Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ

Vatican News
Gặp gỡ ở Argentina
Chia sẻ kỷ niệm cá nhân về Đức cố Giáo Hoàng, Đức tân Giáo Hoàng cho biết đã gặp Đức cố Giáo Hoàng khi còn làm Tổng Giám Mục Buenos Aires. Ngài nói: “Tôi luôn ấn tượng về một người luôn sống Tin Mừng một cách chân thực và hội nhất. Khi còn là bề trên Tổng quyền Dòng Augustinô, trong vài lần trong các cuộc viếng thăm của tôi đến các cộng đoàn Dòng ở Argentina, tôi đã có cơ hội gặp gỡ và nói chuyện với Đức cố Giáo hoàng lúc đó còn là Hồng y về những vấn đề mang tính thể chế”.
Đức tân Giáo Hoàng kể lại, khi Đức Phanxicô được bầu chọn làm Giáo hoàng và dâng Thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ Giáo xứ Anna, ngày 13/3/2013, ngài đã đến chào Đức cố Giáo Hoàng và không ngờ là được nhận ra và cuộc trò chuyện tiếp tục. Sau đó, vào cuối nhiệm kỳ bề trên Tổng quyền, vị tu sĩ Dòng Augustinô, và cũng là Giáo hoàng tương lai, đã mời Đức Phanxicô đến dâng Thánh lễ khai mạc Tổng công hội, và cũng đầy bất ngờ đã được nhận lời.
Quan tâm đến người dân Perù
Tương quan huynh đệ giữa hai vị Giáo hoàng tiếp tục được thể hiện qua sự quan tâm của Đức Giáo hoàng Phanxicô với người dân Perù khi ngài bổ nhiệm vị Giáo hoàng tương lai làm Giám mục Chiclayo của Perù, và đặc biệt trong chuyến tông du đến Perù vào năm 2018.
Gần gũi với những người bé nhỏ
Đức tân Giáo Hoàng còn nói nhiều điều về Đức Phanxicô, như sự gần gũi với những người rốt cùng, những tù nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Theo ngài, cuộc viếng thăm cuối cùng của Đức cố Giáo Hoàng đến nhà tù Regina Coeli, trong thứ Năm Tuần Thánh là một cử chỉ nói lên rất nhiều điều: Mong muốn được cử hành Thánh lễ với các tù nhân như những năm trước, mặc dù đã rất yếu; Cử hành phụng vụ tại nhà tù trong một ngày rất quan trọng của đời sống Giáo hội, cho thấy Đức Phanxicô muốn truyền đạt sự gần gũi, tình yêu mà Chúa Giêsu đã để lại cho tất cả.
Gặp gỡ hàng tuần
Sau đó, với tư cách là Tổng trưởng Bộ Giám mục, Đức tân Giáo Hoàng đã có những cuộc gặp cố định với Đức Phanxicô vào mỗi sáng thứ Bảy. Trong những lần gặp gỡ này, Đức tân Giáo Hoàng nói, cho đến cuối đời Đức Phanxicô luôn muốn cống hiến hết mình cho thừa tác vụ phục vụ Giáo hội. Nhiều chủ đề được đưa ra thảo luận, nhưng vào mỗi buổi gặp gỡ Đức Phanxicô luôn nhắn nhủ vị Giáo hoàng tương lai “Đứng đánh mất sự hài hước, cần phải mỉm cười luôn”.
Đức tân Giáo Hoàng nhấn mạnh, Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô rất yêu mến Giáo hội, không biết mệt mỏi trong sứ vụ. Ngay cả khi từ bệnh viện trở về Nhà Thánh Marta, các cuộc gặp gỡ vẫn diễn ra. Ngài rất can đảm, cống hiến hết mình để phục vụ Giáo hội.
Luôn canh tân Giáo hội
Về đời sống Giáo hội, đặc biệt mong muốn Giáo hội luôn được đổi mới của Đức Phanxicô, Đức tân Giáo Hoàng giải thích, trong suốt triều Giáo hoàng, Đức Phanxicô luôn truyền cho tất cả tinh thần muốn tiếp tục những gì đã bắt đầu với Công đồng Vatican II. Bởi vì còn rất nhiều việc phải làm, chúng ta không thể dừng lại, không thể quay lại. Cần phải thấy Chúa Thánh Thần muốn Giáo hội như thế nào hôm nay và ngày mai, vì thế giới ngày nay, trong đó Giáo hội sống không giống như thế giới của mười hay hai mươi năm trước. Do đó, sứ điệp luôn là: rao giảng Chúa Giêsu Kitô, rao giảng Tin Mừng, nhưng cách tiếp cận con người ngày nay, người trẻ, người nghèo và các chính trị gia thì khác.
Một Giáo hội nghèo đồng hành với người nghèo
Đức tân Giáo Hoàng lưu ý, trong số những giáo huấn mà Đức Phanxicô để lại, trước hết chúng ta cần phải trân trọng “tình yêu đối với người nghèo”, “một Giáo hội nghèo, đồng hành với với nghèo, phục vụ người nghèo”. Ngài nói: “Tôi nghĩ sứ điệp Tin Mừng được hiểu rõ hơn nhiều từ kinh nghiệm của những người nghèo, những người chẳng có gì, nhưng cố gắng sống đức tin và tìm thấy mọi sự nơi Chúa Giêsu Kitô. Tôi tin rằng theo nghĩa này, Đức Phanxicô đã để lại một mẫu gương tuyệt vời cho thế giới. Đối với cá nhân tôi, đó là sự phục vụ trong tư cách một giám mục ở Peru, nhà truyền giáo, và nhiều việc khác nữa”.
Suy tư và biết ơn
Với tất cả suy tư trên, vài giờ sau khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô qua đời, người kế vị tương lai của ngài đặt câu hỏi “Nhưng làm thế nào chúng ta có thể kế thừa di sản thiêng liêng của Đức Phanxicô?”. Và ngài trả lời: “Rất khó trả lời. Cá nhân tôi tin rằng giai đoạn mất mát, buồn đau này trước hết phải được trải qua trong thinh lặng, với sự suy ngẫm sâu sắc và lòng biết ơn. Ít nhất, tôi sẽ cần rất nhiều thời gian để trân quý, để thực sự hiểu được những gì Đức cố Giáo Hoàng đã để lại cho tôi, cho Giáo hội và cho thế giới. Cần phải sống khoảnh khắc này, như thứ Bảy Tuần Thánh, ngay cả khi chúng ta đã cử hành Lễ Phục sinh của Chúa Kitô, để sống mầu nhiệm lớn lao này, tức là cuộc sống như Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô muốn dạy chúng ta”.

Những ngày qua, báo chí và giới truyền thông trên mạng đã nói rất nhiều về “cuộc đua kế nhiệm ngôi giáo hoàng”, về những “ứng viên cho vị trí quyền lực số một của Vatican”. Rất nhiều vị Hồng Y được liệt kê vào danh sách papabile, “có thể thành Giáo Hoàng”, với hồ sơ và tiểu sử cá nhân được mổ xẻ kỹ lưỡng. Thậm chí, các nhà cái cũng nhảy vào góp vui với những tỉ lệ cá cược rất rộn ràng.
Thế nhưng kinh nghiệm lâu đời của người Ý và những người được sống từ trong lòng Giáo Hội lại cho thấy: những người được đồn đoán và mong đợi nhiều nhất thường không phải là những người được Hồng Y đoàn lựa chọn. Tối ngày 13/03/2013, cả thế giới đã bất ngờ khi nghe trên quảng trường thánh Phêrô vang lên cái tên lạ hoắc của người được chọn: Jorge Mario Bergoglio. Mười hai năm sau, sự bất ngờ ấy lại được lặp lại với cái tên cũng lạ không kém: Robertum Franciscum Prevost.
Thế mới nói: Chúa Thánh Thần làm việc trong Giáo Hội là có thật đó! Bất cứ một cuộc bầu chọn Giáo Hoàng nào cũng đến từ sự hướng dẫn và soi sáng của chính Chúa Thánh Thần, chứ đâu có đến từ khôn ngoan và toan tính của nhân loại! Khi mật nghị Hồng Y bắt đầu, những người đã dám đặt niềm tin vào Chúa Thánh Thần thì không cần phải đoán định. Họ chỉ một lòng tin tưởng và chờ đợi. Chúa Thánh Thần luôn có cách hành động riêng của Ngài, trong âm thầm lặng lẽ, nhưng dứt khoát và hữu hiệu. Các Hồng Y tìm được sự đồng thuận chỉ qua 4 lần bầu phiếu, nghĩa là chỉ cần 1 ngày làm việc. Khi cánh cửa nhà nguyện Sistina khép lại với lời tuyên bố extra omnes, thì tất cả đều phải ra ngoài hết: không chỉ là những người không phận sự, mà còn là tất cả những gì thuộc về thế gian trong lòng những người có phận sự bầu Giáo Hoàng. Chúa Thánh Thần định hình nên hướng đi cho Hội Thánh, không phải ngang qua những ồn ào và toan tính của nhân loại, nhưng là trong sự tĩnh lặng thánh thiêng của những con tim nhu thuận với sự hướng dẫn của Ngài.
Từ Prevost đến Lêô XIV: nomen omen
Prevost là một tên có gốc đến từ tiếng Pháp và Latinh cổ (praepositus, từ gốc động từ praeponere), có nghĩa là “người được trao trách nhiệm, người được đặt vào sứ mạng”. Chắc chỉ có Chúa Thánh Thần mới nhìn ra trong cái tên ấy một điềm tiên báo về số phận và trọng trách gắn với con người mang tên này.
