Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha tiếp các tham dự viên Khóa học của Tòa Ân giải Tối cao
Sáng ngày 08 tháng Ba vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến hàng trăm tham dự viên, vừa kết thúc khóa học thường niên lần thứ 34, kéo dài năm ngày, từ ngày 04 đến ngày 08 tháng Ba, do Tòa Ân giải Tối cao tổ chức, về các vấn đề lương tâm, dành cho các cha giải tội mới và các chủng sinh năm cuối cùng.
Hiện diện tại buổi tiếp kiến, có Đức Hồng y Mauro Piacenza, Chánh tòa Ân giải Tối cao, các chức sắc của tòa này, cùng với các cha giải tội thuộc bốn Đền thờ Giáo hoàng ở Roma.
Trong bài huấn dụ nhân dịp này, Đức Thánh cha đã giải thích về ý nghĩa kinh ăn năn tội, “do thánh Anphongsô Liguori, tôn sư về thần học luân lý, mục tử gần dân và là người rất quân bình, không ngặt nghèo cũng không tháo thứ”, soạn ra, “tuy ngôn ngữ kinh này hơi cổ đối với ngày nay trong vài thành ngữ, nhưng kinh này vẫn giữ nguyên giá trị về mục vụ và thần học”.
Và Đức Thánh cha khai triển ba khía cạnh là: thống hối, ăn năn trước Thiên Chúa, tín thác nơi Người và dốc lòng không tái sa ngã. Thống hối vì đã xúc phạm đến Chúa là Đấng vô cùng tốt lành. Tín thác nơi tình yêu thương của Chúa, sau cùng là quyết tâm không còn tái phạm (SGL 1451). Chúng ta nói: “Con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa, thì con sẽ lánh xa dịp tội”.
Đức Thánh cha nhận xét rằng: “Những lời này biểu lộ một quyết tâm, chứ không phải là một lời hứa. Thực vậy, không ai có thể hứa với Thiên Chúa là sẽ không phạm tội nữa, và điều ta được yêu cầu làm để lãnh nhận ơn tha thứ không phải là một bảo đảm sẽ không thể phạm tội nữa, nhưng là một quyết tâm hiện tại, được đề ra với ý hướng ngay chính trong lúc xưng tội. Ngoài ra, đó là một quyết tâm chúng ta luôn đảm nhận với lòng khiêm tốn, như thành ngữ “nhờ ơn Chúa”. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, thường lập lại rằng: “Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, cả khi Chúa biết rằng chúng ta sẽ tái phạm”. Vả lại, nếu không có ơn Chúa, thì không có sự hoán cải nào có thể thực hiện được, chống lại mọi cám dỗ của chủ thuyết cho rằng con người có thể tự cứu thoát nhờ sức riêng của mình (pelagianesimo).”
Và Đức Thánh cha nhắn nhủ các cha giải tội hiện nay và tương lai sắp tới rằng: “Nghĩa vụ được ủy thác cho anh em trong tòa giải tội thật là đẹp và quan trọng, vì tạo dịp cho anh em giúp đỡ bao nhiêu anh chị em khác cảm nghiệm sự dịu hiền của tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, tôi khích lệ anh em hãy sống mỗi cuộc giải tội như một thời điểm ân phúc duy nhất, không thể lập lại và quảng đại trao ban ơn tha thứ của Chúa, với lòng từ ái, hiền phụ và tôi dám nói là với sự dịu dàng của người mẹ”.
Sau cùng, Đức Thánh cha nhắn nhủ các cha giải tội hãy cầu nguyện và dấn thân để năm chuẩn bị Năm Thánh này có thể thấy tươi nở lòng thương xót của Chúa Cha trong nhiều tâm hồn và tại nhiều nơi, và nhờ đó, Thiên Chúa ngày càng được yêu mến, đón nhận và chúc tụng”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Cha Massimo Miraglio: Cộng đoàn quốc tế cần can thiệp ngay tại Haiti
“Cộng đồng quốc tế cần gấp rút can thiệp để chấm dứt tình trạng bạo lực kinh khủng hiện nay ở Haiti”.
Cha Massimo Miraglio, Thừa sai dòng Camillo, cha sở giáo xứ Đức Mẹ Hằng cứu giúp ở Purcine, một nơi xa xăm ở Haiti, tuyên bố như trên với hãng tin Fides của Bộ Loan báo Tin mừng, truyền đi hôm mùng 05 tháng Ba vừa qua. Cha nói: Tình trạng trầm trọng hiện nay thúc đẩy cộng đồng quốc tế nghiêm túc can thiệp vào cuộc khủng hoảng hiện nay, đã kéo dài quá lâu, và trong tuần lễ vừa qua, đã trở nên khủng khiếp, gây đau khổ và chết chóc cho hàng ngàn người.
Lời kêu gọi trên đây, cha Miraglio cũng gửi đến Đức Thánh cha Phanxicô, người vốn yêu mến Haiti, và toàn thể ngành ngoại giao của Đức Thánh cha, để tạo sức ép trên cộng đồng quốc tế về sự can thiệp này. Cha nói: “Từ tuần qua, những cuộc xung đột nặng nề giữa các băng đảng bất lương gia tăng cũng như các vụ tấn công những cơ sở của chính quyền và các nơi quan trọng. Đặc biệt, các băng đảng đó đã tấn công hai nhà tù, làm cho 4.000 tù nhân tấu thoát, những kẻ bất lương tự do hoành hành ở thủ đô Port-au-Prince, và càng gia tăng khi có thêm nhiều thành viên khác. Nhiều trạm cảnh sát đã bị tấn công, bị thiêu hủy và cướp phá tại các tỉnh, cũng như ở phía bắc thủ đô Port-au-Prince. Đặc biệt ở khu vực Bon Repos, trong vùng Bình nguyên, nơi có nhà thương của dòng Camillo. Có năm cảnh sát viên bị giết trong cuộc tấn công này.
Cha Miraglio hoạt động truyền giáo từ gần 20 năm nay ở Haiti. Cha nói đến dân chúng phải sống trong tình trạng bất an, với những xung đột và bạo lực hằng ngày: “Nhà thương của nhà nước ở thủ đô Port-au-Prince đã đóng từ từ lâu. Nhà thương của giáo phận này ở trung tâm thủ đô, một khu vực rất khó khăn, trong đó các băng đảng tranh giành nhau. Trung tâm thánh Camillo của dòng, theo những tin mới nhất, đang ở trong tình trạng rất khó khăn, nhưng vẫn mở cửa.
Phi trường quốc tế Toussaint Louverture của thủ đô hiện đang bị đóng cửa vì lý do an ninh, sau khi vài máy bay đậu ở Phi trường bị tấn công nặng nề. Chính phủ đã tuyên bố tình trạng khẩn trương, nhưng người ta không biết cho đến bao giờ, tuy rằng tình trạng nay không tương ứng với khả năng của chính quyền tái làm chủ tình hình. Tất cả các đại sứ quán, đặc biệt là Mỹ và Canada, đã yêu cầu các công dân của mình rời bỏ Haiti ngay và trở về nước. Bộ thông tin bị cướp phá, cũng như trường canh nông và thú y, và Trung tâm bảo hiểm quốc gia cũng bị đóng cửa.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Kỷ niệm ba năm Đức Thánh cha viếng thăm Irak
Cách đây ba năm, Đức Thánh cha Phanxicô đã viếng thăm Irak lần đầu tiên, từ ngày 05 đến ngày 08 tháng Ba năm 2021 và đã mang lại niềm hy vọng lớn cho các tín hữu Kitô tại nước này, sau thảm trạng tàn phá của Nhà nước Hồi giáo IS.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican về biến cố này, Đức cha Michael Najeen, thuộc Giáo hội Công giáo Canđê, Tổng giám mục Giáo phận Mosul và Arka, nhắc lại rằng Đức Thánh cha đã đến viếng thăm miền Ur, quê hương của tổ phụ Abraham, thăm vùng Karakosh là vùng tập trung đông đảo nhất các tín hữu Kitô, cũng như tại thành phố Mosul, vốn là thành phố lớn thứ hai tại Irak sau thủ đô Baghdad, và cũng gần thành Erbil, thuộc miền Kurdistan. Đó là những vùng bị Nhà nước Hồi giáo chiếm đóng và tàn phá.
Qua cuộc viếng thăm này, Đức Thánh cha muốn củng cố cộng đoàn Kitô Irak và hai năm sau khi ký Tuyên ngôn về tình huynh đệ nhân loại với Đại Imam Ahmad al-Tayyeb, của Đền thờ Hồi giáo Al Azhar, thủ lãnh tinh thần của 900 triệu tín hữu Hồi giáo Sunnit, ngài đã gặp gỡ thủ lãnh Hồi giáo Shiite ở Irak, Ayatollah al-Sistani, cuộc gặp gỡ này được coi là bước tiến thứ hai để xây dựng tình huynh đệ với Hồi giáo. Hồi giáo Shiite chiếm tới 60 hoặc 65% nhân dân Irak.
Trong bối cảnh trên đây, việc hồi hương của các tín hữu đã rời khỏi Irak sau cuộc bách hại, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng Đức Tổng giám mục Giáo phận Mosul cho biết nhiều tín hữu Kitô vẫn còn do dự vì sự hiện diện của nhiều nhóm dân quân Hồi giáo ở vùng bình nguyên Ninive. Dầu vậy, nhìn lại chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha, người ta phải nhìn nhận hoạt động của ngài thực sự đã mang lại sự an ủi cho cộng đồng Kitô, khích lệ các tín hữu trở về quê hương của mình, dù rằng sự việc không phải là điều đơn giản và dễ dàng.
Theo Đức Tổng giám mục Najeen, ngày nay vẫn còn những vụ bách hại của các nhóm dân quân đối với các tín hữu Kitô, vẫn còn có những xung đột giữa quân đội, chính quyền trung ương và nhiều nhóm võ trang. Đức Tổng giám mục nói: “Chúng tôi là nạn nhân của các căng thẳng đó. Phần lớn Kitô hữu vẫn không có gia cư, nhà cửa của họ đã bị phá hủy hoặc đốt cháy. Họ nói là đã mất mọi sự và không sẵn sàng bị mất một lần nữa. Các gia đình đó không muốn cư ngụ tại những vùng không có an ninh và nơi mà chính quyền không thể kiểm soát được”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Toà Thánh: Trong xã hội phụ nữ vẫn chưa có quyền như nam giới
Đức ông Cruz Serrano nói rằng Toà Thánh tham gia nỗ lực của những người thúc đẩy vai trò của phụ nữ trong xã hội và các cộng đoàn Giáo hội, bảo vệ quyền của họ ở các quốc gia. Toà Thánh làm như vậy vì nhận thấy rằng trong suốt lịch sử phụ nữ bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị đánh giá thấp, nhưng họ cũng là những chứng tá can đảm trong nhiều lĩnh vực.
Trong nghĩa này, Đức ông nhắc lại lời của Đức Thánh Cha “nữ thiên tài là cần thiết trong mọi biểu hiện của đời sống xã hội; do đó sự hiện diện của phụ nữ phải được bảo đảm ở nơi làm việc và những nơi các quyết định quan trọng được đưa ra, cả trong Giáo hội và các cơ cấu xã hội”.
“Chúng tôi có nhiều mẫu gương phụ nữ trong Giáo hội đã góp phần bảo vệ nhân quyền và đáp ứng các nhu cầu của thời điểm hiện tại”, đại diện Toà Thánh tuyên bố, đồng thời đưa ra một số mẫu gương như Isabel Seton, Mẹ Cabrini ở Hoa Kỳ, người đã thúc đẩy các trường học cho người nghèo trong xã hội; Mẹ Antula ở Argentina; Thánh Rosa Lima ở Peru; Maria Francisca de Gesù ở Uruguay. Tên tuổi của nhiều phụ nữ kiên cường và can đảm này vẫn chưa được biết đến nhiều, nhưng ký ức và quyết tâm của họ vẫn tiếp tục thách đố các thế hệ mới. Những phụ nữ này có thể tạo ra hy vọng nơi không có và làm việc không mệt mỏi ngay cả khi quyền của mình chưa được công nhận.
Đức ông Cruz Serrano nhận xét, Toà Thánh cho rằng việc tổ chức xã hội vẫn chưa phản ánh rõ ràng thực tế rằng phụ nữ có cùng phẩm giá và quyền như nam giới. Phụ nữ là những nhân vật chính không thể thiếu trong việc tái thiết một xã hội công bằng và huynh đệ hơn. Việc yêu cầu cho các quyền hợp pháp của phụ nữ, dựa trên niềm tin chắc chắn rằng người nam và người nữ có cùng phẩm giá, đặt ra cho xã hội và chính Giáo hội những câu hỏi sâu sắc đang thách thức và không thể tránh được một cách hời hợt.
Vatican News
ĐTC Phanxicô với các cha giải tội: mỗi lần giải tội là một giây phút ân sủng ban ơn tha thứ
Trong bối cảnh của Năm Cầu nguyện chuẩn bị cho Năm Thánh, Đức Thánh Cha chia sẻ suy tư về một lời cầu nguyện đơn giản và phong phú, đó là Hành động ăn năn tội, với ba thái độ được thể hiện trong hành động này. Đây là những thái độ có thể giúp chúng ta suy tư về mối quan hệ của chúng ta với lòng thương xót của Thiên Chúa: sám hối trước Thiên Chúa, tín thác vào Người và quyết tâm không tái phạm.
Càng ý thức về tội lỗi chúng ta càng nhận thức về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa
Sám hối, Đức Thánh Cha nói, “không phải là kết quả của việc tự phân tích cũng không phải của cảm giác tội lỗi tâm lý, nhưng tất cả đều xuất phát từ nhận thức về nỗi khốn cùng của chúng ta trước tình yêu vô hạn của Thiên Chúa, lòng thương xót vô hạn của Người”. Và nhận thức này thúc đẩy chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
Con người càng ý thức về tội lỗi thì càng nhận thức về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa: “chúng ta càng cảm nhận được sự dịu dàng của Người, chúng ta càng mong muốn được hiệp thông trọn vẹn với Người và sự xấu xa của sự ác càng trở nên rõ ràng hơn trong cuộc sống của chúng ta”. Đức Thánh Cha nhắc rằng “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ cho chúng ta, và về phần chúng ta, chúng ta cũng đừng bao giờ mệt mỏi cầu xin Người tha thứ!”.
Yêu mến Thiên Chúa “trên hết mọi sự” là phó thác mọi sự cho Người
Thái độ thứ hai là tin tưởng. Đức Thánh Cha giải thích rằng hối nhân nhìn nhận lòng nhân lành vô biên của Thiên Chúa và đáng được yêu mến trên hết mọi sự. Yêu mến Thiên Chúa “trên hết mọi sự” là đặt Người ở trung tâm, là phó thác mọi sự cho Người. Từ đó họ yêu thương con người và thụ tạo.
"Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta ngay cả khi Người biết rằng chúng ta sẽ lại phạm tội"
Cuối cùng, sự quyết tâm. Đức Thánh Cha giải thích: “Nó thể hiện ý muốn của hối nhân không còn sa vào tội lỗi đã phạm nữa”. Hối nhân xin sự trợ giúp thánh thiện của Thiên Chúa để không xúc phạm đến Người nữa. Đức Thánh Cha nhắc rằng đây không phải là một lời thề hứa. “Điều cần thiết để nhận được ơn tha thứ không phải là sự bảo đảm về sự hoàn hảo, mà là một giải pháp hiện tại, được thực hiện với ý định đúng đắn vào lúc xưng tội. Hơn nữa, đó là một cam kết mà chúng ta luôn thực hiện với lòng khiêm tốn. Thánh Gioan Maria Vianney, Cha sở họ Ars, thường nhắc lại rằng ‘Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta ngay cả khi Người biết rằng chúng ta sẽ lại phạm tội’. Và hơn nữa, nếu không có ân sủng của Người thì không thể hoán cải được”.
Hồng Thủy - Vatican News
Đài Chân lý Á Châu là nguồn hỗ trợ tinh thần cho người dân Myanmar
Chính quyền quân sự đang nắm quyền ở Myanmar đã áp đặt thiết quân luật tại tổng cộng 61 thành phố của nước này, khiến tổng cộng 8,2 triệu người phải tuân theo biện pháp này. Lệnh giới nghiêm, với các hạn chế di chuyển trong khoảng thời gian từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng, được áp dụng ở các miền Yangon, Mandalay, Sagaing, Magwe, Bago và Tanintharyi và người dân ở các khu vực này thuộc các sắc tộc Shan, Chin, Mon, Karen và Karenni, Bamar.
Cha Joseph Thang cho biết giao tranh vẫn tiếp diễn ở Myanmar và người dân không có lựa chọn nào khác ngoài việc chạy trốn, làm tăng số lượng người di tản nội địa. Cha lưu ý: “Một số người cố gắng quay trở về nhưng sau đó lại bỏ chạy. Người dân tìm nơi ẩn náu và sự an toàn vì quân đội tiếp tục tấn công các ngôi làng”.
Cha lo lắng cho tình trạng của những người trẻ “mong muốn tự do và sự thật, chiến đấu và cầu nguyện”, và không muốn gia nhập quân đội chính quy “chiến đấu chống lại nhân dân”. Vì lý do này, cha giải thích, “họ muốn rời bỏ đất nước hơn: nhiều người đang hướng tới Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ”, trong khi các giám mục, linh mục và tu sĩ đang bị quân đội giám sát chặt chẽ và không thể đưa ra quan điểm chính trị. (Fides 06/03/2024)
Hồng Thủy - Vatican News
Phỏng vấn người được trao giải thưởng Ratzinger 2022 về Phục Sinh
Thưa giáo sư Bruckner, chúng tôi cảm nhận rằng tình trạng tục hóa đang gia tăng cùng với sự bất mãn với Kitô giáo trong thế giới phương Tây phụ thuộc phần lớn vào thực tế là con người đương đại khó tin vào sự sống lại từ cái chết. Hoặc có lẽ Giáo hội và thần học khó khăn trong việc phủ nhận điều này để phù hợp với sự phát triển của tư tưởng khoa học. Có phải điều này là do thiếu việc loan báo Tin Mừng theo “kerygma” ban đầu không?
Chắc chắn đây là vấn đề trọng tâm của thần học nền tảng. Và không phải từ hôm nay, nếu chúng ta nhớ đến sự kiện Thánh Phaolô đã thất bại tại Areopagus trong việc loan báo sự Phục sinh của Chúa Kitô cho người Athen, như đã được kể lại cho chúng ta trong chương 17 của Công vụ Tông đồ. Nhưng ngày nay hoàn cảnh đã khác và phức tạp hơn vì viễn cảnh mà các ngành khoa học đưa ra rất rộng lớn, trong mọi ngành, và điều này đòi hỏi một định hướng mạnh mẽ hơn bao giờ hết về tính liên ngành. Việc tìm kiếm những câu trả lời thỏa đáng chỉ trong ngành của chính mình không còn hiệu quả nữa. Ví dụ: đối với tôi, dường như chúng ta không còn khả năng - và tôi không chỉ nói về những người có đức tin - trong việc phát triển một nền triết học thực sự về bản chất. Và rõ ràng câu hỏi về sự Phục sinh nằm trong một câu hỏi tổng quát hơn về bản chất. Do đó, một ngôn ngữ thống nhất cũng bị thiếu. Ví dụ, có thời người ta nói về vật lý cách chung; ngày nay một nhà vật lý thiên văn gặp khó khăn khi kết nối với một nhà vật lý nghiên cứu về nguyên tử hoặc với một học giả lượng tử. Tất cả các ngôn ngữ đều rất chuyên biệt và rất khó để tìm được một ngôn ngữ chung. Nền triết học nào có khả năng kết hợp sinh học, hóa học, vật lý, tâm lý học và nói chung mọi thứ tác động đến con người vào một bộ từ vựng chung? Tôi tin rằng khó khăn này cũng liên quan đến thần học ngày nay. Sự rộng lớn của ý thức và khoa học của chúng ta cần phải tìm thấy một chân trời, một sự tổng hợp chung. Như đã có thể trong thời Trung cổ. Vì vậy, tôi nghĩ, để trả lời câu hỏi của bạn về sự phục sinh, ngay cả thần học cũng không thể tránh khỏi sự cần thiết phải giao thoa với các ngành khoa học tự nhiên và nhân văn khác. Một sự giao thoa cần thiết, nhưng vẫn bấp bênh vì ngay cả trong các khoa học tự nhiên cũng không thể đưa ra một lời dứt khoát về sự phục sinh. Cuối cùng, nhiều lý thuyết hiện tại, chẳng hạn như khả năng chỉ ra sự thường hằng của tồn tại trong nhiều chiều không-thời gian của vũ trụ, vẫn nằm trong lĩnh vực giả thuyết. Theo một nghĩa nào đó, nếu bạn hỏi tôi, họ cũng là đối tượng của đức tin. Nhưng tôi tin rằng điều quan trọng là phải chứng tỏ rằng thực tế không kết thúc ở những gì chúng ta thấy hoặc trải nghiệm. Trong vấn đề này, ngoài những điều chắc chắn bất khả thi, các khoa học tự nhiên có thể đóng một vai trò quan trọng, dù chỉ vì chúng truyền cảm hứng cho sự sáng tạo liên quan đến những câu trả lời có thể mà thần học phải biết đón nhận và cân nhắc.
Như vậy theo giáo sư, khoa học còn có thể đóng góp vào việc đưa ra, nếu không phải là lý chứng, tính hợp lý của khả thể sự phục sinh?
Ở một nghĩa nào đó tôi nói là có. Là thần học gia, nhưng cũng là một người có đức tin, tôi có thể nói rằng lý thuyết về sự đa nguyên của vũ trụ không giải thích một cách hợp lý cho tôi về sự phục sinh, nhưng nó cho tôi thấy rằng ngay cả vũ trụ, cũng như Thiên Chúa, vẫn còn xa vời với sự hiểu biết của tôi. Điều này có nghĩa là nhiệm vụ của chúng ta là luôn mở ra. Mở ra cho sự ngạc nhiên rằng có khả thể phục sinh chúng ta, ngay cả khi không thể kiểm chứng được.
Chắc chắn, ngoài việc tiếp thu những kỹ năng khoa học cao nhất ngày nay, điều tạo ra sự lo lắng của con người đương thời là chính sự đối diện trực tiếp với trải nghiệm về cái chết. Khi bạn đứng trước một thân xác bất động, giả thuyết về một sức sống mới dường như khó có thể xảy ra với giác quan của chúng ta.
Cái chết chắc chắn là điều chúng ta không thể hiểu được. Người mà chúng ta yêu quý đã không còn nữa. Sự phong phú sâu xa của người đó không còn nữa. Ở chính giữa mỗi bàn thờ đều có một thánh tích. Đó là dấu vết của một cuộc đời. Theo một cách nào đó, nó cũng đề cập đến sự trống rỗng của cái chết. Cuối cùng, cái chết là thầy dạy vĩ đại của cuộc sống. Trong lịch sử nhân loại chưa từng có một dân tộc, một quốc gia hay một thế hệ nào không tin rằng có một điều gì đó vượt trên cái chết. Tôn giáo, như một trải nghiệm của con người, được sinh ra như một phản ứng trước nỗi lo lắng về sự hữu hạn. Kitô giáo được hiểu như một cuộc gặp gỡ với ngôi vị sống động của Thiên Chúa, theo quan điểm này, (Kitô giáo) khác biết với các tôn giáo. Mặt khác, ngay trong Do Thái giáo của Cựu Ước, sự sống sau khi chết rất ít chi tiết: Sheol vẫn là một khái niệm mù mờ và mơ hồ, chủ yếu là để phân biệt với khát vọng rất tưởng tượng về thế giới bên kia của các dân tộc lân cận. Điều thú vị là trong cuốn sách thứ hai của Macabê ở chương 7 có đề cập đến Thiên Chúa, Đấng người ta sẽ gặp, cũng chính là Thiên Chúa của tạo dựng. Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên thế giới này, rõ ràng cũng có thể tạo nên một sự tồn tại mới.
Giáo sư có cho rằng trong mục vụ, việc loan báo “kerygma” về sự phục sinh, một cách nào đó, vẫn chưa được nhấn mạnh và giải thích đầy đủ cho dân Chúa không?
Có lẽ chúng ta cũng nên tự hỏi kerygma về sự phục sinh có phải là trung tâm của toàn bộ kinh nghiệm Tin Mừng hay không, có phải là đặc điểm thiết yếu trong cuộc đời Chúa Giêsu hay không. Ví dụ, chủ đề về sự phán xét của Thiên Chúa hiện diện nhiều hơn trong bài giảng của Người. Chủ đề về phục sinh được khai triển bởi các tông đồ trong các bản văn tiếp theo, nhưng trong những lời Chúa Giêsu thì chủ đề về sự phán xét của Thiên Chúa lại cấp bách, và trên hết là chủ đề về Nước Thiên Chúa.
Điều này giải thích tại sao trong nhận thức chung, Kitô giáo được coi là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức hơn là một cánh cửa dẫn đến đời sống vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta đã quên rằng chủ đề phán xét phải luôn được đọc trong cái nhìn của sự tha thứ. Chúng ta đã không thể truyền đạt một cách thích đáng rằng sự tha thứ là ân sủng thực sự vĩ đại, nhận thức rằng tất cả chúng ta đều cần sự tha thứ vì sự yếu đuối thuộc về bản tính con người.
Có một sự nhạy cảm khác, một cách tiếp cận khác đối với mầu nhiệm sự chết giữa người nam và người nữ. Phái nữ có vẻ dễ phục hồi hơn.
Tôi chưa bao giờ nghiên cứu khía cạnh tâm lý xã hội này, nhưng đúng thế, đối với tôi nó có vẻ là một nhận xét thuyết phục. Có lẽ việc người nữ tạo ra sự sống sẽ củng cố một hệ thống “miễn dịch”, và khi đó người nữ luôn quan tâm đến người khác hơn là bản thân mình.
Làm thế nào Giáo hội ngày nay có thể suy nghĩ lại việc chăm sóc mục vụ về sự sống, cái chết và về sự Phục sinh?
Loan báo Tin Mừng như tin mừng của tự do, của tự do đích thực. Nghĩa là giải thích rằng cái chết không làm cho chúng ta sợ sự sống. Tôi đang nói về nỗi sợ hãi thường xuyên, ám ảnh, hiện hữu. Có lẽ một chút mỉa mai sẽ giúp phá hủy đi sức mạnh mà chúng ta gán cho cái chết; tôi nghĩ đến Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Côrintô đã châm biếm cái chết một cách mỉa mai: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1Cr 15, 55). Và hãy giữ cho mình một tinh thần mở ra cho sự ngạc nhiên trước những điều không có sự hiểu biết trước. Suy cho cùng, ngay cả các khoa học tự nhiên cũng luôn khơi dậy trong chúng ta sự ngạc nhiên, mặc dù không thể nói một lời dứt khoát về mầu nhiệm sự chết và sự sống. Giới hạn của chúng - tức là giới hạn của thân phận con người đã tạo ra chúng - không thể loại trừ sự phục sinh. Cuối cùng, chính chúng cũng tiến tới một mức độ đức tin: sự sống lại không thể được chứng minh nhưng cũng không thể bị phủ nhận.
Một câu hỏi cuối cùng. Theo giáo sư, phải chăng việc con người ngày nay có xu hướng không vun trồng hy vọng vào sự sống lại cũng vì họ dửng dưng với “sự sống lại trong thân xác” vào ngày tận thế?
Sự sống lại của thân xác vẫn là một trong những câu hỏi khó nhất trong thần học. Ngày nay, nhờ khoa học tự nhiên, chúng ta có được sự hiểu biết mới về thể chất, về cơ thể. Đó là một chủ đề đã được tái diễn xuyên suốt lịch sử Giáo hội và thần học. Ý nghĩa được quy cho vật chất đã diễn tả các lớp nghĩa khác nhau. Tôi thích cách tiếp cận được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sử dụng trong cẩm nang về cánh chung học của ngài, trong đó ngài khẳng định rằng phải có hy vọng ngay cả đối với các nguyên tử cấu thành nên chúng ta; ngay cả đối với các nguyên tử cũng hiện hữu lòng thương xót. Ở đây chúng ta quay trở lại cuộc thảo luận về Thiên Chúa sáng tạo, Người là Thiên Chúa tạo dựng lúc khởi đầu và lúc kết thúc (nếu những tham chiếu thời gian này có ý nghĩa). Mặt khác, ngày nay chúng ta biết rằng các tế bào của chúng ta trung bình bảy năm tự tái tạo một lần. Chúng ta phải luôn nhớ rằng cơ thể của chúng ta sống trong mối quan hệ với người khác, nó nhận được dấu vết của người khác và đến lượt nó, nó lại trao ban cho người khác. Sự phục sinh trong thân xác trước hết nói với chúng ta rằng chúng ta phải hoà điệu với thế giới này, nơi chào đón chúng ta như những tinh thần nhập thể.
Vatican News
Đức Thánh Cha tiếp các tham dự viên hội nghị “Phụ nữ trong Giáo hội: Những nghệ nhân của nhân loại”
Đức Thánh Cha bắt đầu bài nói chuyện bằng việc nhắc đến tên 10 phụ nữ thánh thiện và nhấn mạnh rằng ở những thời điểm và văn hoá khác nhau, tất cả những phụ nữ này, mỗi người theo cách riêng của mình đã làm chứng qua các sáng kiến bác ái, giáo dục và cầu nguyện và cách “nữ thiên tài” có thể phản ánh cách độc đáo sự thánh thiện của Thiên Chúa giữa thế giới.
Đề cập đến chủ đề của cuộc gặp gỡ “Những nghệ nhân của nhân loại”, Đức Thánh Cha nói cách diễn đạt này càng làm nổi bật hơn bản chất ơn gọi của phụ nữ là “nghệ nhân” cộng tác với Đấng Tạo Hoá để phục vụ cuộc sống, công ích và hoà bình. Ở điểm này Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến hai khía cạnh của sứ vụ này, liên quan đến phong cách và đào tạo.
Về phong cách, Đức Thánh Cha nói: “Thời đại của chúng ta đang bị xé toạc bởi hận thù, trong đó gia đình nhân loại của chúng ta vốn cần cảm nhận được sức mạnh của tình yêu, nhưng lại thường xuyên bị tổn thương bởi bạo lực, chiến tranh và những hệ tư tưởng bóp nghẹt những cảm xúc cao quý nhất của trái tim con người. Chính trong bối cảnh này, hơn bao giờ hết sự đóng góp của phụ nữ là cần thiết. Vì phụ nữ biết cách gắn kết mọi người lại với nhau bằng sự dịu dàng”.
Khía cạnh thứ hai: đào tạo. Đức Thánh Cha nhận xét hội nghị được tổ chức với sự hợp tác của nhiều tổ chức hàn lâm Công giáo. Trong bối cảnh chăm sóc mục vụ trong các cộng đồng đại học, ngoài việc nghiên cứu hàn lâm về giáo lý và giáo huấn xã hội của Giáo hội, mọi nỗ lực nhằm cung cấp cho sinh viên những chứng từ về sự thánh thiện, đặc biệt về sự thánh thiện của phụ nữ, có thể khuyến khích họ hướng tới mục tiêu cao hơn, mở rộng tầm nhìn ước mơ, cách suy nghĩ của họ và hướng tới việc theo đuổi những lý tưởng cao đẹp. Do đó, sự thánh thiện có thể trở thành một con đường giáo dục liên ngành trong việc theo đuổi kiến thức nhiều hơn.
Vì thế, Đức Thánh Cha hy vọng môi trường giáo dục của các trường Đại học, ngoài việc là nơi học tập, nghiên cứu, nơi “thông tin”, còn sẽ là nơi “đào tạo”, nơi tâm trí và trái tim được mở ra trước những thúc giục của Thánh Thần. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là làm cho các vị thánh được biết đến nhiều hơn, đặc biệt là các thánh nữ, trong tất cả chiều sâu và thực tế nhân tính của các vị. Bằng cách này, giáo dục sẽ ngày càng có khả năng chạm đến sự toàn vẹn và độc đáo của mỗi người.
Đức Thánh Cha nói thêm về giáo dục: “Trong một thế giới mà phụ nữ vẫn còn phải chịu đau khổ rất nhiều vì bạo lực, bất bình đẳng, bất công và ngược đãi - và điều này là cớ vấp phạm và còn hơn thế đối với những ai tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa ‘do người nữ sinh ra’ (Gal 4, 4) - một hình thức phân biệt đối xử nghiêm trọng liên quan trực tiếp đến giáo dục phụ nữ. Thực tế, điều này đáng lo ngại trong nhiều bối cảnh, tuy nhiên con đường dẫn tới những xã hội tốt đẹp hơn phải thông qua giáo dục cho trẻ nữ và phụ nữ trẻ, điều này mang lại lợi ích cho sự phát triển tổng thể của con người. Chúng ta hãy cầu nguyện và dấn thân thực hiện điều này!”
Vatican News
Đức Thánh cha sẽ đến dâng lễ chiều Thứ Năm Tuần thánh tại một nhà tù nữ ở Roma
Lúc 4 giờ chiều, thứ Năm Tuần thánh, ngày 28 tháng Ba tới đây, với tư cách riêng, Đức Thánh cha Phanxicô sẽ đến nhà tù nữ Rebibbia ở Roma, để cử hành thánh lễ kỷ niệm Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể và chức linh mục, rồi gặp gỡ các nữ tù nhân và nhân viên nhà tù này.
Cách đây chín năm, Đức Thánh cha Phanxicô đã đến khu vực mới của nhà tù này và cử hành thánh lễ với nghi thức rửa chân.
Tham dự thánh lễ trong dịp đó, có hơn 300 người, gồm các tù nhân và nhân viên. Trong số mười hai người được Đức Thánh cha rửa chân, có sáu nam tù nhân và sáu nữ tù nhân, thuộc các quốc tịch khác nhau.
Năm nay, ngài thăm khu vực nữ tù nhân được kiến thiết trong thập niên 1950 và hiện nay là lớn nhất trong số bốn nhà tù nữ ở Ý, đồng thời cũng là một trong những nhà tù nữ lớn nhất ở Âu châu, trong đó có nhiều phụ nữ nước ngoài.
Sau mười một năm, nay Đức Thánh cha tiếp tục truyền thống khởi sự hồi đầu triều đại Giáo hoàng của ngài, và không cử hành thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh, tại Đền thờ thánh Gioan Laterano, với nghi thức rửa chân cho mười hai linh mục tượng trưng các tông đồ, như các vị tiền nhiệm.
Năm ngoái, Đức Thánh cha đã trở lại nhà tù thiếu niên Casal del Marmo ở Roma. Trong thánh lễ đó, ngài đã rửa tội cho mười nam và hai thiếu nữ tù nhân thuộc các quốc tịch và tôn giáo khác nhau.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha tiếp kiến Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ vị thành niên (2024)
Sáng ngày 07 tháng Ba vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ vị thành niên, nhóm họp trong những ngày này, dưới quyền chủ tọa của Đức Hồng y Chủ tịch Sean O’Malley, Tổng giám mục Giáo phận Boston, Hoa Kỳ. Đức Thánh cha nhiệt liệt cám ơn và khích lệ Ủy ban tiếp tục hoạt động trong công tác khó khăn và phức tạp này.
Đức Thánh cha nhận xét rằng trong mười năm qua, Ủy ban đã thi hành công tác “tư vấn và giúp đỡ cũng như đề nghị những sáng kiến thích hợp để bảo vệ các trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương” (Praedicate Evangelium, 78). Công tác này được mở rộng đáng kể với thời gian và được xác định rõ ràng hơn nữa, như ngài đã yêu cầu, nghĩa là tập trung vào sự giúp đỡ làm cho Giáo hội trở thành một nơi ngày càng an toàn đối với các trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương nhất”.
Trong những ngày họp này, Ủy ban dành thời giờ để “hoàn thành Phúc trình thường niên về những chính sách và thủ tục Bảo vệ trong Giáo hội, như Đức Thánh cha đã yêu cầu. Đó không phải chỉ là một văn kiện được làm thêm, nhưng nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn công việc đang còn chờ đợi chúng ta”.
Đức Thánh cha nhìn nhận rằng “đứng trước gương xấu lạm dụng, và trước đau khổ của các nạn nhân, chúng ta có thể nản chí, vì thách đố tái tạo cuộc đời bị tan vỡ và chữa lành đau khổ, đó thật là điều lớn lao và phức tạp. Nhưng chúng ta không được giảm bớt quyết tâm; trái lại, tôi khuyến khích anh chị em hãy tiến bước, để Giáo hội luôn luôn và ở mọi nơi là một môi trường, trong đó mỗi người có thể cảm thấy như ở nhà và mỗi người được coi là thánh thiêng”.
Để đạt mục đích trên đây, Đức Thánh cha nhắn nhủ các thành viên Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em “hãy có những tâm tình của Chúa Kitô, đó là lòng cảm thương, cách thức Chúa đụng đến những vết thương của nhân loại, Trái Tim bị tình yêu đâm thâu qua vì chúng ta. Chúa Giêsu là Đấng đã trở nên gần gũi; trong thân thể Ngài, Thiên Chúa trở nên gần gũi chúng ta vượt quá mọi giới hạn... Trong Chúa Giêsu, Chúa Cha gánh lấy những vết thương của chúng ta... Và cả chúng ta, chúng ta hãy học nơi Chúa: chúng ta không thể giúp một người khác vác gánh nặng của họ mà không đặt những gánh nặng ấy trên vai chúng ta, và nếu không thực thành sự gần gũi và cảm thương”.
Trong chiều hướng này, Đức Thánh cha tái nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đón tiếp và lắng nghe các nạn nhân đã bị lạm dụng. Sự kiện những anh chị em ấy không được đón nhận và lắng nghe có thể càng làm gia tăng rất nhiều đau khổ của họ.
Sau cùng, Đức Thánh cha bày tỏ mong muốn thấy những thành quả hoạt động của Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ em “trở nên hữu hình: chúng tôi cần phải biết và thấy công việc mà anh chị em đang làm khi đồng hành sứ vụ bảo vệ trẻ em của các Giáo hội địa phương. Sự gần gũi của anh chị em với giáo quyền địa phương củng cố các Giáo hội này trong sự chia sẻ những phương pháp thực hành tốt và trong việc kiểm chứng xem các biện pháp được đề ra có thích hợp hay không”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA