Em ngươi đâu?
- Viết bởi Lm. VĨNH SANG, DCCT
VRNs (22.03.2015) – Trong những ngày qua, tình hình xã hội chúng ta càng thêm u ám bởi nhiều vụ đánh nhau giữa các học sinh các lớp trung học, các vụ đánh nhau này nhanh chóng được đưa lên mạng xã hội gây ra nhiều băn khoăn chua xót trong dân chúng.
Có một clip nữ sinh dùng ghế đánh bạn được đăng tải trên mạng xã hội vào tháng 4 năm 2013. Vụ việc xảy ra vào đầu giờ học ở một trường Trung Học Phổ Thông thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Họ đánh nhau trước sự chứng kiến của bạn bè, chỉ có tiếng reo hò cổ vũ chứ tuyệt nhiên không có một ai can ngăn.
Ngày 1.4.2014, clip ghi lại cảnh hai nhóm học sinh đánh nhau giữa đường, thậm chí nữ sinh còn quá quyắt đến mức lột nội y của nhau.
Một nhóm nữ sinh đánh nhau trong lớp tại một trường Trung Học Cơ Sở huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, tất cả được đăng tải trên mạng xã hội vào tối 21.4.2014. Cảnh đánh nhau diễn ra trong tiếng hò reo, vỗ tay lẫn chửi thề của các bạn. Có tiếng la lớn đòi hai bạn nữ phải xé áo cô gái nạn nhân.
Clip đăng trên mạng xã hội ngày 6.10.2014 ghi lại cảnh một nữ sinh trường Trung Học Cơ Sở Bình Tấn, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, đánh bạn dã man chỉ vì “thích thì đánh, nhìn mặt thấy ghét”.
Hai nữ sinh trường Trung Học Phổ Thông Bãi Cháy và Trung Học Phổ Thông Nguyễn Bỉnh Khiêm tỉnh Quảng Ninh, gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn. Sau cãi vã trước cổng trường Bãi Cháy, nhóm này kéo đến một khu vực khác để đánh nhau, lột nội y của nhau.
Clip “Học sinh lớp 7 đánh nhau” đăng tải mới đây nhất ngày 10.3.2015. Nữ sinh nạn nhân tên P., trường Trung Học Cơ Sở Lý Tự Trọng, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Đánh em là nhóm bạn cùng lớp, cầm đầu là lớp trưởng. Trong clip, nạn nhân khóc nức nở khi bị nhóm bạn đánh tới tấp, cầm ghế nhựa đập vào đầu. Đoạn cuối ghi lại cảnh một nam sinh cầm chồng ghế nhựa ném luôn vào người nạn nhân. Không một ai ngăn cản. Xung quanh chỉ có tiếng la hét, cổ vũ. Cô bé này bị đánh đơn giản chỉ vì không nghe lời lớp trưởng ra lệnh phải đánh một bạn khác…
Trên đây là một số ghi nhận qua báo chí hoặc mạng xã hội, hẳn rằng còn nhiều vụ việc khác đã không được ghi lại hoặc không tung lên mạng.
Bài Tin Mừng ngày thứ ba tuần thứ 4 Mùa Chay theo Thánh Gioan (Ga 5, 1 tt) kể lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài đến Cửa Chiên, vào khu vực có cái hồ chung quanh là 5 hành lang rộng, Tin Mừng diễn tả người què quặt, đui mù, ốm đau, nằm la liệt ở các hành lang bên bờ hồ. Chúa Giêsu tiến vào giữa một nhân loại khổ đau quằn quại, Ngài không trốn chạy, không bưng tai bịt mắt, không phớt lờ vô cảm, không dửng dưng lãnh đạm, không tìm đường khác mà lánh đi. Ngài cúi xuống trên kẻ liệt lào, nói lời an ủi, tuyên bố chữa lành, phục hồi sự sống.
Chắc chắn rằng chúng ta đã được sai đến một thứ Cửa Chiên như vậy. Sứ mạng của chúng ta là phải tiếp nối điều Chúa đã thực hiện bằng chính Lời của Chúa. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 10, 10). Chúa cần chúng ta công bố Lời của Người để chữa lành chính xã hội của chúng ta hôm nay. Chúng ta không được phép tránh né, phớt lờ, dửng dưng hoặc vô cảm.
Mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, mỗi cộng đoàn của chúng ta có nhận ra ơn gọi của mình hay không ? Chỉ kêu ca hay chỉ phản kháng thì không giải quyết được vấn đề, tò mò và loan truyền thông tin chỉ làm tăng thêm kích động xã hội. Hãy dội nước Lời Chúa ngay trên căn nhà của mình khi đám cháy đã bùng lên ở nhà bên cạnh để ngăn cơn “cháy nhà” lan đến gia đình chúng ta, rồi từ nhà mình, chúng ta giúp sức cứu các nhà khác tránh khỏi đám cháy hung bạo.
Qua các thông tin hang ngày, xã hội của chúng ta đang rất nguy cấp, hơn lúc nào hết, sứ mạng người Kitô hữu thúc giục chúng ta thi hành sứ mạng chữa lành mà Chúa đã ủy thác. Đừng để câu hỏi “Em ngươi đâu ?” trở nên án phạt cho chúng ta. (“Em người đâu ?” là một câu Kinh Thánh trong sách Sáng Thế được triển khai trong Sứ Điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Phanxicô).
Lm. VĨNH SANG, DCCT
Nguồn: Ephata 643
Cánh cửa năm thánh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 13.03.2015 Đức thánh Cha Phanxico đã công bố năm 2016 là năm thánh về Lòng thương xót từ bi của Chúa trong Hội Thánh Công giáo. Năm thánh sẽ bắt đầu từ ngày 8.12. 2015 đến 20.11.2016.
Theo tập tục trong Hội thánh Công giáo sẽ có nghi thức mở cửa năm thánh vào ngày khai mạc năm thánh.
Cánh cửa năm thánh ở bốn đại vương cung thánh đường bên Roma: Đền thờ Thánh Phero, đền thờ Laterano, đền thờ Maria Đức Bà cả và đền thờ Thánh Phaolo ngoại thành, lần lượt được mở ra trong những ngày khởi đầu của năm thánh.
Biểu tượng mở cánh cửa năm thánh có từ năm 1400 sau Chúa giáng sinh. Trong bức thư về năm thánh năm 1400 viết về cánh cửa năm thánh với ý nghĩa thần học: „ Người tín hữu Chúa Kitô nào ba lần bước đi qua cửa này, họ sẽ được hưởng ơn toàn xá tha các tội. Đây là điều kỳ diệu lạ lùng cho con người.“
Cửa là hình ảnh sát gần với đời sống hằng ngày của con người vào mọi lúc, ở khắp mọi nơi. Nơi nào có người cư ngụ làm lều hay nhà ở, nơi đó có một hay nhiều cửa.
Cửa là hình ảnh biểu tượng cho ranh giới ngăn cách giữa trong và ngoài cửa. Bên trong cửa, khi cánh cửa đóng lại bắt đầu điều gì mới. Nó cũng có thể là hình ảnh mang ý nghĩa mở ra một không gian, thời gian mới, một quãng đời sống mới.
Cửa đóng vai trò là lối vào, lối ra, là lối thông thương nối liền hai khoảng không gian lại với nhau giữa bức tường ngăn cách hai bên, là sự bảo vệ cho người, cho vật ở bên trong cửa.
Khi cửa mở ra là lời mời gọi „xin vào". Khi cửa đóng lại là dấu hiệu „xin dừng lại không đi tới tiếp được nữa“.
Trong đời sống hằng ngày cũng như trong các truyện ngụ ngôn thần thoại, trong phim ảnh, sách báo… hình ảnh cửa luôn luôn đóng vai trò rõ nét cùng cần thiết.
Cửa mang nhiều hình ảnh biểu tượng ý nghĩa thiết thực trong đời sống. Nên trong Kinh Thánh cửa cũng là hình ảnh biểu tượng nói về đời sống tinh thần đức tin nhiều cùng sống động.
Cửa được nói đến như hình ảnh Thiên Chúa tha thứ giải thoát và mở ra một tương lai cho dân của Người.
Khi cứu thoát dân Israel ra khỏi đất nước Ai Cập cho trở về quê hương đất hứa Do Thái, Thiên Chúa đã truyền cho dân giết con chiên và lấy mấu nó bôi quyét trên khung cửa nhà (Xh 12). Đây là dấu hiệu mang ý nghĩa quan trọng về sự giải thoát và cứu độ cho dân Israel.
Cửa dẫn lối vào cung thánh đền thờ chỉ được mở ra mỗi năm một lần vào ngày lể đền tội xin ơn tha thứ, để Thẩy cả thượng phẩm bước vào dâng lễ hy sinh đền tội.
