Gương đức ái
- Viết bởi Elisabeth Nguyễn
Anh chị em chúng tôi gồm11 đứa lau nhau sống êm đềm bên bố mẹ trong gia đình, 5 đứa con lớn đã ngồi trên ghế trung học, trong đó có tôi. Bố tôi là người mê đọc sách báo và truyện, những sách xuất bản của Tự Lực Văn Đoàn bố tôi chất đầy tủ, có bao nhiêu báo ra hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng bố tôi đều đặt mua, kể cả báo cho phụ nữ như Phụ Nữ Diễn Đàn và báo dành cho thiếu nhi như báo Búp Bê của nhà văn Duyên Anh… hằng ngày có người đem cả xấp báo đến tận nhà.
Mẹ tôi không được ăn học, thấy nhà có nhiều sách báo, mỗi khi báo mới về thì cả nhà đông trẻ con như thế mà không một tiếng ồn ào, vì thế mẹ tôi tò mò muốn đọc xem trong đó có gì mà cha con nhà nó mê man đến thế. Chỉ vì ham đọc sách báo mà bà tự học một mình, nên biết đọc biết viết, bà đọc nhiều tiểu thuyết và thuộc lòng Truyện Kim Vân Kiều và Chinh Phụ Ngâm Khúc v.v…
Bố Mẹ tôi rất thương người và luôn giúp đỡ người cơ nhỡ. Một hôm có ông bán chiếu đi qua suối bị té xuống cầu ướt hết mà trời đã xế chiều rồi. Bố tôi thấy tội nghiệp đưa ông ta về nhà mời cơm nước và cho ngủ lại nhà. Sáng thức dậy, lúc ăn sáng ông ta lấy một chiếc chiếu đẹp nhất tặng bố tôi. Bố tôi không nhận dù ông ta năn nỉ mãi. Khi ông ta từ giã vác chiếu đi bán tiếp bố tôi nói mẹ tôi nhét vào tay ông bán chiếu số tiền mà mẹ tôi nói là còn hơn giá cái chiếu.
Tôi luôn có ý nghĩ mẹ tôi là một người không biết xử dụng tiền bạc cho đúng, dưới con mắt ngây thơ ăn chưa no lo chưa tới của một cô nữ sinh trung học thì bà có vẻ phung phí tiền bạc. Khoảng sân trước nhà tôi rất rộng có trồng mấy luống hoa mà ba tôi vẽ kiểu theo hình ngôi sao, hình tròn, hình quả trám v.v…và mỗi luống đều phải trồng hoa gì mầu gì theo mẫu ông đã vẽ. Mẹ tôi cứ thuê một chị người làm đến làm cỏ và tưới cây, bắt sâu, tỉa lá hoài.
Chị Tư góa chồng, sống rất nghèo khó với đứa con nhỏ chưa đủ tuổi đến trường. Sáng chị cắp nón bồng con đến, chiều cắp nón bồng con về, thế nào cũng có một giỏ quà đầy thức ăn cho hai mẹ con… khi thì cái áo, cái quần, đứa bé thì, khi tấm bánh, khi gói kẹo v.v…Vườn nhổ hết cỏ, mẹ tôi lại sai chị sới đất, rồi mua thứ hoa khác về trồng, mặc dầu vườn hoa vẫn chưa đến lúc phải thay đổi. Hết việc ngoài vườn, mẹ tôi lại sai chị làm việc lặt vặt trong nhà, những việc đó đã có chị người làm giúp việc trong nhà bao thầu, đâu đó sạch bong hết rồi. Mỗi khi đến ngày rằm, mồng một mẹ tôi sai chị lau chùi bàn thờ và chùi bộ lư đồng đến cả hai ba ngày trời mới xong. Hết những việc này, mẹ tôi lại sai chị ra quét sân sau nhà, sửa hàng rào v.v…mặc dầu cái hàng rào chẳng cần phải sửa…. Có hôm chẳng phải làm gì mẹ tôi sai chị nhổ tóc sâu cho bà và tỉ tê chuyện nhỏ chuyện to với bà suốt buổi.
Nhiều lần tôi và cô em kế ngỏ ý với mẹ tôi, mẹ cứ thuê chị Tư làm những việc vô ích mà tốn tiền. Mẹ tôi lại gắt: „con nít biết gì“. Tôi im im nhưng trong bụng tưng tức làm sao và tôi ghét mẹ con chị Tư ra mặt. Mỗi khi thấy bóng tôi hay cô em đi học về là chị vội kiếm việc gì làm cho nhanh hay vội vã dắt con ra giếng múc nước. v.v…
Năm năm sau mẹ tôi tìm cho chị Tư một anh chồng là người đàn ông làm công cho vườn trại nhà chúng tôi. Lúc bấy giờ, chúng tôi cũng đã trưởng thành hơn, mẹ tôi mới giải thích cho chúng tôi biết: „Những năm con chị còn nhỏ, chị Tư lại có chút nhan sắc mà không nơi nương tựa, không cha mẹ, không bà con thân thích, chị lưu lạc từ ngoài Quảng vào đây, chị sống quá nghèo khổ, mẹ thương chị vì chị rất hiền từ lại biết nghe lời mẹ, mẹ sợ chị ấy sẽ dễ dàng sa ngã nên mẹ cứ kêu chị đến nhà làm những việc vặt vãnh trong nhà để từ từ mẹ tìm người hiền lành nhân đức mà dựng vợ gả chồng cho chị có nơi nương tựa. Các con phải biết khi giúp đỡ người khác mà mình không cần cho họ biết là mình giúp họ thì mới tốt, các con à“. Từ đó tôi học được bài học quý giá nơi mẹ tôi, „Làm việc nghĩa tay phải thì đừng cho tay trái biết“.
Vợ chồng chị Tư rất quý mến và kính trọng bố mẹ tôi như bố mẹ của anh chị. Ngày giỗ, ngày Tết đều đem lễ vật đến biếu bố mẹ tôi và chăm lo mọi việc trong nhà như giỗ tết của nhà anh chị và rất quý mến chúng tôi.
Để kỷ niệm ngày giỗ đoạn tang mẹ, con xin ghi một chút nhớ nhung về mẹ, con cám ơn mẹ nhiều. Con thương mẹ, con luôn nhớ đến linh hồn bố mẹ trong kinh nguyện và Thánh Lễ hằng ngày.
Elisabeth Nguyễn
Hình ảnh hôn nhân và gia đình (3)
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Lâu nay có suy luận cho rằng hôn nhân và gia đình là định chế sản phẩm do xã hội con người, hay do tập tục của đời sống tôn giáo lập ra.
Theo đức tin Công giáo hôn nhân và gia đình là do Thiên Chúa đã ký thác trong thiên nhiên ngay từ khởi đầu lúc Ngài sáng tạo nên trời đất, mọi sinh vật, thảo mộc và con người.
„Thiên Chúa chúc phúc lành cho con người, và phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." (St 1, 28,")
Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. ( St 2,24)
„ Luật thiên nhiên là nguồn cho những luật căn bản và lề luật luân lý. Trong đạo đức và trong triết học về luật học những điều khoản mang tính cách tích cực của luật được khai triển mở rộng thêm ra. Những quyền lợi khác biệt nhau luôn được các nhà làm luật lệ dung hòa thỏa thuận: người ta tìm cách biến những quyền lợi riêng tư hay những ước muốn của con người trong đời sống xã hội sang chiều hướng thành luật lệ . Trong chiều hướng này nhằm nhắc nhớ đến những luật lệ trên bình diện quốc gia hay quốc tế, sau cùng đều ăn rễ sâu trong luật lệ thiên nhiên đã được ký thác trong bản tính con người, nơi sứ điệp đạo đức.
Luật lệ thiên nhiên là tác phẩm mang đầy sức năng động duy nhất có sức chống trả lại quyền lực sức mạnh theo ý muốn riêng của con người, hay chống trả lại được những tráo trở của ý thức hệ muốn xuay chiều đổi hướng.
Sự nhận thức của luật lệ này, đã được viết nơi trái tim tâm hồn con người, lớn mạnh trong sự phát triển của lương tâm. Chính vì thế, một điều gây nên sự lo âu tiên khởi là tất cả mọi người và đặc biệt những người có trách nhiệm lo cho đời sống xã hội phải nâng đỡ cho lương tâm được trưởng thành chín mùi. Đó là sự tiến bộ căn bản, không có điều này những tiến bộ khác trở thành không chính thật.
Và thiên nhiên của chúng ta đã ký thác thành luật lệ. Luật lệ thiên nhiên mang lại cho mỗi người sự bảo đảm được sống tự do và nhân phẩm được bảo vệ kính trọng.
Điều này thể hiện rõ nét nơi đời sống gia đình, tức là nơi cộng đoàn xã hội của sự sống và tình yêu trong nếp sống hôn nhân do Đấng tạo Hóa đã lập ra, cùng được những luật lệ riêng biệt gìn giữ bảo bệ. (Gaudium Spes Nr. 48.)
Công đồng Vatican II. đã khẳng định hôn nhân là sợi dây ràng buộc thánh đức trong „ một định chế vững chắc theo trật tự của Thiên Chúa sắp đặt".
Sợi dây ràng buộc thánh đức đó „ hướng đến đời sống bình an hạnh phúc cho hai vợ chồng, cho dòng dõi con cái họ sinh sản ra, cũng như cho đời sống xã hội, không còn bị đè bẹp do bởi những áp chế của con người."
Không luật lệ nào do con người chế biến làm ra có thể thay đổi phá hủy quy luật Đấng Tạo Hóa đã viết ký thác sáng tạo nơi trái tim bản tính con người được, mà không làm tổn thương phá đổ đời sống xã hội. Và đừng quên rằng làm như thế, là làm suy yếu hình ảnh cùng nền tảng gia đình, tạo ra sự bất lợi cho trẻ con và đời sống xã hội bị chao đảo lộn xộn. „ (Đức giáo hoàng Benedickt XVI. Diễn từ ở hội nghị quốc tế về gia đình, 12.02.2007.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hôn nhân và gia đình 2
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hôn nhân và gia đình luôn là thắc mắc có từ nghìn xưa . Con người xưa nay thường hiểu đó là một khế ước xã hội, hay một định chế truyền thống do và của đời sống xã hội.
Đó là lối suy hiểu hôn nhân và gia đình theo khía cạnh trong tương quan đời sống xã hội giữa con người với nhau.
Nhưng theo khía cạnh tinh thần đạo giáo, khía cạnh thần học đạo đức, hôn nhân và gia đình còn có căn rễ sâu thẳm làm nền tảng cùng mang lại ý nghĩa chiều kích thánh thiêng cho hôn nhân và gia đình.
Đức giáo hoàng Benedicto XVI. đã có suy tư theo khía cạnh thần học về căn rễ của hôn nhân và gia đình:
„Hôn nhân và gia đình trên thực tế không là những kiến trúc xã hội mang tính cách bất thường. Không, hôn nhân và gia đình không là kết qủa của những tình trạng lịch sử cùng kinh tế đặc biệt khác thường. Trái lại, thắc mắc về tương quan thật sự giữa người đàn ông và phụ nữ có căn rễ thẳm sâu nơi bản tính con người, và chỉ có thể tìm được câu trả lời từ nơi đó.
Câu trả lời không thể tìm ra được, khi tách biệt giữa thắc mắc cũ và thắc mắc mới: Tôi là ai? Con người là gì? Và cũng không thể tách biệt khỏi thắc mắc về Thiên Chúa: Thiên Chúa có hiện hữu không? Thiên Chúa là ai? Khuôn mặt thực của Thiên Chúa thế nào?
Câu trả lời trong Kinh thánh cho hai vấn nạn thắc mắc này thống nhất cùng đúng trong các tình huống: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa do Thiên Chúa tạo thành, và Thiên Chúa chính ngài là tình yêu.. Vì thế ơn kêu gọi tình yêu phản ảnh lại điều con người được Thiên Chúa tạo dựng nên rập khuôn giống hình ảnh của Ngài: Con người cũng hành động giống như khuôn thước của Thiên Chúa, trong khi con người trở nên một người yêu thương.
Từ mối tương quan nền tảng giữa Thiên Chúa và con người nảy sinh tiếp một hệ qủa: mối dây liên kết không thể hủy diệt giữa tinh thần và thể xác. Con người thật ra là tinh thần, khi tinh thần tìm thấy được ở nơi thân xác dấu chứng. Và thân xác sống động khi có tinh thần phần trường sinh bất tử ở nơi nó.
Cũng vậy thân xác của người nam và người nữ, có thể nói được, cũng có bản tính chiều kích thần học. Con người không chỉ là một thân xác trơ trọi theo cách hiểu sinh vật học, nhưng là dấu chứng và sự trọn vẹn tràn đầy của bản tính con người.
Vì thế, tính dục ( Sexualitaet) của con người không là điều bên lề phụ thuộc của bản tính con người. Nhưng nó thuộc về bản chất tính con người. Trước hết khi tính dục hội nhập nơi một cá nhân con người, họ có thể tự cho mình một ý nghĩa của đời sống „ (Papst Benedicto XVI. , Diễn văn ngày mục vụ của Giáo phận Roma về đề tài Gia đình, 06.06.2005)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hôn nhân và gia đình
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới sẽ diễn ra từ 04. đến 25. Tháng Mười 2015 sắp tới ở Vatican bàn về hôn nhân và gia đình. Giáo hội Công giáo cùng với Đức Giáo hoàng và các Giám mục trên thế giới mong muốn tìm câu trả lời, hay đúng hơn những chỉ dẫn giáo lý sống đức tin thực hành, trước những thách đố, những khủng hoàng về hôn nhân vàgia đình trong xã hội ngày hôm nay dưới lăng kính đức tin cùng đời sống con người.
Câu trả lời cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội nhắm đến mục đích gìn giữ bảo vệ đời sống hôn nhân và gia đình.
Nhiều ý kiến bình luận cùng đề nghị đã và đang được nêu ra.
Đức giáo hoàng Bennedict XVI. trong thông điệp „Deus caritas est „ số 11. đã phân tích về hình ảnh hôn nhân và gia đình dưới tầm nhìn thần học đạo đức đặt nền tảng trên Kinh thánh và triết học Platon.
„ Tính chất mới mẻ đầu tiên của đức tin Thánh Kinh, như chúng ta thấy ở trên, bao gồm hình ảnh về Thiên Chúa. Tính chất mới mẻ thứ hai, liên quan chặt chẽ với điều này, được tìm thấy nơi hình ảnh con người. Trình thuật sáng thế trong Thánh Kinh đề cập đến sự cô đơn của Adong, con người đầu tiên, và quyết định của Thiên Chúa ban cho ông một trợ tá.
Tất cả các tạo vật khác, không tạo vật nào cóthể trở thành người trợ tá mà con người này cần, dù cho con người đã đặt tên cho tất cả mọi súc vật hoang dã và chim muông và qua đó biến chúng hoàn toàn trở nên một một phần đời sống của mình. Vì thế, Thiên Chúa dựng nên người nữ từ xương sườn của người nam. Giờ đây Adong tìm được người trợ tá mà ông cần: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" (St 2:23).
Ở đây, ta có thể tìm thấy những ý tưởng tương tự có thể tìm thấy, chẳng hạn, trong huyền thoại được Plato nhắc đến, theo đó con người tự nguyên thủy là đóng kín, vì con người hoàn chỉnh và tự mình đầy đủ. Nhưng con người bị thần Zeus tách làm đôi để trừng phạt tội kiêu ngạo, vì thế từ nay con người ngóng trông nửa còn lại của mình, gắng toàn bộ sức mình để dành lấy nửa ấy hầu khôi phục lại sự toàn vẹn của mình.
[8] Trong khi trình thuật Thánh Kinh không đề cập đến sự trừng phạt, có một ý tưởng bàng bạc rằng con người cách nào đó là khiếm khuyết, theo bản năng tìm kiếm nơi người khác phần bổ sung để con người nên trọn vẹn; có một ý tưởng theo đó chỉ trong sự hiệp thông với người khác phái con người mới có thể trở nên "hoàn chỉnh". Trình thuật Thánh Kinh từ đó kết luận với một lời tiên tri của Adong: "Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt." (St 2:24).
Có hai khía cạnh rất quan trọng của điều này. Đầu tiên, eros cách nào đóđâm rễtrong chính bản chất con người: Adong làmột người tìm kiếm, người "đã bỏ mẹ vàcha mình" để tìm người nữ; phải có hai người cùng nhau mới tiêu biểu được cho một nhân loại hoàn chỉnh vàtrở nên "cùng một xương một thịt". Khía cạnh thứhai cũng quan trọng không kém.
Từ quan điểm của lịch sử sáng thế, eros hướng dẫn con người đến với hôn nhân, đến với một ràng buộc độc nhất và dứt khoát; chỉ như thế mục đích sâu xa nhất của nó mới được nên trọn. Tương ứng với hình ảnh của một Thiên Chúa độc thần là một hôn nhân đơn hôn [một vợ một chồng].
Hôn nhân dựa trên tình yêu độc quyền và dứt khoát trở nên hình ảnh mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người và ngược lại. Đường lối yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo cho tình yêu nhân loại. Sự liên hệ gần gũi này giữa eros và hôn nhân trong Thánh Kinh trong thực tế không có một tương đương nào trong các văn chương khác.“ (Giáo Hoàng BenedictôXVI. Thông điệp Deus Caritas est, số 11. - Bản dịch của Jb. Đặng văn An).
Bây giờ phong trào đòi hôn nhân cho mọi người, cho mọi giới đang nêu cao ngọn cờ đòi hỏi làm áp lực để thay đổi luật lệ truyền thống trong đời sống xã hội.
Nhưng thế nào là hôn nhân cho mọi người, mọi giới ? Phải chăng hôn nhân giữa hai người cùng phái, cùng giới tính với nhau không ngược lại với trật tự thiên nhiên, như trong Kinh Thánh do Thiên Chúa đã tạo thành?
Với giáo lý đạo Công giáo và luật thiên nhiên thì tình yêu, đời sống chung giữa hai người cùng phái, cùng giới tính được tôn trọng, nhưng không phải là hôn nhân.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chiếc cầu vồng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Những ngày qua, thật ra đã có từ nhiều những năm trước rồi, phong trào đồng tình luyến ái giữa hai người đồng giới tính trên thế giới đạt tới cao điểm, khi Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳđưa ra phán quyết: hôn nhân đồng tính phái là hợp pháp không bịngăn cản cấm đoán trên toàn nước Hoa Kỳ.
Như một chiếc quân bài Domino nghiêng đổ, những quân bài khác cũng lung lay sụp nghiêng đổ theo. Phong trào đòi hỏi hôn nhân theo đàhứng khởi chiến thắng đó lên cao như diều gặp gío tung bay. Họ luôn chiến đấu ýtưởng hôn nhân cho mọi người, chứ không còn muốn theo truyền thống, như đạo Công giáo và luật dân sự xã hội xưa nay đã định nghĩa công nhận nếp sống hôn nhân giữa một người đàn ông và một người phụ nữ.
Họ từng bước yêu cầu, biểu tình, kiện cáo trước pháp luật làm áp lực đòi hỏi luật pháp quốc gia đất nước cần phải sửa đổi lại, theo đà mức đó càng lớn tiếng mạnh mẽ thêm: hôn nhân mởrộng cho tất cảmọi người.
Hội Thánh Công Giáo có nhiệm vụ tinh thần luân lý xưa nay hằng ra sức bảo vệ nếp sống hôn nhân gia đình truyền thống theo luật tự nhiên Thiên Chúa đã ấn định, ngày càng bị thách thức về vấn đề căn bản thần học luân lý này mạnh mẽ khốc liệt hơn lúc nào hết.
Bên bênh vực thuận theo hôn nhân truyền thống dựa trên luật thiên nhiên, luật đạo đức lương tâm. Nên cần phải duy trì bảo vệ cho phẩm gía con người, cho nòi giống nhân loại.
Bên chống luật hôn nhân truyền thống cho rằng cần phải thay đổi não trạng, theo với đã tiến hóa thay đổi của người thời đại, mởrộng hôn nhân cho cả đồng giới tính dựa trên tình yêu, sự tự do tình tự con người.
Phong trào đòi tự do cho hôn nhân người đồng giới tính giương cao lá cờ có in hình cầu vồng làm biểu tượng cho phong trào như dấu chỉ lòng khoan dung, làm biểu hiệu cho phong trào.
Nhưng đâu là nguồn gốc cùng ý nghĩa những mầu sắc của chiếc hình cầu vồng?
Hình cầu vồng vòng cung chúng ta quan sát nhìn được bằng con mắt thường nổi hiện trên nền trời vào những ngày có mưa và có nắng phản chiếu cùng lúc.
Hình cầu vồng là hiện tượng thiên nhiên xuất hiện như một pha diễn xuất ngoạn mục với nhiều mầu sắc pha trộn. Điều này đưa đến sự say mê thích thú người quan sát nó. Nó mang lại cảm tưởng cùng diễn tả sự hài hòa chung hợp giữa các mầu sắc hợp lại với nhau.
Vì thế cầu vồng trong niềm tin tôn giáo nói lên dấu chỉ giữa trời và đất, giữa Thượng Đế với con người trần thế.
1. Trong Kinh Thánh Do Thái giáo và Kitô giáo hình ảnh cầu vồng là giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Hình cầu vồng xuất hiện trên nền trời sau trận lụt hồng thủy thời Ông Noah, như dấu chỉ sự làm hòa Thiên Chúa ký kết với con người.
„Thiên Chúa phán: "Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau:13 Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất.14 Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây,15 Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa.16 Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất."
17 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Đó là dấu của giao ước Ta đã lập giữa Ta với mọi xác phàm ở trên mặt đất.“ St 9, 12-17.
Hình ảnh cầu vồng hình vòng cung này như cây cầu nối kết giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa thần thánh và con người. Nó khác nào như một loại thang bắc lên trời cao, hay từ trời cao xuống dưới mật trái đất. Và như thế trở nên dấu chỉ sự hòa giải. Và từ đó nó cũng trở thành dấu chỉ về Đức mẹ Maria.
2. Thời văn hóa xa xưa bên vùng Nam Mỹ Châu, chiếc lúp vải bảy mầu của Thần Maya, người mẹ đã sinh sản ra thế giới muôn mầu cũng trùng hợp với thần thoại bên Ai Cập về chiếc lúp bảy mầu của Thần Isis, một trong những người mẹ lớn lao cao cả.
3. Chiếc cầu thang bảy bậc nấc mà Đức Phật Thích ca dùng từ trời cao xuống hạ giới cũng là hình chiếc cầu vồng.
4. Trong nền văn hóa Hylạp hình ảnh chiếc cầu vồng giống với vòng cung của con mắt Iris, với sứ giả Heras và cũng mang ý nghĩa sự thông thương nối liền giữa hai thế giới. Nó là ngôn ngữ tiếng nói của thần thánh.
5. Trong nền văn hóa Trung quốc hình ảnh chiếc cầu vồng có năm mầu sắc, như sự hòa hợp giữa Yin và YangY, âm và dương, như dấu hiệu sự hài hòa của vũ trụ và sự phong phú mầu mỡ của vũ trụ.
6. Trong nền văn hóa Hồi giáo bảy mầu hình cầu vồng là dấu chỉ nội dung phẩm chất thần thánh chiếu xuống mặt đất.
7. Trong nền văn hóa Mesopotamia hình ảnh bảy mầu chỉ về bảy lớp tầng trời.
8. Cầu vòng theo phân tích phản chiếu lại bảy mầu sắc khác nhau: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh trong sáng, xanh thẫm và tím:
- Mầu đỏ là mầu chỉ về tình yêu, về sự sống , mầu của máu. Đặc tính của mầu đỏ như gợi ý thúc đẩy xây dựng, sáng tạo, tích cực.
- Mầu cam nói lên sự vui mừng phấn khởi chung hợp tập thể. Đây cũng là mầu nói lên hình ảnh của niềm vui sự sống, sự biến báo sáng tạo , lạc quan, và sức khoẻ.
- Mầu vàng diễn tả mầu ánh sáng mặt trời, nói lên sự nồng ấm, chiếu sáng, nhẹ nhàng cùng có nhiều thay đổi biến chuyển..
- Mầu xanh lá cây là mầu của thiên nhiên, mầu của sức sống niềm hy vọng vươn lên. Mầu xanh lá cây biểu hiệu cho sự ngay thẳng, tính tập trung và sự quân bình cân bằng.
- Mầu xanh trong sáng biểu hiện về sự chân thật, sự giao thương liên lạc. Mầu xanh trong sáng nói lên nét thuần mỹ, thanh thản yên lành.
- Mầu xanh thẫm đem lại cảm gíac trầm lặng tư lự, mang tính tiêu cực cùng tin tưởng. Mầu này phát tỏa ra nét vẻ lạnh lùng, nhưng cũng đầy sức lực và làm dịu sự đau thương.
- Mầu tím diễn tả sự thanh tẩy ăn năn thống hối, mầu nói nhiều về tâm linh thiêng liêng cùng đượm nét trực giác. Mầu tím đưa đến tình tự cảm giác liên kết nối liền, lý tưởng và mang dấu chỉ về gía trị.
Hình ảnh chiếc cầu vồng, như Thánh Gioan tông đồ vẽ diễn tả trong sách Khải Huyền - 4,3 và 10,1- như dấu chỉ nhắc nhớ rằng Thiên Chúa luôn trung thành với con người trên trái đất, cho dù họ có phạm tội chống lại Ngài.
Cầu vồng trên nền trời mà chúng ta xem thấy được bằng mắt như pha diễn xuất của thiên nhiên là dấu chỉ nói lên sự thánh thiêng. Trong đó ẩn chứa những sứ điệp diễn tả qua bảy mầu sắc khác nhau cho đời sống con người.
Mùa Kiết Hạ 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thư gửi Chúa Giêsu từ bệnh viện ung bứu
- Viết bởi Bình Thạnh
Chúa Giêsu giầu lòng thương xót ơi,
Hôm nay con viết thư cho Chúa, bỗng nhớ trong thánh kinh có đoạn nói về việc Chúa mới sinh ra đã phải chạy trốn sang Ai Cập và các anh hài bị giết, làm trái tim con quặn thắt: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rên rỉ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.” (Mt 2,18)
Mùa hè năm nay, nhóm thiện nguyện Tín Thác chúng con được một linh mục mà cuộc đời cũng khốn khổ như Chúa, hướng dẫn đến một nơi, mà nơi ấy tất cả các bà mẹ, kể cả các ông bố nữa, đã cạn nước mắt rồi. Họ không thể khóc như bà Rakhen được nữa. Hay nói đúng hơn là họ cố gắng nuốt những giọt nước mắt, để dành sức lực chăm sóc cho những đứa con mình, mà dù có đổ bao nhiêu tiền của công sức chạy chữa thì phía trước vẫn là một màn đen vô vọng...
Nơi ấy là Khoa Ung Thư Nhi của Bệnh Viện Ung Bướu Sài Gòn, Chúa đã đến đó chưa?
Theo con số thống kê mới nhất, ở Việt Nam mỗi ngày trung bình có 250 người qua đời vì ung thư, trong đó gần hai phần trăm là trẻ thơ, có nghĩa là gần một ngàn bốn trăm linh hồn bé thơ rời bỏ mặt đất này mỗi năm. Tội quá Chúa nhỉ!
Thôi, con mời Chúa đi với con. Khi chúng con tới nơi ấy thì quá đông, quá ngột ngạt! Cái đông đúc, chen chúc, bức bách và ngột ngạt tràn cả ra hành lang. Nhóm chúng con cố gắng len lỏi vất vả lắm mới đem quà vào trong các phòng bệnh được, thì nhận ra lúp xúp những bé thơ, với cái đầu tròn vo, trọc lóc. Giá như trong hoàn cảnh khác thì đó là sự ngộ nghĩnh. Nhưng nơi này đó là nỗi đau, là cùng tận nỗi đau Chúa ạ!
Con nhớ lại buổi sáng Chúa Nhật 18/1/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ giới trẻ Philippines tại Sân Thể Thao Đại Học Đường Thánh Tôma ở thủ đô Manila. Một em gái đã được cứu khỏi đời sống bụi đời, đã hỏi ĐTC một câu hỏi rất thực tế và đầy thương tâm, rồi nghẹn ngào đến trào nước mắt khóc: "Có rất nhiều trẻ em bị cha mẹ mình bỏ rơi, có rất nhiều em trở thành nạn nhân của ma túy, đĩ điếm, và nhiều điều kinh khủng xẩy ra cho chúng. Tại sao Thiên Chúa lại để cho những điều ấy xẩy ra cho những trẻ em vô tội? Và tại sao lại có rất ít người giúp chúng con?"
Và ĐTC đã trả lời: “Cái cốt lõi của câu em hỏi, hầu như không có câu trả lời. Chỉ khi nào cả chúng ta nữa có thể khóc về những gì em đã nói thì chúng ta mới có thể tới gần chỗ trả lời cho câu hỏi ấy. Tại sao trẻ em chịu khổ quá nhiều? Tại sao trẻ em lại chịu khổ? Khi tâm can có thể tự vấn và kêu lên thì bấy giờ chúng ta mới có thể hiểu được một điều gì đó.
Có lòng thương cảm trần thế cũng vô ích. Đó là một lòng thương cảm khiến chúng ta cho tay vào túi móc ra một cái gì đó cho người nghèo. Nếu Chúa Kitô đã có loại thương cảm này thì Người đã bước lại gần, chào hỏi họ rồi bỏ đi (về cùng Cha). Thế nhưng,chỉ ở vào lúc Chúa Kitô đã khóc và có thể khóc mà Người đã thông cảm cuộc sống của chúng ta, hiểu được những gì xẩy ra trong cuộc đời của chúng ta...
Câu hỏi quan trọng về lý do tại sao có quá nhiều trẻ em phải chịu đựng khổ đau, em đã khóc than đặt vấn đề.Và câu trả lời quan trọng chúng ta có thể đáp lại hôm nay đó là chúng ta làm sao để có thể biết, thực sự biết khóc thương, biết khóc than”.
Bước chân vào đây, chúng con cũng tự hỏi: “Tại sao trẻ em chịu khổ quá nhiều? Tại sao trẻ em lại chịu khổ?”
Không thể lý giải nổi lý do nào mà trẻ thơ mới chút xíu đã bị ung thư, và ung thư nhiều đến thế. Những chứng ung thư làm chúng con lạnh hết người: ung thư máu, ung thư võng mạc, và ung thư xương nữa...
Đời bệnh nhân ung thư khủng khiếp nhất là những cơn đau. Chúng con đã chứng kiến những cơn đau rúc rỉa thịt xương đó trong hành trình thiện nguyện, đau đau đến mức cuối cùng phải dùng đến moọc phin để làm tê liệt những giây thần kinh, để giảm đau trong chốc lát. Trong những giây phút thống khổ ấy, người thân chỉ biết ôm lấy bệnh nhân như muốn sẻ chia phần nào nỗi đau, và càng đau khổ hơn vì thấy mình bất lực, không thể làm gì hơn để giảm nỗi đau cho người bệnh. Thế mà những cơn đau ấy đổ xuống trẻ thơ. Hình dung thôi chúng con cũng thấy rùng mình sợ hãi!
Lúc đó chỉ còn biết khóc thương, khóc than và giơ tay lên khẩn nài: “Xin dâng lên lòng thương xót Chúa, những vết thương… xin Chúa thương tha thứ chữa lành, nhận chìm con vào lòng Chúa xót thương”
Không dừng lại ở chỗ khóc thương sụt sùi, chúng con đã cố gắng trong khả năng có thể, mang tới cho 200 bé nơi đây chút quà, sữa tươi và một phong bao lì xì.
Chúa biết không, khi chọn quà cho các em, một bác sĩ đã tư vấn nên tặng các em sữa tươi cho nhẹ nhàng, bởi thể trạng của các em, nhiều trẻ loại sữa quá giàu đạm và chất bổ sẽ khiến các em không tiếp nhận và dội ngược ra, thì sẽ rất mệt. Trao bao lỳ xì cho các em vui, với cảm giác được thêm tuổi mới trong đời, nhưng thiết thực là để bữa trưa này, cha hoặc mẹ các bé có chút tiền mua hộp cơm có thêm miếng thịt, ăn cho có sức khỏe để chăm sóc người không còn sức khỏe.
Nhà nào có người bị bệnh ung thư là kiệt quệ, là sạch cửa nhà, bán mọi thứ trong nhà để chạy thầy chạy thuốc cho bệnh nhân. Tại nơi này có những người mẹ ròng rã bao năm tháng chỉ ăn cơm từ thiện thôi, Chúa ạ. Ăn uống thiếu thốn, suy dinh dưỡng, mẹ đi chăm con mòn mỏi yếu ớt xanh xao như tàu lá chuối, đứa con bị ung thư xương nằm thóp thoi trơ cái đầu trọc lóc, đến là khốn khổ.
Chắc Chúa còn nhớ, trong suốt mấy năm trời, nhóm thiện nguyện chúng con cũng trợ giúp 80 phần cơm mỗi ngày cho các bệnh nhân hoặc người nuôi bệnh. Bây giờ phải đi nhiều nơi để gieo rắc hạt giống lòng Chúa thương xót qua những chuyến công tác bác ái nơi vùng sâu vùng xa, cho nên chúng con chỉ tổ chức những chuyến thăm viếng như hôm nay được thôi, Chúa ạ!
Chúa gởi thêm nhiều người có lòng xót thương đến với chúng con để cùng chung tay góp sức xoa dịu nỗi đau của những con người nghèo khổ nhé! Con xin lỗi Chúa trước, nếu Chúa đưa đến những đại gia, những chức sắc, những người tiền bạc rủng rỉnh đi làm việc thiện mà muốn cho cả làng biết, muốn nêu tên trên bảng vàng, muốn khắc danh tính vào bằng tri ân, muốn được liệt vào danh sách các ân nhân… thì chúng con không nhận đâu đấy nhé! Dù họ có tiền rừng bạc biển, quyền cao chức trọng, thì cũng không có chỗ trong nhóm thiện nguyện nhỏ bé của chúng con đâu!
Nằm chèo kheo ở bậc nghỉ cầu thang là một người đàn ông gầy gò xương xẩu, ngủ khò khò bất chấp kẻ lại người qua, con cứ tưởng là Chúa đang nằm đó chứ! Bỗng anh giật mình ngồi phắt dậy, vồ cái túi lép kẹp dùng làm gối kê đầu, nhìn xung quanh ngơ ngác. Đợi người đàn ông định thần trở lại, chúng con đến lân la trò chuyện, mới biết anh tên Thành, quê mãi Vĩnh Long, có đứa con điều trị ở đây, cháu bị ung thư máu.
Lau giọt lệ, anh thở dài: “Mọi sự là vô vọng rồi, vì cơ thể cháu không tiếp nhận hóa chất truyền vô được nữa!” Đêm qua anh nhắn vợ lên thay phiên để anh về quê chuẩn bị sẵn sàng đón con về trong tình huống xấu nhất. Anh phải giấu vợ, sợ chị tuyệt vọng. Anh tới góc cầu thang ngủ vội lấy sức sau cả tháng thức trắng bên con, rồi sẽ bắt xe đi về dưới. Mấy sào ruộng anh đã bán hết để cứu con, mà công cốc hoàn công cốc. Anh bảo dù khó khăn đến đâu, cũng sẽ kiếm cái áo tử tế cho con khi đón nó về. Đau lắm, đau buốt trong tim mà giấu vợ, trìu mến ôm hôn con rồi ra đi. Chúa có thấy nỗi đau nào hơn thế không?
Kể cho Chúa nghe những đau đớn đó, lòng chúng con cũng trĩu buồn. Cảm ơn Chúa đã gởi những phần quà từ tấm lòng xót thương của những anh chị em từ khắp nơi, bớt ăn tiêu chi chút, dành dụm gởi về để chúng con lên đường trao tặng cho những mảnh đời rách nát, bệnh tật, nghèo túng…
Có chi tiết nhỏ này có lẽ sẽ làm Chúa vui hơn : ấy là chúng con đã hì hục ngồi trong góc cầu thang bơm những trái bong bóng to đẹp rực rỡ sắc mầu trao tặng các em. Những trái bóng đủ hình dạng sắc màu làm mắt đám trẻ sáng lên, quên đi cơn đau trong chốc lát. Nhìn thấy nhiều em cứ cà cái đầu trọc lóc vào trái bóng, ôm khư khư trái bóng như sợ nó bay mất, thương đến là thương. Thật xót xa khi hóa chất vào cơ thể các em chế ngự tế bào độc của chứng ung thư, thì cũng chính là tước đi hết mái đầu xanh của trẻ. Thương chúng quá!
Tuy nhiên, người mục tử ân cần dặn thiện nguyện viên chúng con khi đến nơi này hãy dằn lại nỗi đau lòng, ráng tươi lên, đem niềm vui nụ cười như một kỷ niệm đẹp cho các bé. Chúng con làm vậy được không Chúa?
Người mục tử linh hướng từng chia sẻ với chúng con: ra đi, đem niềm vui cho anh em nghèo khổ và trẻ thơ bệnh tật yếu đau, nhưng đồng thời cũng là để nhận thức ra cái cõi hạn hẹp nơi con người. Biết sự bất lực của mình mà gửi gắm sự cậy trông tín thác vào thiên Chúa. Ra đi cũng để thấy mình còn được Chúa thương rất nhiều. Còn thân hình đầy đủ, còn đi lại nói năng bình thường, còn sức khỏe… đó là món quà quý nhất Chúa trao ban mà con đâu biết trân trọng, đâu thấy mình hạnh phúc. Con cứ lao đầu tìm tiền tài danh vọng của cải chức tước địa vị… đến khi ngã quỵ vì ốm đau bệnh tật, lúc đó mới thấy tất cả là hư vô, là con số không, nếu không có sức khỏe.
Rời Khoa Nhi Bệnh Viện Ung Bướu, ám ảnh chúng con là nụ cười ngây thơ trên những gương mặt tròn trịa với cái đầu cũng tròn xoay, như những dấu chấm tròn vo giữa cuộc đời này. Những dấu chấm ngây thơ không hề biết rằng cuộc đời các em có thể chấm hết bất cứ lúc nào.... Hữu hạn mong manh quá đỗi. Bỗng thấy mắt cay xé, con nhớ lại lời ĐTC Phanxicô nói với giới trẻ: “Chúa Giêsu trong Phúc Âm đã khóc. Ngài đã khóc thương người bạn Lazarô qua đời. Người đã khóc cho gia đình mất đứa con gái của họ. Người đã khóc khi thấy người mẹ góa đem người con trai của bà đi an táng.Và Người đã động lòng đến chảy nước mắt, đã cảm thương khi thấy đoàn lũ dân chúng không có chủ chiên.Nếu các bạn không biết khóc các bạn không thể trở thành Kitô hữu tốt lành.
Đây là một thách đố cho chúng ta hôm nay. Khi đặt câu hỏi, tại sao trẻ em lại chịu khổ đau, tại sao tai ương này hay hoạn nạn kia lại xảy ra trong đời sống,câu trả lời của chúng ta cần phải: một là thinh lặng; hai là một thứ ngôn từ xuất phát từ các giọt lệ của chúng ta. Hãy can đảm. Đừng sợ khóc than!”
Vâng, Chúa Giêsu ơi! Con đang khóc đây!
Chúa cùng khóc với con nhé!
Thiện Nguyện Tín Thác
Bình Thạnh
2015
Tâm thần phân liệt hoang tưởng
- Viết bởi Tín Thác
Hình như dạo này tôi không được bình thường. Ai nhìn tôi cũng bảo thế. Đi bác sĩ khám mãi vẫn chưa tìm ra bệnh gì. Chỉ thấy chán hết mọi sự thế gian, muốn thu mình vào một cõi, không muốn tiếp xúc với ai... Thôi thì "bỏ phố lên rừng" một chuyến cho tinh thần bớt căng thẳng, lo lắng, muộn phiền. Và nơi tôi lang thang tìm đến giải sầu là trại tâm thần!
Cách xa nơi đông vui náo nhiệt của cao nguyên Lâm Viên là thị xã Đức Trọng-Lâm Đồng với những con đường uốn lượn rợp bóng thông reo. Đi sâu vào con đường đất đỏ ven đồi, dưới thung lũng xanh lúa, và sườn đồi cà phê rợp bóng, là chốn bình yên ẩn khuất để đón những con người “không bình thường”. Cuộc đời ồn ào, khổ đau, cạnh tranh khốc liệt ngoài kia, bỗng khiến họ một ngày nào đó chẳng còn nhận ra mình. Mọi sự chẳng còn hiện hữu như vốn có, mà có cũng như không, không mà như có, không tính cách, chẳng trí tuệ, chỉ còn những cơn điên loạn gào thét bất thường. Họ gần ba trăm con người, những bệnh nhân tâm thần ở thể nặng, không người thân nào cưu mang, khó có khả năng phục hồi. Những khi tỉnh tỉnh chút, có người nhận mình từng là giáo viên, doanh nhân, sinh viên, ca sĩ, đại gia...
Có khi nào trong đó có tôi không? Vì đôi khi tôi cũng sống trong "hoang tưởng", nghĩ mình phải là thế này, phải là thế nọ, phải nắm được chức vụ này, phải giữ cho được địa vị kia. Mặc dù tôi "bất tài vô đức" nhưng vẫn nghĩ rằng "chỉ có mình là xứng đáng" và "mình không làm thì ai làm được?" Rồi vì không được như mình tưởng, cho nên tôi đâm ra chán đời giận người. Tôi bị bệnh "hoang tưởng" thật rồi. Tôi có hơn gì những bệnh nhân ở trại tâm thần này đâu!
Ấy thế mà nơi đây còn giữ một câu chuyện rất đẹp. Có một sư cô bị điên. Nhà Chùa phải đưa cô lên rừng vì ở đồng bằng đã làm mọi cách cứu mà không được. Chốn cô tịnh tu hành, chẳng lẽ để cô phá phách la hét hay sao ? Họ gởi cô tới đây với chút hi vọng được yên ổn. Cô dọn một góc nhỏ thờ Đức Phật Thích Ca. Mỗi ngày cô tụng kinh ê a, trong khi hàng trăm bệnh nhân khác cầu nguyện Lòng Chúa Thương Xót lúc ba giờ chiều.
Vài tháng sau, tự nhiên cô dõng dạc tuyên bố: “Các người bắt kinh không có hay. Từ nay tôi phải dẫn kinh cho mấy người mới được!” Và thật lạ lùng, cô thuộc kinh làu làu. Hóa ra khi cô niệm Phật ê a, thì tai cô, trí cô lại thu lượm và nhớ thuộc lòng chuỗi kinh lòng thương xót Chúa. Cô dẫn kinh lòng thương xót rất hay. Mọi bệnh nhân dù là Công Giáo, Tin Lành, người Kinh, người K’hor, đều nghe cô răm rắp !
Nơi đây không ai có thể giải thích một hiện tượng rất lạ lùng. Cho dù suốt ngày suốt đêm các bệnh nhân chìm trong cơn điên cuồng, nhưng duy nhất có quãng thời gian trong ngày họ rất tử tế và rất hiền, đó là giờ cầu kinh lòng thương xót Chúa lúc ba giờ chiều.
Sau một thời gian làm “bà quản kinh”, dẫn kinh lòng thương xót cho các nữ bệnh nhân mỗi 3 giờ chiều tại đây, sư cô được khỏi bệnh, tỉnh táo. Nhà Chùa và các phật tử tới rước cô về. Họ bảo cô muốn đọc kinh Chúa, kinh Phật cũng được, miễn cô khỏi bệnh là ân phúc rồi.
Ôi, từ chốn gọi là điên rồ nhất đã phát sinh những sự tuyệt vời, mà kẻ nhận mình tỉnh táo như tôi phải ngỡ ngàng quá đỗi. Huyền diệu thay, lòng Chúa xót thương!
Trở về nhà, tôi cất công tìm hiểu thêm về chứng bệnh gọi là "tâm thần phân liệt hoang tưởng". Đó là một căn bệnh tâm thần mãn tính, trong đó một người bị mất liên lạc với thực tế, có ảo tưởng và nghe những điều không có thực, thính giác ảo giác.
Ảo tưởnglà tự quan trọng hoặc hạ mình, tin rằng rằng đang nổi tiếng hay mà có mối quan hệ với một người nổi tiếng. Giữ những niềm tin sai sự thật mặc dù chứng cứ ngược lại. Một mối bận tâm với một hoặc nhiều ảo tưởng.
Thính giác ảo giác là nhận thức về âm thanh - thường là tiếng nói mà không ai nghe thấy nhưng có vẻ thực sự. Những tiếng nói này thường khó chịu. Có thể có những lời chỉ trích liên tục những gì đang suy nghĩ hoặc làm, hoặc có ý kiến độc ác thật hay tưởng tượng về những lỗi lầm.
Những người bị tâm thần phân liệt hoang tưởng, có thể không nhận ra mình cần giúp đỡ hoặc có triệu chứng. Điều này là do ảo tưởng hoặc ảo giác có vẻ rất thực tế. Điều trị bằng cách cố gắng lấy hết can đảm để tâm sự với một ai đó, đó có thể là người thân yêu, tin tưởng, người chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp, một nhà tư vấn, một vị linh hướng, hay ai đó trong cộng đồng đức tin.
Tôi lại chạy đến với Đức Thánh Cha Phanxicô thì thấy bệnh của tôi nằm trong 15 căn bệnh đã được ĐTC bắt mạch kê toa. Đó là bệnh hoang tưởng tâm thần phân liệt trong cuộc sống (existential schizophrenia).
Theo ĐTC, đó là bệnh của những người sống hai mặt, sống một cuộc đời nước đôi (double life). Đó là hậu quả của một thứ giả hình chính hiệu, của một kẻ sống tầm thường, và dần dần đời sống tâm linh trở nên trống rỗng, cho dù khoa bảng, bằng cấp, chức tước, địa vị, cùng với các danh hiệu hàn lâm cũng không thể nào khỏa lấp được.
Đây là một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ bê việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, thủ tục hành chánh, thu mình vào tháp ngà yên ổn với các công việc quan liêu, luật lệ cứng ngắc, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Với cách sống như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, một thứ thế giới lưỡng diện (a parallel world), trong đó họ gạt qua một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy dỗ người khác, và sống một cuộc đời kín đáo nhưng thường là phóng đãng.
Chết thật! Chắc tôi bị bệnh đó rồi! Vậy mà xưa đến giờ không biết, cứ tưởng mình ngon lành lắm! ĐTC đã bắt đúng bệnh của tôi. Thảo nào tôi thấy lòng mình bất an. Có cái gì đó không thật nơi tôi. Dường như tôi đang sống trong "thế giới ảo"! Khoa học kỹ thuật càng tinh vi bao nhiêu, càng đưa con người xa rời thế giới thật bấy nhiêu. Tất cả đều có và chỉ có trên mạng, trên internet, trên màn hình vi tính, còn trên thực tế người ta chẳng nắm bắt được gì! Từ những chuyện kinh doanh làm ăn buôn bán, trao đổi hàng hóa tiền bạc... cho đến những chuyện chia sẻ tình cảm, kết bạn, trao đổi tâm tình, cái nào thật, cái nào ảo, có ai biết chắc được đâu!
Rồi bây giờ thế giới ảo đó ảnh hưởng đến cả đời sống tâm linh của tôi nữa. Tôi sống 2 mặt trong một con người. Bề ngoài ai cũng thấy tôi đạo mạo, đạo đức, xúng xính với bộ áo dòng, với cuốn sách kinh trên tay. Trên tòa giảng, tôi trổ tài hùng biện, khoa chân múa tay, dạy dỗ răn bảo giáo dân rất hay. Ai cũng khen tôi... khéo nói! Thế nhưng khi rời tòa giảng, tôi cũng để lại đó tất cả những gì tôi đã nghiêm khắc dạy dỗ người khác, tôi sống cái thế giới của riêng tôi, cho tôi, mà chẳng cần quan tâm đến ai. Tôi bỏ bê việc mục vụ, đi du lịch hết nước này đến nước kia cho sướng, tìm đủ cớ để xuất ngoại, nào là "đi cho biết đó biết đây, ở nhà ôm xứ biết ngày nào khôn?"; nào là đi vận động quyên góp để sửa chữa, xây cất cơ sở, nơi thờ phượng; nào là đi tu học để rửa bằng, để có bằng cấp nước ngoài cho oai với thiên hạ, để dễ bề thăng quan tiến chức! Cứ đi học "nước ngoài" là ngon hơn "nước trong" rồi, bất kể học hành thế nào, tiếp thu được những gì, áp dụng ra sao những điều đã học.
Thích bay nhảy, sính bằng cấp, ham chức tước, trọng hình thức, khoái bề ngoài... dần dần đời sống nội tâm của tôi cạn kiệt, đời sống đạo đức của tôi khô như ngói. Tôi không kiên trì làm được việc gì tốt lành. Tôi mau chán, dễ gắt gỏng cáu kỉnh vô cớ.
Tệ nhất là tôi "nói một đàng, làm một nẻo", những gì tôi giảng dạy không ăn nhập gì đến những gì tôi sống. Tôi sống một thế giới "lưỡng diện". Thay vì "khắt khe vơi mình, dễ dàng với người" thì tôi lại "khắt khe với người, dễ dãi với mình". Chúa nói rất đúng về căn bệnh "giả hình chính hiệu" này của tôi: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi nuốt hết tài sản của bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các ngươi sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn... Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ... Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!..." (Mt 23, 13-32)
Căn bệnh "ảo tưởng" rất trầm trọng này nếu không chữa trị kịp thời bằng việc hoán cải, là điều rất cần thiết và không thể thiếu được, thì sẽ lây lan sang một thứ bệnh khác mà ĐTC gọi là "Bệnh Thần Thánh Hóa Giới Lãnh Đạo-Thần Tượng Hóa Bề Trên"(divinizing directors).Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, ve vãn các vị Bề Trên của mình, nịnh hót để lấy lòng của các vị, hy vọng được ban bố "ơn mưa móc". Họ là loại người tham danh vọng (careerism), chộp bắt cơ hội, xu thời (opportunism). Họ tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa. Những người mắc căn bệnh này quên mất lời nhắc nhở của Chúa Giêsu:"Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là 'rap-bi', nghĩa là thầy, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha của anh em trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một người lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên" (Mt 23,8-12).
ĐTC chỉ rõ những người mắc bệnh này là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ "phải đạt" cho bằng được, chứ không nghĩ tới điều mà họ "phải làm". Những người này bủn xỉn, nhỏ nhặt, hèn hạ, và chỉ hành động vì cái tính vị kỷ quái ác của họ. Đó là căn bệnh của những người sống theo tính xác thịt, theo thói thế gian, chứ không theo sự hướng dẫn của Thần Khí, như thánh Phaolô tông đồ viết cho tín hữu Galat: "Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy anh em không còn thỏa mãn những đam mê của của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh cãi, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tị nhau." (Gl 5,16-26).
Những người sống "hai mặt" thì "đội trên đạp dưới". Một mặt thì khom lưng, luồn cúi, nịnh bợ, lấy lòng cấp trên. Mặt khác thì tác oai tác quái, chà đạp, o ép, bắt nạt người dưới.
ĐTC cho biết, bệnh này cũng có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý. Bệnh này cũng có thể tấn công cả thành phần Bề Trên nữa, khi các vị ve vãn bề dưới để chiếm được lòng thuần phục của họ,chiếm được lòng trung thành của họ. Các vị ấy ban cho bề dưới những "đặc quyền, đặc lợi", ưu ái họ hơn những anh chị em khác trong cộng đoàn, để họ luôn lệ thuộc và thần phục bề trên một cách "tối mặt", mù quáng. Thậm chí các vị ấy còn dùng cả biện pháp chính trị, là "vận động hành lang" với những lời hứa hảo để kiếm phiếu, để được đắc cử, tái đắc cử, để củng cố địa vị, nắm chắc quyền lực... Nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa với nhau thực sự, một "liên minh ma quỷ" chỉ để lợi dụng lẫn nhau mà thôi.
Triệu chứng của "bệnh hoang tưởng tâm thần phân liệt" là "thính giác ảo giác" khi tai tôi thích nghe những lời ngon ngọt, lời đường mật, lời nịnh hót, lời tâng bốc cho tôi lên "chín tầng mây xanh". Chung quanh tôi chỉ toàn những nịnh thần, không ai dám nói thẳng nói thật với tôi, vì sợ mất lòng cấp trên, sợ bị "đì sói trán"! Từ đó tôi sống trong "ảo tưởng", không thấy được bộ mặt thật của mình, sống xa lìa thực tế, không gần gũi với những người thấp cổ bé miệng, không bênh đỡ những người bị ức hiếp chèn ép, bị đối xử bất công. Tôi tiếp tay với những người có chức có quyền gạt họ ra ngoài lề cộng đoàn không một chút thương tiếc, không mảy may chạnh lòng xót thương.
Nếu sống hai mặt như thế trong đời sống dâng hiến, thì làm sao tôi cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, mà trở thành dụng cụ đem ơn cứu độ cho anh em?
Trong buổi tiếp kiến sáng 29-5-2015 dành cho 50 Hồng Y, Giám Mục và linh mục, tu sĩ tham dự khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, Đức Thánh Cha khẳng định Năm Thánh Lòng Thương Xót có mục đích làm nổi bật hơn hồng ân Lòng Thương Xót của Chúa. Đức Thánh Cha nhấn mạnh:
“Con người ngày nay đang mong đợi Giáo Hội biết đồng hành với họ, cống hiến cho họ chứng tá đức tin, khiến Giáo Hội liên đới với tất cả mọi người, đặc biệt là những người cô đơn và bị gạt ra ngoài lề. Bao nhiêu người nghèo đang chờ đợi Tin Mừng giải thoát! Bao nhiêu người bị đẩy ra những vùng ngoại biên cuộc sống do xã hội tiêu thụ gây ra, đang chờ đợi sự gần gũi và tình liên đới của chúng ta!"
Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh đến việc các tín hữu phải cảm nghiệm cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa nơi chính bản thân mình để trở thành dụng cụ cứu độ cho anh chị em.
Thánh lễ tuyên phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám mục Oscar Romero ngày thứ bảy 23-05-2015 tại quảng trường Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc ở San Salvador, thủ đô của El Salvador, có 7 Hồng Y, 90 Giám Mục và hơn 1,000 linh mục tham dự, cùng với một số nguyên thủ quốc gia, trong đó có tổng thống Ecuador và tổng thống Panama, đã thu hút 250.000 người.
ĐTC Phanxicô đã gửi đến Đức Cha José Luis Escobar Alas, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục El Salvador, một lá thư, Ngài viết:
“Đức Cha Romero đã xây dựng hòa bình bằng sức mạnh của tình thương, làm chứng về đức tin bằng cuộc sống hiến thân đến cùng...
“Trong hòan cảnh rất khó khăn, Đức Cha Romero đã hết lòng hướng dẫn, bênh đỡ và bảo vệ đoàn chiên, luôn trung thành với Tin Mừng và hiệp thông với toàn thể Giáo Hội. Sứ vụ của Đức Cha Romero trổi vượt vì sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo khổ nhất và bị gạt ra ngoài lề...
"Tiếng nói của vị Tân Chân Phước tiếp tục vang vọng ngày nay để nhắc nhớ chúng ta rằng Giáo Hội, là cộng đồng anh chị em được tập hợp quanh Chúa, là gia đình của Thiên Chúa, trong đó không được có sự chia rẽ nào. Đó là điều mà Giáo Hội ngày nay tại El Salvador, Mỹ Châu và trên toàn thế giới đang được kêu gọi thực thi: một Giáo Hội giàu lòng thương xót, được biến thành men hòa giải cho xã hội.
“Đức Cha Romero mời gọi chúng ta sống hợp với lương tri, tôn trọng sự sống và hòa hợp. Cần từ bỏ “bạo lực gươm giáo, bạo lực oán thù”, và sống “sức mạnh của tình thương mà Chúa Kitô chịu đóng đanh trên thập giá đã để lại, sức mạnh làm cho mọi người vượt thắng ích kỷ và để không còn những chênh lệch tàn bạo giữa chúng ta”.
Đức Cha Romero đã sống rất thật khi luôn "quan tâm đặc biệt đến những người nghèo khổ nhất và bị gạt ra ngoài lề", còn tôi sống rất ảo khi chỉ quan tâm đến những người giầu có, quyền cao, chức trọng.
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9-5-2015, dành cho 16 Giám Mục nước Mozambique, ĐTC khích lệ các vị tăng cường mục vụ tại những miền “ngoại ô” của giáo phận và của cuộc sống con người: “Anh em hãy đi vào lòng cộng đoàn tín hữu của anh em, cả trong những khu ngoại ô của giáo phận thuộc quyền, và trong mọi “cảnh vực bên lề” của cuộc sống, nơi có nhiều đau khổ, cô đơn và lầm than của con người. Giám Mục nào sống giữa đoàn chiên của mình, thì có đôi tai rộng mở để lắng nghe tiếng nói của đoàn chiên."
Người mục tử cần có đôi tai rộng mở để chăm chú nghe tiếng nói, tiếng than thở, than khóc của những con chiên cô đơn lầm than, chứ đâu phải để nghe những lời tâng bốc nịnh hót của sói rừng đội lốt chiên non!
Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp tổng thống Cuba, Raul Castro, vào sáng Chúa Nhật 10-05-2015 gần một giờ trong đại thính đường Phaolô VI, và tặng cho tổng thống một bản sao của Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, một huy chương lớn khắc hình Thánh Martin đang bao bọc người nghèo với chiếc áo choàng của mình.
Raul Castro rất vui mừng đón nhận món quà này, vì nó nhắc nhớ nhiệm vụ của ông không chỉ giúp đỡ và bảo vệ người nghèo, mà còn tích cực đề cao phẩm giá con người. Ông sẽ có mặt tại tất cả các Thánh Lễ do Đức Thánh Cha cử hành trong thời gian ĐTC thăm Cuba vào tháng 9-2015.
Trong một cuộc họp báo sau cuộc tiếp kiến với ĐTC Phanxicô, tổng thống Raul Castro nói về sự cởi mở của đảng Cộng sản Cuba với niềm tin tôn giáo: “Tôi xuất thân từ đảng cộng sản Cuba, là đảng không cho phép các đảng viên theo đạo, nhưng bây giờ chúng tôi đã bỏ lệnh cấm đoán này, đó là một bước quan trọng... Nếu Đức Giáo Hoàng giữ vững đường lối hiện nay, tôi sẽ theo đạo Công Giáo!”
Raul Castro, cũng như những người chân chính ngày nay, không "Thần Thánh Hóa Giới Lãnh Đạo-Thần Tượng Hóa Bề Trên"nữa. Họ chỉ "tâm phục khẩu phục" nếu những vị bề trên, những người lãnh đạo, "giữ vững đường lối" như ĐTC Phanxicô, nghĩa là sống những điều mình giảng dạy, và chỉ giảng dạy những điều mình sống mà thôi. Nếu tôi không sống trung thực như thế, mà cứ sống "hai mặt", sống giả hình, thì dù có khéo che đậy cách mấy, trước sau mặt nạ cũng rớt, thần tượng cũng sụp đổ, căn bệnh tâm linh "hoang tưởng" trầm kha sẽ vô phương cứu chữa.
Ôi! Năm "Đời Sống Dâng Hiến" đã được một nửa đường rồi, mà tôi vẫn dậm chân tại chỗ, với "lối sống hai mặt", giả hình chính hiệu, trong căn bệnh "tâm thần phân liệt - thể hoang tưởng" cho đến bao giờ đây ?
Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp mở rồi, mà lòng tôi vẫn khép chặt lại với căn bệnh "Thần Thánh Hóa Giới Lãnh Đạo-Thần Tượng Hóa Bề Trên" thì làm sao tôi thành dụng cụ đem ơn cứu độ đến choanh em được?
Mong lắm thay.
Chia sẻ của một Linh Mục tuổi đã xế chiều
- Viết bởi LM. Phêrô Nguyễn Thiên Cung
Cách đây 15 năm, ngày 4 Tháng 5 năm 2000, tôi đã tổ chức Mừng Ngân Khánh Linh mục của mình. Và ngày 04-5-2015 vừa qua, tôi đã cùng với một linh mục bạn mừng chung, ông linh mục bạn thì mừng Ngân Khánh Linh mục, còn tôi thì mừng 40 năm Linh mục. Trong những dịp nầy, để chuẩn bị cho Ngày Lễ Kỷ Niệm, tôi đã dành ra một năm trước đó, để suy tư và nhìn lại con đường mình đã đi qua, để so sánh con người và cuộc đời linh mục của mình bây giờ và trước đó 25 năm, và 40 năm . Đó là những điều mà hôm nay tôi muốn chia sẻ với các anh em linh mục của mình, đặc biệt với hai Cha Giuse NGUYỄN VIỆT HUY, và Giuse NGUYỄN VĂN LỪNG, nhân dịp Lễ Ngân Khánh Linh mục của các ngài.
I- VỀ NHỮNG CÁI NHÌN :
Ngày vừa mới được thụ phong linh mục, đôi con mắt vẫn còn trong và sáng, người ta thường cho rằng cần phải có cái nhìn minh bạch, rạch ròi : trắng là trắng và đen là đen, tốt là tốt và xấu là xấu, đúng là đúng và sai là sai, thật là thật và giả là giả, địch là địch và ta là ta, hay là hay và dở là dở, nguyên tắc là nguyên tắc ! Ranh giới giữa hai bên có vẻ như khá rõ ràng, minh bạch, không thể nào chung đụng hay dung nạp nhau được ! Người ta có khuynh hướng coi trọng nguyên tắc, luật lệ và sự thật hơn cả tình yêu thương và lòng bác ái, vì thế, đôi khi có những cung cách giải quyết hết sức nghiệt ngã, xúc phạm đến giáo dân và tha nhân cách nghiêm trọng !
Nhưng, sau 25 năm, đặc biệt sau 40 năm cuộc đời linh mục, với những đụng độ, những va chạm, những mất mát và nhất là với những thất bại trong công tác mục vụ, đôi con mắt có lẽ cũng đã bắt đầu mờ đục, cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, người ta mới khám phá ra rằng ranh giới giữa chúng không hẳn bao giờ cũng thế ! Hay, nói theo ngôn ngữ của Hermann HESSE, trong tác phẩm “Câu chuyện của dòng sông”, “ranh giới giữa hạnh phúc và khổ đau chỉ như một sợi tơ mành” ! Từ đó, có thể người ta sẽ tỏ ra bao dung hơn, dễ dàng tha thứ hơn, dễ dàng khiêm tốn hơn, trước Thiên Chúa và tha nhân; từ đó người ta cũng có thể nhận ra rằng điều tối thiết trong cuộc sống không hẳn là nguyên tắc, luật lệ hay sự thật mà là tình yêu, và lòng bác ái ! Nhưng, cũng có thể vì thế người ra sẽ dần mất đi cảm thức tội lỗi, dần có khuynh hướng tương đối hóa tất cả mọi sự, mọi vấn đề !
II- VỀ NHỮNG MỐI TƯƠNG QUAN :
Ngày vừa mới được thụ phong linh mục, với tâm hồn phơi phới rộng mở, ngây thơ, người ta cứ nghĩ mình có thể vòng tay bao trùm và yêu thương cả thế giới loài người, tất cả mọi người ai cũng có thể là bạn ! Người ta hăm hở mở rộng trái tim của mình ra với tất cả mọi người ! Người ta muốn giao du với tất cả mọi người, mọi thành phần xã hội, mọi giới ! Cách ngây thơ, có vẻ như người ta cứ tưởng ai cũng như mình ! Có vẻ như người ta có thể tâm sự, trang trải lòng mình với tất cả mọi người !
Nhưng, sau 25 năm, đặc biệt sau 40 năm cuộc đời linh mục, với những đụng chạm âm ỉ hay có khi nẫy lửa, với những hiểu lầm và ngộ nhận, với những phản bội của những người vốn thân thiết với mình, của giáo dân, của các đồng nghiệp, thậm chí cũng có khi cả của chính bề trên của mình, trái tim người ta xem ra như teo tóp lại, và lúc bấy giờ người ta mới nhận ra rằng hình như thế giới bao quanh mình đang ngày càng thu hẹp lại, nhỏ bé hơn nhiều so với điều mình hằng nghĩ tưởng ! Bạn bè ngày càng ít đi, kẻ thì “về chầu Chúa”, người thì bận rộn với những lo toan của mình ! Giới trẻ thì tìm cách xa lánh ! Con cháu vì không còn nhờ vả được gì, nên cũng từ từ xa lánh, lãng quên ! Thế giới dần dần co cụm lại chỉ còn quanh quẩn với một số ít người ! Điều đó có thể giúp người ta nhận ra được những giới hạn của mình, của kiếp người, kể cả sự bất lực của mình để từ đó càng đặt niềm tin cậy phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài mà thôi ! Nhưng cũng có thể tình trạng đó sẽ đẩy người ta vào thế giới khép kín chỉ với một vài “đối tượng” nào đó thôi và nếu đó là bóng dáng của những bà Evà, thì tình hình sẽ lại càng hết sức phức tạp ! Hoặc người ta cứ mãi sống trong tâm trạng thường xuyên bất mãn với tất cả mọi người, thậm chí kể cả với chính bản thân mình !
III- VỀ NHỮNG KHẢ NĂNG CỦA MÌNH :
Ngày mới được thụ phong linh mục, người ta tin rằng tự mình mình có thể “đội đá vá trời”, làm được tất cả mọi thứ, không cần ai ! Và rồi người ta hăng say ra đi, hồn tràn ngập hân hoan và niềm hy vọng, miệng hát ca ! Người ta hùng hục làm việc, bất kể ngày đêm, bất kể những can ngăn góp ý của những người từng trải, kinh nghiệm và khôn ngoan !
Nhưng, sau 25 năm, đặc biệt sau 40 năm cuộc đời linh mục, với những thất bại ê chề trong cuộc đời linh mục và công tác mục vụ, với vô vàn vô số những điều lực bất tòng tâm, lúc bấy giờ, hoặc có thể người ta khám phá ra sự yếu đuối, mỏng dòn của con người, dù đó là linh mục, để nhận ra rằng mình chẳng là gì cả, và tất cả chỉ là những hồng ân của Chúa ban cho, từ đó, người ta sẽ có thể khiêm tốn hơn, và dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời của mỗi người hơn ! Nhưng, cũng có thể vì thế, người ta sẽ đâm ra thất vọng, chán nản, đối với bản thân mình, đối với tha nhân và có lẽ kể cả đối với Thiên Chúa và Giáo Hội; và đây sẽ là một tình trạng hết sức nguy hiểm, có thể tạo cơ hội dẫn người ta đến cuộc sống buông xuôi, phóng túng, bất kể dư luận !
IV- VỀ SỨ MẠNG ĐÍCH THỰC CỦA NGƯỜI LINH MỤC :
Ngày mới được thụ phong linh mục, với ngọn cờ lý tưởng trong tay, người ta hăng hái lên đường như một dũng tướng, với biết bao mộng ước và với niềm hy vọng thầm kín cứu độ cả và thế giới !
Nhưng, sau 25 năm, đặc biệt sau 40 năm cuộc đời linh mục, với những mất mát, với những kinh nghiệm về những mẻ lưới thâu đêm chẳng thu hoạch được gì, với những thất bại ê chề trong cuộc đời linh mục và trong công tác mục vụ, cả một đời linh mục chẳng biết có cứu độ được ai không, nhưng bản thân mình thì nhiều lần có nguy cơ “mất mạng”. Người ta đã bỏ ra biết bao công sức, vất vả, nhưng con người và thế giới có vẻ chẳng có gì tiến bộ hơn. Đứng trước cái mênh mông của Thế giới, người ta mới nhận ra được mình nhỏ bé và bất lực làm sao ! Lúc bấy giờ, hoặc có thể từ đó người ta mới nghiệm ra rằng vai trò và sứ mạng đích thực của người linh mục không phải là cứu độ thế giới, bởi vì đó là vai trò và sứ mạng duy nhất và phổ quát của Đức Giêsu-Kitô, Con và Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, Đấng đã thực hiện một lần trong lịch sử là đủ (xem Dt 7, 26-28), - mà sứ mạng hàng đầu và chủ yếu của người linh mục là loan báo Tin Mừng Cứu độ của Đức Kitô và làm chứng về Ngài cho muôn dân : vai trò của người linh mục là gieo hạt giống, còn việc hạt giống đó có mọc lên không, lúc nào, nơi nào, và như thế nào đó là việc của Chúa (xem Dụ ngôn nơi Mc 4, 26-29)! Nhờ xác tín như vậy, người ta sẽ có thể khiêm tốn hơn trước mặt Chúa và tha nhân ! Nhưng, cũng có thể vì thế mà người ta sẽ lâm vào tình trạng thất vọng ê chề, hết còn muốn tin tưởng vào ai và vào cái gì, cứ để mặc đời mình như “bèo dạt mây trôi”, như con thuyền không lái, sống không mục đích, không lý tưởng !
V- VỀ CĂN TÍNH CAO CẢ CỦA CON NGƯỜI LINH MỤC :
Ngày mới được thụ phong linh mục, người ta ngây ngất ngắm nhìn mình và được giáo dân ngắm nhìn qua những bản thánh ca ca tụng chức linh mục mà phần lớn là của những tác giả chưa kinh qua năm tháng nào của cuộc đời linh mục ! Trong khi để có thể là Thiên Chúa thật của con người, Đức Giêsu-Kitô đã phải làm thật là con người trước đã, thì đối với một số người có vẻ như người ta vẫn cứ nghĩ rằng mình có thể làm một một linh mục thật mà không cần phải thật là con người trước đã ! Với tâm trạng đó, trong khi căn tính linh mục là điều mà người ta đang là và sẽ là hơn là điều mà người ta đã là, người ta dễ dàng có những cung cách hành xử, những lời ăn tiếng nói, hoặc những phản ứng trịch thượng, thiếu khiêm tốn với giáo dân và những người mà người ta tiếp cận, thậm chí có khi cả với những anh em linh mục đáng tuổi cha chú của mình !
Nhưng, sau 25 năm, đặc biệt sau 40 năm cuộc đời linh mục, mình mẩy đầy thương tích, có khi là những vết thương trí mạng, hậu quả của những cuộc chiến đấu gian khổ bảo vệ đức khó nghèo, đức tuân phục và nhất là đức độc thân khiết tịnh, cùng với những lần sa ngã, những thất bại ê chề trong cuộc đời linh mục và trong công tác mục vụ, với những đụng chạm có khi nẫy lửa với bề trên, với anh em linh mục và với giáo dân, với những mặt tiêu cực của Giáo Hội, với những hiểu lầm ngộ nhận từ nhiều phía, người ta có thể có hai phản ứng : a) hoặc từ đó, người ta có thể hiểu ra rằng sự cao cả của con người linh mục không phải đến từ mình hay từ Giáo Hội, mà là một ân huệ tình yêu hoàn toàn nhưng của Thiên Chúa đối với mình, dù mình hoàn toàn chẳng có công trạng gì hết cả, và ân huệ nầy được chuẩn bị từ vĩnh hằng trong Đức Kitô, Con và Ngôi Lời nơi Mầu nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi (người ta được gọi và được chọn từ khi người ta chưa được sinh ra làm người !), điều đó sẽ giúp cho người linh mục suốt đời sống trong tâm tình tri ân cảm tạ Thiên Chúa và tất cả mọi người; b) hoặc cũng có thể từ đó, người ta đâm ra nghi ngờ về chính căn tính linh mục của mình ! Và một khi người ta đã đánh mất căn tính linh mục của mình, người ta rất dễ dàng trở thành ác quỉ trong tương quan với Thiên Chúa, với Giáo Hội và với mọi người !
Để kết thúc bài chia sẻ nầy, tôi xin mạo muội gửi đến quí bạn Bài thơ mà tôi đã viết cách đây 15 năm khi tôi mừng Ngân Khánh Linh mục của mình, mang tên “Người chiến binh khờ” :
NGƯỜI CHIẾN BINH KHỜ
Chúa ôi ! Trong cuộc đời linh mục
Có nhiều lúc, con thấy nản lòng !
Ngày lại ngày là khoảng trống không
Con vất vả thâu đêm : vô ích !
Mẻ lưới cất lên, toàn trầm tích
Vỏ sò, vỏ hến và san hô…
Bao nhọc nhằn đêm trắng hư vô !
Bao gắng sức, chỉ toàn thất bại !
Con gieo lúa, mọc lên cỏ dại !
Con trồng hoa, cỏ cú mọc lên !
Con yêu thương, người lại ghét ghen !
Con hòa giải, người gây chia rẽ !
Với biết bao mỹ từ đẹp đẽ
Con đã dùng rao báo Tin Mừng
Nhưng, con người vẫn cứ dững dưng…
Giữa cuộc sống xô bồ hưởng thụ,
Con như chiến binh khờ bám trụ,
Dẫu quân thù đã ở bên trong !
Suốt cuộc đời, như kẻ hát rong
Miệng hát ca, bên trong nguội lạnh !
Con đã tham gia bao trận đánh,
Người trở về được thưởng chiến công,
Như dã tràng xe cát Biển Đông,
Con trở về, hai bàn tay trắng !
Thế mà Chúa mãi hoài im lặng !
Cứ như là chẳng có chuyện chi !
Bỗng, con nghe tiếng Chúa thầm thì :
“Ừ ! Đời ngươi quả nhiều thua thiệt !
Duy có một điều ngươi không biết :
Đó là ngươi vẫn mãi yêu Ta.
Ngươi đâu hay, đó mới thật là
Chiến công Ta vẫn hằng mong mỏi…”
Vâng, nói cho cùng, TÌNH YÊU mới chính là chìa khóa để có thể hiểu được cách chính xác nhất căn tính của con người linh mục. Được yêu thương hơn những người khác, vì thế, linh mục phải là con người yêu thương Đức Giêsu-Kitô, Hội Thánh, Thân Mình của Ngài và tha nhân hơn những người khác (xem Ga 21, 15-18). Yêu thương như Đức Giêsu-Kitô yêu thương (xem Ga 13, 34; 15, 12). Vâng, là linh mục, đơn giản chỉ thế thôi !
LỜI KINH CỦA MỘT LINH MỤC DỰA TRÊN TÁM MỐI PHÚC THẬT
1- Một cuộc sống “khó nghèo” : Lạy Chúa Giêsu, xưa, Chúa đã có những mối quan hệ thân tình với cả những người giàu cũng như người nghèo, nhưng, trong những cung cách hành xử, trong những phán đoán của mình, Chúa vẫn luôn là con người hoàn toàn tự do, không nô lệ ai và điều gì cả, xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ loại trừ ai, người giàu có cũng như kẻ nghèo hèn, và cũng đừng bao giờ lệ thuộc vào ai cả, bởi vì kẻ nghèo cũng như người giàu đều cần ơn cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô…
2- Một con người hiền lành : Lạy Chúa Giêsu, xưa, đôi khi Chúa có la mắng, nặng lời với ai đó, thì đối tượng hầu hết là những kẻ giàu sang, có quyền thế và những hạng trí thức ngoan cố, lươn lẹo, còn đối với những người bất hạnh, nghèo khổ, bệnh tật hầu như Chúa luôn tìm cách an ủi, vỗ về, khuyến khích, chứ không bao giờ la mắng họ; nay, xin Chúa giúp anh em linh mục chúng con biết có những lời ăn tiếng nói, những cung cách ứng xử hiền lành đối với tất cả những người nghèo khổ bất hạnh, kể cả anh chị em lương dân, khi họ cần và đến với chúng con để được giúp đỡ…
3- Biết lo nỗi lo của Giáo Hội và của tha nhân : Lạy Chúa Giêsu, xưa, suốt cả cuộc đời của mình Chúa luôn canh cánh lo toan cho những công việc của Chúa Cha, và của nhân loại; nay, xin Chúa giúp anh em linh mục chúng con đừng bao giờ nhìn, đánh giá các con người, các biến cố, các sự việc của Giáo Hội và của thế giới qua đôi con mắt trần tục, hạn hẹp, vụ lợi và vị kỷ của chúng con, mà qua đôi con mắt của Chúa và lăng kích chiều kích phổ quát của Hội Thánh Kitô…
4- Một cuộc đời có lý tưởng, có định hướng và có hoài bảo cao cả : Lạy Chúa Giêsu, xưa, trong suốt cuộc đời trần thế của mình không một giây phút nào Chúa lơ là đối với lý tưởng đời mình là “làm sao cho Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” và đó chính là điều làm nên căn tính (hay là chính danh, hay là sự công chính) là Con của Chúa; nay, xin Chúa giúp anh em linh mục chúng con đừng chỉ quanh quẩn với những giá trị chóng qua của thế gian nầy (như sắm xe đời mới, IPhone mới, IPad mới, đồng hồ mới, quần áo mới, nhà cao cửa rộng, những chai rượu đắt tiền, ăn uống, nhậu nhẹt say sưa…), mà biết hướng về những vấn đề cao cả hơn như Chúa đã sống, vốn là những điều làm nên căn tính linh mục đích thực của Chúa và của anh em chúng con…
5- Một con người giàu lòng thương xót : Lạy Chúa Giêsu, xưa, Chúa luôn yêu thương và giàu lòng thương xót đối với tất cả mọi người, không phân biệt, nghèo cũng như giàu, giáo cũng như lương; nay, xin Chúa giúp anh em linh mục chúng con phản ảnh được cách trung thực lòng thương xót của Chúa nơi những lời ăn tiếng nói, nơi những hành vi, cử chỉ, nơi những cung cách ứng xử đối với bất cứ những ai đến với chúng con hay mà chúng con có dịp tiếp xúc, bởi vì chỉ có tình yêu mà biểu hiện tuyệt vời nhất là lòng thương xót mới có sức cảm hóa được lòng người…
6- Một con người trong sáng như pha lê trước Nhan Thánh Chúa và trước mặt mọi người : Lạy Chúa Giêsu, xưa, trong suốt hiện sinh cuộc sống trần thế của mình, Chúa hằng luôn trang trải lòng mình trước Tôn Nhan Cha của mình, cũng như trước mặt con người; nay, xin cho anh em linh mục chúng con cũng có cuộc đời trong sáng như pha lê trong tương quan với Chúa, với Giáo Hội và với tất cả mọi người, để nhờ đó có thể phản ảnh được chính Chúa, và khi nhìn vào và qua anh em linh mục chúng con, mọi người có thể nhận ra được phần nào dung mạo tình yêu của Chúa…
7- Một con người tác tạo hòa bình và hiệp nhất : Lạy Chúa Giêsu, xưa, để tác tạo hòa bình và hiệp nhất, Chúa đã sống cách tốt đẹp những mối tương quan với Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, với Hội Thánh Kitô, với mọi người, với thiên nhiên vạn vật và với chính bản thân mình; nay, xin Chúa ban cho anh em linh mục chúng con biết sống tốt những mối tương quan “Thiên-Địa-Nhân hòa” nầy, vì đó là nguồn cội của mọi thứ hòa bình và hiệp nhất đích thực…
8- Một người tôi trung của Thập Giá : Lạy Chúa Giêsu, xưa, dù có khi cũng ngại ngùng, sợ hãi, và muốn trốn tránh, tháo lui, dù có lần cũng bị cám dỗ chạy theo con đường tìm kiếm vinh quang dễ dãi và chóng qua của thế gian, nhưng Chúa vẫn luôn trung thành với Con đường Thập giá mà Chúa Cha đã an bài cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời trần thế; nay, xin Chúa giúp anh em linh mục chúng con mãi mãi trung thành với con đường thập giá mà mình đã lựa chọn, bằng cách ngày lại ngày, dù thuận hay nghịch, vui hay buồn, vác lấy những thánh giá của cuộc sống hằng ngày, vì đó chính là con đường mang lại vinh quang và hạnh phúc đích thực… AMEN.
Linh mục Phêrô NGUYỄN THIÊN CUNG.
Hãy Đi Khắp Tứ Phương Thiên Hạ
- Viết bởi Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR.
GNsP (01.06.2015) – Sài Gòn – Mc 16,15
“Tôi mong đợi nơi anh chị em điều mà tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo Hội : ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời : “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ”, đó là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ và hôm nay vẫn còn ngỏ với tất cả mọi người chúng ta.”
(trích Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxico gởi tất cả những người tận hiến, nhân dịp năm Đời sống Thánh hiến – II. 4 – bản dịch Lm. Giuse Phan Tấn Thành OP.).
Lạy Chúa,
xin lôi con ra khỏi tháp ngà an toàn,
bỏ lại sau lưng chốn tiện nghi trần thế,
để đến được với những vùng ngoại ô cuộc đời.
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR.
Lễ Chúa Ba Ngôi 2015
Chúng Tôi Không Biết
- Viết bởi Lm Vinh Sơn Phạm Trung Thành, DCCT
GNsP (31.05.2015) – Sài Gòn – Mc 11, 27 – 33
“Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi”. Họ liền bàn riêng với nhau rằng: “Nếu chúng ta trả lời “Bởi trời”, ông ấy sẽ nói: “Vậy sao các ông không tin Người?” Nhưng nếu chúng ta nói “Bởi người ta”, chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri. Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết”. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó”.
Lạy Chúa,
trốn tránh sự thật sẽ không đưa con đến với quyền năng của Chúa.
Xin đừng bao giờ để con trả lời “chúng tôi không biết” một cách đớn hèn.
Xin củng cố niềm tin của chúng con.
Lm Vinh Sơn Phạm Trung Thành, DCCT.
- Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến
- Chúa lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên Trời
- Ánh sáng cuối đường hầm
- Ý nghĩa lịch sử ngày lễ kính lòng thương xót Chúa - Chúa nhật II Phục Sinh
- Những tâm tình sau "Khóa Tập Huấn Xây Dựng Năng Lực Cho Nhóm Tự Lực Và Biện Hộ"
- Lễ ra mùa
- Chuỗi hạt Mân Côi mất cây Thánh Giá
- Chứng từ của chỗi dậy
- Đền thờ đồi Golgotha và mộ Chúa Giêsu sống lại
- Nếu Chúa Giêsu tư vấn hôn nhân