Quyết định hiếm có
- Viết bởi Giuse Việt, O.Carm.
Một buổi chiều Chúa Nhật, Dũng – 45 tuổi – làm một quyết định hiếm có, một quyết định người ta thường sẽ không làm. Nhưng nó hóa ra lại là một điều tốt không những cho anh mà còn cho cả gia đình anh nữa. Ta tự hỏi chuyện gì đang diễn ra với anh và điều gì làm anh có quyết định như thế. À, đó là một điều quan trọng nhưng nhìn bên ngoài không có gì đặc biệt!
Chúa Nhật hôm ấy, Dũng không thể ngủ nướng được như đã dự tính. Anh vẫn bị mệt vì chứng mất ngủ. Anh đành ra khỏi giường sớm để uống cà phê. Cà phê xong, anh cảm thấy chán nhưng lại không muốn làm gì cả. Mới có 7 giờ thôi.
Ngoài trời đang có tuyết rơi nên phố xá lặng lẽ lắm. Các cửa tiệm vẫn còn đóng im ỉm. Đối với nhà hàng thì còn quá sớm. Chỉ có một nơi mở cửa lúc này là ngôi thánh đường nhỏ cuối phố. Ừ, cũng lâu rồi anh không đi Lễ, một phần vì công việc một phần vì làm biếng. Không biết vì lý do nào đó, anh quyết định đi nhà thờ hôm ấy, có thể vì muốn tránh cái chán và hít thở một chút không khí trong lành buổi ban mai. Dũng nhẹ nhàng thay quần áo và khẽ khàng rời nhà kẻo gia đình bị đánh thức.
Khi đến nhà thờ thì anh phát hiện ra đó là Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay, tức là anh đã bỏ sót Lễ Tro cách đó bốn ngày. Anh cảm thấy hơi hối hận về điều ấy và muốn làm gì đó để bù lại. Vì thế, anh quyết định sẽ tập trung hơn trong nhà thờ lần này. Vì tập trung nên anh nhận ra rằng có nhiều điều anh đã không lưu ý kĩ trước đây. Đến lúc công bố Tin Mừng, vị linh mục đọc một đoạn ngắn từ Phúc Âm theo thánh Mác-cô:
“Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xatan cám dỗ, sống giữa các dã thú, và có các thiên thần hầu hạ Người.” (Mc 1:12-13)
Chính đoạn văn ngắn này là điều quan trọng nhưng nhìn bên ngoài không có gì đặc biệt, điều đã làm cho anh thực hiện quyết định hiếm có của mình. Anh tự nhủ: “Thầy Giêsu chắc chắn hiểu biết mọi chuyện hơn mình nhiều. Thầy đã làm điều ấy. Tại sao tôi lại không bắt chước Thầy làm thử xem sao chứ? Biết đâu sẽ có ích cho đời tôi?”
Dũng suy gẫm thêm một chút và đây là quyết định của anh: theo Thầy vào hoang địa. Vì rất bận rộn, anh cần phải thực tế: anh lên kế hoạch đi vào và ở lại trong hoang địa chỉ 10 phút mỗi ngày. Ta nên ghi nhận ngay từ đầu rằng Dũng sống ở một thành phố quá tải, một tấc đất trống cũng chẳng còn. Người ta phải xây các dãy nhà chung cư để có chỗ sinh sống. Bởi thế, hoang địa của Dũng không phải là một nơi hoang dã như hoang địa tự nhiên. Hoang địa này phải được sáng tạo ra một cách khôn ngoan. Cách nào đây?
Có nhiều cách. Chẳng hạn, anh dậy sớm hơn bình thường một chút để thưởng thức không khí trong lành và sự yên tĩnh buổi ban mai; anh dành 10 phút để tâm sự với Chúa về những gì mình sẽ làm và xin Người hướng dẫn; sau bữa trưa, anh dành 10 phút ngồi thinh lặng nghỉ ngơi đôi mắt và làm mới lại tâm trí trước khi tiếp tục làm việc; vào buổi tối, anh không vội bật máy vi tính lên như thói quen trước đây để có thời gian cho vợ con cũng như cho bản thân một dịp để xét lại ngày sống; khi có bất hòa với ai, anh cho bản thân ít là 10 phút để cầu nguyện và suy nghĩ, vân vân…
Dũng nhận thấy rằng thời gian trong hoang địa này tuy ngắn ngủi nhưng rất bổ ích. Anh gặt hái nhiều khôn ngoan và sức mạnh. Ở đây, ta chỉ nói đến ba kinh nghiệm quý báu anh có được khi chiêm ngắm Thầy Giêsu trong hoang địa thôi nhé: cám dỗ, các dã thú và các thiên thần.
Thứ nhất, về cám dỗ: Dũng nhận ra có nhiều cám dỗ anh bị sa vào mà không biết. Hậu quả là anh làm tổn thương người xung quanh một cách vô ý. Vô ý nhưng dù sao thì họ vẫn bị tổn thương. Hơn nữa, anh nhận biết rằng cám dỗ là một ảo ảnh. Nó sẽ không có bất cứ sức mạnh kiểm soát nào trên anh nếu anh không đồng thuận theo nó. Ngoài ra, khi đối diện với cám dỗ trong hoang địa, Dũng thấy rằng nó có thể cho anh những cơ hội rất lớn để chứng tỏ tình yêu của mình dành cho Chúa và cho những người thân yêu qua lựa chọn vị tha của anh.
Thứ hai, về các dã thú: Dũng bị sốc khi hoang địa 10 phút này giúp anh nhận ra rằng có nhiều dã thú trong đời anh quá. Chúng đã ở đó cắn phá hạnh phúc của anh mà anh không hay biết. Chẳng hạn con dã thú của tức giận nhai nuốt sự kiên nhẫn của anh. Con dã thú của ghen tị làm hư hại lòng quảng đại nơi anh. Con dã thú của tự kiêu bịt đôi tai anh lại. Con dã thú của sợ hãi hủy hoại sự tự tin. Con dã thú của dục vọng ngăn cản anh sống tôn trọng. Con dã thú của khuynh hướng cầu toàn tấn công bình an nội tâm của anh, vân vân.
Thứ ba, về các thiên thần: Nếu Dũng đã không nhận ra sự có mặt của nhiều con dã thú, anh cũng chẳng nhận ra những thiên thần trong đời mình. Hậu quả là anh đã xem thường họ, tệ hơn nữa anh còn vô ơn với họ. Ví dụ, thiên thần giữ nhà anh sạch sẽ chưa bao giờ nhận được một lời cám ơn từ anh; thiên thần nấu nướng cho anh với thật nhiều tâm huyết chẳng được đánh giá cao; thiên thần đưa đón con anh đi học mỗi ngày chưa bao giờ được mời đi ăn một bữa ở ngoài tiệm; các thiên thần nhỏ dạy anh những giá trị của chân thực và hồn nhiên chưa bao giờ được tôn trọng đúng mức, vân vân. Trong hoang địa 10 phút này, Dũng bắt đầu hiểu mình cần làm gì để đáp lại tình yêu thương đã lãnh nhận từ các thiên thần của anh và cách thức diễn tả tốt hơn nữa sự trân trọng anh dành cho họ.
Dũng đã thay đổi tốt hơn.
Gần đây, anh chia sẻ kinh nghiệm này với gia đình mình và mời họ cùng vào hoang địa với anh. Thấy Dũng trở nên tốt như vậy, vợ con anh muốn trải nghiệm thử.
Còn chúng ta, có nên thử trải nghiệm một lần không bạn nhỉ?
Joseph Viet, O.Carm.
Nguồn: thanhlinh.net
Đầu năm xem bói - Bói Lời Chúa
- Viết bởi JM. Lam Thy ĐVD
Nhân ngày đầu năm, theo thói quen, tôi lại ngồi nhìn vách (“diện bích” đó) – í quên, nhìn màn hình computer chớ! – và khai bút. Tôi vốn chưa thuộc típ “xuất khẩu thành thi”, nên có nhiều khi diện bích mất cả buổi, mà cái nàng thơ õng ẹo của tôi vẫn chưa chịu xuất hiện. Thế là cứ vừa nhìn bàn phím (keyboard), vừa cắn móng tay (khiếp!), nhiều khi cắn luôn cả vào môi, vào lưỡi đau điếng, thậm chí bật cả máu ra. Săn tìm nàng thơ riết rồi đâm ra ngủ gật. Gật mạnh một cái, giật mình mở choàng mắt, thấy hiện trên màn hình 4 chữ đỏ như son: ĐẦU NĂM XEM BÓI. Lạ thật đấy! Đáng lẽ phải là “Đầu năm khai bút” mới đúng chớ! Nhưng mà thôi, đầu năm xem bói lại hóa hay. Bói thử xem sang cái năm con Dê này nó sẽ ra sao? Biết đâu lại gặp … “hanh thông vận số” cũng chưa biết chừng!
Bói thì có nhiều kiểu lắm: Bói Thơ, Bói Kiều, bói Tử vi, bói Dịch, bói Cỏ Thi, bói Quẻ v.v… và v.v…Tôi thì được cái kiểu nào cũng biết sơ sơ và lần bói nào cũng “ra ma” đàng hoàng (các cụ vẫn dạy “bói ra ma, quét nhà ra rác” mà!). Người đâu chẳng thấy, thấy toàn ma, hơi bị rét, đâm ra ấm ức, bèn nhất quyết quay lại … bình bói (bình luận về bói toán, cũng giống như bình văn, bình thơ í mà!). Bình bói ư? Mới nghe cứ như là tiếng súng cà-nông khai hỏa bình bình, lại giật mình, đành xin lỗi nếu chẳng may có gì đụng chạm tới hải nội chư quân tử, bởi đã bình thì thế nào cũng có hơi hướm chủ quan và đụng là cái chắc. Vâng, đầu năm thơ thới hân hoan, xin ban cho 2 chữ đại xá và mười thang thuốc bổ (nụ cười đó!).
Thường thì những kiểu bói có vẻ tao nhã và là một cái thú tiêu khiển của những anh ưa bôi nhọ màn hình (“bôi nhọ giấy trắng” đấy!) có thể kể:
Bói Thơ: Viết ra giấy một câu thơ chợt xuất hiện trong óc của bất kỳ ai (kể cả của mình), rồi xắn tay áo lên “chẻ sợi tóc làm tư” (phân tích) tìm xem trong câu thơ ấy có những cái gien hay tế bào gì, rồi … đoán vận số cho bản thân,
Bói Kiều: Gấp bìa và vuốt cuốn truyện Kiều cho thật phẳng, cầm bằng hai tay trịnh trọng, đưa cao lên trước mặt, miệng lâm râm thần chú “úm-ba-la-ba-xi-đế”, từ từ đưa cuốn truyện ra sau gáy, lấy ngón cái mở bật ra một trang bất kỳ nào đó, rồi coi 2 câu thơ ở đầu trang bên trái (có số trang chẵn) – đọc to lên càng tốt – xem “nỏ nói ra sao” mà đoán (bạt) mạng. Có thể kể thêm kiểu bói Cỏ Thi cũng thuộc loại này.
Mấy kiểu bói Kiều, bói Thơ chỉ là cách tiêu khiển thì giờ trong lúc trà dư tửu hậu cho khỏi “nhàn cư vi bất thiện 闲 居 为 不 善 ” (nhàn rỗi hay làm điều không tốt) của mấy anh chàng ưa “bôi nhọ giấy trắng” thôi, còn tin hay không thì có trời mới biết! Dù sao mấy kiểu bói này đều là tự mình bói cho mình, nên tốt hay xấu cũng chẳng hề gì, có thể “xa-va tuốt” (çava tout: được tất, chấp nhận hết). Đến như bói Tử vi, bói Dịch, thì cái sự bói đã chuyển tông sang hệ thần kinh – í quên! – thần … bí rồi (coi chừng gặp sao quả tạ, hoặc được quái nhân – thay vì quý nhân – phò trợ, thì nguy đó!). Nói cho vui vậy, chớ bói Dịch (lấy Kinh Dịch làm chuẩn mực), bói Tử vi (lấy Tử vi đẩu số làm chuẩn mực), đó là môn học thuật mang tính triết lý, tư tưởng thâm sâu, cần phải có sở học cao mới lĩnh hội được. Còn bói Quẻ? Đó là kiểu bói Cỏ Thi đã biến tướng và được các ông thầy tướng, thầy bói lấy làm kế sinh nhai. Cái vụ này cần phải “khiếm thị” và dẻo tay gieo quẻ thì mới linh! Mà khiếm thị thì làm sao ngồi gõ computer được. Ấy thế là từ thần bí đi sang… bí rị. Thôi thì đành kể những điều xảy ra với chính bản thân và được “thực mục sở thị” vậy.
Nguyên hồi tôi lo vợ cho một đứa con, xảy ra một chuyện cười ra nước mắt. Chuyện như vầy: Nàng dâu tương lai của tôi là một tân tòng. Bước đầu mọi chuyện diễn tiến tốt đẹp, nhưng đến khi xin làm lễ hỏi và cưới vào một ngày cụ thể, thì bên đằng gái khất lại để còn đi hỏi thầy tướng, nhờ thầy so đôi tuổi của đôi tân hôn xem ngày đó tốt xấu ra sao. Vui vẻ cả thôi. Và kết quả, thầy phán: “Nếu cưới đúng vào cái ngày bên đằng trai xin, thì chú rể sẽ chết yểu”. Con trai tôi sùng vía, cứ nhất định xin cưới vào cái ngày mà nó sẽ chết yểu đó, có sao nó chịu, còn nếu sau 10 năm mà nó vẫn sống nhăn thì nó sẽ lên hậu-tạ-ông-thầy thật tử tế.
Cũng cần nói thêm, khi nhờ thầy xem bói đã phải trình thầy đầy đủ ngày giờ sinh (dương lịch) của 2 đứa, vậy mà trước khi thầy … bói, thầy còn hỏi con dâu tôi về ngày giờ sinh (âm lịch) của con trai tôi. Con dâu tôi hỏi lại tôi, tôi thật ngạc nhiên khi thấy thầy có thể bói được cả những toan tính định đọat của ông Trời (tức là phải biết rõ, hiểu rõ được cơ trời, thì mới nói cho người ta nghe được chứ!), vậy mà chỉ một chuyện rất đơn giản là đổi ngày giờ từ dương lịch sang âm lịch, thì thầy lại không biết. Oái oăm thật! Chỉ cần có một cuốn lịch Thế kỷ XX là dư sức (đến như tôi – “thầy bói mò” nghiệp dư – mà còn có cuốn lịch đó, huống hồ!). Cao tay hơn, thì có thể dùng cuốn “Vạn niên lịch”. Tuy nhiên, tôi vẫn bàn với con tôi nên “tiên lễ hậu binh”, đem một phong bì thật dầy lên gặp thầy và gãi đầu gãi tai cho khéo. Tuyệt vời! Thầy vội kêu bên gái lên và phán: “Hôm trước coi vội, chưa chính xác. Nay coi kỹ lại thì thấy hai đứa rất hợp tuổi và nếu cưới đúng vào cái ngày đằng trai xin thì sẽ đại cát, vợ chồng hạnh phúc đến răng long đầu bạc, con cháu đầy nhà, bạc cắc cho gà ăn không hết!” Năm nay con trai tôi đã ngoài 50 tuổi, mừng kỷ niệm ngày cưới lần thứ 14 rồi, mà có thấy “chết yểu” hồi nào đâu. Thú vị thật!
Chuyện thứ hai: Tôi có một ông bạn (không cùng tôn giáo) sau 1975 nhảy ra kinh doanh vàng. Con gái ổng là học sinh của tôi. Khi còn “kinh doanh chui” (thời bao cấp) thì đời sống bốc lên như diều gặp gió. Chẳng hiểu có phải phát tài như vậy là nhờ đặt hướng bếp đúng chỗ hay không, nhưng đến khi vì hăng đì quá, chồng thì bị gỡ-lịch-trong-nhà-đá (bị “tu huyền tù” đó), còn vợ thì hốt hoảng tới xin thầy gieo quẻ, thì thầy phán “tại cái bếp đặt không đúng hướng, đúng chỗ.” Liền xoay bếp. Vừa đến thời mở cửa, không kinh doanh chui nữa vì mật ít ruồi nhiều, liền ra tay huy động vốn của bạn bè (gọi nôm na là “mượn đầu heo nấu cháo”) lấy tiền ra mua thêm ba căn nhà khá lớn và trưng bảng hiệu kinh doanh vàng cũng rất hoành tráng (ở ngay cửa bên hông chợ Tân Bình). Ấy thế là, chẳng hiểu có phải nhờ xoay hướng bếp hay không, hết thời gian gỡ lịch, ông bạn tôi để vợ bán vàng, còn mình thì nhảy sang kinh doanh “địa ốc”.
