêm vào là từ ma quỷ” (Mt 5,37). Chân lý nửa vời, những lời nói lắt léo muốn lường gạt người khác, chúng không phải là những thái độ phù hợp với công bằng. Người công bằng thì ngay chính, đơn giản và thẳng thắn, không đeo mặt nạ, trình diện như thực chất của mình, luôn nói thật. Trên môi miệng, họ có lời “cám ơn” vì ý thức rằng dù chúng ta có cố gắng quảng đại đến đâu đi nữa, chúng ta vẫn mắc nợ đối với tha nhân. Nếu chúng ta yêu thương, đó cũng vì chúng ta được yêu mến trước.
Những mô tả về công bằng
Trong truyền thống, ta có thể tìm thấy rất nhiều mô tả về con người công bằng. Chúng ta hãy xem vài ví dụ. Người công bằng tôn trọng luật pháp và tuân giữ nó, biết rằng chúng là một hàng rào bảo vệ những người yếu thế khỏi những đè nén của những kẻ cường quyền. Người công bằng không chỉ chú ý đến thiện ích cá nhân, nhưng cũng muốn thiện ích của toàn thể xã hội. Vì vậy, họ không chiều theo cám dỗ chỉ nghĩ đến mình và chăm sóc việc của mình, dù chúng hợp pháp đến đâu đi nữa, như thể đó là điều duy nhất hiện hữu trong trần thế. Đức công bằng cho thấy rõ - và đặt trong tâm hồn sự đòi hỏi - rằng không thể có một thiện ích đích thực cho tôi, nếu đó cũng không phải là thiện ích của tất cả mọi người.
Lối cư xử của người công bằng
Vì thế, người công bằng cảnh giác về thái độ của mình, để không làm hại những người khác: nếu sai lỗi, thì xin lỗi. Trong vài trường hợp, cần phải hy sinh một thiện ích bản thân để đặt nó cho cộng đoàn sử dụng. Họ muốn một xã hội có trật tự, trong đó chính con người tạo uy tín cho chức vụ chứ không phải ngược lại. Họ không thích những tiến cử và không buôn bán đặc ân, ưa chuộng trách nhiệm, nêu gương sống và thăng tiến sự tôn trọng luật pháp. Thực vậy, sự tôn trọng này chính là con đường công chính, là thuốc giải độc nạn tham nhũng: thật là quan trọng dường nào việc giáo dục con người, đặc biệt là người trẻ, về nền văn hóa tôn trọng luật pháp! Đó là con đường phòng ngừa thứ ung thư tham nhũng và bài trừ nạn tội phạm.
Thêm vào đó, người công bằng tránh những lối cư xử độc hại, như vu khống, làm chứng gian, biển lận, cho vay ăn lãi “cắt cổ”, trả lại những gì mình đã vay mượn, nhìn nhận lương bổng đúng đắn đối với các công nhân, tránh đưa ra những phán đoán nhẹ dạ về người khác, bảo vệ tiếng tăm và thanh danh của người khác.
Không có ai trong chúng ta không biết trong thế giới chúng ta, những người công bằng đông đảo hoặc hiếm hoi như những viên ngọc quý. Chắc chắn họ là những người thu hút ơn thánh và phúc lành trên bản thân, trên thế giới trong đó họ đang sống. Họ không phải là những người thua thiệt so với gian trá và xảo quyết, vì như Kinh thánh đã dạy, “ai tìm kiếm công bằng và yêu thương thì sẽ tìm được sự sống và vinh dự” (Pr 21,21). Những người công bằng không phải là những người lên mặt dạy đời, như thể là những người kiểm duyệt, nhưng là những người ngay thẳng “khát khao sự công chính” (Mt 5,6), những người mơ ước, gìn giữ trong tâm hồn ước muốn tình huynh đệ đại đồng. Tất cả chúng ta đều rất cần ước mơ ấy, nhất là xã hội ngày nay”.
Chào thăm và kêu gọi
Sau bài giáo lý trên đây là phần tóm tắt và chào thăm bằng các thứ tiếng, kèm theo những lời nhắn nhủ của Đức Thánh cha.
Khi chào bằng tiếng Pháp, Đức Thánh cha đặc biệt nhắc đến các giáo xứ và các bạn trẻ đến từ nước này và nói rằng: “Trong tuần Phục sinh này, xin ánh sáng của Chúa Phục sinh soi chiếu chúng ta trong việc tìm kiếm công bằng, để xây dựng một thế giới huynh đệ.”