Với làn khói trắng bay lên từ ống khói nhà nguyện Sistine, cả thế giới như nín thở chờ đợi một tên gọi, không chỉ để nhận diện một con người, mà còn là đón lấy một định hướng cho Giáo Hội và cho cả thế giới. Khi vị tân Giáo Hoàng chọn cho mình tông hiệu là Lêô XIV, lịch sử như lập tức bước vào một khoảnh khắc của một sự chuyển tiếp kỳ diệu giữa Đức Phanxicô của lòng thương xót và Đức Lêô XIII của công bằng xã hội. Quả vậy, Đức Lêô XIII được xem là người tiên phong trong việc định hình và cổ võ học thuyết xã hội của Giáo Hội, mở cửa đức tin để đối thoại với khoa học, và là người kiến tạo hoà bình ngang qua việc bảo vệ quyền lợi của những người lao động nghèo khổ. Đức Phanxicô là vị Giáo Hoàng của những cải tổ mạnh mẽ, của cởi mở và đối thoại, của lòng thương xót, của người nghèo. Với tông hiệu Lêô XIV, Đức Tân Giáo Hoàng gởi đi một tuyên bố âm thầm nhưng mạnh mẽ về khát vọng hoà bình cho một thế giới đang còn oằn mình trong đau khổ, về sự tiếp nối sâu sắc của tinh thần cải tổ, của sứ mạng mở ra với thế giới, của một Giáo Hội hiệp hành, một Giáo hội nghèo cho người nghèo, và đặc biệt một Giáo Hội bao gồm những con người biết loan báo Tin Mừng bằng tinh thần cởi mở, đối thoại, xây dựng những chiếc cầu của lòng bác ái và tình huynh đệ đại đồng.
Đức Tân Giáo Hoàng cho thấy một sự hoà quyện tuyệt đẹp giữa truyền thống và đổi mới. Ngài không ngại khoác lại trên mình chiếc áo mozetta, chiếc hoàng bào màu đỏ buông xuống vai, vốn tượng trưng cho quyền uy của một vị Giáo Hoàng, và là chiếc áo mà vị tiền nhiệm của mình đã đặt qua một bên để nhắc nhớ cả Giáo Hội về giá trị của sự đơn sơ, khiêm hạ, và khó nghèo. Ngài xuất hiện với dáng vẽ tự tin, vững chãi, và uy nghi của truyền thống, nhưng đồng thời cũng rất thân thiện và dễ cảm mến, rất gần với cung cách mục vụ gần gũi và cởi mở của vị tiền nhiệm. Từ ban công của cửa sổ chính ở Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Tân Giáo Hoàng trình diện với cả thế giới bằng một nụ cười tươi và hiền lành. Nhưng khi ống kính zoom lại gần, chúng ta mới thấy giọt lệ còn chưa kịp khô trên mắt của Ngài. Chưa kịp sống trọn vẹn giây phút thiêng liêng và xúc động cho riêng mình trong “căn phòng nước mắt” kế bên nhà nguyện Sistine, Ngài đã bước vào khung trời của sứ mạng, để hoà mình vào niềm vui chung của toàn thể Giáo Hội. Một chút xúc động thoáng qua, một giọt nước mắt lưng tròng của vị tân Giáo Hoàng, đã trở nên thật đẹp và thật ý nghĩa trong giây phút xúc động của toàn thể cộng đoàn dân Chúa.
Những lời đầu tiên của vị tân Giáo Hoàng Lêô XIV hướng đến mọi người không phải là một diễn văn long trọng. Trước niềm háo hức đợi chờ của cả Giáo Hội và cả thế giới, lời chào của Ngài vang lên như những lời ngôn sứ thật dịu dàng và đầy tính gợi hứng, với một số từ khoá thật ý nghĩa và đắt giá: “hoà bình và bác ái”; “hiệp hành và hiệp nhất”, “đối thoại và loan báo Tin Mừng”, “đừng sợ”.
(1) Hoà bình và bác ái: khát mong của nhân loại và lời mời gọi trở về với cội nguồn Tin Mừng
Lời đầu tiên mà Đức Tân Giáo Hoàng chọn để chào cộng đoàn là cụm từ giản dị nhưng đầy sức mạnh: “Bình an ở cùng tất cả anh chị em!” Đây là lời của Đức Kitô Phục Sinh chào các môn đệ khi họ đang đóng kín trong thế giới của mình vì buồn rầu và sợ hãi. Lời ấy xuất hiện trên miệng của vị Tân Giáo Hoàng không chỉ như một công thức phụng vụ, nhưng còn có tác dụng như một tuyên ngôn thần học về sứ mạng trung tâm của Giáo Hội ở mọi thời đại, đó là sứ mạng làm chứng và trao ban bình an của Đức Kitô.
Rất đặc biệt khi Ngài không nói đến một nền hoà bình mang tính chính trị, mà là một nền hoà bình được xây dựng trên nền tảng khiêm tốn, kiên nhẫn, bác ái, một loại hoà bình không dựa trên vũ khí. Trong bối cảnh hỗn loạn vì những xung đột leo thang của thế giới hiện nay, sứ điệp này vang lên như một tiếng chuông cảnh tỉnh lương tâm nhân loại và là một phương dược chữa lành cho rất nhiều tổn thương của các nạn nhân. Ngài khích lệ mọi người bằng sứ điệp vô cùng nền tảng của đức tin Kitô giáo: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta”, và “sự dữ sẽ không chiến thắng”. Đó là cách một mục tử mời gọi đoàn chiên của mình sống Tin Mừng giữa lòng một thế giới còn đầy hoài nghi và lo âu, còn bị chi phối quá nhiều bởi văn hoá loại trừ và bạo lực.
(2) Hiệp hành và hiệp nhất: mô hình của một Giáo Hội bước đi cùng nhau
Một trong những chọn lựa tiếp nối rõ nét nhất từ di sản của Đức Phanxicô mà chúng ta có thể thấy nơi Đức Lêô XIV là việc nhấn mạnh đến hình ảnh của một Giáo Hội hiệp hành, một Giáo Hội hiệp nhất và bước đi cùng nhau. Hiệp hành không chỉ là một tiến trình tổ chức, nhưng chắc chắn sẽ là một thái độ mục vụ sâu sắc của vị Tân Giáo Hoàng: Giáo Hội là dân của Thiên Chúa, tay trong tay, cùng nhau lắng nghe và cùng nhau hành động. Cùng với Ngài, tất cả chúng ta sẽ là một một Giáo Hội cùng nhau bước đi trong cuộc hành trình tìm kiếm và hoà bình và công bằng, hướng đến những giá trị tốt đẹp nhất cho cả nhân loại.
Ai cũng có thể thấy sức mạnh của lời mời gọi và định hướng mục vụ này giữa lòng một thế giới phân mảnh như hôm nay. Viễn tượng của Đức Tân Giáo Hoàng là hình ảnh về một Giáo Hội có thể trở thành không gian của hiệp nhất, không phải là bằng chinh phục và đồng hoá, nhưng là bằng đối thoại trong khác biệt. Hiệp hành là cung cách sống, là dung mạo, là căn tính của Giáo Hội giữa lòng thế giới hôm nay.
(3) Một Giáo Hội đối thoại và loan báo Tin Mừng: dấn thân vào giữa lòng thế giới chứ không lùi lại phía sau
Là một nhà truyền giáo đã từng sống nhiều năm tại Peru và phục vụ những người bản địa nghèo khó, chắc chắn Đức Lêô XIV là người giàu có trong kinh nghiệm sống và gặp gỡ những nền văn hoá khác nhau. Trong tim của Ngài, chắc chắn có một vị trí đặc biệt dành cho những người bên lề. Rất giống với vị tiền nhiệm của mình, Ngài mời gọi chúng ta hành động và bày tỏ sự gần gũi với những người đau khổ nhất.
Thật cảm động khi trong giây phút đặc biệt nhất của một vị Tân Giáo Hoàng, Ngài không quên dành một giây phút cho đàn chiên nhỏ bé ở giáo phận Chiclayo xa xôi mà Ngài đã từng phục vụ. Ngài nói trực tiếp với họ bằng ngôn ngữ mà họ có thể hiểu được. Ngài cám ơn sự cống hiến và những dấn thân của họ trong việc xây dựng Giáo Hội. Sau đó, Ngài mới hướng đến Giáo Phận Roma của mình và nhắn gởi cho toàn thế giới về việc sống với một thái độ cởi mở và đôi tay dang rộng, để trở nên những nhà truyền giáo và loan báo Tin Mừng. Từ khoá “đối thoại” trong lời chào đầu tiên của Ngài không chỉ mang tính ngoại giao mà còn mang một chiều kích thần học và thiêng liêng đặc biệt. Đó là một hình thức hiện diện của Ngôi Lời Nhập Thể giữa lòng thế giới, một Giáo Hội biết hiện diện, cảm thông, lắng nghe, và chia sẻ. Có thể mường tượng được rằng đối thoại bằng ngôn ngữ của tình thương sẽ là chìa khoá của sứ mạng loan báo Tin Mừng trong triều đại của vị Tân Giáo Hoàng của chúng ta.
(4) Đừng sợ: lời mời gọi can đảm sống đức tin trong thế giới hiện đại.
Trong lời chào ngắn ngủi, cụm từ “đừng sợ” được lặp lại hai lần. Cụm từ ấy gợi lại tiếng chào đầy mãnh lực của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong bối cảnh thế giới vào năm 1978. Thế nhưng sâu xa hơn, cụm từ ấy là tiếng chào của Đức Kitô Phục Sinh dành cho các môn đệ đang sợ hãi và nghi ngờ của mình. Lời chào ấy được lặp lại cho thế giới của chúng ta hôm nay.
Nhìn nụ cười thân thiện và cử chỉ trìu mến của vị Tân Giáo Hoàng, chúng ta nhận ra rằng “đừng sợ” không chỉ là một lời hô hào trống rỗng. Đó là một xác tín của đức tin, rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và vẫn đang hành động ngay trong bóng tối và thử thách của thế giới chúng ta. “Chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô. Ngài đi trước chúng ta. Thế giới cần đến ánh sáng của Ngài. Nhân loại cần đến Ngài như chiếc cầu giúp vươn đến Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa”
Có thể là quá sớm khi nói rằng những lời chào ngắn ngủi đầu tiên của Đức Thánh Cha Lêô XIV đã vẽ ra cho Giáo Hội một chương trình mục vụ. Thế nhưng, từ lời chào đơn sơ và chân tình, nhưng cũng thật vững vàng và đầy xác tín của Ngài, chúng ta có thể nhận ra một làn gió mới đang thổi qua Giáo Hội, làn gió của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng vẫn luôn hành động trong Giáo Hội và ngang qua Giáo Hội. Đấng ấy không dẫn dắt Giáo Hội theo những đường thẳng an toàn hay trong những khuôn khổ khép kín, nhưng theo những khúc quanh đầy bất ngờ. Kết quả bầu cử vị Giáo Hoàng thứ 267 chính là một khúc quanh đầy bất ngờ như thế!
Tạ ơn Chúa ban cho chúng ta một vị mục tử biết đặt mình vào giữa lòng dân Chúa như một người bạn đồng hành, như một người cha hiền lành và khiêm tốn, để dẫn dắt đoàn dân lữ hành tiến bước giữa thế gian và hướng về quê hương thiên quốc.
Lm. Giuse Cao Gia An, SJ
Trong hai ngày 09 và 10 tháng Năm này, Ủy ban Con đường Công nghị của Giáo hội Công giáo Đức sẽ tiến hành cuộc họp tại thành phố Magdeburg, miền Đông Đức, với sự tham của 70 thành viên gồm các giám mục và giáo dân, để tiếp tục chương trình cải tổ Giáo hội tại nước này, cụ thể là tiến tới việc thành lập Hội đồng Công nghị sẽ hoạt động từ năm 2026, trong đó các giáo dân cùng với các giám mục cai quản các công việc của Giáo hội.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Cụ thể là trong khóa họp lần thứ tư này sẽ bàn về sự gia tăng các cơ hội tham gia và thiết lập quy chế cho Hội đồng Công nghị trên bình diện Liên bang Đức. Hai tài liệu được cứu xét là Văn bản về “Synodality”, tính hiệp hành, và Văn bản “Tham khảo và cùng quyết định”. Hai tài liệu này nhắc đến những biện pháp chống lạm dụng phụ nữ trong Giáo hội và các vấn đề ngừa thai sẽ được tái thảo luận. Ngoài ra, các tham dự viên cũng bàn về cách thức áp dụng những nghị quyết đã được đưa ra trước đây trong Con đường Công nghị.
Giáo hội Công giáo Đức đã tiến hành Con đường Công nghị từ năm 2019 do quyết định của Hội đồng Giám mục Đức và Ủy ban Trung ương Giáo dân Công giáo Đức, gọi tắt là ZdK, nhắm cải tổ Giáo hội trong bốn lãnh vực: dân chủ hóa Giáo hội để giáo dân và phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo Giáo hội, thay đổi luật độc thân giáo sĩ và luân lý tính dục của Giáo hội, với hy vọng ngăn chặn làn sóng tín hữu làm đơn xin ra khỏi Giáo hội đang lên tới mức kỷ lục trong thời gian gần đây.
Có bốn giám mục giáo phận Đức không tham gia Ủy ban Con đường Công nghị, đó là các giám mục Giáo phận Eichstaett, Passau, Regensburg và Đức Hồng y Rainer Maria Woelki. Các giám mục này phản đối vì những đường hướng Con đường Công nghị đưa ra trái với đạo lý và kỷ luật của Giáo hội, và Tòa Thánh cũng đã nhiều lần phê bình và dè dặt đối với Con đường này.
Đức Hồng y Reinhard Marx, Tổng giám mục Munich, không tham gia khóa họp hai ngày này ở Magdeburg, vì ngài bận tham gia Mật nghị Hồng y ở Vatican, cùng với Đức Hồng y Woelki.
(KNA 7-5-2025)
Linh mục Gabriel Romanelli, cha sở giáo xứ Công giáo duy nhất ở Gaza cho biết các cuộc dội bom và pháo kích của quân đội Israel diễn ra khắp nơi tại miền này và dân chúng thiếu thốn mọi sự; chúng tôi nuôi dưỡng hy vọng bằng lời cầu nguyện và chia sẻ”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Chính phủ Israel đã quyết định đánh chiếm toàn miền Gaza và từ hơn hai tháng nay cấm cản các đoàn xe chở đồ cứu trợ không được vào miền này. Hàng trăm ngàn người dân phải tản cư.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Sir của Hội đồng Giám mục Ý, truyền đi ngày 06 tháng Năm vừa qua, cha Romanelli nói: “Tình hình tiếp tục rất trầm trọng. Có những cuộc dội bom cả ngày và cả tại vùng giáo xứ Thánh Gia của chúng tôi, thuộc thành phố Gaza. Những mảnh bom rơi cả vào khu vực giáo xứ chúng tôi, nhưng cám ơn Chúa không có ai bị thương, và tất cả chúng tôi còn bình yên”.
Cha Romanelli, người Argentina, thừa sai thuộc Dòng Ngôi Lời nhập thể. Cha cho biết “dân chúng ở Gaza kiệt quệ: thiếu lương thực, nước uống, thuốc men. Chung quanh đây người ta thấy dân chúng xếp hàng dài đợi để lấy vài lít nước uống và vài khẩu phần lương thực”.
Trong tình trạng đó, khuôn viên giáo xứ Thánh Gia còn tiếp tục là một ốc đảo an bình và trợ giúp cho mọi người, không phân biệt ai. Cha sở cho biết:
“Trong tư cách là giáo xứ, chúng tôi cố gắng làm tất cả những gì có thể để nâng đỡ, ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, cho hàng ngàn gia đình con sống trong khu vực chúng tôi. Chúng tôi đang dùng đồ cứu trợ từ Toà Thượng phụ Công giáo Latinh ở Jerusalem. Bây giờ, chúng tôi phải hạn chế khẩu phần để có thể tiếp tục giúp đỡ các gia đình gặp khó khăn nhiều nhất. Chúng tôi lọc được nước kín múc được trong giáo xứ, nhưng nhu cầu thật là nhiều. Trong giáo xứ hiện vẫn còn khoảng 500 người tị nạn, không kể đông đảo các trẻ em khuyết tật do các nữ tu Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta săn sóc”.
Cha Romanelli than phiền rằng: “nhìn quanh đây tất cả là tàn phá thê lương, không có gì làm cho người ta nghĩ đến một cuộc ngưng chiến và trả tự do cho các con tin. Không có gì làm cho dân chúng địa phương hy vọng có thể ở lại trên quê hương của họ và tái thiết cuộc sống. Với cộng đoàn Kitô tị nạn bé nhỏ, chúng tôi tìm cách nuôi dưỡng hy vọng qua sự chia sẻ vật chất và tinh thần. Chung tôi cầu nguyện mỗi ngày, làm việc với những nhóm nhỏ những người trẻ, đọc Kinh Thánh, học gương các thánh, linh hoạt các trẻ em, nhưng luôn luôn ở trong khuôn viên giáo xứ vì lý do an ninh”.
(Sir 6-5-2025)
Từ rất nhiều nơi, các lãnh đạo chính trị, từ Tổng thống Mỹ Donald Trump, đến chính quyền Ý, Tổng thống Zelensky của Ucraina, Herzog của Israel, Mahmoud Abbas của Palestine, các vị lãnh đạo chính trị đã lên tiếng chúc mừng Đức tân Giáo hoàng Lêô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Ngoài ra, trong số các bài bình luận của các cơ quan truyền thông, nhiều người ca ngợi sự nhấn mạnh của Đức Lêô XIV về hòa bình và công lý. Sự kiện này chắc chắn mang lại một tia hy vọng nơi dân chúng ở Gaza và đặc biệt các Kitô hữu rất thiểu số tại miền này.
Trang mạng Asia News, truyền đi hôm mùng 09 tháng Năm, đưa tin: Các dân quân Hamas nói đến những cuộc chiến đấu khốc liệt với quân đội Israel, hôm mùng 08 tháng Năm ở miền nam Gaza, gần thành Rafah. Trong các cuộc đụng độ đó, có ít nhất hai binh sĩ Israel thiệt mạng. Còn phía Palestine ở Gaza có 106 người chết và 367 người bị thương, trong vòng 24 tiếng đồng hồ, theo Bộ thông tin Wafa của Palestine. Cũng theo cơ quan này, trong 19 tháng qua, quân đội Israel đã dội 100.000 tấn bom xuống Gaza. Trong khi đó, quân đội Israel buộc đóng cửa ba trường học do cơ quan Liên Hiệp Quốc trợ giúp tị nạn Palestine, gọi tắt là Unwra, quản trị tại miền đông Jerusalem. Sau cùng, các tín hữu Kitô tại Gaza cũng như trên toàn Thánh địa, hướng nhìn về Đức tân Giáo hoàng Lêô XIV trong niềm hy vọng. Họ cầu mong rằng giống như Đức Thánh cha Phanxicô, Đức Lêô tiếp tục bày tỏ sự gần gũi với cộng đoàn Công giáo đau thương tại Gaza.
(Asia News 9-5-2025)
Lúc 11 giờ sáng, thứ Sáu, ngày 09 tháng Năm năm 2025, Đức Thánh cha Lêô XIV đã cử hành thánh lễ đồng tế trọng thể, với 132 Hồng y tại nhà nguyện Sistina để chính thức bế mạc Mật nghị Hồng y.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Thánh lễ cũng được trực tiếp truyền hình cho các tín hữu cùng hiệp nguyện.
Bài giảng
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha Lêô diễn giải bài Tin mừng về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ: Chúa hỏi họ xem người ta nói gì về Ngài, và tiếp đó là lời tuyên xưng của thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Thánh cha nói:
“Phêrô, trong câu trả lời, đã nắm bắt được tất cả hai điều này là: hồng ân Thiên Chúa và con đường cần đi theo để cho mình được biến đổi nhờ hồng ân ấy, những chiều kích không thể tách biệt của ơn cứu độ được ủy thác cho Giáo hội để loan báo, mưu ích lợi cho loài người”.
