Tin Cộng Đoàn
Tin Cộng Đoàn
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
Một giả định để ai đó chợt nhận ra những gì đã, đang và sẽ xảy ra xung quanh mình với cái nhìn khác, cái nhìn của mình nhưng không hẳn cho mình, để hiểu rõ hơn những người bạn, dẫu cho mọi người vẫn thường thốt lên “giá mà…” khi thứ gì đó qua đi.
Còn tôi và bạn, ngày hôm qua vẫn có thể là ngày hôm nay hoặc ngày mai bởi đơn giản chúng ta là bạn. Và nếu tôi không phải là tôi, nếu tôi là bạn… thì liệu tôi có hành động như bạn không? Chắc cũng vậy thôi, nhưng sao không thử một lần giả định nhỉ?
Những gì đã xảy ra cho bạn, cho tôi hay bất kỳ ai khác, tất cả giờ đã là quá khứ. Một quá khứ không bao giờ tìm lại được, một tương lai không thể nào xác định được. Nhưng hiện tại thì bắt đầu từ quá khứ và là cầu nối đến tương lai.
Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không bao giờ cố giấu hay kìm nén những cảm xúc đối với ai đó để rồi suốt ngày phải chạy trốn chính bản thân mình, cùng hàng trăm, hàng nghìn sự lựa chọn mà trong đó không có sự lựa chọn nào dành cho riêng bạn. Còn nếu vì lý do nào đó, thì tôi cũng sẽ đặt nó ở vị trí sâu kín nhất trong tâm hồn để thoải mái hơn mỗi khi đương đầu với bản thân mình.
Nếu tôi là bạn, tôi đã không bao giờ trách bạn mình là “đồ tồi” chỉ bởi lý do mà… chỉ bạn mới biết. Dẫu rằng nó sẽ được bỏ qua nhưng dường như một hố sâu vô hình được dựng lên mà không cách nào vượt qua được. Một chiếc cốc thuỷ tinh đã vỡ làm sao có thể hàn gắn nguyên vẹn như lúc ban đầu, dù người thợ có khéo léo đến cỡ nào.
Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không suốt ngày ấp ủ những ảo tường mà chỉ có mỗi bạn vẽ ra. Tôi sẽ chia sẻ nó cho mọi người đặc biệt là những người bạn, kể cả khi tôi có thể nhận về những điều không thực sự mong đợi. Khi bạn mở lòng mình, bạn sẽ có được nhiều hơn thế từ người khác.
Nếu tôi là bạn, tôi đã không giận người bạn thân bởi hình ảnh một người thứ ba xa lạ, để rồi đánh mất mãi mãi những gì đã vun đắp bằng tình bạn chân thành. Nếu tôi là bạn, tôi sẽ bỏ ngay suy nghĩ người khác phải làm điều này cho mình trước khi mình làm điều kia cho họ.
Nếu tôi là bạn, tôi đã không vì chút lòng ích kỷ, ghen tị với mọi người mà bỏ quên bản thân mình, để rồi cứ phải dằn vặt trong những tháng ngày đơn độc. Bạn không muốn ai ở bên bạn cũng bởi bạn quá yêu bản thân mình, hơn bao giờ hết.
Nếu tôi là bạn, tôi sẽ luôn nghĩ ngày mai tươi sáng hơn ngày hôm qua chứ không bi quan cho một ngày mới dù vì bất cứ lý do gì.
Nếu tôi là bạn, tôi đã không chạy đi tìm một bến đỗ mới cho bản thân khi bến đỗ cũ chưa được xây dựng vững chắc. Đôi lúc đó là xu hướng, nhưng khi làm người khác mất niềm tin thì cũng thật khó để làm tốt công việc dù bạn có thực sự muốn như vậy…
Nếu tôi là bạn, tôi sẽ cố loại bỏ những suy nghĩ nhạy cảm không đáng có về một ai đó để rồi sinh ra ngớ ngẩn. Tất cả chỉ để chứng minh bạn “ngưỡng mộ” người đó.
Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không giành quá nhiều thời gian vào 4 bức tường và màn hình Internet để tách biệt với thế giới. Cuộc sống ngoài kia có nhiều thứ tươi đẹp để khám phá.
Nếu tôi là bạn, tôi sẽ không lôi khiếm khuyết của người khác ra để bàn luận dẫu cho đó chỉ là trò đùa. Nếu tôi là bạn, tôi cũng sẽ không nghĩ ranh giới giữa tình bạn và tình yêu mong manh đến thế.
Nếu tôi là bạn, tôi không nghĩ về ngày mai (tương lai) khi hôm nay (hiện tại) tôi không biết phải làm gì. Có thể ngày mai sẽ không bao giờ đến hoặc sẽ đến nhưng bạn có nghĩ mình sẽ ra sao khi ngày mai thực sự đến.
Nếu tôi là bạn… nếu… tất cả cũng chỉ là giả định. Những thứ đã qua đi và để lại chút gì đó cho bạn, cho tôi và những người bạn của chúng ta đôi lúc khiến tất cả trưởng thành hơn. Có thể tôi không thành công như bạn, không hành động được như bạn ở một khía cạnh nào đó nhưng tôi giả định mình là bạn để hiểu hơn tính cách những người bạn của mình, để trải nghiệm thêm cuộc sống từ những gì mình từng nhận được.
Vậy có khi nào bạn không phải là bạn, bạn là tôi hay ai đó không nhỉ? Tại sao lại không kia chứ!
@ 𝗦𝘂𝘆 𝗻𝗴𝗮̂̃𝗺
+ Khi mà bạn biết quý trọng quá khứ của mình,
Hài lòng với thực tại, lạc quan với tương lai,
Khi đó bạn đã đứng trên đỉnh cao nhất của cuộc sống này.
+ Sông càng sâu càng tĩnh lặng.
Lúa càng chín càng cúi đầu.
Người giỏi thật sự luôn khiêm tốn,
Kẻ thiếu năng lực thường ba hoa.
@ 𝗖𝗮̂̀𝘂 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻
𝘓𝘢̣𝘺 𝘔𝘦̣ 𝘔𝘢𝘳𝘪𝘢!
𝘛𝘩𝘢́𝘯𝘩 𝘯𝘩𝘢̂𝘯 𝘯𝘢̀𝘰 𝘤𝘶̃𝘯𝘨 𝘤𝘰́ 𝘲𝘶𝘢́ 𝘬𝘩𝘶̛́
𝘛𝘰̣̂𝘪 𝘯𝘩𝘢̂𝘯 𝘯𝘢̀𝘰 𝘤𝘶̃𝘯𝘨 𝘤𝘰́ 𝘵𝘶̛𝘰̛𝘯𝘨 𝘭𝘢𝘪
𝘛𝘩𝘪𝘦̂𝘯 𝘊𝘩𝘶́𝘢 𝘮𝘰̛̉ đ𝘶̛𝘰̛̀𝘯𝘨 𝘣𝘶̛𝘰̛́𝘤 𝘵𝘰̛́𝘪
𝘝𝘶̛𝘰̛̣𝘵 𝘲𝘶𝘢 𝘲𝘶𝘢́ 𝘬𝘩𝘶̛́ 𝘵𝘳𝘢̉𝘪 𝘬𝘪𝘯𝘩 𝘯𝘨𝘩𝘪𝘦̣̂𝘮.
𝘏𝘪𝘦̣̂𝘯 𝘵𝘢̣𝘪 𝘤𝘢̂̀𝘶 𝘯𝘰̂́𝘪 đ𝘦̂́𝘯 𝘵𝘶̛𝘰̛𝘯𝘨 𝘭𝘢𝘪
𝘊𝘰𝘯 𝘯𝘢̀𝘪 𝘹𝘪𝘯 𝘔𝘦̣ 𝘤𝘶̀𝘯𝘨 𝘤𝘰𝘯 𝘣𝘶̛𝘰̛́𝘤
𝘋𝘢̆́𝘵 𝘥𝘪̀𝘶 𝘱𝘩𝘶̀ 𝘨𝘪𝘶́𝘱 𝘴𝘰̂́𝘯𝘨 𝘺𝘦̂𝘶 𝘵𝘩𝘶̛𝘰̛𝘯𝘨
𝘋𝘢̂𝘯𝘨 𝘩𝘪𝘦̂́𝘯 𝘮𝘰̣̂𝘵 đ𝘰̛̀𝘪 𝘱𝘩𝘶̣𝘤 𝘷𝘶̣ 𝘭𝘶𝘰̂𝘯. 𝘈𝘮𝘦𝘯.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Trầm Hương Thơ
Cử chỉ Bác Ái trong thời gian đại nạn dịch cúm Corona toàn cầu Hội Bác Ái Vinh Sơn Phaolô Đức Quốc đã quyên góp khẩn cấp với số tiền là 3.020 euro (Ba ngàn không trăm hai mươi Âu Kim) để giúp đỡ cho chương trình máy trợ thở cho những bệnh nhân Ân Độ.
Hôm nay tại Mönchengladbach và nhiều tờ báo Đức đã đăng bản tin như trên: Ông Hội Trưởng Nguyễn Văn Rị thay mặt Hội Bác Ái Vinh Sơn Phaolô Đức Quốc cùng với vị linh mục khả kính Johannes van der Vorst đến trao tấm Ngân Phiếu với số tiền là 3.020 Euro cho vị trưởng văn phòng Caritas là ông Polixa. Ông Polixa đã đón nhận với lòng trân trọng và sẽ chuyển số tiền trên về trung ương Caritas ở Freiburg của Đức. Việc Bắc Ái này không phải là lần đầu tiên, nhưng mà Hội đã và vẫn đang làm thường xuyên trong nhiều năm qua với nhiều chương trình khác nhau. Lần này là theo chương trình quyên góp khẩn cấp Caritas để đóng góp cho Ấn Độ vì trong những tháng ngày qua đất nước với tỷ người này đã bị dịch cúm Corona hoành hành khủng khiếp.
Theo lời ông Hội Trưởng kêu gọi thì số tiền này là do những người Hội Viên và những người quen biết và cả con cháu ông đã đóng góp của ít lòng nhiều như những năm qua ông và Hội vẫn thường làm. Đây cũng chính là mục đích của Hội Bác Ái Vinh Sơn Phaolô.
Cũng cần phải nói thêm: Trong nhiều năm qua Ông Nguyễn Văn Rị và Hội đã đã tận tâm giúp đỡ những người cần giúp đỡ. Một phần luôn thôi thúc nhắc nhớ về lòng biết ơn Nước Đức đã cứu giúp chính bản thân Ông và nhiều người.
Năm 1981 gia đình đã phải bỏ nước ra đi lánh nạn cộng sản bằng một con tàu nhỏ trải qua sáu ngày lênh đênh về nơi vô định trên một chiếc thuyền nhỏ với 95 người tị nạn khác trên biển. Lúc đó cô con gái út Kim Ngân vừa chào đời mấy ngày. Ông nói: “Lúc đó chúng tôi hầu như không có bất kỳ nguồn cung cấp nào trên tàu. nên chỉ kéo dài thêm một ngày nữa chắc là chúng tôi có thể đã chết khát, nhưng thật là tạ ơn Chúa trong giờ phút “Cửu tử nhất sinh” thì chúng tôi đã được con tàu Cap Anamur của Đức cứu sống và đưa về đất nước Đức cho định cư sinh sống và giúp đỡ vào năm 1981.
Từ dạo ấy gia đình chúng tôi đến thành phố Mönchengladbach đầy tình người này định cư. Tại đây chúng tôi được học tiếng Đức và sau đó học nghề, được đào tạo thành thợ khóa, và làm việc được 34 năm tại hãng Voith Paper Krieger cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2019.
Chúng tôi đã được cảm nhận tình người và đã được sống trong ngôi nhà tự do ở Đức. Tôi và những đồng bào tị nạn cộng sản luôn rất biết ơn vì điều nhân bản đó. Ttừ ngày đó ông luôn dấn thân phục vụ những công việc thiện nguyện không ngưng nghỉ. Đã dấn thân phục vụ ở Đức trong rất nhiều công việc chẳng hạn như là Cộng Đoàn trưởng người Công giáo Việt Nam ở Mönchengladbach và vùng phụ cận. Chủ tịch hội người Việt Nam Mönchengladbach và vùng phụ cận nhiều năm. Phó chủ tịch liên đoàn Công giáo Việt Nam Đức Quốc v.v…
Ông đã được trao tặng nhiều bằng khen giải thưởng và huy chương của Tổng Thống Liên bang Đức trao tặng.
Huân chương hiệp sỹ "Pro Ecclesia et Pontifice" do Giáo hoàng John Paul II trao tặng.
Huân chương Công trạng của Bang North Rhine-Westphalia và Giải thưởng Công dân của Thành phố Mönchengladbach. V. v…
Ông Polixa rất vui mừng và nói: Chúng tôi luôn dành sự trân trọng đối với Ông Nguyễn Văn Rị. Vì người đàn ông 67 tuổi này đã luôn hăng say dấn thân không ngưng nghỉ trong những công việc tốt lành.
Trầm Hương Thơ
20.07.202
Lược dịch theo nhiều tờ báo Đức.
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗡𝗮̆𝗺 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗜𝗜𝗜 𝗧𝗡 - 𝗡𝗮̆𝗺 𝗹𝗲̉
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝗦𝘁 𝟮𝟮, 𝟭-𝟭𝟵; 𝗠𝘁 𝟵, 𝟭-𝟴.
Đức tin hết sức cần thiết cho con người, bởi lẽ nhờ đức tin con người quy phục và phó thác cho Chúa cả đời mình, dù gặp gian nan khốn khó, cũng để Ngài định liệu quan phòng và chắc chắn sẽ có lợi ích cho phần rỗi của mình. Có người quan niệm rằng: tôi tin khi nào tôi hiểu được. Nếu hiểu được thì đâu còn gọi là tin nữa, lúc đó mọi điều là hiển nhiên rồi. Trong bài đọc 1, tác giả Sách Sáng Thế tường thuật đức tin sắt đá của Abraham vào Thiên Chúa, qua việc sẵn sàng sát tế người con duy nhất cho Ngài. Ông không hiểu vì sao Chúa cho ông có một đứa con duy nhất trong lúc tuổi già mà giờ phải sát tế cho Chúa? Nhưng ông vẫn thi hành và Chúa biết tấm lòng tin tưởng của ông nơi Chúa. Trong Tin Mừng, người bại liệt và những người khiêng có lòng tin mãnh liệt vào Đức Giê-su, nên Ngài chữa lành cho anh bại liệt đó.
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Khi ấy, Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt : “Này con, cứ yên tâm, tội con được tha rồi !” Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng : “Ông này nói phạm thượng.” Nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói : “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy ? Trong hai điều : một là bảo : “Tội con được tha rồi”, hai là bảo : “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn ? Vậy, để các ông biết : ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội - bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt : “Đứng dậy, vác giường mà đi về nhà !” Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà. Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Hôm qua, dân làng Ga-đa-ra mời Đức Giê-su ra khỏi vùng của họ, vì Ngài cho phép ma quỷ nhập vào bầy heo và chúng nhào xuống biển chết đuối hết thảy, làm mất lợi nhuận kinh tế của dân làng. Theo thánh sử Mác-cô, Đức Giê-su không đi Ca-phác-na-um liền nhưng nán lại vài hôm “Vài ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um” (Mc, 2,1); trong khi theo thánh sử Mat-thêu, Đức Giê-su đi liền: “Khi ấy, Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình.” (Mt 9,1). ‘Thành của mình’ là thành nào? Đó là Ca-phác-na-um. Đức Giê-su khi giảng dạy tại miền Ga-li-lê, Ngài thường về đây. Ngài đã từng tuyên bố: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 20). Nhưng tại Ca-phác-na-um này, Đức Giê-su được một ‘đại gia’ nào đó tặng cho Ngài một ngôi nhà để Ngài và các tông đồ có chỗ nghỉ ngơi, nên Mat-thêu gọi là ‘Thành của mình’ là vậy.
Như thế, lúc này Đức Giê-su đang giảng dạy tại nhà mình, người ta đến rất đông đến nỗi không có lối vào. Lúc bấy giờ, người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường, Mat-thêu chỉ viết đơn giản như thế; trong khi Mác-cô viết chi tiết hơn: “Hay tin Người ở nhà, dân chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng lời cho họ. Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống” (Mc 2, 1 – 4). Hành động này chứng tỏ một niềm tin mạnh mẽ nơi những người khiêng người bất toại và của cả anh bất toại. Nếu họ không tin Ngài có thể chữa lành và nếu họ không tin Đức Giêsu có lòng thương xót vô biên đối với người bệnh thì họ đã không làm như vậy. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt : “Này con, cứ yên tâm, tội con được tha rồi !” Một câu nói làm cho những người nghe, có cả các Kinh sư, đều ngạc nhiên vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội thôi. Đức Giê-su biết thâm tâm họ đang nghĩ gì nên Ngài lên tiếng, đặc biệt cho các Kinh sư nghe: “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy ? Trong hai điều : một là bảo : “Tội con được tha rồi”, hai là bảo : “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn ?”. Dĩ nhiên, câu nói tha tội là dễ rồi, vì có ai kiểm chứng được; còn nói: đứng dậy vác giường mà đi là câu khó, vì kiểm chứng được người đang đau yếu lại trở nên khỏe mạnh liền. Đức Giê-su nói cả 2 câu dễ và khó để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa chữa lành tâm hồn, và có quyền năng chữa lành thân xác.
𝟯. 𝗟𝗮̀𝗺
Người Do thái quan niệm bệnh tật, đau khổ là do tội mà ra, vì thế mà Đức Giê-su công bố với anh bất toại: “Này con, cứ yên tâm, tội con được tha rồi!” Đúng như thế, vì tội của Tổ Tông mà sự dữ, đau khổ, bệnh tật lan vào trần gian, con người hứng chịu. Đó là nguyên nhân xa; còn nguyên nhân gần, đó là do uống rượu, hút, chích, chơi bời… gây ra bao đau khổ, bệnh tật. Nhìn chung, mọi đau khổ là do tội mà ra. Vì loài người yếu đuối tội lỗi, nên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc. Ngài luôn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài bằng cả lòng tin để được chữa lành.
Ơn thánh của Chúa luôn đủ bảo trợ chúng ta, chỉ còn ở phần chúng ta có nổ lực phấn đấu hay không? Con người chúng ta đôi lúc gục ngã nhưng không tháo lui; đôi lúc nản lòng nhưng không thất vọng; đôi lúc chùn bước nhưng không ngừng tiến tới. Chúng con xin tín thác nơi Chúa!
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻:
𝙇𝙖̣𝙮 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙩𝙤𝙖̀𝙣 𝙣𝙖̆𝙣𝙜 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙝𝙪̛̃𝙪, 𝙨𝙖́𝙣𝙜 𝙩𝙧𝙪̛𝙖 𝙘𝙝𝙞𝙚̂̀𝙪, 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙣𝙖̀𝙞 𝙭𝙞𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙪𝙮 𝙡𝙞𝙣𝙝 𝙭𝙪𝙖 đ𝙪𝙤̂̉𝙞 𝙢𝙤̣𝙞 𝙗𝙤́𝙣𝙜 đ𝙚̂𝙢 𝙩𝙤̣̂𝙞 𝙡𝙤̂̃𝙞 𝙫𝙖̀ 𝙙𝙖̂̃𝙣 đ𝙪̛𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙩𝙤̛́𝙞 𝙖́𝙣𝙝 𝙨𝙖́𝙣𝙜 𝙩𝙝𝙖̣̂𝙩, 𝙡𝙖̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂. 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙝𝙤̛̣𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙫𝙤̛́𝙞 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 𝙩𝙝𝙪𝙤̛̉ 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗦𝗮́𝘂 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗜𝗜 𝗧𝗡 - 𝗡𝗮̆𝗺 𝗹𝗲̉
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝗦𝘁 𝟭𝟳, 𝟭, 𝟵-𝟭𝟬. 𝟭𝟱-𝟮𝟮; 𝗠𝘁 𝟴, 𝟭- 𝟰.
Thiên Chúa Toàn Năng, Toàn Trí vô song. Sự khôn ngoan của Ngài vượt bậc trên tất cả, như Ngài đã tuyên bố qua môi miệng Isaia : “Trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng Ta cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”. Con người có giới hạn, chỉ làm được những gì theo khả năng và hiểu biết của mình. Trái lại, Thiên Chúa làm nên tất cả, Ngài cho có mưa có nắng, ban cho vợ chồng cao niên được sinh con khống chế thiên nhiên biển cả, chữa lành bệnh tật mà con người phải bó tay. Trong bài đọc 1, Abraham (99 tuổi) và Xa-ra (90 tuổi) đã cao niên mà Thiên Chúa cho có mụn con là Isaac và lập giao ước với ông. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su dùng quyền năng chữa trị cho anh mắc bệnh phong được khỏi.
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Khi Đức Giê-su ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Bỗng có một người mắc bệnh phong tiến lại, bái lạy Người và nói : “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người giơ tay đụng vào anh và bảo : “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Lập tức, anh được sạch bệnh phong. Rồi Đức Giê-su bảo anh : “Coi chừng, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Sau khi chấm dứt một loạt các bài giảng trên núi (các chương 5,6,7), Đức Giê-su cùng các tông đồ và đoàn người lũ lượt xuống núi (bắt đầu chương . Đây là một hình ảnh đẹp, hết sức thành công vì những bài giảng nói về Nước Trời thật cụ thể, sinh động, kèm theo những phép lạ chữa lành, làm mọi người cảm kích hăng hái cùng Đức Giê-su xuống núi. Sứ vụ loan báo Tin Mừng phải được thực hiện dưới núi chứ không thể trên núi được. Ngài phải đi vào xã hội con người để cùng đồng hành, để cùng chia vui sẻ buồn với họ. Chúa Giêsu phải mang vào mình bao thao thức, bao trăn trở, bao niềm vui cũng như nỗi bất hạnh của con người để có thể cứu độ họ. Vì Chúa Giêsu cũng là một con người thật sự, nên không thể tách ra khỏi đời sống con người. Kitô hữu chúng ta cũng thế, có thể có một lúc nào đó ta mang tư tưởng bi quan yếm thế, muốn chạy trốn tất cả, muốn sống ở một nơi hoang đảo không một ai biết đến. Muốn một mình trên núi cao, trong rừng sâu vì ta đã quá chán ngán các trò lừa đảo, gian dối của con người.
Người đầu tiên đón Đức Giê-su từ trên núi xuống không phải là nhân viên cao cấp trong xã hội hay một tư tế được người ta trọng vọng, nhưng là một người mắc bệnh phong. Bệnh phong thời Đức Giê-su là một loại bệnh nan y không chữa trị được, ngày nay căn bệnh này đã được khống chế dễ dàng, người mang bệnh này vừa đau đớn thể lý vừa đau khổ tinh thần. Họ chỉ sống trong mồ mả hay cách ly ở khu riêng biệt xa dân cư. Khi ra đường phải lắc chuông hay la lớn tiếng để người ta biết mà tránh đi lối khác (Lv 13). Đó là nỗi nhục niềm đau của họ. Theo dõi người mắc phong đón Đức Giê-su từ núi xuống ta thấy gì? Anh vui mừng hớn hở, biết chắc chỉ có mình Người này mới có khả năng chữa lành mình bằng quyền năng. Trước nay, anh đã từng nguyện xin cùng Thiên Chúa chữa lành anh rất nhiều lần rồi. nhưng vẫn chưa được. Lần này, dường như anh cảm nghiệm rằng: Bấy lâu nay, mình chỉ mong Chúa làm theo ý muốn của mình. Sao mình không làm theo ý Chúa muốn? Vì thế, lần này gặp được Đức Giê-su anh sửa lại lời nguyện xin: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đây là một lời cầu đầy niềm tin vào Chúa. Nếu Chúa muốn con mang căn bệnh đó có ảnh hưởng gì ơn cứu độ đâu. Nhưng Chúa làm sao thấy vui khi con người đau khổ! Cho nên, anh đặt trọn lời cầu vào tình yêu Chúa, Chúa muốn sao con cũng đón nhận. Ngay lúc đó, Đức Giê-su giơ tay đụng vào anh và bảo : “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Đức Giê-su trả lời ngay câu đặt điều kiện của anh “Nếu Ngài muốn”, Ngài bảo “Tôi muốn, anh hãy được sạch”. Ở đây, ta thấy Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu cúi xuống con người và chạm đến, thịt đụng thịt mà không sợ vi phạm luật (Lv 14). Đáng lý Ngài chỉ dùng lời phán thôi cũng đủ chữa lành cho anh rồi, nhưng vì Ngài muốn chia sẻ nỗi đau của con người, Ngài dùng tay chạm đến anh.
𝟯. 𝗟𝗮̀𝗺
Với quyền năng Thiên Chúa, anh mắc phong được khỏi bệnh và được Ngài căn dặn: “Coi chừng, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Tại sao Đức Giê-su căn dặn anh đừng nói với ai mà hãy đi trình diện với tư tế? Trong khi biết bao người chứng kiến hôm ấy cũng sẽ có bấy nhiêu cái miệng loan truyền tin vui này. Đó là vì Đức Giê-su muốn người thụ ơn hãy thinh lặng, lắng động tâm hồn mà cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho mình. Trình diện với Tư tế, vì lúc bấy giờ chỉ có Tư tế mới có đủ tư cách tuyên bố ai khỏi bệnh phong trước cộng đoàn.
Phần chúng ta, nên ghi nhận hai điều này: thứ nhất, bắt chước lời cầu nguyện đầy niềm tin của anh mắc phong trong Tin Mừng. Đừng buộc Chúa phải làm theo ý mình, mà mình phải làm theo ý Chúa. Nghĩa là sau lời nguyện nên thêm câu này “Nếu Chúa muốn”. Đó là lời cầu khôn ngoan sẵn sàng theo ý Chúa chứ không theo ý mình; Thứ đến, Khi ta được thụ ơn Chúa, cần đi vào trong cõi thinh lặng để cảm nghiệm tình thương Chúa và âm thầm cảm tạ Chúa muôn đời.
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻
𝙇𝙖̣𝙮 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙭𝙞𝙣 𝙨𝙤𝙞 𝙩𝙧𝙞́ 𝙢𝙤̛̉ 𝙡𝙤̀𝙣𝙜 𝙘𝙝𝙤 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙖𝙢 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙪 𝙆𝙞𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝, 𝙣𝙝𝙪̛ 𝙫𝙖̣̂𝙮, 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙨𝙚̃ 𝙘𝙤́ 𝙩𝙝𝙚̂̉ 𝙡𝙖̀𝙢 𝙘𝙝𝙪̛́𝙣𝙜 𝙘𝙝𝙤 𝘾𝙤𝙣 𝙈𝙤̣̂𝙩 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙡𝙖̀ Đ𝙖̂́𝙣𝙜 đ𝙖̃ 𝙘𝙝𝙚̂́𝙩 𝙫𝙞̀ 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙝𝙤̛̣𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙫𝙤̛́𝙞 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 𝙩𝙝𝙪𝙤̛̉ 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗡𝗮̆𝗺 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗜𝗜 𝗧𝗡, 𝗻𝗮̆𝗺 𝗟𝗲̉
𝗟𝗲̂̃ 𝗦𝗶𝗻𝗵 𝗡𝗵𝗮̣̂𝘁 𝗧𝗵𝗮́𝗻𝗵 𝗚𝗶𝗼𝗮𝗻 𝗧𝗮̂̉𝘆 𝗚𝗶𝗮̉
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝗜𝘀 𝟰𝟵, 𝟭-𝟲, 𝗖𝘃 𝟭𝟯, 𝟮𝟮-𝟮𝟲; 𝗟𝗰 𝟭, 𝟱𝟳-𝟲𝟲. 𝟴𝟬.
Nhìn vào vũ trụ vạn vật ta thấy mọi sự được vận hành hòa điệu, ăn khớp nhau nhờ sự quan phòng khôn ngoan của Đấng sáng tạo nên nó. Ngay cả nơi con người, mọi bộ phận trong thân thể cũng hoạt động kỳ diệu mà chính Phao-lô hãnh diện chủ trương ‘thần học thân thể’ để triển khai giáo huấn của mình. Trong kế hoạch cứu độ cũng thế, để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người Thiên Chúa sắp đặt trước đó (có tổ phụ Abrahan, vua Đa-vít, tiên tri Isaia…), rồi đương thời có người dọn đường cho Đức Ki-tô đến là Gioan Tẩy Giả và sau này có các tông đồ và các thánh tử đạo loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô, tất cả được diễn ra từng bước. Hôm nay, chúng ta chiêm ngắm sứ vụ của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô phải đi trước Đấng Cứu Thế.
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. Nghe biết Chúa đã rộng lòng thương xót bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói : “Không được ! Phải đặt tên cháu là Gio-an.” Họ bảo bà : “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết : “Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây ?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Những gì sứ thần Gabriel báo cho ông Da-ca-ri-a (cha của Gioan Tẩy Giả) đều được thực hiện theo thời gian. Và nay, đến lúc mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai trong lúc tuổi già. Bà tin những gì sứ thần đã truyền cho chồng bà, và rất là vui mừng vì được Chúa cất đi nỗi nhục trước người đời (người Do thái quan niệm phụ nữ có chồng mà không con là nỗi nhục, vì không được phúc lành của Chúa). Hàng xóm và những người thân đến chúc mừng bà. Chắc chắn những người này luôn kính trọng bà, dù bà không có con đi nữa, vì Bà và Chồng là những người công chính trước mặt Chúa. Giờ đã sinh nở mẹ tròn con vuông họ nên họ tỏ lòng chung vui.
Theo tục lệ Do thái, các trẻ trai sau 8 ngày sinh phải thực hiện nghi thức cắt bì theo lệnh Chúa truyền (Gs 5,2). Đây là một dấu chỉ hữu hình của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Do thái mà mọi bé trai đều phải mang trên da thịt mình (Xh 4,26). Tuy nhiên, Ngôn sứ Giê-rê-mi-a lại cho thấy cắt bì trong tâm hồn mới là điều quan trọng (Gr 9,24; 4,4). Cũng như Gioan, Đức Giêsu cũng đã chịu nghi lễ cắt bì và đặt tên (Lc 2,21). Về sau, trong thời Giáo hội sơ khai: Theo đề nghị của thánh Phao-lô, các Ki-tô hữu gốc lương dân khỏi chịu đựng cái ách nặng nề của Luật Mô-sê (cắt bì) mà họ không chu toàn được (Gl 6, 12.15), Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết định như sau: Không buộc lương dân muốn gia nhập đạo phải chịu phép cắt bì của đạo Do thái trước khi được lãnh bí tích Rửa tội (Cv 15,5-6.10-11.28-29), mà chỉ đòi họ có một đức tin hành động nhờ đức ái trong Chúa Ki-tô là đủ (Gl 5,6).
Trở lại 8 ngày sau ngày sinh của Gioan, chúng ta thấy có những sự kiện đáng chú ý:
𝘢/ 𝘕𝘩𝘪𝘦̂̀𝘶 𝘴𝘶̛̣ 𝘭𝘢̣ 𝘭𝘶̀𝘯𝘨:
- Cha mẹ đã cao niên mà vẫn sinh được con. Theo tự nhiên, con người chỉ sinh nở trong độ tuổi nào đó thôi. Đằng này vợ chồng đã cao niên rồi, được Thiên Chúa can thiệp tất cả đều có thể. Chúng ta thấy trong Cựu Ước có nhiều cặp vợ chồng cao niên được như vậy: Abraham và Sa-ra sinh Isaac; cha mẹ củ anh hùng Sam-son; cha mẹ của tiên tri Samuel; hôm nay là Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét, cha mẹ của Gioan Tẩy Giả.
- Ông Da-ca-ri-a nói được sau khi đặt tên cho con là Gioan (theo sứ thần đã báo) làm cho mọi người ngỡ ngàng và ông Da-ca-ri-a liền chúc tụng Chúa.
𝘣/ 𝘚𝘶̛́ 𝘷𝘶̣ 𝘤𝘶̉𝘢 𝘎𝘪𝘰𝘢𝘯
Gioan được Thiên Chúa sai đến trước Đấng Cứu Thế, để chuẩn bị tâm hồn của mọi người đón ơn cứu độ. Chúng ta thấy Ông đã thể hiện qua 4 việc:
-Sẵn sàng hy sinh mọi thú vui thế gian để chu toàn sứ vụ của mình: ông sống trong sa mạc, mặc áo da thú, ăn chấu chấu và mật ong rừng.
- Chuẩn bị tâm hồn cho dân đón nhận Đấng Cứu Thế bằng cách rao giảng để dân ăn năn thống hối trước khi ông làm phép rửa cho họ.
- Sống rất thành thực và không vị nể bất cứ người nào: khi được hỏi ông có phải là Đấng Thiên Sai, ông trả lời ông chỉ là tiếng người hô trong sa mạc, và ông không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng Thiên Sai.
- Sẵn sàng đổ máu làm chứng cho sự thật. Ông bị vua Herode chém đầu vì ông dám ngăn cản cuộc hôn nhân bất hợp pháp của Nhà Vua.
𝟯. 𝗟𝗮̀𝗺
Những sự kiện xảy ra trong ngày sinh nhật của Gioan, nhất là 8 ngày sau trong nghi thức cắt bì và đặt tên, làm cho mọi người xóm giềng và thân thuộc ngỡ ngàng trước những dấu lạ lùng là mọi người không khỏi thắc mắc: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây ?” Thánh Luca trả lời ngay “Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh.” Chắn chắn những người xóm giềng hôm ấy sẽ hưởng ứng lời mời gọi của Gioan trong hoang địa sau này “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Lc 3, 4).
Con người không phải là một con số vô danh giữa đám đông loài người. Khi sinh ra, mỗi người đều được Chúa trao cho một sứ mạng, một ơn gọi, một ý nghĩa cho cuộc đời người đó sẽ sống. Ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa cuộc đời của Gioan là làm tiền hô cho Chúa Cứu thế. Còn ơn gọi, sứ mạng và ý nghĩa đời ta là gì?
Chúng ta sẽ sống thế nào với sứ mạng đó. Nên nhớ chúng ta không bao giờ hiện hữu trong cuộc đời này một cách ngẫu nhiên vô tình, mà đó chính là Kế hoạch của Thiên Chúa. Chúa dựng nên ta với một chủ đích rõ rệt, một sứ mạng cụ thể, đó là làm chứng cho Chúa giữa dòng đời này.
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻
𝙇𝙖̣𝙮 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝘾𝙝𝙪́𝙖 đ𝙖̃ 𝙨𝙖𝙞 𝙩𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙂𝙞𝙤-𝙖𝙣 𝙏𝙖̂̉𝙮 𝙂𝙞𝙖̉ đ𝙚̂́𝙣 𝙘𝙝𝙪𝙖̂̉𝙣 𝙗𝙞̣ 𝙘𝙝𝙤 𝙙𝙖̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙨𝙖̆̃𝙣 𝙨𝙖̀𝙣𝙜 đ𝙤́𝙣 Đ𝙪̛́𝙘 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂. 𝙓𝙞𝙣 𝙧𝙤̣̂𝙣𝙜 𝙗𝙖𝙣 𝙘𝙝𝙤 𝙘𝙖́𝙘 𝙩𝙞́𝙣 𝙝𝙪̛̃𝙪 đ𝙪̛𝙤̛̣𝙘 đ𝙖̂̀𝙮 𝙩𝙧𝙖̀𝙣 𝙣𝙞𝙚̂̀𝙢 𝙫𝙪𝙞 𝙘𝙪̉𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣, 𝙫𝙖̀ 𝙭𝙞𝙣 𝙝𝙪̛𝙤̛́𝙣𝙜 𝙙𝙖̂̃𝙣 𝙝𝙤̣ 𝙗𝙪̛𝙤̛́𝙘 𝙫𝙖̀𝙤 𝙘𝙤𝙣 đ𝙪̛𝙤̛̀𝙣𝙜 𝙘𝙪̛́𝙪 đ𝙤̣̂ 𝙫𝙖̀ 𝙗𝙞̀𝙣𝙝 𝙖𝙣. 𝘾𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙭𝙞𝙣 𝙣𝙝𝙤̛̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙂𝙞𝙚̂-𝙨𝙪 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝘾𝙤𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝙝𝙞𝙚̣̂𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙘𝙪̉𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
@ 𝗧𝗶𝗲̂̉𝘂 𝘀𝘂̛̉
𝘏𝘰̣̂𝘪 𝘛𝘩𝘢́𝘯𝘩 𝘩𝘢̂𝘯 𝘩𝘰𝘢𝘯 𝘮𝘶̛̀𝘯𝘨 𝘯𝘨𝘢̀𝘺 𝘵𝘩𝘢́𝘯𝘩 𝘎𝘪𝘰-𝘢𝘯 𝘛𝘢̂̉𝘺 𝘎𝘪𝘢̉ 𝘤𝘩𝘢̀𝘰 đ𝘰̛̀𝘪. 𝘚𝘶̛́ 𝘮𝘢̣𝘯𝘨 𝘤𝘶̉𝘢 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪 𝘭𝘢̀ “𝘭𝘢̀𝘮 𝘤𝘩𝘶̛́𝘯𝘨 𝘤𝘩𝘰 𝘢́𝘯𝘩 𝘴𝘢́𝘯𝘨” đ𝘢𝘯𝘨 đ𝘦̂́𝘯 𝘬𝘩𝘢𝘪 𝘮𝘢̣𝘤 𝘵𝘩𝘰̛̀𝘪 đ𝘢̣𝘪 𝘮𝘰̛́𝘪 : đ𝘰́ 𝘭𝘢̀ Đ𝘶̛́𝘤 𝘎𝘪𝘦̂-𝘴𝘶 𝘒𝘪-𝘵𝘰̂. 𝘒𝘩𝘪 đ𝘦̂̀ 𝘤𝘢̣̂𝘱 đ𝘦̂́𝘯 𝘷𝘢𝘪 𝘵𝘳𝘰̀ 𝘤𝘰́ 𝘮𝘰̣̂𝘵 𝘬𝘩𝘰̂𝘯𝘨 𝘩𝘢𝘪 𝘤𝘶̉𝘢 𝘷𝘪̣ 𝘵𝘪𝘦̂̀𝘯 𝘩𝘰̂, 𝘤𝘩𝘪́𝘯𝘩 Đ𝘶̛́𝘤 𝘎𝘪𝘦̂-𝘴𝘶 đ𝘢̃ 𝘯𝘰́𝘪 : “𝘛𝘳𝘰𝘯𝘨 𝘴𝘰̂́ 𝘱𝘩𝘢̀𝘮 𝘯𝘩𝘢̂𝘯 đ𝘢̃ 𝘭𝘰̣𝘵 𝘭𝘰̀𝘯𝘨 𝘮𝘦̣, 𝘤𝘩𝘶̛𝘢 𝘵𝘶̛̀𝘯𝘨 𝘤𝘰́ 𝘢𝘪 𝘤𝘢𝘰 𝘵𝘳𝘰̣𝘯𝘨 𝘩𝘰̛𝘯 𝘰̂𝘯𝘨 𝘎𝘪𝘰-𝘢𝘯 𝘛𝘢̂̉𝘺 𝘎𝘪𝘢̉.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗧𝘂̛ 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗜𝗜 𝗧𝗡 - 𝗡𝗮̆𝗺 𝗟𝗲̉
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝗦𝘁 𝟭𝟱, 𝟭-𝟭𝟮. 𝟭𝟳-𝟭𝟴; 𝗠𝘁 𝟳, 𝟭𝟱-𝟮𝟬.
Có những ngưởi có đạo sống đạo thật tốt, nêu gương tốt lành cho những người khác, họ là những Ki-tô hữu hữu danh hữu thực; trái lại, có những người có đạo thật đó nhưng chẳng bao giờ đến nhà thờ, chẳng bao giờ sống đạo, họ là những Ki-tô hựu hữu danh vô thực. Theo thuyết Chính Danh của Khổng Tử, làm vua cho ra làm vua, phải tận tụy lo cho dân; làm dân phải tùng phục mệnh lệnh của vua. Mỗi người phải sống đúng vai trò của mình. Trong bài đọc 1, ông Abram (sau này được đổi tên thành Abraham) tin tuyệt đối vào 2 lời Chúa hứa: nếu ông chấp nhận rời quê hương xứ sở Urs thì ông sẽ đươc dòng dõi đông đúc và được miền đất Canaan trù phú, mặc dù ông không thấy dấu hiệu nào rõ ràng. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su cảnh báo các môn đệ hãy coi chừng những ngôn sứ giả, họ sống sai với vai trò ngôn sứ của mình.
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em ; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Có người nào lại hái nho ở bụi gai hay là hái vả trên cây găng ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây sâu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây sâu không thể sinh quả tốt. Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.”
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Thời nào cũng có thật – giả. Văn minh tiến bộ lại càng giả tinh vi hơn. Hàng giả bên ngoài như thật, không phân biệt được, nhưng khi sử dụng mới biết chất lượng kém, gây độc hại. Hôm nay Đức Giê-su cảnh báo các môn đệ: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em”. Ngài không nói đến đồ vật giả, hàng giả mà là con người giả. Và người giả ở đây lại mang phong cách của một vị tiên tri: tiên tri giả. Tức những người ngoài miệng nói lời Thiên Chúa nhưng tâm địa lại rất hung ác, nham hiểm. Điều này chúng ta thấy ngày nay có những người giả linh mục và giả soeur (linh mục giả, sơ giả) để lợi dụng kiếm tiền, trục lợi cho bản thân. Thật là kinh khủng! Đức Giê-su dùng hình ảnh thật sâu sắc để áp dụng cho các ngôn sứ giả: “Họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi”. Vì họ đội lốt chiên hiền lành dễ thương nên rất dễ tiếp cận ‘con mồi’ là chiên thật. Họ tấn công bằng những chiêu trò nhẹ nhàng, hấp dẫn, rồi dẫn chiên đi mà giết. Nếu để nguyên hình con sói, chắc chắn ai cũng phải xa chạy.
“Hãy coi chừng các tiên tri giả!” Lời cảnh báo của Đức Giê-su cho chúng ta hiểu rằng: mọi Ki-tô hữu phải biết nhận xét và đáng giá rõ ràng, nghĩa là phải biết phân định, đúng thực trạng, đừng vì lối sống của các tiên tri giả đó mà mình ngã lòng. Niềm tin của mình là của mình, đừng vì họ mà cha đảo niềm tin, đâm ra nản chí và bỏ cuộc. Sau khi cảnh báo các môn đệ, Đức Giê-su liền chỉ cho các môn đệ, cũng là cho chúng ta, biết cách phân biệt đâu là tiên tri thật, đâu là tiên tri giả. Đó là hãy nhìn cách sống của các tiên tri đó, chứ đừng dựa vào lời nói của họ, vì họ nói không bao giờ sai bài bản. Đức Giê-su còn minh họa bằng hình ảnh cụ thể: “Có người nào lại hái nho ở bụi gai hay là hái vả trên cây găng? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây sâu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây sâu không thể sinh quả tốt.” Cây tốt sinh trái tốt, Đức Giê-su áp dụng quy tắc vàng này để phân định hành vi tốt xấu của con người. Và hậu quả cây tốt không sinh trái tốt, Đức Giê-su cũng cho biết: “Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa.” Cây không sinh trái tốt sẽ chẳng còn có ích cho ai nữa, để nó lại chỉ thêm tốn đất và hút hết nhựa sống của các cây khác, chỉ còn cách chặt đi và ném vào lửa.
𝟯. 𝗟𝗮̀𝗺
Khi nhận bí tích Rửa tội, chúng ta lãnh nhận 3 sứ vụ của Chúa Ki-tô: Tư tế, tiên tri và vương đế. Nghĩa là người Ki-tô hữu phải thờ phương Chúa, loan báo Tin Mừng và phục vụ. Việc loan báo Tin Mừng phải đi đôi với sống Tin Mừng để lời loan báo đi vào lòng người nghe. Và điều đó chứng minh cách hùng hồn rằng: Là Ki-tô hữu phải là ‘hữu danh hữu thực’. Xứng đáng là môn đệ Đức Ki-tô.
Thời đại văn minh, khoa học tiến triển hôm nay, nhiều cạm bẫy giăng ra, làm chúng ta uể oải trong việc loan báo và sống Tin Mừng. Hơn bao giờ hết, ngay lúc này người Ki-tô hữu phải thức tĩnh, phân định rõ đâu là lợi ích cho phần rỗi linh hồn, đâu là mối nguy cho đời sống tâm linh? Chúng ta nên nhớ: con người là một tổng thể duy nhất gồm có xác và hồn. Trong đó linh hồn là bất tử, quý nhất, cần ưu tiên hơn; tuy nhiên, thân xác cũng không kém quý giá, vì chính nó sẽ được phục sinh sau này như Chúa đã hứa cho những ai trung thành với Ngài. Vì thế hãy sống tốt vai trò làm con Chúa, sống đúng là một Ki-tô hữu ‘hữu danh hữu thực’.
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻
𝙇𝙖̣𝙮 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙭𝙪̛𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 đ𝙖̃ 𝙩𝙝𝙞𝙚̂́𝙩 𝙡𝙖̣̂𝙥 𝙜𝙞𝙖𝙤 𝙪̛𝙤̛́𝙘 𝙢𝙤̛́𝙞 𝙫𝙤̛́𝙞 𝙡𝙤𝙖̀𝙞 𝙣𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞, 𝙜𝙞𝙖𝙤 𝙪̛𝙤̛́𝙘 đ𝙪̛𝙤̛̣𝙘 𝙠𝙮́ 𝙠𝙚̂́𝙩 𝙗𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙢𝙖́𝙪 𝙩𝙝𝙖́𝙣𝙝 Đ𝙪̛́𝙘 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝙭𝙞𝙣 𝙘𝙝𝙤 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 đ𝙪̛̀𝙣𝙜 𝙦𝙪𝙚̂𝙣 𝙡𝙖̃𝙣𝙜 𝙤̛𝙣 𝙩𝙝𝙖 𝙩𝙝𝙪̛́ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 đ𝙖̃ 𝙧𝙤̣̂𝙣𝙜 𝙗𝙖𝙣, 𝙫𝙖̀ 𝙭𝙞𝙣 𝙘𝙝𝙤 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 đ𝙪̛𝙤̛̣𝙘 𝙫𝙪𝙞 𝙢𝙪̛̀𝙣𝙜 𝙫𝙞̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙩𝙝𝙪̛𝙤̛𝙣𝙜 𝙘𝙪̛́𝙪 đ𝙤̣̂. 𝘾𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙭𝙞𝙣 𝙣𝙝𝙤̛̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙂𝙞𝙚̂-𝙨𝙪 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝘾𝙤𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝙝𝙞𝙚̣̂𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙘𝙪̉𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
Ngày xưa, có một vị đại sư muốn chọn một đệ tử làm người nối dõi. Một hôm, ông bảo hai đệ tử rằng: “Các con hãy ra ngoài và chọn về đây cho ta một chiếc lá đẹp nhất, hoàn mỹ nhất.”
Hai đệ tử vâng lời thầy đi tìm lá. Thoáng chốc, người anh quay về và trình cho đại sư một chiếc lá không được đẹp lắm: “Thưa thầy, tuy chiếc lá này không phải là hoàn mỹ nhất nhưng nó là chiếc lá hoàn mỹ nhất mà con thấy”.
Người em đi cả ngày trời và quay về với 2 bàn tay trắng, người em nói với vị đại sư: “Thưa thầy, con đã tìm và thấy rất nhiều lá đẹp, nhưng con không thể nào chọn được chiếc lá hoàn mỹ nhất.” Cuối cùng, vị đại sư đã chọn người anh.
“Tìm một chiếc lá hoàn mỹ nhất”, chúng ta vẫn cứ luôn nghĩ đến việc “hoàn mỹ nhất” nhưng nếu bạn cứ một mực đi tìm mà không nhìn vào thực tế, không so sánh với thực tế thì bạn cứ phải vất vả để rồi… trắng tay. Cho đến một ngày nào đó, bạn mới phát hiện rằng: Chỉ vì mãi đi tìm một chiếc lá hoàn mỹ nhất mà bạn đã bỏ qua biết bao cơ hội lớn một cách đáng tiếc!
Hơn nữa, thứ hoàn mỹ nhất của con người cuối cùng có được bao nhiêu? Trên đời này đã xảy ra không ít chuyện đáng tiếc, đó cũng do một số người xa rời thực tế đi tìm “chiếc lá hoàn mỹ nhất”, coi thường cuộc sống đạm bạc. Nhưng chính trong cuộc sống đạm bạc, vô vị đó mới chất chứa những điều kỳ diệu và to lớn. Điều quan trọng là thái độ của bạn như thế nào khi đối diện với nó.
@ 𝗦𝘂𝘆 𝗻𝗴𝗮̂̃𝗺
+ Trong cuộc sống chúng ta, không nhất thiết cứ phải theo đuổi những thứ hoàn mỹ mà chỉ cần bình tâm lại, từng bước từng bước tìm chiếc lá mà bạn cho rằng là hoàn mỹ nhất.
+ Con người thật đáng sợ
Họ luôn đòi hỏi người khác phải hoàn hảo đúng ý họ
Trong khi họ chưa một lần nhìn lại chính mình.
@ 𝗖𝗮̂̀𝘂 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻
𝘓𝘢̣𝘺 𝘔𝘦̣ 𝘔𝘢𝘳𝘪𝘢!
𝘒𝘩𝘰̂𝘯𝘨 𝘢𝘪 𝘮𝘶̛𝘰̛̀𝘪 𝘱𝘩𝘢̂𝘯 𝘷𝘦̣𝘯 𝘮𝘶̛𝘰̛̀𝘪
𝘠́ 𝘊𝘩𝘶́𝘢 𝘮𝘶𝘰̂́𝘯 𝘵𝘩𝘦̂́ đ𝘦̂̉ 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪 𝘵𝘩𝘶̛𝘰̛𝘯𝘨 𝘯𝘩𝘢𝘶
𝘊𝘢̉𝘮 𝘵𝘩𝘰̂𝘯𝘨 𝘱𝘩𝘢̣̂𝘯 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪 𝘺𝘦̂́𝘶 𝘩𝘦̀𝘯
𝘛𝘪̀𝘮 𝘤𝘢́𝘤𝘩 𝘯𝘢̂𝘯𝘨 đ𝘰̛̃ 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪 𝘨𝘪𝘶́𝘱 𝘯𝘩𝘢𝘶.
𝘕𝘨𝘶𝘺𝘦̣̂𝘯 𝘹𝘪𝘯 𝘔𝘦̣ 𝘴𝘢́𝘯𝘨 𝘴𝘰𝘪 𝘤𝘰𝘯
Đ𝘶̛̀𝘯𝘨 đ𝘰̀𝘪 𝘩𝘰𝘢̀𝘯 𝘩𝘢̉𝘰 𝘴𝘢̆́𝘤 𝘴𝘰𝘯 𝘰̛̉ 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪
𝘊𝘩𝘢𝘯 𝘩𝘰̀𝘢 𝘴𝘰̂́𝘯𝘨 𝘷𝘶𝘪 𝘰̛̉ đ𝘰̛̀𝘪
𝘏𝘪𝘦̣̂𝘱 𝘵𝘩𝘰̂𝘯𝘨 𝘤𝘢̂̀𝘶 𝘯𝘨𝘶𝘺𝘦̣̂𝘯 𝘤𝘩𝘰 đ𝘰̛̀𝘪 𝘵𝘩𝘢̆́𝘮 𝘵𝘶̛𝘰̛𝘪. 𝘈𝘮𝘦𝘯.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Nguyễn đình Diễn
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗛𝗮𝗶 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗜𝗜 𝗧𝗡 - 𝗡𝗮̆𝗺 𝗹𝗲̉
𝗧𝗵𝗮́𝗻𝗵 𝗟𝗼𝘂𝗶𝘀 𝗚𝗼𝗻𝘇𝗮𝗴𝗮
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝗦𝘁 𝟭𝟮, 𝟭-𝟵; 𝗠𝘁 𝟳, 𝟭-𝟱.
Theo tâm lý học, khi xét đoán ai là mình tự đề cao mình. Chê bai ai đó, là muốn nói với mọi người tôi không như vậy đâu, tôi tốt hơn nhiều. Người ta hay hành xử nhau như vậy, muốn dìm người kia xuống; trong khi ai cũng muốn người khác thông cảm cho mình, tha thứ cho mình, mình lại ứng xử tệ với mọi người. Bởi thế, tin tuyệt đối vào Chúa phải thực thi lời Chúa dạy, như Abraham thực hiện Lời Chúa, rời bỏ quê hương xứ sở Urs để đến nơi Chúa chỉ định, một vùng đất đầy sửa và mật (bài đọc 1). Trong Tin Mừng, Đức Giê-su giảng những lời khôn ngoan “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”.
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy ; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới ? Sao anh lại nói với người anh em : ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh ? Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Hôm nay chúng ta bước vào chương 7 của Tin Mừng Mat-thêu, tiếp tục những bài giảng của Đức Giê-su (các bài giảng được Mat-thêu ghi lại trong 3 chương: 4,6,7). Khởi đầu bài giảng trong chương 7 là “Đừng xét đoán người khác”.
Xét đoán là hành vi đánh giá về người hay sự việc nào đó. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giê-su muốn nói xét đoán về người. Khi nhìn về một người, ta có 3 cái nhìn:
+ Cái nhìn khách quan về ta.
+ Cái nhìn chủ quan về ta.
+ Cái nhìn của Thiên Chúa về ta.
Cái nhìn khách quan là cái nhìn của người khác về ta, họ nhìn từ bên ngoài vào ta. Nhưng cái nhìn này cũng thường sai lầm, vì người khác không thể nhìn vào bên trong con người của ta mà chỉ dựa vào những gì hời hợt bên ngoài, nó cũng bị chi phối bởi những tình cảm yêu thương giận ghét chứ khó mà trung thực.
Cái nhìn chủ quan là cái nhìn của ta về ta. Cái nhìn này lại dễ không chính xác, vì ai cũng thương tội nghiệp mình hết. Cái nhìn này rất phiếm diện, vì nó thường bị bị chi phối bởi những cảm tính nhất thời, và bởi những tình cảm yêu thương giận ghét.
Đó là những lý do mà Chúa dạy: “Các con đừng đoán xét” Lời Chúa dạy rất xác đáng vì cho dù chủ quan hay khách quan ta đều dễ mắc vào sai lầm. Người khác nhìn ta từ bên ngoài, nên không thấy rõ mọi ngóc ngách trong tâm hồn ta. Cái nhìn chủ quan của ta về mình cũng có thể sai lạc vì ta thường nghĩ tốt về mình. Chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán. Vì Chúa nhìn ta không những từ bên ngoài mà Ngài còn nhìn thấu suốt bên trong con người. Chúa biết ta còn hơn ta biết ta. Vì vậy chỉ mình Chúa mới có đủ khả năng và thẩm quyền xét đoán. Khi chúng ta xét đoán anh em là chúng ta chiếm quyền của Thiên Chúa. Trước lời dạy của Chúa Giêsu, Thái độ cần có khi đứng trước sai sót của tha nhân là thông cảm và nâng đỡ để người anh em chúng ta biết đứng lên và tiến bước.Và thái độ khôn ngoan là hãy luôn nhìn lại mình để nhận ra những khuyết điểm mà sửa chữa để mỗi ngày nên hoàn thiện hơn.
Có những trường hợp con người buộc phải xét xử như: bề trên, quan tòa, cha mẹ … Trong những trường hợp buộc phải xét xử, hãy xét xử cách rộng lượng, phải có đầy đủ các dữ kiện, và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, vì theo Lời Chúa cảnh cáo: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.”
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Đức Giê-su lại còn bảo: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới ?” Cái lỗi nhỏ của người anh em (cái rác) chúng ta thấy rất rõ còn cái lỗi lớn của mình (cái xà-cái đà nhà) mình lại không thấy. Đức Giê-su muốn mỗi người hãy thấy lỗi của mình và tự sửa cái đã, rồi mới sửa lỗi anh em trong tình bác ái.
Lời Chúa hôm nay rất thực tế và thâm thúy trong đời sống. Chúng ta cần áp dụng trong đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn, để tạo bầu khí hòa nhã yêu thương, cùng xây dựng tình huynh đệ đầm thắm hòng Tin Mừng Chúa được loan truyền qua bác ái yêu thương của chúng ta.
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻
𝙇𝙖̣𝙮 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙡𝙖̀ Đ𝙖̂́𝙣𝙜 𝙗𝙖𝙣 𝙥𝙝𝙖́𝙩 𝙢𝙤̣𝙞 𝙤̛𝙣 𝙩𝙝𝙞𝙚̂𝙣𝙜, 𝘾𝙝𝙪́𝙖 đ𝙖̃ 𝙘𝙝𝙤 𝙩𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙇𝙪-𝙮 𝙂𝙤𝙣-𝙙𝙖-𝙜𝙖 𝙫𝙪̛̀𝙖 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙢𝙤̣̂𝙩 𝙘𝙪𝙤̣̂𝙘 đ𝙤̛̀𝙞 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙩𝙧𝙖̆́𝙣𝙜, 𝙡𝙖̣𝙞 𝙫𝙪̛̀𝙖 𝙗𝙞𝙚̂́𝙩 𝙝𝙮 𝙨𝙞𝙣𝙝 𝙝𝙖̃𝙢 𝙢𝙞̀𝙣𝙝. 𝙑𝙞̀ 𝙘𝙤̂𝙣𝙜 đ𝙪̛́𝙘 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙤̛̀𝙞 𝙘𝙝𝙪𝙮𝙚̂̉𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙘𝙪̉𝙖 𝙩𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙣𝙝𝙖̂𝙣, 𝙭𝙞𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙧𝙪̉ 𝙡𝙤̀𝙣𝙜 𝙩𝙝𝙪̛𝙤̛𝙣𝙜 𝙣𝙖̂𝙣𝙜 đ𝙤̛̃, đ𝙚̂̉ 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙙𝙖̂̀𝙪 𝙠𝙝𝙤̂𝙣𝙜 đ𝙪̛𝙤̛̣𝙘 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙩𝙧𝙖̆́𝙣𝙜 𝙣𝙝𝙪̛ 𝙣𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞, 𝙩𝙝𝙞̀ 𝙘𝙪̃𝙣𝙜 𝙗𝙞𝙚̂́𝙩 𝙣𝙤𝙞 𝙜𝙪̛𝙤̛𝙣𝙜 𝙣𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙢𝙖̀ 𝙝𝙖̃𝙢 𝙢𝙞̀𝙣𝙝 đ𝙚̂̀𝙣 𝙩𝙤̣̂𝙞. 𝘾𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙭𝙞𝙣 𝙣𝙝𝙤̛̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙂𝙞𝙚̂-𝙨𝙪 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝘾𝙤𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝙝𝙞𝙚̣̂𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙘𝙪̉𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
@ 𝗧𝗶𝗲̂̉𝘂 𝘀𝘂̛̉
𝘚𝘪𝘯𝘩 𝘯𝘢̆𝘮 1568, 𝘨𝘢̂̀𝘯 𝘔𝘢𝘯-𝘵𝘶-𝘢 𝘮𝘪𝘦̂̀𝘯 𝘓𝘰𝘮-𝘣𝘢́𝘤-đ𝘪-𝘢, 𝘵𝘳𝘰𝘯𝘨 𝘮𝘰̣̂𝘵 𝘨𝘪𝘢 đ𝘪̀𝘯𝘩 𝘊𝘢́𝘵-𝘵𝘪-𝘥𝘪-𝘰̂-𝘯𝘦̂ 𝘲𝘶𝘺𝘦̂̀𝘯 𝘲𝘶𝘺́, 𝘩𝘢̂́𝘱 𝘵𝘩𝘶̣ 𝘭𝘰̀𝘯𝘨 đ𝘢̣𝘰 đ𝘶̛́𝘤 𝘤𝘶̉𝘢 𝘵𝘩𝘢̂𝘯 𝘮𝘢̂̃𝘶, 𝘓𝘶-𝘺 𝘴𝘰̛́𝘮 𝘤𝘰́ 𝘬𝘩𝘶𝘺𝘯𝘩 𝘩𝘶̛𝘰̛́𝘯𝘨 𝘴𝘰̂́𝘯𝘨 đ𝘰̛̀𝘪 𝘵𝘶. 𝘚𝘢𝘶 𝘬𝘩𝘪 𝘵𝘳𝘢𝘰 𝘭𝘢̣𝘪 𝘤𝘩𝘰 𝘢𝘯𝘩 (𝘦𝘮) 𝘱𝘩𝘢̂̀𝘯 đ𝘢̂́𝘵 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪 đ𝘶̛𝘰̛̣𝘤 𝘵𝘰̂̉ 𝘵𝘪𝘦̂𝘯 𝘨𝘪𝘢𝘰 𝘤𝘩𝘰 đ𝘦̂̉ 𝘤𝘢𝘪 𝘲𝘶𝘢̉𝘯, 𝘯𝘨𝘶̛𝘰̛̀𝘪 𝘨𝘪𝘢 𝘯𝘩𝘢̣̂𝘱 𝘥𝘰̀𝘯𝘨 𝘊𝘩𝘶́𝘢 𝘎𝘪𝘦̂-𝘴𝘶. 𝘛𝘳𝘰𝘯𝘨 𝘬𝘩𝘪 𝘱𝘩𝘶̣𝘤 𝘷𝘶̣ 𝘣𝘦̣̂𝘯𝘩 𝘯𝘩𝘢̂𝘯 đ𝘢𝘯𝘨 𝘬𝘺̀ 𝘥𝘪̣𝘤𝘩, 𝘵𝘩𝘢́𝘯𝘩 𝘯𝘩𝘢̂𝘯 𝘣𝘪̣ 𝘭𝘢̂𝘺 𝘷𝘢̀ 𝘲𝘶𝘢 đ𝘰̛̀𝘪 𝘭𝘶́𝘤 𝘮𝘰̛́𝘪 𝘩𝘢𝘪 𝘮𝘶̛𝘰̛𝘪 𝘣𝘢 𝘵𝘶𝘰̂̉𝘪 (𝘯𝘢̆𝘮 1591).
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝗧𝗵𝘂̛́ 𝗕𝗮̉𝘆 𝘁𝘂𝗮̂̀𝗻 𝗫𝗜 𝗧𝗡 – 𝗻𝗮̆𝗺 𝗹𝗲̉
𝗕𝗮̀𝗶 đ𝗼̣𝗰: 𝟮 𝗖𝗿 𝟭𝟮, 𝟭-𝟭𝟬; 𝗠𝘁 𝟲, 𝟮𝟰-𝟯𝟰.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, vạn vật và con người đều tốt đẹp. Ngài không bỏ mặc tự chúng vận hành ra sao thì ra, mà Ngài luôn gìn giữ và điều khiển chúng đi trong kế hoạch của Ngài. Điều đó được gọi là Chúa Quan Phòng trong chương trình khôn ngoan của Ngài. Như thánh Phao-lô hôm nay, trong bài đọc 1, ông đã bày tỏ cho dân Cô-rin-tô biết kế hoạch quan phòng của Chúa cho ông gặp nhiều đau khổ là để ông đừng tư kiêu; đồng thời, ông có sức mạnh chịu đựng được là nhờ ơn từ Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su cho các môn đệ biết, họ phải lực chọn hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền Của, chứ không thể bắt cá hai tay được,
𝟭. 𝗫𝗲𝗺
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết : đừng lo lắng cho mạng sống : lấy gì mà ăn ; cũng đừng lo lắng cho thân thể : lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao ? Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào : chúng không làm lụng, không kéo sợi ; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết : ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém lòng tin ! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi : ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây ? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai : ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
𝟮. 𝗫𝗲́𝘁
Con người hay so sánh giữa người này với người kia rồi vội vàng đưa ra kết luận mất công bằng. Biết thế, Đức Giê-su cảnh báo các môn đệ đừng như vậy, đừng làm tôi hai chủ, “đừng vừa là tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” Ở đây, Tiền Của được viết hoa, ngụ ý đó là một thứ ‘tà thần’. Thật vậy, tiền của có sức “ám” người ta rất mạnh và có sức phá hoại mọi giá trị đạo đức. Đừng bao giờ coi thường sự nguy hiểm của nó. Trong Cựu Ước (Sách Đệ Nhị Luật), Thiên Chúa dạy cho dân Ít-ra-en: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta”.(Đnl 5,7).; Trong Tân Ước, Đức Giêsu đã chọn lựa dứt khoát, khi Ngài bị ma quỷ cám dỗ: “Quỷ đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi’ Đức Giêsu liền nói: ‘Xa-tan kia xéo đi! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,8-10). Hôm nay Chúa Giêsu dạy ta phải biết chọn lựa dứt khoát giữa Thiên Chúa và Tiền Của, để được sống hay phải chết.
Trong thực tế, nhiều người mang danh là Ki-tô hữu mà trong nhà vẫn để thần tài, hay có dịp đi chùa bái lạy, để nếu như Chúa không ban cho thì những thần ấy ban cho. Theo đạo kiểu đó là vụ lợi, chối bỏ niềm tin mình. Thật là xáu hổ! Phải chăng đó là sự yếu đuối của con người? Cần phải nhìn lại thái độ niềm tin của mình, vì Chúa không bao giờ quên lãng con người “Thầy bảo cho anh em biết : đừng lo lắng cho mạng sống : lấy gì mà ăn ; cũng đừng lo lắng cho thân thể : lấy gì mà mặc. Sau đó Đức Giê-su lấy hình ảnh chim trời và bông huệ ngoài đồng, chúng có công trồng, gieo, gặt lao gì đâu; thế mà Thiên Chúa vẫn lo cho chúng tất cả, huống chi là con người mang hình ảnh Thiên Chúa. Điều quan trọng là ‘lo tìm kiếm Nước Trời’, tìm kiếm những chân giá trị cao đẹp vượt trội vật chất nhu cầu của cuộc sống mà gắn bó với Thiên Chúa, nguồn cội hồng phúc, đạt lấy ơn cứu độ. Khi chọn lựa làm như thế, đương nhiên những thứ kia, cơm áo gạo tiền, Chúa sẽ ban theo sau. Đó là chân lý mà mỗi Ki-tô hữu phải biết và sống. Đừng dại khờ từ chối Chúa mà theo các tà thần khác.
𝟯. 𝗟𝗮̀𝗺
Đời người Ki-tô hữu gắn liền với cuộc sống trần thế. Cho nên nỗi lo lắng tìm miếng cơm manh áo cho bản thân và gia đình là việc đương nhiên, nhưng lo lắng điều đó quá sức đến nỗi quên Chúa là điều không nên. Vì thế, Chúa Giê-su chỉ bảo: “Tiên vàn, hãy lo tìm kiếm Nước Trời! Còn những thứ kia (cơm, áo. gạo, tiền) Chúa sẽ thêm cho sau”. Hãy tin tưởng và phó thác vào Chúa! Người sẽ nâng đỡ và ban phát mọi ơn lành.
Mong rằng, từ nay đời sống đức tin của mỗi chúng ta mạnh mẽ, biết loại trừ đi những hành vi không phù hợp với người môn đệ Chúa. Dù Chúa có muốn chúng ta như thế nào, chúng ta đón nhận điều đó như hồng ân Chúa ban, để một khi chấp nhận lòng trí chúng ta thanh thản và bình an trong tâm hồn. Đời Ki-tô hữu hạnh phúc là khi thuộc trọn vẹn về Chúa, chấp nhận và làm theo ý Chúa.
@ 𝗟𝗼̛̀𝗶 𝗻𝗴𝘂𝘆𝗲̣̂𝗻
𝙇𝙖̣𝙮 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙡𝙖̀ 𝙣𝙜𝙪𝙤̂̀𝙣 𝙤̛𝙣 𝙘𝙪̛́𝙪 đ𝙤̣̂, 𝙭𝙞𝙣 𝙙𝙖̣𝙮 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙠𝙝𝙞 𝙘𝙤̀𝙣 𝙤̛̉ 𝙙𝙪̛𝙤̛́𝙞 𝙩𝙝𝙚̂́, 𝙗𝙞𝙚̂́𝙩 𝙙𝙪̀𝙣𝙜 𝙘𝙖̉ 𝙘𝙪𝙤̣̂𝙘 đ𝙤̛̀𝙞 𝙢𝙖̀ 𝙘𝙖 𝙩𝙪̣𝙣𝙜 𝙫𝙞𝙣𝙝 𝙦𝙪𝙖𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, đ𝙚̂̉ 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙪̃𝙣𝙜 đ𝙪̛𝙤̛̣𝙘 𝙣𝙜𝙤̛̣𝙞 𝙠𝙝𝙚𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙩𝙧𝙚̂𝙣 𝙩𝙧𝙤̛̀𝙞. 𝘾𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙭𝙞𝙣 𝙣𝙝𝙤̛̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙂𝙞𝙚̂-𝙨𝙪 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝘾𝙤𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝙝𝙞𝙚̣̂𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙘𝙪̉𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
Lm. Nhan Quang