Chừng ít tháng sau, con nợ xiết mất một căn nhà. Thầy lại bảo tại bếp. Xoay bếp nữa. Coi mòi làm ăn tuột dốc, anh chồng tính chuyện vượt biên. Bị tó, cải tạo mất 3 tháng. Lại tại bếp và … xoay bếp. Hai căn nhà hoành tráng còn lại tiếp tục bị xiết nợ, và cũng đều tại … bếp (để có dịp được … xoay bếp). Bếp bị xoay tàn tán. Gian bếp có 4 hướng chính (Đông, Tây, Nam, Bắc) và 4 hướng phụ (Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam), cái bếp trong đó xoay hết vòng, lần này nó lại nằm vào đúng hướng và vị trí ban đầu. Ít lâu sau, căn nhà để ở có cái bếp được xoay tàn tán ấy cũng được bán đi trả nợ nốt! Ấy thế là vợ chồng con cái bồng bế nhau đi thuê nhà. Đã khá lâu, tôi không gặp lại ông bạn, không biết lần này không những đổi hướng bếp mà còn đổi luôn cả nhà nữa, thì cuộc sinh nhai ra sao? (nhà đi ở thuê, chẳng hiểu bếp có ảnh hưởng gì đến người thuê nhà không và liệu muốn xoay bếp thì chủ nhà có OK không?!)
Gặp những trường hợp như vậy, biết tôi có căn tính đa nghi như Tào Tháo (hoặc là một thứ Tôma-thời-đại nào đó), lại biết tôi cũng võ vẽ đôi ba chữ Hán, bạn bè thường nói: “linh tại ngã, bất linh tại ngã” (việc bói toán “linh ở mình, không linh cũng ở mình”, ý muốn nói tin hay không tin đấy!). Tôi thầm nghĩ: Ừ nhỉ! Linh thì … ngã, bất linh thì …té, đằng nào cũng chổng bốn vó lên trời cả. Nhưng còn mấy ông thầy coi bói mà thị lực vẫn rất tốt (không khiếm thị một ly ông cụ nào, ngoại trừ cái kính đen tổ chảng trên mắt), nhưng không đổi nổi ngày giờ từ dương lịch sang âm lịch được, thì mần răng? Tại sao thầy không về xoay hướng bếp nhà thầy cho tiền vào như nước, để khỏi phải lê lết vỉa hè xúi thiên hạ xoay bếp kiếm bạc cắc?
Nếu đã nói “thiên cơ bất khả lậu” (cơ trời không được tiết lộ), tại sao lại cứ đi bật mí cơ trời để móc tiền thiên hạ? Và nếu cơ trời đã trót tiết ra mất rồi, thì tại sao lại còn “linh tại ngã, bất linh tại ngã”? Mà đã “linh tại ngã…” thì ông trời lúc đó bỏ đi chơi ở đâu? Có cần phải sợ “cơ trời mà dám tiết lộ, thì sẽ bị trời phạt giảm thọ hàng chục năm” không? Ôi chao! Cuộc sống vỏn vẹn 100 năm, chỉ cần coi bói tiết lộ cơ trời cho khoảng chục mạng người thì mạng mình cũng đi đứt. Cứ cái đà cật vấn lý-sự-cùn như vậy, thì chắc tôi lại được lãnh cái án tử như anh chàng thi sĩ gàn Sahman Rusdhi (1) mất thôi. Thế nhưng, không hiểu sao tổ tiên chúng ta từ ngày chưa biết đến văn minh Tây phương, đã nói: “Hòn đất mà biết nói năng, Thì thày địa lý hàm răng chẳng còn”, hoặc “Tử vi xem bói cho người, Số thầy thì để cho ruồi nó bu.” ?
Tôi không dám phóng đại tô màu đâu, nhưng chúng ta phải thành thực nhận với nhau rằng gia đình, xóm giềng, thôn ấp, phường xã... của chúng ta vẫn còn những thành viên nặng mê tín lắm. Phải nói là không ít đồng bào của tôi cứ hơi một tí lại tìm đến mấy ông bà thầy, nhất là vào những dịp cuối năm hay đầu Xuân. Tâm lý chung ai cũng băn khoăn muốn biết sang năm mới (hoặc cái hậu vận, cái căn duyên của đời mình) nó ra sao? Nếu tiền vận đã chẳng hanh thông, thì hậu vận có được đại cát? Nếu năm cũ vất vả cực nhọc thì sang năm mới có phất lên được không? Còn nếu năm cũ của cải đã vào như nước, thì sang năm mới nó có vào như lũ được không? Tình, tiền, danh vọng, chức quyền, lấy vợ, gả chồng, sinh con, … nhiều, nhiều lắm! Chẳng phải nói đâu xa, ngay hàng xóm của tôi cũng đã có mấy vị rước thầy về xoay hướng bếp để mong bớt bị hao tài trong năm con Dê này.
Hay nhỉ! Tôi cứ nghĩ con trai tôi vì cưới vợ phải cái ngày đại kỵ như vậy mà chết yểu, thì cái ông Trời mà mấy vị đó vẫn thường nói là “Trời định” (Thiên định, Thiên mệnh) ấy có còn quyền hành gì không? Trời đã định cho con tôi đến ngày nào đó phải chết, thì cái “ngày giờ khắc kỵ tuổi” ấy có thể vật chết con tôi được không? Việc chọn ngày cưới vợ – tức là người định chứ không phải trời định – hay nói khác hơn là con người có thể tự chọn ngày tốt xấu giống như vào những cửa hàng “tự chọn” hiện nay vậy, sao lại cứ đổ thừa là “Trời định”? Mỗi ngày giờ đều có sao chiếu mạng và có thể quyết định luôn vận số con người, thì ông Trời bỏ đi chơi ở đâu nhỉ? Hoặc giả ông Trời đã bị dán “tem vàng” rồi chăng? (y hệt những xe chở khách ở xứ ta, sau khi kiểm định thì dán cho cái tem vàng để … “được lưu thông nhưng không được chở khách” (?!!) và cứ hồn nhiên tuột thắng cán chết người phây phây!)
Chúng ta có thể tin là khi cha mẹ mãn phần gặp phải “giờ trùng”, “giờ linh” (hoặc kỵ tuổi, khắc tinh), thì không được để tang, vì sợ cha (hoặc mẹ) về bắt mình hay con cái mình đi theo, được chăng? Chúng ta có thể tin là “ra ngõ gặp gái” rồi cứ ru rú ở trong nhà suốt ngày cho đỡ xui xẻo không? Trời định hay “sao” định? Trời quyết hay “ngày giờ” quyết? Trời phán hay mấy ông thần gốc đa gốc đề hoặc mấy ông thầy tướng, thầy bói phán? Tại sao có những bạn hàng vì không biết (hay không tin?) bói toán, đầu năm khai trương hàng đúng vào ngày “sát chủ” (ngày mồng 5 Tết), thế mà không những ngày hôm đó, mà còn suốt cả năm, hàng bán đắt như tôm tươi? Rồi còn những “mùng năm, mười bốn, hăm ba, Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn”, thì mấy bác xe đò, xe khách nhịn đói à? Nói chung, trong tất cả các mặt “quan, hôn, tang, tế” hoặc sự giao tiếp hàng ngày, tôi có cảm tưởng như mọi người ngoài miệng vẫn luôn nói đến Trời, nhưng thực chất thì… lại đi sợ mấy ông thần gió thần mưa, thần sấm thần chớp, thần ngày thần đêm, thần gốc đa gốc đề, thần giờ thần tuổi … khủng bố!!!
Thôi, xin trở về với “bổn đạo” (đạo của mình), cho dễ ăn dễ nói, khỏi đụng chạm lung tung. Ngày nào cũng đọc kinh “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”, mà chẳng chịu làm ăn gì, cứ đi tin vào mấy ông tướng số lo xoay bếp, mở cửa nhà hướng này hướng kia, hoặc thu nhỏ cửa lại cho tiền bạc khỏi đội nón ra đi mất tăm, mở rộng cửa ra để ông thần tài mập ú nú khỏi vướng víu khi nhập gia, cứ như thế hoài hoài thì liệu có cháo (chớ đừng nói có cơm) mà húp chăng? Hồng ân Thiên Chúa ban xuống ví như mưa, nếu không chịu sắm chum vại, đào ao hồ, xây bồn bể, thì liệu có nước để mà dùng không? Nằm gốc sung chờ sung rụng trúng miệng mình thì quả là điều không tưởng (ấy là chưa muốn nói – ít nhất trong thái độ “há miệng chờ sung” cũng phải bỏ công di chuyển ra gốc sung, nằm xuống và … há miệng ra; tức là cũng phải hoạt động rồi).
Chúng ta bị hắt hủi vì tình ư? Bị thiếu thốn về vật chất ư? Bị mất việc hay không có việc làm ư? Bị bệnh hoạn tật nguyền ư? Tại sao chúng ta không cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ (“liên lỉ quấy rầy” – Lc 11, 1-13; 18, 1-8) với Thiên Chúa, mà cứ đi hết đền này đến miếu nọ, rờ hết mộ ông này đến mả bà kia? Một điều rất quen thuộc, rất bình thường, nhưng có lẽ ít ai để ý, đó là chúng ta cầu với Thiên Chúa “xin thương xót chúng con”, nhưng với các thánh – kể cả Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là Nữ vương các thánh – chúng ta chỉ cầu “xin cầu cho chúng con” (nghĩa là các ngài chỉ chuyển lời cầu nguyện của chúng ta lên Thiên Chúa mà cầu xin giúp chúng ta thôi). Thế thì tại sao chúng ta lại tin vào sự xoay bếp, vào sự né tránh ngày xấu, ngày kỵ, là chúng ta có thể thoát chết, có thể hết bệnh hoặc mau chóng làm giàu, thăng quan tiến chức vù vù? Mà tại sao lại xin cho giàu có, quyền cao chức trọng? Gương Thánh Gia Thất tại Nazareth chưa đủ để chúng ta chiêm ngắm và suy niệm sao?
Xin được nói thêm một chút về một vấn đề cũng có liên quan xa gần đến mê tín là vấn đề “phép lạ”. Tại sao lại gọi là phép lạ? Vì nó rất hiếm xảy ra và nó xảy ra một cách khác thường. Thế mà trong vài chục năm sau 1975, phép lạ đã xảy ra hà rầm ở Việt Nam, thì có còn là phép lạ nữa hay không? Chỉ cần một vị chưa được Hội Thánh phong Chân Phước cũng đã làm quá nhiều phép lạ. Hồi trước 1975, có tin đồn năm 2.000 sẽ tận thế, sau 1975 lại thấy nhiều phép lạ quá, tôi giật mình nhớ lại Kinh Thánh có nói vào thời gian trước ngày cánh chung của thế giới, sẽ xuất hiện nhiều “tiên tri giả” – thậm chí có cả “Ki-tô giả” (Lc 21, 8 ; Mt 24, 5 ; Mc 14, 6) nữa – mà tiên tri giả thì dư sức làm nhiều phép “lạ thật lạ” đối với những ai tin vào bói toán. Theo thiển kiến, chúng ta chỉ nên tin vào những phép lạ đã được Giáo quyền (Tòa Thánh hoặc ít ra là Giáo Hội địa phương) công nhận, để khỏi bị “trật đường rầy”. Cả nghe, cả tin vào dư luận, nhiều khi cũng kẹt lắm! Không hiểu đã có bao nhiêu người ăn-mì-tôm-mệt-nghỉ chỉ vì tin vào tin đồn tận thế nên vội vàng tích trữ mì ăn liền? Có nhiều người còn vào xin các linh mục tại giáo xứ làm phép mì tôm nữa kia (!!!), đến khi bị các ngài từ chối thì lại … buồn, cứ làm như những gói mì tôm ấy là “chiếc thuyền của ông Nô-ê” vậy! Kể cũng vui! Đã gọi là tận thế mà thế giới này chỉ bị tối có 3 ngày đêm và cứ ăn mì tôm – nhất là mì tôm đã được làm phép – thì sẽ “úm ba la… thoát chết!!!”.
Đầu năm dông dài đôi điều khều nhẹ vào cái sự bói toán, mục đích của tôi không nhắm vào sự phê phán khen chê, chỉ xin một điều là chúng ta đã được là Ki-tô hữu – bạn của Chúa Ki-tô – chúng ta hãy vững Đức Tin, hãy tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng thưởng phạt công minh và đầy lòng bao dung, từ ái. Ngoài ra, chúng ta nên bắt chước Đức Khổng Tử mà “kính quỷ thần nhi viễn chi” ( 敬 鬼 神 而 遠 之 ), tức là “tôn kính quỷ thần từ xa xa”, hoặc nói theo kiểu đã Việt-Nam-hóa (“kính nhi viễn chi”) với nghĩa ẩn dụ là “tránh cho xa” (xc Từ điển Việt-Việt online, hoặc Wikipedia tiếng Việt).
Đã nói đầu năm xem bói, thì cũng xin đề nghị chúng ta cùng xem bói, coi thử năm con Dê (Ất Mùi) này, chúng ta sẽ ra sao? Chắc có lẽ chúng ta vẫn thường nghe các cụ nói về việc trồng cây ăn quả, ai cũng chỉ mong nó sớm có quả. Và khi nó trổ bông đậu quả lần đầu tiên, thì thế nào cũng hớn hở khoe với mọi người: Năm nay cái cây (cam, mận, đào, ổi…) ấy nó đã bắt đầu “bói” rồi đấy. Cái sự bói này tất nhiên không phải bói toán rồi, nhưng nó “bói quả” thì cũng cho biết được những mùa hoa quả tương lai của nó có ngon lành hay không? Vậy thì xin xem những “Cây Lời Chúa” được trồng trong nhà thờ mỗi dịp mừng Xuân là những “cây bói quả” cho chúng ta. Hãy sốt sắng lên “hái lộc” xem Chúa dạy chúng ta những gì. Bảo đảm việc xem bói này (tự xem thôi khỏi cần nhờ thầy xem giùm) sẽ không vô ích, không tốn tiền, và nhất là không … lo sợ vẩn vơ.
Xin kính chúc chư vị thừa sai trong gia đình Giáo xứ sang năm mới Ất Mùi bói được Lời Hằng Sống. Và xin kính gửi đến toàn thể đôi câu đối mừng Xuân :
+ XUÂN về, hãy thực lòng MẾN CHÚA, quyết tâm dẹp bỏ thói mê tín dị đoan, ắt sẽ được cả bốn mùa luôn có TẾT.
+ TẾT đến, xin hết dạ YÊU NGƯỜI, nhất định thực thi việc Tông đồ bác ái, ấy là sống tròn một kiếp chỉ toàn XUÂN.
JM. Lam Thy ĐVD.
--------------------------------
Chú thích (1) : Salman Rushdie sinh năm 1947 tại Bombay (Ấn Độ) dưới tên “Ahmed Salman Rushdie”. Là một nhà văn, nhà thơ có tài, ông nổi tiếng thế giới sau khi sáng tác “Những vần thơ của quỷ Satan” và bị Giáo chủ Ruhollah Khomeini của Iran lên án tử và ra lệnh cho tín đồ đạo Hồi trên toàn thế giới truy nã tới cùng. Tới tháng 9 năm 1998, chính quyền Iran mới hủy bỏ lệnh tử hình ông. Sau khi được phong tước Hiệp sĩ, Salman Rushdie bị giới đạo Hồi phản ứng quyết liệt. Vụ việc này khiến người ta nhớ lại án tử hình mà giáo chủ Hồi giáo Iran dành cho ông khi cuốn tiểu thuyết “Những vần thơ của quỷ Sa-tăng” được xuất bản. Lúc đó, Rushdie nhận được nhiều ý kiến bênh vực nhưng cũng không ít lời chỉ trích. (xc Wikipedia tiếng Việt online)
Nhân nói về ĐẦU NĂM XEM BÓI, xin chia sẻ cảm nghiệm BÓI LỜI CHÚA của bản thân tại Gia đình Giáo xứ :
BÓI LỜI CHÚA
Như thường lệ hằng năm, Giáo xứ chúng tôi năm nay dâng lễ đón Giao thừa vào 21 giờ tối 30 tháng Chạp Giáp Ngọ (18/2/2014). Tâm trạng tôi năm nay cũng có khác mọi năm. Ngoài niềm vui chung hòa với mọi người đón chào Năm Mới Ất Mùi (2015), còn có một nỗi lo lắng vẩn vơ, dù không muốn nhưng nó vẫn lẩn quẩn trong đầu.
Nỗi lo thứ nhất là chẳng hiểu năm nay mình sẽ ra sao? Lẩm nhẩm hát tếu bài “Sẽ ra sao ngày sau?” (trước 1975) cho đỡ buồn: “Cứ xê ra xề ra. Hắt viên bi vào mi?” (“Que sera sera. What will be, will be?”). Âu cũng là một thứ thường tình thế sự của mấy ông già đã qua ngưỡng “thất thập cổ lai hi”, đang trong tình trạng “chân trên lỗ, chân dưới lỗ”. Luôn mạnh miệng nói là “không sợ chết, vả lại sống chết là do ý Chúa định, lo sợ cũng chẳng thoát”, nhưng dễ đã mấy ai giữ được bình thản? Ngay đến Chúa Trời Đất khi mặc lấy thân xác con người cũng còn lo đến mướt cả mồ hôi máu ra nơi vườn Ghết-xê-ma-nê, huống hồ! Vin vào cái cớ đó để biện minh cho tâm trạng mình, những tưởng sẽ được thanh thản, không ngờ lại càng khiến sự lo lắng tăng đô mạnh hơn.
Nỗi lo thứ hai là vấn đề xem “bói quả” nơi những cây Lời Chúa trong thánh đường Giáo xứ. Cũng lại mạnh miệng khuyên anh em cứ thoải mái lên hái lộc, không lo sợ vẩn vơ, nhưng đến phiên mình thì chẳng hiểu tại sao trong dạ vẫn cứ nao nao. Thế đấy! Khuyên người thì được, mà khuyên mình lại không xong. Và rõ ràng đã có một thứ “ngôn hành bất nhất” (lời nói chẳng đi đôi với việc làm). Ôi chao! Đem Lời Chúa ra nhắc khéo anh em dễ dàng bao nhiêu, nhưng đến khi tự nhắc mình thưc hành thì lại thập phần khó khăn bấy nhiêu. Và đó cũng là nỗi lo mình khuyên anh em “Đầu năm coi bói” Lời Chúa, nhưng mình có thực hành và thực hành một cách nghiêm chỉnh cho “ngôn hành thống nhất” hay không?
Vâng, tôi cũng chỉ là một con người với những suy tư, trăn trở người-trăm-phần-trăm mà thôi. Nên nhất quyết phen này sẽ xếp hàng đầu lên hái lộc và cầu xin Chúa ban cho một cái lộc … “trường thọ” cũng trăm-phần-trăm (“bách niên giai lão” đấy!). Thế nhưng – lại “nhưng” mất rồi – đến cuối lễ, mặc dù hăng là thế, nhưng tôi vẫn chỉ chen vào được khoảng giữa hàng người rồng rắn lên hái lộc Xuân. Không dám mở ra ngay, cố trấn tĩnh đợi về nhà “hạ hồi phân giải”.
Quẻ lộc Xuân mà tôi hái được, nguyên văn: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.” (Ga 14, 2). Thôi chết! Chắc chắn năm nay Chúa khều mình mất rồi. Giật mình, nhưng mà lạ lắm, tôi cảm thấy đây không phải là cái giật mình lo lắng, mà hình như lại giật mình vì thấy tâm hồn tự nhiên vui vẻ, phấn khởi vô cùng. Rõ ràng trong tôi đã có tới hai luồng tư duy đối nghịch, một bên là con người mỏng giòn lo sợ cái chết, còn bên kia là Thần Khí soi tỏ quẻ bói đầu năm: Thầy Chí Thánh đã dọn sẵn cho tôi một chỗ trong Nhà Cha, nếu tôi biết “yêu mến Thầy và tuân giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15), và “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy" (Ga 14, 20-21).
Áp dụng quẻ bói Lộc Xuân của bản thân vào bài Tin Mứng trong Thánh lễ Giao thừa (bài “Tám mối Phúc” – Mt 5, 1-10), tôi lại càng thấy phù hợp. Chúa đã dọn sẵn chỗ cho tôi từ 2000 năm trước, vậy thì tại sao tôi lại không biết vâng theo Lời Người, tuân giữ các điều răn dạy của Người? Tám mối phúc chính là tám cái vương miện dành cho tôi, nếu tôi có một đức tin vững mạnh, biết cậy trông vào Thần Khí để có đuợc nhiệt tâm, nhiệt huyết thực thi đức mến với anh em đồng loại. Tắt một lời, nếu tôi sống thực, sống đúng và sống đủ điều răn quan trọng nhất “MẾN CHÚA + YÊU NGƯỜI”, chắc chắn tôi sẽ được vào nơi mà Chúa đã dọn sẵn chỗ cho tôi.
Vâng, Chúa đã dọn sẵn chỗ cho tất cả chúng ta trong Nhà Cha, xin hãy sẵn sàng “yêu mến Thầy và giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15). Điều răn của Thầy chỉ ngắn gọn trong một câu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Điều răn đó đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam lấy làm tiêu chí cho chủ đề tháng 2/2015: “Giáo xứ: Cộng đoàn hiệp thông để truyền giáo” (xc. Gợi ý mục vụ cho “Năm Tân Phúc-Âm-hóa đời sống Giáo xứ và Cộng đoàn”). Mọi sự đã rõ ràng: Truyền giáo (“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” – Mc 16, 15) là sứ vụ căn bản của Giáo hội, của từng cá nhân Ki-tô hữu. Muốn truyền giáo đạt hiệu quả tối đa thì phải sống hiệp thông (giữ vững điều răn của Thầy -nt-), cũng bởi vì “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông.” (Tông huấn Ki-tô hữu Giáo dân “Christi Fideles Laici”, số 32).
Kính chúc cộng đoàn thừa sai Giáo xứ và toàn thể chư vị thừa sai trong Giáo hội một mùa Xuân và một Năm Mới sống hiệp thông và thực thi Lời Chúa như quẻ bói Lộc Xuân đã hái được từ Cây Lời Chúa trong đêm Giao thừa tại gia đình Giáo xứ. Ôi! ”Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Ất Mùi này được bình an mạnh khoẻ, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Tân niên – Tết Nguyên Đán).
JM. Lam Thy ĐVD.
Nguồn: thanhlinh.net
Suy niệm năm sự Thương
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VNRs (24.02.2015) – Sài Gòn – PHI LỘ – Năm 1917, khi hiện ra tại Fátima (Bồ Đào Nha) với ba trẻ chăn chiên – Luxia, Phanxicô và Giaxinta, Đức Mẹ đã nhắn nhủ: “Hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày… Hãy cầu nguyện nhiều và dâng những hy sinh để cầu cho các tội nhân… Ta là Mẹ Mân Côi. Chỉ có Mẹ mới có thể giúp các con. …Cuối cùng, Trái tim Vô nhiễm của Mẹ sẽ thắng!”.
Năm 2017 là dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fátima, chúng ta hãy nhắc nhở nhau về ba lời khuyên của Đức Mẹ: [1] Ăn năn đền tội, [2] Tôn sùng Mẫu Tâm, [3] Siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ đã cho biết rằng mỗi lần đọc một kinh Kính Mừng là dâng cho Mẹ một đóa hồng tươi đẹp, và đọc xong một chuỗi Mân Côi là dâng cho Mẹ một triều thiên hoa hồng.
Trong tâm tình yêu mến Đức Mẹ, đặc biệt là tận hiến cho Đức Mẹ và lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng tìm hiểu Năm Sự Thương. Chuỗi Mân Côi quan trọng vì là “Kinh Thánh tóm gọn”. Khi lần chuỗi Mân Côi với năm sự Thương, chúng ta thấy đời sống hằng ngày của chúng ta thêm sức mạnh để vượt qua mọi nghịch cảnh của cuộc đời, đồng thời thêm nhiều lợi ích qua việc kết hiệp với Đức Kitô và lòng sùng kính Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta nhờ Đức Mẹ để đến với Đức Giêsu Kitô, qua Chúa Con để đến với Chúa Cha.
1. Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu (Mt 26:36-40). Chúng ta cầu xin ơn biết “ăn năn tội nên”. Ăn năn tội “cho nên” là sám hối thật lòng chứ không làm chiếu lệ, cho xong lần, hoặc làm theo “phong trào” (dịp lễ, tết, dịp đặc biệt,…). Tuy nhiên, ăn năn tội có hai cách: [1] Ăn năn tội cách trọn, [2] Ăn năn tội cách chẳng trọn. “Ăn năn tội cách trọn” là chân thành sám hối vì nhận biết Thiên Chúa là Đấng chí thánh mà mình đã xúc phạm đến Ngài, sám hối vì yêu mến Ngài; còn “ăn năn tội cách chẳng trọn” là sám hối vì sợ bị Chúa trừng phạt, sợ mất phần thưởng đời đời.
Ăn năn sám hối rồi thì phải quyết tâm dốc lòng chừa, quyết tâm chống lại mọi cám dỗ. Hãy khó với chính mình, đừng để “cái tôi” vùng lên kẻo sập bẫy của ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ). Trong ba thù, “xác thịt” là đối thủ ở gần chúng ta nhất, vì thế mà cũng nguy hiểm nhất – nghĩa là chúng ta phải cảnh giác với nó nhiều nhất.
Thánh sử Mátthêu cho biết: Bấy giờ Đức Giêsu đi cùng với các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Ngài nói với các môn đệ: “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện”. Rồi Người đưa ông Phêrô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy”. Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:36-39). Thánh sử Luca nói chi tiết: “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22:44).
Khi cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tìm được sức mạnh và niềm tin, và rồi các thiên thần đã tới an ủi Ngài. Chúa Giêsu sẽ an ủi và nâng đỡ chúng ta, đồng thời Ngài cũng ân cần nói với chúng ta: “Tại sao con lại lo lắng trong những lúc khó khăn? Hãy tín thác và vững mạnh trong Thầy. Hãy hướng lên Thiên Chúa của con trong những lúc con gặp khó khăn nhất, và con sẽ chiến thắng”. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời cho Chúa, và cứ để Ngài hành động theo Thánh Ý Ngài, như Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong lúc “căng thẳng” nhất: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:39 và 42).
2. Chúa Giêsu chịu đánh đòn (Mt 27:26). Chúng ta cầu xin ơn biết “hãm mình, chịu khó bằng lòng”. Đó là chấp nhận sự khốn khó với niềm tín thác chứ không than thân trách phận, không tự so sánh hoàn cảnh của mình với hoàn cảnh của người khác.
Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô (Mc 15:1). Các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu nhiều tội, nhưng Ngài không nói gì. Tổng trấn Philatô hỏi ý kiến đám đông, họ la to: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40). Mà Baraba là một tên cướp khét tiếng. Và rồi ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Ngài (Ga 19:1).
Chúa Giêsu im lặng khi được tra xét, Ngài cũng im lặng khi chịu đánh đòn dã man. Và Ngài dịu dàng nói với mỗi chúng ta: “Con ơi, các nhục hình họ áp dụng thật khủng khiếp, nhưng Ta vẫn có thể cam chịu vì yêu thương con, vì thương xót con. Tại sao con không thể yêu mến Ta mà chịu các nỗi đau khổ ở thế gian? Mà các nỗi đau khổ đó có đáng gì so với đau khổ mà Ta đã phải chịu đâu? Hãy chấp nhận mọi đau khổ vì yêu mến Ta, Ta không bỏ con một mình đâu, họ gây đau khổ cho con cũng là gây đau khổ cho Ta thêm nhiều lần nữa. Con oan một thì Ta oan mười. Con đau một thì Ta đau mười. Con hãy cố gắng lên!”.
William Arthur Ward (1921-1994) nói: “Cũng như thung lũng cho ngọn núi chiều cao, đau khổ tạo ý nghĩa cho lạc thú; cũng như mạch nước là nguồn của suối, nghịch cảnh sâu sắc có thể là châu báu”. Thật dễ để dùng ống tay áo lau khô những giọt lệ rơi, nhưng phải biết cách để xóa dấu nước mắt khỏi trái tim mình. Những con người đẹp nhất là những người từng bị đánh bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được đường ra khỏi vực sâu. Họ có lòng can đảm, sự nhạy cảm và sự thấu hiểu đối với cuộc đời. Chính cuộc đời đã làm cho họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng và quan tâm yêu thương sâu sắc. Người đẹp không thể tự nhiên mà có. Đau khổ có vẻ đẹp riêng của nó, chẳng vậy mà Chúa Giêsu luôn động viên chúng ta chịu đau khổ – tinh thần và thể lý.
3. Chúa Giêsu chịu đội mão gai (Mt 27:27-31). Chúng ta cầu xin ơn biết “chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng”. Cũng như chịu đau khổ, chúng ta phải biết “nuốt nó vào trong”. Khi bị người khác sỉ nhục, “cái tôi” sẽ đòi nổi dậy chống lại đối phương. Người xấu có thể tìm cách lăng nhục người khác bằng cách gieo oan giáng họa, bịa đặt, vu khống. Bị sỉ nhục oan mà có thể dằn lòng thì tốt, nhưng nếu bị sỉ nhục vì đáng bị như vậy thì không oan. Kinh Thánh nói: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục, khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường” (Cn 11:2). Coi chừng “cái tôi” là cảnh giác với tính kiêu ngạo – đầu mối các thứ xấu xa khác.
Thánh sử Mátthêu cho biết: Bấy giờ, lính của tổng trấn đem Đức Giêsu vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người. Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!”. Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá (Mt 27:27-31).
Hãy nghĩ về sự sỉ nhục, sự xúc phạm, và nỗi đau khổ mà Chúa Giêsu đã chịu. Họ tước đoạt nhân phẩm của Ngài, chà đạp nhân vị của Ngài, coi Ngài như một tội nhân ghê gớm nhất. Ngài nhìn và nói với chúng ta: “Tại sao con thất vọng khi gặp đau khổ? Đó không là cách con yêu mến Ta sao? Con hãy suy về nỗi thống khổ của Ta và tìm kiếm sự phong phú kỳ diệu trong nỗi đau khổ đó”. Chúng ta hãy nghĩ về Chúa Giêsu chịu đau khổ vì chúng ta, và hãy cầu xin Ngài ban thêm sức mạnh để chúng ta khả dĩ chấp nhận mọi điều sỉ nhục ở đời này – cả tinh thần lẫn thể lý.
Văn sĩ Auguste Villier de l’Isle Adam (1838-1889, Pháp quốc) nhận xét: “Người nhục mạ bạn, họ chỉ nhục mạ ý tưởng của họ nghĩ về bạn, tức là họ nhục mạ chính họ!”. Như vậy, khi mình bị nhục mạ mà lại không bị, nếu mình nhịn nhục thì họ càng tức, vì sự im lặng của chúng ta như cục than hồng đặt vào họ. Thật là hay, thế thì rất đáng để thực hành noi gương Đức Giêsu Kitô: Nhịn nhục.
4. Chúa Giêsu vác Thánh Giá (Mt 27:27-32). Chúng ta cầu xin ơn vui lòng “vác Thánh Giá theo chân Chúa”. Chúa Giêsu nhiều lần bảo chúng ta phải từ bỏ mình, vì có thể từ bỏ chính mình thì mới khả dĩ theo Ngài, mà theo Ngài thì không được sung sướng, không an nhàn, không thảnh thơi, mà ngược lại, theo Ngài thì phải vác thập giá, nghĩa là luôn phải chịu thiệt thòi, luôn gặp khốn khó, xui tận mạng. Chắc chắn ai theo Ngài thì phải can đảm lắm!
Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu. Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: ‘Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm!’. Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: ‘Đổ xuống chúng tôi đi!’, và với gò nống: ‘Phủ lấp chúng tôi đi!’. Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?”. Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người (Lc 23:26-32). Chúa Giêsu cũng đang nói với chúng ta những lời như vậy: “Con hãy thật lòng than khóc vì tội con chứ Ta không cần con thương khóc gì Ta đâu!”.
Mặc dù Chúa Giêsu chịu đau khổ vì chúng ta, nhưng Ngài vẫn chấp nhận gánh nặng vì thương xót chúng ta, tình yêu của Ngài hoàn toàn dành cho chúng ta vô điều kiện. Thập Giá gồm hai thanh gỗ ghép lại, nặng cả trăm ký, kéo lê đi thì sức nặng cũng còn khoảng 80 kg. Không phải dễ vác đi lên đồi cao trên con đường gồ ghề.
Trên đường từ dinh Philatô tới Đồi Sọ, Đức Maria chứng kiến nỗi đau khổ và nhục nhã mà Con Trai phải chịu. Chúng ta có thể tưởng tượng đôi mắt và khuôn mặt của Đức Mẹ thế nào? Chắc chắn Mẹ đau đớn lắm. Chúng ta hãy cầu xin Chúa thêm sức cho chúng ta đủ sức vác thập giá đời mình đến cuối đường trần, và cầu xin Đức Mẹ nâng đỡ chúng ta trên con đường thập giá trần thế này.
5. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào Thánh Giá (Mt 27:33-35; Ga 19:31-37; Lc 23:33-46). Chúng ta cầu xin ơn biết “đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa”. Tính xác thịt chính là “cái tôi”. Nó là một trong ba kẻ thù nguy hiểm nhất (xác thịt, thế gian, ma quỷ). Nhưng “tính xác thịt” nguy hiểm hơn, vì nó là chính chúng ta. Kẻ thù này ở gần nhất và dễ thấy nhất, nhưng lại là kẻ thù khó chiến thắng nhất.
Nó chỉ chết thật khi chúng ta dám “đóng đinh” nó vào Thánh Giá của Đức Giêsu Kitô. Ghim chặt được nó rồi cũng chưa an tâm, phải đợi cho nó chết thật thì chúng ta mới có thể thanh thản bước theo Thầy Chí Thánh Giêsu. Nó nhỏ mà to, bé mà sống dai. Nó chẳng là gì nhưng nó có thể làm sụp đổ mọi lâu đài mà chính chúng ta dày công xây dựng cả đời. Ghê sợ thật!
Thánh sử Gioan tường thuật: Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu: “Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19:25-27).
Chúa Giêsu nhận chúng ta là con cái của Đức Mẹ, đồng thời Ngài cũng muốn chúng ta gần gũi và thân mật với Đức Mẹ. Ngài muốn chúng ta với tư cách là con cái, chúng ta hãy nắm chặt lấy tay Đức Mẹ. Ngài cũng muốn chúng ta hãy trao phó cuộc đời mình cho Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà chúng ta đến với Con Yêu Dấu của Mẹ là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Đức Mẹ là Đấng Vô Nhiễm và khiêm nhường, chúng ta cầu xin Mẹ giúp chúng ta chiến thắng tội lỗi nhờ ơn Vô Nhiễm của Mẹ, và cầu xin Mẹ giúp chúng ta triệt tiêu thói kiêu ngạo nhờ đức khiêm nhường của Mẹ. Được như vậy thì chúng ta chắc chắn được gần kề bên Chúa Giêsu, thanh thản nghỉ ngơi trong Thánh Tâm Ngài.
Suy niệm sự thương khó của Chúa Giêsu nhưng lòng chúng ta lại cảm thấy nhẹ nhàng chứ không trĩu nặng. Quả thật, đời sống Kitô hữu thực sự là chuỗi Mầu Nhiệm Thương kéo dài, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này…
TRẦM THIÊN THU
Nguồn: DCCT
Mùa Xuân về, Mùa Chay đến
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (23.02.2015) – Sài Gòn – Bốn mùa Chúa đổ Hồng Ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi (Tv 65:12)
Mùa Xuân là mùa đẹp nhất trong bốn mùa, cả về màu sắc và thời tiết. Mùa Xuân không nóng bức và hanh khô như mùa Hạ, không se lạnh và bâng khuâng như mùa Thu, không băng giá và buồn bã như mùa Đông. Trái ngược với các mùa khác, mùa Xuân ấm áp, màu sắc tươi đẹp, ngàn hoa khoe sắc, cây cối đâm chồi nảy lộc, mọi vật sinh động, đất trời bừng sáng, mùa chim chóc làm tổ, mùa đôi lứa xây tổ uyên ương,… Do đó, mùa Xuân còn được mệnh danh là Mùa Yêu Thương, Mùa Đoàn Tụ, Mùa Hạnh Phúc.
Với người Công giáo, mùa Xuân còn là mùa Chay. Thế gian có BỐN mùa, Kitô hữu chúng ta có CHÍN mùa – bốn mùa của đất trời và năm mùa phụng vụ (mùa Chay, mùa Phục Sinh, mùa Vọng, mùa Giáng Sinh, và mùa Thường Niên). Độc đáo quá!
Ai cũng mong chờ Mùa Xuân, và ai cũng chộn rộn vui mừng khi đón Xuân về, lúc chào Tết đến. Với tâm tình phấn khởi đó, NS Minh Kỳ (*) đã sáng tác nhạc phẩm “Xuân Đã Về” rất phổ biến từ hơn nửa thế kỷ qua. Ca khúc này được viết ở nhịp 2/4, âm thể Ré Trưởng (D), với tiết tấu đơn giản nhưng vẫn tạo được nét độc đáo.
NS Minh Kỳ chứng tỏ Mùa Xuân thực sự đã về tràn ngập trên quê hương Việt Nam: “Xuân đã về, Xuân đã về, kìa bao ánh Xuân về tràn lan mênh mông”. Không chỉ đơn giản vậy, ông dẫn chứng thêm rất cụ thể: “Trên cánh đồng, chim hót mừng, đang thướt tha từng đàn tung bay vui say”.
Và còn nữa, ông so sánh ngàn hoa nở tươi thắm như những đôi môi cười rạng rỡ: “Xuân đã về, Xuân đã về, ngàn hoa hé môi cười vui đón gió mới”. Nghệ sĩ có khác, nhìn thấy cái mà người ta không thấy, cách so sánh rất hay và tượng hình. Đúng là Xuân đã về thật, thế nên chúng ta cũng hãy mau ca vang để mừng Xuân mới: “Xuân đã về, Xuân đã về, ta hát vang lên câu ca mừng chào Xuân”.
Xuân về có khác. Tất cả như được thay da đổi thịt, người và vật đều tươi mới: “Nhìn trời bao la xinh tươi bao cô gái đẹp cười trông xinh như hoa, lập lòe tà áo xanh xanh chen bông tím vàng đẹp hơn tiên nga, và bầy em bé rúc rích, khúc khích tiếng cười rủ nhau vui ca, từng đàn chim non xinh xinh tung bay khắp trời cùng ríu rít ca”. Xuân tuyệt vời thật, Tết vui ơi là vui! Thảo nào người ta vẫn ví von: “Vui như Tết”.
Ngày xưa, người ta không chỉ ca hát để mừng Xuân mà còn có tiếng pháo vang rền suốt mấy ngày Tết, hầu như nhà nào cũng đốt pháo, chí ít cũng là một bánh pháo (tràng pháo ngắn khoảng 40 cm) để mừng Xuân: “Một bài ca đón chào mừng hòa theo tiếng pháo đì đùng, mừng Xuân nay đã về rồi và Đông đã vừa qua”. Tiếng pháo khiến lòng người rạo rực, có buồn thế nào cũng cảm thấy vui lây. Mừng lắm, nam phụ lão ấu đều vui hớn hở, chỗ nào cũng nghe người ta nói nói cười cười râm ran như pháo nổ: “Ngập trời bao tiếng chào mừng, nàng Xuân duyên dáng về rồi, về gieo bao thắm tươi vui, lòng ta thấy yêu đời”. Nhà giàu còn đốt pháo khi hết Tết, gọi là “đốt tết”.
Mùa Xuân khiến người ta vui hơn, tin tưởng hơn, yêu đời hơn, thông cảm cho nhau hơn, thương mến nhau hơn. Đôi khi Xuân có vẻ đến sớm, nhưng không bao giờ đến muộn. Xuân về rồi, Tết đến rồi, hãy vui ca và chúc mừng nhau những điều tốt đẹp nhất, người ơi!
Xuân đã về, và Chúa Xuân đã đến qua việc Ngài nhập thế và nhập thể làm người để cứu độ nhân loại, khởi đầu từ Belem – và sẽ dẫn tới Gôngôtha. Mùa Xuân vừa về thì mùa Chay cũng chợt đến. Đón Xuân, ăn Tết, vui mừng tưng bừng, nhưng người Công giáo vẫn không được quên việc sám hối để khả dĩ hưởng nhờ Lòng Chúa Thương Xót mà được cứu độ, được trường sinh bất tử, được làm công dân Nước Trời, và mãi mãi được hưởng Mùa Xuân Vĩnh Cửu là Thiên Đàng. Mùa Chay đến có vẻ u buồn trong sắc Tím, nhưng vẫn tràn trề niềm hy vọng: Hy vọng được hưởng Ơn Cứu Độ.
Chúng ta cùng nhau “hát dâng Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng” (Cl 3:16) để tôn vinh Thiên Chúa, và cũng là để mừng Xuân vui Tết bằng đức tin. Nhưng chúng ta vẫn phải tin cậy vào Ngài, vì Đức Kitô đã nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Dù có tội lỗi đến đâu cũng đừng quên điều quan trọng này: “Hãy tin vào Thiên Chúa!” (Mc 11:22; Ga 14:1).
Thật vậy, đừng tự mãn vì mình là “chiên ngoan”, nhưng cũng đừng mặc cảm tội lỗi mà tuyệt vọng, vì “dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Máu và Nước của Chúa Giêsu sẽ tẩy sạch tất cả, chỉ với điều kiện duy nhất: Sám hối chân thành.
Chúc Mừng Năm Mới an khang, thịnh vượng, hạnh phúc, tấn tài, tấn lộc, và chúc Mùa Chay thánh đức trong niềm tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
TRẦM THIÊN THU
______________________________
(*) Minh Kỳ (1930-1975) tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ, gốc Huế, sinh tại Nha Trang, Khánh Hòa. Theo gia phả hoàng tộc triều Nguyễn, Minh Kỳ là cháu 5 đời của Vua Minh Mạng. Năm 1959, ông vào định cư tại Saigon. Tại đây ông cùng với Anh Bằng, Lê Dinh lập nên nhóm Lê-Minh-Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng). Thời đó ông là đại uý cảnh sát, sau 30-4-1975, ông bị bắt đi cải tạo và bị chết oan vì lựu đạn vào khuya ngày 31-8-1975.
Ông có một số ca khúc tiêu biểu: Bao Giờ Em Lấy Chồng (viết chung với NS Hoài Linh), Biệt Động Quân, Biệt Kinh Kỳ (viết chung với NS Hoài Linh), Chuyến Tàu Hoàng Hôn (viết chung với NS Hoài Linh), Chuyện Hai Người (viết chung với NS Hoài Linh), Chỉ Có Một Người, Đừng Quên Nhau (viết chung với NS Mạnh Phát), Mưa Trên Phố Huế (phổ thơ Tôn Nữ Thụy Khương), Mưa Buồn (viết chung với NS Hoài Linh), Mây Trắng Biên Thùy (viết chung với NS Y Vân), Năm Cụm Núi Quê Hương, Người Em Vỹ Dạ, Lá Rụng Hoàng Hôn, Lời Mẹ Tôi, Sầu Tím Thiệp Hồng (viết chung với NS Hoài Linh), Từ Giã Kinh Kỳ, Thương Về Xứ Huế,…
Nguồn: DCCT
Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca
- Viết bởi Trần Ngọc Mười Hai
Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 2 mùa Chay năm B 29/02/2015
“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca”,
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc,
Bằng lời dịu dàng anh đã giết em, giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa, nhắm mắt với nỗi đau, ngọt lịm dạ.”
(Nhạc: Killing Me Softly – Lời Việt: Lê Hựu Hà – Nỗi Đau Dịu Dàng)
(Rm 5: 1-2)
Không hiểu sao, khi nghe lại nhạc-bản này vào đêm nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 13/11/2014, bần đạo cứ như đi vào một thứ “mê-hồn-trận” của âm-nhạc, có lời dịch rất thi-ca kiểu “liêu-trai”, rất trữ-tình.
Không hiểu sao, mỗi lần đầm mình vào giòng chảy đầy nhạc “trẻ” có những tâm-tình hay như thế, bần đạo đây lại cảm-nghiệm một thực-tại nhiều hy-vọng thấm dần vào tâm can, hơn bao giờ.
Quả thật, cũng dễ hiểu, là: khi diễn-tả tâm-tưởng của người trẻ các nơi, người diễn thường đưa ra sức sống nào đó nghe như “hát tình ca”, tựa hồ ca-từ bài hát trên, còn nói thêm:
“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca.
Ngỡ như đất trời giao hòa.
Và tai nghe thấy một rừng âm vang.
khúc hát dâng đời ta.
Cỏ cây muôn loại điều hân hoan.
Nhưng riêng em tưởng như anh.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Riêng phần bần đạo, mỗi lần diễn-dịch tâm-tư và ý-tưởng của ai đó, thường thì bần đạo dùng ngòi bút trẻ để diễn-tả tâm tình mình; dù đó chỉ là tâm-can/tình-tự để diễn-tả một hiểu-biết về thần-học/tu-đức, nữa.
Thế nhưng, nhiều lúc diễn và dịch quá nhiều về thần-học lẫn tu-đức, bần đạo thấy mình ra như người đi trên mây trời lồng lộng, thiếu thiết thực. Đôi lúc, lại phải nhờ vào thi-ca hoặc âm-nhạc để có thêm hứng mà suy tiếp.
Nghĩ thế rồi, bần đạo lại đã thấy cứ hiên ngang mà về với lời ca trên, mà hát tiếp những giòng chảy như sau:
“Rồi khi cơn sốt đun tình tôi.
Bỗng theo cõi nhạc xa vời.
Và anh lên tiếng gọi hồn em.
đang khóc bên con vực sâu.
Hãy mau lên đường về uyên uyến.
Khi nghe thân xác nài van.
Giờ đây ai hát lên tình ca.
Khiến tôi thấy minh xa lạ.
Lời ca âu yếm vỗ về em.
Nhưng vẫn thấy xa thật xa.
Thiếu anh khúc nhạc thành vô duyên.
Tim em vẫn còn nghe.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Phải thú thật thêm rằng thì là: viết “Chuyện Phiếm” lai rai/dài dài như bần đạo vẫn làm, đôi lúc cũng thấy mình trẻ ra rất nhiều tuổi. Một thứ tuổi trẻ mà chỉ những ai thường xuyên tiếp xúc với lớp trẻ/bé mới thông cảm. Có tâm-hồn trẻ, tức: có tâm-trạng như những người vẫn kể về cảm-nghiệm của riêng mình ở nhiều nơi, trên báo chí, trang mạng hay cuộc đời, rất thực-tế.
Trên thực tế, không chỉ mỗi người nghệ-sĩ trẻ tên Lê Hựu Hà mới viết nên tâm-tình của người mình cũng rất trẻ; mà, cả đến những người không-còn-trẻ như tác-giả nọ từng kể lại thứ tâm-tình-lạ-vẫn-rất-trẻ bằng trang viết như sau:
“Ông cụ quay sang nhìn người bạn già đi bên cạnh mình, ông mỉm cười:
-Bà này, mỗi buổi sáng, dậy sớm, đi tập thể dục, nghe chim hót, ngắm mặt trời lên, có bà bên cạnh, với tôi cứ như là đã chờ đợi từ lâu lắm rồi.
-Thì ông công tác xa, lại được giữ lại làm cố vấn, tôi ở xa ông cũng quen rồi. Có khi bây giờ ông về, tôi lại chưa quen ấy chứ!
-Cái bà này, tôi kể cả là ở xa, nhưng khi ở bên bà, tôi có thấy lạ gì đâu? Tôi vẫn thấy lòng mình thanh thản lắm.
-Thì giờ già rồi, chỉ mong thanh thản thôi.
Ngày nào họ cũng cùng nhau đi như thế. Dưới con mắt ngưỡng mộ của cả người trẻ và người già. Người trẻ nhìn ông bà mà ước: Ước gì già mình cũng được như thế. Người già thì ghen tỵ vì có người còn có người bạn đồng hành, có người thì không. Nhưng nhiều khi già rồi, lại trái tính, trái nết, mấy ai mà được tình cảm như hai ông bà. Tình già vẫn còn vương, nhất là cụ ông, cũng xấp xỉ bẩy mươi tuổi nhưng vẫn phong độ nhanh nhẹn lắm. Đúng là quân nhân có khác. Được rèn luyện qua gian khổ nên mới được như vậy. Còn cụ bà có vẻ yếu đuối hơn, lưng bà cũng đã không còn thẳng nữa, nhưng khuôn mặt phúc hậu khi nào cũng lấp lánh ánh cười.
Ông kéo ghế cho bà ngồi xuống bên cạnh, còn mình thì ngồi chiếc ghế gỗ nhỏ, ông chăm chú nhìn nồi cháo đang sôi, lát lại lấy cái giá ngoáy cho cháo đỡ bị dính dưới đáy nồi. Bà bảo để bà làm cho, nhưng ông nhất định không chịu, ông cười:
-Bao nhiêu năm, chỉ toàn bà nấu cháo cho các con tôi, cho bố mẹ tôi, bây giờ, tôi có nấu cho bà ăn tới hết đời cũng chưa thỏa lòng mà!
Bà nhìn ông, đôi mắt nâu đã nhạt màu vì thời gian ngân ngấn nước, mấy sợi tóc bạc trắng của bà phất phơ trước mặt. Bà vén mấy sợ tóc cho gọn rồi nhìn ông:
-Thứ tôi nuối tiếc duy nhất là khi còn trẻ chúng ta không được sống gần nhau. Ông là một người đàn ông dịu dàng. Nhưng bây giờ, ông về rồi. Với tôi thế là đủ!
Ông nhìn bà, ánh mắt lấp lánh niềm vui, và ngập tràn yêu mến. Đúng là khi già, người ta mới cần người làm bầu làm bạn, có người sớm tối bên nhau, câu chuyện câu trò thì cùng nhau ăn bát cháo trắng cũng ấm lòng biết mấy.
Bà nhìn giàn mướp trổ đầy hoa vàng, những con ong mật từ đâu kéo về bay vo vo trước hiên nhà. Ánh nắng buổi sáng chưa gắt, chút gió mát từ ngoài sống thổi lại khiến không khí thoáng dịu vô cùng. Bà nhắc ông:
-Thằng cả nó bảo hôm nay nó cũng nghỉ phép đưa cả vợ con nó về đấy. Ông tính mua cái gì về làm cơm bây giờ?
-Ôi dào, bà kệ chúng nó, nó về khắc biết mua gì mà ăn. Bà chăm nó mấy chục năm, phải để nó chăm lại bà chứ?
-Nhưng mà chúng nó về đây, biết cái gì mà mua.
Ông nhìn bà, ánh mắt cười vẫn không đổi.
-Thì mua được cái gì, ăn cái đó!
Bà cũng cười nhìn ông:
-Vậy thì nghe ông! Rồi như sực nhớ ra điều gì, bà bảo ông:
-Quên mất, nhà mình có gà đấy, việc gì phải mua cái gì nữa. Chuyện đó cứ để đấy, tôi với bà ăn cháo đã.
Ông bưng hai bát cháo để lên chiếc bàn nhỏ ở góc sân, hai ông bà ngồi ăn cháo và nói chuyện gì đó rất vui, khiến bà cứ nhìn ông rồi tủm tỉm cười hoài. Những nếp nhăn trên mặt cứ xô vào rồi lai dãn ra, như dấu bước của thời gian, cứ im lìm, lặng lẽ nhưng không thể xóa nhòa.
Khi còn trẻ, hai ông bà cùng mệnh kim, nên người ta nói, ở với nhau rất hay va chạm. Bà là người phụ nữ thông minh, lại chịu thương chịu khó, nhưng cũng khá bướng bỉnh, nên khi nào ông cũng là người nhường nhịn bà. Ông cười:
-Thua ai mới sợ, chứ thua vợ là đương nhiên! Này nhé: Tôi làm sao mà đẻ được cho bà được hai đứa con vừa ngoan ngoãn như bà, làm sao mà một lúc chăm cả bốn đứa trẻ (ý ông nói là cả bố mẹ chồng, các cụ xưa chả có câu: Một già một trẻ bằng nhau là gì)…
Ngoài ra, bà biết sửa điện, biết tháo lắp các đồ điện trong nhà bị hỏng, bà biết nấu những món ăn ngon mà chỉ về nhà ông mới được ăn. Nói chung là vì bà vĩ đại như thế, nên ông thua là cái chắc. Có lẽ suốt cuộc đời bà, chưa khi nào phải cãi nhau với ông. Nói ra thì chẳng ai có thể tin. Bà biết vì ông lúc nào cũng thương và trọng bà.
Trong thâm tâm bà cũng vậy, khi còn trẻ, lấy ông vì yêu ông, và cho tới tận bây giờ, tình cảm đó vẫn không thay đổi. Ngày ấy trẻ, những lần ông về buổi tối khi nào hai ông bà cũng nằm tâm sự tới khuya, có lần bà ôm ông nói:
-Sau này chúng mình già, anh không được chết trước em, em không muốn mình sống cô đơn một mình. Em đã sống cô đơn một mình nhiều rồi, nay mai anh về, em không muốn mình lại phải một lần nữa sống như thế. Vì vậy, nhất định anh phải sống lâu hơn em đấy! Em sẽ rất sợ nếu một sáng nào đó em tỉnh dậy và chỉ còn lại một mình. Em sẽ khóc đến hết nước mắt! Em không muốn sống cô đơn không có anh lần hai. Anh nhớ đấy nha!
Từ đó, bà thấy ông ít uống rượu hơn, nghe nói, ông còn bỏ cả thuốc lá mặc dù ông nghiện nặng. Không phải vì ông muốn sống lâu hơn bà, mà vì ông muốn, khi về già, ông phải khỏe mạnh hơn bà để có thể chăm sóc bà, và cũng có thể, để sống bên bà tới cùng thì thôi. Ông cũng sợ phải sống một mình, nhưng ông sợ bà phải sống một mình hơn. Nhưng nỗi niềm ấy, ông không nói cho bà biết. Đàn ông thường là thế. Yêu ai yêu hơn cả tính mạng của mình, nhưng vẫn cứ lặng lẽ mình mình biết, mình mình hay.
Từ ngày có ông về nhà, bà vui vẻ lên nhiều, sức khỏe cũng tốt hơn, bệnh huyết áp thấp của bà cũng đỡ hơn nhiều. Sáng nào ông cũng dậy sớm hơn, đánh thức bà và họ lại nắm tay nhau đi tập thể dục. Vậy mà đột nhiên mấy hôm nay, khi nào bà tỉnh dậy cũng chỉ thấy có một mình trên giường, ông thức từ khi nào? Ông đã đi tập thể dục một mình sao? Bà thầm nghĩ: Cái ông này, làm gì cũng được vài bữa, Thật ra cái vài bữa bà nói ấy cũng đã hơn ba năm rồi.
Bà dậy, mặc thêm cái áo len, trời sang thu nên buổi sáng hơi lạnh. Bà thấy ông từ đằng xa, tay xách tùi đồ ăn sáng, khuôn mặt có vẻ đăm chiêu. Nhưng vừa nhìn thấy bà, ông lại mỉm cười ngay được. Bà nhìn ông, người đàn ông cao lớn, đẹp trai ngày nào, rồi cũng thành một ông già, thời gian trôi cứ ngỡ mới là hôm qua, nhưng thời gian cũng thật khắc nghiệt với con người và với cả tình yêu. Thấy vẻ mặt suy tư của bà, ông cười:
-Bà lại đang nghĩ gì thế?
-Tôi chỉ nghĩ không biết ông đi đâu? Ông cười:
-Tôi đi mua bánh khúc của bà Dần đấy. Món này bà thích nhất mà. Gớm, bà bà ấy làm bánh khúc cỡ cũng ba bốn chục năm rồi ấy nhỉ?
-Bánh khúc của bà ấy, thì chẳng ai làm ngon được bằng ông ạ. Từ ngày hai đứa con nhà mình mới hai ba tuổi, đã ăn bánh của bà ấy rồi. Mà ăn bánh khúc của bà ấy, thì đi ăn ở đâu cũng không thấy ngon nữa. Nhưng vừa rồi bà ấy bảo, bà ấy bán nốt tuần này thôi. Bà ấy thấy mệt rồi.
Bà thở dài, nhìn ông:
-Thì chúng ta già cả rồi mà. Ông nhìn xem, cây mít này tôi trồng khi thằng Hải mới được mấy tuổi, vậy mà năm nay nó cũng đã cằn cỗi rồi! Có ra được quả nào nữa đâu!
-Cứ để nó đấy làm kỉ niệm bà ạ, nhưng sao dạo này không thấy ông dậy đánh thức tôi dậy cùng thế? Ông nhìn xa xa, rồi quay lại nhìn bà, ánh mắt vẫn âu yếm như thế:
-Tôi thấy bà ngủ ngon quá, nên không đánh thức bà dậy làm gì.
-Lần sau, ông cứ đánh thức tôi dậy đi cùng ông!
Ông biết tâm tình của bà. Ông đưa tay nắm lấy tay bà bảo:
-Thôi tôi với bà về ăn bánh khúc thôi!
Nhưng tất cả những buổi sáng sau nữa, ông vẫn không đánh thức bà. Khi nào tỉnh dậy trên giường, bà cũng chỉ thấy có một mình. Lúc đầu bà có chút hốt hoảng, nhưng sau vài buổi sáng, bà biết, ông không đi đâu xa, ông chỉ đang ngồi ở ngoài sân hoặc lại đi lại mua đồ ăn sáng, nên bà vẫn thấy an lòng. Bà chỉ thấy thắc mắc, dạo này nhiều lúc vắng bà, là ông lại trâm ngâm đến lạ. Có lần bà về rồi, nhưng ông không biết, khuôn mặt ông nặng trĩu suy tư. Chợt bà thấy lòng mình có chút bất an.
Ông đang ngồi nấu cháo bên chiếc bếp than nhỏ quen thuộc ở góc sân. Nhưng nối cháo đã trào cả ra ngoài mà ông không biết. Bà cầm chiếc áo khoác lên người ông rồi mở vung nồi cháo cho đỡ trào. Giọng bà vẫn dịu dàng như mọi khi:
-Buổi sáng cuối thu rồi, trời sắp chuyển lạnh đấy ông ạ. Mà dạo này, tôi thấy ông gầy đi!
Ông đưa mắt nhìn bà, miệng nở một nụ cười:
-Bà yên tâm, tôi ốm sao được! Nhưng dạo này, tôi thấy ông cứ suy nghĩ đi đâu ấy!
-Tôi thì nghĩ đi đâu được ngoài bà!
Mấy tháng sau, người ta không còn thấy hình ảnh hai vợ chồng già dắt tay nhau đi dạo nữa. Mà chỉ thấy có một mình bà cụ đi vào mỗi buổi sáng. Khuôn mặt bà không còn rạng rỡ như ngày nào. Đôi mắt dường như mờ đục hơn, như được phủ mờ bởi một lớp sương mỏng. Bà đi quanh một vòng rồi lặng lẽ về nhà, nấu cháo, múc hai bát và đặt trên bàn. Bà ăn cháo và ánh mắt bà lại lấp lánh ánh cười.
Một năm sau, đúng ngày ông mất, bà cũng ra đi. Khi con gái dọn dẹp đồ đạc của cha mẹ mới phát hiện ra lá thư của ông viết cho bà, nét chữ run run nhòe ướt, không biết vì nước mắt của ông khi viết hay của bà mỗi khi đọc, cô chỉ thấy những nếp gấp gần như bị rách ra:
“Mình à!
“Tôi muốn được sống lâu hơn mình để có thể nấu cháo cho mình ăn mỗi sáng, đánh thức mình dậy mỗi sáng và để mình không phải sống cô đơn một mình những năm tuổi già. Khi trẻ, tôi đã để mình sống cô đơn như vậy. Tôi muốn bù đắp lại cho mình.
Những ngày tháng này, là những tháng ngày hạnh phúc nhất đời tôi. Khi được sống bên mình, được chăm sóc cho mình để bù đắp những tháng ngày tôi không làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Nhưng ông trời không chiều lòng người rồi.
“Tôi biết, nếu đột ngột một sáng nào đó mình tỉnh dậy và không còn thấy tôi ở bên cạnh nữa, chắc hẳn mình sẽ không chịu nổi đâu. Nên khi tôi biết tôi bị ung thư giai đoạn cuối, tôi biết tôi sẽ chẳng sống được lâu nữa. Tôi đã hết sức lo lắng bởi tôi lại thất hứa với mình rồi. Sáng nào tôi cũng tỉnh giấc trước mình và để mình lại đó. Tôi muốn mình quen cảm giác ấy đi. Để sau này khi tôi đi rồi, mình không quá hụt hẫng. Không biết mình đã quen chưa?Nhưng dù sao, khi thức dậy một sáng nào đó, không có tôi bên cạnh, mình cũng đừng khóc đấy!
“Khi không có tôi bên cạnh, mình vẫn phải chăm sóc bản thân và sống vui vẻ. Nếu mình cảm thấy cô đơn quá, thì có thể về ở với thằng cả. Vợ chồng nó sẽ thay tôi chăm sóc mình.
Tôi vẫn chưa nói câu này với mình: Tôi yêu mình!”
Bức thư trên tay cô gái chữ đã nhòe gần như không đọc được nữa. Lau nước mắt, cô gái lặng lẽ đặt bức thư của bố dưới bức ảnh của mẹ trên bàn thờ. Dù không thể cùng đi với ông, nhưng cuối cùng bà cũng đã thỏa nguyện được về gần ông. Cô gái thấy tự hào về bản thân mình, vì cô được sinh ra từ chính tình yêu sâu đậm, đẹp đẽ của cha mẹ mình. Và cô tin, ở một nơi nào đó, chắc hẳn, bố cô lại sáng sáng đánh thức mẹ dậy, hai người cùng nhau thong dong đi tập thể dục mỗi sáng, trong ánh mắt mờ đục vì thời gian của họ, hạnh phúc vẫn cứ hiện lên rạng ngời hơn cả ánh bình minh!” (Tuệ Minh - Ohay TV - Sưu tầm)
Viết về tâm-tình của người trẻ nơi truyện kể ở đâu đó chỉ cốt tạo niềm vui hy-vọng cho mọi người, cả người già và người trẻ nữa. Viết về tâm-tình cần phải trẻ, còn được thấy nhiều đoạn viết ngay cả văn-bản của nhà Đạo mình để tạo cho người đi Đạo có hy-vọng mà sống. Sống hiên ngang, vì có đấng bậc hiển thánh trên đời vẫn từng bảo:
“Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta
vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay;
chúng ta lại còn tự hào về niềm hy-vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”
(Rm 5: 1-2)
Viết về tâm-tình trẻ, còn thấy viết trên rất nhiều trang giấy, cả những trang báo đạo hoặc báo đời có những sự-kiện về lối viết và lối trình-bày tâm-tư rất trẻ của người mình. Viết về những tâm-tình trẻ cần phải có vào mùa Chay-tịnh, còn là lối viết của vị Giáo Hoàng có tâm-hồn trẻ là Đức Phanxicô, hôm vừa rồi như sau:
“Anh Chị Em thân mến,
Mùa Chay là thời điểm canh tân cho toàn thể Giáo Hội, cho mỗi một cộng đoàn và hết mọi tín hữu. Trước hết nó là "thời điểm của ân sủng" (2Corinto 6:2). Thiên Chúa không xin chúng ta bất cứ điều gì mà chính Ngài không ban cho chúng ta trước. "Chúng ta hãy mến yêu vì Ngài đã yêu mến chúng ta trước" (1Gioan 4:19).
Người không cách xa chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều có một chỗ ở trong cõi lòng Ngài. Ngài biết đích danh chúng ta, Ngài chăm sóc cho chúng ta và Ngài tìm kiếm chúng ta những khi chúng ta trở mặt với Ngài. Ngài chuyên chú tới từng người chúng ta; tình yêu của Ngài không cho phép Ngài được dửng dưng lạnh lùng với những gì xẩy ra cho chúng ta.
Bình thường, khi chúng ta được lành mạnh và thoải mái, chúng ta quên mất người khác (những gì Thiên Chúa chẳng bao giờ làm): chúng ta chẳng quan tâm gì tới các vấn đề của họ, các khổ đau của họ và các thứ bất công họ phải chịu...
Cõi lòng của chúng ta trở nên lạnh lùng. Bao lâu tôi còn tương đối lành mạnh và thoải mái, tôi không nghĩ đến những ai kém may mắn. Ngày nay, thái độ dửng dưng vị kỷ này đã đạt tới tầm mức toàn cầu, đến độ chúng ta có thể nói đến một thứ toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng. Nó là một vấn đề mà chúng ta là thành phần Kitô hữu cần phải đương đầu.
Khi dân của Thiên Chúa hoán cải trở về với tình yêu của Ngài thì họ thấy được những giải đáp cho các vấn nạn được lịch sử liên tục khơi lên. Một trong những thách đố khẩn trương nhất tôi muốn nói đến trong Sứ Điệp này đó chính là vấn đề toàn cầu hóa tình trạng dửng dưng lạnh lùng.
Thái độ dửng dưng lạnh lùng với tha nhân của chúng ta và với Thiên Chúa cũng cho thấy một chước cám dỗ thực sự đối với cả Kitô hữu chúng ta nữa. Mỗi năm, trong Mùa Chay, chúng ta cần nghe lại một lần nữa tiếng của các vị tiên tri kêu lên khiến cho lương tâm của chúng ta day dứt.
Thiên Chúa không tỏ ra dửng dưng lạnh lùng với thế giới của chúng ta; Ngài đã quá yêu thương nó đến ban Con của Ngài vì phần rỗi của chúng ta. Trong việc Nhập Thể, nơi đời sống trần gian, nơi cái chết và phục sinh của Con Thiên Chúa, cánh cổng giữa Thiên Chúa và con người, giữa trời và đất, một lần nữa được mở ra cho tất cả mọi người.
Giáo Hội như thể bàn tay giữ cho cánh cửa mở ra, nhờ việc Giáo Hội loan báo lời của Thiên Chúa, việc Giáo Hội cử hành các bí tích và nhờ chứng từ đức tin qua đức ái của Giáo Hội (Galát 5:6).
Thế nhưng thế giới lại có khuynh hướng co mình lại và đóng lại cánh cửa mà qua đó Thiên Chúa đã tiến vào thế gian và thế gian có thể đến với Ngài. Bởi thế mà bàn tay, tức Giáo Hội, không bao giờ được tỏ ra ngạc nhiên khi bị loại trừ, chà đạp và đả thương.
Bởi vậy, dân của Thiên Chúa cần đến cuộc canh tân nội tâm này, kẻo chúng ta trở nên dửng dưng lạnh lùng và thu mình lại.” (trích Sứ Điệp Mùa Chay 2015 của Đức Phanxiô, do Đa Minh Maria Cao Tấn Tĩnh dịch từ www.zenit.org/en/articles/pope-francis-homily-at-celebretiong-of-vespers...)
Sứ điệp Mùa Chay 2015, thật ra còn là sứ điệp của mọi ngày, rất chay kiêng. Chay không ở mỗi chuyện hãm mình phạt xác. Kiêng, không chỉ mỗi việc kiêng thịt mỡ mà thôi, nhưng lại cứ “xơi” “đồ biển” rất đắt tiền.
Sứ điệp Mùa Chay rất hằng ngày, còn là lời nhắn nhủ gửi đến muôn người từ đấng bậc linh-mục nọ vẫn cứ nhủ và cứ khuyên mọi người “hãy sống Phục Sinh mọi ngày, cả trong Mùa Chay nữa”.
Sống như thế, sẽ thấy niềm vui/hy-vọng ở đường hầm đầy tăm tối vẫn le lói ánh sáng của sự “trỗi dậy” rất Phục Sinh, ở mọi ngày. Mọi thời, và mọi nơi. Sống Phục Sinh vào cả Mùa Chay là sống trong hy-vọng “được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” như đấng thánh hiền vẫn nhắn nhủ người dân thành Rôma thời nào, như trích dẫn.
Sống niềm vui Phục Sinh cả vào Mùa Chay và mọi mùa còn là và vẫn là sống rất vững chãi trong tin-tưởng như câu truyện kể để kết-luận, rất như sau:
“Xưa lắm rồi, các màu trên mặt đất bỗng dưng cãi nhau. Màu nào cũng tự cho rằng mình là tuyệt hảo, quan trọng nhất, hữu ích nhất và được ưa chuộng nhất.
Màu lục bắt đầu: Dĩ nhiên là tôi quan trọng nhất. Tôi là biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Tôi được chọn để tạo thành cỏ cây. Thiếu tôi cảnh vật sẽ tiêu điều. Hãy nhìn vạn vật xung quanh, các bạn hẳn thấy tôi đúng.
Màu xanh ngắt lời: Bạn chỉ nghĩ đến những gì trên mặt đất, hãy ngước nhìn trời xanh và dõi ra biển biếc. Từ đáy biển sâu đến chín tầng mây cao, sự sống tồn tại được đều nhờ vào nước. Trời xanh bao la mang hình ảnh của sự thanh bình. Nếu không có thanh bình muôn loài ai nấy cũng sẽ xác xơ.
Màu tím cãi lại: Tôi là màu của sức mạnh. Từ vua quan đến hàng giáo phẩm đều chọn màu của tôi vì tôi tượng trưng cho quyền uy và thông thái. Ai ai cũng sẵn sàng lắng nghe và tùng phục.
Màu vàng cười vang: Sao toàn là chuyện nghiêm túc quá thế. Tôi cho rằng chỉ có tôi mới mang lại niềm vui và sự ấm áp cho đời mà thôi. Này nhé, mặt trời vàng, mặt trăng vàng, các vì sao vàng, tất cả đem lại sự vui tươi và nụ cười cho toàn thế giới. Vắng tôi là thiếu hẳn đi niềm hân hoan.
Đến lượt màu cam tự khen: Tôi là màu của sức khỏe, của sự đổi mới. Có lẽ tôi là một màu quí vì tôi phục vụ mọi nhu cầu của con người. Tôi mang các sinh tố quan trọng nhất, hãy nhìn các loại trái cây thì biết. Tôi ít khi có mặt nhưng khi tôi nhuộm bầu trời bình minh hay bầu trời hoàng hôn, vẻ đẹp mê hồn của tôi khiến không còn ai nhớ đến các bạn nữa.
Màu chàm tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ nhưng quyết liệt: Các bạn hãy nghĩ đến tôi xem nào. Tôi là màu của sự tĩnh lặng. Phải để ý đến tôi vì thiếu tôi, các bạn sẽ trở nên hời hợt, thiếu sâu sắc. Tôi đại diện cho tâm hồn, ý tưởng và sự tinh tế. Ai cũng cần tôi để có được một cuộc sống cân bằng cũng như tạo nên sự khác biệt. Tôi hữu dụng cho lòng tin, những giây phút trầm tư, an lạc nội tâm.
Đến lúc này màu đỏ không thể kiềm chế được nữa, quát to: Ta đây mới đích thị là “xếp sòng”. Ta là máu, là sinh lực. Ta là màu báo nguy, màu của sự can đảm. Ta là lửa. Ta là màu của đam mê, của tình yêu, của hoa hồng, của hoa anh túc… Thiếu ta, địa cầu sẽ ảm đạm như mặt trăng kia.
Và rồi các màu lại tiếp tục khoe khoang; mỗi màu tự cho mình mới là quan trọng thật sự. Cuộc tranh cãi càng lúc càng căng thẳng, bỗng nhiên một tia chớp xẹt đến, tiếp theo ngay sau là một tiếng sét to. Mưa như thác đổ xuống các màu khiến chúng phải sát cánh lại để che chở cho nhau.
Mưa nói: Thật là ngốc nếu các bạn mãi chống đối nhau. Các bạn không biết rằng mỗi màu được tạo ra cho một mục đích rõ ràng sao? Mỗi màu đều có một tính cách độc nhất và đặc biệt trong thế giới này. Hãy bắt tay nhau và cùng đến với tôi.
Các màu nghe có lý và làm theo đề nghị của mưa. Chúng đến bắt tay nhau. Mưa khuyên tiếp: Từ giờ trở đi, khi nào mưa mỗi bạn hãy nổi lên thành một cầu vồng trên bầu trời để chứng tỏ các bạn đã chung sống hòa bình. Cầu vồng là hình ảnh của sự hy vọng và hòa giải.
Tình bạn rực rỡ như bảy sắc cầu vồng: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím. Đỏ là quả chín, cam là ngọn lửa bất diệt, vàng là ánh dương chiếu rọi, lục là cây cỏ bừng mạch sống, lam là giòng nước trong xanh, chàm là niềm mơ ước trong tim, tím là nụ hoa sắp nở. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay chăm sóc tình bạn để tình bạn trổ nụ đơm hoa nhé!” (trích truyện kể do St sưu-tầm/phổ-biến trên mạng toàn cầu).
Nghe kể rồi, hẳn bạn và tôi, ta sẽ hiên ngang mà sống mạnh sống vững chãi, hy-vọng sẽ thấy niềm vui chan hoà, vào phút cuối. Thế đó, là niềm vui hy-vọng của tôi, của bạn, vào mọi ngày trong đời, vẫn an-bình hiền hoà.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn hy vọng đó là niềm-vui-hy-vọng
Tồn-tại mãi trong đời.
Của mọi người.
Nguồn: thanhlinh.net
Đầu năm khai bút
- Viết bởi JM. Lam Thy ĐVD
Ngày đầu năm, những anh chàng ưa bôi nhọ giấy trắng – í quên! bôi nhọ màn hình – thường hay nhiễu sự đòi “khai bút”. Theo cổ nhân, khai bút đầu năm bằng một câu đối, một bài thơ, vừa là một cái thú tiêu khiển tao nhã, lại vừa – thông qua những câu chữ bất chợt theo ngẫu hứng xuất hiện nơi đầu ngòi bút – có thể đoán định được vận số mình trong suốt năm sẽ như thế nào. Tôi cũng thích khai bút lắm, nhưng nhiều khi không có cảm hứng, bởi trong lòng cứ lẩn thẩn nghĩ “đã gọi là khai bút, tức là muốn mở hàng cho năm mới (khai: mở), mà mở hàng thì phải tốt đẹp, phải hanh thông, phải… very good (!), chớ không thể muốn viết gì thì viết. Như thế là có chủ định tìm những điều tốt lành để tự chúc mừng năm mới mất rồi, đâu còn là ngẫu hứng để mà … đoán định vận số. Hóa cho nên, tôi thường hay mở lịch Phụng vụ ra để … tìm cảm hứng khai bút, cho chắc ăn. Và năm nay, khai bút đúng vào 2 giờ sáng đêm Giao Thừa (18 rạng 19/02/2015).
Lễ Tân niên Ất Mùi (2015) có thể sử dụng 1 trong 3 bài Tin Mừng: Mt 6, 25-34; hoặc Mt 5, 43-48; hoặc Ga 14, 23-27. Bản thân ngu mỗ thì chỉ thích suy niệm bài Tin Mừng theo thánh Mát thêu (Mt 6, 25-34). Con người ta sinh ra trên đời ai mà chẳng lo cái ăn cái mặc. Tôi còn nhớ câu nói của bà nội tôi hồi còn sinh thời, khi bà xã của tôi sinh đứa con trai đầu lòng. Tôi là con trai duy nhất của thân phụ tôi, mà cha tôi lại là anh trưởng trong gia đình, nên oai lắm, tôi là “cháu đích tông” (cháu chính cống, dòng dõi) của bà nội, là trưởng tộc trong họ. Con trai trưởng của tôi tất nhiên là “chắt đích tông” của ngài, và sẽ là “trưởng tộc” tương lai. Vì thế, ngay sau khi bà xã của tôi sinh, bà nội tôi đã tới “xem tướng” liền. Câu nói đầu tiên của cụ là: “mới sinh ra đã biết vơ hai tay bỏ miệng, hèn gì suốt đời phải khổ vì cái ăn.” Các cháu sơ sinh thường hay quờ quạng đôi tay và đưa vào miệng mút như bú sữa mẹ vậy. Đó cũng là nhu cầu tất yếu thôi.
Con người suốt đời hai tay vơ bỏ vào một miệng, vậy mà nhiều khi không đủ cho miệng ăn. Tuy nhiên, rất nhiều người không những đủ ăn, mà còn dư thừa rất nhiều; những người ấy có thể họ vơ của ăn bằng chính đôi tay của họ, bằng chính mồ hôi nước mắt của họ; nhưng cũng không thiếu những kẻ dùng đôi tay của họ để vơ vét của cải của người khác, thậm chí những kẻ mưu mô thụ hưởng ấy còn dùng mưu chước khôn ngoan khiến tha nhân tự dùng đôi tay của mình để làm ra của cải cho họ. Lòng tham của con người vốn dĩ không có đáy. Lúc chưa có gì thì chỉ cầu cho có được 1 là đủ, đến lúc có 1 rồi thì lại muốn có 2, 3… Chưa có xe thì chỉ cầu có xe đạp đi là đủ, có xe đạp rồi thì lại muốn có xe máy, và khi có xe máy thì lại muốn có xe hơi, xế hộp… không biết đến thế nào mới “đầy túi tham” (“Đồ tế nhuyễn, của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” – Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Lời chúc đầu năm cho nhau thường là: “buôn may bán đắt, một vốn bốn lời, lời lãi gấp trăm, thóc lúa đầy bồ, của cải đầy nhà, tiền bạc như nước, giàu có bằng năm bằng mười năm ngoái…”. Khi đại ngôn như vậy, chúc là chúc người ta cho ra vẻ, nhưng trong lòng thì lại mong muốn những lời chúc tốt đẹp ấy sẽ thành hiện thực cho chính bản thân mình; hoặc ít nhất – dù biết là những lời chúc như thế đều chỉ mang tính xã giao – nhưng ai cũng muốn, vào ngày đầu năm, được chúc như vậy cả. Đó là nói chung về tâm lý con người, nhất là ở những giai cấp thượng lưu, ăn trên ngồi trốc, đặc biệt là giai cấp “chó nhẩy bàn độc”. Tuy nhiên, đến như giai cấp hạ lưu, thấp cổ bé miệng, cùng đinh, thì chuyện lại khác. Cứ đặt giả thử đến với những anh em “nghèo rớt mùng tơi”, “ăn bữa nay lo bữa mai”, thậm chí “không có cháo để mà húp”, mà chúc Tết suông như vậy thì nghe có được không? Cho nên đọc đoạn đầu của bài Tin Mừng sáng mồng một Tết (Mt 6, 25-34), tôi hơi bị dội.
Tại sao vậy? Vì căn cứ vào chính kinh nghiệm rút ra được từ bản thân, tôi thấy Lời Đức Ki-tô dạy nó có vẻ … làm sao ấy! Đây, xin hãy nghe: "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? ” (Mt 6, 25). Tôi cũng đã hơn một lần kể về biến cố 1975 đã khiến cho gia đình tôi được cứu đói. Nhà nước cứu đói tôi bằng cách cho ưu tiên “mua” (chớ không được “phát”) khi lương thực về tới phường, khỏi phải “xếp hàng” như bà con. Như thế cũng có nghĩa là: nếu tôi không có tiền thì ráng mà… nhịn đói, đừng hòng có lương thực, dù cho có tài “cả ngày xếp hàng” (CNXH). Ôi chao! Nhìn đám con mỗi đứa ngồi một xó nhà, ruồi đậu mép không thèm đuổi, rồi hai vợ chồng cứ rũ ra như gà bị cắt tiết, sao mà nó cám cảnh đến thế! Và cũng phải thú thực là tới lúc đó, khi đã ngấp nghé, xấp xỉ 40 tuổi – cái tuổi mà cổ nhân cho là “tứ thập nhi bất hoặc” (40 tuổi thì không còn điều gì trên đời khiến phải nghi hoặc nữa), tôi mới được biết đến kiểu “cứu đói” tối tân như vậy! Tôi không – hoàn toàn không – bi thảm hoá vấn đề đâu. Hồi đó, còn nhiều cảnh thê thảm hơn thế nữa kia. Ở đây, nhắc lại chuyện này, tôi chỉ muốn nói đến cái ăn cái mặc nó cần thiết cho con người đến như thế nào. Vậy mà Thầy Chí Thánh của tôi lại dạy như vậy đó!
Viết tới đây, tôi lại chợt nhớ đến đoạn Kinh Thánh tường thuật về một người thanh niên muốn theo Đức Ki-tô, nhưng vì chưa chôn cất cha của mình mới chết, nên “thưa với Người: "Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã. Đức Giê-su bảo: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ." (Mt 8, 21-22). Kẻ đã chết rồi lại có thể chôn kẻ chết được ư? Những Lời dạy của Đức Ki-tô mới thoáng nghe thì có vẻ hơi “nghịch lý”; nhưng đọc thật kỹ, cầu nguyện xin ơn soi sáng thì sẽ hiểu ra chẳng nghịch lý chút nào. Như câu nói trên, nếu chỉ đọc “cứ để kẻ chết chôn kẻ chết” sẽ thấy nghịch lý, nhưng nếu đọc trọn cả câu “cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” thì sẽ thấy từ “kẻ chết” ở trước động từ “chôn” lại ám chỉ những kẻ còn sống (sống trong bóng tối của tội lỗi cũng kể như đã chết, nói cách khác họ chỉ “chết về mặt tinh thần, linh hồn” thôi), vì thế mới có thể chôn “kẻ chết” (đã chết về mặt thể xác) là người cha của người thanh niên muốn theo Đức Ki-tô được. Như vậy, trong một câu nói, với một từ “kẻ chết” ở 2 vị trí khác nhau (một chủ từ và một bổ túc từ), đã mang 2 nghĩa khác nhau.
Và cũng nhờ liên tưởng tới câu nói ấy của Đức Ki-tô, tôi chợt ngộ ra là Thầy rất hay dùng phép ám tỉ, tương phản trong những dụ ngôn của Người. Và cũng chính vì thế, cần phải đọc kỹ, cầu nguyện và suy niệm thấu đáo, thì mới hy vọng hiểu được. Tôi chậm rãi đọc tiếp bài Tin Mừng lễ Tân Niên (-nt-), tới đoạn “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 31-33), mới “à” lên một tiếng: Eureka! Đây rồi! Thì ra thế! Chính là Thầy muốn các môn đệ hãy lo “cái ăn cái mặc” cho phần hồn (tích trữ của cải Nước Trời), đừng lo “cái ăn cái mặc” cho phần xác (tích trữ của cải trần thế – Mt 6, 19-21). Cũng bởi vì khi đã biết “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”, thì “tất cả những thứ kia (cái ăn, cái mặc), Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 32-33),
Vâng, quả thật chính cái đầu óc ngu muội của tôi chưa hiểu thấu được Lời Chúa đã vội cho là nghịch lý. Câu “cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”, Đức Ki-tô muốn nói cho người môn đệ hiểu là: Anh đã tìm được sự SỐNG (vì “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự SỐNG” – Ga 14, 6), thì hãy giữ lấy, còn người CHẾT (thể xác) đã có những người CHẾT (tinh thần) lo cho. “Người chết” mà Đức Ki-tô ám chỉ ở đây là những người còn ở trong tối tăm, tội lỗi – ở trong CÕI CHẾT vậy.
Đến như bài Tin Mừng ngày đầu năm cũng thế, không có của ăn thì làm sao mà sống, không lo tích trữ của cải Nước Trời thì làm sao vào được Nước Thiên Chúa? Nên chi phải cùng lúc lo làm tròn 2 bổn phận: bổn phận công dân nước trần thế (phần xác) và bổn phận công dân Nước Trời (phần hồn), mà muốn làm tròn cả 2 bổn phận công dân ấy, tất nhiên cũng phải lo đến cái ăn cái mặc (hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Có lẽ cũng chính vì thế, nên cuối cùng Đức Giê-su Ki-tô dạy: “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 34). Ngày nào có cái khổ của ngày ấy ư? Rõ ràng là đến cả Đức Giê-su Thiên Chúa còn thấy khổ, huống chi là con người phàm tục. Khổ vì cái ăn cái mặc cũng là lẽ tất nhiên.
Ấy đấy, bản tính ngu mỗ hay dài dòng văn tự, nói rằng khai bút, rồi cứ dông dài năm điều bảy chuyện, mà đã có được câu đối hoặc bài thơ nào để khai bút đâu. Khai bút mà nói về mình, về “cái tôi” tệ hại thì dám nói, nhưng nói về người thì … rét lắm! Chỉ sợ cái tính “thẳng mực Tàu”, “thẳng ruột ngựa” của mình làm thiên hạ nhảy tê tê lên, rồi sửng cồ phang cho một cái lăn quay ra thì khổ. “Phê” bình mình (tự phê) thì thoải mái, thả giàn, nhưng nhiều lúc cũng vẫn bị mang tiếng “đó là một cách tự đánh bóng mình”. Còn khen? Tự khen thì chuế lắm, nhưng khen người thì lại mang tiếng “nịnh hót, bợ đỡ”. “Phê” hay “tự phê”, “khen” hay “tự khen”, đằng nào cũng chết một cửa tứ. Nhìn thiên hạ đại loạn, cũng muốn – rất muốn – nhân dịp Xuân về, cầu chúc – chúc mừng cho thiên hạ được thái bình, nhưng lúc nào cũng “Ấp úng không ra được nửa lời” (Hàn Mạc Tử), bởi những lý do trên. Và cũng vì thế, nên chỉ còn biết cầu nguyện, nói chuyện, tâm sự với Chúa cho chắc ăn, tất nhiên rồi.
Kể ra, muốn có được thái bình thiên hạ thì người người, mỗi người cần, rất cần trở nên như trẻ nhỏ (“nhân chi sơ”) – trở nên “người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18, 1-4) – với cái tính vốn lành (“tính bản thiện”); nói cách khác là cần có được một cái tâm an bình. Tâm bất chính ắt thân tắc loạn, tâm bất an ắt thời đại loạn, khó lắm để có được một cái tâm an bình. Người ta cứ thích đứng riêng ra để khoe … hạt nhân, khoe hoả tiễn, khoe vũ khí này, tàu chiến nọ, khoe cả việc khủng bố (kiểu như tung lên mạng những video clip trình chiếu những vụ giết người dã man, thảm khốc); khoe khoang đủ thứ mà không muốn ngồi vào bàn hoà giải. Đã có biết bao nhiêu cái bàn hội nghị hai bên, bốn bên, sáu bên, tám bên… mà kết quả vẫn chẳng đi tới đâu. Cuối cùng thì ngu mỗ đành bắt chước Dương Nghiễm Mậu ngày nào, buông ra hai tiếng “CŨNG ĐÀNH” (tên một tự truyện xuất bản trước 1975 của Dương Nghiễm Mậu); và cũng đành mượn thơ (BÚT) của người khác (Tú Xương) để mở hàng (KHAI) Năm Mới cho mình vậy:
“Bắt chước ai, ta chúc mấy lời,
Chúc cho khắp hết cả trên đời,
Vua - quan - sĩ thứ, người muôn nước,
Sao được CHO RA CÁI GIỐNG NGƯỜI.” (“Chúc Tết” – Trần Tế Xương).
Vâng, xin chúc mừng Năm Mới Ất Mùi, bằng lời cầu chúc tất cả thực sự là NGƯỜI (nhân) với cái GỐC (bản) tốt lành, thiện hảo – “nhân chi sơ, tính bản thiện” – để xứng đáng là bạn hữu của CON NGƯỜI (Ki-tô hữu), cùng chung một NGƯỜI CHA trên cao xanh là Ông Trời. Mong được hải nội chư quân tử ban cho hai chữ “đại xá”, và xin cùng với ngu mỗ chắp tay, cao giọng: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa TRONG MỌI NGƯỜI. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như KHÍ CỤ BÌNH AN của Chúa… Ôi ! Thần Linh thánh ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn AN BÌNH” (Kim Long – “Kinh hoà bình” – TCCĐ). Ước được như vậy. Amen!
JM. Lam Thy ĐVD.
Nguồn: thanhlinh.net
Quê Hương và Giáo Hội
- Viết bởi Joseph Nguyễn Văn Thống
Xuân về, người dân Việt Nam dù ở đâu làm gì cũng hướng về dân tộc. Ngày xuân, cũng là dịp để tri ân tiền nhân. Đối với người Công Giáo Việt Nam, Giáo Hội dành riêng ngày mùng hai tết để tưởng nhớ ông bà tổ tiên.
Ngậm ngùi hướng về đất mẹ, dường như mấy câu thơ của Nguyễn Bính phần nào nói lên nỗi lòng xa hương của người Việt Nam.
“Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Chao ơi, Tết đến em không được
Trông thấy quê hương thật não lòng.”
Trông thấy quê hương thật não lòng
Trong khoảng hai năm ở Hoa Kỳ, một trong những điều mà tôi cảm nhận được, đó là sự “tự do”. Có những đêm đang ngủ, tôi nghĩ mình đang bị giam trong tù hay đang bị công an Cộng Sản bám đuôi sách nhiễu, đến lúc giật mình thức giấc mới biết mình đang ở trên miền đất tự do. Cứ mỗi lần như vậy, tôi thầm tạ ơn Chúa đã cho tôi cảm nhận sâu sắc được giá trị hai chữ tự do là gì, nhưng cũng xót xa cho dân tộc đang quằn quại rên xiết dưới ách thống trị của Cộng Sản.
Dưới chế độ Cộng Sản, tình hình kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục của đất nước Việt Nam ngày càng xuống dốc. Liên quan đến sự tồn vong của dân tộc, nhà cầm quyền Cộng Sản đang tiếp tục bán đất, bán biển cho Tàu Cộng và rước giặc Tàu vào nước, mà hình thức cho các công ty Tàu Cộng thuê rừng, thuê biển dài hạn và cho hàng chục ngàn công nhân Tàu đến làm việc trên các dự án trọng điểm của Việt Nam, điển hình là Cảng Vũng Áng tại Hà Tĩnh, thuộc giáo phận Vinh, là một bằng chứng điển hình. Nhiều tờ báo lề trái và cả lề phải đã đưa thông tin về những hệ lụy nguy hiểm cho dân tộc xuất phát từ dự án Vũng Áng. Bản tin trên tờ báo RFA đăng ngày 27 tháng 8 năm 2014 cho biết số “lao động Trung Quốc ở Vũng Áng đủ lập hai “ sư đoàn.”
Liên quan đến Hội Thánh Công Giáo tại Việt Nam, những năm qua nhiều cộng đồng Công Giáo đã phải chịu bách hại, từ Thái Hà, Tòa Khâm Sứ, Tam Tòa, Đồng Chiêm, đến Cồn Dầu, Con Cuông, Mỹ Yên v.v. Và mới đây nhất, những ngày đầu năm 2015, nhà cầm quyền đuổi linh mục, tìm cách phá nhà thờ Giáo xứ Đắc Jak thuộc Giáo phận Kontum, trước đó đã có lệnh trục xuất linh mục. Giáo Hội Công Giáo đông đảo, có tổ chức, có hậu thuẫn quốc tế mà còn bị bách hại như vậy, thì tất nhiên các tôn giáo khác như Hòa Hảo, Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Tin Lành Menonite ở Sài Gòn và các Hội Thánh Tin Lành ở Tây Nguyên và Tây Bắc còn bị bách hại nặng nề hơn nữa. Xem ra thời gian qua đi tình hình tôn giáo tại Việt Nam vẫn không sáng sủa hơn, mà trái lại các tôn giáo còn bị nhà cầm quyền cộng sản kìm kẹp tinh vi và bách hại trắng trợn hơn trước. Đây đó xuất hiện những nhận định lạc quan về tình hình đất nước Việt Nam nói chung và tình hình tôn giáo nói riêng, nhưng theo chúng tôi có lẽ chỉ có giới cầm quyền cộng sản và những người ăn chia quyền lợi trong hệ thống cộng sản mới có thể có những nhận như vậy; và chắc chắn nếu không bị danh lợi và quyền lực làm cho người nhận định trở nên mù quáng, thì cũng là lạc quan tếu của người ở cõi khác. Còn những người dấn thân và gần dân như Đức TGM Ngô Quang Kiệt hoặc Đức Giám Mục Hoàng Đức Oanh, GM Kontum, chắc chắc không thể có những nhận định như vậy, như chúng ta đã thấy.
Xuân hy vọng
Dù đau lòng trước cảnh quê hương điêu tàn và Giáo Hội bị bách hại kéo dài, nhưng tôi không mất niềm hy vọng.
Tôi vẫn tin rằng Chúa đã chọn chúng ta làm người Việt Nam, “Đức Chúa đã gọi tôi, từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi”( Isaia, 49). Bởi thế như ĐHY Nguyễn Văn Thuận, tôi vẫn hãnh diện vì mình là người Việt Nam:
“Con có một tổ quốc Việt Nam
Quê Hương yêu quí ngàn đời
Con hãnh diện, con vui sướng
Con yêu non sông gấm vóc
Con yêu lịch sử vẻ vang
Con yêu đồng bào cần mẫn
Con yêu chiến sỹ hào hùng”
( Trich Đường Hy Vọng, ĐHY Nguyễn Văn Thuận)
Một trong những lý do để tôi hy vọng là tại Việt Nam, nhiều người không sợ tù đầy để dấn thân tranh đấu cho quyền làm người và quyền tự do tôn giáo. Càng bị đàn áp, đức tin và tình yêu dành cho Giáo Hội và dân tộc càng lớn mạnh. Sinh viên Trần Hữu Đức, một trong những thanh niên Công Giáo vừa ra tù ngày 2 tháng 11 năm 2014, chia sẻ với tôi: “Em tạ ơn Chúa trong những năm tháng tù đày càng giúp em thêm đức tin và can đảm dấn thân cho Giáo Hội và quê hương đất nước.” Về mặt xã hội, có khoảng 20 tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam công khai hoạt động trong những năm gần đây, như nhóm Phụ nữ Nhân quyền, Hội Cựu Tù nhân Lương tâm, Hội Bầu bí Tương thân, v.v. Các thành viên của những nhóm này dù bị đàn áp nhưng vẫn hiên ngang dấn thân cho đất nước sớm có được dân chủ và nhân quyền.
Về phía Giáo Hội Việt Nam chúng ta cũng thấy có những dấu chỉ hy vọng. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thời gian qua cũng đã ra văn thư kiến nghị xóa bỏ điều 4 hiến pháp, lên tiếng về các vấn nạn xã hội. Điều này góp phần từng bước thay đổi nhận thức và hành động của tín hữu trong tư cách là công dân trước vận mạng đất nước lâm nguy. Và năm 2014, Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, tổng thư Ký Hội Đồng Giám mục Việt Nam, đã ra văn thư “Minh định các thủ tục hành chính xã hội về việc chủng sinh nhâp đại chủng viện và truyền chức linh mục” bác bỏ cơ chế “ xin cho” của nhà cầm quyền. Một trong những “ dây thòng lòng” đã áp chế lên Giáo Hội tại Việt Nam trong nhiều thập niên qua. Một trong những điểm thu hút nhiều người tham dự cầu nguyện và dấn thân cho đất nước và Giáo Hội nhất là nhà thờ DCCT Thái Hà, Hà Nội và nhà thờ DCCT Sài Gòn. Thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình hàng tháng thu hút hàng ngàn người tham dự, trong đó có nhiều người ngoài Công Giáo.
Tại Hải Ngoại, chúng ta thấy một trong những tấm gương về lòng yêu nước là Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Melbourne, Úc Đại Lợi. Ngài đã từng nói: “Giải thế chế độ cộng sản, không thể tách rời với sứ vụ Giám mục của tôi.”Trong thư mục vụ đầu năm 2015, Ngài viết: “Năm Ất Mùi hứa hẹn một năm đầy tin yêu hy vọng đối với người Việt Công Giáo ly hương. Như dân tộc Chúa chọn vào đất hứa sau 40 năm trong sa mạc, chúng ta cũng vững tin vào tương lai tươi sáng sau 40 năm mất nước vào tay chế độ cộng sản phi nhân, vô thần và vong nô. Tôi luôn thâm tín rằng, người Việt Công Giáo xa quê hương có một vai trò quan trọng trong cuộc xóa bỏ chế độ cộng sản và xây dựng đất nước. Bởi thế tôi nghĩ chúng ta không ngã lòng hay vô cảm với những đồng bào ruột thịt đang “đói khát sự công chính” trong một xã hội bị băng hoại toàn diện. Trong niềm tin vào sự chiến thắng của công lý và sự thật, chúng ta cũng liên kết với đồng bào quốc nội và đóng góp sức mình vào đại cuộc đó. Đây mới là công việc “ bác ái” ý nghĩa nhất.”
Trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Philippine từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 1 năm 2015, một em bé đặt câu hỏi cho Đức Thánh Cha: Thưa Đức Thánh Cha, tại sao Chúa để các bé gái phải chịu đau khổ? Đức Thánh Cha đã ngậm ngùi nhưng không có câu trả lời. Tôi chợt nghĩ, nếu có ai đó cũng hỏi Đức Thánh Cha: thưa Đức Thánh Cha, tại sao Chúa để dân tộc chúng con phải trải qua quá nhiều đau khổ và làm sao chúng con thoát khỏi ách cộng sản? Có lẽ ngài cũng không có câu trả lời. Phần tôi, tôi luôn tự hỏi mình có thể làm được gì lúc này để thể hiện tình yêu đất nước và góp phần xóa bỏ ách độc tài Cộng Sản, mang lại tự do cho dân tộc và tương lai cho đất nước?
Trong cuốn sách “How can you change the world- làm sao bạn có thể thay đổi thế giới”, do Catholic Answers xuất bản, đã viết: “Bạn là ai hoặc bạn sống ở đâu, chẳng thành vấn đề. Bạn giàu hay nghèo, trẻ hay già, trình độ hay không có trình độ, nữ giới hay nam giới. Tất cả những điều đó chẳng thành vấn đề. Bạn là con Chúa và bạn được mời gọi làm phần của bạn để làm cho thế giới này tốt đẹp hơn” Trong tin mừng, chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu nói về việc người đầy tớ khôn ngoan biết dùng những nén bạc ông chủ trao để làm lợi (Matthew 25: 14-30). Bởi thế tôi tin rằng chúng ta cũng được mời gọi dùng những“nén bạc” Chúa ban để làm điều tốt nhất trong khả năng của mình cho dân tộc và Giáo Hội Việt Nam.
Lời dạy của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận vẫn còn âm vang trong ta:
“ Là người Công Giáo Việt Nam
Con phải yêu tổ quốc gấp bội
Chúa dạy con, Hội Thánh bảo con
Cha mong giòng máu ái quốc
Sôi trào trong huyết quản con”
California, nhân dịp Xuân 2015.
Cám dỗ
- Viết bởi Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
VRNs (22.02.2015) – Đồng Nai – Nhiều người hôm nay không tin ma quỷ, không tin sự cám dỗ của ma quỷ. Họ cho rằng tội là do mình tự ý phạm. Họ tin vào sự ý thức của con người. Họ không nghĩ đến sự yếu đuối của con người là do ngã lòng chiều theo cám dỗ. Chính do sự mất cảnh giác của cám dỗ nên con người dễ mất mắc sai lầm theo chủ quan, dễ hành động theo bản năng mà không hề kiểm soát hành vi của mình. Đó cũng là điều tệ hại dẫn con người đến mất ý thức về tội. Vì lấy mình làm trung tâm nên luôn cho mình là đúng, luôn biện minh cho hành vi sai trái của mình.
Khi con người mất ý thức về tội là lúc ma quỷ chiến thắng. Nó luôn tìm cách chứng minh không hề có sự hiện của nó. Nó chỉ tác động dưới những hình thức đẹp đẽ, tốt lành để hướng con người hành động theo ý mình. Và điều tệ hại là hành động theo ý mình thì luôn sai lầm vì thích chiều theo bản năng, chiều theo sự dễ dãi mà không cần đến lề luật.
Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời. Anh ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi người ở da đen:
“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống trả cám dỗ, nói đến Ma-quỉ. Ta chẳng phải chống trả Ma-quỉ bao giờ, mà ta vẫn sống tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”
Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi xuống, thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách chạy trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được mới thôi”.
Ông ví như vịt đã bị Ma-quỉ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.
Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người đi nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ đã bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ đích là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì cho không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.
Năm xưa trong vườn địa đàng ma quỷ đã chiến thắng Adam-Eva, khi hai ông bà quay lưng lại với Thiên Chúa. Ma quỷ cũng chiến thắng dân Chúa chọn trên hành trình đất hứa khi thờ bò vàng để tìm kiếm miếng ăn. Nhưng ma quỷ đã hoàn toàn thất bại trước Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giê-su đã nhắc ma quỷ phải tuân phục Thiên Chúa. Ngài cũng nhắc ma quỷ cuộc sống này cái ăn cái mặc đáng quý nhưng thực thi ý Chúa còn quý hơn nữa.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta vực dậy sau những lần vấp ngã, và canh tân đời sống theo tin mừng. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn: DCCT
Mưu chước
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (22.02.2015) – Sài Gòn – Có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16:8). Sự khôn khéo ở đây mang nghĩa xấu, tức là mưu mô, mưu mẹo, toan tính và sắp đặt ngầm để thực hiện điều bất chính. Người ta gọi đó là mưu ma chước quỷ. Con người là sinh vật cao cấp nhất nhưng cũng nhiêu khê nhất vì luôn “biến hóa” với thất tình và lục dục (*).
Cổ nhân đã nói: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu” (ngậm máu phun người, trước tiên là bẩn miệng mình). Thế nhưng kẻ xấu vẫn làm, bất chấp mọi thứ. Suy nghĩ xấu dẫn tới ước muốn xấu, ước muốn xấu dẫn tới hành động xấu. MÀU liên quan SẮC. Cái gì ĐEN thì TỐI. Thánh Phaolô khuyên: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13:12). Đó là động thái đặc biệt của Mùa Chay Thánh.
Sau Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông: “Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa” (St 9:8-11). Lời hứa đó của Thiên Chúa là điều diễm phúc cho cả nhân loại, vì không còn cảnh “tẩy rửa” địa cầu như thời Cựu Ước.
Thiên Chúa không hứa suông, mà Ngài cho dấu chỉ cụ thể và rõ ràng: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa” (St 9:12-15). Ngày nay, chúng ta thường thấy “cây cung” đó sau những cơn mưa to, và chúng ta gọi đó là Cầu Vồng, với bảy sắc màu lung linh rất đẹp, rất kỳ diệu.
Mỗi khi thấy Cầu Vồng, chúng ta lại được nhắc nhở về giao ước xưa, nghĩa là Thiên Chúa đã thứ tha, không trừng phạt nhãn tiền nữa. Nhưng đừng vì thế mà ỷ lại, cứ ung dung sống. Hãy noi gương tác giả Thánh Vịnh cầu xin: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5).
Tạ ơn trong niềm hạnh phúc, nhưng cũng đừng quên sám hối. Mùa Chay là lời nhắc nhở: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 25:6-9). Quả thật, nếu Thiên Chúa chấp tội thì chẳng ai được cứu rỗi (Tv 130:3).
Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Bửu Huyết của Đức Giêsu Kitô tẩy sạch mọi vết tội. Thánh Phaolô nói: “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, tức là những người xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nô-ê đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu thoát nhờ nước” (1 Pr 3:18-20). Nước thật kỳ diệu, rất mềm mà rất cứng, người ta có thể “cắt” nước nhưng không thể làm “đứt” nước.
Tứ nước của Đại Hồng Thủy tới Phép Rửa, rồi Nước (và Máu) tuôn trào từ Thánh Tâm Chúa Giêsu khi lưỡi giáo đâm vào: “Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền” (1 Pr 3:21-22). Tội lỗi là điều ghê tởm, ô uế lắm, nhưng may mắn chúng ta được rửa sạch nhờ Bí tích Thánh Tẩy. Và vì yếu đuối, chiếc “áo trắng” của chúng ta lại vấy bẩn, nhưng lại được “giặt sạch” nhờ Bí tích Giao Hòa (Giải Tội). Tội chồng lên tội, nhưng rồi phúc lại chồng lên phúc. Xui mà lại hên! Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục ăn chay và sám hối. Ăn chay và đền tội không chỉ cho chính mình, mà còn cho cả người khác trong tình liên đới Kitô giáo.
Trình thuật Mc 1:12-13 nói ngắn gọn về cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu chịu sau khi đã ăn chay ròng rã suốt 40 đêm ngày: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người”. Trong Mt 4:1-11 và Lc 4:1-13 nói chi tiết hơn về cơn cám dỗ này: Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống, đệ nhất khoái trong tứ khoái của con người; cám dỗ thứ nhì về tính kiêu ngạo, “cái tôi” luôn là số dzách, nó có thể nổi dậy bất cứ lúc nào; cám dỗ thứ ba về danh vọng và địa vị, những thứ mà ai cũng muốn để chứng tỏ mình tài giỏi hơn người, chứng tỏ mình có “bản lĩnh”.
Đức Giêsu đã ăn chay trước khi khai mạc công việc rao giảng, điều đó cho thấy việc ăn chay luôn gắn liền với việc cầu nguyện. Việc cầu nguyện cần thiết trước khi hành động bất cứ điều gì. Một trong những điều quan trọng chúng ta cần cầu xin là “xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ” (Kinh Lạy Cha). Điều này đã được chính Chúa Giêsu dạy khi các môn đệ xin Sư Phụ dạy cách cầu nguyện.
Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Ngài nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Thời kỳ của chúng ta là thời kỳ cuối rồi. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta thấy ai mở miệng ra cũng than là “đạo đức xuống cấp” hoặc “suy thoái nhân bản”. Thật vậy, chưa cần va quẹt nhau, chỉ cần nhìn thôi, người ta có thể to tiếng hoặc ẩu đả nhau, thậm chí là rút dao đâm ngay, không hề gớm tay. Như vậy là người ta không muốn sám hối theo lời khuyên của Đức Kitô.
Người ta mưu mô và thủ đoạn, đủ dạng mưu ma chước quỷ. Văn minh tiến bộ thì tội lỗi cũng tinh vi hơn. Chắc chắn việc ăn chay, sám hối và đền tội càng cần hơn bao giờ hết. Ước gì mỗi chúng ta đều biết chân thành thú tội để được Thiên Chúa đại xá: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51:6).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết xa tránh và triệt tiêu mọi mưu ma chước quỷ, can đảm sống ngay thẳng trong tinh thần sám hối suốt đời, không chỉ trong Mùa Chay này. Xin Ngài nâng đỡ và bảo vệ chúng con trên suốt hành trình sám hối, đặc biệt trong Mùa Chay này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Thất tình: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục. Lục dục: [1] Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp; [2] Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai; [3] Hương dục: ham muốn ngửi mùi thơm dễ chịu; [4] Vị dục: ham muốn món ăn ngon miệng; [5] Xúc dục: ham muốn xác thân sung sướng; [6] Pháp dục: ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn.
Nguồn: DCCT
Nguồn Cội
- Viết bởi Nguyên Vũ
WGPSG -- “Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Theo truyền thống đạo đức của người châu Á chúng ta thì chữ Hiếu là nhân đức hàng đầu, là bài học đầu tiên mà ai cũng thuộc lòng từ thời thơ ấu.
Chúng ta được sinh ra trên cuộc đời này là nhờ có mẹ cha, và mẹ cha chúng ta được sinh ra từ ông bà tổ tiên. Cho nên ca dao Việt Nam có câu: “Cây có cội, nước có nguồn, con người cũng có tổ tiên” là vậy.
Trong đời sống người Kitô hữu, chữ Hiếu càng được quý trọng hơn vì đó là một trong Mười Điều Răn mà Thiên Chúa trao ban cho loài người chúng ta: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Đnl 5,16).
Mười Điều Răn của Thiên Chúa đã nêu lên những bổn phận quan trọng đòi buộc con người chúng ta nhất thiết phải chu toàn đối với Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, đồng thời đề cập tới những trách nhiệm hỗ tương giữa con người với con người trong các tương giao với nhau. Đúng vậy, qua Điều Răn Thứ Bốn, Thiên Chúa đòi buộc những người làm con cái phải có trách nhiệm và bổn phận đối với cha mẹ mình. Điều này khẳng định tính chất cơ bản và trọng yếu của bổn phận thảo kính mà con cái phải có đối với cha mẹ khi cha mẹ còn sống cũng như lúc đã qua. Những ai không chu toàn Điều Răn Thứ Bốn, tức không có lòng thảo kính cha mẹ, thì không những mắc tội bất hiếu đối với cha mẹ mà còn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trong cuộc sống đời thường cũng đã minh chứng điều đó: những người con sống bất hiếu hoặc xúc phạm nặng nề đến cha mẹ như hất hủi, đánh đập, chửi bới thường phải gánh chịu những hậu quả ghê gớm như quả báo nhãn tiền.
Cổ nhân đã dạy: “Thụ ân bất báo, uổng vi nhân.” Không ai được phép trách cha mẹ là tại sao lại sinh ra mình trên cõi đời này, nhưng phải luôn tỏ lòng biết ơn về công đức sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ dành cho mình, vì mỗi người được sinh ra trên cõi đời này đều đã nhận lãnh sự sống và công đức từ ông bà tổ tiên, các bậc tiền nhân.
Sống thảo hiếu không chỉ dừng lại ở việc quan tâm tới ông bà cha mẹ còn sống mà còn hướng lòng đến các bậc tiền nhân đã ra đi trước chúng ta. Qua lời cầu nguyện, qua việc tham dự Thánh lễ hằng ngày, chúng ta tin rằng khi ông bà cha mẹ đã đền bù hết những thiếu sót của mình khi còn sống trên trần gian, được hưởng phúc bên Chúa và sẽ chuyển cầu những nguyện ước của chúng ta lên Thiên Chúa, đặc biệt những ước nguyện trong dịp Xuân mới này.
Mồng Hai Tết, Giáo hội Việt Nam đặc biệt mời gọi chúng ta hãy hướng về cội nguồn, cầu nguyện cho các bậc tiền nhân, kính nhớ ông bà tổ tiên, báo hiếu công đức sinh thành của cha mẹ, nhắc nhở chúng ta hãy luôn luôn sống trong tâm tình thảo hiếu, không chỉ đặc biệt trong ngày lễ hôm nay mà còn phải thể hiện lòng con thảo trong suốt cuộc đời của mỗi người. Kính nhớ ông bà tổ tiên cũng nhắc nhở chúng ta là con một Cha, là anh em trong một mái nhà; xin Chúa dẫn dắt chúng con trong niềm tin yêu và hy vọng, chúng con trông đợi mai ngày sẽ được sum họp cùng ông bà tổ tiên nơi Thiên Quốc.
Nguồn: TGP SàiGòn