Khi Chúa Giêsu chết trên thập gía tấm màn cửa trong đền thờ Gierusalem xé rách ra làm hai (Mt 27,51) nói lên sự chết của Chúa Giêsu đã mở cửa phá bỏ chấm dứt sự ngăn cách phân chia cũ mới.
Chúa Giêsu tự nhận mình là cửa chuồng chiên (Ga 10,7)o bảo vệ đàn chiên, che chở con người. Ngài bước qua những bức tường lề luật, những ranh giới phân biệti và mở cửa cho nhiều người. Vì Thiên Chúa muốn cứu độ con người, như khi Ngài chữa lành các người bị bệnh tật vào ngày lễ nghỉ Sabat, người nói chuyện với những người bị cho là tội lỗi, bị nguyền rủa bỏ rơi, với trẻ con, với phụ nữa.
Từ khi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh ra làm người trên trần gian, cửa thông thương đã mở ra giữa trời và đất, Thiên Chúa và con người.
Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, cửa ơn cứu độ trong nước Thiên Chúa mở ra cho mọi người trên trần gian sau khi qua đời.
Thánh Phaolo trên đường truyền giáo khi đến Antiochia đã kể thuật lại cho mọi người về những việc của Thiên Chúa đã thực hiện, và việc Thiên Chúa đã mở cửa cho người ta đón nhận đức tin vào Thiên Chúa như thế nào. (Cv 14,27).
Nên khi cửa năm thánh được mở ra, và chúng ta người tín hữu Chúa Kitô cùng với Hội Thánh đi bước qua cửa này là chúng ta tin nhận , Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Chúng ta muốn theo người, dõi theo tin mừng cửa lòng thương xót Chúa, như được viết thuật lại trong phúc âm.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tấm khăn mùa chay 2015-2016
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mỗi năm vào mùa Chay, hội bác ái Misereor của Giáo hội Công giáo nước Đức phát động chiến dịch bác ái mùa chay trong toàn nước Đức từ năm 1976.
Và cứ mỗi hai năm Misereor in ra Tấm khăn mùa chay cho chiến dịch bác ái này.
Tấm khăn mùa chay 2015-2016 mang tựa đề: „ Gott und Gold - Wie viel ist genug- Thiên Chúa và qúy kim vàng - Bao nhiêu thì mới đủ?“
Tấm khăn này do nhà danh họa, Giáo sư ngành hội họa Dao Zi, một tín hữu đạo Tin lành người Trung Hoa vẽ ra, lấy từ cảm hứng từ câu Phúc âm „ Kho tàng của bay ở đâu, lòng trí ngươi ở nơi đó“ (Mt 6,9-24).
Bức tranh với chủ đề thần học đạo đức được vẽ trên vải và được treo trong các thánh đường vào mùa chay hoặc ở dưới chân bàn thờ, hoặc trên cao nơi cung thánh để mọi người có thề nhìn thấy, khi vào thánh đường. Tập tục có tính cách dạy giáo lý bằng hình ảnh vẽ trên vải hay giấy rồi căng treo trong nhà thờ đã có từ thời thế kỷ 12. trong Hội Thánh Công giáo.
Tấm khăn mùa chay 2015-2016 lần này được vẽ bằng ba mầu chính: mầu xám tro làm nền, mầu đen và mầu vàng. Hình vẽ và mầu sắc mang nét trừu tượng sâu đậm.
Hình đường ngang chân trời mầu đen là hình cây ngang thập gía, và cũng có thể là con đừng đời sống con người xuyên suốt thời gian nơi trên thế giới.
Ở trung tấm khăn là hình một tảng đá lớn mầu vàng nằm ở giữa hình ngang màu đen, thu kéo sự chú ý nhìn của mọi con mắt.
Tảng đá này một mặt là hình ảnh Chúa Giêsu Kitô, như trong Kinh Thánh đã diễn tả là“ Tảng đá người thợ xây loại bỏ, đã trở nên tảng đá góc tường. Đó là công trình kỳ diệu của Chúa thực hiện trước mắt chúng ta.“ (Mt 21,42). Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã làm người cùng nâng cao con người lên được ngang hàng đồng dạng với Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Giêsu cũng đã trở nên người phục vụ tất cả mọi con người trọn cả đời ngài cho đến chết trên cây thập tự.
Tảng đá trong hình vẽ này mặt khác cũng nhắc nhớ ta đến những tảng đá từ các hành tinh khác vỡ ra bay trong không gian rơi vào vùng trái đất gây ra những thảm họa tàn phá làm đổ vỡ, cùng có thể gây ra chết người nữa.
Tảng đá mầu vàng cũng còn nhắc nhớ đến sự khát vọng cùng nhu cầu và có cả tham lam của con người xưa nay hằng đi đào bới khai thác nơi núi đá tìm qúy kim vàng , những chất quặng mỏ trong mọi thời đại, mọi nền văn hóa của nhân loại. Và do đó gây ra cảnh tàn phá thiên nhiên, tình trạng chiến tranh cướp giật, tình trạng dân chúng di dời chỗ ở, và cảnh nghèo đói về mọi lãnh vực.
con người
Mầu xám làm nền cho bầu trời, cho đất và nước nói lên: công trình sáng tạo thiên nhiên như Thiên Chúa muốn không còn nữa.
Mầu đen của cây ngang thập gía diễn tả sự đau khổ khốn cùng và giới hạn của đời sống con người.
Bảy viên đá mầu vàng nhỏ cạnh tảng đá lớn mầu vàng là hình ảnh những sự cần thiết Thiên Chúa ban cho đời sống con người.
Số bảy là con số trong Kinh Thánh chỉ vể sự tròn đầy viên mãn, như bảy ngày trong công trình tạo dựng trời đật thiên Chúa đã thực hiện, bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần và hình ảnh bảy Bí Tích trong Hội Thánh Công giáo.
Tình trạng nghèo đói, chiến tranh bóc lột, phá hủy thiên nhiên luôn hằng xảy ra trên mặt đất ở khắp mọi nơi do con người cùng cho con người xưa nay luôn là những ưu tư lo âu suy nghĩ cùng báo động cảnh giác cho mọi thế hệ con người.
Bao nhiêu tài sản của cải vật chất mới đủ cho tham vọng con người?
Có thể có sự phân chia đồng đều về của cải vật chất cho mọi người cùng được tham dự hưởng dùng cho đời sống, để cảnh nghèo đói thiếu thốn trong đời sống được giảm bớt bài trừ?
Qua Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng, một đời sống tràn đầy no đủ cho mọi người là điều có thể, và là điều Thiên Chúa muốn như thế cho con người.
Mùa Chay 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chuyện về con Dơi
- Viết bởi Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
VRNs (20.03.2015) – Đồng Nai – Có một cô gái nói rằng: cô đang rất đau khổ, trước mặt cô là cả một bầu trời đen tối và cô đang phải sống với những giọt nước mắt tuyệt vọng cuối cùng.
Nghe thật bi thảm, cô vừa bị mất việc vừa bị người yêu phản bội. Đây là mối tình đầu của cô và nó đã kéo dài 5 năm với tất cả sự chân thành nồng nhiệt, thủy chung của trái tim tuổi trẻ. Với mất mát này, cuộc sống trước mặt cô chỉ là những ngõ cụt, đường cùng.
Đó là tâm trạng của rất nhiều người khi đối diện với thất bại, đau khổ, nghịch cảnh. Họ cảm thấy mình như đi vào đường cùng. Họ cảm thấy bầu trời đối với họ không còn lung linh rạng ngời mà chỉ còn bóng tối bao trùm. Họ thất vọng. Họ buông xuôi.
Thực ra , ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới đau khổ hay hạnh phúc. Điều quan yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy. Chúng ta có thể thấy điều ấy qua hình ảnh con dơi. Một con dơi bình thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, lanh lợi đến mức ấn tượng. Tuy nhiên, nó không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một cách vô vọng và đau khổ. Cho đến khi nó tìm được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức, nó bay lên như một tia chớp.
Đôi khi chúng ta cũng giống như những con dơi cứ quanh quẩn trong bế tắc cùng khổ. Chúng ta vật lộn với tất cả các vấn đề rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần, chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn – hay nhìn về phía trước sẽ có một con đường mới cho chúng ta.
Khi nhìn vào đau khổ, Chúa Giê-su đã ví tựa cuộc đời như hạt lúa chịu mục nát mới trồi sinh sự sống. Ngài còn nói rằng khi Ngài bị treo lên thập giá thì không phải là đau khổ, hay là thất bại mà là cứu sinh cho nhân loại. Ngài không nhìn đau khổ như đường cùng mà là một khởi sự cho sự sống mới trồi sinh. Từ chính đau khổ ấy Ngài ngước nhìn lên cao để có thể thấy ý Thiên Chúa Cha đang đòi Ngài hiến tế cứu đời. Đối với Chúa Giê-su đi vào đau khổ còn như là định luật tất yếu của đời người, vì “hạt lúa phải mục nát mới trồi sinh bông lúa vàng”. Đối với Chúa Giê-su thập giá không là nỗi nhục mà là một hành vi cứu rỗi nhân gian qua sự hiến tế của Ngài.