Bằng tiếng Anh, Đức Thánh cha chào thăm các tín hữu đến từ Thụy Điển, Malta, Hàn Quốc, Canada và Mỹ, đồng thời nói rằng: “Trong niềm vui của Chúa Kitô Phục sinh, tôi khẩn cầu xuống trên anh chị em và gia đình tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Khi chào thăm các tín hữu Công giáo Ba Lan, ngài nói: “Chúa nhật kính Lòng Chúa Thương Xót sắp tới (ngày 07 tháng Tư) nhắc nhớ chúng ta sứ điệp được thánh Faustina Kowalska thông truyền. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ tình thương của Thiên Chúa, nhưng hãy kiên trì và tin tưởng phó thác cuộc sống chúng ta và thế giới cho Chúa, đặc biệt cầu xin Chúa ban hòa bình công chính cho những nước đang chịu đau thương vì chiến tranh. Tôi thành tâm chúc lành cho anh chị em.
Sau cùng bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha chào các trẻ em thuộc Tổng giáo phận Milano, bắc Ý, đến Roma để hoàn tất hành trình huấn giáo qua sự tuyên xưng đức tin trên mộ các thánh tông đồ. Đức Thánh cha nói: “Các con thân mến, các con hãy biết hăng say và quảng đại theo đặc điểm của tuổi trẻ, làm chứng về sự trung thành với Tin mừng”.
Sau cùng, Đức Thánh cha nhắc đến những người trẻ, các bệnh nhân, người cao tuổi và các đôi tân hôn. Ngài cầu chúc cho mỗi người đón nhận trong tâm hồn niềm vui và an ninh, những hồng ân của Chúa Kitô Phục sinh.
Buổi Tiếp kiến chung được kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.
Ngày 08 tháng Tư năm 2024 sẽ công bố Tuyên ngôn “Dignitas infinita”
Thứ Hai, ngày 08 tháng Tư này, Bộ Giáo lý đức tin sẽ công bố Tuyên ngôn “Dignitas infinita”, Phẩm giá vô biên về phẩm giá con người.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tuyên ngôn sẽ được Đức Hồng y Tổng trưởng Victor Manuel Fernández và vị Tổng thư ký, là Đức Tổng giám mục Armando Matteo giới thiệu trong cuộc họp báo lúc 12 giờ trưa, tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, cùng với bà giáo sư Paola Scarcelle, thuộc Đại học Tor Vergata và Đại học tư Lumsa ở Roma. Bà đặc trách và huấn giáo cho những người khuyết tật thuộc Cộng đồng thánh Egidio.
Từ tháng Mười Một năm ngoái (2023), Bộ Giáo lý đức tin, do Đức Hồng y Fernández, người Argentina, đảm trách, đã phổ biến các văn kiện khác nhau, trả lời cho các câu hỏi của các giám mục và hồng y về nhiều vấn đề khác nhau: những người chuyển giới có thể lãnh nhận bí tích Rửa tội hay không, cũng câu hỏi đó đối với con cái của những cặp đồng tính luyến ái sinh ra từ việc mang thai mướn; việc cấm các tín hữu Công giáo không được gia nhập các Hội tam điểm; việc cất giữ tro hỏa táng của những người quá cố; sự khuyến khích các bà mẹ độc thân lãnh nhận các bí tích.
Ngày 18 tháng Mười Hai năm ngoái, Bộ Giáo lý đức tin đã công bố Tuyên ngôn Fiducia supplicans, Lòng tín thác khẩn cầu, mở đường cho việc chúc lành cho các cặp đồng phái ngoài bất kỳ nghi thức hoặc kết hôn giả.
(Vatican News 2-4-2024)
Các giám mục Ucraina lo âu vì viễn tượng động viên các linh mục tu sĩ vào quân ngũ
Các giám mục Công giáo và Giáo hội Tin lành Ucraina lo ngại trước viễn tượng các cha sở, linh mục và mục sư có thể bị động viên vào quân ngũ trong cuộc chiến hiện nay.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trang mạng của Hội đồng Giám mục Công giáo Latinh Ucraina cho biết, hôm mùng 02 tháng Tư vừa qua, một phái đoàn năm giám mục, do Đức cha Chủ tịch hướng dẫn, và một số vị đại diện các Giáo hội Tin lành Ucraina, đã gặp Tổng thống Volodymyr Zelensky để trình bày mối quan tâm về việc các linh mục có thể bị động viên, xung vào quân đội như những binh sĩ. Đức cha Vitaly Kryvytskyi, Chủ tịch Ủy ban liên lạc giữa Giáo hội và nhà nước thuộc Hội đồng Giám mục Ucraina, kể: “Chúng tôi đã nhấn mạnh rằng nếu các cha sở và các linh mục trách nhiệm về lãnh vực nhân đạo, đặc biệt là Caritas và tất cả các phân bộ của tổ chức này, bị động viên thì sẽ có những vấn đề lớn. Nếu một số người chủ yếu, và cả những nhân viên, rời bỏ dịch vụ này để bị đưa ra tiền tuyến, thì sẽ xảy ra những vấn đề lớn”.
Phủ Tổng thống Ucraina cho biết: Tổng thống Zelensky đã bày tỏ lòng biết ơn đối với các linh mục và mục sư tuyên úy quân đội, khi nói: “Nhờ quý vị, những người nam nữ của chúng ta ở mặt trận có cơ hội thông tin và được sự hỗ trợ của quý vị”. Tổng thống khuyến khích đại diện các Giáo hội hãy duy trì những mối quan hệ quốc tế để phổ biến “những thông tin chính sách về Ucraina và những tội ác của Nga. Xét cho cùng, Giáo hội có một ảnh hưởng lớn trên xã hội, các vị lãnh đạo nhà nước. Vì thế, điều này đối với chúng tôi là một dấu hiệu rất quan trọng về sự hỗ trợ của những nước đối tác của chúng ta”.
Tham dự cuộc gặp gỡ vừa nói, có ông Valerie Antoniuk, Chủ tịch Liên hiệp Liên Ucraina các Giáo hội Tin lành Baptist.
(Sir 2-4-2024)
Ukraine, Đất Thánh, Haiti… Những lần Đức Phanxicô bị đóng đinh
Đức Phanxicô trong buổi nghi thức phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh 29 tháng 3-2024 tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Bị ám ảnh bởi cuộc chiến tranh thế giới thứ ba “từng mảnh”, Đức Phanxicô nhân lên các lời kêu gọi hòa bình. nhưng không phải lúc nào ngài cũng được hiểu.
lepoint.fr, Jérôme Cordelier, Rôma, 2024-03-29
Khi đề nghị Ukraine “giương cờ trắng” với Nga, Đức Phanxicô đã gây xáo trộn. Một sai lầm ngoại giao? Công thức thật không may. Ngay lập tức những người chung quanh ngài làm dịu lời nói. Trong một phỏng vấn với Vatican News, hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin lên tiếng: “Chúng ta không được quên bối cảnh và, trong trường hợp này, câu hỏi đã được đặt ra trước cho ngài, ngài đã nói về thương thuyết và đặc biệt là sự can đảm của thương thuyết, vốn không bao giờ là đầu hàng.”
Đức Phanxicô kêu gọi “thương thuyết” để “chấm dứt chiến tranh”
Tòa Thánh tiếp tục con đường này và tiếp tục kêu gọi “ngưng bắn”, chính những kẻ xâm lược phải ngừng bắn trước tiên. Khi báo Le Point đặt câu hỏi, hồng y Michael Czerny nhấn mạnh: “Câu này được nói trong bối cảnh của một cuộc phỏng vấn, và để trả lời câu hỏi của một nhà báo về màu trắng. Câu trả lời kém và tôi tiếc cho việc khai thác nó về sau. Nếu chúng ta bỏ qua biểu tượng của hình ảnh này, là điều không phải giáo hoàng muốn nói, chúng ta có thể hiểu, trước hết với ngài, chúng ta phải có can đảm thương thuyết để giải quyết nỗi đau khủng khiếp của tất cả những ai ở trong cuộc xung đột này. Có can đảm, thông minh, khôn ngoan để thương thuyết. Tôi nghĩ tất cả những ai có thiện chí sẽ đồng ý một giải pháp thương lượng sẽ tốt hơn gấp ngàn lần so với việc đánh nhau bất tận hoặc tệ hơn là đánh nhau cho đến cùng, khi các quốc gia cùng nhau tự sát. Như Đức Phanxicô đã nói với tôi nhiều lần, không bao giờ có người chiến thắng trong bạo lực. Muốn thắng thì phải thương lượng.”
Lập trường này tiếp nối đường lối ngoại giao lâu dài của Vatican là trung lập trong các cuộc xung đột – kể từ khi Đức Bênêđíctô XV đối diện với Thế chiến thứ nhất – ngài xem “chiến tranh là một “thảm sát vô ích”, nhà sử học Andrea Riccardi nhắc lại, ông là người sáng lập Cộng đồng Sant’Egidio, một tổ chức phi chính phủ công giáo làm trung gian cho hầu hết các cuộc xung đột và rất thân thiết với Đức Phanxicô. Ông nhấn mạnh: “Như Đức Gioan XXIII đã nói, Giáo hội giống như các bà mẹ, các người bạn đời, các cô gái, khi họ đối diện với những kẻ giết nhau, họ bảo vệ những mạng sống đã mất, đó không phải là Tòa án công lý quốc tế. Quan niệm này luôn làm cho những người tham chiến và dư luận thất vọng. Nhưng Đức Phanxicô, theo cách riêng của ngài, với những lời nói mang nhiều tính tiên tri, thiếu ngôn ngữ ngoại giao, xem chiến tranh là một sự dữ và muốn thúc đẩy để hòa bình nhanh chóng được thực hiện.”
Tiểu sử của Đức Phanxicô: “Tôi sẽ không bao giờ được gọi là giáo hoàng danh dự”
Ngoại giao nhân đạo
Theo bà Florence Mangin, đại sứ Pháp tại Tòa thánh, quan điểm của Đức Phanxicô ngày nay không có gì mơ hồ. Nhà ngoại giao lưu ý: “Ngài đã mất một thời gian dài để công khai thừa nhận, rằng có một kẻ xâm lược và một kẻ bị tấn công. Chúng tôi đã chờ đợi trong nhiều tháng. Nhưng ngài đã làm rõ quan điểm của ngài vào tháng 11 năm 2022, và kể từ đó ngài chưa bao giờ trệch. Ngài luôn nói ‘Ukraine tử đạo’, câu này rất mạnh. Quan điểm của ngài rất rõ ràng và giống phương Tây. Không mơ hồ.”
Về Ukraine, bà đại sứ nhận xét, giáo hoàng tập trung vào “ngoại giao nhân đạo”, ngài ủy nhiệm cho hồng y Matteo Zuppi, chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý, thân cận với cộng đồng Sant’Egidio để giải thoát các trẻ em Ukraine bị người Nga bắt cóc – cho đến nay là hoài công. Vì thế hồng y đã đi thăm Nga, Ukraine, Washington và Bắc Kinh. Một số người giải thích lập trường của Vatican với những động cơ thầm kín về mặt ngoại giao-thiêng liêng để bảo đảm cho Nga và Trung Quốc. Một tầm nhìn mà bà Florence Mangin không chia sẻ. Nhà ngoại giao nhấn mạnh: “Tôi không tin việc xích lại gần nhau của Nga và Trung Quốc sẽ có tác dụng. Về những vấn đề này, chúng tôi ghi nhận sự nhất quán trong lời nói, trong truyền thống ngoại giao của Vatican: Tòa Thánh không đứng về phía nào, và nhắc nhở còn có những cuộc chiến tranh khác, ở Nam Sudan, ở Congo, ở Haiti, ở Yemen, ở Syria.”
Hồng y Pietro Parolin: chiến tranh, giải pháp ngoại giao luôn có thể thực hiện được
Tạo ra tiếng nói hòa bình trong một thế giới khi ngọn lửa chiến tranh đang gia tăng gấp bội, vào thời điểm mà cán cân quyền lực đang căng thẳng không phải là một việc dễ dàng. Đối với Đức Phanxicô, Tuần Thánh đẫm máu này trên khắp thế giới, những cuộc chiến tranh ngày càng gia tăng này chắc chắn tượng trưng cho rất nhiều vụ đóng đinh.
Thật ra Đức Phanxicô luôn muốn ôm lấy hành tinh mà ngài mô tả đang ở trong tình trạng chiến tranh thế giới thứ ba “từng mảnh”. Đó cũng là điều thúc đẩy lập trường của ngài về tình hình ở Đất Thánh, ngài luôn cập nhật thông tin qua điện thoại liên lạc thường xuyên với các linh mục, các cộng đồng tôn giáo ở Gaza, có nhiều cộng đồng được thành lập ở đây từ lâu. Theo bà Florence Mangin, một khía cạnh khác không nên bỏ qua trong sự dấn thân quốc tế của ngài: “Kể từ năm 2013, với ngài, vấn đề ngoại giao về lợi ích chung là rất quan trọng. Về vấn đề y tế, ngài là người đầu tiên ủng hộ vắc xin. Về sinh thái học, ngài là người tiên phong, với hai tông huấn về khí hậu, tông huấn thứ hai rất có tính ứng dụng, ngài đã viết trước cuộc họp COP28 ở Dubai. Và chúng ta đừng quên ngài luôn đấu tranh cho người di cư và bình đẳng giới.” Thế giới theo Đức Phanxicô.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn