Vai trò người phụ nữ và nếp sống tinh thần
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm thế giới dành ngày 8.3. nhớ riêng về phụ nữ: Ngày phụ nữ thế giới.
Hướng về phụ nữ với lòng kính trọng. Vì họ do Thiên Chúa dựng nên như bao loài thụ tạo khác trong công trình tạo dựng thiên nhiên.
Nhớ về phụ nữ với lòng biết ơn. Vì Bà nội ngoại, người mẹ sinh thành nuôi nấng chúng ta nên người là phụ nữ.
Nghĩ đến phụ nữ với lòng cảm phục. Vì sự dịu dàng chan chứa tình yêu thương, nhẫn nại hy sinh chịu đựng của người mẹ trong việc nuôi dạy con cái, lo lắng với hết tấm lòng quán xuyến gia đình cho có đời sống trật tự ấm no.
Vui mừng, vì trong gia đình có chị gái, em gái, trong họ hàng dòng tộc có cháu gái. Họ đều là người phụ nữ. Nói theo quy luật thiên nhiên là có âm dương điều hòa.
Sinh hoạt ngoài xã hội, trong cộng đoàn xứ đạo sinh động, trôi chảy. Vì có những người phụ nữ thuộc mọi lớp tuổi cùng nhiệt thành tham gia vào việc chung.
Một người tâm sự: tôi còn bố gìa đau bệnh cần phải có người chăm sóc bên cạnh. Tôi là con trai lớn, và tôi có em trai nữa. Chính ra chúng tôi phải lo việc này. Nhưng đàn ông chúng tôi không làm công việc này được. Đến thăm bố chỉ nói chuyện hỏi thăm thôi. Nên phải cậy nhờ đến những em gái chúng tôi làm công việc săn sóc cho bố. Phụ nữ họ có cảm quan nhậy bén. Chân tay họ tuy yếu sức, nhưng họ làm công việc này rất giỏi rất tốt, nhất là việc vệ sinh sạch sẽ, việc săn sóc cho ăn uống, tắm rửa cho người khác… và họ có sức chịu đựng dẻo dai. Thiên Chúa đã ban cho người phụ nữ khả năng này từ bẩm sinh.
Động lòng trắc ẩn thương tâm, khi thấy hay nghe biết người phụ nữ nào bị bạc đãi, bị bỏ rơi.
Và rồi cũng có những ý kiến nhận xét, cái nhìn như không muốn công nhận vai trò cùng khả năng của phụ nữ trong đời sống xã hội, trong việc làm.
Nhưng đức Giáo hoàng Phanxicô có nhận xét : “Phụ nữ có nhiều điều để nói với chúng ta trong xã hội ngày nay. Thỉnh thoảng, đàn ông chúng ta chưa tạo không gian cho họ. Phụ nữ có khả năng nhìn nhận vấn đề khác chúng ta, và có thể đưa ra những câu hỏi mà đàn ông không hiểu nổi”. (Bài giảng ở Manila 18.01.2015.)
Và như thế, phải chăng người phụ nữ là một công trình tạo dựng kỳ diệu của Thiên Chúa?
Không dám qủa quyết điều này qúa bao quát.
Nhưng xét cho cùng, người con biết cầm đũa, cấm muỗng ăn cơm, cầm dao cắt bánh, biết mặc quần áo, biết tự đánh răng, rửa mặt, tắm rửa… là do người mẹ chỉ dạy cho.
Nhớ lại, người con biết chào hỏi, giữ lễ phép là cũng do người mẹ hướng dẫn dậy bảo cho. Có những người mẹ luôn căn dặn con mình, cả ngay trước mặt mọi người khác, phải khoanh tay cúi đầu chào hỏi người thân, người quen biết, phải biết ăn nói giữ lễ độ.
Có những người con kể lại, mẹ của họ căn dặn dậy bảo cho biết cách ăn mặc ở đâu phải thế nào cho xứng hợp.
Theo phong tục văn hóa Việt Nam, thông thường khi người con gái đi lập gia đình, ngày họ bên đàng trai chú rể đến nhà bên đàng gái xin rước cô dâu về, người cha cô dâu đứng ra chào hỏi và trao con gái mình cho chú rể. Nhưng có những gia đình, và không ít, người cha lại không làm chuyện này, mà đẩy sang cho người mẹ làm công việc chào hỏi và nói lời trao con gái mình cho bên đàng trai.
Trong công việc uốn nắn , hướng dẫn tinh thần đạo giáo, người bà, nhất là người mẹ đóng một vai trò quan trọng.
Người con biết làm dấu Thánh Gía, biết chắp tay, thuộc những kinh cầu nguyện căn bản là do người mẹ chỉ dạy cho.
Đức Thánh Cha Phanxico đã ca ngợi những người mẹ, người bà trong gia đình là „ những người đóng vai trò loan truyền đức tin tiếp tục cho con cháu mình.“
Như Thánh Phaolo đã viết thư cho học trò mình Ông Timotheo nói về vai trò dạy dỗ đức tin của người phụ nữ trong gia đình:
„Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy.“ (2 Timotheo 1,5).
Càng ngày trong đời sống xã hội ở các quốc gia, nhiều quốc gia đã đưa ra những đạo luật bênh vực nhấn mạnh cho quyền lợi của phụ nữ, cơ hội bình đẳng nam nữ trong các sinh hoạt xã hội.
Hôm 6.3.2015 sau thời gian dài bàn gỉai thảo luận, quốc hội chính phủ nước Đức đã biểu quyết thành luật văn bản: trong ban điều hành các hãng xưởng lớn phải có 30% thành viên là phụ nữ.
Đức hồng Y Woelki của Tổng giáo phận Koeln đã có phát biểu khi mới vể nhậm chức: Trong Tổng giáo phận cần phải có thêm những người phụ nữa vào làm việc trong cơ cấu của Giáo hội nơi đây.
Thiên Chúa đã ban cho con người 10 điều răn làm căn bản cho đời sống đạo giáo tinh thần. Trong đó điều răn thứ tư dạy: Con phải thảo kính cha mẹ con.
Sách Huấn ca - Sirach - nói rõ: „Ai thảo kính mẹ thì thu tích được kho báu…3,4. Ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa. 3, 16“.
Vai tra người phụ nữ càng ngày càng trở nên quan trọng không chỉ trong việc sinh thành, giáo dục dạy dỗ con cháu, nhưng còn cả trong nhpững sinh hoạt chung cộng đồng ngoài xã hội nữa.
Người phụ nữ với bản tính do Trời phú ban gần sát cạnh với đời sống do khả năng chức vị sinh con, nuôi dạy con, cùng tính tình nhạy cảm. Nên vào giai đoạn thời đại nào xưa nay, họ vẫn luôn là thành phần góp phần xây dựng thiết yếu cho đời sống con người phát triển, nhất là về phương diện đạo đức tinh thần.
08.03.2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đền thờ mới
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Với người Do Thái đền thờ Gierusalem là nơi thánh thiêng. Nơi đó Thiên Chúa Giave ngự trị. Nơi đó mọi người tín hữu Do Thái đến cầu nguyện. Nhưng ở nơi đó lại có những cửa hàng buôn bán.
Chúa Giêsu lên đền thờ thấy cảnh tượng như thế, Ngài nổi giận quát mắng xua đuổi người buôn bán hàng quán , để bầu không khí trang nghiêm nơi thánh thiêng được tôn trọng duy trì. ( Phúc âm Thánh Gioan 2,13-25)
Và người ta bất bình về cung cách thái độ của Chúa Giêsu. Như vậy phải chăng Chúa Giêsu vì „ nhiệt thành“ dù chỉ với việc đạo, mà bị nghi cho là người theo phe phái Zelot qúa khích? Hay Chúa Giêsu muốn điều gì mang ý nghĩa chiều sâu khía cạnh đạo đức thần học khác hơn nữa?
Lòng nhiệt thành - Phái qúa khích Zelot?
Khi Chúa Giêsu giận dữ la lối dùng giây thừng xua đuổi người buôn bán khỏi đền thờ, với lý do „ Các anh hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi nơi đây, đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán“, các môn đệ nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. (Tv 2,17)
Từ ngữ Zelot dùng để nói về một phong trào đạo đức qúa khích trong đạo Do Thái. Zelot theo nguyên ngữ Hylạp „zelotes“ có ý nghĩa lòng nhiệt thành. Phong trào nhiệt thành đạo đức này bắt nguồn từ lai lịch trong Kinh Thánh thời Maisen. Theo Kinh thánh thuật lại Ông Pinhas Eleasar , là cháu của Tư Tế Aaron. Vì lòng nhiệt thành với Đức Chúa Giave đã dùng gươm đâm chết một người Do Thái đã lấy một người phụ nữ ngoại giáo đem về sống chung trong trại lều của người Do Thái. Ông Pinhas làm việc này vì lòng nhiệt thành đạo đức bênh vực sự thanh sạch của đạo Do Thái. ( Sách Dân số 25.)
Từ đó phong trào đạo đức với lòng nhiệt thành của người Do Thái hằng thế kỷ có tên là Zeloten - phái người nhiệt thành.
Chính vì thế, khi các môn đệ Chúa Giêsu nhớ tới câu kinh thánh „ Vì nhiệt thành lo việc nhà Chúa, mà tôi phải thiệt thân“ sinh ra nghi ngờ Chúa Giêsu thuộc phái nhiệt thành.
Không, Chúa Giêsu dù giận dữ lấy giây thừng đánh đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ, không làm công việc lật đổ ai về phương diện chính trị. Ngài chỉ muốn bênh vực bầu khí thánh thiêng „đền thờ“ của Thiên Chúa thôi.
Trong đời của Chúa Giêsu từ khi còn đang thành hình là người trong cung lòng mẹ Maria, người đã ở trên lưng con lừa - Lừa là một con vật hiền lành tượng trưng cho sự khiêm nhượng, nghèo hèn và hòa bình.
Ngày xưa bên vùng Trung Đông Lừa là con vật này được dùng để chuyên chở người cùng đồ vật nặng đi xuyên qua vùng đồi núi hiểm trở. Khi mẹ Maria cùng với Thánh Giuse từ Nazareth xuống Gierusalem thăm người chị họ Elisabeth, và khi đi xuống Bethlehem miền Juda nước Do Thái để khai tên và sinh Chúa Giêsu ở đây, họ cũng đi lừa. Lúc đó Chúa Giêsu cũng còn đang la thai nhi trong cung lòng mẹ Maria.
Sau khi chào đời, Chúa Giêsu được bồng ẵm trong lòng mẹ Maria cỡi lừa di cư tỵ nạn sang Ai Cập. Khi trở về Nazareth từ Ai Cập họ cũng cỡi lừa vượt đường xa hồi hương.
Ngày cuối đời Chúa Giêsu vào thành thánh Gierusalem cũng cỡi lừa đi vào thành.
Hình ảnh cỡi lừa trong đời Chúa Giêsu nói lên Ngài là vị vua hòa bình, không là nhà làm chính trị muốn lật đổ truất tước quyền ai cả.
Phải chăng đó cũng là hình ảnh đền thờ Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu muốn xây dựng làm ra?
Đền thờ Thiên Chúa
„ Phá hủy đền thờ này đi, và nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại.“. Với câu trả lời xác quyết như thế, Chúa Giêsu muốn nói cho chính quyền Do Thái cùng mọi người hình ảnh dấu chỉ: Thập gía và sự sống lại của mình
Thập gía và sự sống lại, dấu chỉ chính thức hợp thức hóa cho Ngài, là người thiết lập lễ nghi phụng thờ Thiên Chúa chính thật, qua sự đau khổ thương khó của Ngài hiến thân cho dân tộc Israel và toàn thể nhân loại trên hoàn cầu.
Và từ thời điểm đó việc thờ kính Thiên Chúa như hiện nay chấm dứt qua rồi. Một nền phụng vụ mới thờ kính Thên Chúa xuất hiện không do con người làm xây dựng nên. Nhưng đền thờ mới đó chính là Ngài, Người sống lại từ cõi chết. Ngài tụ tập toàn thể nhân loại lại, và hợp nhất trong bí tích Mình và Máu Ngài.
Ngài bị đóng đinh trên thập gía đồng thời đó cũng là việc phá hủy, cho chấm dứt đền thờ cũ. Việc Ngài sống lại từ cõi chết khởi đầu một cách thế mới thờ phượng Thiên Chúa, như Ngài đã nói với chị phụ nữ Samarita „ không phải trên núi này, cũng chẳng phải ở trên đền thờ Giêrusalem, nhưng trong tinh thần và chân lý.“ (Ga 4,23.)
//////////////////////////////////////////////////
Chúa Giêsu, như ký ức các Môn đệ nhớ lại „ Lòng nhiệt thành việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.“ (Tv 2, 17). Và như trong lời cầu nguyện trong lúc bị khinh khi, cô lập: Xin giúp con, lạy Chúa, nước đã ngập tràn tới cổ họng miệng con…Vì lạy Chúa con chịu đựng đau khổ…Lòng nhiệt thành việc nhà Chúa làm thân con rã rời. (Tv 69,2.8.10)
Phải, các môn đệ khi nhớ đến đoạn kinh thánh này, đã nhận ra sự đau khổ của người công chính là Chúa Giêsu phải gánh chịu: Lòng nhiệt thành việc nhà Chúa đưa Ngài đến con đường sự thương khó đau khổ và sau cùng tới chết trên thập gía.
Chúa Giêsu đã biến đổi lòng nhiệt thành qúa khích- Zelot - sang thành lòng nhiệt thành vì thập gía. Do đấy Ngài đã đặt ra thước đo khác cho lòng nhiệt thành chính thật: lòng nhiệt thành vì tình yêu tự hiến thân mình. Lòng nhiệt thành này là thước đo, là đích hướng tới của Chúa Kitô. Đây là câu trả lời chính thật của Chúa Giêsu về thắc mắc „ Zelotismus - phong trào lòng nhiệt thành“.
Trong đền thờ các người què, mù lòa được Chúa Giêsu chữa lành . Sự chữa lành những người tàn tật trong đền thờ là cung cách thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu. Ngài đến với qùa tặng sự săn sóc ban ân đức chữa lành.
Qua đó , Chúa Giêsu muốn chỉ cho con người, Thiên Chúa là người có lòng từ tâm tràn đầy lòng yêu thương, là người có sức mạnh uy quyền của tình yêu thương.
Ngày Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành thánh Giêrusalem, các trẻcon hân hoan đón mừng hô vang lời ca tụng Hosianna. Đó là hình ảnh dấu chỉ của những tâm hồn tinh tuyền trong sạch và quảng đại cởi mở cho Thiên Chúa giầu lòng nhân ái.
Và đó cũng là hình ảnh đền thờ mới , mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng thiết lập nên.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
///////////////////
Lấy cảm hứng từ:
-Joseph Ratzinger, Benedikt XVI., JESUS VON NAZARETH II., Herder 2011, Die Tempelreinigung trang 26/38
- R. Schnackenburg, Das JOHANNESEVANGELIUM 1-4, 1. Teil Herder 1972, Sonderausgabe, Herders theologischer Kommentar yum neuen Testament.
Hãy chống lại cái xấu
- Viết bởi Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
VRNs (04.03.2015) – Đồng Nai – Có một người mang biếu tôi mấy quả quýt, họ nói: “Quýt này con để dành ăn nên không có thuốc đâu!”. Nghe mà xót xa! Hóa ra quýt bán cho khách hàng thì phun thuốc, bất chấp độc hại, miễn là lợi nhuận kinh tế ra sao? Còn quýt để dành ăn mới sạch, mới bảo đảm an toàn thực phầm? Xem ra vì lợi nhuận mà người ta bất chấp tất cả, họ coi thường tính mạng của tha nhân. Phải chăng đạo đức xã hội đã xuống cấp đến mức con người không còn áy náy khi làm hại người khác để thu quén cho bản nhân?
Biết xấu vẫn làm là căn bệnh nan y của thời đại hôm nay. Nhưng còn một căn bệnh nữa đó là thấy việc xấu vẫn làm ngơ, dửng dưng, bàng quan cũng không kém phần trầm kha.
Có rất nhiều người thấy kẻ xấu ăn trộm nhà hàng xóm hay người bạn đi cùng vẫn làm ngơ, coi như không thấy. Họ là người ích kỷ.
Có rất nhiều cha mẹ thấy con cái đi đàng tội lỗi, vẫn im lặng như đang đồng lõa. Họ là người thiếu trách nhiệm.
Có rất nhiều bạn trẻ thấy bạn bị hãm hại, đánh đập vẫn đứng yên, khoanh tay đứng nhìn. Họ là người nhu nhược.
Người làm điều xấu thì đáng ghét và người im lặng trước sự xấu thì đáng khinh. Thế nên, khi nhìn thấy người làm điều xấu mình cũng cảm thấy nuối tiếc cho họ. Họ đã đánh mất đi hình ảnh đẹp của họ nơi chúng ta. Nhưng còn đáng buồn hơn khi nhìn thấy người tốt dửng dưng với cái xấu, với tệ nạn xấu đang tràn lan.
Làm người phải biết phân biệt cái đúng, cái sai. Khi nhỏ, ta thấy bạn bè quay cóp trong giờ kiểm tra trong khi chính mình phải học vất vả, ta dễ xem thường bạn bè. Khi ra đường ta thấy ai đó vượt đèn đỏ, lượn lách đánh võng, thấy đám côn đồ dối trá, lừa lọc bà cụ bán nước ven đường, ta thấy chướng mắt. Đó là những cái sai, cái xấu mà ta không bao giờ chấp nhận. Nhưng liệu rằng, bản thân ta đã bao giờ làm điều gì đó ngăn chặn những cái xấu ấy, hay chúng ta vẫn yên lặng cho qua để yên ổn bản thân?
Năm xưa Chúa Giê-su đã không dửng dưng trước cái xấu. Ngài đã hành động trong giận dữ mà người ta nói là “cơn giận thánh”. Ngài không thể chấp nhận sự dữ tồn tại. Ngài không thể khoanh tay nhìn cái xấu hoành hành. Phúc âm kể rằng: khi Chúa Giê-su vào trong đền thờ và Ngài thấy người ta buôn bán, cãi nhau, lừa đảo làm ô uế đền thờ. Chúa đã tức giận. Chúa đã xua đuổi con buôn khỏi đền thờ. Chúa không chấp nhận biến nhà Chúa thành nơi buôn bán, lừa lọc. Cho dù việc làm của Chúa đụng đến cái ăn của nhiều người. Từ các thượng tế đến dân buôn. Họ sẽ mất mối lợi từ đền thờ. Họ sẽ cùng nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không lùi bước khi phải đương đầu với sự dữ. Ngài đã làm tất cả để bảo vệ đền thờ.
Cuộc sống này sẽ bớt đi cái xấu nếu chúng ta dám nói không với tội lỗi. Và càng đẹp hơn nếu chúng ta cùng liên kết với nhau xua đuổi sự dữ. Xin đừng lãnh cảm với đồng loại. Hãy dám nói sự thật để bảo vệ công lý. Hãy can đảm ngăn chặn những việc xấu của anh em, của bè bạn và của những người đang chung sống với chúng ta. Có thể chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Nhưng chân lý sẽ thắng. Sự dữ sẽ bị đẩy lui nếu ai ai cũng đồng lòng tiêu diệt sự xấu để trả lại nền văn minh tình thương cho cuộc sống. Nhất là cho công lý và hòa bình được thực hiện trên quê hương chúng ta. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn: DCCT
Theo dấu vết đức tin trên núi Tabor
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo (17, 1-8), theo Thánh Maco (9,2-13), và theo Thánh Luca (9, 28-33) viết thuật lại quang cảnh Chúa Giêsu đem theo ba môn đệ Phero, Gioan và Giacobe lên núi cao. Trên đỉnh núi Chúa Giêsu biến hình với hai vị Tiên tri Maisen và Elija.
Phúc âm không nói đến tên ngọn núi nào. Nhưng theo truyền thống và khoa khảo cổ nghiên cứu đó là ngọn núi Tabor.
1. Ngọn núi Tabor
Núi Tabor cao 558 mét trên mặt nước biển ở vùng miền Galile phía Bắc nước Do Thái. Ngọn núi này cao hơn mặt đất ruộng vùng dưới chân núi 300 mét.Từ xa ngọn núi có hình thế như một qủa đồi có cấu trúc một qủa cầu hình tròn. Theo phỏng đoán ngọn núi được hình thành do phún xuất thạch của núi lửa phun ra từ thời cổ xa xưa tồn đọng lại, mặc dù đá ở đây là loại đá vôi.
Vào mùa Xuấn thảo mộc cây hoa huệ nhiều thứ loại mọc trổ bông hoa nơi đây rất đẹp.
Từ trên cao đỉnh núi người ta có thể quan sát nhìn toàn cảnh xung quanh rất hùng vĩ thơ mộng. Có thể vì đó, nơi đây thời xa xưa cũng là nơi thờ tự kính thần linh của người Canaan. Và ngọn núi này cũng có xây tường thành lũy để bảo vệ thành phố làng mạc xung quanh bên dưới. Dấu vết này người ta tìm thấy ở khắp nơi trong vùng này kéo dài ngược về thời trước tới năm 7000 trước Chúa giáng sinh.
Theo sách Kinh Thánh, sau khi dân Do Thái về đến miền đất Chúa hứa từ Ai Cập trở về, ngọn núi này là trở thành ranh giới giữa chi tộc Sebulon, chi tộc Issacha và chi tộc Neptali - (Sách Giosua 19,10/34). Với họ ngọn núi này là nơi thánh thờ tự, họ mang lễ vật hiến lễ đến đây hiến tế thờ kính thần thánh- (Sách Dân số 33,19). Ngôn sứ Hosea lên án tục lệ thờ cúng này, vì nó mang gây ra sự tách ly chia rẽ ,và còn chứng tỏ sự ăn chơi tội lỗi - (Sách Hosea 5, 1).
Tác gỉa Thánh Vịnh 89,13 đã nói đến tên núi Tabor cùng với núi Hermon như hình ảnh của tất cả mọi núi trên mặt đất. Còn Ngôn sứ Gieremia so sánh nó với sự vượt trội về sức mạnh của quân Nabukadnesa trên quân thù (Giêremia 46,18) .
2. Tabor, nơi thờ tự
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết một thánh địa được xây dựng trên núi Tabor có từ thời thế kỷ 4. hoặc thứ 5., và cả những di tích nơi thờ kính thần thánh của người Canaan ngày xưa đã xây ở đây còn lưu sót lại.
Cũng có một vài chứng minh cổ xưa còn cho rằng nơi đây Thánh nữ Helena có thể đã xây một đền thờ. Những người hành hương hồi thế kỷ 6. và 7. còn nói đến ba vương cung thánh đường đã được xây ở đây. Ba vương cung thánh đường nhắc nhớ đến lời Thánh Phero xin làm ba lều, khi chứng kiến thấy cảnh Chúa Giêsu biến hình cùng với Tiên tri Maisen và Elija.
Người ta cũng thuật lại nơi đây ngày xưa có thời là nơi các vị Tu sỹ đến hội họp sinh sống. Và ngày nay còn tìm thấy một bức tranh khắc ráp theo hình thể Mosaic trên nền nhà vào thời xa xưa đó.
Năm 533 sau Chúa giáng sinh Công đồng Constantinople họp trên núi Tabor. Năm 808 sau Chúa giáng sinh 18 Tu sỹ cùng với Giám mục Theophanes đến đây cư ngụ chăm sóc ngôi thánh đường trên núi Tabor.
Năm 1101 sau Chúa giáng sinh các Tu Sỹ Dòng Bebedictô đến xây dựng lập Dòng sinh sống tu trì, xây đền thờ trên núi Tabor. Nhưng khoảng từ năm 1212 sau Chúa giáng sinh, quân Sarazenen đến xâm chiếm nhà Dòng. Họ xây thành lũy chống kẻ thù. Sau đó những tín hữu Chúa Kito được phép nhận lại đất địa nơi đây. Đến 1263 sau Chúa giáng sinh quân của Sultan Bibars đến xâm chiếm và pháhủy toàn bộ cơ sở.
Từ thời điểm này núi Tabor hoàn toàn bỏ trống cho đến 1631 sau Chúa giáng sinh các Tu Sỹ Dòng Phanxico đến lập nhà Dòng, xây vương cung thánh đường trên ngọn núi này vào năm 1924.
3. Vương cung thánh đường Chúa biến hình
Trên đỉnh núi một đại lộ rộng lớn có cổng dẫn vào vương cung thánh đường Chúa biến hình được Dòng Phanxico xây dựng năm 1924 theo hình dạng ba cánh hình con thuyền trên nền tảng của nền đền thờ cũ.
Ngoài mặt tiền vương cung thánh đường có một vòng cung ở giữa hai tháp vươn cao làm thành như một bức tường có ba phần vươn lên trời . Hình ảnh này như chào đón khách hành hương đến viếng đền thờ , và đồng thời cũng nhắc gợi tâm trí nâng tâm hồn lên cao. Ba hình vòng cung mặt tiền ngoài đền thờ nhắc nhớ đến Chúa Giêsu biến hình đàm đạo với hai Tiên Tri Maisen và Elija trên núi này.
Trong vương cung thánh đường ở hai bên phía cuối có hai nhà nguyện nhỏ, một kính Thánh Tiên tri Maisen ở bên trái và một ở bên phải kính Thánh Tiên Tri Elija. Phía cung thánh là bàn thờ kính Chúa Giêsu biến hình. Trên trần cung thánh có hình khắc mầu vàng sáng chói vẽ quang cảnh Chúa Giêsu biến hình đang nói chuyện với hai Thánh Tiên tri và sự hiện diện của ba môn đệ Phero, Gioan và Giacobe.
4. Thời điểm và mối tương quan
Phúc âm theo Thánh Mtheo và Maco nói 6 ngày sau đó Chúa Giêsu mang theo ba môn độ lên núi. Còn Thánh Luca viết 8 ngày sau đó. Thời gian sáu hay tám ngày cho ta thông tin vào dịp tuần lễ Sukkot - lễ Lều trại của nười Do Thái- Và như thế Chúa biến hình vào ngày sau cùng của lễ Sukkot.
Lễ Sukkot - Lễ Lều trại - theo số nhiều là Sukka, của người Do Thái là một trong ba lễ hành hương trong đạo Do Thái . Lễ mừng này diễn ra vào mùa Thu trong tháng 9. hoặc tháng 10. và kéo dài 7 ngày, từ ngày 15. đến ngày 21 tháng Tischri tháng thứ bảy theo niên lịch Do Thái. Lễ Sukkot, lễ Lều trại, năm 2015 sẽ diễn ra từ ngày 28. tháng chín đến 04. tháng mười.
Biến cố Chúa Giêsu biến hình trong mối liên quan với lễ Sukkot của đạo Do Thái nói lên tất cả lễ mừng trong đạo Do Thái đều có bao gồm khía cạnh: đến từ niềm tin thiên nhiên, nói về Đấng Tạo Hóa và công trình sáng tạo, nhắc nhớ đến việc Thiên Chúa làm và sau cùng đưa đến lễ niềm hy vọng Thiên Chúa đến. Ngài đến để hoàn thành công việc cứu chuộc cùng mang lại sự hòa giải với toàn thế công trình sáng tạo.
Những biến chuyển lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu đều có liên quan mật thiết tới lể mừng trong đạo Do Thái. Trong nghi lễ phụng vụ của đạo Do Thái ý tưởng về sự mong đợi, sự sống luôn đóng vai trò chính yếu trung tâm.
Cũng có suy diễn cho rằng biến cố biến hình của Chúa Giêsu thời Tân ước đối chiếu với biến cố lên núi của Tiên Tri Maisen ngày xưa thời Cựu ước trên núi Sinai như trong sách Xuất hành 24, 16 thuật lại-
Hình ảnh này được vẽ trên tường chung quanh nhà nguyện Sixtina ở Vatican, một bên là những hình ảnh biến cố thời Cựu Ước và một bên đối diện là những biến cố thời Tân ước với Chúa Giêsu - trong số đó có quang cảnh biến cố cảnh Maisen lên núi Sinai nhận bản Lề luật của Thiên Chúa và hình ảnh cảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.
Tiên tri Maisen lên núi Sinai theo lệnh của Thiên Chúa với ba cộng sự viên Aaron, Nadab và Abihu. Chúa Giêsu lên núi Tabor với ba môn đệ Phero, Gioan và Giacobe.
5. Những ngọn núi và cuộc đời Chúa Giêsu
Phúc âm thuật lại, Chúa Giêsu sinh ra trong hang chuồng xúc vật ngoài cánh đồng Bethlehem. Nhưng cuộc đời rao giảng và chết sống lại cùng lên trời của Chúa Giêsu lại gắn liền với núi đá cao.
Ngài ăn chay nơi thanh vắng ở hoang địa sa mạc, nhưng lại bị ma qủi đưa lên núi cao dụ dỗ. Bài giảng đầu tiên Tám mối phúc thật Chúa Giêsu giảng từ trên núi cao, ngài thường tìm lên núi cầu nguyện, biến hình trên ngọn núi Tabor, trong núi vườn cây dầu hấp hối lo buồn đổ mồ hôi máu, bị đóng đinh chịu tử hình trên núi sọ Golgotha và sau cùng sống lại lên núi cao trở về trời cùng Thiên Chúa Cha.
Song song trước đó trong thời Cựu ước là những ngọn núi Sinai, Horeb, Morija, là những ngọn núi mạc khải và đồng thời nói về ngọn núi đền thờ.
Như thế núi là hình ảnh nói về nơi chốn đi lên, không phải chỉ khung cảnh hình thức bên ngoài, nhưng mang sâu đậm ý nghĩa thâm sâu của nội tâm. Núi cao như hình ảnh sự giải thoát khỏi những gánh nặng trong đời sống hằng ngày, trên núi cao người ta hít thở không khí trong lành của công trình thiên nhiên, từ trên núi cao người ta có tầm nhìn bao quát xa rộng của cảnh thiên nhiên và vẻ đẹp của nó rõ hơn.
Thánh sử Luca, người duy nhất viết tường thuật: „Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện, ngài biến hình. mặt ngài sáng chói, áo ngài trắng như tuyết.“ (Lc 9,29). Như thế cuộc biến hình là một biến cố cầu nguyện.
Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha. Tâm hồn ngài kết hợp với Thiên Chúa Cha. Trong sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Cha, Đấng là ánh sáng tinh ròng, Chúa Giêsu đã trở thành ánh sáng, trong ánh sáng Thiên Chúa và trong ánh sáng của chính ngài là Con Thiên Chúa.
Ngày xưa Tiên tri Maisen lên núi Sinai gặp gỡ Thiên Chúa, khi xuống núi „ da mặt ông chiếu sáng“ ( Sách Xuất hành 34,29). Do được nhìn thấy cùng nói chuyện với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa trên ông, và làm cho ông trở nên sáng chói.
Như thế có thể nói, từ bên ngoài ánh sáng chiếu trên Maisen làm cho ông thành ánh sáng chiếu tỏa ra. Còn Chúa Giêsu thì không vậy, Ngài chiếu sáng từ trong thâm tâm tâm hồn của chính ngài ra bên ngoài. Ngài không chỉ tiếp nhận ánh sáng từ Thiên Chúa, mà chính ngài là ánh sáng bởi ánh sáng.
Áo Chúa Giêsu trở nên trắng sáng chói lúc biến hình là hình ảnh diễn tả tương lai ơn cứu độ của con người chúng ta. Trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan, áo trắng là hình ảnh diễn tả bản chất của nước trời, áo của các Thìên Thần trên trời, áo của của những người được Chúa cứu độ. Áo của những người được cứu độ trắng tinh ròng , vì họ được tắm rửa trong máu Con Chiên. ( Kh 7,14.)
Hình ảnh này nhắc nhớ đến tấm áo trắng ngày nhận lãnh Bí Tích rửa tội. Qua Bí tích rửa tội được cùng liên kết với sự thương khó của Chúa Giêsu. Và sự thương khó khổ nạn của Chúa Giêsu thanh tẩy họ trở nên trong trắng tinh tuyền khỏi vết nhơ tội lỗi. Qua bí tích rửa tội chúng ta được cùng với Chúa Giêsu Kitô mặc chiếc áo trắng ánh sáng tinh tuyền và trở thành ánh sáng.
Phúc âm thuật lại Thánh Phero sau khi ngủ mê bừng tỉnh nói với Chúa Giêsu „ Thưa Thầy, ở đây thật hay. Chúng con xin dựng ba lều, một cái cho Thầy, một cái cho Maisen và một cái cho Elija“.
Tại sao Thánh Phero lại nói đến những chiếc lều mà không nói đến điều gì khác hơn nữa?
Như đã nói, cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao Tabor trùng vào ngày chót của lễ Sukkot, lễ lều trại, trong đạo Do Thái. Ngày lễ này theo sách Levi 23, 41- 43 nói rõ“ Các ngươi phải mừng lễ Sukkot, lễ Lều trại, như một lễ kính Đức Chúa trong vòng bảy ngày mỗi năm: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi. Vào tháng thứ bảy, các ngươi phải mừng lễ đó . Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ở trong lều bằng cành cây, mọi người bản xứ tại Israel phải ở trong lều bằng cành cây, để các thế hệ của các ngươi biết rằng Ta đã cho con cái Israel ở trong lều bằng cành cây, khi ta đưa chúng ra khỏi đất Ai Cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.“
Lễ lều trại với những chiếc lều làm bằng cành cây thiên nhiên không chỉ nhắc nhớ đến kỷ niện biến cố bảo vệ gìn giữ của Thiên Chúa cho dân Do Thái ngày xưa đi trong sa mạc, nhưng còn nói đến điều quan trọng hơn nữa về một lễ lều trại tương lai sau này cho mọi người trong thời gian đang tới, mà nơi đó họ được cứu thoát cư ngụ. Như vậy lễ Lều trại nói lên đặc tính về một ý nghĩa thời gian cứu độ ngày sau cùng.
Thánh Phero người Do Thái cùng là tín hữu theo đạo Do Thái chắc chắn đã biết cùng hiểu ý nghĩa đạo đức thần học của lễ Sukkot, lễ Lều trại, mà Ông cùng với Chúa Giêu vừa mừng.
Ông cũng vừa trước đó mấy ngày đã nói lên lòng tin của mình, khi ông tuyên xưng công khai Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với Thầy mình.
Ông cũng thấu hiểu nhận ra trong thâm tâm thời giờ đấng cứu độ đang đến. Vì thế lễ Sukkot, lễ Lều trại, là hình ảnh gương mẫu cho tâm trí ông đang trong lúc ngây ngất được chiêm ngưỡng vẻ huy hoàng của Chúa Giêsu. Nên ông đã có suy nghĩ và nói đến dựng ba chiếc lều. Đó là những chiếc lều công trình sáng tạo của Thiên Chúa, những chiếc lều lịch sử ơn cứu độ và những chiếc lều niềm hy vọng.
Lời nói của Phero xin làm ba Lều không là bộc trực ngẫu hứng do cảm tính. Nhưng là kết qủa của một đời sống từ một con người có tâm hồn đạo đức yêu mến những gì có liên quan đến việc làm ơn cứu độ của Thiên Chúa đã, đang cùng sẽ mang lại ảnh hưởng sâu rộng tích cực cho đời sống con người.
***************
Trên núi Sinai, Thánh tiên tri Maisen tiếp nhận bản Lề Luật, Thora, của Thiên Chúa cho dân Israel trong thời Cựu Ước.
Còn trên núi Tabor chính Chúa Giêsu tỏ mình ra là Thora, sách Lề Luật thời Tân ước cho toàn thể nhân loại.
Trên núi Sinai, Thiên Chúa đã mặc khải cho Maisen bản Lề Luật của Người truyền cho dân Israel. Họ phải căn cứ theo luật này mà sống.
Trên núi Tabor biến hình, Chúa Giêsu mạc khải cho ba môn đệ không chỉ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng còn về cuộc xuất hành chịu khổ nạn thương khó của Ngài bắt đầu ở Giêrusalem. Cuộc thương khó khổ nạn của ngài mang lại ơn cứu chuộc niềm hy vọng cho mọi con người. Và Thiên Chúa Cha trên núi này đã mặc khải cho ba môn đệ biết về Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo đệ nhị, khi còn sinh thời đã lập ra nguyện ngắm sự sáng trong cho chuỗi tràng hạt mân côi:
„Thứ bốn thì ngắm: Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành lời Chúa.
Kỷ niệm chuyến hành hương „Kẻ đi tìm“ sang thăm viếng đất Thánh Do Thái từ ngày 02. đến 12. Tháng Hai 2015 của 51 thành viên giáo hữu Chúa Kitô với Cha Giuse Nguyễn trọng Tước.
Chúa nhật thứ hai mùa chay
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
********************
Lấy cảm hứng từ:
- Joseph Ratzinger BENEDIKT XVI. JESUS von Nazareth I., Herder Fr. im Bresgau 2007, Chương hai trang 353 - 365.
- Heinz Schuermann, Das Lukasevangelium, chương 1,1-9,50, Sonderausgabe, Herder i. Bresgau 1984.
- Nguyễn tầm Thường, Kẻ đi tìm, 34 bài suy niệm trên đường đi, in lần thứ hai 2009, chương 25. và 26. về Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.
Để ăn chay hiệu quả
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU (Viết theo Beliefnet.com)
VRNs (27.02.2015) – Sài Gòn – Hàng năm, chúng ta có Mùa Chay để noi gương Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong hoang địa 40 đêm ngày (Lc 4:1-2). Đây là dịp thuận tiện để chúng ta thực hành dạng hy sinh mới hoặc phong phú hóa đời sống cầu nguyện.
ĂN CHAY NGÀY THỨ SÁU
Mỗi năm, Giáo Hội yêu cầu chúng ta chỉ ăn chay hai ngày – Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng chúng ta có thể ăn chay nhiều hơn để có lợi cho linh hồn chúng ta, nhất là trong Mùa Chay này. Và đừng quên rằng chúng ta phải kiêng thịt vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay.
ĐI ĐÀNG THÁNH GIÁ
Đa số các giáo xứ đều đi Đàng Thánh Giá vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay, nhiều giáo xứ còn đi Đàng Thánh Giá mỗi tuần vào ngày Thứ Sáu. Hãy cố gắng dành thời gian đến nhà thờ để cùng mọi người theo chân Chúa Giêsu trên 14 chặng đau khổ của Ngài.
VIẾNG THÁNH THỂ
Hãy dành thời gian cầu nguyện trước Thánh Thể, đó là điều làm vui lòng Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các môn đệ vẫn “vô tư”, Chúa Giêsu nói với họ: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:40-41). Viếng Thánh Thể còn quen gọi là “làm giờ thánh”.
THỰC HÀNH BÁC ÁI
Hãy thực hành bác ái cụ thể bằng cách hy sinh sự thoải mái riêng để trao tặng quần áo, dụng cụ, tiền bạc,… cho những người còn phải sống khó khăn hơn mình. Bạn cũng có thể dành thời gian đi làm từ thiện, thăm viếng bệnh nhân và người già để an ủi và cảm thông nỗi khổ với họ. Mùa Chay là thời Thiên Chúa thi ân, là ngày Thiên Chúa cứu độ (2 Cr 6:2).
SUY NIỆM PHÚC ÂM
Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho bạn hiểu đúng và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hãy dành thời gian cầu nguyện và suy niệm khi đọc Phúc Âm nói về cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu.
GƯƠNG THÁNH NHÂN
Các thánh là những anh hùng đức tin. Họ cũng là những người sống bình thường như chúng ta, nhưng họ đã thực hành nhân đức một cách phi thường. Họ có thể giúp chúng ta hành động can trường như họ. Trong Mùa Chay, hãy noi gương vị thánh nào mà bạn yêu mến và cố gắng sống như vị thánh đó. Hãy xin vị thánh đó nguyện giúp cầu thay cho bạn.
VÀO SA MẠC
Vào sa mạc là sống trong “khoảng lặng” của tâm hồn ngay giữa cuộc sống ồn ào náo nhiệt này. Hãy giảm bớt các hoạt động vô bổ hoặc chưa thực sự cần thiết. Hãy tắt ti-vi, máy vi tính, điện thoại,… Chỉ sử dụng chúng khi thực sự cần thiết. Hãy tận hưởng sự thinh lặng, hãy dành thời gian sống cho người khác, đặc biệt là hãy dành thời gian gặp gỡ Chúa, vì chúng ta chỉ có thể gặp Ngài nơi “sa mạc tâm hồn” mà thôi: “Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (Mt 6:6).
TRẦM THIÊN THU (Viết theo Beliefnet.com)
Nguồn: DCCT
Hình ảnh bất thường của người Việt
- Viết bởi Lm. Jos Tạ duy Tuyền
VRNs (27.02.2015) – Đồng Nai – Một mùa xuân nữa đã qua đi. Mùa xuân qua đi thường để lại một lưu luyến nhớ xuân, một niềm vui trọn vẹn ngày xuân. Nhưng mùa xuân này để lại cho chúng ta một nỗi buồn về con người, về tình người đã mất, về phẩm chất người dân Việt hiền lành nay đang đánh mất.
Theo báo cáo của bộ Y tế cho biết, trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, đã có hơn 6.000 người phải vào viện do đánh nhau, và đã có 15 người tử vong. Chuyện lạ là năm nay mới có thêm tổng kết về nhập viện do đánh nhau. Đây thực sự là tai họa, vì do chính con người chủ động gây ra cho anh em mình. Nó là một báo động đỏ về tình trạng bạo lực leo thang trong xã hội. Ngay trong những ngày tết, là những ngày mà lẽ ra, người Việt mình phải cư xử với nhau một cách hài hòa nhất, thân thiện nhất. Ngày tết, gặp nhau là chúc vạn sự lành, trăm điều tốt đẹp trong năm mới. Nhiều mắc mớ, trắc trở, mâu thuẫn trong năm cũ cũng được mọi người chủ động dẹp bỏ, gác sang bên trong ba ngày tết. Nhưng xem ra điều này đã không còn đối với một bộ phận không nhỏ người Việt Nam.
Trước thực trạng trên, có người đã viết trên facebook: “Việt Nam phải vui Tết cách khác, không thể vui Tết mà chết, bị thương nhiều, kẹt xe, bị móc túi… nhiều như thế này. Xã hội bị tổn thất lớn về nhân lực, bị tổn thương về tâm lý và bệnh viện quá vất vả về những thương tật không đáng có”.
Bạo lực là xấu. Nhưng vì sao nó lại xảy ra quá nhiều trong ba ngày tết – thời gian dành cho sự tốt đẹp và an lành? Đó là điều chúng ta, từ người dân tới các cơ quan công quyền, cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về những “hiện tượng lạ” ấy.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ…, là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm…
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ nghĩ mình là con vật nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa được tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Và xin cho chúng ta biết sống đúng bản chất của hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu và biết sống cho tình yêu. Amen
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Nguồn: DCCT
Thế giới nào là ảo?
- Viết bởi Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
VRNs (25.02.2015) – Đồng Nai – Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.
Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.
Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.
Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.
Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.
Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn: DCCT
"Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt thù hận" (Hc 28,6)
- Viết bởi Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt chuyển ngữ
... Ngày 17-5-1972 cảnh sát trưởng Luigi Calabresi bị ám sát ngay trước cửa tư gia ở đường Cherubini tại thành phố Milano miền Bắc nước Ý, hưởng dương 35 tuổi (1937-1972). Năm ấy góa phụ Gemma Capra Calabresi mới 25 tuổi với hai đứa con trai còn nhỏ tuổi và đang mang thai đứa con thứ ba.
Thật là biến cố kinh hoàng làm đảo lộn tất cả. Thế nhưng đó mới chỉ là khởi đầu cho những đau thương tiếp diễn sau đó. Dầu vậy, hôm nay, sau hơn 40 năm trôi qua, bà Gemma Capra Calabresi vẫn tiếp tục nói và làm chứng cho Đức Tin và niềm Hy Vọng xuyên qua một cuộc sống ghi đậm niềm vui và nhất là Tha Thứ. Sau đây là những lời của bà Gemma.
Tức khắc lúc xảy ra án mạng trong lòng tôi không hề có chút oán thù. Nhờ thế mà tôi cảm nhận niềm trìu mến bao la đến từ bên ngoài chứ không phải từ chính tôi. Tôi cùng với Cha sở đọc ngay một Kinh Kính Mừng cầu cho kẻ sát hại hiền phu tôi và nhất là cầu cho gia đình của anh ta. Tôi nghĩ chắc hẳn gia đình kẻ sát nhân có nỗi đau đớn còn lớn lao hơn cả chính tôi. Tôi xác tín rằng vào lúc ấy tôi nhận được hồng ân Đức Tin. Nói nghe có vẻ khù khờ khó tin. Nhưng sự thật là như thế. Tôi không hề cảm thấy oán thù và tuyệt vọng. Tôi như được Thiên Chúa đổ tràn Tình Yêu của Ngài và không thể nào diễn tả bằng lời. Tôi cảm nhận sự hiện diện và sức mạnh của Chúa ở trong tôi. Tôi nghĩ khi chúng ta nói về Chúa Thánh Thần là như thế. Tình Yêu và Sức Mạnh.
Ngay khi xảy ra án mạng, tôi không hề tỏ ra giận dữ, than trách hoặc tuyệt vọng. Không. Được như vậy là nhờ tôi biết rằng Thiên Chúa đang hiện diện. Thế là tôi điềm tĩnh và nhìn sự việc dưới một nhãn quan khác. Điều này giúp tôi rất nhiều, kể cả những năm tháng kế tiếp sau đó và vào những lúc khó khăn nhất, đặc biệt trong thời kỳ xử án. Tuy nhiên tôi không luôn giữ được Đức Tin vững mạnh. Thế nhưng mỗi lần bị thử thách tôi liền nhớ đến giây phút xảy ra án mạng để kín múc Đức Tin.
Có nhiều người cho rằng đây là vụ án chính trị. Riêng tôi, tôi không bao giờ đặt câu hỏi tại sao biến cố đau thương lại xảy ra cho tôi. Không. Tôi tự nhủ trên thế giới còn có nhiều đau thương khác lớn lao gấp bội phần đau thương của tôi. Nhưng đối với hiền phu quá cố của tôi thì khác. Tôi thắc mắc tại sao người ta lại giết anh, một người luôn quan tâm và sẵn sàng giúp đỡ tha nhân. Anh cố gắng tìm hiểu những gì đang diễn ra và ước muốn đối thoại với nhóm trẻ du côn đang phá phách. Có lẽ vì thế mà anh trở thành mồi ngon cho oán thù.
Trên ngôi mộ của hiền phu, tôi chọn câu nói của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,34). Khi chọn câu này tôi tự nhủ: “Là tín hữu Công Giáo sống đạo chân thành, mình phải sống thực sự câu nói chứ không phải chỉ viết ra mà thôi!” Tôi phải trải qua một lộ trình Tha Thứ thật dài. Nhưng tôi nhận được sự giúp đỡ của nhiều người.
Trước tiên là nhờ thân mẫu tôi với lời nói và gương lành của người. Mẹ tôi là phụ nữ có Đức Tin vững mạnh. Chúng tôi cùng nhau trao đổi và thổ lộ tâm tình. Khi tôi thấy một người nào đó tỏ ra giận dữ và nuôi mối căm thù tôi lấy làm tiếc vì như thế là người đó làm hỏng cuộc đời mình. Tha Thứ là một ân huệ đến từ Thiên Chúa nhưng nó cũng là một cái gì đó được chín mùi. Riêng tôi, tôi tha thứ nhờ sống Đức Tin. Con đường tha thứ có thể có nhiều lối khác nhau. Nhưng đối với tôi, Tha Thứ là một cuộc chinh phục. Tôi chiến thắng oán thù nhờ Đức Tin.
Ngay từ đầu sau thảm họa, tôi quyết định chọn việc giáo dục con cái tránh xa oán ghét và báo thù. Có như thế chúng tôi mới tận hưởng niềm vui trong cuộc sống. Dĩ nhiên cuộc đời tôi thay đổi rất nhiều sau cái chết đau thương của hiền phu. Nhưng trong thử thách tôi cảm thấy mình không cô đơn. Tôi biết rõ Thiên Chúa ở bên tôi. Chính niềm tin tưởng vững mạnh này ban cho tôi sức mạnh. Tôi cũng cố gắng truyền đạt Đức Tin và niềm an bình cho các con. Tôi tin rằng chúng là những con người yêu chuộng hòa bình.
Bên cạnh Đức Tin còn có niềm Hy Vọng. Với tư cách nhà giáo, tôi luôn luôn nhấn mạnh với các học sinh về sự cần thiết không bao giờ đánh mất niềm Hy Vọng và đừng bao giờ cảm thấy cô đơn. Cuộc đời chúng ta nằm trong vòng tay Thiên Chúa. Và chúng ta phải xác tín rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh. Với niềm tin tưởng vững chắc này, chúng ta cứ an tâm tiến bước.
“…Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài. Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Thiên Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Thiên Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó? Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt thù hận, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi.” (Sách Huấn Ca 27,30/28,1-7)
(“CREDERE la gioia della fede”, Settimanale, Anno III, No 2,
11 Gennaio 2015, trang 14-18)
Đường Thánh Giá
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (25.02.2015) – Sài Gòn – Đường Thánh Giá (La ngữ: Via Crucis, Via Dolorosa; Anh ngữ: Way of The Cross, Way of Sorrows, Way of Suffer, Way of Grief) là một trong nơi thánh.
Đó là con đường mà Chúa Giêsu đã phải vác Thập Giá từ nơi Ngài bị kết án tử tới nơi Ngài bị xử tử bằng cách đóng đinh vào Thập Giá. Đó là nơi hành hương trong thành phố Giêrusalem cổ, và là con đường nổi tiếng từ thời sơ khai của Kitô giáo. Người ta muốn theo bước chân của Chúa Giêsu từ giữa thế kỷ IV. Đường Thánh Giá gồm 14 chặng: chín chặng dọc theo con đường và năm chặng ở trong Nhà Thờ Mộ (Holy Sepulchre).
Những người đầu tiên theo Chúa Giêsu đã đi theo Đường Thánh Giá và trở nên truyền thống thể hiện lòng sùng kính Chúa Giêsu qua đau khổ và cái chết của Ngài. Đường Thập Giá theo La ngữ là Via Dolorosa, nghĩa là “Đường Đau Khổ”.
Sau hàng trăm năm, Đường Thánh Giá trở nên hoạt động chính đối với khách hành hương tới Giêrusalem. Họ thăm Thánh Địa và Giêrusalem để kính viếng nơi Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trước khi bị đóng đinh vào Thập Giá. Các du khách có thể đi Đường Thánh Giá từ xa để theo chân Chúa Giêsu, nhiều người nói đây là cách trải nghiệm khiêm nhường nhất.
Đường là Đàng, Việt ngữ gọi là Đàng Thánh Giá. Kitô giáo phát triển theo thời gian, các Kitô hữu không thể tới Thánh Địa đã làm Đàng Thánh Giá bằng đá, bằng gỗ, bằng kim loại, hoặc hình ảnh để kính nhớ Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu tại Giêrusalem xưa. Các nhà thờ Công giáo đều có 14 chặng Đàng Thánh Giá.
14 Chặng Đàng Thánh Giá
- Chúa Giêsu bị xét xử và bị kết án tử.
- Chúa Giêsu vác Thánh Giá.
- Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất.
- Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ.
- Ông Simon Xyrênê vác Thập Giá đỡ cho Chúa Giêsu.
- Bà Veronica lau mặt cho Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ hai.
- Chúa Giêsu an ủi phụ nữ thành Giêrusalem.
- Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ ba.
- Chúa Giêsu bị lột áo.
- Chúa Giêsu bị đóng đinh vào Thập Giá.
- Chúa Giêsu trút hơi thở trên Thập Giá.
- Tháo xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập Giá.
- Mai táng Chúa Giêsu trong mộ đá.
Mặc dù ngày nay thành cổ Giêrusalem nhìn khác thời Chúa Giêsu, nhưng Đàng Thánh Giá và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu vẫn là nơi quan trọng đối với Kitô giáo. Đi Đàng Thánh Giá là cách suy niệm Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Qua đó, chúng ta có thể thêm lòng yêu mến Ngài, cố gắng khiêm nhường để hoàn thiện như Ngài muốn.
Thiết tưởng, rất cần ghi nhớ lời Chúa Giêsu nhắn nhủ các phụ nữ thành Giêrusalem: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Và hôm nay, Ngài cũng đang nói với chúng ta như vậy!
Mùa Chay, cơ hội tốt để sám hối và thông phần đau khổ với Chúa Giêsu, mời bạn theo chân Ngài qua video này:
Nhưng cuối cùng, Chúa Giêsu đã phục sinh. Alleluia!
TRẦM THIÊN THU
Nguồn: DCCT
Hấp lực cám dỗ
- Viết bởi JM. Lam Thy ĐVD.
Theo từ nguyên, cám dỗ chỉ có nghĩa “Khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”. Là con người ai mà chẳng có dục vọng (lòng ham muốn). Tâm địa con người cũng giống như một ruộng lúa, trong đó không thiếu cỏ lùng, bởi “trong con người luôn luôn có cốt cách của một vị thánh nhân cũng như của một tên đại bợm” (ngạn ngữ Tây phương). Vị thánh nhân đó thường bị lép vế bởi tên đại bợm. Và khi có một nguyên cớ nào từ bên ngoài tác động vào dục vọng (nói cách thời thượng là bị “đánh trúng vào tim đen”) thì tên đại bợm khoái chí bùi tai và lập tức đẩy con người vào hấp lực của cám dỗ. Điều đó cho thấy bản chất của cám dỗ là nguy hiểm, nhưng ác một nỗi những cơn cám dỗ lại luôn luôn là một sự dễ chịu, ngọt ngào, lôi cuốn. Vì thế, mới khiến con người dễ bị sa ngã.
Đã có người coi cám dỗ không phải là xấu, không phải là tội, thậm chí còn cho rằng sự cám dỗ ấy sẽ là triều thiên vinh quang khi con người chiến thắng được nó. Một câu hỏi được đặt ra: cái triều thiên vinh quang ấy có được là do sự cám dỗ mang lại hay do sự chiến đấu chống lại được cám dỗ mang lại? Đáp số của câu hỏi này đã rõ như 2 với 2 là 4: Triều thiên vinh quang ấy có được là do sự chiến đấu thắng lợi được cám dỗ, tất nhiên. Và như thế thì cám dỗ tốt hay xấu, tội hay không tội? Nếu nó không xấu, không phải là tội, thì có cần phải chiến đấu chống lại nó không? Và không chiến đấu thì đào đâu ra triều thiên vinh quang?
Thực ra, xét đến cùng, thì vì sao ma quỷ, kẻ xấu phải cám dỗ con người? Nếu là một tư tưởng, một hành động, một việc làm tốt, quang minh chính đại, thì tự bản chất bộc lộ ra chẳng cần phải dùng cảm tính mà dụ dỗ (cám dỗ) một ai. Chỉ có những ham muốn không tốt, những dục vọng thấp hèn mới cần phải che đậy và dùng chiêu thức cám dỗ để lừa phỉnh, gạt gẫm người ta vướng vào. Cũng vì thế nên Thánh Gia-cô-bê Tông đồ mới dạy: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: "Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ", vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai.” (Gc 1, 13). Chính Đức Giê-su Thiên Chúa, với bản tính loài người, cũng chịu để bị cám dỗ, chớ Người không hề cám dỗ một ai. Những Lời dạy của Người luôn luôn là ngay thẳng, rõ ràng, phân mính, không hề có sự gian dối, lừa gạt. Người không hề nói “Ai muốn theo Thầy thì sẽ được vinh hoa phú quý, quyền lực danh vọng”, mà Người luôn luôn dạy : "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24).
Nói về cám dỗ thì không biết thế nào là cùng. Con người sống trên đời luôn phải đối diện với trăm mưu ngàn chước của ba thù, mà toàn là những chước độc mưu thâm. Vì thế, nếu biết rằng mình bị cám dỗ, thì vẫn có hy vọng chống lại được. Cái nguy hiểm của cám dỗ là ở chỗ người bị cám dỗ không hề biết mình đang bị kẻ xấu, kẻ thù dùng cảm tính dụ dỗ mình làm việc xấu. Một ông vua nếu biết mình đang bị rơi vào kế mỹ nhân, chắc chắn sẽ không mất nước vì gái đẹp. Một ông quan không bị mờ mắt vì hấp lực của tiền bạc danh vọng, chắc chắn sẽ không đến nỗi thân bại danh liệt, thân tàn ma dại. Quả thật, không thiếu những người lúc nào cũng huênh hoang: Đừng hòng đem danh vọng, quyền lực ra mà cám dỗ được ta, rượu ngon, gái đẹp cũng đừng hòng lay chuyển được ta. Nhưng để có được một người sống đúng như lời nói, quả thật rất khó.
Con người được Thiên Chúa dựng nên để “thống trị muôn loài” nên có hai phần: xác và hồn (thể chất và tinh thần). Vì thế khi bị kẻ thù là ma quỷ cám dỗ, cũng có thể tách ra hai phần: Về thể xác thì từ miếng ăn thức uống, đến mọi ham muốn (dục vọng) xác thịt, thậm chí cả những tiện nghi vật chất, những điều kiện sinh hoạt nơi gia đình, xã hội, ma quỷ cũng có thể sử dụng để cám dỗ con người. Còn về tinh thần thì chúng đem quyền lực, danh vọng ra để lôi cuốn. Nhìn sâu vào sự kiện Đức Giê-su vào hoang địa sẽ thấy rõ: vì Người là con ông thợ mộc Giu-se, cũng ăn uống, sinh hoạt, làm việc như bao thanh niên khác, nên ma quỷ mới cám dỗ Người từ xác thịt (cơn đói khát trong hoang địa), tới tinh thần (quyền lực, danh vọng thế gian). Nhưng Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên Người đã hiểu rõ ý định của ma quỷ từ trước khi chúng thốt thành lời để cám dỗ Người, và Người đã chiến thắng; cũng như về sau, Người chiến thắng sự chết bằng biến cố trọng đại: Phục Sinh vinh hiển.
Ngược dòng lịch sử, Nguyên tổ A-đam và E-và cũng bị cám dỗ, nhưng không biết được đó là mưu thâm chước độc của ma quỷ, nên đã sa vòng tội lỗi, bị tội lỗi thống trị. Đến như chính Người dựng nên mình đã răn đe: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết." nhưng lại không tin, mà lại đi tin vào lời dụ dỗ: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 3, 3-5). Điều đó cho thấy ma quỷ rất sành tâm lý, đã đánh trúng vào tâm lý kiêu ngạo của con người (muốn ngang bằng Thiên Chúa), nên mới thành cớ sự (sa vòng tội lỗi). Con cháu Nguyên tổ về sau lây nhiễm cái gien đó, nên có không ít người đại ngôn như kiểu huênh hoang nói trên (“Đừng hòng đem danh vọng, quyền lực ra mà cám dỗ được ta, rượu ngon, gái đẹp cũng đừng hòng lay chuyển được ta”).
Có thể nói chính những kẻ tự phụ “không sợ cám dỗ” lại là những người dễ bị cám dỗ nhất. Thật thế, những anh chàng vỗ ngực huênh hoang “không sợ ma” lại là những anh chàng sợ ma hơn ai hết. Chỉ những người “nhát như cáy”, “nhát như thỏ đế” mới đại ngôn như vậy để tự trấn an mà thôi. “Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12), chớ nên tự tin quá mức đến gần như tự cao tự đại, mà hãy trông cậy vào Thiên Chúa, vì “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1Cr 10, 13). Vâng, xin hãy “tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì.” (Gc 1, 2-4).
Viết về cám dỗ, kẻ viết bài này cũng không thoát khỏi thói quen của nhiều người: đưa ra những lời khuyên (tự khuyên mình là chính) là hãy kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ, quyết tâm chiến đấu để vượt thắng mọi gian nan, thử thách nghiệt ngã. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là ta có biết những cơn cám dỗ đó là thử thách hay không. Bởi thực tế, chỉ thấy có Đức Ki-tô vào hoang địa để bị ma quỷ cám dỗ trực tiếp, còn tất cả mọi người – kể cả những thánh nhân, những tiên tri, ngôn sứ – thì không có thời gian và không gian cố định, cụ thể hơn là con người bị cám dỗ suốt dọc đời sống trần thế, ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ có cơ hội là ba kẻ thù (ma quỉ, xác thịt, thế gian) sẵn sàng cám dỗ. Có lẽ cũng chính vì thế nên những cuộc vào hoang địa thường là để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường, ngõ hầu có đủ sức chiến đấu chiến thắng được mọi cơn cám dỗ ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào.
Trở lại với bài Tin Mừng CN I Mùa Chay, Thánh Lu-ca viết: “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ.” (Lc 4, 1-2). Trước đó, thánh Gio-an Tẩy Giả cũng sống trong hoang địa từ thủa nhỏ cho tới 30 tuổi mới “đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 3, 3). Xa hơn nữa, các tiên tri, ngôn sứ cũng đều vào hoang địa, vượt qua hoang địa, để chịu và vượt qua được thử thách. Như vậy, hoang địa chính là những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu. Ở nơi hoang địa, cùng lúc đương đầu với thử thách, với nghịch cảnh, với cám dỗ của ba thù, ta còn được gặp gỡ Thiên Chúa. Ông Mô-sê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Si-nai (Xh 34, 28), đã gặp và trở nên bạn của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng lạ lùng. Tiên tri Ê-li-a, sau 40 đêm ngày, đã đi tới núi của Chúa và gặp được Người (1V 19, 8).
Những cuộc vào hoang địa của các thánh nhân, các tiên tri và kể cả của Đức Giê-su Ki-tô thường trải qua thời gian 40 ngày. Giáo Hội cũng dùng Mùa Chay với thời gian 40 ngày để tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su, và mời gọi tín hữu hãy vào hoang địa với Người để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Mà muốn rèn luyện tâm trí, cách tốt nhất là đối diện với nghịch cảnh, ở đây là đối diện với hoang địa – nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào – nơi chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỉ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Chúng ta vẫn thường hay nói đến “sa mạc, hoang mạc đời” để ám chỉ cõi lòng (tâm hồn) hoang dại, trống vắng đến khủng khiếp trước cuộc đời đầy phong ba bão táp, đầy thử thách gian nan. Cái sa mạc ấy – cái cõi lòng hoang vắng ấy – phải chăng cũng chính là hoang địa? Ta không có điều kiện để vào nơi hoang địa của thiên nhiên, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời. Khi vào hoang địa thiên nhiên, chúng ta trực diện với những khó khăn thử thách: từ bên ngoài (khách thể) như thời tiết (ngày nóng khủng khiếp, đêm lạnh cóng da), thú dữ, cát đá vô tri; từ bên trong (chủ thể) như sự cô đơn lạnh lẽo, thiếu lương thực, không trợ lực. Tất nhiên những thứ đó không phải là những cám dỗ của ba thù, mà đó chính là những thử thách để con người trui rèn ý chí, tôi luyện quyết tâm đối kháng. Và nhờ thế, khi bị cám dỗ trong hoang địa cuộc đời, con người mới có thể chống lại và hy vọng chiến thắng.
Vậy thì tại sao ta không mạnh dạn đi vào hoang địa cuộc đời của chính chúng ta để thẳng thắn “nhìn lại mình”, sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thử thách, sẵn sàng khai thông hoang địa, sẵn sàng dọn đường mở lối để được gặp gỡ Thiên Chúa – và nhất là biết sẵn sàng từ bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Thiên Chúa, hầu biết được đâu là lời mời gọi của Thiên Chúa, đâu là sự cám dỗ của ba thù. Điều đáng lo lắng, sợ hãi chính là điều chúng ta rõ ràng đang ở trong hoang địa cuộc đời, mà lại vẫn tưởng mình đang ở trong Thiên đường, ở trong Đất Hứa, để rồi tự ru mình trong những mời gọi ngọt ngào, những cám dỗ lôi cuốn. Đến ngay như đã thực sự ở trong Đất Hứa cũng vẫn có thể bị kẻ thù cám dỗ (“Đề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa” – Đnl 8, 1), huống hồ là tưởng tượng, là ảo tưởng đang ở trong Đất Hứa! Như vậy, phải chăng chính những ham muốn (dục vọng) của con người đã tạo nên những ảo tưởng để rồi lại quay ngược mũi giáo cám dỗ chính mình? (“Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết” – Gc 1, 14-15).
Để có thể chống chọi được với những mời mọc hấp dẫn, những cám dỗ ngọt ngào của xác thịt, của ma quỷ, người Ki-tô hữu hãy thực hành theo lời Thánh Phê-rô: "Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế." (1Pr 5, 6-9). Vâng, và vì thế, vào hoang địa, ngoài vấn đề hãm mình ép xác (chịu thử thách để vượt thắng thử thách), còn phải là: vào hoang địa để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa, để xin ơn soi sáng hầu phân biệt được đâu là cám dỗ của ma quỷ, đâu là Lời mời gọi của Thiên Chúa, và nhất là để xin Thánh Thần thêm sức mạnh chống chọi với ba thù. Thiết nghĩ chỉ có như thế mới hy vọng đủ sức chiến đấu và chiến thắng được cám dỗ.
Tất cả những tâm nguyện đó, những ao ước đó, những cầu xin đó sẽ đạt được hiệu quả tối đa, nếu ta biết cậy nhờ vào một cây cầu nối vững chắc giúp chúng ta đến với Chúa một cách an toàn: Đó chính là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của tất cả chúng ta. Hãy đến và nép mình bên áo Me, mà nài van: “Chốn ba đào nhiều phen nguy biến, quanh chúng con ma quỷ chực liên. Ôi! Mẹ lành nhìn con giao chiến, thêm sức cho giúp con vững bền. Rồi khi giờ yếu đau hấp hối, ngàn chước độc quỷ ma đưa tới. Giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền, nâng đở con xác hồn tinh tuyền…” (“Chốn ba đào” – TCCĐ)
JM. Lam Thy ĐVD.
Nguồn: thanhlinh.net