Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha Lêô XIV đã gửi điện chia buồn đến toàn thể Giáo hội Công giáo tại Praha và Cộng hòa Séc, về việc Đức Hồng y Dominik Duka, Dòng Đa Minh, nguyên Tổng giám mục Giáo phận Praha qua đời hôm mùng 04 tháng Mười Một vừa qua và sẽ được an táng vào ngày 15 tháng Mười Một tới đây.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trong điện văn gửi Đức Tổng giám mục Jan Graubner, đương kim Tổng giám mục Praha, Đức Thánh cha viết: “Khi hay tin Đức Hồng y Dominik Duka, Dòng Đa Minh, nguyên Tổng Giám mục Praha, qua đời, tôi bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với cộng đoàn giáo phận, các anh em Dòng Đa Minh, các linh mục, tu sĩ và tín hữu, những người đã tìm thấy nơi ngài một mục tử kiên cường trong đức tin và là người loan báo Tin mừng đầy can đảm.
Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì sứ vụ mục tử phong phú của Đức Cố Hồng y, và khâm phục nhớ lại lòng can đảm của ngài trong thời kỳ bách hại, bị tước đoạt tự do nhưng vẫn trung thành với Chúa Kitô và Hội thánh. Với tấm lòng của người cha, ngài đã dẫn dắt Dân Chúa, thúc đẩy hòa giải, tự do tôn giáo và đối thoại giữa đức tin và xã hội. Sứ vụ giám mục của ngài, đặt nền tảng trên đặc sủng Đa Minh về chân lý và bác ái, như chính châm ngôn giám mục của ngài “In Spiritu Veritatis” (Trong tinh thần của chân lý), vẫn là một tấm gương về sự tận tụy trung thành với sứ mạng.
Trong khi phó thác linh hồn người tôi tớ trung thành và quảng đại này cho lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi cầu xin Chúa đón nhận Đức Cố Hồng y vào trong niềm vui Nước Trời, và tôi chân thành ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả những ai đang thương tiếc sự ra đi của ngài và tham dự lễ an táng.”
Sau hai năm bị gián đoạn vì chiến tranh giữa Hamas với Israel, lễ Giáng sinh năm nay, với các lễ hội, sẽ được cử hành theo truyền thống tại Bethlehem.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Qua một sứ điệp Video, Thị trưởng Maher Canawati của thành Bethlehem cho biết như trên. Theo truyền thống, nghi thức thắp sáng cây thông Giáng sinh tại Quảng trường Máng Cỏ sẽ được cử hành trọng thể vào ngày 06 tháng Mười Hai. Chợ Giáng sinh cũng sẽ được tổ chức lại sau hai năm tạm ngưng.
Thị trưởng Canawati nói thêm rằng: “Ngay cả trong những thời kỳ đau thương, ngay cả khi Gaza đang đổ máu, ánh sáng của chúng ta vẫn không tắt. Tinh thần hòa bình, tình yêu và niềm hy vọng kiên định của Bethlehem vẫn còn sống động.”
Giáo hội Công giáo Latinh ở Thánh địa dự kiến số người tham dự lễ nửa đêm Giáng sinh (24 rạng 25 tháng Mười Hai) năm nay sẽ tăng mạnh. Do đó, vé vào cửa sẽ được phát hành và cần đặt trước, theo thông tin từ Trung tâm Thông tin Kitô giáo (CIC).
(Kathpress 6-11-2025)
Bệnh viện Bambino Gesù, Chúa Hài Đồng Giêsu, của Tòa Thánh ở Roma, vừa hoàn thành sứ vụ giúp chăm sóc sức khỏe cho các trẻ em tại tỉnh Kampot, miền nam Campuchia.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trong hơn 15 năm qua, theo thỏa thuận hợp tác quốc tế, bệnh viện này đã thường xuyên hỗ trợ y tế và đào tạo nhân lực tại chỗ.
Điều trị miễn phí cho hơn 50 trẻ em
Theo thông cáo báo chí công bố hôm mùng 05 tháng Mười Một vừa qua, trong khuôn khổ dự án tiết niệu hiện nay, hơn 50 trẻ em và thanh thiếu niên từ 8 tháng đến 17 tuổi, mắc dị tật hệ tiết niệu - sinh dục, đã được điều trị hoàn toàn miễn phí chỉ trong vòng hai năm.
Những câu chuyện nhỏ với kết thúc có hậu
Một ví dụ điển hình cho thành công của sứ vụ là câu chuyện của hai anh em họ It (10 tuổi) và Em (17 tuổi), đều mắc chứng lỗ tiểu lệch thấp (hypospadie). Sau nhiều năm tìm kiếm sự giúp đỡ - bị gián đoạn do thiếu bác sĩ chuyên khoa và việc tạm ngừng các chuyến công tác trong thời kỳ đại dịch - cuối cùng, gia đình các em đã nhận được ca điều trị mà họ hằng mong đợi.
Hỗ trợ tại bệnh viện Sonja Kill Memorial
Kể từ khi dự án được khởi động lại vào năm 2024, bệnh viện Bambino Gesù thực hiện các ca phẫu thuật tại Bệnh viện Tưởng niệm Sonja Kill ở Kampot - một cơ sở tư nhân cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho những gia đình dễ bị tổn thương nhất trong khu vực.
Trong chuyến thăm tái khám gần đây nhất, hai em It và Em đã được kiểm tra hậu phẫu, đạt kết quả xuất sắc cả về chức năng lẫn thẩm mỹ.
Truyền đạt tri thức và khôi phục phẩm giá
Bác sĩ Michele Innocenzi, chuyên khoa tiết niệu nhi của Bambino Gesù và là thành viên đoàn công tác, chia sẻ rằng: “Thực hiện những ca phẫu thuật phức tạp trong điều kiện hạn chế có nghĩa là trả lại cho các em và gia đình các em phẩm giá và một tương lai tốt đẹp. Tuy nhiên, bác sĩ cũng nhấn mạnh rằng giá trị thật sự của dự án nằm ở việc đào tạo các bác sĩ địa phương, “để sức khỏe trở thành một quyền lợi có thể tiếp cận cho mọi người.”
Đào tạo y tế cho bác sĩ bản địa
Từ năm 2010, Bệnh viện Bambino Gesù đã hợp tác với chính phủ Campuchia nhằm hỗ trợ và phát triển chuyên sâu các lĩnh vực sơ sinh học và phẫu thuật nhi khoa. Dự án bao gồm:
- Đào tạo từ xa cho nhân viên y tế địa phương;
- Các sứ vụ trực tiếp tại chỗ, kết hợp đào tạo thực hành và chăm sóc sức khỏe thông qua phòng khám lưu động (Clinica mobile), phương tiện y tế có thể đến được các làng mạc hẻo lánh ở nông thôn.
Đơn vị y tế lưu động này thường ghé thăm những ngôi làng chỉ có y tá hoặc nữ hộ sinh, tiến hành khám bệnh, phát thuốc, và xác định những trường hợp cần xét nghiệm sâu hơn hoặc phẫu thuật. Các trẻ được chuyển đến bệnh viện Kampot được điều trị miễn phí hoặc với chi phí thấp.
Bệnh viện Chúa Hài đồng Gesù là bệnh viện duy nhất thuộc quyền sở hữu của Tòa Thánh, được thành lập năm 1869 là năm cuối cùng của Nước Tòa Thánh. Hiện nay, đây là Bệnh viện đa khoa và là trung tâm nghiên cứu nhi khoa lớn nhất tại Âu châu. Bệnh viện có các cơ sở ở ba nơi khác nhau, với tổng cộng 800 giường bệnh và 2.800 nhân viên các cấp.
Hồi tháng Hai năm ngoái, 2024, chính phủ Ý và Tòa Thánh đã thỏa thuận về dự án di chuyển bệnh viện hiện nay ở gần Vatican đến một địa điểm rộng hơn gấp bốn lần, khu vực này trước kia là bệnh viện Carlo Forlanini ở Roma.
(Tổng hợp 5-11-2025)
Gedenken an Kriegsopfer in der Ukraine | AFP or licensors
Gần bốn năm sau khi Nga phát động cuộc chiến xâm lược Ucraina, người dân tại đây, đang phải chịu đựng nhiều chấn thương tâm lý nặng nề. “Cả binh sĩ lẫn dân thường đều đang chịu áp lực tâm lý rất lớn”.
Phúc Nhạc | RVA
Đức cha Pawlo Hontscharuk, Giám mục Kharkiv ở miền đông Ucraina, đã nói như trên, hôm mùng 04 tháng Mười Một vừa qua với tổ chức bác ái “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, trụ sở tại thành phố Munich, Nam Đức.
Ngài kể: “Chúng tôi mang trong mình rất nhiều đau khổ, nhưng chúng tôi biết rằng mình phải tiếp tục sống. Chúng tôi sống từng ngày một.” Đặc biệt, âm thanh vo ve không ngừng của máy bay không người lái gây áp lực tâm lý nặng nề. Tiếng vo ve ấy liên tục đến mức người ta còn cảm thấy sợ hãi khi không nghe thấy nữa”.
Theo Đức cha Pawlo, “Mối nguy lớn nhất đối với chúng tôi chính là sự im lặng. Khi mọi thứ yên tĩnh, chúng tôi không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo... Đáng sợ nhất là các loại máy bay không người lái có sợi quang, với tầm hoạt động khoảng 50km: “Chúng bắn vào mọi thứ chuyển động, mọi thứ còn sống. Chúng tôi sống trong trạng thái căng thẳng thường trực.”
Đức cha nhấn mạnh rằng: “Vì thế, các khóa trị liệu chấn thương hết sức cần thiết. Bản thân tôi, cũng như tất cả các linh mục và nữ tu, đều được đào tạo tâm lý liên tục. Điều này rất quan trọng để giúp những người gặp khó khăn tinh thần, căng thẳng trong gia đình, bạo lực và phòng ngừa tự tử”.
Theo thông báo của tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ, Ucraina hiện là quốc gia được cơ quan này hỗ trợ nhiều nhất. Trong năm 2024, tổ chức đã tài trợ hơn 300 dự án với gần 8,5 triệu Euro.
Theo Đức cha Pawlo, “máy phát điện là một trong những hình thức hỗ trợ quan trọng nhất, vì quân đội Nga thường xuyên tấn công có chủ đích vào hệ thống điện, nhất là trong mùa đông. Không có máy phát điện, sẽ không có sưởi ấm - và không có sự giúp đỡ này, chúng tôi không thể sống nổi.”
(Kathpress 5-11-2025)
Vatican News
Được bổ nhiệm vào ngày 29/10, Đại sứ Shin Hyung-sik là một học giả và nhà hoạt động có kinh nghiệm sâu rộng trong lĩnh vực chính sách và dân chủ. Ông từng giữ chức Tổng thư ký Viện Chính sách Tương lai và là giáo sư trợ giảng, mang theo mình kinh nghiệm từ xã hội dân sự và học thuật vào vai trò ngoại giao mới.
Đại sứ Shin bày tỏ mong muốn trở thành “cầu nối” nhằm xây dựng lòng tin và đạt được tiến bộ cụ thể giữa Vatican, Giáo hội Hàn Quốc và chính quyền Triều Tiên. Đại sứ Shin nhấn mạnh sứ mạng phải lên tiếng vì hòa bình và hòa giải cho bán đảo, vì Hàn Quốc và Triều Tiên “trên danh nghĩa vẫn đang trong tình trạng chiến tranh” kể từ sau Hiệp định đình chiến ngày 27/7/1953 thay vì một hiệp ước hòa bình chính thức.
Điểm nhấn chiến lược trong nhiệm kỳ của ông là chuyến thăm dự kiến của Đức Thánh Cha Leo XIV đến Hàn Quốc trong khuôn khổ Ngày Giới trẻ Thế giới vào năm 2027. Đại sứ Shin mô tả sự kiện này là “một cơ hội ngoại giao mang tính quyết định để khôi phục động lực đối thoại vì hòa bình”.
Vị tân Đại sứ cũng hy vọng “Nếu Giáo hoàng cũng thăm Triều Tiên vào thời điểm này, tôi tin chắc rằng đó sẽ là một cơ hội quyết định để giảm căng thẳng”. Hy vọng này được củng cố sau khi các nhà lập pháp Hàn Quốc và Tổng thống Lee Jae Myung trước đó đã gửi thư chính thức thỉnh cầu Giáo hoàng thăm Bình Nhưỡng.
Đại sứ Shin cho biết Đức Thánh Cha Leo XIV rất quan tâm đến hòa bình và mong muốn gặp gỡ giới trẻ Triều Tiên. Ông Shin hy vọng cuộc gặp có thể diễn ra bên lề Ngày Giới trẻ Thế giới Seoul 2027.
Ông nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho Đại hội này là nhiệm vụ quan trọng, coi đây là một sự kiện quốc tế nhằm “gửi thông điệp hòa bình và đoàn kết đến thế giới”. Và vì vậy, “Giáo hội, chính phủ và xã hội dân sự sẽ cùng tham gia vào các cuộc tham vấn để đảm bảo sự hỗ trợ cần thiết từ chính phủ”.
Vatican News
"Hiến chương Đại kết" cập nhật được Đức Tổng Giám mục Nikitas, Chủ tịch Hội đồng các Giáo hội Kitô châu Âu, và Đức Tổng Giám mục Gintaras Grušas, Chủ tịch các Hội đồng Giám mục châu Âu, long trọng ký kết. Hai vị lãnh đạo nhấn mạnh rằng việc cập nhật văn kiện không chỉ mang tính biểu trưng, nhưng là lời kêu gọi canh tân tinh thần hiệp thông giữa các Giáo hội Kitô giáo.
Đức Tổng Giám mục Nikitas khẳng định: “Charta Œcumenica là lời nhắc nhở lương tâm và lời mời gọi cộng tác. Trong một châu Âu bị phân mảnh và tục hóa, văn kiện này mời gọi chúng ta tái khám phá sức mạnh của hiệp thông, cùng nhau loan báo Tin Mừng, bảo vệ phẩm giá con người và dấn thân vì công lý, hòa bình, chăm sóc thụ tạo”.
Đức Tổng Giám mục Grušas nhấn mạnh rằng văn kiện được ban hành vào thời điểm hệ trọng đối với châu Âu, khi lục địa còn mang vết thương chiến tranh, khủng hoảng người di cư và những thách đố đạo đức do công nghệ mới. Ngài nói: “Các Giáo hội được mời gọi trở nên dấu chỉ hiệp nhất bằng lời nói và hành động. Hiến chương nhắc chúng ta khiêm tốn nhìn lại quá khứ, chữa lành vết thương, và mở ra không gian hòa giải – đặc biệt cho người trẻ, những người có vai trò định hình tương lai đại kết.”
Charta Œcumenica lần đầu được ký năm 2001 và đã trở thành nền tảng cho hợp tác đại kết tại châu Âu. Phiên bản 2025 – được công bố đúng dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa – phản ánh bối cảnh xã hội, thiêng liêng và sinh thái đang đổi thay. Văn kiện đề cập đến hòa bình, đón nhận người di cư, bảo vệ môi trường, đối thoại với Do Thái giáo và Hồi giáo, cũng như định hướng Kitô giáo trước các tiến bộ công nghệ.
Hiến chương không có giá trị pháp lý hay tín lý, nhưng mang sức nặng luân lý và thiêng liêng, mời gọi các Giáo hội tự do đón nhận và áp dụng. Văn kiện hướng tới việc nuôi dưỡng một “văn hóa đại kết”, từ sống đức tin hằng ngày đến hoạt động mục vụ, phụng vụ và giáo dục thần học – để cùng nhau góp phần xây dựng tương lai Kitô giáo tại châu Âu.
Vatican News
Ngày nay, Giáo hội đang lữ hành trong bối cảnh Năm Thánh 2025 với chủ đề “Những người hành hương của Hy vọng”, đòi hỏi một sự làm mới lại cảm thức nên thánh đích thực. Sự thánh thiện không phải là một lối thoát khỏi thế giới, mà là con đường duy nhất dẫn đến Hy Vọng đích thực ngay giữa những biến động, sự ồn ào và cám dỗ của thế giới hôm nay.
Việc làm mới này chính là tái khám phá ơn gọi phổ quát đã được Công Đồng Chung Vatican II long trọng tái khẳng định. Để thực hiện sự canh tân này, trước hết, chúng ta phải trở về với nền tảng thần học cốt lõi, bắt đầu từ nguồn mạch thánh thiện duy nhất là chính Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện Duy nhất
Việc canh tân cảm thức nên thánh phải bắt nguồn từ một sự hiểu biết sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa. Sự thánh thiện là ý niệm cốt lõi trong thần học, bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Về bản chất, Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện duy nhất, và mọi sự thánh thiện khác đều xuất phát và phụ thuộc vào Người.
Trong tiếng Do Thái cổ, từ qadash mang ý nghĩa là “được tách riêng ra” và “dành riêng, thánh hiến”. Khi áp dụng cho Thiên Chúa, qadash không chỉ là một thuộc tính, mà là bản chất của chính Người, thể hiện sự siêu việt hoàn toàn so với mọi tạo vật.
Sự siêu việt này biểu hiện ở hai khía cạnh: xét về hữu thể, Thiên Chúa không bị giới hạn bởi không gian, thời gian hay vật chất, là Đấng hoàn toàn khác biệt; xét về mặt đạo đức, Người tách biệt với mọi bất toàn và mọi điều ác, là Sự Thanh Khiết và Tốt Lành tuyệt đối. Nói tóm lại, Thiên Chúa là thánh bởi vì Người khác biệt trong sự vĩ đại, vinh quang và thanh khiết so với tất cả những gì không phải là Người.
Vì Thiên Chúa là Đấng qadash duy nhất, mọi sự thánh thiện khác đều bắt nguồn từ Người. Một vật, một người, hay một ngày trở nên “thánh” không phải do bản chất tự thân mà là vì chúng đã được “tách riêng ra” và “dành riêng” cho việc phục vụ hoặc thuộc về Thiên Chúa. Sự thánh thiện do đó không phải là một đức tính mà con người có thể tự mình tạo ra hay sở hữu, mà là một quà tặng và là một mối liên hệ mật thiết với Người.
Sự thánh thiện của Kitô hữu: Sống trong Đức Kitô
Sự canh tân cảm thức nên thánh chủ yếu nằm ở việc tái định nghĩa nơi chốn và cách thức nên thánh của người Kitô hữu. Trong quá khứ, nhiều Kitô hữu vẫn còn mang nặng quan niệm sai lầm, hình dung sự thánh thiện là một cuộc đời khổ hạnh, tách biệt khỏi xã hội, gắn liền với những phép lạ cả thể hay những công việc phi thường.
Nhưng Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong Tông huấn Vui mừng và Hân hoan (Gaudete et Exsultate) về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay, đã đưa ra hình ảnh mới mẻ, làm mới cảm thức nên thánh khi gọi đó là những “thánh nhân bên cạnh nhà mình”, hay các vị thánh “ở kề bên” - những người sống thánh thiện giữa những điều bình thường. Sự thánh thiện không phải là đặc ân dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ mà là trách nhiệm của tất cả mọi người đã chịu phép Rửa.
Thánh nhân không phải là người không bao giờ phạm lỗi, mà là người biết đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã, vì sự thánh thiện không xóa bỏ yếu đuối con người, nhưng biến đổi nó nhờ Lòng Thương Xót của Chúa. Cốt lõi của sự thánh thiện Kitô hữu là lời mời gọi được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, khi mọi người và mọi vật được kết hợp với Người.
Sự thánh thiện này được ban cho Kitô hữu qua Bí Tích Rửa Tội, vì Đức Kitô chính là hiện thân trọn vẹn và hoàn hảo của sự thánh thiện, là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Nên thánh một cách sâu sắc và đơn giản, chính là trở nên giống Chúa Giêsu hơn mỗi ngày – suy nghĩ, hành động, và yêu thương như Người đã yêu, biến đổi nội tâm để “mặc lấy tâm tình của Đức Kitô” (Pl 2:5).
Tuyên ngôn của Công Đồng Vatican II qua Hiến chế Tín lý Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), đã làm nền tảng thần học cho sự làm mới này, khẳng định: “Mọi người trong Giáo hội, dù thuộc bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi nên thánh”. Tuyên ngôn này có ý nghĩa cách mạng vì nó xóa bỏ mọi quan niệm phân biệt sự thánh thiện theo cấp bậc hay chức vụ, mời gọi giáo dân nên thánh giữa lòng thế giới, thánh hóa chính những thực tại trần thế mà họ đang sống và làm việc.
Ba trụ cột dẫn đến sự thánh thiện phổ quát
Việc làm mới lại cảm thức nên thánh không dừng lại ở lý thuyết mà phải được thực hành qua những phương thế cụ thể trong đời sống hàng ngày, được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI chỉ ra là ba trụ cột căn bản của đời sống Giáo hội: Công bố Lời Chúa, Cử hành các Bí Tích, và Thực thi sứ vụ Bác ái.
Trước hết, việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa là nền tảng đầu tiên và cốt yếu: Lời Chúa là ánh sáng dẫn lối, là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn, giúp chúng ta nhận ra khuôn mặt Chúa Cha và ý muốn của Người. Để Lời Chúa biến đổi, chúng ta không chỉ đọc Kinh Thánh để biết, mà để gặp gỡ Chúa qua quá trình cầu nguyện, suy niệm, chiêm niệm và hành động. Nên thánh không thể tách rời cầu nguyện, dù là năm phút tĩnh lặng hay những lời nguyện tắt, tất cả đều là những “hơi thở của tâm hồn”, nối kết ta với Thiên Chúa.
Kế đến, các Bí Tích, đặc biệt là Thánh Thể và Hòa Giải, là những trợ lực mạnh mẽ nhất cho đường nên thánh. Thánh Thể là “nguồn mạch và đỉnh cao của toàn bộ đời sống Kitô giáo”, khi rước Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta đón nhận chính Đấng Thánh vào trong tâm hồn. Sự kết hiệp này là đỉnh điểm của hành trình nên thánh, thanh luyện và biến đổi chúng ta từ bên trong.
Bí Tích Hòa Giải chính là “bí tích của sự nên thánh”, giúp chúng ta liên tục được giao hòa với Chúa, đón nhận Lòng Thương Xót, và can đảm đứng dậy sau sa ngã để tiếp tục bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Cuối cùng, sự thánh thiện được chứng tỏ qua hành động yêu thương cụ thể, vì Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: “Đức ái không phải là một loại hoạt động từ thiện mà Giáo hội có thể bỏ qua được, nhưng thuộc về bản tính của Giáo hội”. Thánh Têrêsa Calcutta dạy rằng không cần làm những việc lớn lao, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao, và trong mỗi người nghèo, người bệnh, người bị bỏ rơi, chúng ta phục vụ chính Chúa Kitô, qua đó biến bác ái thành trụ cột không thể thiếu của sự nên thánh.
Thánh hóa đời sống thường ngày theo tinh thần của Thánh Josemaría Escrivá
Thánh Josemaría Escrivá (1902–1975) đã đưa ra phương thức canh tân cảm thức nên thánh, bằng cách tái khẳng định chân lý sâu sắc: đời sống thường ngày chính là nơi gặp gỡ Chúa Kitô, và mọi ngả đường trần gian đều là ngả đường thần linh.
Giáo huấn trung tâm của ngài là “biến công việc thành lời cầu nguyện”; ngài dạy rằng công việc không phải là gánh nặng, mà là một phương tiện để nên thánh và phục vụ tha nhân. Ngài thúc giục mọi người lao động với sự hoàn hảo và chuyên nghiệp cao nhất, vì đó là của lễ dâng lên Thiên Chúa. Điều này được tóm tắt trong lời dạy nổi tiếng: “Hãy thánh hóa công việc của con, hãy thánh hóa chính mình trong công việc của con, và hãy thánh hóa người khác qua công việc của con”, biến công việc của một kỹ sư hay một người nội trợ đều có thể trở thành “bàn thờ” nơi phụng vụ được cử hành.
Kế đến, ngài đề cao nhân đức anh hùng trong những điều nhỏ bé, vì sự thánh thiện không đòi hỏi những hành động phi thường, mà là sự trung thành một cách anh hùng trong những chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống, từ sự đúng giờ, ngăn nắp, nụ cười nhân hậu, sự nhẫn nại trong gia đình, đến sự tỉ mỉ trong nhiệm vụ. Ngài dạy: “Thiên Chúa không cần sự hy sinh lớn lao. Ngài chỉ cần con thực hiện nhiệm vụ của mình và hoàn thành công việc của mình bằng tình yêu”.
Sức mạnh của sự thánh thiện giữa lòng thế giới
Việc làm mới cảm thức về ơn gọi nên thánh giữa lòng thế giới đòi hỏi chúng ta phải mở rộng tầm nhìn vượt ra khỏi những vị thánh được tôn phong trên bàn thờ, để khám phá vẻ đẹp và sức mạnh của sự thánh thiện ngay giữa đời thường.
Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong Tông huấn Vui mừng và Hân hoan, một lần nữa nhắc nhở chúng ta: Sự thánh thiện đích thực không bao giờ là một chiến tích cá nhân cô độc, mà là một hành trình thuộc về dân thánh của Thiên Chúa. Chúng ta được thánh hóa trong mạng lưới tương quan phức tạp của cộng đồng nhân loại, bởi lẽ “chẳng ai được cứu độ một mình”. Chính trong sự hiệp thông này, sự thánh thiện sáng chói nhất lại nằm ở “tầng lớp giữa của con đường nên thánh” - nơi sự kiên trì âm thầm của những người cha người mẹ nuôi dưỡng con cái với tình thương bao la, những người lao động vất vả lo toan cho gia đình, hay những bệnh nhân cao niên không đánh mất nụ cười.
Những “vị thánh ở kề bên” này là tấm gương phản chiếu sự hiện diện sống động của Thiên Chúa ngay giữa đời thường. Như Thánh Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá đã chỉ ra, lịch sử cứu độ thực sự thường được định đoạt bởi những “tâm hồn mà chẳng sử sách nào đề cập đến”. Những hành động kiên trung, âm thầm và đầy yêu thương đó chính là những bước ngoặt quyết định nhất, không chỉ trong lịch sử thế giới mà còn trong đời sống riêng của mỗi người chúng ta.
Để làm mới lại ơn gọi nên thánh, chúng ta được mời gọi trở về với vẻ đẹp và sức mạnh của sự thánh thiện hằng ngày và đầy âm thầm này. Đó chính là men, là ánh sáng, là sức sống làm cho Tin Mừng trở nên hữu hình và đáng tin cậy nhất trong thế giới hôm nay.
Tại một vùng hẻo lánh của thuộc khu vực Davao de Oro của Philippines, nơi chỉ có thể đến được bằng habal-habal, loại xe gắn máy chở khách phổ biến tại địa phương, hai nữ tu đã nhóm lên một ngọn lửa hy vọng giữa những gia đình nghèo, những đứa trẻ thiếu ăn và những người trẻ bị cuộc sống ép buộc phải đưa ra những chọn lựa sớm vì cảnh khốn cùng.Vatican News
“Có những đứa trẻ khóc vì đói. Ở đây, nhiều người phải chọn giữa đi lễ hay kiếm chút tiền để ăn. Trong giới trẻ, việc sống chung sớm khá phổ biến, được họ và cha mẹ xem như một cách để giảm bớt miệng ăn – một lối nghĩ sai nhưng đã ăn sâu”. Đó là lời của sơ Erlinda D. Tumulak, người cùng với sơ Ruby Eden sống trong một ngôi làng hẻo lánh giữa núi rừng Compostela, được bao quanh bởi rừng rậm, ruộng bắp và những con đường biến thành suối bùn vào mùa mưa.
Giữa núi rừng, nơi nhiều người chưa biết Chúa
Purok 16-A Sitio Kilabot, ở vùng núi Compostela, dường như là một thế giới riêng biệt. Rừng, ruộng bắp và những lối mòn đầy bùn khiến việc đi lại gần như bất khả vào mùa mưa. Để đến được đó, người ta phải ngồi habal-habal, chiếc xe chở người và các bao gạo trượt qua bùn đất. Tại nơi xa xôi này, hai nữ tu chọn sống cùng dân làng – nơi mà “nhiều người vẫn chưa thật sự biết Thiên Chúa”. Hội dòng của các chị, được Mẹ Giuditta Martelli thành lập năm 1923 tại Calabria (Ý), mang đặc sủng của dòng trong lòng Giáo hội địa phương: chia sẻ công tác mục vụ, nâng đỡ đời sống giáo xứ, đồng hành với trẻ em và những người yếu thế. Đây là những điều mà hai nữ tu cố gắng thực hiện mỗi ngày ở một góc xa xôi của Davao De Oro.
Những ruộng bắp bị bán rẻ mạt
Nông nghiệp là nguồn sống chính, nhưng hệ thống buôn bán bất công khiến nông dân luôn chịu thiệt. Mùa màng bị thương lái mua rẻ, rồi bán lại gấp ba. Sau nhiều tháng lao động, họ chỉ còn vài đồng xu. Một số khác sinh nhai bằng việc đốn củi đổi lấy gạo. Nhiều người thuộc các sắc tộc Lumad, Visayas hoặc Mandaya. Bản sắc của họ đan xen với các thực hành của tổ tiên, đức tin Công giáo vẫn sống động với các lễ hội và cuộc rước, dù nghèo khổ vẫn nuôi dưỡng khát vọng tìm gặp Thiên Chúa.
Mạng điện và liên lạc chỉ có vào Chúa Nhật
Cử điểm truyền giáo này mang đậm dấu ấn của sự cô lập. Không có điện ổn định: ánh sáng chỉ đến từ vài tấm pin mặt trời. Không có mạng lưới thông tin liên lạc: tin nhắn chỉ được kiểm tra vào Chúa Nhật, bằng cách xuống giáo xứ. Nước được lấy từ suối, bệnh viện thì xa, và trong trường hợp khẩn cấp, từng phút đều quý giá. Ngay cả đời sống giáo xứ cũng bị ảnh hưởng bởi khoảng cách. Thánh lễ hàng ngày không thể cử hành, và chỉ được rước Thánh Thể vào Thánh lễ Chúa Nhật. Nhiều người thích làm việc hơn là tham dự các Thánh lễ. Tuy nhiên, Sơ Erlinda và Sơ Ruby, dù ở xa giáo xứ, vẫn là một Chúa Kitô khác cho giáo dân của mình, một hình ảnh phản chiếu sống động sự hiện diện của Người.
Một túp lều trở thành ngôi nhà của hy vọng
“Khi mới đến, chúng tôi chỉ có một căn kubo trống rỗng,” sơ Erlinda kể lại. Ngôi nhà tre lợp lá dừa ấy dần trở thành tu viện, nơi trồng rau, nuôi gà, nuôi cá và nấu ăn chia sẻ với trẻ em đói khổ. “Thấy bọn trẻ mỉm cười khi nhận chút thức ăn, chúng tôi nhớ đến chính sứ vụ của Chúa Kitô”. Từng hành động nhỏ – một lời an ủi, một bữa cơm, một lần thăm người bệnh – đều trở nên chứng tá.
Từ bùn đất đến điện mặt trời
Theo thời gian, sự quan phòng đã trở nên rõ nét. Ngày nay, cộng đồng đã có một ngôi nhà kiên cố hơn, các tấm pin mặt trời, máy phát điện và một ao nuôi cá. Một số thanh thiếu niên đã có thể học tập tại Cebu nhờ các Nữ tu dòng Đức Mẹ Maria, trong khi hai nữ tu tổ chức các khóa học bổ túc và lớp học buổi tối cho trẻ em trong làng. Bất chấp khó khăn về tài chính, sứ mạng của cac chị vẫn được tiếp thêm sức mạnh bởi lòng biết ơn của người dân. "Chúng tôi tìm thấy sự an ủi trong đức tin của họ, trong niềm vui mà họ đón nhận ngay cả những món quà nhỏ nhất. Chúng tôi cảm thấy mình là một phần của cuộc sống của họ và họ là một phần của cuộc sống chúng tôi".
Đưa Thiên Chúa đến với con người, và con người đến với Thiên Chúa
Sứ mạng của các Nữ tu Tôi tớ Chúa Thánh Thần không chỉ nằm ở các dự án hay công trình kiến trúc. "Hy vọng của chúng tôi là mọi người có thể nhận ra Chúa Kitô qua chúng tôi", các nữ tu nói. Đây chính là nền tảng duy trì sự hiện diện của các chị và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống tại một ngôi làng biệt lập, giữa đói nghèo và bùn lầy. Các nữ tu tâm sự: "Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng những người nghèo nhất trong số những người nghèo". Với những ai mơ ước về sứ vụ, Sơ Erlinda gửi đến những lời giản dị nhưng đầy ý nghĩa: "Đừng sợ hãi. Đừng lo lắng về cơm ăn áo mặc: hãy để Chúa sử dụng bạn như những khí cụ theo cách của Người".
Giữa những con đường lầy lội của rừng Compostela, một kubo đơn độc đã trở thành "ngôi nhà hy vọng". Từ đây, Sơ Erlinda và Sơ Ruby Eden lặp lại, theo lời của Thánh Teresa thành Avila, rằng chỉ có Chúa là đủ.
Vatican News
Trả lời báo chí bên ngoài Đền thờ, ông Abbas nói: “Tôi đến đây vì không thể quên những gì Đức Giáo hoàng Phanxicô đã làm cho Palestine và cho dân tộc Palestine. Ngài đã công nhận Nhà nước Palestine mà không ai phải thỉnh cầu”.
Những cuộc gặp gỡ với Đức cố Giáo hoàng Phanxicô
Chuyến viếng mộ gợi lại sự kiện lịch sử năm 2014, khi ông Abbas cùng Đức cố Giáo hoàng Phanxicô và Tổng thống Israel Shimon Peres cầu nguyện cho hòa bình tại Vườn Vatican, trồng cây ôliu – biểu tượng hy vọng. Sự kiện đó sau này được Đức Giáo hoàng Phanxicô tưởng niệm đúng dịp 10 năm vào ngày 7/6/2024. Trong hơn một thập kỷ qua, Tổng thống Abbas nhiều lần gặp Đức cố Giáo hoàng Phanxicô, đặc biệt sau cuộc tấn công ngày 7/10/2023 và chiến sự Israel–Hamas leo thang, khiến Vatican liên tục kêu gọi bảo vệ dân thường và viện trợ nhân đạo.
Lần gặp gần nhất giữa Abbas và Đức cố Giáo hoàng Phanxicô diễn ra ngày 12/12/2024, trong đó hai bên tái khẳng định tầm quan trọng của giải pháp hai Nhà nước qua đối thoại và ngoại giao.
Điện đàm với Đức Thánh Cha Lêô XIV
Ông Abbas cũng đã điện đàm với Đức Thánh Cha Lêô XIV ngày 21/7 năm nay (2025), trao đổi về tình hình Gaza và bạo lực tại Bờ Tây. Khi đó, Đức Thánh Cha kêu gọi tôn trọng luật nhân đạo quốc tế, bảo vệ dân thường và các nơi thờ phượng, chống lại việc cưỡng bức di dời dân cư và sử dụng vũ lực bừa bãi. Ngài cũng nhắc đến kỷ niệm 10 năm Hiệp định Toàn diện giữa Tòa Thánh và Nhà nước Palestine (2015–2025), hiện vẫn là nền tảng đối thoại ngoại giao song phương.
Thứ Năm 6/11/2025, ông Abbas được Đức Thánh Cha Lêô XIV tiếp kiến tại Vatican, gần một tháng sau khi thỏa thuận ngừng bắn tại Dải Gaza bắt đầu có hiệu lực. Cuộc gặp gỡ được kỳ vọng tiếp tục thúc đẩy tiếng nói của Tòa Thánh vì hòa bình Trung Đông, trong bối cảnh nhân đạo còn vô cùng nghiêm trọng.
Vatican News
Đức Thánh Cha Lêô XIV, người từng giữ chức Giám đốc và giảng dạy tại chủng viện này từ năm 1988 đến 1998, cảnh báo việc coi chức linh mục như một “đích đến bên ngoài” hay “con đường thoát khỏi các vấn đề cá nhân”. Ngài khẳng định: chỉ trong tự do, người ta mới có thể hiến dâng chính mình hoàn toàn, bởi “người ta chỉ thực sự tự do khi không còn làm nô lệ” cho lợi ích hay sợ hãi. Điều thực sự quan trọng là trở thành một linh mục đích thực, đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, chứ không chỉ là việc được thụ phong.
Để xây dựng nền tảng vững chắc cho thừa tác vụ, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của “sự phân định và minh bạch” trong đời sống chủng sinh. Giáo hội cần những người tìm kiếm Chúa Kitô không sống “hai lòng”, thông qua việc xưng tội thường xuyên và vâng phục, giúp chủng sinh trưởng thành và “thoát khỏi tham vọng và tính toán của con người”.
Hai trụ cột không thể thiếu để hình thành trái tim thuần khiết là cầu nguyện và học tập nghiêm túc. Đức Thánh Cha gọi thời gian dành cho cầu nguyện là “khoản đầu tư sinh lợi nhất trong cuộc đời”, vì tại đó Chúa sẽ uốn nắn cảm xúc và củng cố ơn gọi. “Ai ít nói chuyện với Chúa thì không thể nói về Chúa!” Tương tự, không có học tập nghiêm túc thì không có mục vụ đích thực, bởi “một giáo lý không có cầu nguyện sẽ trở nên vô bổ và lạnh lẽo”.
Đức Thánh Cha cũng cảnh báo về những “nguy hiểm rất cụ thể” mà các linh mục tương lai phải đối mặt: sự thế tục hóa, chủ nghĩa hoạt động gây kiệt sức, sự phân tán kỹ thuật số làm đánh cắp đời sống nội tâm, và đặc biệt là sự cô đơn của người cố gắng sống mà không có linh mục đoàn và giám mục của mình. Ngài khẳng định “Giáo hội cần những mục tử thánh thiện cùng nhau hiến dâng, chứ không phải những công chức cô độc”, chỉ như vậy họ mới có thể trở thành chứng nhân đáng tin cậy.
Bức thư kết thúc bằng lời động viên mạnh mẽ, nhắc nhở các chủng sinh tận dụng kho tàng thời gian ở chủng viện vì họ “không bao giờ đơn độc trên hành trình này”.