Đức Thánh cha ghi nhận rằng các hồng ân ấy được ủy thác cho các tông đồ và những người kế vị, và cho cả bản thân ngài, qua sự bỏ phiếu của các Hồng y, để kế nhiệm người đứng đầu trong các tông đồ. Đó là kho tàng quý giá cần phải được quản lý trung thành (Xc 1Cr 4,2) hầu mưu ích cho toàn thể thân mình mầu nhiệm của Giáo hội”.
Và nhắc đến những thách đố loan truyền đức tin trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi nhiều người coi nhẹ đức tin Kitô, Đức Thánh cha nói: “Ngày nay, không thiếu những bối cảnh trong đó đức tin Kitô bị coi là điều vô nghĩa lý, là điều dành cho những người yếu đuối, kém thông minh; có những bối cảnh trong đó người ta thích những điều chắc chắn, như kỹ thuật, tiền bạc, thành công, quyền bính và khoái lạc hơn là đức tin.
Đó là những môi trường, trong đó không dễ làm chứng và loan báo Tin mừng và tại đó, tín hữu bị nhạo cười, cản trở, khinh rẻ, hoặc cùng lắm thì bị người ta chịu đựng và thương hại. Nhưng chính vì thế, những môi trường ấy là những nơi cần cấp thiết truyền giáo, vì sự thiếu đức tin thường kéo theo những thảm trạng, như đánh mất ý nghĩa cuộc sống, quên mất lòng thương xót, vi phạm phẩm giá con người trong những hình thức bi thảm nhất, cuộc khủng hoảng gia đình và bao nhiêu vết thương mà xã hội phải chịu đau khổ không ít.
Cả ngày nay, không thiếu những môi trường, trong đó Chúa Giêsu, tuy được quý chuộng như con người, nhưng Ngài chỉ được coi như một nhà lãnh đạo có đoàn sủng, hoặc là một siêu nhân, và điều đó không những xảy ra nơi những người không tin, nhưng cả nơi những người đã chịu phép rửa, và với trình độ đó, rốt cuộc họ sống như những người vô thần thực hành”.
Đức Thánh cha nói thêm với các Hồng y rằng: “Đó là thế giới được ủy thác cho chúng ta, trong đó, như bao nhiêu lần Đức Thánh cha Phanxicô đã dạy, chúng ta được kêu gọi làm chứng về niềm tin vui trong Chúa Giêsu Cứu Thế. Vì thế, điều thiết yếu đối với chúng ta là lập lại rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,6).
Điều thiết yếu là thi hành điều đó trước tiên trong tương quan bản thân với Chúa, trong quyết tâm hằng ngày hoán cải. Và tiếp đến, trong tư cách là Giáo hội, chúng ta cùng nhau sống thuộc về Chúa và mang Tin mừng cho tất cả mọi người (Xc LG 1).
Tôi nói điều đó trước tiên cho bản thân tôi, như người kế vị thánh Phêrô, trong khi tôi bắt đầu sứ mạng làm Giám mục của Giáo hội tại Roma này, được kêu gọi chủ trì Giáo hội hoàn vũ trong đức bác ái, như thành ngữ thời danh của thánh Ignatio thành Antiokia (Xc Thư gởi Roma, Saluto). Thánh nhân, bị xiềng xích và giải về thành này, nơi ngài sắp chịu hành hình, đã viết cho các tín hữu Kitô tại Roma rằng: “Như vậy, tôi sẽ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, khi thế giới không thấy thân xác tôi” (Lettera ai Romani, IV,1). Ngài ám chỉ tới sự kiện sẽ bị thú dữ xâu xé trong hý tường, và đã xảy ra như vậy, nhưng những lời của ngài theo nghĩa tổng quát hơn, nhắc đến quyết tâm không thể từ bỏ đối với những ai thi hành một sứ vụ quyền bính trong Giáo hội: đó là biến mất đi để chỉ còn lại Chúa Kitô, trở nên bé nhỏ để Chúa được nhìn nhận và tôn vinh (Xc Ga 3,30), xả thân đến cùng để không ai bị thiếu cơ hội nhận biết và yêu mến Chúa”.
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Xin Thiên Chúa ban cho con ơn này, ngày hôm nay và mãi mãi, nhờ sự chuyển cầu rất dịu dàng của Đức Maria, Mẹ Giáo hội”.
(Sala Stampa 9-5-2025)
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Giáo hoàng Lêô XIV, tục danh là Robert Francis Prevost, sẽ tròn 70 tuổi vào ngày 14 tháng Chín tới đây (14/09/1955-2025). Ngài sinh tại thành phố Chicago, bang Illinois bên Mỹ. Thân phụ là ông Louis Marius Prevost, gốc Ý và Pháp, làm hiệu trưởng một trường học, thân mẫu là bà Mildred Martinez, gốc Tây Ban Nha, làm việc tại một thư viện ở ngoại ô Chicago. Ngài có hai người anh, là Louis Martin và John Joseph. Khi còn nhỏ, cậu Robert đã tích cực tham gia các hoạt động trong sống giáo xứ, tham gia lễ sinh và theo học tại trường nhà xứ.
Khi cảm nhận ơn gọi làm linh mục, Robert đã phân định để chọn lựa: làm linh mục giáo phận hay đi tu dòng. Sau cùng, anh quyết định gia nhập Đệ tử viện Dòng thánh Augustinô, cảm kích về linh đạo của dòng nhấn mạnh sự đoàn kết và hiệp thông, cũng như quý mến giáo huấn của thánh Augustinô. Lên đại học, Robert theo học tại Đại học Villanova ở bang Pennsylvania và tốt nghiệp toán học, cũng như cử nhân triết học năm 1977. Cùng năm đó, thầy gia nhập Tập viện của Dòng thánh Augustinô ở thành phố Saint Louis, rồi học thần học sau đó ở “Liên hiệp thần học Công giáo” ở Chicago. Năm 1982, khi được 27 tuổi, thầy Robert được gửi sang Roma học tại Đại học Angelicum của Dòng Đa Minh. Tại đây, thầy thụ phong linh mục vào tháng Sáu cùng năm đó.
Năm 1984, cha Robert lấy Cử nhân Giáo luật và bắt đầu dọn chương trình Tiến sĩ Giáo luật, rồi được gửi tới cứ điểm truyền giáo của Dòng thánh Augustinô ở Chulucanas, Piura, bên Peru (1985-1986). Năm 1987, cha trở lại Angelicum để bảo vệ Luận án Tiến sĩ Giáo luật về đề tài: “Vai trò của bề trên địa phương trong Dòng thánh Augustinô”. Sau đó, cha lần lượt đảm nhận các công tác trong dòng: Giám đốc ơn gọi và Giám đốc về truyền giáo của Tỉnh dòng Thánh Augustinô ở bang Illinois.
Kế đó, cha Robert Prevost được gửi trở lại Peru, cứ điểm truyền giáo Trujillo. Trong mười một năm cha làm cha giáo, giáo sư dạy các môn giáo luật, phụng vụ, luân lý tại Đại chủng viện thánh Carlos và thánh Marcelo. Năm 1999, khi được 49 tuổi, cha Robert được bầu làm Giám tỉnh Tỉnh dòng Augustinô ở Chicago, và một năm rưỡi sau đó, cha được bầu làm Bề trên Tổng quyền của dòng, dòng bấy giờ có khoảng 2.400 tu sĩ.
Sau hai nhiệm kỳ 12 năm làm Tổng quyền, năm 2013 cha trở về Tỉnh dòng Chicago. Nhưng chỉ một năm sau, Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm cha làm Giám quản Tông tòa Giáo phận Chiclayo, có một triệu 130.000 tín hữu Công giáo thuộc 50 giáo xứ, với 90 linh mục giáo phận và 16 linh mục dòng, ở Peru, từ ngày 03 tháng Mười Một năm 2014. Chỉ gần một năm sau, ngài trở thành Giám mục chính tòa giáo phận này, từ tháng Chín năm 2015. Đức cha từng làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Peru.
Cuối tháng Giêng năm 2023, Đức cha Prevost được Đức Thánh cha Phanxicô gọi về Roma và bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ Giám mục, thay thế Đức Hồng y Marc Ouellet, người Canada, nghỉ hưu. Tháng Chín cùng năm đó, ngài được thăng Hồng y đẳng Phó tế, và ngày 06 tháng Hai năm nay (2025), thăng làm Hồng y đẳng Giám mục.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo chí, ông John Prevost, 71 tuổi, kể lại rằng hôm trước ngày bắt đầu mật nghị, Đức Hồng y Robert có điện thoại về gia đình và nói về trường hợp lỡ bị bầu làm Giáo hoàng thì sẽ chọn tên là Lêô, ông John khuyên em đừng chọn tên đó vì là Lêô XIII, nhưng hiển nhiên là Robert đã tìm hiểu về tên ấy”.
(Vatican News 8-5-2025, Ansa 9-5-2025)
la-croix.com, Isabelle de Gaulmyn, 2025-04-22
Đức Phanxicô chào giáo dân trong chuyến đi Philadelphia, nước Mỹ ngày 26 tháng 9 năm 2015.
Nhà báo Isabelle de Gaulmyn, phóng viên thường trú tại Vatican của báo La Croix từ năm 2005 đến năm 2009 nhìn lại 12 năm triều Đức Phanxicô. Ngài không chỉ làm mới cách thức điều hành Giáo hội mà còn mở rộng Giáo hội ra với thế giới bên ngoài. Ngài khởi xướng một phong trào sâu sắc, dù căng thẳng nhưng tương lai sẽ cho chúng ta thấy kết quả.
Đức Phanxicô để lại dấu ấn gì trong Giáo hội?
Mười hai năm (2013–2025) ở ngai Thánh Phêrô, một thời gian dài. Nhưng so với triều 26 năm của Đức Gioan-Phaolô II hay 20 năm của Đức Piô XII thì triều của Đức Phanxicô lại ngắn.
Nhìn lại các hình ảnh đầu tiên của ngài với nụ cười tươi sáng, tôi nhận ra việc đánh giá một giáo hoàng luôn khó khăn, đặc biệt khi chúng ta thiếu cái nhìn lịch sử cần thiết.
Tuy nhiên, tôi biết Đức Phanxicô đã làm thay đổi Giáo hội. Có thể nói là chưa từng có, hoặc ít nhất là rất hiếm. Trí nhớ của chúng ta thường ngắn hạn. Vì với những ai như tôi, đã từng làm việc ở Vatican trước khi có Đức Phanxicô thì thật khó hình dung có một giáo hoàng có thể thay đổi cách thức điều hành và mang lại một động lực mới cho Giáo hội như vậy.
Đó là những thay đổi nào?
Tôi nhớ buổi tối tháng 3 năm 2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô. Chúng tôi chờ bóng dáng của tân giáo hoàng. Khói trắng bay lên, trong vài phút chúng tôi sẽ biết ai là giáo hoàng. Hồng y Jorge Mario Bergoglio, Tổng giám mục Argentina xuất hiện trên ban công. Ít người biết ngài là ai. Càng ít người biết tên ngài. Vatican là một thế giới tương đối điệu.
Tôi quen thuộc với thế giới này, tôi đã làm phóng viên ở Vatican trong 4 năm dưới triều Đức Bênêđíctô XVI, giáo hoàng tôi học được nhiều điều về trí tuệ và chiều sâu tâm linh. Vatican là thế giới đầy nghi thức và truyền thống, bị chi phối bởi một lịch sử dường như ngừng lại sau bức tường của quốc gia nhỏ bé này. Một thế giới không mấy thay đổi. Câu nói: “Chúng tôi đã ở đây 2.000 năm rồi, nên…” có lẽ là câu tôi nghe nhiều nhất khi đi tìm thông tin trong các hành lang yên tĩnh này.
Đó là thế giới dường như chẳng tiến triển, với những quy tắc được thiết lập chính xác như bản phối nhạc. Một thế giới nơi không ai nói trước micro và nơi mà thế giới “bên ngoài”, tất cả những gì ở ngoài bức tường Vatican bị cho là nguồn gốc của tai họa. Một thế giới của các giáo sĩ, nuôi dưỡng một thái độ xem thường những gì mới mẻ, bị gán nhãn hiệu chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa cá nhân. Một loạt các “chủ nghĩa” để định nghĩa hiện đại. Thế giới đó, tôi đã học cách để hiểu, và đôi khi còn yêu mến, vì sau bề ngoài nhiêm khắc là những con người đáng mến. Nhưng khi đó tất cả dường như quá cũ kỹ, quá cứng nhắc…
Tôi đã có mặt ở đó, đúng vậy, vào lúc Đức Phanxicô được bầu chọn. Ngay từ đầu, nguồn gốc của ngài (ngài đến từ tận cùng thế giới, như chính ngài đã cười khi nói), cách hành xử khác biệt của ngài: cúi mình trước đám đông để giáo dân chúc lành cho ngài, cử chỉ này đã làm mọi người chú ý đến ngài. Xin được chúc lành, điều đó hoàn toàn không bình thường. Thường thì chính giáo hoàng mới là người ban phép lành cho giáo dân! Và rồi, chúng tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên. Trở về Paris, tôi tiếp tục theo dõi ngài từ xa. Mỗi lần, lại cùng một cảm xúc: những hành động, những lời nói của ngài thật lạ lẫm. Có điều gì đó đang thay đổi…
Nhưng phải mất một thời gian tôi mới thật sự nhận ra. Thực ra, tôi chỉ cảm nhận được hết mức độ thay đổi khi quay lại Rôma, sau hơn 10 năm vắng bóng. Cũng chính vì không có mặt thường xuyên tại Vatican trong suốt thời gian này nên tôi có một độ lùi để thấy rõ: ai sống ở đó mỗi ngày sẽ khó nhận ra hoặc nhận ra ít hơn các chuyển biến đang diễn ra. Và những chuyển biến này thực sự rất lớn. Đúng là, trong những tháng cuối cùng trước khi ngài qua đời, nhiều lời chỉ trích đã được đưa ra: cách điều hành có phần độc đoán, phong cách gây chia rẽ trong nội bộ công giáo, hay một số vụng về trong phát ngôn và hành động.
Một số người thất vọng vì ngài chưa tiến xa hơn: đạo lý công giáo vẫn chưa thay đổi nhiều, phụ nữ vẫn không thể làm linh mục, quyền lực vẫn chưa được chia sẻ nhiều hơn ở cấp giáo phận. Tôi đã nghe hết những lời đó. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những gì chưa làm được, chúng ta sẽ bỏ qua điều cốt lõi: triều của ngài đã thay đổi sâu sắc, cách điều hành hoàn toàn khác biệt: ngài tự mang khay cơm ở nhà ăn, ngài không sống ở các căn phòng của Dinh Tông tòa sang trọng. Trong 12 năm, ngài đã kéo Giáo hội hoàn vũ đi với một tốc độ chưa từng có. Và khi cả Vatican đang khoác áo tang, một điều đã trở nên rõ ràng: không thể nào làm giáo hoàng như trước được nữa.
Giày mộc và giản dị
Trước hết, điều còn lại của Đức Phanxicô sẽ là phong cách của ngài. Một cựu bộ trưởng một thánh bộ đã thở dài nói, vừa dè dặt, vừa ngưỡng mộ: “Ngài điều hành Giáo hội với một nhịp độ hối hả. Ngài đá tung cả tổ kiến Vatican. Ngài thay đổi cả văn hóa giáo triều của chúng tôi…” Nhắc đến cú đá, có lẽ chúng ta nên để ý đến giày của ngài. Ít nhất đó là suy nghĩ của một chuyên gia giáo luật khả kính, người đã ngồi với tôi ở một quán cà phê trong khu Trastevere và thì thầm một điều nghe tưởng như đùa: “Tất cả bắt đầu từ đôi giày.”
Một chuyên gia giáo luật
Còn đôi giày của giáo hoàng? Chúng ta cần nói về đôi giày. Đức Bênêđíctô XVI tiền nhiệm cũng như các giáo hoàng trước đều đóng giày riêng. Chúng ta đang ở nước Ý, nước của những đôi giày da tuyệt đẹp, báo chí luôn để ý từng chi tiết đôi giày của giáo hoàng: loại da nào, giống bò và màu đỏ nào vì có nhiều loại màu đỏ…
Nhưng Đức Phanxicô không quan tâm đến những chuyện này, ngài giữ đôi giày da cũ mòn cho đến hết đời, có khi ngài còn không đánh bóng. Nhà vatican học mỉm cười trìu mến nói: “Phải nhìn ngài bước ra khỏi chiếc Fiat 500 chật hẹp, mang đôi giày to nặng, tay xách chiếc cặp cũ, đi họp ở Rôma. Một chiếc Fiat 500 cho một giáo hoàng! Như thể bước ra từ phim của đạo diễn Fellini vậy.”
Giày không làm nên giáo hoàng. Nhưng nó nói lên nơi ngài muốn đến. Với Đức Phanxicô, đôi giày nói lên tất cả: một hình ảnh ngược hẳn với thói quen truyền thống. Một giản dị bề ngoài, báo hiệu một thay đổi từ cốt lõi. Một đoạn tuyệt dứt khoát: Đức Phanxicô hiện thân của một con người gần gũi, đơn giản, từ chối mọi đặc quyền và những nghi lễ vương giả như thể thời gian vẫn đứng yên từ thế kỷ XIX.
Ngày 19 tháng 6 năm 2013, tại Rôma. Trong khi các vị tiền nhiệm vẫn mang đôi giày đỏ truyền thống, Đức Phanxicô chọn đôi giày bình thường, giản dị: một quyết định đã gây nhiều chú ý. Ảnh: Alessia GIULIANI / CPP / CIRIC
Trước đây chúng ta chưa bao giờ thấy một giáo hoàng từ chối các căn hộ giáo hoàng sang trọng để sống tại nhà dành cho các linh mục vãng lai ở Nhà Thánh Marta. Một giáo hoàng liên tục tiếp khách từ khắp nơi trên thế giới, đủ mọi tầng lớp, thường là ngoài giới công giáo và không qua bất kỳ quy trình lễ nghi nào. Một giáo hoàng thản nhiên giải thích điệu nhảy tango và công khai xin lỗi vì đã nổi nóng ngày hôm trước với một phụ nữ. Một giáo hoàng tiếp đón các giám mục và kể cho họ nghe những “chuyện cười thú vị”, như một số giám mục Đông Âu kể lại, họ ngạc nhiên sau buổi tiếp kiến với ngài, ai cũng góp vui một câu chuyện nhỏ của mình. Viễn cảnh đó thật khác xa với Đức Bênêđíctô XVI, người luôn cẩn trọng gìn giữ truyền thống đã có hàng ngàn năm. Đức Phanxicô bước xuống ngai tòa…
Dù vậy, ở Rôma, vẫn không thiếu người bi quan. Họ phàn nàn sự giản dị này làm mất đi tính thiêng liêng, thiếu lễ nghi sẽ làm suy yếu vai trò giáo hoàng. Rằng mọi thứ sẽ sụp đổ. Nhưng Rôma không sụp đổ. Rôma không biến mất. Chỉ là, Rôma đã thay đổi.
Tử Cấm Thành của Vatican
Vì mọi chuyện không chỉ xoay quanh giáo hoàng. Ba năm trước, khi tôi trở lại các hành lang Vatican, điều làm tôi ngạc nhiên là đã có phụ nữ làm việc ở đây. Phụ nữ đứng sau các bàn làm việc… Tôi vẫn nhớ rõ. Mười năm trước, với tư cách nhà báo, điều làm tôi sốc là không có phụ nữ làm việc ở đây. Ngoại trừ vài nữ tu giúp các hồng y và dọn dẹp phòng cho họ!
Vatican là lãnh địa của nam giới, chính xác hơn là nam giới mặc phẩm phục: các linh mục mặc áo dòng, mang cổ cứng, các giám mục, hồng y, vệ binh Thụy Sĩ, những người lo việc lễ nghi. Một kiểu “Tử Cấm Thành” thu nhỏ dành riêng cho nam giới, nơi tôi luôn có cảm giác mình lén lút bước vào. Giờ đây, trong cơ cấu hành chính của Giáo triều, đã có nhiều phụ nữ giữ các vị trí trách nhiệm.
Vatican mà Đức Phanxicô để lại có phụ nữ. Thực tế, hiến pháp mới quy định cách điều hành quyền lực ở Giáo triều Rôma minh chứng rõ rệt cho sự thay đổi. Đức Phanxicô đã mất hơn chín năm để soạn thảo, và văn bản cuối cùng được công bố vào tháng 3 năm 2022. Trước đó là cả một quá trình thử nghiệm, sửa đổi, thay đổi sơ đồ tổ chức.
Cải tổ Giáo triều, với một số người là rối rắm; với một số khác là tiến trình từ tốn. Nhưng điều đó không quan trọng bằng nội dung “mang tính cách mạng” của bản hiến pháp: lần đầu tiên, các vị trí lãnh đạo các thánh bộ tương đương bộ trưởng có thể được trao cho người không phải giám mục, không phải linh mục, và thậm chí là phụ nữ, miễn là họ có đủ năng lực. Điều này từng là không tưởng dưới thời các giáo hoàng trước, nhưng nay lại được chấp nhận một cách tự nhiên.
Một Giáo hội “hòa nhập” hơn? Tôi nhớ Giáo hội Rôma khi Đức Phanxicô được bầu năm 2013. Khi đó tinh thần ở Vatican xuống thấp, bộ máy công giáo dường như rạn nứt ở nhiều nơi: các bê bối tài chính liên tục nổ ra với vụ VatiLeaks, các vụ lạm dụng tình dục bị phanh phui, việc quản lý Giáo triều hỗn loạn. Một hồng y cử tri kể cho tôi nghe bài phát biểu của Đức Bergoglio ở Nhà nguyện Sistine trước mật nghị. Ngài thẳng thắn mô tả tình hình Giáo hội, ngài kêu gọi phải chấm dứt “tự tham chiếu”, nghĩa là Giáo hội tự vận hành cho chính mình, chỉ phục vụ cho nội bộ, chứ không vì thế giới.
Đức Phanxicô, người đứng đầu Giáo hội không ngần ngại phê phán các linh mục của ngài. Chủ đề xuyên suốt triều của ngài là đấu tranh chống giáo sĩ trị, phản đối các linh mục độc quyền điều hành. Người ta thường nói vũ khí chính của giáo hoàng là lời của ngài. Đúng vậy, giáo hoàng không thể làm gì nếu không có 5.000 giám mục và 1,2 tỷ tín hữu cùng đồng hành. Vì thế, Đức Phanxicô đã lên tiếng rất nhiều. Ngài chỉ trích các linh mục “tự mãn”, không quan tâm đến người khác, những giám mục thời thượng, suốt ngày bay từ phi trường này đến phi trường khác… Ngài chỉ trích đôi khi có phần dân túy, ngài không ngần ngại phóng đại và biếm họa những người cùng hàng ngũ với ngài.
Vậy có đủ để “giải giáo sĩ trị” Giáo hội không? Không. Vì không thể xóa bỏ hàng thế kỷ tư tưởng đặt linh mục lên trên giáo dân, là trung gian giữa Thiên Chúa và con người chỉ trong vòng 10 năm. Nhiều người cho rằng vẫn thiếu những thay đổi thực chất: ngài không cho phép phong chức cho các ông đã lập gia đình và cũng không cho phép phụ nữ làm phó tế. Đó là hai điểm dường như ngài do dự, như thể bàn tay ngài chùn lại trước sức ép phản đối. Liệu giáo hoàng kế tiếp có dám tiến thêm bước nữa không?
Một thần học của Dân Chúa
Giáo hội mà Đức Phanxicô mơ ước không phải là kim tự tháp. Đó là một thân thể sống động được tôn trọng, không chỉ có các linh mục mà còn có giáo dân đã được rửa tội, với tư cách là người đã được rửa tội, họ có thể đảm nhận trách nhiệm trong Giáo hội. Một lần nữa, đây là sự đứt gãy với truyền thống! Công đồng Vatican I, diễn ra năm 1870 trong một châu Âu đầy biến động bởi cuộc nổi dậy của các dân tộc, đã củng cố quyền lực của giáo hoàng, đặc biệt bằng cách tuyên bố tín điều “bất khả ngộ”. Công đồng Vatican II, sau Thế chiến II, khi công giáo trở thành một tôn giáo toàn cầu, đã đề cao quyền của các giám mục và nguyên tắc đồng nghị với giáo hoàng.
Và Đức Phanxicô mở ra một chu kỳ thứ ba: trách nhiệm thuộc về dân Chúa. Ngài mời gọi giáo dân cùng chia sẻ việc điều hành Giáo hội. Sau khi ngài được bầu chọn, tôi bắt đầu đọc các tài liệu và sách về Châu Mỹ Latinh quê hương của ngài, dần dần tôi hiểu rõ hơn. Ngài đến từ một nền công giáo xa trung tâm Rôma, nơi từ những năm 1960, các thần học gia Brazil, Argentina đã bắt đầu suy tư về vai trò của “dân Chúa”.
Từ đó hình thành “thần học giải phóng” nổi tiếng, từng bị Hồng y Ratzinger (sau này là Giáo hoàng Bênêđictô XVI) phản đối mạnh mẽ vì đã đưa đấu tranh giai cấp vào Giáo hội. Nhưng cũng từ suy tư đó, một hướng tiếp cận mềm hơn ra đời gọi là “thần học giáo dân”, công nhận nơi con người bình thường một sức sống nội tại, sự khôn ngoan và nguồn cảm hứng. Một cách làm mới khái niệm “cảm thức đức tin, sensus fidei fidelium” được truyền thống công giáo ghi nhận như một trực giác chung của toàn thể Dân Chúa, bắt nguồn từ thời Tân Ước.
Nhưng, để điều đó thành hiện thực, dân Chúa cần có cơ hội lên tiếng. Vì vậy, Đức Phanxicô đã quay về với tinh thần Giáo hội sơ khai, khơi dậy một truyền thống bị lãng quên: Thượng Hội đồng như một hình thức tham gia chung của cộng đoàn tín hữu. Nhờ Đức Phanxicô, người công giáo trên khắp thế giới mới thật sự hiểu synode là gì: một cuộc triệu tập rộng rãi để cùng bàn bạc, thảo luận về những vấn đề thời sự.
Giáo hội công giáo vốn có cấu trúc hình tháp, truyền thống gần như đã mất sức sống qua nhiều thế kỷ dù Công đồng Vatican II sau năm 1965 đã cố gắng phục hồi. Dưới thời Đức Gioan Phaolô II rồi Đức Bênêđíctô XVI, tôi theo dõi các Thượng Hội đồng tổ chức tại Rôma, nơi triệu tập các giám mục từ khắp nơi trên thế giới. Phải thú thật là tẻ nhạt! Những cuộc họp uể oải, nơi không có gì quan trọng được nói ra, báo chí không được phép dự, các giám mục thì chỉ im lặng chờ xem giáo hoàng phát biểu gì. Cảm giác chẳng khác nào xem phiên họp của Xô Viết Tối Cao ngày xưa, chứ không phải một hội nghị sinh động, xây dựng!
Đức Phanxicô đã tung thêm một “cú đá” nữa: ngài tạo ra tranh luận, mở cửa cho báo chí, mời gọi mọi giáo dân tham gia và cho ý kiến. Ngài đưa ra các chủ đề nhạy cảm, dễ gây tranh cãi: ly dị tái hôn, đồng tính, việc kết hôn của linh mục…
Cuộc tranh luận không hồi kết?
Thượng Hội đồng đã trở thành công cụ chính để mở ra các cuộc tranh luận trong Giáo hội, một không gian để Dân Chúa lên tiếng. Nhưng kết quả thì sao? Phần lớn các Thượng Hội đồng (về gia đình, Amazon, giới trẻ…) đều mở ra những cánh cửa. Nhưng lại không đưa ra giải pháp cụ thể nào. Dù vậy, nếu để tranh luận thì đã có tranh luận thật! Một hồng y kể lại, không gì làm Đức Phanxicô hứng thú hơn là những cuộc thảo luận sôi nổi. Trong một kỳ Thượng Hội đồng, khi tranh luận xoay quanh hôn nhân và ly dị, ngài đã cúi mình, chỉ vào tim rồi cười: “Nó đập mạnh đấy chứ, giống hệt nhịp tim này!” Đúng là mọi thứ chuyển động, nhưng không phải lúc nào cũng có hướng đi rõ ràng. Thậm chí, nhiều khi còn để lại mơ hồ.
“Nghịch lý thay, tự do ngôn luận mà Đức Phanxicô khuyến khích lại mang lợi thế cho… những người chống ngài!” Isabelle de Gaulmyn
Truyền thống của Giáo hội là khi Rôma lên tiếng, cuộc tranh luận kết thúc: “Roma locuta, causa finita. Rôma đã nói, là xong chuyện”. Nhưng dưới thời Đức Phanxicô, mọi thứ đảo ngược: Rôma lên tiếng, nhưng tranh cãi càng sôi sục. Rôma khơi mào đối thoại, rồi không kết lại điều gì… Ví dụ điển hình là chuyện đồng tính. Những phát biểu mập mờ của ngài thường xuyên mâu thuẫn với các tuyên bố cứng rắn của một số nhân vật trong Giáo triều. Vậy rốt cuộc, ngài nghĩ gì về đồng tính? Đến hôm nay, vẫn khó nói chắc, vì ngài luôn tránh đưa ra quan điểm dứt khoát về chủ đề nhạy cảm này.
Trớ trêu thay, chính sự cởi mở trong phát ngôn lại thành cơ hội cho các đối thủ công kích ngài. Như thể nắp nồi áp suất bất ngờ bật tung! Trước đây, Giáo hội luôn tìm mọi cách giữ hình ảnh thống nhất. Dù nội bộ có bất đồng, tất cả đều được giữ kín. Các nhà báo như tôi đi tìm tin tức, tìm những lời tâm sự ẩn danh của các giám mục hay hồng y. Phản đối công khai gần như không tồn tại. Nhưng từ khi Đức Phanxicô lên ngôi, mọi đòn công kích đều diễn ra công khai! Ngài mở toang cánh cửa tranh luận, và cũng trở thành mục tiêu yêu thích của cả phe bảo thủ lẫn cấp tiến.
Năm 2016, một nhóm bốn hồng y danh tiếng công khai chất vấn ngài qua văn bản dubia (“những nghi vấn”), liên quan đến tông huấn Amoris laetitia, trong đó có đề xuất những người ly dị tái hôn có thể được rước lễ sau một thời gian phân định cá nhân. Nhóm hồng y cho rằng đề xuất này “gây hoang mang, mơ hồ và làm nhiều tín hữu mất phương hướng”.
Một số giám mục Hoa Kỳ còn bị cáo buộc lên kế hoạch lật đổ giáo hoàng như nhà báo Nicolas Senèze đã tiết lộ trong quyển sách Nước Mỹ muốn thay đổi giáo hoàng như thế nào (Comment l’Amérique veut changer de pape, nxb. Bayard, 2019). Nếu vai trò giáo hoàng là gìn giữ sự hiệp nhất, thì rõ ràng dưới thời Đức Phanxicô, điều đó đã bị thử thách nghiêm trọng…
Nhưng cũng phải thừa nhận: trước ngài, vì né tránh các chủ đề nhạy cảm nên Giáo hội gần như giậm chân tại chỗ hoặc đi lui. Đức Phanxicô đã mở ra nhiều hướng đi mới. Vấn đề là ngài không để lại bản hướng dẫn sử dụng.
Cách làm này càng gây hoang mang khi giáo hoàng đề cao tính tập thể và tinh thần đồng nghị lại hành động mang tính cá nhân trong quản trị. Có lẽ vì ngài hiểu ngài sẽ không thể nào thắng được một Giáo triều vốn cứng nhắc và gần như bản chất đã chống lại thay đổi nên phải hành động dứt khoát. Cũng có thể đó là bản tính: một người quyết đoán, ít khi nhượng bộ hay lắng nghe ý kiến trái chiều. Kết quả cách ngài điều hành vừa rối rắm, đôi khi mâu thuẫn, vừa làm cho các cộng sự viên kiệt sức.
Yêu thế giới
Rõ ràng, Giáo triều Rôma không phải là điều quan trọng nhất dưới mắt ngài. Điều cốt lõi không nằm ở việc tái tổ chức Giáo hội, nhưng mở rộng cánh cửa Giáo hội ra với thế giới. Đó chính là trái tim của cuộc cách mạng mang tên Phanxicô. Với ngài, Giáo hội tồn tại là vì thế giới chứ không phải ngược lại. Nếu Giáo hội cần tiến lên, cần thay đổi, thì cũng là để sống trọn tinh thần Tin Mừng.
Văn kiện nổi bật nhất Đức Phanxicô ban hành cũng đảo ngược trật tự ưu tiên: rao giảng Tin Mừng được đặt trước giáo lý. Là kitô hữu, là sống Tin Mừng giữa đời, là chứng nhân qua hành động, chứ không phải người áp đặt quy tắc. Đó là cuộc cách mạng mang tính triệt để “Copernic” – đảo chiều hoàn toàn cách nhìn.
Từ thời Đức Phaolô VI trở đi, các giáo hoàng trước thường giữ thái độ dè chừng với thế giới. Đức Gioan Phaolô II lên án “Văn hóa sự chết”, ngài chỉ trích tự do tình dục. Đức Bênêđictô XVI nói đến “Chế độ độc tài của thuyết tương đối”. Trong quan điểm này, chỉ có Giáo hội nắm giữ chân lý, và có nhiệm vụ áp đặt chân lý đó lên thế giới.
Khi đọc các văn bản và phát biểu của Đức Phanxicô, tôi nhận ra: ngài đã “lật ngược bàn cờ”. Không còn là giáo lý soi sáng cho thế giới, mà là thế giới giúp giáo dân hiểu rõ hơn tinh thần Tin Mừng. Đức Phanxicô yêu thế giới này, theo nghĩa: thế giới càng lệch lạc, càng rối ren, thì Thiên Chúa càng yêu thương. Đó chính là “lòng thương xót của Thiên Chúa” mà ngài không ngừng nhắc đến.
Với cái nhìn này, Đức Phanxicô đã giúp Giáo hội thoát ra khỏi bế tắc của những thập kỷ trước, khi chúng ta thường xuyên tách biệt giáo lý với mục vụ, rao giảng một loạt nguyên tắc mà không quan tâm đến hoàn cảnh thực tế hay con người cụ thể. Khi tôi còn làm phóng viên tại Rôma, tôi cảm thấy Giáo hội đang trượt dần thành một hệ thống luật lệ khắt khe, đặt ranh giới rạch ròi giữa điều cấm và điều cho phép bất kể hoàn cảnh hay thời đại.
Dưới thời Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI, các bộ của Giáo triều thi nhau ban hành các văn kiện, chủ yếu xoay quanh các việc cấm đoán, đặc biệt là trong đời sống tính dục và hôn nhân. Giáo hội ngày càng giống như “trạm kiểm soát”, như chính Đức Phanxicô từng ví von: “Nơi người tín hữu phải trình đủ điều kiện mới được bước vào. Một Giáo hội của ‘những người sạch’ giữa một thế giới nhơ bẩn.”
Nhưng Đức Phanxicô chấp nhận sự phức tạp của con người và của cuộc sống. Ngài đặt Giáo hội cùng ngồi trên con thuyền thế giới với cả những lỗi lầm, những giới hạn, nhưng cũng với biết bao vẻ đẹp và tiềm năng. Ngài không tách rời giáo lý khỏi đời sống. Và chính điều đó đã giúp Giáo hội thoát ra khỏi lối mòn bế tắc.
Tin Mừng là để giúp con người sống tốt hơn, không phải để xét đoán. Đó là ý nghĩa thực sự của câu nói đã đi vào lịch sử: “Tôi là ai mà dám phán xét?”, câu trả lời của Đức Phanxicô trên máy bay khi ngài trả lời câu hỏi về người đồng tính.
Cái thiêng liêng trong một mảnh gỗ
Liệu Đức Phanxicô thực sự có lựa chọn nào khác không? Câu trả lời là: không. Vì những vụ lạm dụng tình dục và tội ác nhắm vào trẻ em đã làm thay đổi tất cả. Việc phát hiện ra thảm kịch đó, những vụ hiếp dâm trẻ em, những người yếu thế nhất, quý giá nhất do chính những người trong Giáo hội gây ra, đã làm cho Giáo hội không thể nào còn đứng trên con người và tự cho mình có quyền định đoạt cách sống của giáo dân.
Đức Bênêđictô XVI từng lo sợ về sự kết thúc của tôn giáo, về một thế giới không còn Thiên Chúa. Tại Paris, ở Viện Bernardins ngày 12 tháng 9 năm 2008, ngài đã lo âu: “Liệu con người có thể sống như thể Thiên Chúa không hiện diện không?” Nhưng với Đức Phanxicô, Thiên Chúa có mặt ngay trong thế giới này, và còn hiện diện trước cả Giáo hội.
Muốn gặp Thiên Chúa ư? Chúng ta đi về phía người nghèo, người bị gạt ra bên lề, người khốn khổ, yếu đuối, người sống ở vùng “ngoại vi” của xã hội. Những người di cư chính là dụ ngôn sống động của triều của ngài, bắt đầu từ chuyến đi thăm đảo Lampedusa tháng 7 năm 2013. Khi thấy ngài dâng lễ trên bàn thờ làm từ các mảnh gỗ vớt lên từ xác tàu đắm ở Địa Trung Hải, cách biệt quá xa với Đền thờ Thánh Phêrô, tôi hiểu thông điệp: cái thiêng liêng nằm trong những mảnh gỗ kia, chứ không nơi nào khác. Chính những người lang bạt, không nhà, không quốc tịch, không tiền bạc mới là những người đầu tiên được đón vào Nước Thiên Chúa.
Giáo hội của Đức Phanxicô là Giáo hội trong một thế giới đã thế tục hóa. Đức Phaolô VI đã rất lo lắng khi thấy xã hội đặt lại các nền tảng kitô giáo, và tìm cách khôi phục lại học thuyết “luật tự nhiên”, luật được cho là có giá trị phổ quát, áp dụng với mọi người. Đức Bênêđictô XVI thì bi quan về thế giới, ngài tìm cách xây dựng một cộng đồng kitô giáo thiểu số, nơi Giáo hội có lối sống và chân lý riêng của mình. Còn Đức Phanxicô thì xem việc thế tục hóa là cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng một cách tự do hơn.
“Dĩ nhiên, chúng ta không cần chờ đến Đức Phanxicô mới nhận ra thế giới đã đổi khác. Vì chính ngài đã bắt tay vào thay đổi Giáo hội để thích nghi với thực tế mới ấy.” Isabelle de Gaulmyn
Lễ Giáng Sinh năm 2019, ngài đã nói với các hồng y: “Chúng ta đến từ một thời đại mà ranh giới rất rõ ràng một bên là thế giới kitô giáo, một bên là thế giới chưa được loan báo Tin Mừng. Nhưng bây giờ, điều đó không còn tồn tại. Ngài lưu ý: những người chưa từng nghe đến Tin Mừng không chỉ còn ở các châu lục xa xôi, mà có mặt khắp nơi nhất là trong những đô thị khổng lồ trên khắp thế giới.”
Ngài kết thúc bằng lời cầu nguyện: “Anh chị em thân mến, chúng ta không còn sống trong một kitô giáo thống trị nữa, chúng ta không còn như thế nữa! Ngày nay, chúng ta không còn là những người duy nhất tạo ra văn hóa, cũng không phải là những người đi đầu, hay được lắng nghe nhiều nhất…”
Một Giáo hội mới cho một thế kỷ mới
Đức Phanxicô vị giáo hoàng của thời thế tục? Dù sao đi nữa, Giáo hội của ngài phải cùng bước đi với con người, Giáo hội không dựng lên một pháo đài khép kín và được bảo vệ cẩn thận. Dĩ nhiên, chúng ta không cần đợi đến ngài mới nhận ra quá trình thế tục hóa và sự thay đổi hoàn toàn trong mô hình xã hội. Nhưng chính Đức Phanxicô là người đã bắt tay vào việc chuyển mình để Giáo hội đối diện với thực tế mới này.
Với tôi, Đức Phanxicô là giáo hoàng đã đưa Giáo hội ra khỏi thế kỷ 19, thời mà Giáo hội còn gắn bó sâu sắc với một văn minh châu Âu mang đậm văn hóa kitô giáo. Ngài đã đưa Giáo hội bước vào thời toàn cầu hóa. Việc ngài đến từ Nam Mỹ đã giúp ngài tránh rơi vào lối mòn tư duy của Cựu Lục địa.
Một lần nữa, không chỉ Đức Phanxicô thay đổi mà cả thế giới thay đổi theo. Cán cân dân số toàn cầu đã thay đổi. Trọng tâm của kitô giáo giờ đây không còn nằm ở châu Âu, mà đã chuyển xuống Nam bán cầu.
Trọng tâm của thế giới cũng vậy. Tại Vatican, một giám mục từng nói với tôi, Đức Phanxicô có cái nhìn “Magellan” về Giáo hội, nghĩa là cái nhìn toàn cầu, khởi đi từ Nam bán cầu. Với ngài, châu Âu không còn là nơi có thể làm hồi sinh công giáo.
Giống như với người di cư, vùng Amazon là một “dẫn chứng” khác mà Đức Phanxicô muốn đặt ở trọng tâm các quan tâm của Giáo hội. Tháng 10 năm 2019, ngài triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục về Amazon một vùng đất rộng lớn, hội đủ mọi thách thức của thế giới ngày nay: bất bình đẳng, nghèo đói cùng cực, tài nguyên thiên nhiên bị đe dọa, bạo lực, văn hóa đa dạng. Một vị tiên tri lạ lùng, ngài đã đặt tương lai Giáo hội vào tay những miền đất xa xôi và mong manh như khu rừng khổng lồ này!
Hành trình này đầy hiểm nguy và gian nan. Nó đòi hỏi phải từ bỏ rất nhiều thứ. Giờ đây, khi Đức Phanxicô đã không còn, tôi không khỏi nghĩ: Liệu Giáo hội có đủ sức để thực hiện cú nhảy vĩ đại ấy không? Là người của thế kỷ 20, ngài vẫn giữ được cái nhìn rất lạc quan và khả năng đổi mới của kitô giáo. Nhưng ít nhất tại châu Âu, thông điệp của ngài có phần lạc lõng giữa một thể chế đang co mình lại, một cộng đồng công giáo khủng hoảng căn tính, hoang mang và mất phương hướng giữa một xã hội đã rời xa kitô giáo. Tín hữu có xu hướng bám víu vào truyền thống hơn là mở ra điều mới.
Linh mục Lombardi, cựu phát ngôn viên của Đức Bênêđíctô XVI kể với tôi: “Có một lời trách móc Đức Phanxicô thường nghe ở Vatican,” đó là ngài đã không tham dự buổi hòa nhạc long trọng do đài RAI tổ chức trong những tháng đầu triều của ngài, một buổi tối nghiêm túc, các nghệ sĩ hàng đầu trình diễn các tác phẩm kinh điển của âm nhạc châu Âu. Tối hôm đó, ai cũng có mặt, trừ ngài, ngài cho biết ngài có việc quan trọng hơn. Chiếc ghế dành cho ngài bị để trống suốt buổi trình diễn, vô tình hay có chủ đích, không ai rõ. Nhưng hình ảnh ấy đã để lại cảm giác hụt hẫng. Với một số người, đó là dấu hiệu của sự thờ ơ với văn hóa kitô giáo châu Âu, một lạnh nhạt làm họ bị sốc và mãi không quên.
Dù sao, điều đó cũng thể hiện rõ: kitô giáo nhất là tại châu Âu cần một cuộc hoán cải tận gốc, một hành trình đầy thử thách đang chờ đợi phía trước ở thế kỷ 21. Một thách thức khổng lồ nhưng Đức Phanxicô đã phác họa được những đường nét đầu tiên. Một giáo hoàng của lịch sử? Chắc chắn là vậy. Nhưng trước thách thức đó, một lần nữa, ngài không chỉ ra con đường cụ thể. Ngài chỉ mời gọi chúng ta: tiếp tục bước đi.
Têrêxa Trần Tuyết Hiền dịch
Nguồn: phanxico.vn
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Phó Tổng biên tập báo La Croix, 2025-05-06
Đã đến giờ 133 hồng y cử tri bầu tân giáo hoàng. Theo giáo lý công giáo, chính Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng để các hồng y quyết định. Và như thường lệ, trong kitô giáo sự tự do của con người là vô cùng to lớn.
Khi bước vào mật nghị tại Nhà nguyện Sistine ngày thứ tư 7 tháng 5, các hồng y sẽ nghĩ gì? Chắc chắn khi bước vào Nhà nguyện Sistine, họ sẽ nhìn bức tranh nổi tiếng của danh họa Michelangelo, trong đó ngón trỏ của Chúa chạm vào ngón trỏ của ông Adong nhưng không chạm vào người ông. Một dấu hiệu của liên minh giữa con người và Đấng Tạo dựng mà các hồng y sẽ tìm cách đổi mới trong cuộc bầu cử này. Vì, theo giáo lý công giáo, chính Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng để họ quyết định. Và như thường lệ, trong kitô giáo sự tự do dành cho con người là vô cùng to lớn.
Đây là một quá trình vừa chậm vừa nhanh vừa chóng mặt theo mọi cách, và sẽ kết thúc khi bước vào mật nghị. Trong những ngày gần đây, các cuộc thảo luận diễn ra tại Rôma cho thấy nhiệm vụ này khó khăn như thế nào. Vì thế Giáo hội cần một giáo hoàng có thể bảo đảm sự thống nhất của tổ chức, biết cách nói chuyện với các nước Nam bán cầu và phát biểu trước các nhà lãnh đạo của một thế giới đang trong tình trạng hỗn loạn toàn diện. Ngài phải là người nhạy cảm, có sức lôi cuốn, là thần học gia, người giao tiếp tốt, tiếp thu di sản của Đức Phanxicô. Rõ ràng đây là một nhiệm vụ bất khả thi.
Tuy nhiên, các hồng y tham dự mật nghị cho thấy các ngài rất bình tâm, một thái độ đáng ngạc nhiên. Mặc dù họ biết, nhiều hồng y thừa nhận, “rằng sẽ không có ứng viên nào có đủ mọi đức tính cần thiết”. Dù thời gian các hồng y phải lựa chọn người lãnh đạo của 1,4 tỷ người công giáo trong ít nhất là một thập kỷ tới là không còn nhiều. Có lẽ các hồng y đang trông cậy vào một số yếu tố để giúp họ lựa chọn. Cuối cùng, một hồng y đã được hỏi trong tuần này: “Sau tất cả những cuộc thảo luận, cuộc bầu cử này có diễn ra một cách tự nhiên không?” Câu trả lời của ngài: “Tôi đặc biệt hy vọng rằng đó sẽ là điều siêu nhiên.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn

Vatican News
Một số nữ tu người Philippines hiện diện tại Quảng trường nói: “Chúng tôi không thất vọng, nhưng tin tưởng. Chúng tôi hy vọng Đức Giáo Hoàng sẽ sớm xuất hiện. Các Hồng y cần phải suy tư rất sâu sắc. Mỗi Hồng y đều mang theo mình một phần sống động của Kitô giáo và chọn Giáo hoàng vì lợi ích của Giáo hội. Chúng tôi không dự đoán ai sẽ là Giáo hoàng. Một Mật nghị kéo dài cũng là một dấu hiệu tốt. Chúng tôi hy vọng một vị Giáo hoàng lắng nghe Dân Chúa, đồng hành cùng với mọi người”.
Hai nữ tu khác đến từ Tổng Giáo Phận Guadalajara của Mexico nói: “Hôm qua, có một lúc, chúng tôi tin rằng thời điểm đã đến, bầu không khí đã khác. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Giáo hội rất rõ: thật tuyệt khi cảm thấy mình là một phần của một Giáo hội sống động như vậy. Chúng tôi hy vọng có một Giáo hoàng không quá lớn tuổi, có khả năng thực hiện các chuyến tông du và thể hiện sự hiện diện của ngài ở nơi cần nhất”.
Đến từ trung tâm Ba Lan, Giáo phận Tarnow, một số người trẻ và người lớn tuổi khẳng định: “Không, chúng tôi không thất vọng. Khói đen là điều có thể dự đoán được. Đây là thời gian cho cầu nguyện. Chúng tôi đã trải nghiệm điều này với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Thời gian là của Chúa, không phải của chúng ta”.
Và họ nói thêm: “Chúng tôi muốn một Đức Giáo Hoàng giản dị, nhưng mạnh mẽ, gần gũi với tất cả mọi người, ngay cả với những người không phải là Kitô hữu, không sợ sự thật. Thế giới cần một mục tử yêu thương người nghèo”. Một thiếu niên trong nhóm kết luận: “Tôi muốn một Đức Giáo Hoàng không chỉ quan tâm đến người giàu, người có đặc quyền”.
Sau khi có khói đen lần thứ hai, mọi người ở lại giây lát, thinh lặng, cầu nguyện và tiếp tục chờ đợi trong hy vọng sẽ xuất hiện khói trắng, báo hiệu Giáo hội Công giáo có Giáo hoàng.