Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các giám mục Kazakhstan cám ơn Đức Thánh cha
Các giám mục Cộng hòa Kazakhstan nhiệt liệt cám ơn Đức Thánh cha Phanxicô, vì đã bày tỏ liên đới với nhân dân nước này đang bị lụt lội nặng nề.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức cha Adelio Dell’Oro, người Ý, gốc Milano, Giám mục Giáo phận Karaganda ở miền nam Kazakhstan, tuyên bố như trên, qua điện thoại với hãng tin Sir của các Hội đồng Giám mục Ý. Cha nói: “Khi một người ở trong tình cảnh khó khăn và phải đương đầu với những vụ này, trợ giúp vật chất là điều rất quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn nữa là làm sao để họ không cảm thấy lẻ loi, nhưng được người khác quan tâm nâng đỡ. Sự gần gũi của Đức Giáo hoàng chứng tỏ câu trả lời cho nhu cầu ấy”.
Đức cha Dell’Oro đang ở Tashkent, thủ đô nước Uzbekistan, để tham dự khóa họp của các giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Trung Á, quy tụ các giám mục của năm quốc gia: Kazakhstan, Kirgikistan, Tajikistan, Turmekistan và Uzbekistan. Những lời liên đới của Đức Thánh cha được chuyển tới, trong lúc các giám mục đang cứu xét tình hình nghiêm trọng vì lụt. Chính phủ Kazakhstan đã tuyên bố tình trạng khẩn trương tại mười trên tổng số mười bảy miền của đất nước để đương đầu với lụt lội đã khởi sự cách đây ba tuần lễ, tại hai phần ba lãnh thổ Kazakhstan: “80.000 người đã phải di tản tại bao nhiêu nơi ở Kazakhstan, nhất là tại các miền bắc và tây của nước này”. Đức cha nói: “Cho dù chúng tôi không có những tin tức trực tiếp, nhưng dường như có một đập nước ở Nga bị vỡ, vì tuyết tan. Sông Ural tràn nước đến độ gây lụt lội. Chúng tôi có một giáo xứ ở Kursary thuộc vùng Atyrau, nơi có hàng ngàn người phải di tản. Có những đường giao thông ngập nước và dân làng hoàn toàn bị cô lập”.
Đức cha cũng nói rằng Giáo hội Công giáo nhỏ bé tại Kazakhstan, vẫn luôn dấn thân hàng đầu. Điều chúng tôi đang làm là lạc quyên thực phẩm và những nhu yếu phẩm, quyên góp cả tiền bạc để gửi giúp những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất và các giáo xứ, qua trung gian của Caritas quốc gia. Trong thực tế, Kazakhstan đã phải đương đầu từ ba tuần nay với nạn lụt. “Chính trong Tam nhật thánh, tầng hầm nhà thờ chính tòa bị ngập nước, lên đến từ 10 đến 12 phân nước. Cả những tòa nhà trong khu phố ấy cũng bị ngập nước đến ba, bốn ngày. Lụt vì tuyết tan do nhiệt độ nóng lên, và chỉ trong vài ngày tăng từ dưới không độ lên tới mức trên trung bình, khiến tuyết tan đột ngột và các ống dẫn không có đủ giờ thoát nước. Điều này xảy ra tại Karaganda. Trái lại ở các nơi khác, lụt là do nước sông tràn bờ”.
(Sir 10-4-2024)
Các giám mục Âu châu nhóm tại Ba Lan
Các giám mục đại biểu của các Hội đồng Giám mục Liên hiệp Âu châu, gồm 27 nước sẽ nhóm họp tại thành phố Lomza bên Ba Lan, từ ngày 17 đến ngày 19 tháng Tư tới đây, để đào sâu về tiếng nói của các nước Trung và Đông Âu, nhân dịp kỷ niệm 20 năm mở rộng Liên hiệp Âu châu.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Thông cáo của Ủy ban Liên Hội đồng Giám mục Âu châu, gọi tắt là COMECE, cho biết khóa họp sẽ có ba phiên họp chính, qui trọng tâm vào tiến trình hội nhập Liên hiệp Âu châu, về sự nhận thức của Trung và Đông Âu, cũng như về những đường hướng tương lai, trong bối cảnh những thách đố địa chính trị.
Ngày 17 tháng Tư, các giám mục sẽ bàn về những thành công và thách đố của sự hội nhập vào Liên hiệp Âu châu, với sự trợ giúp của ông Ján Figel, thành viên Hội đồng của Viện Âu châu Canh tân và Kỹ thuật, vốn là trưởng đoàn thương thuyết trong tiến trình gia nhập của Cộng hòa Slovak vào Liên hiệp Âu châu.
Thứ Năm, ngày 18 tháng Tư, một cuộc thảo luận đặc biệt sẽ bàn đến nhận thức của các nước Trung và Đông Âu về Liên hiệp Âu châu, với sự tham dự của ông Alojz Peterle, cựu Thủ tướng Slovenia. Hôm đó, Đại hội sẽ đón Đức Tổng giám mục Stanislaw Gądecki, Tổng giám mục Poznan, nguyên Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan. Thứ Sáu, ngày 19 tháng Tư là ngày họp chót, sẽ có sự tham dự của giáo sư Tomas Halík, giáo sư môn xã hội học ở Đại học Carolina, Praha, Chủ tịch Hàn lâm viện Kitô của Cộng hòa Tiệp. Các giám mục sẽ trao đổi với ông về viễn tượng Đông và Trung Âu, liên quan đến tương lai Giáo hội và Kitô giáo ở Âu châu.
(Sir 11-4-2024)
Đức Hồng y Zenari lo ngại leo thang chiến tranh
Đức Hồng y Mario Zenari, Sứ thần Tòa Thánh tại Syria, lo ngại rằng “nếu cứ tiếp tục đà này, sẽ có một sự leo thang chiến tranh tại Trung Đông. Từ ngày 07 tháng Mười năm ngoái đến nay, đã có hơn 50 cuộc tấn công của Israel trên đất Syria”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Hồng y Zenari là vị hồng y duy nhất giữ chức vụ Sứ thần Tòa Thánh. Ngài ở Damasco trong vòng sáu năm qua.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Sir của Hội đồng Giám mục Ý, truyền đi ngày 10 tháng Tư vừa qua, bên lề Hội nghị toàn quốc các tổ chức Caritas giáo phận ở Ý, tiến hành tại thành phố Grado, miền Gorizia bắc Ý, cho đến ngày 11 tháng Tư vừa qua, Đức Hồng y cho biết sáng ngày 10 tháng Tư này, không quân Israel lại tấn công một “cơ cấu hạ tầng quân sự” của một nhóm Liban Hezbollah ở Syria. Cách đây vài tuần, Israel đã tấn công Tòa Tổng lãnh sự Iran ở thủ đô Damasco của Syria, [giết chết một tướng lãnh của Iran], khiến nước này đe dọa trả thù. Trong khi đó, hôm mùng 09 tháng Tư vừa qua, tám dân quân phò Iran bị giết chết bằng dao tại thành phố al-Mayadin miền đông Syria, có lẽ do lực lượng Nhà nước Hồi giáo Isis.
Đức Hồng y Zenari giải thích rằng: “Tại Syria có tới 5 quân đội nước ngoài hiện diện, đó là Nga, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Hezbollah. Thêm vào đó, có những cuộc oanh kích của Israel. Trước đây, họ chỉ tấn công ban đêm, bây giờ họ tấn công vào mọi giờ ban ngày, một cách rất chính xác, kể cả tại trung tâm thủ đô Damasco. Chính phủ Syria không đủ sức để ngăn chặn những quân đội này nhưng tình hình rất nghiêm trọng, không thể đùa giỡn”.
Theo Đức Sứ thần tại Syria, để tìm một giải pháp cho cuộc xung đột từ 14 năm nay tại nước này, “Các chính phủ ở Damasco, Washington và Bruxelles phải hành động. Nhất là Âu châu có thể làm hơn nữa và người dân Âu châu có thể giúp chúng tôi bằng cách chọn người để bỏ phiếu trong cuộc bầu cử nghị viện tới đây. Cả nước Ý cũng có một phái viên đặc biệt tại Syria và có thể hành động một cách đặc biệt”.
(Sir 10-4-2024)
Sứ điệp Đức Thánh cha gửi các tín hữu Hồi giáo nhân dịp kết thúc tháng chay Ramadan
Trong sứ điệp chúc mừng các tín hữu Hồi giáo, nhân dịp kết thúc tháng chay tịnh Ramadan, công bố hôm 12 tháng Tư vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô tái bày tỏ lo âu và liên đới trước thảm cảnh chiến tranh mà nhiều người Hồi giáo đang phải chịu.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha viết: “Anh chị em thân mến, Tổ phụ Abraham của chúng ta ngước mắt lên trời nhìn sao: ánh sáng sự sống bao trùm và ôm ấp chúng ta từ trên cao, kêu gọi chúng ta vượt thắng đêm đen của oán thù, để theo ý Đấng Tạo Hóa, chính các vì sao soi chiếu trái đất, chứ không phải trái đất bị cháy sáng, bị tàn phá vì những ngọn lửa võ khí đốt cháy bầu trời!
“Thiên Chúa là hòa bình và muốn hòa bình. Ai tin nơi Chúa thì không thể không loại bỏ chiến tranh. Chiến tranh không giải quyết, nhưng nuôi dưỡng xung đột. Tôi không mệt mỏi lập lại rằng chiến tranh luôn luôn và chỉ là một thất bại: nó là ngõ cụt; không mở ra các viễn tượng, nhưng dập tắt hy vọng”.
“Tôi lo âu vì cuộc xung đột tại Palestine và Israel: hãy ngưng tức khắc khói lửa tại Gaza, nơi đang xảy ra thảm họa nhân đạo; mong rằng đồ cứu trợ cho nhân dân Palestine được đưa tới. Họ đang chịu đau khổ rất nhiều; hãy trả tự do cho các con tin bị bắt cóc hồi tháng Mười năm ngoái! Và tôi nghĩ đến Syria đau thương, đến Liban và toàn Trung Đông: chúng ta đừng để mình ngọn lửa oán hận lan rộng, bị những luồng gió thê lương của cuộc chạy đua võ trang thổi bay! Chúng ta đừng để chiến tranh lan tràn! Chúng ta hãy ngưng lực cản của sự ác! Đức Thánh cha cũng bày tỏ tình liên đới với các gia đình, người trẻ, các công nhân, người già, trẻ em: chắc chắn họ là những người rất mong muốn hòa bình. “Và đứng trước bạo lực lan rộng, trong khi những giọt nước mắt tiếp tục rơi, có một lời được thốt lên: đủ rồi, đủ rồi! Tôi cũng lập lại điều đó với những người có trách nhiệm quan trọng trong việc cai trị các dân nước: đủ rồi, quý vị hãy ngưng lại! Xin vui lòng làm cho võ khí im tiếng và hãy nghĩ đến các trẻ em, tất cả các trẻ em, cũng như nghĩ tới chính con cái của quý vị. Tất cả chúng ta hãy nhìn về tương lai với đôi mắt của các trẻ em. Chúng không tự hỏi ai là kẻ thù cần tiêu diệt, nhưng ai là bạn bè để chơi; chúng cần gia cư, công viên, trường học, chứ không cần những mồ mả!
Đức Thánh cha cũng khẳng định rằng: “Các bạn thân mến, tôi tin rằng sa mạc có thể trổ hoa: giống như trong thiên nhiên, trong tâm hồn con người và trong cuộc sống của các dân tộc cũng có thể như vậy. Nhưng từ những sa mạc oán thù, hy vọng chỉ có thể nảy mầm khi chúng ta biết cùng nhau tăng trưởng, bên cạnh nhau; nếu chúng ta biết tôn trọng tín ngưỡng của người khác; nếu chúng ta biết nhìn nhận quyền sống của mỗi dân tộc và quyền của mỗi dân tộc được một quốc gia; nếu chúng ta biết sống trong hòa bình không lên án một ai. Tôi tin và hy vọng điều đó và cùng với tôi, cả những tín hữu Kitô đang sống tại Trung đông giữa những khó khăn: Tôi thân ái ôm lấy và khuyến khích họ, yêu cầu làm sao để họ luôn luôn và khắp nơi được quyền và khả thể được tự do tuyên xưng niềm tin của họ, niềm tin này nói về an bình và huynh đệ!”
(Sala Stampa 13-4-2024)
Theo tổng giám mục Nhật Tarcisius Isao Kikuchi, nguyên nhân xung đột và chạy đua vũ trang là “Tiền, tiền, tiền!”
fides.org, Victor Gaetan, 2024-04-08
Tổng giám mục Tarcisius Isao Kikuchi, 65 tuổi, nắm giữ nhiều chức vụ chủ chốt đáng ngạc nhiên, nhưng ngài kín đáo như người gác cửa nhà thờ.
Chủ tịch Caritas Quốc tế, tổng thư ký Liên đoàn các Hội đồng Giám mục châu Á, chủ tịch Hội đồng Giám mục Nhật… Nhưng ngài làm như giả vờ. Ngài cười nói: “Ông có biết làm sao công việc chạy không: những người xuất sắc làm công việc thực sự, công việc khó khăn, còn tôi là loại thống đốc, đến nói ‘cái này được, cái kia không’”.
Trước ngày đi Rôma để dự chuyến đi ad limina của các giám mục Nhật và gặp Đức Phanxicô, ngài và tôi cùng ngồi nói chuyện trong một phòng họp khiêm tốn tại Nhà thờ Mẹ Maria, một nhà thờ hiện đại uy nghi được xây năm 1964. Không có nhân viên giúp, không có ‘quy tắc’ được xác định trước, không bị gián đoạn trong một giờ rưỡi nói chuyện.
Với tư cách là Chủ tịch, ước mơ của cha là gì để cải thiện công việc của Caritas Quốc tế?
Tổng giám mục Tarcisius Isao Kikuchi: Từ năm 1995, khi còn là linh mục, tôi đã làm việc với Caritas: tôi là tình nguyện viên trong các trại tị nạn ở Cộng hòa Dân chủ Congo. Sau đó tôi làm giám đốc Caritas Nhật Bản. Vì vậy tôi biết Caritas Quốc tế từ lâu.
Ước mơ của tôi hôm nay là các thành viên Caritas không phải lúc nào cũng phải đối diện với vấn đề của “những người giàu” và “những người khốn cùng”. Cần lưu ý Caritas không phải là một tổ chức phi chính phủ lớn. Đó là liên hiệp các tổ chức Caritas có mặt ở hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Vì thế các tổ chức Caritas rất đa dạng. Một số Caritas như Caritas ở Hoa Kỳ và Châu Âu có đủ tiền, còn những Caritas khác ở châu Phi và châu Á thì không.
Chúng ta luôn nói về “sự hợp tác” và chúng ta cần làm việc trong “sự hợp tác”, có nghĩa là mọi người phải bình đẳng, làm việc với nhau như anh chị em. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy!
Thực tế luôn giống nhau: người có tiền thống trị người nhận được tiền. Điều này đôi khi tạo ra vấn đề. Đây là lý do vì sao tôi thực sự muốn giới thiệu, hay nói đúng hơn là phát triển mối quan hệ hợp tác thực sự giữa các tổ chức thành viên.
Cha thuộc Dòng Ngôi Lời và là nhà truyền giáo Nhật Bản đầu tiên đến châu Phi, nơi cha đã phục vụ bảy năm với tư cách là linh mục giáo xứ ở Ghana. Kinh nghiệm truyền giáo này ảnh hưởng như thế nào đến cách cha thực hiện trách nhiệm hiện tại của cha? Cha học được bài học gì từ trải nghiệm này?
Chúng ta phải lắng nghe mọi người và không áp đặt bất cứ gì. Ghana là thuộc địa của Anh nhưng tiếng Anh không phải là phương tiện giao tiếp chính. Có nhiều ngôn ngữ địa phương, do đó có nhiều văn hóa địa phương. Tôi ở đó, một nhà truyền giáo nói tiếng Anh và rất khó giao tiếp. Tôi đã học ngôn ngữ địa phương của một bộ tộc nhỏ, nhưng nhất là tôi học để là một mục tử tốt, lắng nghe mọi người, quan sát những gì họ làm, hiểu những gì họ nghĩ, nhưng không bao giờ làm bất cứ điều gì áp đặt lên họ.
Đây là những gì tôi đã học được và tôi khám phá ra những điều mới mẻ mỗi ngày. Ở Congo cũng vậy, vì tôi không nói được tiếng Pháp. Tôi đến đó, mọi người đều nói tiếng Pháp, kể cả những người tị nạn từ Rwanda. Thế là tôi phải nhờ người phiên dịch giúp tôi!
Tôi biết các chủ đề nói chuyện với giáo hoàng là bí mật, nhưng cha có thể cho chúng tôi biết một số quan tâm của các giám mục Nhật sẽ được thảo luận với giáo hoàng trong chuyến đi ad Limina của cha không?
Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp ngài kể từ chuyến tông du của ngài đến Nhật tháng 11 năm 2019! Chủ đề của chuyến thăm là Bảo vệ mọi sự sống, một chủ đề mà chúng tôi đã đề xuất với Tòa Thánh. Điều này không chỉ bao gồm vấn đề phá thai ở Nhật mà còn cả việc tôn trọng phẩm giá con người, việc bãi bỏ án tử hình, việc vận hành các nhà máy điện hạt nhân hủy hoại môi trường và các mối quan tâm về sinh thái.
Chúng tôi muốn thử tổ chức một chiến dịch lo cho vấn đề này, nhưng vì đại dịch nên mọi thứ đã dừng lại và chúng tôi không thể làm được. Vì thế chúng tôi muốn nói chuyện với ngài về việc này. Chúng tôi có thể xin ngài rao giảng về việc bảo vệ mọi sự sống, thiết lập hòa bình và xóa bỏ vũ khí hạt nhân, nhưng bây giờ chúng ta sẽ làm gì để nhấn mạnh đến việc bảo vệ phẩm giá con người?
Trong suốt cuộc đời của một con người, ở mọi giai đoạn đều có những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ sự sống, bảo vệ nhân phẩm, những vấn đề thực sự bị bỏ quên ở Nhật Bản. Hệ thống gia đình truyền thống đang dần biến mất. Cha mẹ đơn thân chăm sóc con cái, hoặc con cái bị bỏ rơi: có đủ loại vấn đề liên quan đến phẩm giá con người. Đây là những vấn đề quan trọng cần được thảo luận với giáo hoàng.
Tôi thấy cha có quan điểm vững chắc về mối đe dọa chiến tranh và việc tăng ngân sách vũ khí. Xin cha cho biết cha nghĩ gì về vấn đề này.
Sau Thế chiến thứ hai, vì những gì đã xảy ra, chúng tôi đã bãi bỏ quân đội ở Nhật Bản. Hiến pháp quy định: “Không có quân đội”. Tuy nhiên, có một đội quân ở Nhật Bản. Vì vậy, có một mâu thuẫn lớn vào lúc này. Chúng tôi không nói chúng ta phải bãi bỏ quân đội và các lực lượng vũ trang. Chúng ta cần một số hình thức bảo vệ, nhưng hiện tại thì quá nhiều. Chính phủ chi quá nhiều tiền cho việc này. (Được Hoa Kỳ khuyến khích, Nhật Bản đã phê duyệt tăng 16,5% – 56 tỷ USD – chi tiêu quốc phòng cho năm tài chánh 2024). Họ lấy lý do ảnh hưởng ngày càng mở rộng của Trung Quốc và sự hiện diện của Triều Tiên là lý do bổ sung. Tất nhiên, Trung Quốc và Triều Tiên không giống các nước khác, nhưng tôi không nghĩ họ là mối đe dọa trực tiếp. Đặc biệt với Triều Tiên, chúng tôi đã có những cuộc thảo luận. Tôi không biết các chính trị gia Nhật nghĩ gì, nhưng họ không muốn nói chuyện chứ đừng nói đến gặp mặt. Nếu họ không nói thì sẽ không có chuyện gì tốt xảy ra!
Một chính trị gia cấp cao nói với tôi, chính phủ Nhật không thể làm bất cứ điều gì nếu không có sự cho phép của Washington DC.
Đúng vậy. Rất có thể đúng.
Giáo hội công giáo Nhật đã tham gia một cách đáng ngưỡng phục vào các nỗ lực hòa bình và phong trào giải trừ vũ khí hạt nhân. Cha có thấy mối đe dọa ngày càng tăng liên quan đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân không? Đây có phải là chủ đề có thể được đưa ra trong cuộc nói chuyện với Đức Phanxicô không?
Thành thật mà nói, chúng ta phải nghĩ những người tỉnh táo, những người không điên sẽ không bao giờ dùng vũ khí hạt nhân vì những vũ khí này thực sự có sức tàn phá rất lớn và không chỉ diệt kẻ thù mà còn diệt cả quốc gia đứng sau vụ tấn công. Nếu Mỹ tấn công Nga và Nga trả đũa thì đó sẽ là ngày tận thế.
Mọi người đều biết điều đó, ít nhất là những người không điên. Chừng nào sự cân bằng quyền lực này còn tồn tại, có lẽ sẽ không ai dùng vũ khí hạt nhân, nhưng các mối đe dọa luôn là cái cớ để phát triển kho vũ khí mới, tốn rất nhiều tiền mà chẳng được gì. Họ không cung cấp sự bảo vệ thực sự mà chỉ ném tiền vào thùng rác.
Ở phương Tây, tình hình địa chính trị quốc tế được thể hiện như một cuộc đấu tranh giữa Bắc Đại Tây Dương “tốt” và nhiều quốc gia khác bị cho là “xấu” (Nga, Trung Quốc, Iran, Triều Tiên, v.v.). Cha đánh giá như thế nào về cách phương Tây trình bày tình trạng địa chính trị của thế giới và việc thường xuyên mở ra các mặt trận chiến tranh mới?
Câu hỏi hay. Mọi chuyện đã từng rất đơn giản: Liên Xô và Hoa Kỳ xung đột. Nhưng Liên Xô đã biến mất và cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục!
Tôi nghĩ con người chúng ta luôn có xu hướng tìm kiếm xung đột, đó là lý do vì sao luôn có chiến tranh. Chúng ta muốn đấu tranh để mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của chúng ta. Đây là điều vẫn đang xảy ra ngày nay. Mọi người đều nói đó là chính trị, nhưng nó không chỉ là chính trị. Vấn đề lớn nhất có lẽ là tiền. Tiền tiền tiền.
Nếu nhìn vào thực tế thế giới, chỉ có một số rất nhỏ người có tiền mới thực sự kiểm soát được nền kinh tế và chính trị thế giới. Và hầu hết mọi người đều nằm dưới sự kiểm soát đó. Sự mất cân bằng giữa người có và người không có ngày càng gia tăng và ảnh hưởng đến mọi vấn đề chính trị.
Chính phủ và các giám mục Indonesia được thông báo Đức Phanxicô sẽ đến Indonesia vào đầu tháng 9. Làm thế nào điều này có thể mang lại lợi ích cho toàn bộ khu vực?
Nhiều người trong chúng tôi đánh giá cao sự quan tâm của ngài với các quốc gia mà không ai theo sát, như Indonesia, Đông Timor và Mông Cổ. Ngài rất quan tâm đến Châu Á!
Ở châu Á, Indonesia được biết đến là quốc gia hồi giáo lớn nhất thế giới. Quốc gia này rất quan trọng. Kitô giáo được Hiến pháp bảo vệ, nhưng có những vấn đề cục bộ giữa người theo kitô giáo và người theo hồi giáo. Vì thế, việc ngài đến đất nước này là điều rất quan trọng. Ngài sẽ có thể nói về tự do tôn giáo như ngài đã từng làm ở các nước vùng Vịnh, và điều đó sẽ có tác động mạnh mẽ.
Về vấn đề tự do tôn giáo ở Nhật Bản, trong nhiều thế kỷ, những người theo kitô giáo đã truyền đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác, rửa tội cho trẻ em trong im lặng. Không có phương tiện, không có sức mạnh, bị bách hại, đức tin vẫn sống động. Kinh nghiệm lịch sử này gợi ý gì cho bản chất đức tin kitô giáo?
Khi nói về các cuộc bách hại và tử đạo, chúng ta luôn thấy những ví dụ ở vùng Nagasaki, vì Nagasaki nổi tiếng và là nơi Giáo hội công giáo sinh ra ở Nhật. Nhưng nhiều người đã bị giết vì đức tin trên khắp nước Nhật. Ví dụ, ở các vùng phía bắc Nhật Bản, ở Tokyo hoặc ở các vùng nông thôn, có những cộng đồng kitô giáo quan trọng ở các làng quê. Có rất nhiều tấm gương tử đạo. Nhưng vì sao lại có nhiều người theo đạo ở các vùng phía bắc Nhật Bản? Vì vào thời điểm đó, những người theo đạo quan tâm đến phúc lợi xã hội, người nghèo, người bệnh và giáo dục.
Trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa từ năm 1603 đến năm 1868, người Nhật rất sợ ảnh hưởng của kitô giáo và vì thế họ muốn tiếp tục các hoạt động liên quan đến sự hiện diện của kitô giáo. Đây là lý do vì sao sự hiện diện của kitô giáo đã định hình hệ thống phúc lợi ở Nhật Bản.
Những gì còn lại của lịch sử và kinh nghiệm ân sủng này trong Giáo hội Nhật Bản ngày nay là gì?
Thật không may, ngày nay di sản của các vị tử đạo còn mạnh mẽ ở vùng Nagasaki, nhưng ở Tokyo này rất ít người quan tâm đến. Chúng tôi đã không quảng bá nó đúng cách.
Xin cha kể cho chúng tôi những gì tốt đẹp cha thấy nơi giáo dân Nhật.
Câu hỏi này làm tôi nhớ đến chuyến đi ad limina đầu tiên của tôi năm 2007 với Đức Bênêđíctô XVI, ngài đã có buổi tiếp kiến riêng với mỗi giám mục. (Đức Phanxicô đã thay đổi, ngài gặp tất cả các giám mục).
Khi tôi gặp Đức Bênêđíctô lần đầu tiên, ngài hỏi tôi: “Hy vọng của cha ở giáo phận của cha là gì? Ngài luôn nói về hy vọng! Vì thế tôi nói với ngài: “Tôi có thể kể cho cha nghe nhiều câu chuyện không có hy vọng, nhưng với hy vọng…” Lúc đó tôi nhớ đến những người Phi Luật Tân nhập cư. Họ kết hôn với nông dân Nhật, vì ngay cả ngày nay, nông dân ở nông thôn cũng không có vợ người Nhật, vì không còn nhiều người muốn làm nông dân nên họ đi tìm vợ Phi Luật Tân là người công giáo!
Những phụ nữ công giáo này đến Nhật vì nông dân và ở trong các làng không có nhà thờ. Đó là niềm hy vọng: các nữ truyền giáo đến Nhật. Hồng y Phi Luật Tân Tagle cũng nói như vậy. Ngài luôn khuyến khích người di cư Phi Luật Tân: “Anh chị em là những nhà truyền giáo được Thiên Chúa sai đến!” Và đó là sự thật.
Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô thường nói, kitô giáo lan rộng nhờ sức thu hút chứ không nhờ chiêu dụ. Lời hứa về sự cứu rỗi và hạnh phúc của kitô giáo có thể lôi cuốn giới trẻ Nhật ngày nay như thế nào? Và những yếu tố nào chiếm ưu thế chi phối tâm lý các bạn trẻ Nhật ngày nay?
Việc thu hút giới trẻ là điều cần thiết. Một trong những câu trả lời nằm trong công việc của Caritas. Từ năm 2011, để ứng phó với động đất và sóng thần ở miền bắc Nhật Bản, chúng tôi đã thành lập các nhóm tình nguyện viên để hỗ trợ người dân địa phương qua cơ quan Caritas. Những người không công giáo bắt đầu trìu mến gọi các tình nguyện viên trẻ là “Cô Caritas” hay “Anh Caritas”. Vì thế chúng tôi nói: đây là cách chúng tôi thực hiện công việc truyền giáo ở Nhật! Điều này cho thấy Giáo hội là gì. Caritas rất quan trọng ở một đất nước như Nhật Bản trong việc cho mọi người thấy ý nghĩa thực sự của những gì chúng tôi rao giảng.
Chúng tôi xin cám ơn tổng giám mục Tarcisius Isao Kikuchi đã dành thì giờ và thẳng thắn nói chuyện với chúng tôi.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Ngoại trưởng của Đức Phanxicô nói về Gaza, Ukraine và tương lai của Giáo hội tại Trung Quốc
americamagazine.org, Gerard O’Connell, 2024-03-26
Tổng giám mục Paul R. Gallagher, bộ trưởng Ngoại giao Vatican, phát biểu trong cuộc họp báo tại Vatican ngày 18 tháng 1 năm 2024. (Ảnh CNS/Lola Gomez)
Tòa Thánh có nghĩ Israel đang tiến hành một cuộc diệt chủng ở Gaza không? Đức Phanxicô có kêu gọi Ukraine đầu hàng khi ngài nói đến việc “giương cờ trắng” trong một phỏng vấn với Đài phát thanh truyền hình Thụy Sĩ vào tháng 2 không? Tòa Thánh có ý định gia hạn thỏa thuận tạm thời với Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục không?
Đó là một số câu hỏi, bộ trưởng Ngoại giao trả lời với nhà báo Gerard O’Connell của trang America ngày 25 tháng 3 ở bộ Ngoại giao.
Sinh tại Liverpool, nước Anh năm 1954, tổng giám mục Gallagher vào ngành ngoại giao Tòa thánh năm 1984, sau đó ngài phục vụ trong các cơ quan ngoại giao ở Tanzania, Uruguay, Phi Luật Tân và Hội đồng châu Âu tại Strasbourg, trước khi làm sứ thần ở Burundi, Guatemala và châu Úc. Tháng 11 năm 2014, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm bộ trưởng bộ Quan hệ với các Quốc gia.
Phỏng vấn tổng giám mục Paul Gallagher
Tháng 2 vừa qua, cha tham dự Hội nghị An ninh Munich, nước Đức để thảo luận về các vấn đề an ninh lớn mà thế giới hiện đang phải đối diện. Cha đã rút được kết luận gì?
Tổng giám mục Paul R. Gallagher. Đầu tiên là có sự lo lắng về an ninh quốc tế và tình hình thế giới, không biết thế giới sẽ đi về đâu, xã hội sẽ đi về đâu. Có những lo ngại lớn về Ukraine và Gaza. Nhưng đồng thời cũng có một nỗ lực để thấy khía cạnh tích cực vì chúng ta có nguy cơ trong thế “thua-thua”. Chắc chắn hiện nay có một bầu khí đáng lo ngại trong cộng đồng quốc tế.
Mối quan tâm lớn nhất tại hội nghị Munich dành cho Ukraine hay Gaza?
Tôi nghĩ mối quan tâm được chia đều. Nhưng tôi nghĩ tình hình nhân đạo vô cùng khó, mức độ nghiêm trọng của tình hình nhân đạo ở Gaza thấy rõ trong sự lo ngại của người dân. Và không may, cuộc chiến ở Ukraine đã diễn ra trong một thời gian dài, người dân ý thức mối nguy hiểm ngoài mong muốn của việc cam chịu một tình trạng xung đột dường như chưa thấy được sự kết thúc.
Israel-Palestine
Đức Phanxicô đã nhiều lần kêu gọi ngừng bắn ở Gaza, thả con tin, cung cấp viện trợ nhân đạo và tôn trọng luật pháp quốc tế. Cha nghĩ gì về việc Israel không chịu ngừng ném bom Gaza và mở cửa cho viện trợ nhân đạo?
Tôi nghĩ Israel ý thức về mối đe dọa của Hamas rất khác với ý thức của cộng đồng quốc tế. Đó là lý do vì sao họ rất kiên quyết trong lập trường cũng như trong các chính sách họ theo đuổi. Cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 là một kinh nghiệm đau thương cho người Israel, đến mức họ cảm thấy đây là lựa chọn duy nhất họ có lúc này. Trong tư cách Tòa Thánh, chúng tôi không đồng ý về phản ứng của quân đội. Như ông nói, Đức Phanxicô luôn kêu gọi ngừng bắn và xin viện trợ nhân đạo được đến tay người dân. Rõ ràng, Israel rất đồng ý với lời kêu gọi của Đức Phanxicô về việc thả các con tin.
Mỹ đã nhiều lần dùng quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc để bảo vệ Israel. Kể từ ngày 7 tháng 10, họ đã dùng ba lần để chận nghị quyết kêu gọi ngừng bắn. Cha giải thích loại chính trị này như thế nào?
Liên kết phòng thủ chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và Israel đóng vai trò thiết yếu trong chính sách của cả hai nước, vì thế việc họ sửa đổi chính sách là vô cùng khó khăn. Vì vậy, tôi nghĩ lập trường của Mỹ là tiếp tục kiên quyết yêu cầu Israel sửa đổi chính sách.
Nhiều người cho rằng những gì đang xảy ra ở Gaza là nạn diệt chủng hoặc gần như diệt chủng. Tòa Thánh nhìn vấn đề này như thế nào?
Tòa Thánh không có quyền quyết định thế nào là tình trạng diệt chủng. Có những tổ chức quốc tế có trách nhiệm này và tôi chắc họ sẽ đảm nhận trách nhiệm này vào lúc thích hợp.
Cá nhân tôi cảm thấy, chúng ta không thể dùng danh từ “diệt chủng” vì đó là một phán quyết rất dứt khoát, có một ý nghĩa chính xác trong luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, dựa trên con số được đưa ra, ước tính có 32.000 người chết, số người bị thương còn nhiều người hơn và hàng triệu người phải di cư, tôi nghĩ nhiều người dùng tính từ “diệt chủng” để nói lên đặc điểm này. Dù sao chúng ta phải tiếp tục lên tiếng và cố gắng chấm dứt tiến trình này. Mối quan tâm của chúng tôi là chấm dứt đau khổ và xung đột, chấm dứt chết chóc, vì thế tôi nghĩ chúng tôi đưa ra phán quyết lúc này là không hữu ích.
Nhiều người cho rằng Israel đang dùng hình phạt tập thể và dùng nạn đói làm vũ khí chiến tranh chống lại người dân Gaza. Liệu có đúng không khi Tòa Thánh xem đây là vi phạm luật pháp quốc tế và là tội ác chống lại loài người?
Giáo hoàng và Tòa Thánh đã tố cáo những điều này cũng như tố cáo việc không được tiếp tế nhân đạo, chưa kể đến các báo cáo về nguy cơ nạn đói sắp xảy ra, một tình trạng hết sức lo ngại.
Tòa Thánh có đồng ý Israel đề xuất cắt tài trợ cho Cơ quan Liên hiệp quốc chuyên trách về người tị nạn Palestine (UNRWA) và hiện đang được một số quốc gia thực hiện, trong đó có Hoa Kỳ không? (tháng 1, Liên Hợp Quốc đã sa thải 12 nhân viên của họ bị Israel tố cáo tham gia vào Vụ thảm sát ngày 7 tháng 10.)
Không. Tòa Thánh nghiêm túc xem những cáo buộc chống lại UNRWA. Tuy nhiên, chúng tôi thấy UNRWA đang có những đóng góp quan trọng vào thời điểm này, không chỉ ở Gaza mà còn ở 4 hoặc 5 quốc gia ở Trung Đông nơi có người Palestine sinh sống. Chúng tôi đã khuyến khích một số quốc gia rút tiền tài trợ cho UNRWA suy nghĩ lại việc này. Chúng tôi ủng hộ những gì UNRWA đang làm. Chúng tôi chấp nhận sẽ rất khó để thay thế cơ quan này. Khi các cuộc điều tra về mối liên hệ của UNRWA với Hamas kết thúc, khi các quyết định được đưa ra, khi đó sẽ có thay đổi. Nhưng họ đã thực hiện những thay đổi và điều này sẽ tiếp tục.
Cha đã đi thăm Jordan gần đây. Cha gặp các giám mục và đại diện các giáo hội trong khu vực; cha gặp vua Jordan, bộ trưởng Ngoại giao Jordan và người đứng đầu UNRWA. Cha đã rút tỉa được gì trong tất cả những cuộc họp này?
Tôi nghĩ trong bối cảnh Jordan – và nên nhớ Jordan và Ai Cập là hai quốc gia Trung Đông có thỏa thuận với Israel trong nhiều năm – tôi có cảm giác có một nỗi buồn và thất vọng sâu sắc khi tình hình trở nên xấu đi trong quan hệ với Israel. Đây là tình trạng xuất phát từ việc thiếu tiến bộ trong nhiều thập kỷ qua, trong việc cố gắng đưa ra giải pháp cho vấn đề Palestine.
Cha có còn xem giải pháp hai nhà nước là con đường tiến tới hòa bình giữa người Israel và người Palestine không?
Còn. Có thể đó là một dấu hiệu, nhưng nếu quay lại vài năm trước, Tòa Thánh vẫn còn nói về giải pháp hai nhà nước khi rất nhiều người đã loại bỏ và cho rằng điều đó là không thể. Bây giờ, có lẽ đó là chút tia hy vọng cho một tình huống rất đen tối, ít nhất bây giờ người ta bắt đầu nói về nó một lần nữa và có một số người tin, đây là con đường duy nhất để đi về phía trước.
Nhưng chúng ta không đi sâu vào vấn đề Giêrusalem và thủ đô Giêrusalem thuộc về ai. Chúng tôi nghĩ, là thủ đô tôn giáo của ba tôn giáo độc thần lớn, cần có một quy chế đặc biệt cho Giêrusalem và cần được bảo đảm qua một số hình thức bảo đảm quốc tế.
Cha có nghĩ với thái độ không khoan nhượng hiện nay của Israel ở Gaza, họ có đang làm suy yếu an ninh của chính họ không? Dù sao họ đang sống trong vùng đất Ả Rập.
Tôi nghĩ đó là một mối nguy hiểm, chắc chắn là như vậy. Nhưng chúng ta không thể không thấy mục đích của Thủ tướng Benjamin Netanyahu đặt ra khi bắt đầu cuộc chiến – cụ thể là tiêu diệt, vô hiệu hóa Hamas để Hamas không bao giờ gây ra mối đe dọa cho Israel nữa – rõ ràng có thể thu hút một số người. Nhưng nỗi đau khổ của người dân Palestine quá lớn lao, rất nhiều người là nạn nhân, những nạn nhân vô tội, chúng ta không thể không thấy những chuyện này chuẩn bị cho một thế hệ khủng bố tương lai, và sẽ là mối đe dọa cho tương lai của Israel.
Ukraine
Đức Phanxicô kêu gọi thương thuyết để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine. Một số người giải thích đề nghị giương cờ trắng thương thuyết của ngài là lời kêu gọi đầu hàng, Nga đã hoan nghênh điều này, nhưng Vatican cho biết điều này không đúng. Cha có thể giải thích quan điểm của Đức Phanxicô không? Có phải ngài xin Ukraine giương cờ trắng đầu hàng?
Không. Không có chuyện ngài xin Ukraine đầu hàng. Đó là ngài lo cho Ukraine và sự hiểu biết của ngài về tình hình Ukraine. Thật ra, hình ảnh lá cờ trắng là hình ảnh được nhà báo Thụy Sĩ đưa ra trong cuộc phỏng vấn; vì họ đang nói về biểu tượng của màu trắng. Tôi nghĩ với Đức Phanxicô, điều này thiên về cờ trắng hơn trong việc kêu gọi bảo vệ tiến trình thương thuyết, rồi cuối cùng cũng phải đi đến con đường này. Tất cả các cuộc chiến tranh đều kết thúc bằng một số hình thức thương thuyết.
Ngài không nói Ukraine phải đầu hàng, nhưng ngài nói, đến một lúc nào đó, chúng ta phải có can đảm đi về phía trước và kêu gọi bảo vệ để thương thuyết. Và đó cũng là quan điểm của Tòa thánh, vì Nga thường xuyên nói họ sẵn sàng thương thuyết.
Theo chúng tôi, Nga không đặt ra những điều kiện cần thiết. Các điều kiện cần thiết nằm trong khả năng của Nga là ngăn chặn các cuộc tấn công, ngăn chặn tên lửa. Đó là điều nước Nga phải làm!
Khi tôi phỏng vấn cha hơn một năm trước (tháng 7 năm 2022), cha nói Tòa thánh kêu gọi “hòa bình công bằng” ở Ukraine, và khi tôi hỏi “hòa bình công bằng” nghĩa là gì, cha giải thích, với Tòa Thánh, điều này có nghĩa “Nga phải rút khỏi tất cả các lãnh thổ của Ukraine”. Đó có phải là quan điểm của Tòa Thánh không?
Chúng tôi vẫn ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Chúng tôi không tán thành việc thay đổi ranh giới quốc gia bằng vũ lực. Vì vậy, đó vẫn là quan điểm của chúng tôi. Chúng tôi xem đó là lập trường chính đáng và đó là lập trường của chúng tôi với Ukraine.
Đồng thời, chúng tôi cũng công nhận quyền của Ukraine được thực hiện bất kỳ bước đi nào để có thể có được một thỏa thuận cho một hòa bình công bằng, ngay cả với các lãnh thổ của mình. Nhưng đây không phải là điều chúng ta có thể áp đặt hay mong đợi ở Ukraine. Nếu Ukraine và chính phủ nước này muốn làm điều đó thì hoàn toàn đây là quyền quyết định của họ.
Thực trạng mối quan hệ giữa Tòa Thánh với Matxcơva ở các cấp cao là gì? Tôi hỏi điều này vì tôi thấy khi hồng y Matteo Zuppi đến Matxcơva trong tư cách là đặc phái viên của giáo hoàng, ngài được tiếp đón ở cấp chính quyền thấp hơn so với bất kỳ quốc gia nào trong số ba quốc gia Ukraine, Hoa Kỳ và Trung Quốc mà ngài đến. Có vẻ như khi Nga đưa ra những bình luận công khai tốt đẹp trên truyền thông về giáo hoàng Phanxicô, thì trên thực tế họ vẫn giữ khoảng cách với ngài.
Nga luôn nói họ nghĩ đó là mức độ phù hợp họ tiếp một phái viên của giáo hoàng, như một cố vấn của tổng thống. Điều đó chúng tôi chấp nhận, nhưng chúng tôi mong trong tương lai, nếu hồng y Zuppi trở lại Matxcơva, ngài sẽ được tiếp ở cấp cao hơn. Chúng tôi nghĩ như thế sẽ phù hợp.
Có khả năng hồng y Zuppi sẽ trở lại Matxcơva không?
Tôi nghĩ Đức Phanxicô sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần thiết. Nếu ngài tin điều này sẽ giúp chấm dứt chiến tranh và có được hòa bình công bằng, thì tôi nghĩ ngài sẽ làm.
Có khả năng Đức Phanxicô đi Matxcơva không? Tôi nghĩ không có lời mời nào của Matxcơva.
Theo chỗ tôi biết thì không. Nhưng như ông biết, ngài luôn nói ngài sẽ đến hai thủ đô, hoặc ngài lên kế hoạch cho hai chuyến đi, Matxcơva và Kyiv.
Trung Quốc và Việt Nam
Tháng 9 năm 2018, Tòa Thánh và Trung Quốc đã ký một thỏa thuận tạm thời liên quan đến việc bổ nhiệm các giám mục. Thỏa thuận này đã có từ 6 năm nay, bất chấp những sai lệch đơn phương của Bắc Kinh. Câu hỏi của tôi: Nó sẽ được gia hạn thêm hai năm hay được gia hạn vĩnh viễn vào tháng 10 sắp tới khi thỏa thuận kết thúc?
Nó sẽ hết hạn vào tháng 10 và nếu chúng tôi tiếp tục, nó sẽ được gia hạn thêm. Tôi nghĩ, thỏa thuận này là phương tiện hữu ích để Tòa Thánh và chính quyền Trung Quốc giải quyết vấn đề bổ nhiệm các giám mục. Chúng tôi muốn thấy nó hoạt động tốt hơn, có nhiều kết quả hơn và chúng tôi vẫn tin nó có khả năng cải thiện. Vì thế, tôi không nghĩ chúng tôi nói đến chuyện chấm dứt thỏa thuận, chúng tôi tin có thể có những cải tiến, mang lại cơ hội để có một quyết định chính xác.
Tôi hiểu cha muốn cải thiện thỏa thuận tạm thời này, nhưng tôi nhớ, trước khi ký thỏa thuận, Tòa Thánh cũng muốn thảo luận các vấn đề khác, nhưng phía Trung Quốc luôn nói rằng chúng tôi sẽ chỉ giải quyết các vấn đề khác sau khi ký kết thỏa thuận. Theo tôi hiểu, bây giờ người Trung Quốc rất miễn cưỡng trong việc giải quyết hoặc tiến tới các vấn đề khác. Cho đến khi có một chuyển động hay phát triển thực sự nào về các vấn đề khác không?
Không, vì thỏa thuận là giải quyết vấn đề bổ nhiệm các giám mục, và đó chính là nội dung cuộc đối thoại vẫn đang hướng tới. Rõ ràng, khi các đại biểu gặp nhau, họ nói về các khía cạnh khác trong đời sống của Giáo hội ở Trung Quốc, nhưng hiện tại chưa có cuộc thương thuyết nào quan trọng về các vấn đề khác.
Vì vậy, khả năng có một văn phòng Tòa Thánh ở Bắc Kinh được đặt lên bàn thảo luận không?
Ồ, chúng tôi luôn tin điều này là hữu ích.
Nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự sẵn sàng hoặc cởi mở về phía Bắc Kinh với vấn đề này.
Chưa.
Có bất kỳ thái độ nào của Bắc Kinh về vấn đề các giám mục và cộng đồng hầm trú không?
Chúng tôi nghĩ phải nói đến việc bình thường hóa tình trạng.
Có thái độ tích cực nào của Bắc Kinh về vấn đề này không?
Chúng tôi đang giải quyết những gì chúng tôi phải giải quyết!
Về việc cho phép các giám mục Trung Quốc tự do đến Rôma và Vatican có thể cử nhân viên của mình đến Trung Quốc, liệu có tiến triển gì không?
Chúng tôi rất vui vì việc này đã xảy ra một vài lần. Chúng tôi hy vọng các giám mục đã tham dự Thượng hội đồng tháng 10 năm ngoái sẽ có thể trở lại Thượng hội đồng vào tháng 10 năm nay.
Cũng cùng các giám mục?
Vì Thượng hội đồng tháng 10 năm nay sẽ bao gồm các thành viên đã tham dự Thượng hội đồng năm ngoái, nên tôi nghĩ cũng cùng các giám mục này sẽ về lại Rôma. Nhưng cũng có thể không, và nếu họ nói: “Chúng tôi sẽ cử hai người khác đến” thì chúng tôi cũng sẽ chấp nhận.
Thêm nữa, chúng ta không nên quên đã có những trao đổi tốt đẹp giữa giám mục Hồng Kông và các giám mục ở đại lục. Những chuyến đi gọi là thân hữu nhưng không nhiều. Một số giám mục công khai có nhiều mối liên hệ hơn, chúng tôi chỉ có thể khuyến khích điều này.
Nhưng cha đã không gặp người đồng cấp của cha tại hội nghị Munich như các năm trước?
Không, ngài không hỏi và tôi cũng không hỏi. Ông biết đó, người Trung Quốc muốn mọi chuyện phát triển dần dần và tự nhiên, nên có thể họ mong cuộc đối thoại được nâng lên một mức cao hơn một chút.
Như thế có khả năng hồng y Pietro Parolin có thể gặp đồng cấp của ngài ở một thời điểm nào đó không?
Luôn có khả năng xảy ra, nhưng không có kế hoạch cụ thể nào.
Về việc Đức Phanxicô gặp Chủ tịch nước Trung Quốc, liệu có thể xảy ra không?
Ồ, như ông biết, giáo hoàng luôn sẵn lòng gặp Chủ tịch nước, nhưng hiện tại không có lời mời nào. Người Trung Quốc sẽ nói: “Chưa đến lúc; thời thế chưa chín muồi.”
Cha sẽ đi Việt Nam vào tháng tư. Cần phải làm gì để thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam?
Vấn đề là phải có quyết tâm chính trị để đi đến mục đích này. Chúng tôi rất vui trước những tiến bộ đã đạt được và chúng tôi đã có đại diện thường trú của giáo hoàng tại Hà Nội. Tôi nghĩ ưu tiên của chúng tôi bây giờ là thấy công việc này mang lại hiệu quả – có lợi cho cộng đồng Công giáo, cho các giám mục, giáo dân Việt Nam – và chính quyền đã quen với việc có người đại diện cho Tòa Thánh ở đó. Tôi nghĩ đó là ưu tiên của chúng tôi.
Tôi hiểu có khả năng Đức Phanxicô đến Việt Nam mà không có quan hệ ngoại giao.
Nó có thể hơi bất thường, nhưng không có gì là không thể.
Tôi được biết có chuyến tông du của giáo hoàng đến Indonesia, Singapore, Đông Timor và Papua Tân Ghinê hiện được dời lại đầu tháng 9.
Đúng, theo như tôi biết.
Và Việt Nam có thể được thêm vào chuyến đi này?
Có thể.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Phanxicô lên án việc phá thai trẻ em khuyết tật
Ngày thứ năm 11 tháng 4, Đức Phanxicô tiếp Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng, ngài đau buồn vì nhiều nơi trên thế giới, người khuyết tật còn “bị cô lập và bị gạt ra bên lề đời sống xã hội” | © Truyền thông Vatican
cath.ch, I.Media, 2024-04-11
Ngày thứ năm 11 tháng 4, Đức Phanxicô lên tiếng bảo vệ sự sống và bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là trẻ em khuyết tật mới sinh. Lời kêu gọi được đưa ra sau khi tài liệu Phẩm giá con người, Dignitas infinita của bộ Giáo lý Đức tin lên án lý thuyết giới tính, thay đổi giới tính, mang thai hộ và an tử.
Trong buổi tiếp kiến những người tham gia phiên họp toàn thể của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội – các chuyên gia giải quyết những thách thức cấp bách hiện nay như trí tuệ nhân tạo – do nữ tu Dòng Đa Minh Helen Alford chủ trì. Ngài cũng gặp các người tham dự phiên họp toàn thể của Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng, một tổ chức có khoảng 20 thành viên dưới quyền của hồng y Víctor Manuel Fernández, bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin.
Trước các học giả khoa học xã hội tập trung về chủ đề hòa nhập của người khuyết tật, Đức Phanxicô lấy làm tiếc, ở nhiều nơi trên thế giới, họ vẫn “bị cô lập và bị đẩy ra ngoài lề đời sống xã hội”, đặc biệt ở những khu vực nghèo nhất, nơi họ bị cho là “khốn cùng”.
Đức Phanxicô ghi nhận, ở các nước phát triển hơn, những người khuyết tật là nạn nhân của một loại gạt ra ngoài lề khác, đó là xác định họ theo các tiêu chuẩn thực dụng và chức năng, chỉ khi cuộc sống có giá trị và đáng sống. Ngài cảnh báo một tâm lý dẫn đến “vi phạm nghiêm trọng quyền của những người yếu đuối nhất”, trong đó “lôgic lợi nhuận, hiệu quả hoặc thành công là động lực chính”.
Ngài cũng lên án “khía cạnh ít thấy nhưng rất quỷ quyệt” ở các xã hội hiện đại, đã làm “xói mòn giá trị của người khuyết tật: xu hướng xem sự tồn tại của họ như một gánh nặng cho chính họ và cho người thân yêu của họ”.
Theo Đức Phanxicô, việc loan truyền não trạng này dẫn đến “văn hóa của sự chết” khi con người “chưa phục vụ” – các em bé chưa sinh ra – khi con người “không còn phục vụ” như người già. Ngài nhấn mạnh: “Các em bé khuyết tật bị phá thai khi chưa sinh, các người già bị bệnh nan y bị đề nghị một ‘cái chết nhẹ nhàng’, cái chết êm dịu trá hình, luôn là như vậy, nhưng cuối cùng cũng là cái chết êm dịu”.
Đừng biến bệnh tật thành điều cấm kỵ
Trước các thành viên của Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng, ngài nói, các chủ đề làm việc của họ là đau khổ và bệnh tật “rất gần gũi với trái tim của ngài”. Ngài cảnh báo: “Việc loại bỏ họ, biến họ thành chuyện cấm kỵ, tốt hơn là không nên nhắc tới, có lẽ vì họ làm tổn hại đến hình ảnh hiệu quả bằng mọi giá phải là lợi nhuận, là bán được, kiếm tiền được, chắc chắn đây không phải là một giải pháp.”
Trong suốt bài phát biểu, ngài hy vọng rằng những người phải đối diện với đau khổ và bệnh tật sẽ có thể vượt lên được “trong mối quan hệ, không thu mình, không nổi loạn để biến thành cô lập, bị bỏ rơi và tuyệt vọng”.
Ngày 8 tháng 4, bộ Giáo lý Đức tin đã công bố tài liệu Phẩm giá con người, Dignitas infinita, bảo vệ phẩm giá con người một cách vô điều kiện và cung cấp danh sách “những vi phạm nghiêm trọng đến phẩm giá con người”, bao gồm phá thai, giới tính, an tử và trợ tử.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Các Giám mục Âu châu đau buồn vì phá thai được xem là quyền cơ bản
Vatican News
Ngày 11/4/2024, với 373 phiếu thuận 163 phiếu chống, và 39 phiếu trắng, các thành viên của Liên minh Âu châu đã bỏ phiếu đưa quyền phá thai vào Hiến chương về các Quyền Cơ bản của Liên minh Âu châu. Nghị quyết có giá trị chính trị, nhưng không mang tính quy phạm và ràng buộc.
Quyền phá thai là một trong những quyền khác được Liên minh bỏ phiếu thông qua như quyền tự chủ về thân thể, tiếp cận tự do, có thông tin, đầy đủ và phổ biến về tính dục và các quyền và sức khỏe sinh sản cũng như tất cả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe liên quan mà không có sự phân biệt đối xử, bao gồm cả việc tiếp cận phá thai an toàn và hợp pháp.
Trước ngày bỏ phiếu này, ngày 09/4, trong một tuyên bố, các Giám mục đã khẳng định rằng việc thăng tiến phụ nữ và các quyền của họ không liên quan đến việc cổ võ phá thai. Thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phá thai đi ngược lại với việc thực sự thăng tiến phụ nữ và các quyền của họ. Tuyên bố viết: “Quyền sống là trụ cột cơ bản của tất cả các quyền khác của con người, đặc biệt là quyền sống của những người dễ bị tổn thương, mong manh và không có khả năng tự vệ nhất, như trẻ chưa sinh đang còn trong lòng mẹ, người di cư, người già, người khuyết tật, người ốm đau. Giáo hội luôn dạy điều này”.
Trước kết quả bỏ phiếu trên, cha Manuel Enrique Barrios Prieto, Tổng Thư ký của COMECE bày tỏ đau buồn. Ngài nhắc lại sự phản đối của Giám mục trong tuyên bố trước cuộc bỏ phiếu, khẳng định rằng phá thai không thể được coi là một quyền cơ bản, vì “một quyền cơ bản” là “quyền sống”. Quyền này phải được tôn trọng cách đặc biệt khi con người ở trong tình trạng dễ bị tổn thương, như trường hợp bào thai ở trong lòng mẹ.
Đại diện các Giám mục Âu châu than phiền về nguồn gốc Kitô của những người đã bỏ phiếu ủng hộ quyền này. Theo ngài, đây thực sự là một điều tai tiếng. Vì thế Giáo hội có nhiệm vụ nhắc nhở các đảng phái và chính trị gia về trách nhiệm của họ. Và trước cuộc bầu cử mới ở châu lục, các Giám mục COMECE cũng mời gọi các cử tri bỏ phiếu với trách nhiệm. Cha kết luận rằng nhiệm vụ của Giáo hội là huấn luyện và giáo dục con người để bày tỏ và đưa ra sứ điệp về tầm quan trọng của việc chăm sóc sự sống.
Giáo hội Philippines chính thức khai mạc án phong chân phước cho thiếu nữ 13 tuổi
Hồng Thủy - Vatican News
Sự kiện này đánh dấu bước đầu tiên trong một quá trình lâu dài nhằm tôn vinh Ruíz-Abad trở thành một trong những vị thánh trẻ nhất trong lịch sử Giáo hội.
Đức Cha Renato Mayugba, Giám mục của Laoag City, đứng đầu tòa án để nghe các nhân chứng làm chứng về cuộc đời và sự thánh thiện của vị Tôi tớ Chúa trẻ tuổi Ruíz-Abad, người được mô tả là “nguồn cảm hứng của lòng đạo đức, lòng thương xót, việc truyền giáo và sức mạnh cho người khác”.
Một đoạn video tái hiện cuộc đời của Ruíz-Abad đã được chiếu trong buổi khai mạc án phong chân phước, mang đến cho người tham dự một cái nhìn thoáng qua về cuộc đời của thiếu nữ với lòng đạo đức sâu sắc và tình yêu dành cho Chúa ngay từ khi còn rất nhỏ. Khi còn là một trẻ em, Ruíz-Abad luôn chăm chú cầu nguyện trước Thánh Thể, với hai cánh tay dang rộng về phía Chúa và thích phân phát thẻ cầu nguyện và các hình ảnh tôn giáo, đặc biệt là về “Santo Niño” (Chúa Giêsu Hài đồng), cho các giáo viên và bạn học của em. Đoạn video cho thấy một thiếu nữ không hề bối rối khi bị chẩn đoán mắc bệnh tim nan y và đã nói với người mẹ đang đau khổ của mình: “Mẹ đừng lo lắng; không sao đâu - Chúa sẽ chữa lành cho con!”.
Cha Dennis Ruíz, thỉnh nguyện viên của án, nhấn mạnh tầm quan trọng của tấm gương của Ruíz-Abad, đặc biệt đối với giới trẻ ngày nay, giống như Chân phước Carlo Acutis. Cha nói: “Nhiều người trẻ ngày nay bận tâm đến công nghệ, thời trang, vui chơi, thú vui và ham muốn vật chất trần tục, những điều này đôi khi khiến họ không chú ý đến những mối quan hệ lành mạnh, đặc biệt là [mối quan hệ] với Thiên Chúa”. “Với những gia đình không chu toàn chức năng và sự tan rã của gia đình trong xã hội ngày nay, trẻ em thường là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, điều này khiến các em tìm đến môi trường của mình để được an ủi và xoa dịu. Nhưng nếu có một tấm gương đạo đức và nghị lực tốt cho tuổi trẻ, họ có thể được cứu khỏi sự diệt vong hoàn toàn. Việc hiểu biết về tính cách và đặc điểm của Niña cũng như đức tin mạnh mẽ của cô đối với Thiên Chúa sẽ là kim chỉ nam cho giới trẻ”.
Ngay sau phiên họp khai mạc, Tòa án Giáo phận Laoag và những người tham dự phiên họp đã đến viếng mộ Tôi Tớ Chúa Ruíz-Abad tại Nhà thờ Thánh Monica ở Sarrat, thành phố Ilocos Norte.
Đơn thỉnh cầu phong chân phước và phong thánh cho Ruíz-Abad là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của Giáo hội nhằm công nhận các vị thánh thời hiện đại, những gương mẫu cho người Công giáo trong thế kỷ 21. Giáo hội Công giáo muốn công nhận các vị thánh đã thực hành đức tin trong đời sống bình thường của cuộc sống hiện đại.
Đức Cha Mayugba đã khuyến khích: “Xin cho cuộc đời của Ruíz-Abad, dù ngắn ngủi, truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta đặt Thiên Chúa lên hàng đầu trong cuộc sống của mình”. (CNA 11/04/2024)
Tín hữu Trung Quốc quảng đại đóng góp cho “Cuộc lạc quyên toàn quốc” năm 2024
Vatican News
Việc quyên góp, theo truyền thống, với đỉnh cao là vào Chúa nhật Lễ Lá, gây quỹ để phân bổ phần lớn cho các nỗ lực cứu trợ ở những khu vực bị ảnh hưởng bởi thảm hoạ thời tiết và tình trạng khẩn cấp xã hội, và luôn nhận được sự hỗ trợ cụ thể của các giám mục.
Theo thông tin do hãng tin Fides thu thập, giáo phận Bắc Kinh đã thu được 169.286 nhân dân tệ (tương đương 21.620 Euro), và từ các giáo phận ở những khu vực kém thịnh vượng hơn về kinh tế. Giống như các tỉnh Giang Tô, Sơn Tây (thu được 17.973 nhân dân tệ), Quý Châu và Sơn Đông (thu được 20.000 nhân dân tệ).
Giáo phận Thượng Hải đã chọn ngày lạc quyên trùng với Chúa Nhật Lòng Thương Xót, và do đó nhấn mạnh mối liên kết hiệp nhất các công việc của lòng thương xót với sứ điệp của Thánh Faustina Kowalska. Cho đến ngày 8/4, giáo phận đã lạc quyên được khoảng 530.000 nhân dân tệ, đến từ các giáo xứ và viện dưỡng lão. Đức Cha Giuse Thẩm Bân (Shen Bin), Giám mục Thượng Hải, cho biết: “Ngay cả việc thực hiện cuộc lạc quyên cũng cho thấy con đường thánh hóa, nó được thúc đẩy bởi tình yêu dành cho Thiên Chúa, được thể hiện trong tình yêu đối với con người”.
Việc quyên góp để gây quỹ vì lợi ích của những người gặp hoàn cảnh khó khăn luôn được các cộng đồng Công giáo trên khắp Trung Quốc hỗ trợ rất nhiều, cũng nhờ vào khả năng luôn có thể xác minh tính minh bạch tối đa trong việc sử dụng số tiền quyên góp được trong những năm này. Các dự án được tài trợ cũng bao gồm các nỗ lực cứu trợ được hỗ trợ sau lũ lụt và động đất ở nhiều khu vực khác nhau của Trung Quốc, cũng như những nỗ lực trợ giúp sau trận động đất ở Hoa Liên, Đài Loan, vụ phun trào núi lửa ở Guatemala và sóng thần ở Indonesia vào năm 2018. (Fides 11/4/2024)