Suy Niệm Thánh lễ Tất Niên
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tâm Tình Tạ Ơn và Phó Thác
Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ( Tv 135)
Chúng ta đang cùng nhau sống những giờ phút cuối cùng của năm cũ, và chuẩn bị chia tay năm 2014, năm Giáp Ngọ, bước vào năm 2015, năm Ất Mùi với thời khắc thật linh thiêng. Vào dịp tạ ơn cuối năm, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với chúng ta rằng : "Người tín hữu Kitô hữu dựa trên Thánh Kinh thấy thời gian không mang tính tuần hoàn mà là một đường thẳng: thời gian là con đường dẫn đến chung cuộc". Đúng thế, nêu chúng ta nhìn lại một năm vừa trôi qua chính là một bước đi hướng đến sự hoàn tất của lịch sử, đến cứu cánh của nhân loại là hy vọng và vui mừng được gặp Chúa, thị việc tạ ơn này thật là ý nghĩa.
Chắc chắn mỗi người mang một tâm tình, vui, buồn, sướng, khổ, thành công hay thất bại. Nhưng giờ phút này đây, tất cả đều có chung một ý tưởng là tạ ơn và phó thác. Tạ ơn, vì Chúa đã cho chúng ta sống đến giờ phút này, còn gì thích hợp và ý nghĩa hơn khi chúng ta mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để hát vang lên tới Chúa : "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả" (Lc 1, 29-55). Lời của thánh Phaolô nhắn nhủ với tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca xưa kia, nay ngài muốn nói với mỗi người chúng ta rằng: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu." (1 Tx 5, 16-18). Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, về ân huệ Người đã thương ban (1Cr 1, 3-9).
Nhìn lại trong năm qua, chúng ta thấy các biến cố lần lượt diễn ra : các thảm kịch và hy vọng, niềm vui và đau khổ, chiến thắng và thất bại; kinh tế thế giới tiếp tục lún sâu, thiên tai ngày càng khủng khiếp xuất hiện siêu bão, tai nạn dữ hơn, thời tiết khắc nghiệt hơn, hành vi người với người đối xử với nhau giã man hơn v.v...
Việt Nam chúng ta đang lún sâu vào cuộc khủng hoảng về nhiều phương diện từ đạo đức đến nhân văn, từ mô hình phát triển xã hội đến từng bước phát triển, từ lãnh đạo đến đường lối, từ kinh tế đến chính trị, từ ổn định xã hội đến an ninh quốc phòng, đạo đức con người như đang bị suy giảm tới mức báo động trong các ngành nghề như y học và giáo dục, nạn tham nhũng trở nên hệ thống hơn từ trên xuống dưới... chúng ta đang phải đối mặt với thực tại.
Nhìn qua mọi sự, đến giờ phút này đay, chúng ta phải khẳng định rằng Thiên Chúa là chủ lịch sử, Ngài hướng dẫn các biến cố nhân loại. Ngài đồng hành với con người và không ngừng thực hiện những điều vĩ đại. Làm sao chúng ta có thể không cám ơn Người vào đêm nay? Và nhất là trong năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo xứ này, làm sao chúng ta có thể không dâng lên Người lời tuyên xưng: "Lạy Chúa, chúng con đặt niềm tin tưởng nơi Chúa"!
Giờ đây chúng ta mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria hướng về trời cao và cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa và phó thác nơi Ngài. Bởi lẽ, tạ ơn là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Thiên Chúa.
"Linh hồn tôi ngợi khen...
Thần trí tôi hớn hở vui mừng...
Ngài đã làm cho tôi những điều kỳ diệu..."
Chúng ta đồng thanh hiệp ý với Mẹ ca tụng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa đã và còn đang làm trong lịch sử : Người đã và còn đang biểu lộ quyền năng của Ngài... đã và còn đang làm tan rã những kẻ kiêu căng... đã và còn đang hạ xuống người quyền thế... đã và còn đang nâng dậy kẻ khiêm cung... đã và còn đang ban tràn đầy ơn lành cho người đói khát... đã và còn đang đuổi người giàu có ra về tay không... đã và còn đang cứu giúp Israel Dân Người." Ðó là bảy hành động của Thiên Chúa là Chúa của lịch sử: Người luôn đứng về phía những kẻ thấp hèn nhất, những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn, những ai "kính sợ Người, trung thành với Lời Người; đó là những kẻ khiêm tốn, những kẻ đói khát; đó là Israel người tôi tớ trung thành của Người; đó là cộng đồng dân Chúa, được kết thành bằng những kè nghèo hèn, trong sạch và đơn sơ trong tâm hồn, như Mẹ Maria.
Thánh lễ này diễn ra vào giờ phút cuối cùng của năm 2014 Âm Lịch, đôi mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của đời sống chúng ta. Vì không có Chúa, chúng ta sẽ không hiện hữu, không có Chúa sẽ chẳng có gì, hoàn toàn không có gì. Chúa là Đấng "vạn vật được tạo thành" (Ga 1, 13), Chúa là Đấng mà nhờ Chúa, chúng ta được tạo thành, và sống cho đến phút này đây. Không có Chúa, sự sống không thể đạt đến vận mệnh cuối cùng của nó. Không có Chúa sẽ chẳng có gì, hoàn toàn không có gì. Chính Người giúp chúng ta đối diện với các thách đố trong năm mới; chính Người ban cho chúng ta khả năng sử dụng đời sống để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho nhân loại. Chúng ta hãy để tình yêu Ngài lôi cuốn cuộc đời ta.
Lúc này đây, chúng ta hãy đặc biệt nhớ tới và cầu nguyện cho những ai đang đau khổ, những ai đang gặp khó khăn và những ai đang sống trong buồn phiền, để khẩn cầu sự trợ giúp quan phòng của Chúa.
Cái nhìn của chúng ta giờ đây mở rộng ra hướng về gia đình, giáo họ, giáo xứ, giáo phận, toàn thể Hội Thánh và thế giới. Chúng ta hy vọng rằng Năm Mới sẽ đem lại hoà bình, công lý, tình huynh đệ và sự thịnh vượng cho tất cả mọi quốc gia! Nguyện xin Ðức Nữ Trinh Rất Thánh, Hừng Đông của thời đại mới, giúp chúng ta nhìn lịch sử đã qua và Năm Mới khởi đầu với con mắt đức tin. Xin cầu chúc một Năm Mới hạnh phúc đến với mọi người! Amen.
Thiên Chúa muốn người hạnh phúc
SUY NIỆM THÁNH LỄ GIAO THỪA
(Mt 5, 1-10)
Sau năm Giáp Ngọ tức năm con Ngựa chấm đứt, thì đến năm Ất Mùi, năm con Dê được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm thứ tư, 18/02/2015 để cầm tinh đến 24 giờ đêm 07/02/2016.
Mỗi người chúng ta đều mang trong mình những những tâm tư và ước muốn. Ưu tư nhìn lại quá khứ, hy vọng hướng tới tương lại. Vậy giờ đây chúng ta có những tâm tình nào, ước muốn gì, chờ đời gì và nhất là nói gì với Chúa ? Chắc chắn một điều là ai cũng xin Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, rộng ban cho một năm mới phúc lộc dồi dào, và lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Chúa.
Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau đó là chúc được bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn, mà người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.
Trong giờ phút giao thừa, trước thềm năm mới, phụng vụ Lời Chúa vang lên lời chúc lành tư tế cổ xưa mà chúng ta nghe trong Bài đọc I :"Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ các con! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến các con, và dủ lòng thương các con! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn, và ban bình an cho các con!" (6, 22- 27). "Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh... " (1 Tx 5, 16-26). Như thế, điều mà tất cả chúng ta mong ước là "được Thiên Chúa tươi nét mặt nhìn đến và chúc phúc". Chúng ta cần phúc lành của Chúa ngay từ những giây phút đầu tiên của năm mới. Chúng ta ước mong được một năm mới bình an, thịnh vượng, tai qua nạn khỏi.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, nên Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng vào Ngài. Đoạn Tin Mừng thánh Mathêu đọc trong Thánh lễ Giao thừa minh chứng rõ ràng rằng : « Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc ». (x. Mt 5, 1-10)
Hạnh phúc thật theo Chúa Giêsu phán trong Tin Mừng (Mt 5:1-12) nghe xong nhiều người không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt, bởi vì những người mà người đời coi là khờ dại, bất hạnh và đáng thương hại theo Chúa Giêsu lại là những người có phúc. Lý do là vì họ sống tinh thần nghèo khó, mặc dù họ giàu sang, có tiền của. Sống tinh thần nghèo khó là không cậy dựa vào tiền của, nhưng phó thác vào quyền năng của Chúa. Họ còn là những người hiền lành, những người đau khổ, những người đói khát sự công chính, những người hay thương xót người, những người có lòng trong sạch, những người ăn ở thuận hoà và những người bị bách hại vì lẽ công chính. Đó là những người được Thiên Chúa chúc phúc.
Quả thật, Thiên Chúa là nguồn mọi ơn phúc, và chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, Ngài cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc đích thật nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân. Con đường Chúa đã đi khi còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta : Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10). Chính Chúa là Ðấng nghèo khó thật trong tinh thần, là Ðấng đau khổ, là Ðấng dịu hiền, là Ðấng đói khát sự công chính, là Ðấng nhân từ, là Ðấng trong sạch trong tâm hồn, là Ðấng họat động cho hoà bình, là Ðấng bị bách hại vì lẽ công chính. Chúa mời gọi chúng ta tiếp bước theo sau để tiến về cõi phúc thật. Với Chúa, điều không thể được trở thành có thể, ngay cả việc con lạc đà có thể chui qua lỗ kim (x. Mt 10,25), với sự trợ giúp của Chúa và chỉ với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta mới được ơn trở nên những người có phúc.
Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta, Đấng được sứ thần chào là 'Đấng đầy ơn phúc', được bà Isave chị họ gọi là người 'có phúc' làm cho chúng ta trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời ! Amen.
Hãy ký thác đường đời cho Chúa
SUY NIỆM THÁNH LỄ MỒNG MỘT TẾT NĂM ẤT MÙI
Mt 6, 25-34
"Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay"
Chúng ta vừa bước sang Năm Mới, năm Ất Mùi. Mùi tức Dê cũng là Dương, Dê đứng hạng thứ 8 của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi, nó đứng sau con tuấn mã oai hùng đã từng xong pha ra trận mạc đánh đuổi ngoại bang phương Bắc xâm chiếm đất nước chúng ta.
Khi nói chuyện Dê có rất nhiều, đặc biệt chuyện :"Vợ chồng Bá Lý Hề và năm bộ da Dê" đã được truyền khẩu trong dân gian. Trong dân gian có câu: "Treo đầu Dê bán thịt Chó" ngụ ý nói không thành thật.
Tết năm con Dê, dân gian còn nhắc đến Bà Từ Hi Thái Hậu, đời nhà Thanh, khoản đãi các sứ thần thuộc các quốc gia Tây Phương, nhân dịp mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày trước, có 1750 người phục vụ, tốn kém 98 triệu hoa viên thời bấy giờ tương đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm bắt đầu giờ giao thừa Tết nguyên đán năm Canh Tý. Đó là món Sơn Dương Trùng. Sơn dương là Dê núi, trùng là con dòi.
Tương truyền rằng: Bà Tây Dương Thái Hậu xuống chiếu đòi các thợ săn chuyện nghiệp tỉnh Hồ Bắc vào rừng phải tìm cho được một cặp Sơn Dương thật lớn. Sau thời gian băng rừng trèo núi cả tháng ở Thiểm Tây, đoàn thợ săn mới bắt được ba cặp Sơn Dương, trong số có ba con cái đều mang thai, nên được Bà Từ Hi Thái Hậu, trọng thưởng 50 lượng vàng mỗi con. Dê núi (Sơn Dương) sau đó được thả trong một khu vườn rộng đầy cỏ non xanh tốt. Cỏ lạ nuôi dê có được chất bổ dưỡng gan thận được vận tải đến mỗi ngày từ Vân Nam và Quảng Tây, cỏ này tên là "Đông Trùng Hạ Thảo" bởi mùa Hạ cỏ mịn như nhung còn sang mùa Đông thì trong cỏ quí có dược tính cùng với cỏ non, lá cây thuốc ...nên sinh con khỏe mạnh và to lớn khác thường.
Cho dù Năm Ngựa hay Dê thì cả tháng nay, mọi người đã sửa soạn ăn Tết, ngày Tết, ai cũng có cái cảm tưởng là có cái gì mới vì ai cũng dùng chữ năm mới. Năm mới mọi cái đều phải mới.
Từ mấy hôm nay, chúng ta đã đi chúc tết nhau, thường người dướt tết người trên : con cháu tết ông bà cha mẹ, em tết anh chị, công nhân viên tết thủ trưởng. Kèm theo món quà, tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo, lại có những lời chúc thật tốt đẹp cho Năm Mới.
Ngày Tết, người ta chúc mừng nhau, chúc nhau.
. Phúc, lộc, thọ.
. Phú, qúi, thọ, khang, ninh.
. Đa tử, đa tôn, đa phú qúi.
. Thăng quan tiến chức
. Buôn may bán đắt, nhất bán vạn lợi, một vốn bốn lời.
Đối với các cha chúng ta thường chúc:
. Thánh thiện,
. Khôn ngoan,
. Khỏe mạnh.
Thi sĩ Trần tế Xương lại chúc :
Bắt chước ai ta chúc mấy lời :
Chúc ai sống ra cái con người.
Người Việt Nam còn có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân trước nhất sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Tựu chúng lại là mong có dược mọi sự may mắn tốt lành.
Những câu chúc mà chúng ta trao cho nhau trong những ngày đầu xuân. Tất cả đều muốn hướng về một tiền đồ thật sáng lạn trong tương lai, đi kèm với một đời sống vật chất thật phong phú. Xem ra, tất cả đều hướng về những của cải chóng qua đời này và những thành quả chỉ dừng lại ở trần thế. Chúa mới chính là gia nghiệp, là cùng đích mà con người cần phải kiếm tìm và đó cũng chính là sự tồn tại của con người.
"Các con chớ áy náy về ngày mai". Chúa luôn muốn mọi người nghĩ đến cùng đích của cuộc sống mình. Tương lai mỗi người đều nằm trong tay quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa.Với tình thương và lòng nhân hậu của Ngài, chúng ta luôn tin tưởng và phó thác, bởi Ngài là người Cha luôn muốn những điều tốt nhất cho con cái. Lo lắng, bận rộn, tất bật làm việc để tích luỹ và để bảo đảm cho tương lai..tất cả đều tốt và cần thiết, nhưng cũng nên nhớ một điều "nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công". Hãy làm tốt bao nhiêu có thể, những bổn phận và trách nhiệm của mình, phần còn lại hãy phó thác trong tay quan phòng của Thiên Chúa. Ngài sẽ hoàn tất những gì còn lại.
Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài"(Tv 66, 2-3).
Từ cái giây phút linh thiêng khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới. Chúng ta họp nhau đâu để cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới qua những lời chúng ta đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, chúng ta quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Vậy thì trong thánh lễ tân niên nay, chúng ta hãy đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Bởi tất cả mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài như lời thánh vịnh viết: "Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay".
Khi bàn đến tuổi Dê, vì Dê nằm trong nhóm tứ mộ là : Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, chúng nó khắc kỵ nhau, cho nên gọi là nhóm tứ xung. Tuy nhiên, nếu chúng ta xét cho kỹ thì chúng nó khắc kỵ trực tiếp từng cặp: Thìn và Tuất và Sửu và Mùi. Trái lại, còn nhóm nhị hạp là: Ngọ Mùi và tam hạp là: Hợi, Mão, Mùi
Người tuổi Mùi ưa mùi mẫn, nên rất thảnh thơi, còn người tuổi Thân có đồng âm với tủi thân, nên phần số phải vất vả, cơ cực lầm than cho cuộc đời, giải thích ngang xương như vậy có tính cách trào lộng cho vui chứ không có chứng minh khoa học chánh xác của nó. Cho nên trong dân gian thường nói :"Người ta tuổi Ngọ tuổi Mùi, sao em lận đận một đời tuổi Thân".
Tết con Dê đã đến. Hy vọng Năm Mới Ất Mùi sẽ có nhiều đổi mới để con người, tổ quốc và Giáo hội Việt Nam được phát triển nhanh hơn.
Nhân dịp bước sang năm Ất Mùi cầu chúc mọi người Năm Mới nhiều sức khỏe, khang an thịnh vượng, phát đạt, thăng tiến về tinh thần cũng như vật chất nhờ hồng ân Thiên Chúa tặng ban. Amen.
Thảo Cha kính Mẹ
MỒNG HAI TẾT KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Mt 15,1-6)
Ngày Tết chúng ta sắm mặc, sửa ăn, ngày đầu năm chúng ta đi chúc tết nhau, con cháu tết ông bà cha mẹ, người dưới chúc tết người trên, với biết bao nhiêu lời chúc tốt đẹp, kèm theo những món quà thơm thảo bày tỏ lòng biết ơn, kính quí, thảo hiếu với người trên, anh em nâng chén chúc tụng nhau.
Ngày Mồng Hai Tết, Giáo hội dạy chúng ta dâng tấm lòng thành, kính nhớ tổ tiên : "Ca tụng các bậc cha ông của chúng ta đã sống qua các thời đại" (Hc 44, 1, 10-15). Quả thật, có được ngày đầu năm hoan hỷ vui xuân, làm sao chúng ta lại quên công, bỏ nghĩa các bậc tiền nhân được, chúng ta là phận cháu con đã và đang thừa hưởng gia tài ân đức các ngài để lại, nên phải 'kể lại sự khôn ngoan của các ngài' để noi theo, các ngài đã giữ các điều răn của Chúa, cháu con cũng phải một mực trung thành. Như thế, dòng dõi các ngài mới trường tồn vạn đại. (x. Hc 44, 1, 10-15 )
Thảo kính mẹ cha là điều Chúa truyền dạy
Thụ ơn ắt phải báo đền, mẹ cha là hình ảnh của Thiên Chúa : ngoài việc sinh thành, dưỡng dục, các ngài còn là người đại diện Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa tình thương hằng bao bọc, che chở và nuôi dưỡng chúng ta nên người. Chính trong bậc sống gia đình, cha mẹ được Thiên Chúa mời gọi để cộng tác vào chương trình tạo dựng của Ngài, để cho ra đời những người con, mang hình ảnh Chúa, và tô điểm thêm cho trái đất nhiều người ca ngợi và kính sợ Chúa.Vì thế, trong bổn phận thảo hiếu, ngoài việc con cái phải phụ dưỡng, giúp đỡ cha mẹ khi già yếu, còn phải hằng ngày cầu nguyện cho cha mẹ : luôn sống xứng bậc mình, sẵn sàng hy sinh để nuôi dưỡng và giáo dục cho tròn bổn phận mình. Thiên Chúa dạy chúng ta : "Hãy thảo kính cha mẹ" (Mc.7, 8-13). Phụng dưỡng mẹ cha theo đúng lời Chúa truyền dạy, chớ dựa vào : " truyền thống của cha ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa". (Mt 13, 6) Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng.
Việc "đền ơn đáp nghĩa" là một nghĩa vụ thiêng liêng để được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu này, đó là những ước mơ và lời cấu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu năm mới như hạnh phúc, khang an và trường thọ. Vậy đâu là bí quyết để những lời chúc đó trở thành hiện thực ? Thưa là áp dụng lời Chúa dạy chúng ta : "Hãy thảo kính mẹ cha"; " Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài" (Hc 3, 6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta "Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa : Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này" (Ep 6,1).
Thực hành chữ hiếu là thể hiện đạo lý dân tộc
Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng ta làm nhất là khi ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha. Bởi Lang Liêu, vị hoàng tử thứ mười tám, con người hiền lành, hiếu thảo đã dâng lên vua cha thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời; với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che chở cho con cái sống an vui giữa đời.
Vì cha nên mới có mình,
Mẹ cha đối đáp công trình biết bao
Ơn này sách với trời cao
Trong lòng con dám lúc nào lãng quên
Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như : thăm viếng, chúc tết, giúp đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được.
"Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông : có cha có me, có ông có bà". Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu đối với mẹ cha.
Tôn kính
Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân."
Phụng dưỡng
Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:
"Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự ta thì an tâm." (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Vâng lời
Dạy sao cho được con hiền
Để cho cha mẹ khỏi phiền về con
Một niềm phép tắc nết na
Biết sống biết kính mới là khôn ngoan
Có một số người, không biết sống đạo gì mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà "lấy" cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình.
Trong tác phẩm "Gia Huấn Ca" Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
"Dù nội ngoại bên nào cũng vậy,
Đừng tranh dành bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng." (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Khi cha mẹ qua đời
Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.
Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.
Thực hành chữ hiếu
Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
(Ca dao)
Xin Chúa trả công bội hậu đời này và đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mùa Chay của tôi
- Viết bởi Gm. Bùi Tuần
WGPSG -- 1. Với những kinh nghiệm của đời mình, tôi thường sống Mùa Chay với tinh thần sám hối và tin vào Chúa, một cách sống động hơn, nhờ ơn Chúa Thánh Thần.
Cụ thể là tôi sống với bốn xác tín sau đây:
2. Tôi xác tín mình là kẻ tội lỗi rất cần được ơn tha thứ.
Tôi thực sự là kẻ rất yếu đuối tội lỗi. Thánh Phaolô viết về chính mình thế này: “Tôi mang tính xác thịt, bí bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì thì tôi cũng chẳng hiểu. Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,14-15).
Lời thú tội trên đây của thánh Phaolô khích lệ tôi hãy nói lên sự thực về tôi, tôi cũng là như thế, và còn hơn thế rất nhiều.
Khi tôi thú nhận mình tội lỗi, tôi không quá nhấn mạnh đến sự hư đốn của tôi, nhưng tôi nhấn mạnh hơn đến sự tôi được Chúa tha thứ. Tôi thực sự đã cảm nhận những lời Chúa phán xưa về tình yêu Chúa dành cho kẻ tội lỗi, như: “Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). “Con Người đến, để cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18,11). “Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để 99 con kia trên núi, mà đi tìm một con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là 99 con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,12-14).
3. Tôi không thể hiểu được, làm sao tôi có thể sống, nếu không được tha thứ. Tôi càng không dám gánh trách nhiệm nào, nếu tôi không tin rằng Chúa sẽ tha thứ cho những yếu đuối tôi.
Tôi được ơn tha thứ. Nên tôi rao giảng về sự tha thứ. Tôi làm chứng đạo Chúa có đặc điểm là tha thứ.
4. Tôi xác tín mình là kẻ có rất nhiều giới hạn trong mọi lãnh vực, rất cần khiêm tốn tìm hiểu, lắng nghe và cộng tác với nhiều người.
Kinh nghiệm cho tôi thấy: không gì hại cho tôi bằng sự tôi nghĩ mình phải làm đủ mọi sự, và có thể làm được mọi sự. Kinh nghiệm cũng cho tôi thấy là: Không gì dại khờ cho tôi bằng sự tôi cho rằng mình phải làm được điều gì đặc biệt, khác với các Giám mục, và linh mục tại Việt Nam hôm nay.
5. Tôi vững tin rằng: Chúa chỉ đòi tôi một điều là: Hãy kết hợp mật thiết với Chúa, rồi ơn Chúa sẽ dẫn đưa tôi làm những gì Chúa muốn, theo khả năng bé nhỏ của tôi. “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa quả, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
6. Tôi xác tín mình được gọi tham dự vào thánh giá Chúa, để góp phần vào việc cứu các linh hồn.
Rất nhiều khi, tôi đã nghĩ rằng: Đau khổ tôi chịu là do tội lỗi của tôi, và là con đường giúp tôi nên thánh. Nhưng dần dần, tôi xác tín: Đau khổ là một ơn gọi Chúa dành cho tôi, để tôi được góp phần vào việc cứu các linh hồn.
7. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mc 19,45). “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,15).
8. Càng ngày, những lời Chúa phán trên đây càng làm cho tôi xác tín về sự tôi chịu đau khổ là để đáp lại ơn gọi Chúa dành cho tôi. Đau khổ gắn liền với mục vụ, đau khổ là một cách cứu độ, đau khổ là để hiệp thông với thánh giá Chúa.
Đau khổ là một ơn gọi, là đau khổ ấy đến từ nhiều phía. Rất có thể đến từ phía cộng đoàn của tôi, do những chống đối, những xa cách, những hiểu lầm, những ghen tương, vv...
Tôi phải sẵn sàng đón nhận. Rất có thể đau khổ đến từ những chuyển biến bất ngờ đòi tôi phải từ bỏ chương trình có sẵn, để bắt đầu lại.
Rất có thể đau khổ đến từ phía những văn hoá mới có vẻ bình thường hoá những tội lỗi và căn cứ vào ý kiến số đông như thước đo đạo đức. Những trường hợp như thế, tôi sẽ rất cô đơn và đau khổ.
Rất có thể đau khổ của tôi lại là những đau khổ của người khác. Khổ cái khổ của đồng bào tôi. Đau cái đau của Hội Thánh tôi.
9. Tôi xác tín là cuộc sống của tôi rất mong manh, tôi ra đi bất cứ lúc nào, tôi phải sẵn sàng ra trước mặt Chúa với niềm phó thác tuyệt đối vào lòng thương xót Chúa.
Thánh Têrêsa thành Lisieux nói về mình: “Tôi sẽ hiện diện trước Chúa với bàn tay không”. Ngài nhận mình chẳng là gì, chẳng đáng gì, chẳng có gì gọi là công phúc. Ngài chỉ là đứa con bé nhỏ, chỉ tin vào tình yêu Chúa mà thôi.
Tôi sẽ không nói được như thánh nữ. Nhưng tôi sẽ nói với Chúa: Con là kẻ tội lỗi, mang theo nhiều dấu ấn của tội lỗi. Nhưng con tin ở lòng thương xót Chúa. vì Chúa là Chúa của con.
10. Với bốn xác tín trên đây, tôi sống mùa Chay năm nay một cách bình an. Tôi biết sống như thế chính là một sự hoán cải nội tâm, đòi tôi phải rất khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa. Sự vâng phục khiêm nhường đó nhiều khi vượt quá tính cách hợp lý theo cách suy nghĩ của thế gian. Nhưng Chúa Giêsu đã làm. Tôi cũng làm như Chúa Giêsu. Như thế, tôi mới góp phần vào việc cứu nhân loại. Nhân loại hiện nay đang rất cần được cứu. Chỉ Chúa mới cứu được mà thôi.
Nguồn: TGP SàiGòn
Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa
- Viết bởi Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay được kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, có điều là: Mùa Chay đã diễn ra hằng năm, nhưng tại sao đời sống đạo của chúng ta vẫn chỉ dừng lại nhiều ở góc độ bên ngoài mà đời sống tâm linh không có gì thay đổi lắm! Nguyên nhân tại đâu và việc chúng ta ý thức về nó như thế nào? Đâu là điều Chúa và Giáo Hội muốn nơi người tín hữu mỗi khi Mùa Chay về? Nhân ngày thứ Tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
1. Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: "Con chỉ là thân tro bụi" (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: "Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi" (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: "Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van" (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Đức Chúa sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: "Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro" (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự trai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: "Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi" (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Tro còn nói đến một điềm gở, mà cụ thể là cái chết của mỗi người và nhân loại. Vì thế, tiên tri Giêrêmia đã mô tả như: "Thung lũng tử thi và tro thiêu xác" (x. Gr 31, 40). Nói như thánh Phaolô: "Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết" (1 Cr 15, 31). Vì thế, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, không thể trần chừ. Chuẩn bị tức là sống theo tinh thần của Chúa.
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
2. Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người, để dâng cho Người một phân nửa của cải (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc để trừ quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn thể hiện tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), để thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi" (1Cr 13,3).
3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ rột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay. Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt. Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì chót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa... Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, thì hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: "thứ ba béo"; "thứ năm sung sướng". Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều...
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa về ý thức nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bửu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng thì toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ, chẳng khác gì "gậy ông đập xuống lại dần lưng ông". Nói cách khác, chúng ta là con đẻ của nhóm hình thức vụ luật. Thiết nghĩ, ăn chay như vậy, hẳn chúng ta chẳng khác gì những Pharisêu! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đấng thấu suốt mọi điều kín nhiệm là Đức Giêsu đã quả trách họ cách nặng nề: "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta" (Mc 7, 6). Ăn chay kiểu như thế quả thật vô nghĩa vì đã đánh mất đi ý nghĩa thánh thiêng của ngày Thánh, ngày dành cho Thiên Chúa và vì ơn cứu độ của mình và tha nhân.
Việc ăn chay của Kitô giáo phải gắn liền cuộc đời, lời nói và hành vi của mình với Đức Kitô, nếu không, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, như chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành danh hài hay con hề trên sân khấu. Thánh Phaolô đã cẩn trọng nhắc nhở những kẻ như trên trong thời của Ngài, khi nói: "Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng" (Gl 5,4) khi chỉ lo giữ luật mà không có đức mến và đức ái đi kèm.
Người Công Giáo ăn chay, ngoài việc liên đới với Thiên Chúa, chúng ta còn gắn liền với các mối tương quan nơi tha nhân. Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dành ra một chút hy sinh về của cải vật chất mà lẽ ra chúng ta được hưởng để chia sẻ cho người túng nghèo, lo truyền giáo, giúp đỡ các bệnh nhân... Nói cách khác, việc ăn chay phải nhằm xây dựng Nước Trời ở trần gian này, nghĩa là phải biến việc ăn chay thành một phong cách sống nhằm xây dựng xã hội hay Giáo Hội ngày càng tốt đẹp hơn, công lý và tình thương hơn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo " (Ge 2, 12-18); "Hãy làm hoà cùng Chúa đi... Bây giờ là cơ hội thuận tiện" (2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con hiểu rằng: muốn được phục sinh với Chúa, chúng con phải qua con đường thập giá. Phải chiến đấu và tập luyện các nhân đức cách sốt sắng, để thêm lòng yêu mến Chúa và liên đới với tha nhân. Amen.
Nguồn: TGP Hà Nội
Phải xin ơn gì bây giờ?
- Viết bởi Vũ Thắng
Cầu nguyện xin ơn là điều diễn ra hàng ngày trong đời sống người Ki-tô – người Ki-tô thực thi điều này trước hết là vâng lời Thiên Chúa dạy dỗ sau là vì nhu cầu của bản thân, xa hơn là cầu nguyện cho tha nhân… Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra, “Tôi phải xin ơn gì bây giờ?” – Mỗi tình trạng linh hồn sẽ có những lời cầu nguyện khác nhau để xin ơn phù hợp với tình trạng của mình để giúp ích cho linh hồn mình.
Có những người cầu nguyện xin ơn nhưng lại không được ban cho ơn mình xin nên đôi khi có thể nản, thậm chí nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa và bỏ bê việc cầu nguyện đó là điều rất không nên – điều này có thể là do ta cầu xin ơn không phải lẽ, tức không phù hợp với thánh ý Chúa hay chưa có tinh thần kiên trì bền đỗ trong đời sống cầu nguyện…
Một nguyên tắc quan trọng khi Chúa ban ơn cho một người đó là người xin ơn phải thành tâm ăn năn sám hối, phải làm hòa với Thiên Chúa trước. Trong thư của thánh Gia-cô-bê chương 5 có viết, “Lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu nghiệm” – như vậy, nếu ta muốn cầu nguyện xin Chúa ban ơn gì đi chăng nữa trước hết ta phải xin một ơn quan trọng hơn hết đó là ơn trở nên người công chính vì nếu chúng ta bất chính tức là chúng ta đang là kẻ thù nghịch dưới mắt Chúa, nào Ngài sẽ nghe lời?
“Phải xin ơn gì bây giờ” - Có lẽ điều khiến Thiên Chúa buồn và thất vọng nhất là những người không bao giờ quan tâm đến phần rỗi linh hồn mà chỉ mảy may xin ơn phần xác, đó là điều rất không nên. Khi cầu nguyện chúng ta phải đặt trọng tâm là xin ơn giúp đỡ linh hồn mình là phần chính yếu và xuyên suốt trong hoạt động cầu nguyện còn xin ơn phần xác chỉ là phụ, không phải là trọng tâm đối với người Ki-tô. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện trong trình thuật sách Phúc Âm Luca chương 16, “Người phú hộ và người ăn xin La-da-rô” – Người phú hộ béo tốt về phần xác cuối cùng bị quẳng xuống địa ngục làm mồi cho Sa-tan nào tốt hơn tình trạng của người ăn xin La-da-rô chết đói nhưng là chết trong tình trạng ơn nghĩa với Thiên Chúa và linh hồn được nên thiên đàng – đây cũng là bài học cho những ai chỉ quan tâm đến lợi ích phần xác mà không màng đến lợi ích phần hồn.
Thiết nghĩ, là người Ki-tô chúng ta nên học hỏi noi gương các thánh trong đời sống cầu nguyện, nguyện gẫm. Các ngài hầu như chẳng mấy khi xin ơn gì cho mình theo ý riêng, lời cầu nguyện của các ngài chủ yếu là xin ơn chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc và nếu có xin ơn nào khác thì cũng chỉ là những ơn cần kíp cho lợi ích phần hồn của mình và tha nhân. Thật vậy, chúng ta hãy cùng lắng nghe lời cầu nguyện của thánh Tiến sĩ Alphongsô – bậc thầy trong thể loại viết sách tu đức, ngài cầu nguyện như sau, “Lạy Mẹ Maria, con phải xin Mẹ ơn gì bây giờ? Con chỉ xin ơn gì Mẹ thấy cần cho linh hồn con hơn cả. Xin Mẹ hãy đoái thương và ban cho con ơn ấy, thế là đủ. ” (“Viếng Thánh Thể” – Thánh Anphongsô)
Vũ Thắng
nguồn: thanhlinh.net
Đón Xuân, ăn Tết, giữ Chay
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
Đón Xuân, ăn Tết, giữ Chay
Vui cùng nhân thế, khóc loài phàm nhân
Trăm năm chồng chất lỗi lầm
Vui Xuân mà vẫn khóc thầm ăn năn
Đối với Việt Nam (nói riêng) và đối với Á Đông (nói chung), Mùa Chay khởi đầu khi Mùa Xuân khởi đầu, đặc biệt là năm nay – 2015, Xuân Ất Mùi, Thứ Tư Lễ Tro đúng vào ngày 30 Tết. Một sự ngẫu nhiên thú vị và đầy ý nghĩa đối với người Công giáo. Chúng ta gọi là “ngẫu nhiên” nhưng chắc hẳn đó là Ý Chúa muốn chúng ta “xé lòng” để nhớ mình là bụi tro ngay khi chúng ta vui tưng bừng đón Xuân, ăn Tết.
Không ai thấy Xuân sao lại đón? Chẳng ai thấy Tết sao lại ăn? Phải chăng Xuân ẩn hiện trong hoa Mai, hoa Đào,… được người ta “rước” vào nhà nên gọi là đón Xuân về? Những người ở xa trông mong ngày về quê đoàn tụ và luôn được người thân chờ đón về quây quần trong ngày Tết nên người ta gọi là đón Xuân. Có thể như vậy đúng hơn chăng?
Có phải Tết là bánh, mứt, kẹo, dưa hấu,… nên người ta mới có thể ăn Tết? Cũng có thể lắm.
Quả thật, khi Tết đến Xuân về, ngày xưa người Việt thường có truyền thống dùng câu đối:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Trong 6 món đó có 3 thứ ăn được: Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh. Tết là thế nên người ta mới có thể ăn được chứ! Có 3 thứ không ăn được: Câu đối đỏ, cây nêu, tràng pháo. Ngày nay, 3 thứ không ăn được đã trở nên xa lạ, thậm chí giới trẻ có thể không biết rõ thế nào là câu đối đỏ, cây nêu, và tràng pháo.
Có nhiều thứ “sống” cùng ngày Tết cổ truyền và luôn hiện hữu trong những ngày tết, câu đối (vừa nêu trên) là một nét văn hóa khó phai mờ, vẫn có thể in đậm dấu ấn trong tâm thức người Việt, mặc dù có thể không hiểu nhiều về câu đối, nhưng chắc hẳn nhiều người còn thuộc lòng và hứng thú khi cần dẫn chứng câu đối đó.
Khó có thể xác định câu đối này ra đời từ khi nào, nhưng căn cứ theo những khái niệm được dùng chỉ vật trong đó thì có thể xác định câu đối kia phải bắt đầu từ lúc nước Việt có chữ viết và chắc chắn là chữ Hán, đặc biệt là khi dân gian có thú chơi câu đối Tết. Theo các văn bản tồn tại đều thống nhất tên gọi sáu thứ là danh từ, nhưng có một bản dùng “tiếng pháo” và một bản dùng “xác pháo” thay cho danh từ “tràng pháo”. Tiếng pháo, tràng pháo hoặc xác pháo thì cũng là pháo – cuộn giấy đỏ tròn và chắc, có thuốc nổ bên trong, có ngòi nổ, khi ngòi nổ được châm cháy thì sẽ nổ “banh xác pháo”.
Xét về ngữ âm, có sự “đối nhau” gần chỉnh tuyệt đối: “Trắc trắc, bằng bằng, bằng trắc trắc” đối với “bằng bằng, bằng trắc, trắc bằng bằng”. Nếu vế hai dùng chữ “xác” hoặc “tiếng” thay cho “tràng” thì đối âm chỉnh tuyệt đối. Tuy nhiên, cuộc đời chẳng có gì hoàn chỉnh tuyệt đối. Tương đối cũng là tốt lắm rồi!
Có sáu yếu tố được lựa chọn tiêu biểu cho hương vị Tết. Trong đó có ba yếu tố vật chất (thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh) là những thứ ăn được. Kèm theo ba yếu tố tinh thần (câu đối đỏ, cây nêu, tràng pháo) là những thứ không ăn được. Đó là sự cân đối và hài hòa tạo nên số sáu (lục), mà chữ “lục” được phát âm tương tự chữ “lộc”, tức là Lộc Xuân được trời đất trao tặng, nghĩa là âm dương hòa hợp.
Hai màu xanh và đỏ là những sắc màu nổi bật và sinh động trong mùa Xuân vui tươi, đồng thời có cả tiếng pháo nổ, tạo âm thanh giòn giã như tiếng reo vui giữa đất trời bao la. Còn “câu đối đỏ” chính là “góc trí tuệ” và cần thiết cho tâm hồn. Chỉ có vật chất mà không có tâm hồn thì vô nghĩa. Đúng như Khổng Tử nói: “Ưa làm điều nhân mà không ham học thì bị cái mối hại che lấp thành ra ngu muội”. Vừa thực tế vừa thâm thúy!
Yếu tố tâm linh là “cây nêu”. Ngày nay hầu như dân gian không còn quan tâm. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng Chạp, ngày Táo quân cưỡi Cá Chép về trời. Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5-6m. Ở ngọn thường treo nhiều thứ: Bùa trừ tà, vàng mã, bầu rượu bện bằng rơm, cá chép giấy (cho ông Táo bay lên trời), giải cờ vải điều, những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung (gọi là chuông gió),…
Buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Trịnh Hoài Đức ghi trong sách Gia Định Thành Thông Chí thế này: “Bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm), mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu, cau, vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “lên nêu”… có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ”. Ngày 7 tháng Giêng, người ta “hạ nêu” (triệt hạ), người Việt kiêng đòi nợ người khác để tạo mối quan hệ tốt đẹp ấm cúng của cộng đồng trong những ngày vui Xuân. Cây nêu còn có nghĩa là “cột mốc”, là ranh giới ma quỷ không được xâm phạm theo giao kèo giữa loài người với chúng.
Câu đối mang đậm dấu ấn của cộng đồng cư dân làm nghề lúa nước theo âm lịch với văn hóa ẩm thực là sản phẩm nuôi trồng và thú chơi trí tuệ tao nhã của một thời “mực Tàu giấy đỏ”, cùng với tín ngưỡng dân gian mang tính truyền thuyết.
Điều đó chứng tỏ con người rất tâm linh, ngay cả những người vô tín ngưỡng hoặc không theo tôn giáo nào cũng vẫn mang dấu ấn tâm linh vậy. Nếu không tâm linh sao lại cúng tổ tiên và rước ông bà về cùng ăn tết?
Năm mới khởi đầu, ai cũng muốn “đêm ba mươi, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa”, và “sáng mồng một, giơ tay bồng ông Phú vào nhà”. Không chỉ vậy, cuộc đời còn cần phải sống với những từ kép bắt đầu bằng chữ T, biểu hiện những đức tính: Tích cực, Tin kính, Tha thứ, Thương yêu, Tiết kiệm, Từ tốn, Tu thân, Tĩnh tâm, Tu nghiệp, Trầm tĩnh, Thỏa hiệp, Thoải mái, Thánh thiện, Tự trọng và Tôn trọng người khác,...
Mùa Xuân vừa về thì cũng là lúc mùa Chay Thánh tiếp đến đặc biệt là chúng ta đang sống trong Năm Tân Phúc Âm hóa Giáo xứ và Cộng đoàn Thánh hiến. Năm nay (2015), Mùa Chay được khởi đầu với ngày Thứ Tư Lễ Tro, ngày 18-2-2015, nhằm ngày 30 Tết Ất Mùi. Như vậy, Giáo Hội Công giáo Việt Nam bước vào Mùa Chay đúng vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc.
Với người Á Đông, đó là sự nối kết kỳ lạ. Mừng Xuân và vui Tết, nhưng phải luôn ghi nhớ “mình là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Ăn chay cũng phải khéo léo, nội tại quan trọng hơn ngoại tại: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ” (Ge 2:13).
Đặc biệt là Chúa Giêsu đã căn dặn kỹ lưỡng và rõ ràng: “Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6:16-18).
Tro tương đương với cát bụi, thân xác con người được tạo thành từ đất: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:27). Khi thân xác hư nát, nó sẽ trở về đất cát hoặc bụi tro.
Tổ phụ Áp-ra-ham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18:27). Đó là ám chỉ cái chết của nhân loại. Còn ngôn sứ Giê-rê-mi-a mô tả cái chết là “thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (Gr 31:10).
Tro là điềm gở. Chúng ta dùng tro vào ngày Thứ Tư Lễ Tro để nhắc nhớ về cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta. Cái chết có thể đến sớm, cũng có thể đến chậm, nhưng chắc chắn nó sẽ đến. Nếu cái chết đến, chúng ta cần chuẩn bị, và thời gian chuẩn bị là ngay từ bây giờ, còn cách chuẩn bị là sống theo phương cách của Chúa.
Tro là lời khẩn thiết cầu xin Chúa ân ban lòng thương xót, lòng trắc ẩn, và ơn tha thứ. Chúng ta đều là những tội nhân. Chịu tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta xin lỗi Chúa về tội lỗi mình, và chúng ta muốn dùng Mùa Chay để sửa sai để thanh tẩy tâm hồn, để kiểm soát ước muốn, và tiến bộ trong sự thánh thiện, nhờ đó chúng ta sẽ chuẩn bị mừng Đại Lễ Phục Sinh.
Nào, chúng ta cùng đón Xuân, cùng ăn Tết, nhất là phải một lòng tôn kính Thiên Chúa là Chúa Tể Càn Khôn, là Chúa Xuân đích thực, và yêu thương mọi người trong tình huynh đệ liên đới!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con trong Mùa Chay Thánh này biết nhận ra đâu là cùng đích của đời mình mà thành tâm ăn năn sám hối và trở về với Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Nguồn: thanhlinh.net
Suy niệm Giao Thừa
- Viết bởi Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
VRNs (15.02.2015) – Đồng Nai – Thời gian vẫn vần trôi. Như chiếc kim đồng hồ mãi vần xoay. Thời gian chẳng đợi chờ ai bao giờ. Ngày hôm qua đã thành quá khứ. Ngày mai còn chưa tới. Chỉ có ngày hôm nay đang trong tầm tay. Có thể nói món quà quý báu nhất mà Thượng Đế ban cho chúng ta hưởng thụ chính là thời gian. Thời gian lại qua đi rất nhanh nếu chúng ta không biết hưởng thụ thì thật uổng phí! Thời gian sẽ không chờ, thế nên, đừng chờ sau này mới làm những việc mà đáng lý mình phải làm. Nếu không làm ngày hôm nay thì không biết ngày mai chúng ta còn có cơ hội hay khả năng để thực hiện ước mơ của mình hay không?
Có những người con nghĩ rằng khi lớn lên sẽ phụng dưỡng cha mẹ, thế nên tuổi nhỏ thì vẫn lười biếng, sống thiếu trách nhiệm với gia đình, nhưng khi lớn lên thì cha mẹ đâu còn để mà thảo hiếu.
Có những người cha người mẹ tưởng rằng mình còn nhiều thời gian để xây mộng ước, thế nên, vẫn cứ trì trệ, không lo tương lai, đến khi già vẫn chưa có một mái nhà nương thân.
Có những bạn trẻ tưởng rằng thời gian còn dài, thế nên, vẫn vui chơi, có khi sa đọa, đến khi bệnh tật mới biết mình không còn cơ hội cho tương lai.
Có biết bao nhiêu mộng ước, dệt thật nhiều nhưng vẫn dở dang vì chẳng đủ thời gian để hoàn thành.
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
– Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
– Không được. – Thần Chết lắc đầu.
– Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.
– Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
– Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
– Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
– Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
Thời gian thật quý hóa. Quý hóa vì nó một đi mà không quay trở lại. Thời gian cho ta làm việc, cho ta hưởng niềm vui nhưng chúng ta đã để lỡ thời gian khi lao vào những đam mê lầm lạc, khi hăng say tranh chấp bon chen với cuộc đời. Chúng ta đã đánh mất niềm vui của thời gian hiện tại. Đây mới là thời gian thực. Thời gian để sống và hưởng thụ. Vì quá khứ đã vuột qua. Tương lai còn mù tối. Hiện tại mới quan trọng với chúng ta. Hãy sống thật vui vẻ, lạc quan với hiện tại, vì đó là cách chúng ta không lãng phí thời gian.
Theo niềm tin ky-tô giáo, thời gian là ân ban của Thiên Chúa. Thời gian Chúa ban cho con người dài ngắn khác nhau. Điều đáng tiếc là ít ai bằng lòng với hiện tại. Không bằng lòng với hiện tại, nên con người thường hay lo lắng, bon chen, dùng đủ mọi khả năng, sức lực, tâm trí mong sống dài hơn, giàu có hơn, danh vọng và quyền lực hơn. Khi đã đạt đến mục tiêu rồi con người lại cảm thấy một khoảng trống vắng trong tâm hồn mà tất cả những lạc thú trần gian không thể lấp đầy. Dường như cuộc đời chẳng có gì vừa ý, toại nguyện mãi mãi với con người, vì ‘Được voi đòi tiên” là vậy.
Chúa Giê-su phán: “ Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không? Vậy nếu đến việc rất nhỏ các ngươi cũng không có thể được sao các ngươi lo việc khác? Hãy xem hoa huệ mọc lên thể nào: nó chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ; song ta phán cùng các ngươi, dầu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, cũng không được mặc áo như một hoa nào trong giống ấy” (Lc 12, 25-26)
Trong giây phút giao thừa, là thời gian chuyển tiếp giữa cũ và mới. Một thời khắc chuyển sang một năm mới với nhiều âu lo, trăn trở. Chúng ta hãy gác mọi lo âu trăn trở để sống giây phút hiện tại thật bình yên và hạnh phúc. Hãy phó dâng cho Chúa như muôn chim, muôn hoa để cho Chúa thực hiện theo sự quan phòng của Ngài. Chúng ta hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng, một Thiên Chúa nhân từ sẽ làm mọi sự tốt nhất cho con người, vì chúng ta là hình ảnh của Ngài, là con cái của Ngài, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một đêm giao thừa an bình. Xin cầu chúc cho quý ông bà và anh chị em được những giây phút hiện tại này tràn đầy niềm vui trong tình Chúa tình người đầy ắp hôm nay. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn: DCCT
Tết Chúa
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (15.02.2015) – Sài Gòn
Giã từ Năm Cũ, sám hối lỗi lầm, quyết tâm trở về với Chúa Trời nhân hậu;
Chào đón Tân Niên, canh tân đời sống, thành thật tín thác nơi Lòng Chúa Xót Thương.
Thời gian cứ ngắn dần, mùa Đông lui bước để nhường chỗ cho mùa Xuân. Đó là quy luật muôn thuở.
Dân tộc nào cũng có ngày Tết riêng. Dù muốn dù không, dù trẻ hay già, dù nam hay nữ, tất cả đều cảm thấy cõi lòng rạo rực, nô nức, dù ít hay nhiều, dù chỉ là vô thức hoặc không muốn. Ngoại tại khả dĩ tác động nội tại.
Thời gian là của Chúa. Thời gian không thuộc quyền của chúng ta, nhưng chúng ta được Chúa cho phép quản lý thời gian của mình. Đó là trách nhiệm. Ai cũng có mỗi ngày 24 giờ, không hơn 1 giây, không kém 1 giây. Dùng thời gian đó làm điều tốt hay xấu là quyền của mỗi người. Nén-thời-gian Ngài đã trao và cho chúng ta hoàn toàn tự do sử dụng.
Chúa rất muốn chúng ta vui. Dân tộc nào cũn có cách vui Xuân đặc trưng. Có nhiều cách ăn tết, thế nên mỗi người đón tết cũng rất khác nhau. Có người chỉ cần một cành mai, có người muốn nếm miếng bánh chưng, có người thích ăn một miếng mứt, có người ưa ăn một miếng dưa, có người khoái sắm chiếc áo mới, có người dành thời gian đọc sách báo, nghiên cứu, hoặc làm từ thiện,… Thế nhưng có người lại cố gắng thể hiện bề ngoài cho ra vẻ tết nhất để hợp với “đẳng cấp” của mình. Mỗi người mỗi kiểu, mỗi người có quan niệm riêng và phong cách riêng.
Tết nhau cũng đa dạng, tùy theo “thần tài” nhà mình, do đó mà lễ vật cũng mỗi người mỗi vẻ, mức “nặng” và “nhẹ” cũng rất khác nhau. Các “ông to, bà lớn” rất vui khi được “bề dưới” thể hiện bản lĩnh “biết điều” sao cho đúng mức. Người nghèo cũng rất vui khi được các nhà hảo tâm tặng vài kg gạo, túi đường hoặc bịch mứt. Giá trị vật chất khác nhau, nhưng giá trị tinh thần có thể giống nhau về niềm vui mà lại không giống nhau về “ý nghĩa”. Nhiêu khê quá!
Có người nói “tết là chết trong lòng”, thật cũng hợp lý lắm!
Với con người là thế. Người ta lo tết nhau những thứ có giá trị “thực tế”, làm đẹp lòng nhau bằng vật chất. Người ta cân-đo-đong-đếm giá trị tinh thần bằng chính giá trị vật chất, người nghèo không “chết trong lòng” sao được!
Về tinh thần thì sao? Có lẽ người ta không chú trọng nhiều đến việc xin lỗi nhau, dù ai cũng có lỗi, mà Tết là dịp để gặp gỡ nhau. Dù không nói ra, nhưng chính sự gặp nhau đó ngầm hiểu là tha thứ cho nhau. Chính sự giao hòa và lòng tha thứ mới là “quà tết” giá trị nhất.
Còn với Chúa thì sao? Thực sự chúng ta chỉ là những tội đồ vô cùng khốn nạn, hoàn toàn bất túc và bất trác, nhận rất nhiều mà chẳng có gì xứng đáng để tết Chúa, như Tv 115 nói: “Con biết lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con?”, thế nên chúng ta chỉ biết tiếp tục làm như Tv 115 dạy: “Con sẽ dâng Chén Cứu Độ và con sẽ kêu cầu Thánh Danh Chúa chí tôn”. Vả lại, chính Chúa cũng xác định: “Tôi muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13), Ngài cho chúng ta tất cả: “Tôi đến để cho con người được sống và được sống dồi dào” (Ga 10:10). Thế nên Ngài không đòi hỏi gì ở chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta đối xử tốt với nhau, và Ngài coi đó là làm cho chính Ngài.
Chúa không cần chúng ta tết Chúa, nhưng Ngài muốn chúng ta tết tha nhân bằng chính tấm lòng chân thành nhất: YÊU THƯƠNG NHAU. Chúa Giêsu gọi đó là Điều Răn Mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Đó là “dấu hiệu” chứng tỏ ai là nhân chứng đức tin: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Chúa Giêsu nhắc lại: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15:17).
Chúa Giêsu thường nhắc đi nhắc lại: “Hãy yêu thương nhau”. Điều đó cho thấy Luật yêu cực kỳ quan trọng trong cuộc sống người Công giáo nói riêng. Và đó mới là Quà Tết đẹp lòng Chúa nhất. Chính món quà đó là những thứ Chúa muốn, nhưng không để lợi ích cho Ngài, mà là để lợi ích cho chính chúng ta và tha nhân. Tất nhiên, Quà tết đó sẽ thắm sắc màu Tin Cậy Mến:
Đầu Xuân con dâng lễ
Tết Thiên Chúa chí nhân
Quà Tết con chia sẻ
Là yêu thương tha nhân
Món quà yêu thương là Quà Tết quý giá, nhưng Quà Tết thánh đức nhất lại không gì bằng chính Con Thiên Chúa:
Bánh, rượu con dâng tiến
Xin Thiên Chúa chúc lành
Hóa thành Mình Máu Chúa
Hồn con đón Chúa Xuân
Chúa cũng sẽ rất vui chúc lành nếu chúng ta không chỉ giao hòa với Ngài mà còn cầu nguyện cho đất nước yêu dấu, tổ quốc thân thương, nơi mình đang sinh sống, với tâm tình cảm tạ:
Xuân mới đầy Ơn Thánh
Đức Chúa ban muôn người
Tình đồng loại thắm nở
Khắp nước Việt nơi nơi
Và dâng cho Chúa tất cả những nỗi niềm, lo toan, mơ ước, dự tính,… trong năm mới:
Đầu Xuân con dâng Chúa
Những mơ ước tin yêu
Rạng rỡ như hoa nở
Người luôn yêu thương nhau
Quà Tết dành cho Chúa còn là món quà “vâng lời”, như Đức Mẹ đã “xin vâng” (Lc 1:38), là thực hiện những điều Ngài dạy qua Kinh thánh:
– “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).
– “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).
– “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9:13), vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35).
– “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4:29).
– Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái (Rm 13:8).
Và còn rất nhiều “món quà” khác chúng ta phải tết Chúa hôm nay và suốt cuộc đời này…
Lạy Chúa Xuân vĩnh hằng, chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (Lc 17:10), chúng con thành tâm xin lỗi Chúa, xin Ngài thương xót mà tha thứ tội lỗi cho chúng con. Xin cảm tạ Chúa về mọi ơn lành Ngài đã ban cho chúng con trong năm qua, và xin thương xót mà chúc lành cho năm mới của chúng con. Xin giúp chúng con biết sống vuông tròn Ý Ngài trong từng hơi thở của chúng con, luôn thể hiện yêu thương và khiêm nhường ngay từ trong ý nghĩ, đúng như Con Chúa đã truyền dạy. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Nguồn: DCCT
Ước vọng
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (14.02.2015) – Sài Gòn – Bệnh phong còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen (1) gây ra. Vi khuẩn này không có bào tử nên nó không lây qua vật trung gian. Khi ở ngoài, nó chỉ tồn tại được 1-2 ngày. Loại vi khuẩn Mycobacterium Leprae và Mycobacterium Lepromatosis là tác nhân gây bệnh phong. Da thịt bệnh nhân thường nổi nhọt, lở loét, nặng hơn thì vết thương lõm vào da thịt, lông mày rụng, mắt lộ ra,…
Bệnh nhân phong chịu đựng sự đau nhức vào những đêm trăng sáng, trăng càng sáng thì họ càng đau nhức vì vi khuẩn rúc rỉa, do đó mà Thi sĩ Phanxicô Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí, 1912-1944) đã mong ước “khác người” khi ông thốt lên: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” (Trăng Vàng Trăng Ngọc).
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co rút lại, khiến đôi tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Ước vọng của họ rất đơn giản: Khỏi bệnh. Họ khổ cả thể lý lẫn tinh thần vì bị mọi người xa lánh, kỳ thị. Ngày nay, bệnh phong đã trị được, nhưng người ta vẫn “ngại” khi tiếp xúc với bệnh nhân phong.
Bệnh phong xuất hiện từ xa xưa, thời Cựu Ước cũng đã có. Thời đó, Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Kinh Thánh giải thích: “Tư tế sẽ khám người ấy: nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế, nó bị vết thương ở đầu” (Lv 13:43-44). Các bệnh nhân hóa nạn nhân, vì họ không chỉ khổ thể lý mà còn khổ tâm, có thể nói đối với họ là điều sỉ nhục!
Thật vậy, vì thời đó người ta lập ra “quy chế người phong hủi”, khắt khe và tàn nhẫn lắm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:45-46). Ngày nay, cái quan niệm tàn nhẫn đó vẫn chưa thể “tẩy não” hoàn toàn được! Nếu có dịp đến Trại Phong Di Linh (2), bạn sẽ thấy các bệnh nhân phong thật đáng thương. Họ có vẻ ít nói với vẻ ngần ngại lắm. Có lẽ họ không dám tin rằng người đối diện với họ không ác ý, vì trong tâm trí họ đã in sâu “nếp nghĩ” rồi!
Phong cùi thể lý thật đáng sợ và đáng thương, nhưng phong cùi tâm linh còn đáng sợ và đáng thương hơn. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị chứng “phong cùi” này. Nhưng thật diễm phúc vì chúng ta có Đại Bác Sĩ Giêsu chữa trị. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Dạng diễm phúc này đôi khi chúng ta không để ý, nhưng thực sự là niềm hạnh phúc khôn tả, vì được Thiên Chúa chúc phúc.
Một khi cảm nhận được như vậy, chắc hẳn người ta không ngần ngại hoặc lần lữa đến với Bí tích của Lòng Chúa Thương Xót: “Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32:5). Sau đó, người ta còn chia sẻ với người khác về niềm vui thánh thiện: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo!” (Tv 32:11).
Có Chúa là có tất cả. Người có Chúa không còn ham mê điều gì khác ngoài Chúa, và họ làm gì cũng chỉ muốn tôn vinh Chúa. Đúng như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:31-33). Người biết sống vì Chúa thì cũng biết vì tha nhân, bởi vì thước đo lòng mến Chúa là lòng yêu người. Vả lại, ai nói yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân thì là kẻ nói dối (1 Ga 4:20). Ước gì chúng ta khả dĩ mạnh dạn nói được như Thánh Phaolô khi chúng ta tâm sự với người khác: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).
Trình thuật Mc 1:40-45 nói về việc Đức Giêsu chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16). Một hôm, có người bị phong hủi đến gặp Ngài, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chữ “” ở đây không phải là nghi ngờ, mà chỉ là “một cách nói” mà thôi. Chắc hẳn người này đã rất khổ sở vì mắc bệnh phong đã lâu, khổ đủ thứ, và anh rất muốn được khỏi để không bị xã hội ruồng rẫy. Anh đến cầu xin với Chúa Giêsu, chứng tỏ anh rất vững tin vào Ngài, tin chắc Ngài là người có quyền phép vô song. Anh tin thật chứ không mê tín dị đoan hoặc xin theo phong trào như nhiều người ngày nay vẫn làm. Vâng, vấn đề quan trọng là niềm tin chân thành và vững vàng.
Nghe anh nói, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”. Thật hạnh phúc cho anh vì ước muốn của anh hoàn toàn hợp ý Chúa. Thế nên ngay lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. Anh đã được toại nguyện.
Nhưng Ngài nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết”. Chúa Giêsu bảo anh “coi chừng” vì anh có nói ra cũng chẳng ai tin, và những kẻ có quyền hành chỉ muốn tìm dịp để bắt giết Ngài. Tuy nhiên, làm sao anh có thể im lặng được, và anh không thể hoãn lại cái sự sung sướng ấy, thế nên vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Ngài không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.
Nhưng Ngài có đi đâu thì người ta cũng tìm cho bằng được, bởi vì họ đã tận mắt thấy anh chàng phong cùi hôm nào đã sạch hoàn toàn. Lạ quá sức! Và rồi dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài, đông như trẩy hội.
Ai cũng có những ước vọng, dù lớn hay nhỏ, ước vọng cho chính mình và cho người khác, nhất là cho những người thân yêu. Ước vọng có thể cao thượng, bình thường hoặc tầm thường. Thi văn sĩ kiêm lý luận phê bình Samuel Johnson (1709-1784, Anh quốc) nói: “Mỗi người đều giàu có hay nghèo khổ tùy thuộc tỷ lệ giữa niềm ước vọng và sự thỏa mãn của mình”.
Thiên Chúa biết rõ mọi ước vọng thầm kín của chúng ta (Tv 38:10). Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Ngài nghe thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn; Ngài cho họ an lòng và lắng tai nghe họ, để bênh kẻ mồ côi và người bị áp bức, khiến cho kẻ mang thân cát bụi, chẳng còn khủng bố ai” (Tv 10:17-18).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết cầu xin Con Một Ngài chữa lành “chứng phong cùi” tâm hồn của chúng con. Xin dẫn chúng con đến với những người nhỏ bé hèn mọn trong xã hội, trong Giáo Hội, để chúng con thông cảm và chia sẻ với họ bằng tấm lòng chân thành vì Danh Thánh Đức Giêsu Kitô. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(1) Bác sĩ Armauer Hansen, người Na-Uy, đã phát hiện vi khuẩn gây bệnh phong vào năm 1873.
(2) ĐGM Cassaigne, thường được gọi thân thương là Cha Sanh, thuộc Hội Thừa Sai Balê, đến Di Linh năm 1927. Chính ngài đã lập Trại Phong Di linh (Djiring) năm 1929. Ngài sinh ngày 30-1-1895 tại Grenade (Pháp), thụ phong linh mục ngày 19-2-1925. Ngài được bổ nhiệm làm giám mục chánh tòa Saigon, lễ tấn phong giám mục diễn ra tại Nhà Thờ Đức Bà ngày 24-6-1941. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Bác Ái và Yêu Thương” (Caritas et Amor). Ngài qua đời lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973 và được mệnh danh là “Tông Đồ của Người Cùi”.
Nguồn: DCCT
Ngày tình yêu thánh
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU (Viết theo Beliefnet.com)
VRNs (14.02.2015) – Sài Gòn – Ngày 14 tháng Hai hằng năm là Valentine’s Day – Ngày Tình Yêu hoặc Ngày Tình Nhân. Ngày này dành cho những người hẹn hò yêu đương với nhau. Nhưng ngày này nhắc nhở bạn về tình yêu tâm linh, tình yêu bạn dành cho Chúa Giêsu. Như vậy, Valentine’s Day phải là Ngày Tình Yêu Thánh đối với các Kitô hữu chúng ta.
Thánh nữ “bông hoa nhỏ” Têrêsa đã gọi Chúa Giêsu là Đức Tình Quân. Mỗi chúng ta đều có cuộc “hôn nhân mầu nhiệm” với Chúa Giêsu. Tại sao chúng ta phải yêu mến Ngài? Đây là 10 lý do xác định Chúa Giêsu là người yêu của bạn:
- NGÀI TRỢ GIÚP BẠN
“Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14:16-18). Chúa Giêsu không bỏ mặc bạn một mình, Ngài giúp đỡ bạn qua Chúa Thánh Thần, Đấng giữ bạn đi trên đường ngay nẻo chính.
- NGÀI BAN SỨC MẠNH
“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:13). Thánh Phaolô biết rằng ngài có sức mạnh nhờ Chúa Giêsu hoàn tất công việc của thánh nhân. Ơn Chúa đủ cho chúng ta, chỉ cần chúng ta mở lòng ra đón nhận!
- NGÀI THEO ĐUỔI BẠN
“Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Chúa Giêsu theo đuổi chúng ta mọi nơi, muốn chúng ta là con cái Thiên Chúa và được trường sinh trong Vương Quốc của Thiên Chúa.
- NGÀI CHIẾN THẮNG TỬ THẦN CHO BẠN
“Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2 Tm 1:10). Chúa Giêsu chết trên Thập Giá để ban sự sống dồi dào cho bạn. Ngài ghét tội lỗi, bệnh tật và bất công, ghét đến nỗi làm cho ách của chúng ta trở nên thoải mái và gánh nặng của chúng ta trở nên nhẹ nhàng.
- NGÀI CẦU NGUYỆN CHO BẠN
“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:20-21). Bạn là phần lớn trong đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài luôn luôn là Đấng trung gian biện hộ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha.
- NGÀI CỨU ĐỘ BẠN
“Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9). Chúa Giêsu cứu bạn thoát khỏi thung lũng tử thần và sự hủy diệt. Ngài đưa bạn vào Vương Quốc của Thiên Chúa bằng lòng thương xót của Ngài.
- NGÀI TUYỂN CHỌN BẠN
“Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2:9). Chúng ta được tuyển chọn để làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu giáo dưỡng chúng ta suốt hành trình tâm linh và đưa chúng ta càng ngày càng lên cao.
- NGÀI BÊNH VỰC BẠN
“Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính?34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:33-34). Chúa Giêsu là Đấng bảo vệ và biện hộ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha.
- NGÀI CHUẨN BỊ CHỖ Ở CHO BẠN
“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14:2). Chúa Giêsu không để chúng ta mồ côi, Ngài về trời chuẩn bị chỗ ở cho chúng ta, rồi Ngài sẽ trở lại để đón chúng ta về với Chúa Cha.
10. NGÀI YÊU THƯƠNG BẠN
“Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8). Đời đời Chúa Giêsu yêu thương bạn vô hạn, không chỉ trong ngày Valentine, mà Ngài làm cho bạn vui sống suốt 365 ngày.
TRẦM THIÊN THU (Viết theo Beliefnet.com)
Nguồn: DCCT
Lòng trắc ẩn
- Viết bởi Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
VRNs (13.02.2015) – Đồng Nai – Có ai đó nói rằng: “Yêu thương và lòng trắc ẩn là những thứ thiết yếu trong cuộc đời. Không có yêu thương và lòng trắc ẩn, nhân loại không thể tồn tại”. Nhờ tình yêu thương và lòng trắc ẩn mà con người mới dành cho nhau những nghĩa cử cao đẹp của tình người, tình đồng loại. Nhờ tình yêu và lòng trắc ẩn con người mới tìm cách làm cho thế giới này bớt khổ hơn.
Có một một chàng thanh niên tình cờ nghe một mẩu đối thoại:
-Ăn hộ tôi mớ rau cô ơi! Tiếng bà cụ già yếu ớt bán rau giữa trời sương gió giá rét.
-Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về cho lợn! Tiếng chan chát của một cô gái tuổi đôi mươi đáp lời bà cụ.
Chàng thanh niên cau mày đợi cô gái đi rồi hỏi bà :
-Rau này bà bán bao nhiêu ?
-Hai nghìn một mớ. Bà cụ mừng rỡ.
Chàng rút tờ mười nghìn đưa cho cụ và nói : Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy !
Nhưng công việc bộn bề đã khiến chàng trai quên luôn sự việc trên và vài tuần sau đó khi trở lại, anh cay đắng biết được thông tin chỉ vì đợi anh trong cơn mưa suốt buổi chiều hôm đó, bà lão đã bị cảm và vĩnh viễn ra đi…
Câu chuyện trên có thực hay không thực, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là trong xã hội này, chúng ta cần nhiều lắm những tấm lòng trắc ẩn như chàng trai. Anh đã mua mớ rau của bà như mua niềm vui tặng bà, vì có ai đó đã cảm thông và lắng nghe lời van xin của bà. Cái chết của bà chỉ là một tai nạn, điều quan yếu là trong xã hội vẫn còn đó lòng trắc ẩn yêu thương dành cho đồng loại.
Đọc lại Tin mừng chúng ta thấy rõ nét về lòng trắc ẩn nơi Chúa Giê-su. Lòng trắc ẩn ấy không dừng lại ở sự cảm thông, mà còn bằng hành động xoa dịu nỗi đau cho tha nhân. Ngài đã trắc ẩn trước đoàn lũ đói khát đang đi theo Ngài. Ngài đã trắc ẩn trước cái chết của Lagiaro. Ngài cũng trắc ẩn trước những nỗi đau của những người mang bệnh tật trong mình. Ngài còn đồng hóa mình nơi những phận người kém may mắn trong cuộc sống. Ngài đã làm tất cả những gì trong khả năng để xoa dịu nỗi đau cho những ai đến với Ngài.
Hôm nay, lòng trắc ẩn ấy Chúa đã dành cho người phong hủi tại cửa thành. Hành vi Chúa Giê-su đụng chạm đến người phong cùi như tấm lòng của Chúa luôn vượt qua mọi rào cản để đụng đến con tim người phong hủi. Một người bị bỏ rơi nay được Đức Giê-su trìu mến quan tâm. Một người bị loại ra khỏi xã hội loài người nay được Đức Giê-su chữa lành để có thể hội nhập với xã hội. Tình thương và lòng trắc ẩn của Chúa đã cứu sống một con người, và đã mang lại niềm vui hạnh phúc cho người bất hạnh đang mang trong mình bệnh phong trầm kha.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi chúng ta có lòng trắc ẩn với tha nhân. Lòng trắc ẩn khiến chúng ta biết mình phải làm gì để xoa dịu nỗi đau. Lòng trắc ẩn là nhịp cầu dẫn chúng ta tới với tha nhân. Lòng trắc ẩn khiến chúng ta không còn dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh bên cạnh chúng ta.
Nhưng đáng tiếc, thế giới chúng ta đang sống có quá nhiều người dửng dưng với đồng loại. Họ chủ trương « mackeno » cho an phận. Dường như con người ngày nay mất đi tình liên đới để chỉ sống cho bản thân, hưởng thụ cho bản thân và chỉ tìm lợi ích cho bản thân. Dường như con người hôm nay rất cô đơn tuy sống giữa biển người bao la.
Xin Chúa giúp chúng ta biết cởi bỏ vỏ bọc ích kỷ của mình để sống chan hòa tình yêu với tha nhân. Xin cho chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử yêu thương thay cho những thái độ thờ ơ lạnh nhạt. Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa luôn yêu thương và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
- Lời cầu phúc trong Đêm Lễ Giao Thừa
- Giấc mơ Xuân
- Lễ Tro: Ăn chay kiêng thịt 30 Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015 ra sao?
- Lịch sử mùa Chay Thánh
- Ba trụ đầu rau nấu bếp
- Lễ Đức Mẹ Lộ Đức - Ngày cầu nguyện cho bệnh nhân
- Mẩu đối thoại về lễ Nến
- Hãy theo Thầy.
- Hãy can đảm lên. Đừng sợ than khóc.
- „Lạy Chúa này con đây.“