Cuộc đời con người chắc chắn sẽ có những khúc quanh của đau khổ nhưng vẫn còn con đường phía trước. Dù hẹp. Dù quanh co. Nhưng vẫn có lối thoát cho cuộc đời chúng ta. Đừng thất vọng trước khó khăn. Đừng tháo chạy trước gian nguy. Hãy nhìn vào khó khăn của bổn phận, của thử thách như lời mời gọi chấp nhận mục nát đời mình để sống có ích cho tha nhân. Hãy đón nhận thập giá cuộc đời trong thiên ý Thiên Chúa như là hồng ân Ngài ban tặng cho chúng ta để hiệp thông cứu độ trần gian.
Xin cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có bình an, hạnh phúc cho dù vẫn còn đó những khó khăn thử thách. Xin cho chúng ta biết bám vào Chúa để nhờ ơn Chúa chúng ta vượt qua những khó khăn. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Lễ kính thánh Giuse : Thánh Giuse gồm no mọi nhân đức
- Viết bởi Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Kinh Thánh chỉ mô tả thánh Giuse bằng một từ ngữ ngắn gọn: “Người Công Chính”. Dĩ nhiên, khái niệm “công chính” ở đây được hiểu theo nghĩa Tân Ước, tức là con người trọn lành, bao dung, nhân từ, theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Giáo Hội thường suy tôn thánh Giuse với nhiều tước hiệu cao trọng:
Ông thánh Giuse là đấng sáng láng trên hết các thánh Tổ Tông.
Ông thánh Giuse trọn tốt trọn lành.
Ông thánh Giuse cực thanh cực tịnh.
Ông thánh Giuse cực khôn cực ngoan.
Ông thánh Giuse hay vâng lời chịu lụy.
Ông thánh Giuse là đấng ngay chính tận trung.
Ông thánh Giuse là gương nhân đức nhịn nhục.
Ông thánh Giuse yêu chuộng nhân đức khó khăn.
Ông thánh Giuse là mẫu sáng láng về cách ở trong nhà, v.v…
Các tước hiệu đó có thể gồm tóm trong câu “thánh Giuse gồm no mọi nhân đức”: khiết tịnh, vâng phục, nghèo khó, nhẫn nhục, khiêm nhường, v.v… Nhân đức mà “no” luôn là phải biết! Tuy nhiên, đối với dân làng Nazareth cách đây hơn 2000 năm, thì thánh Giuse cũng chỉ là một bác thợ mộc âm thầm vô danh tiểu tốt, thế thôi! Bên ngoài chẳng có gì đặc biệt, chẳng có gì khiến người khác phải chú ý. Suốt gần ba mươi năm sống bên cạnh Chúa Giêsu và Đức Mẹ, thánh Giuse không để lại một tác phẩm, một công trình, hay một câu nói để đời nào. Ngài chỉ âm thầm lặng lẽ chu toàn bổn phận làm chồng, làm cha của mình một cách tốt nhất có thể.
Lúc đã về trời, xem ra thánh Giuse vẫn tiếp tục “sống âm thầm lặng lẽ”. Lặng lẽ âm thầm cả trong việc can thiệp cho những nhu cầu của nhân thế. Đức Mẹ còn hiện ra nơi này nơi nọ, còn thánh Giuse rất hiếm khi. Có chăng chỉ là mộng báo trong giấc ngủ, hay là âm thầm giả trang để thực hiện việc này việc nọ cho các con cái của mình. Tuy nhiên, sự can thiệp của ngài thường rất kỳ diệu.
Xin được dẫn chứng: sau khi khánh thành nguyện đường Loretta, tiểu bang New Mexico, năm 1878, thì thực tế nảy sinh một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu phục và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng chiếc thang gỗ. Bởi lễ vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam được hát trong ca đoàn nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần cầu thang.
Các nữ tu đã mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi quan sát, đo đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì gác ca đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê ghế. Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi công xây dựng nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải được giao cho Thánh Giuse lo liệu. Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần 9 ngày xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với lòng tin tưởng và phó thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện một ông già râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca đoàn. Ông thợ mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước đo hình chữ T và 1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng mua vật liệu. Với tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công và tiền vật liệu sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ.
Sau thời gian 7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy ông thợ đâu hết: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp nơi, tuy nhiên, không ai nghe biết về ‘ông thợ kỳ lạ’ này. (Làm mà không cần tiền công. Thánh Giuse nghèo là phải rồi!!!).
Và rồi Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ để thanh toán tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không có ai đến mua gỗ làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích ông thợ ‘huyền bí’ này nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin của các nữ tu.
Điều đáng nói nữa là sự kỳ diệu của chiếc cầu thang. Chíêc cầu thang có hình xoắn ốc ngoằn ngoèo, mà không có cột chịu lực nào ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu thang và phần nối với gác ca đoàn. Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực khiến các khoa học gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư Urban C. Weidner cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ sụp đổ ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu phải lên xuống cầu thang mỗi ngày để hát phụng vụ. Năm 1959, cả ca đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như làm bằng ximăng cốt sắt.
Về gỗ làm cầu thang, nhiều chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ đâu. Tuy nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ của nó. Việc ông thợ lấy gỗ từ đâu mang về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn.
Cầu thang có 33 bậc cùng một kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian. Điều đặc biệt nữa là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết các vật liệu với nhau. Ông thợ ‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để liên kết một cách tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật.
Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận xét: một trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc là những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi, không tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông vẫn không lý giải nỗi tại sao một kỹ thuật tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng cụ rất thô sơ, lại có thể thực hiện được.
Và cho đến nay, mỗi năm được biết có khoảng 250 ngàn khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến nguyện đường Loretta để chiêm ngưỡng chiếc cầu thang lạ lùng này, trong số đó, có cả kỹ sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu và nghiên cứu (Xem thêm bài viết “Cầu Thang của Thánh Giuse ở Loretto – New Mexico” của tác giả Hoà Tâm).
Phép lạ đó nói lên điều gì, nếu không phải nói lên rằng sự can thiệp của thánh Giuse thường rất âm thầm lặng lẽ (lặng lẽ 7-8 tháng trời), nhưng rất diệu kỳ.
Có lẽ vì các nhân đức trỗi vượt của thánh Giuse và đặc biệt là vì sự đáp ứng mau mắn cho những ai kêu cầu, mà thánh Giuse là vị thánh được nhiều người yêu mến nhất, ngoài trừ Đức Mẹ. Người ta ước chừng một phần tư nam giới Kitô giáo, tức là khoảng một phần tám dân số Kitô giáo nhận thánh Giuse làm Bổn Mạng. Rất nhiêu dòng tu còn nhận ngài làm Quan Thầy của dòng, và nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam được đặt dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Thánh Giuse cũng là Bổn mạng của toàn thể giới Gia Trưởng. Vì thế anh em Gia trưởng được mời gọi theo gương sống của thánh Quan Thầy, sống xứng đáng là người chồng người cha mẫu mực thánh thiện. Sống thánh thiện mẫu mực một cách cụ thể đó là gì?
Trong tập Kỷ Yếu của Gia Trưởng Giáo phận, tôi đọc thấy một bài thơ rất ý nghĩa của một gia trưởng ở giáo xứ Thuận Nghĩa. Bài thơ có tựa đề “Mười Không, Mười Có”. Xin được trích lại:
Mười Không
Một không say xỉn la cà
Hai không bài bạc cửa nhà tan hoang.
Ba không lừa dối điếm đàng,
Bốn không trộm cướp, xóm làng bất an.
Năm không lươn lẹo tham giàu,
Sáu không ma tuý đời tàn ai ơi.
Bảy không biếng nhác ươi lười.
Tám không mèo mỡ bạn đời lung tung.
Chín không bất nghĩa bất trung,
Mười không kiêu ngạo và không bất bình.
Mười có
Một có đạo đức chân thành
Dựng xây đoàn hội, gia đình chăm lo.
Hai có trách nhiệm lớn to.
Dựng xây nước Chúa sao cho vẹn toàn.
Ba có bổn phận lo toan,
Bảo vệ giáo xứ cộng đoàn vui tươi.
Bốn có bác ái thương người,
Chung xây xã hội đẹp tươi an bình.
Năm có thiện chí hy sinh,
Giúp người hoạn nạn, bất hoà khổ đau.
Sáu có nhân nghĩa trước sau,
Giúp đời vơi bớt nỗi sầu bất công.
Bảy có thiện ý thực lòng,
Giúp đời tốt đẹp cả trong lẫn ngoài.
Tám có trí sạch lòng ngay,
Để đời ta có tháng ngày thảnh thơi.
Chín có mến Chúa yêu người,
Lòng thanh, trí sạch, sáng ngời quanh năm.
Mười có quyết chí quyết tâm,
Thành Gia trưởng tốt - đến gần Giuse.
Chắc chắn thánh Giuse là người giữ “Mười Không và Mười Có” đó triệt để hơn ai hết. Cầu chúc các anh em Gia Trưởng trong các gia đình Công Giáo cũng luôn giữ được như thế!
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Thánh Giuse khó khăn
- Viết bởi Lm. Giuse Phạm Bá Lãm
Vị thánh quê ở Assisi được mệnh danh là thánh Phanxicô khó khăn, tại sao ông thánh ở Nagiarét lại không được danh hiệu ấy? Kinh cầu đã xác định “Ông thánh Giuse yêu chuộng sự khó khăn”. Hoá ra khi nhận làm bạn với Đức Maria và làm cha nuôi Chúa Giêsu, ngài đã tiên thiên cam nhận cái số phận lận đận hẩm hiu ấy. Chàng trai Giuse thuộc dạng “Nơi đâu cần thanh niên có, nơi đâu khó có thanh niên”. Tất cả vì sự an toàn của gia đình Nagiarét.
Thánh Giuse là người cha pháp lý, thực chất chỉ là cha nuôi của Chúa Giêsu: có phải vì đó mà mất giá chăng? Để hiểu được dưỡng phụ hay cha nuôi cao quý như thế nào, chúng ta hãy nghe câu chuyện liên quan đến nước Đức và Việt Nam. Ông Uwe Rosler người Đức vào cuối năm 1973 đã đến Cô nhi viện của các sơ Dòng Chúa Quan Phòng Portieux tại Sóc Trăng, nhận nuôi một trẻ em mồ côi Việt Nam, đã được sơ Marie Marthe Đỗ Thị Suốn chăm sóc trong 9 tháng (sinh ngày 24.02.1973 tại Khánh Hưng, Sóc Trăng). Ông đã đưa cháu về Đức dưỡng nuôi như con ruột và đặt tên là Philipp Rosler. Điều kỳ diệu đã đến: 36 năm sau cậu trở thành Bộ trưởng Y tế (tháng 10/2009), rồi Phó Thủ tướng nước Đức (13.05.2011). Ông Uwe Rosler nghiễm nhiên được làm bố của Bộ trưởng và làm cha của Phó Thủ tướng. Khoảnh khắc cảm động được ghi lại: ông Uwe và cậu Philipp lúc đó 5 tuổi cùng soi gương chung với nhau: “Hãy nhìn con, rồi nhìn ba – con với ba khác nhau. Nhưng dù cho điều gì xảy ra hay người ta nói cái gì thì ba vẫn là ba của con”!
Thánh Giuse còn vinh dự hơn nhiều, vì được làm cha Đấng Cứu Thế, dù ai nghĩ sao nhưng vẫn được bé Giêsu gọi: Abba! Cha ơi! Người ta nói “cha sinh mẹ đẻ”, nên cha ruột hay cha nuôi, chẳng có cha nào biết đẻ, mà mỗi người nhận phần việc của mình thật hoàn hảo. Người ta có thể chứng minh điều đó qua một giai thoại: hai vợ chồng không có con, nhận nuôi một trẻ sơ sinh nặng 3 ký, chăm sóc như con ruột. Hơn một năm sau cháu lớn lên và cân nặng 10 ký. Lúc đó người cha ẵm lấy đứa con và nói với vợ: trước đây là 3 ký của huyết nhục, còn đây là 7 ký của tình thương. Chẳng biết bên nào hơn bên nào? Câu chuyện nhỏ ấy muốn nói: công dưỡng dục có giá trị lớn lao, chẳng kém gì công sinh thành.
Theo như dấu vết của Khăn liệm thành Torino, Chúa Giêsu cao 1m78 và có lẽ nặng 73 ký. Vâng, 70 ký tình thương của thánh Giuse không phải là nhỏ: vì nó đủ cho Chúa Giêsu sức khoẻ để đi giảng đạo suốt 3 năm, đủ lực để vác thập giá lên đồi Golgotha và dù tàn lực vẫn kêu lên một tiếng lớn rồi mới tắt thở (Mt 27,50; Mc 16,27).
Cha nào con nấy: Chúa Giêsu chịu khổ nạn, thì cũng giống cha Giuse khổ thân suốt đời, vì “đã mang cái nghiệp vào thân”. Một cuộc đời vô thường như lời thánh Phaolô trong thư Corintô (1Cr 7,29): “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay, những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng - vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”. Thánh Giuse đã cam chịu thiệt thòi như thế đó: không hưởng gì, có chăng là hưởng dương! Dung mạo của ngài cũng bị bóp méo: các hoạ sĩ thường vẽ các thánh trẻ trung đẹp đẽ, còn thánh Giuse tuổi đôi mươi mà mang hình dạng một lão gia bên người vợ trẻ đẹp, như bố với con! Và bao thiệt thòi khác: tình duyên không giống ai, không tự quyết đời mình, lận đận như người bôn tẩu, bóng mờ và im tiếng trong gia đình. Đúng như nhận định của nhân gian:
“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.
Với thánh Giuse, gánh và ách đã biến thành êm ái nhẹ nhàng nhờ tình yêu nhiệm mầu. Có ai được lặng nghe tiếng nói dịu êm của Mẹ Maria và trẻ Giêsu mỗi ngày? Có ai được thưởng món ăn mẹ hiền Maria dọn cho? Có ai được bồng ẵm hài nhi Giêsu, được làm ngựa cho bé Giêsu cưỡi? Có ai được phó linh hồn và chết lành trong vòng tay của Chúa Giêsu và Mẹ Maria?
Thiên Chúa vẫn áp dụng luật bù trừ “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 23,12; Lc 14,11 và 18,14): Bác phó mộc thành Nagiarét lên trời được chức Thánh Cả, ở dưới đất được làm Bổn Mạng của Giáo Hội. Thánh Giuse thật xứng đáng: ngài đã “gắn bó và chịu bao gian nan thử thách vì Chúa, nên sẽ được trao Vương Quốc, để được đồng bàn ăn uống với Chúa và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Israel” (Lc 22,28-30).
Ngày xưa bên Ai Cập, người ta kêu gọi “Ite ad Joseph”: Hãy đến với Joseph! Với Giáo Hội Việt Nam thì ngược lại: Thánh Giuse hãy đến với Việt Nam! Dẫn chứng sau đây:
Chính ngày lễ thánh Giuse 19.03.1627, giáo sĩ Đắc Lộ bị bão đã dạt tàu vào Cửa Bạng Thanh Hoá, khởi đầu cho công cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài. Nhận ra sự bảo trợ lạ lùng, Công đồng Đàng Ngoài ngày 14.02.1670 đã tôn vinh thánh Giuse làm Bổn Mạng địa phận Đàng Ngoài và đã được ĐGH Clêmentê X châu phê 3 năm sau vào ngày 23.12.1673. Giáo Hội Việt Nam đã được đi trước thời đại, mở đường cho các cuộc tôn vinh khác:
- Sắc chỉ của ĐGH Innocentê XI ngày 17.08.1678 tuyên nhận Thánh Giuse làm Bổn Mạng các nước truyền giáo Đông Phương.
- Sắc chỉ ĐGH Piô IX ngày 08.12.1870 tôn Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo Hội toàn cầu.
- Năm 1889 ĐGH Lêô XIII ra thông điệp Pluries Quamquam chọn tháng 3 kính Thánh Giuse.
- Năm 1955 ĐGH Piô XII đã thánh hoá ngày Quốc tế Lao động 1/5 thành ngày lễ thánh Giuse Thợ.
- Hội nghị thường niên của HĐGMVN tại Hà Nội ngày 06.10.1997 đã tái xác nhận tôn vinh Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Trở lại việc Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo Hội toàn cầu có giai thoại như sau. Một hoạ sĩ trình bày một bức tranh mô tả cảnh sống trên thiên đàng. ĐGH Piô IX ngắm nhìn thấy nhân vật nào cũng tuyệt vời: Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh… Bất chợt ngài chau mày hỏi: Thế còn Thánh Giuse ở đâu? – Dạ thưa, được đặt vào góc nhỏ này. ĐGH ra lệnh: Phải đặt Thánh Giuse ngay bên cạnh Đức Mẹ! Sau đó ngài đã ban sắc chỉ 08.12.1870 đặt Thánh Giuse làm Bổn Mạng Giáo Hội hoàn vũ.
Ngày nay cũng vậy: Kinh nguyện Thánh Thể 2-3-4 xướng danh Đức Mẹ, nhưng thánh Giuse ở đâu? Thế là Bộ Phụng tự và Kỷ luật các bí tích đã ra Sắc chỉ ngày 11.05.2013 quyết định phải đọc tên Thánh Giuse ngay sau tên Đức Mẹ trong tất cả các Kinh Nguyện Thánh Thể. Thật xứng đáng là một “cặp đôi hoàn hảo”, sẽ hợp đồng công tác phù giúp con cái Chúa.
Thánh Giuse không những yêu chuộng sự khó khăn, mà còn là quan thầy của kẻ khó khăn. Hơn ai hết con dân đất Việt đang gặp khó khăn gian nan về lãnh địa và lãnh hải. Cần phải có những “Cửa Bạng” để thánh quan thầy vững lái con thuyền đến bến bình an.
Lm. Giuse Phạm Bá Lãm, Chính xứ Hoà Hưng
Nguồn: TGP SàiGòn
Những khuôn mặt Giuse
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Nghiên cứu khảo xét trong Kinh Thánh về gia phả nguồn gốc gia đình Chúa Giêsu trong ý nghĩa thần học, cùng trong liên hệ bản tính loài người, người ta thấy hai Vị Giuse giữ vai trò quan trọng then chốt.
Vị Giuse con Ông Giacop bị anh em bán sang Ai Cập. Ở nơi đó Ông đã làm Thủ Tướng và có công cứu dân không chỉ ở Ai Cập, mà còn toàn vùng Trung Đông, trong có có nước Do Thái gia đình Ông thoát khỏi nạn mất mùa đói kém hoành hành.
Giuse con Tổ phụ Giacop và Bà Rahel thời cựu ước hay Giuse Ai Cập
Và Vị Giuse, người bạn đường trăm năm của Đức mẹ Maria, là cha nuôi Chúa Giêsu trên phương diện xã hội ở trần gian.
Giuse người Nazareth thời tân ước.
1. Tên của hai người Giuse là biểu tượng cho sự may mắn hạnh phúc.
Khi sinh thành Giuse Ai Cập, là con Ông Giacop, bà Rahel mẹ của Giuse đã nói : Thiên Chúa ban cho bà thêm người con nữa (St 30, 24.)
Giuse thành Nazareth cũng là người mang hạnh phúc niềm vui đến. Vì Ông giữ vai trò xã hội là cha nuôi dưỡng Chúa Giêsu
2. Hai vị Giuse đều là những vị có những giấc mơ.
Những giấc mơ của Giuse Ai Cập phản ảnh thực tại và là người của điều may mắn: Thiên Chúa ở cùng Giuse và ban cho ông được may mắn hạnh phúc (St 39,2.)
Giuse Ai Cập đi tìm anh em của mình và cứu sống 12 chi tộc Israel, dù vì giấc mơ của Ông mà bị anh em bán sang Ai Cập. ( St 37,16.)
Giuse thành Nazareth cha nuôi Chúa Giêsu theo lời Thiên Thần trong giấc mơ đặt tên cho con trẻ là Giêsu : Con trẻ Giêsu sẽ cứu thoát dân khỏi tội lỗi. (Mt 1,21) và ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. ( Mt 1,23)
3. Có những giấc mơ. Nhưng cả hai Giuse đều phải theo đuổi trải qua con đường gian nan chông gai đi sang đất nước Ai Cập. Giuse Ai Cập bị anh em bán cho lái buôn người Ismael sang Ai Cập ( St 37,28-36). Còn Giuse thành Nazareth cha nuôi Chúa Giêsu (Mt 2,13-15) phải đi tỵ nạn sang Ai Cập vì vua Herode tìm lùng bắt các trẻ con mới sinh, trong đó có hài nhi Giêsu.
4. Ý định đen tối trong đời hai Giuse đều được Thiên Chúa biến đổi cứu sang chúc lành.
Anh em Giuse thời Cựu ước bán Giuse sang Ai Cập, khiến Ông phải sống đời lưu vong bơ vơ. Nhưng đó là „ để bảo vệ giữ gìn sự sống, mà Thiên Chúa đã gửi tôi sang đây trước các anh em.(St 45,5.) „ Các anh em đã có ý định đen tối hại tôi, nhưng Thiên Chúa đã biến thành sự tốt lành. (St 50,20.)
Tương tự như vậy, Thiên Thần Chúa trong giấc mơ đã thúc dục Giuse thành Nazareth phải đem hài nhi Giêsu sang Ai Cập, vì vua Herode đang tìm lùng bắt con trẻ. (Mt 2,13.)
Cả hai Giuse phải ra đi trong sự đe dọa bị ám hại. Nhưng Thiên Chúa đã biến đổi sự đe doạ thành cứu rỗi.
5. Giuse thời cựu ước và Giuse thời tân ước đều có tấm lòng tha thứ rộng lượng.
Giuse Ai Cập thời cựu ước khi gặp lại anh em bên Ai Cập đã tha thứ cho họ. Ông không trả thù vì ngày xưa họ đã tìm cách ám hại sau cùng bán ông sang xứ xa lạ. Vì đó ông lâm cảnh bơ vơ mồ côi xa cha mẹ. (St 45,1-5).
Còn Giuse thành Nazareth thời tân ước đau khổ, khi hay tin Maria người bạn đường đã đính hôn đang có thai. Nhưng Ông không muốn để Maria một mình bị nguyền rủa khinh khi (Mt 1,19). Ông đã chấp nhận Maria như Thiên Thần Chúa truyền dạy.
Cả hai Giuse tỏ ra là người có đời sống công chính theo đúng luật lệ của Chúa. Và là người có lòng nhân ái quảng đại.
6. Cả hai Giuse đóng vai trò chiến lược là nhịp cầu nối kết.
Giuse Ai Cập thời cựu ước như nhân vật bản lề của cánh cửa lịch sử thời các Tổ phụ, tổ tiên một bên, và cảnh tượng bi thảm của cuộc giải thoát xuất hành khỏi Ai Cập trở về đất Chúa hứa một bên khác. Vị Giuse này đã mang đến làn gío đổi mới cắt nghĩa tại sao dân Israel có mặt ở Ai Cập.
Còn Giuse thành Nazareth cũng đứng nơi vị trí bản lề giữa lịch sử Israel và sự nối tiếp lạ lùng ngạc nhiên của lịch sử trong cộng đoàn mới thành hình cho dân Do Thái và dân ngoại chung hợp với nhau. Vị Giuse này là bảo chứng về dòng dõi vua David được nối tiếp trong lịch sử dân Do Thái. Vì Ông có nguồn gốc gia phả từ dòng dõi vua David (Mt 1,1.20 2,6). Và như thế Chúa Giêsu cũng là miêu duệ thuộc dòng dõi vua David, người đã thành lập nước Israel.
7. Cả hai Giuse cùng có thời gian sinh sống bên Ai Cập, tuy Giuse thành Nazareth ở ngắn thời gian hơn. Con đường sang sinh sống bên Ai Cập của cả hai không chỉ là sự sống còn của riêng bản thân họ, nhưng còn cho cả gia đình , phải cho sự cứu độ dân Israel và toàn nhân loại.
Giuse Ai Cập cứu đói cho dòng tộc gia đình con Tổ phụ Giacop
Giuse thành Nazareth cứu trẻ Giêsu bị tìm lùng bắt.
8. Cả hai lịch sử đời sống của Giuse đều có vua đóng vai trò chủ chốt. Một bên vua Pharo Ai Cập là hình nảnh tích cực tốt đẹp với Giuse Ai cập. Vua đã tin tưởng phong cho Giuse làm quan Tể Tướng về phương diện chính trị cai trị nước Ai Cập.
Đối diện là Vua Herode là một hình ảnh tiêu cực đen tối. Vua vì ghen tức, lo sợ cho uy quyền ngai vàng của mình, mà truy lùng bắt giết trẻ Giêsu cùng các trẻ con cùng thời tuổi với trẻ Giêsu. Và vị vua trẻ Pharo của Ai Cập thời hậu Giuse Ai cập cũng là một hình ảnh tiêu cực đen tối. Chính vị vua trẻ Pharao này đã kỳ thị hành hạ người Israel sinh sống bên Ai Cập. Và do đó dẫn đến lịch sử xuất hành của dân Do Thái từ Ai Cập trở về quê hương Do Thái.
9. Giuse thành Nazareth thời tân ước theo lời Thiên Thần truyền đã đặt tên cho con trẻ sinh bởi mẹ Maria là Giesu. Tên Giêsu có sự phù hợp với tên Josua. Theo văn hóa Do Thái tiếng Hylạp không phải là sự tương tự giống nhau, nhưng là cùng một tên.
Theo bản dịch Kinh Thánh Septuaginta - bản Bảy mươi - tên Josua quan trọng. Tên Iesous và sách Josua cũng gọi phù hợp như vậy. Josua trong lịch sử của Giuse Ai Cập đóng vai trò lớn. Josua là người đã chôn cất Giuse Ai Cập ở Sichem (Sách Josua 24,32), sau khi dân Israel đã đưa hài cốt Giuse từ Ai Cập trở về quê hương Israel.
Ngôi mộ Giuse Ai Cập hiện ở vùng Samaria bên dưới ngọn núi Garizim, gần giếng nước Giacop, nơi Chúa Giêsu gặp gỡ nói chuyện với một chị phụ nữ người Samaria. Giếng nước Giacop hiện nằm trong đền thờ Chính Thống giáo, được gìn giữ bảo quản cẩn thận. Khách hành hương có thể lấy nước từ dưới lòng giếng lên theo cách trục kéo cuốn giây kiểu cổ nhà quê, nhưng lại đượm nét bình dân thi vị thân mật.
Giacop con của Tổ phụ Isaak được Thiên Chúa đổi tên thành Israel (St 33,29). 12 con Ông Israel , trong đó có Giuse Ai Cập, là 12 chi tộc của dân tộc Israel
Và như vậy Giuse và Giosua có mối liên hệ tương quan với nhau chặt chẽ.
10. Sau khi các anh em bán Giuse cho người lái buôn Ismael sang Ai Cập, họ lấy chiếc áo chùng dài tay của Giuse nhúng thấm máu con dê rồi đem về cho Tổ phụ Giacop và nói là Giuse đã bi thú dữ ăn thịt. Họ chỉ còn tìm thấy chiếc áo dính máu của Giuse mang về đây. (St 37, 28-33).
Sau khi Chúa Giêsu bị đóng định trên thập gía, những người lính có nhiệm vụ canh gác nơi đó cũng lấy chiếc áo dài chùng của Chúa Giêsu bắt thăm chia nhau. (Ga 19, 23-24).
Áo của Giuse Ai Cập dính máu chiên dê đã đưa Ông sang sinh sống bên Ai Cập và sau đó cứu dân Ai Cập và gia tộc Giacop khỏi cảnh chết đói.
Áo của Chúa Giêsu con Giuse thành Nazareth thấm dính máu của Người trên con đường vác thập gía bị hành hạ và đã chết trên thập gía. Nhưng Ngài không dừng ở lại mãi trong sự chết. Sau ba ngày Ngài đã sống lại từ cõi chết mang lại sự sống mới cho toàn thể con người khỏi hình phạt tội lỗi.
Như thế có thể suy ra rằng đó là những chiếc áo cứu độ.
12. Ngoài hai vị Giuse trên, còn một nhân vật Giuse nữa không chỉ trong Kinh Thánh, mà còn liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu vào giờ phút cuối đời của Chúa Giêsu: Giuse thành Arimathia.
Theo Kinh thánh thuật lại, nhân vật Giuse này là một môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng không lộ diện ra mặt công khai, vì sợ người Do Thái. Ông là người Do Thái, một người gầu có, là một trong những Thành Viên của thượng Hội Đồng Do Thái. Nhưng cũng là người có đời sống tốt lành công chính cùng rộng lượng.
Vị Giuse thành Aromathia là người tin Chúa Giêsu là con Thiên Chúa. Và từ xa xa theo dõi vụ án xử Chúa Giêsu, Ông không bằng lòng với phán quyết của Thượng Hội đồng đòi giết Chúa Giêsu.
Không làm sao hơn được, Ông âm thầm chuẩn bị cho cuộc mai táng Chúa Giêsu. Ông đã cho đào sẵn một huyệt mộ gần nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh. Khi hay biết Chúa Giesu đã chết, Ông can đảm mạnh dạn đến xin quan Philato cho được tháo xác Chúa Giesu xuống, và tẩm liệm trong tấm khăn vải mới, rồi cùng với Ông Nicodemo xức dầu thơm mai táng thân xác Chúa Giêsu trong huyệt mộ còn mới sẵn có của chính ông (Mt 27,57-60).
////////////////////////////////////////////
Giuse Ai Cập thời cựu ước là người có đời sống công công chính đã có công cứu dân Ai Cập và gia đình dòng tộc Israel khỏi cảnh chết đói.
Giuse Ai cập làm quan chức vị lớn, nhưng đã mang niềm hy vọng cho đời sống ấm no của dân chúng toàn vùng, toàn nước.
Phải chăng đây là hình ảnh báo trước ơn cứu độ sau này vào thời Tân ước Chúa Giêsu mang đến cho con người?
Giuse thành Nazareth là cha nuôi Chúa Giêsu là người có đời sống công chính âm thầm lặng lẽ. Vị Giuse này không để lại một mảy may lời nào. Nhưng Ông lắng nghe những gì Thiên Chúa nói qua ThiênThần, và cứ thế âm thầm làm cho Chúa Giêsu, Đấng cứu thế cứu toàn nhân loại khỏi hình phạt tội lỗi.
Giuse thành Nazareth góp phần tích cực cho niềm hy vọng, cho chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi mẹ Maria, nơi nhân loại được thể hiện qua việc Ông đảm nhận vai trò là cha nuôi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trên trần gian. Ông đến cùng làm việc âm thầm. Và Ông ra đi cũng lặng lẽ. Nhưng trên trời và dưới trần gian thời nào cũng nhắc nhớ đến Ông với lòng cung kính cảm phục biết ơn.
Giuse thành Nazareth đã đóng góp thiết yếu vào việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người trên trần gian mang ơn cứu độ cho nhân loại
Giuse thành Arimathia là người vị vọng chức quyền trong xã hội, cũng là người có đời sống công chính, âm thầm lặng lẽ, và có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông đã ra tay tháo gỡ xác Chúa Giêsu từ trên thập gía xuống và an táng với hết lòng thành kính, như lễ an táng một vị Vua, trong huyệt mộ mới của chính Ông đã có sẵn.
Phải chăng Ông Giuse Arimathia đã tẩm liệm Chúa Giesu trong tấm khăn vải mới, rồi mai táng Chúa Giêsu trong ngôi mộ mới là dấu hiệu nói lên, sự sống mới của Chúa Giêu sống lại bừng lên mang lại niềm hy vọng mới cho con người cũng được cứu rỗi?
Lễ kính Thánh Giuse, 19.03.2015
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
++++++++++++++++
Cảm hứng từ:
-Joseph Ratzinger, Benedikt XVI., JESUS VON NAZARETH II., Herder 2011, 8. Kapitel Kreuzigung Jesu, das Begraebnis Jesu .
- Bibel heute Nr. 173 -2008, Josef - Vater Jesu
- Bibel und Kirche, Josef trifft Josef, 1. Quartal 20015
- Nguyễn tầm Thường, Kẻ đi tìm, Hành hương đất thánh, 34 bài suy niệm viết trên đường đi, C hương 18.Người lo huyệt mộ, 2009
Giọt nước mắt
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (15.03.2015) – Sài Gòn -Nước mắt là biểu hiện của nỗi buồn, hiếm khi là biểu hiện của niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (thi phẩm Cây Thông).
Nước mắt nào cũng mặn, nhưng có nhiều loại nước mắt. Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước mắt cá sấu”. Loại nước mắt bị ghét nhất mà lại thường thấy nhiều nhất! Vậy người ta thích loại nước mắt nào? Chắc hẳn loại nước mắt người ta thích là “nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm.
Trong nhạc phẩm “Giọt Nước Mắt Ngà”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu…”. Ở đây là loại tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn nói: “Sự thật hay mất lòng”. “Giọt Nước Mắt Ngà” của ông Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, dù quý lắm, nhưng giọt nước mắt đó đã hướng thượng: “Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…”. Màu buồn mà vẫn đẹp, sắc tím mà vẫn lung linh.
Chúa Giêsu cũng đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô. Khi thấy cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11:33), đó là lần thứ nhất. Ngài khóc lần thứ hai khi đi đến mộ Ladarô (Ga 11:35). Người Do Thái thấy vậy liền nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại không thể làm cho Ladarô khỏi chết. Thế là Ngài lại thổn thức trong lòng (Ga 11:38), tức là Ngài khóc lần thứ ba.
Sinh ra ai cũng khóc. Khóc vì “tiên tri” rằng đời là bể khổ, hay là khóc cần thiết cho cuộc sống? Phần cứng được cài đặt sẵn trong máy vi tính là có dụng ý của nhà chế tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, rồi vẫn phải bị te tua tơi tả cho đến chết thê thảm. Và chính Chúa Giêsu cũng đã phải khóc nhiều lần, buồn não lòng, “buồn đến chết được” (Mt 26:38; Mc 14:34) kia mà!
Samuel Beckett (1906-1989, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Ai-len) có triết lý độc đáo lắm: “Nước mắt của thế gian này luôn bất biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ. Với tiếng cười cũng vậy”. Tính liên đới rất lạ!
Thật dễ để dùng vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt khỏi trái tim mình. Tuy nhiên, nước mắt lại chính là ngôn ngữ bí ẩn của trái tim, không thể diễn tả được. Vì thế, chúng ta phải cố gắng để có thể biết cách nhìn lại những giọt nước mắt để chúng ta có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ bật khóc.
Nước mắt tốt cho thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ, kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời, thế mà vẫn không sạch hết tội.
Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Sb 36:14-16). Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ!
Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:19-21). Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử.
Đó là lịch sử đời thường, cũng như lịch sử ngày nay, mọi sự vẫn diễn biến, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, “Chúa có mặt trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi” (*). Một sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Và chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể tồn tại và chuyển động”.
Cuộc sống có ba thời (thì) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng mà quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, chúng ta chỉ còn hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay, và để hướng tới tương lai.
Kinh Thánh hướng về tương lai: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23). Thiên Chúa cũng đang mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi.
Trong thời gian lưu đày, tác giả Thánh Vịnh đã than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3). Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày nay người ta lại có dạng “khóc thuê”, cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ “khấn thuê”, “dâng lễ vật thuê”,… Thần linh cũng đành “bó tay” thôi!
Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:4-6). Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành sự tĩnh lặng, bất động!
Cuộc đời là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Nếu không có niềm tin, người ta sẽ chết. Quả thật, đã có nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ nên đã tự kết liễu đời mình – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết để “chạy trốn”.
Vâng, rất đau khổ nhưng cũng rất hạnh phúc, vì chúng ta còn may mắn lắm. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6). Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta có làm được gì, dù có kỳ diệu đến mức nào, cũng chỉ là con số không thật to mà thôi. Đừng bao giờ ảo tưởng về “cái tôi” tồi tệ của mình!
Thánh Phaolô giải thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:7-10). Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, thế nên chúng ta khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Đừng áp đặt Thiên Chúa theo ý mình!
Ai cũng có nỗi khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị. Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-18).
Muốn hết khổ, chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ”; muốn nhẹ lòng, chỉ còn biết khóc. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Thật vậy, trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và con cháu (Lc 23:28).
Thánh sử Gioan cho biết: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Những lời này quá rõ ràng!
Để được Thiên Chúa xót thương, chúng ta phải chân thành ăn năn; việc ăn năn được thể hiện qua động thái KHÓC, khóc thật lòng. Chúng ta hãy cùng tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu, tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông” (Tv 39:13). Biết khóc thì chúng ta chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Chính Ngài sẽ cứu chúng ta thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt” (Kh 7:17; Kh 21:4).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng khóc cho tội mình, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn cùng Máu Thánh của Chúa Giêsu, vì Nước Mắt của Đức Mẹ, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và cứu chúng con, các tội nhân của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử của cố NS Hùng Lân: https://www.youtube.com/watch?v=VpUzr0Tli78
Nguồn: DCCT
Vai trò người phụ nữ và nếp sống tinh thần
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm thế giới dành ngày 8.3. nhớ riêng về phụ nữ: Ngày phụ nữ thế giới.
Hướng về phụ nữ với lòng kính trọng. Vì họ do Thiên Chúa dựng nên như bao loài thụ tạo khác trong công trình tạo dựng thiên nhiên.
Nhớ về phụ nữ với lòng biết ơn. Vì Bà nội ngoại, người mẹ sinh thành nuôi nấng chúng ta nên người là phụ nữ.
Nghĩ đến phụ nữ với lòng cảm phục. Vì sự dịu dàng chan chứa tình yêu thương, nhẫn nại hy sinh chịu đựng của người mẹ trong việc nuôi dạy con cái, lo lắng với hết tấm lòng quán xuyến gia đình cho có đời sống trật tự ấm no.
Vui mừng, vì trong gia đình có chị gái, em gái, trong họ hàng dòng tộc có cháu gái. Họ đều là người phụ nữ. Nói theo quy luật thiên nhiên là có âm dương điều hòa.
Sinh hoạt ngoài xã hội, trong cộng đoàn xứ đạo sinh động, trôi chảy. Vì có những người phụ nữ thuộc mọi lớp tuổi cùng nhiệt thành tham gia vào việc chung.
Một người tâm sự: tôi còn bố gìa đau bệnh cần phải có người chăm sóc bên cạnh. Tôi là con trai lớn, và tôi có em trai nữa. Chính ra chúng tôi phải lo việc này. Nhưng đàn ông chúng tôi không làm công việc này được. Đến thăm bố chỉ nói chuyện hỏi thăm thôi. Nên phải cậy nhờ đến những em gái chúng tôi làm công việc săn sóc cho bố. Phụ nữ họ có cảm quan nhậy bén. Chân tay họ tuy yếu sức, nhưng họ làm công việc này rất giỏi rất tốt, nhất là việc vệ sinh sạch sẽ, việc săn sóc cho ăn uống, tắm rửa cho người khác… và họ có sức chịu đựng dẻo dai. Thiên Chúa đã ban cho người phụ nữ khả năng này từ bẩm sinh.
Động lòng trắc ẩn thương tâm, khi thấy hay nghe biết người phụ nữ nào bị bạc đãi, bị bỏ rơi.
Và rồi cũng có những ý kiến nhận xét, cái nhìn như không muốn công nhận vai trò cùng khả năng của phụ nữ trong đời sống xã hội, trong việc làm.
Nhưng đức Giáo hoàng Phanxicô có nhận xét : “Phụ nữ có nhiều điều để nói với chúng ta trong xã hội ngày nay. Thỉnh thoảng, đàn ông chúng ta chưa tạo không gian cho họ. Phụ nữ có khả năng nhìn nhận vấn đề khác chúng ta, và có thể đưa ra những câu hỏi mà đàn ông không hiểu nổi”. (Bài giảng ở Manila 18.01.2015.)
Và như thế, phải chăng người phụ nữ là một công trình tạo dựng kỳ diệu của Thiên Chúa?
Không dám qủa quyết điều này qúa bao quát.
Nhưng xét cho cùng, người con biết cầm đũa, cấm muỗng ăn cơm, cầm dao cắt bánh, biết mặc quần áo, biết tự đánh răng, rửa mặt, tắm rửa… là do người mẹ chỉ dạy cho.
Nhớ lại, người con biết chào hỏi, giữ lễ phép là cũng do người mẹ hướng dẫn dậy bảo cho. Có những người mẹ luôn căn dặn con mình, cả ngay trước mặt mọi người khác, phải khoanh tay cúi đầu chào hỏi người thân, người quen biết, phải biết ăn nói giữ lễ độ.
Có những người con kể lại, mẹ của họ căn dặn dậy bảo cho biết cách ăn mặc ở đâu phải thế nào cho xứng hợp.
Theo phong tục văn hóa Việt Nam, thông thường khi người con gái đi lập gia đình, ngày họ bên đàng trai chú rể đến nhà bên đàng gái xin rước cô dâu về, người cha cô dâu đứng ra chào hỏi và trao con gái mình cho chú rể. Nhưng có những gia đình, và không ít, người cha lại không làm chuyện này, mà đẩy sang cho người mẹ làm công việc chào hỏi và nói lời trao con gái mình cho bên đàng trai.
Trong công việc uốn nắn , hướng dẫn tinh thần đạo giáo, người bà, nhất là người mẹ đóng một vai trò quan trọng.
Người con biết làm dấu Thánh Gía, biết chắp tay, thuộc những kinh cầu nguyện căn bản là do người mẹ chỉ dạy cho.
Đức Thánh Cha Phanxico đã ca ngợi những người mẹ, người bà trong gia đình là „ những người đóng vai trò loan truyền đức tin tiếp tục cho con cháu mình.“
Như Thánh Phaolo đã viết thư cho học trò mình Ông Timotheo nói về vai trò dạy dỗ đức tin của người phụ nữ trong gia đình:
„Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy.“ (2 Timotheo 1,5).
Càng ngày trong đời sống xã hội ở các quốc gia, nhiều quốc gia đã đưa ra những đạo luật bênh vực nhấn mạnh cho quyền lợi của phụ nữ, cơ hội bình đẳng nam nữ trong các sinh hoạt xã hội.
Hôm 6.3.2015 sau thời gian dài bàn gỉai thảo luận, quốc hội chính phủ nước Đức đã biểu quyết thành luật văn bản: trong ban điều hành các hãng xưởng lớn phải có 30% thành viên là phụ nữ.
Đức hồng Y Woelki của Tổng giáo phận Koeln đã có phát biểu khi mới vể nhậm chức: Trong Tổng giáo phận cần phải có thêm những người phụ nữa vào làm việc trong cơ cấu của Giáo hội nơi đây.
Thiên Chúa đã ban cho con người 10 điều răn làm căn bản cho đời sống đạo giáo tinh thần. Trong đó điều răn thứ tư dạy: Con phải thảo kính cha mẹ con.
Sách Huấn ca - Sirach - nói rõ: „Ai thảo kính mẹ thì thu tích được kho báu…3,4. Ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa. 3, 16“.
Vai tra người phụ nữ càng ngày càng trở nên quan trọng không chỉ trong việc sinh thành, giáo dục dạy dỗ con cháu, nhưng còn cả trong nhpững sinh hoạt chung cộng đồng ngoài xã hội nữa.
Người phụ nữ với bản tính do Trời phú ban gần sát cạnh với đời sống do khả năng chức vị sinh con, nuôi dạy con, cùng tính tình nhạy cảm. Nên vào giai đoạn thời đại nào xưa nay, họ vẫn luôn là thành phần góp phần xây dựng thiết yếu cho đời sống con người phát triển, nhất là về phương diện đạo đức tinh thần.
08.03.2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đền thờ mới
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Với người Do Thái đền thờ Gierusalem là nơi thánh thiêng. Nơi đó Thiên Chúa Giave ngự trị. Nơi đó mọi người tín hữu Do Thái đến cầu nguyện. Nhưng ở nơi đó lại có những cửa hàng buôn bán.
Chúa Giêsu lên đền thờ thấy cảnh tượng như thế, Ngài nổi giận quát mắng xua đuổi người buôn bán hàng quán , để bầu không khí trang nghiêm nơi thánh thiêng được tôn trọng duy trì. ( Phúc âm Thánh Gioan 2,13-25)
Và người ta bất bình về cung cách thái độ của Chúa Giêsu. Như vậy phải chăng Chúa Giêsu vì „ nhiệt thành“ dù chỉ với việc đạo, mà bị nghi cho là người theo phe phái Zelot qúa khích? Hay Chúa Giêsu muốn điều gì mang ý nghĩa chiều sâu khía cạnh đạo đức thần học khác hơn nữa?
Lòng nhiệt thành - Phái qúa khích Zelot?
Khi Chúa Giêsu giận dữ la lối dùng giây thừng xua đuổi người buôn bán khỏi đền thờ, với lý do „ Các anh hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi nơi đây, đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán“, các môn đệ nhớ lại lời Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. (Tv 2,17)
Từ ngữ Zelot dùng để nói về một phong trào đạo đức qúa khích trong đạo Do Thái. Zelot theo nguyên ngữ Hylạp „zelotes“ có ý nghĩa lòng nhiệt thành. Phong trào nhiệt thành đạo đức này bắt nguồn từ lai lịch trong Kinh Thánh thời Maisen. Theo Kinh thánh thuật lại Ông Pinhas Eleasar , là cháu của Tư Tế Aaron. Vì lòng nhiệt thành với Đức Chúa Giave đã dùng gươm đâm chết một người Do Thái đã lấy một người phụ nữ ngoại giáo đem về sống chung trong trại lều của người Do Thái. Ông Pinhas làm việc này vì lòng nhiệt thành đạo đức bênh vực sự thanh sạch của đạo Do Thái. ( Sách Dân số 25.)
Từ đó phong trào đạo đức với lòng nhiệt thành của người Do Thái hằng thế kỷ có tên là Zeloten - phái người nhiệt thành.
Chính vì thế, khi các môn đệ Chúa Giêsu nhớ tới câu kinh thánh „ Vì nhiệt thành lo việc nhà Chúa, mà tôi phải thiệt thân“ sinh ra nghi ngờ Chúa Giêsu thuộc phái nhiệt thành.
Không, Chúa Giêsu dù giận dữ lấy giây thừng đánh đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ, không làm công việc lật đổ ai về phương diện chính trị. Ngài chỉ muốn bênh vực bầu khí thánh thiêng „đền thờ“ của Thiên Chúa thôi.
Trong đời của Chúa Giêsu từ khi còn đang thành hình là người trong cung lòng mẹ Maria, người đã ở trên lưng con lừa - Lừa là một con vật hiền lành tượng trưng cho sự khiêm nhượng, nghèo hèn và hòa bình.
Ngày xưa bên vùng Trung Đông Lừa là con vật này được dùng để chuyên chở người cùng đồ vật nặng đi xuyên qua vùng đồi núi hiểm trở. Khi mẹ Maria cùng với Thánh Giuse từ Nazareth xuống Gierusalem thăm người chị họ Elisabeth, và khi đi xuống Bethlehem miền Juda nước Do Thái để khai tên và sinh Chúa Giêsu ở đây, họ cũng đi lừa. Lúc đó Chúa Giêsu cũng còn đang la thai nhi trong cung lòng mẹ Maria.
Sau khi chào đời, Chúa Giêsu được bồng ẵm trong lòng mẹ Maria cỡi lừa di cư tỵ nạn sang Ai Cập. Khi trở về Nazareth từ Ai Cập họ cũng cỡi lừa vượt đường xa hồi hương.
Ngày cuối đời Chúa Giêsu vào thành thánh Gierusalem cũng cỡi lừa đi vào thành.
Hình ảnh cỡi lừa trong đời Chúa Giêsu nói lên Ngài là vị vua hòa bình, không là nhà làm chính trị muốn lật đổ truất tước quyền ai cả.
Phải chăng đó cũng là hình ảnh đền thờ Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu muốn xây dựng làm ra?
Đền thờ Thiên Chúa
„ Phá hủy đền thờ này đi, và nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại.“. Với câu trả lời xác quyết như thế, Chúa Giêsu muốn nói cho chính quyền Do Thái cùng mọi người hình ảnh dấu chỉ: Thập gía và sự sống lại của mình
Thập gía và sự sống lại, dấu chỉ chính thức hợp thức hóa cho Ngài, là người thiết lập lễ nghi phụng thờ Thiên Chúa chính thật, qua sự đau khổ thương khó của Ngài hiến thân cho dân tộc Israel và toàn thể nhân loại trên hoàn cầu.
Và từ thời điểm đó việc thờ kính Thiên Chúa như hiện nay chấm dứt qua rồi. Một nền phụng vụ mới thờ kính Thên Chúa xuất hiện không do con người làm xây dựng nên. Nhưng đền thờ mới đó chính là Ngài, Người sống lại từ cõi chết. Ngài tụ tập toàn thể nhân loại lại, và hợp nhất trong bí tích Mình và Máu Ngài.
Ngài bị đóng đinh trên thập gía đồng thời đó cũng là việc phá hủy, cho chấm dứt đền thờ cũ. Việc Ngài sống lại từ cõi chết khởi đầu một cách thế mới thờ phượng Thiên Chúa, như Ngài đã nói với chị phụ nữ Samarita „ không phải trên núi này, cũng chẳng phải ở trên đền thờ Giêrusalem, nhưng trong tinh thần và chân lý.“ (Ga 4,23.)
//////////////////////////////////////////////////
Chúa Giêsu, như ký ức các Môn đệ nhớ lại „ Lòng nhiệt thành việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.“ (Tv 2, 17). Và như trong lời cầu nguyện trong lúc bị khinh khi, cô lập: Xin giúp con, lạy Chúa, nước đã ngập tràn tới cổ họng miệng con…Vì lạy Chúa con chịu đựng đau khổ…Lòng nhiệt thành việc nhà Chúa làm thân con rã rời. (Tv 69,2.8.10)
Phải, các môn đệ khi nhớ đến đoạn kinh thánh này, đã nhận ra sự đau khổ của người công chính là Chúa Giêsu phải gánh chịu: Lòng nhiệt thành việc nhà Chúa đưa Ngài đến con đường sự thương khó đau khổ và sau cùng tới chết trên thập gía.
Chúa Giêsu đã biến đổi lòng nhiệt thành qúa khích- Zelot - sang thành lòng nhiệt thành vì thập gía. Do đấy Ngài đã đặt ra thước đo khác cho lòng nhiệt thành chính thật: lòng nhiệt thành vì tình yêu tự hiến thân mình. Lòng nhiệt thành này là thước đo, là đích hướng tới của Chúa Kitô. Đây là câu trả lời chính thật của Chúa Giêsu về thắc mắc „ Zelotismus - phong trào lòng nhiệt thành“.
Trong đền thờ các người què, mù lòa được Chúa Giêsu chữa lành . Sự chữa lành những người tàn tật trong đền thờ là cung cách thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu. Ngài đến với qùa tặng sự săn sóc ban ân đức chữa lành.
Qua đó , Chúa Giêsu muốn chỉ cho con người, Thiên Chúa là người có lòng từ tâm tràn đầy lòng yêu thương, là người có sức mạnh uy quyền của tình yêu thương.
Ngày Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành thánh Giêrusalem, các trẻcon hân hoan đón mừng hô vang lời ca tụng Hosianna. Đó là hình ảnh dấu chỉ của những tâm hồn tinh tuyền trong sạch và quảng đại cởi mở cho Thiên Chúa giầu lòng nhân ái.
Và đó cũng là hình ảnh đền thờ mới , mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng thiết lập nên.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
///////////////////
Lấy cảm hứng từ:
-Joseph Ratzinger, Benedikt XVI., JESUS VON NAZARETH II., Herder 2011, Die Tempelreinigung trang 26/38
- R. Schnackenburg, Das JOHANNESEVANGELIUM 1-4, 1. Teil Herder 1972, Sonderausgabe, Herders theologischer Kommentar yum neuen Testament.