Chữ “hiếu”
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (20.02.2015) – Sài Gòn
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Có lẽ không ai lại không thuộc lòng câu ca dao này. Ca dao bình dị mà thâm sâu. Ai cũng có một gia đình, dù là “ông kia, bà nọ” thì cũng vẫn xuất thân từ một gia đình. Vâng, người ta có thể tự chọn nhiều thứ, nhưng không ai có thể tự chọn cha mẹ – tất nhiên kể cả ông bà, tổ tiên. Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà người ta gọi gia đình là Tổ Ấm hoặc Mái Ấm. Dấu hiệu đầu tiên của hạnh phúc gia đình là tình yêu gia đình, chính “ngọn lửa” tình yêu làm cho gia đình ấm áp.
Dù là Thiên Chúa, nhưng khi Đức Giêsu giáng sinh làm người, Ngài cũng sinh trưởng trong một gia đình. Điều đó chứng tỏ gia đình rất quan trọng. Hai tiếng “gia đình” đơn giản lắm, nhưng cũng phức tạp lắm. Louisa May Alcott nhận xét: “Khả năng tìm được cái đẹp trong những điều nhỏ bé nhất khiến gia đình trở nên hạnh phúc và cuộc đời trở nên đáng yêu” (The power of finding beauty in the humblest things makes home happy and life lovely). Thomas Fuller đề nghị: “Lòng nhân đức bắt đầu từ gia đình nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity begins at home but should not end there). Bộ ba Cha-Mẹ-Con là chiếc kiềng ba chân yêu thương để chống đỡ gia đình: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng” (Ca dao).
Ngày lễ, tết, và những dịp đặc biệt, nhớ tới công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và tiền nhân là điều cần thiết. Trên đời này, không có công ơn nào to lớn bằng công ơn cha mẹ, đặc biệt là người mẹ. Chữ Hiếu (mệnh danh là Đạo Hiếu) không thể nào bù đắp chín Đức Cù Lao (*).Cứ tính đơn giản theo nghĩa đen thì cũng thấy không cân xứng: Một chữ không thể so với chín chữ. Con cái chỉ có một chữ mà vẫn không giữ trọn!
Kinh Thi có đề cập đức cù lao của cha mẹ: “Cù lao vu dã” – nhọc nhằn vất vả nơi đồng nội; và “bi ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” – thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta.
Dịp đầu Xuân, thời gian đẹp nhất trong năm – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, sách Huấn Ca mời gọi: “Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Tại sao? Lý do minh nhiên: “Họ là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44:10-15).
Chúa Giêsu đã nêu gương về đạo Hiếu để chúng ta noi theo. Sau ba ngày lo việc của Chúa Cha, Cậu Hai Giêsu ở lại Đền Thờ khiến Cô Maria và Chú Giuse lo sốt vó, tìm kiếm xuôi ngược suốt ba ngày. Khi gặp cha mẹ, Cậu Hai Giêsu mau mắn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).
Ai cũng có cha mẹ, dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là người sinh thành dưỡng dục mình. Ai sống có hiếu thì được Chúa chúc lành: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128:1-2).
Con cái có hiếu thì cha mẹ an tâm, gia đình hạnh phúc: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Chắc hẳn ai cũng mong ước như vậy, vấn đề là phải thể hiện cụ thể, đừng nói suông. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6). Nguyện chúc mọi gia đình vui hưởng thái bình như Thánh Gia – hôm nay và mãi mãi, đặc biệt trong những ngày Xuân đoàn tụ này.
Thánh Phaolô nhắc nhở những người con về Đạo Hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo.2 Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Và nhắc nhở những người làm cha mẹ: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4). Bổn phận và trách nhiệm với nhau là điều cần thiết: Con cái đối với cha mẹ, và cha mẹ đối với con cái.
Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì là hành động. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18-19). Cầu nguyện là việc làm phải liên tục, bất kể thời gian hoặc địa điểm. Thật vậy, cầu nguyện có thể thực hiện ngay tại bàn tiệc, khi đang nói chuyện với người khác, khi chạy xe,… thậm chí ngay khi chúng ta ở giữa một đám đông ồn ào náo nhiệt. Đừng chỉ cầu nguyện khi vào nhà thờ hoặc ở nơi tĩnh lặng, vì cầu nguyện rất dễ: Hướng tâm hồn lên với Chúa, gặp Chúa, có khi không cần nói gì cả. Cầu nguyện liên lỉ là “thói quen” của người sống tâm linh theo tinh thần của Đức Kitô.
Người cha, người mẹ và người con đều sống tâm linh như vậy thì chắc chắn gia đình hạnh phúc, là Tổ Ấm thực sự, ấm trong tình yêu của Thiên Chúa, nóng hổi ngọn lửa thương xót của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc” (Tv 112:1-2). Niềm hạnh phúc thánh đức thật tuyệt vời!
Thiên Chúa phù trì liên vạn đại
Thánh Gia bảo giám mãi thiên thu
Nước có quốc pháp, nhà có gia phong. Truyền thống là điều nên duy trì – nếu đó là truyền thống tốt đẹp và hợp lòng người. Đừng bao giờ câu nệ!
Trình thuật Mt 15:1-6 cho biết: Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và hỏi Ngài: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”. Ngài biết chẳng ai trả lời được nên Ngài lý luận: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”. Họ chỉ có nước “ngậm tăm”, im như thóc thối, câm như hến.
Có khi chúng ta cũng như bọn Pharisêu đấy, đầu toàn là “đậu hũ” mà bày đặt lý luận để bắt bẻ người khác. Dốt mà chảnh là thế đấy! Không chỉ vậy, chúng ta lấy lý do “vì, bởi, tại,…” mà biện hộ cho mình. Thật nguy hiểm! Thiết tưởng đôi khi chúng ta phải tự xét lại về các động thái của mình, đừng tưởng những gì chúng ta đưa ra đều là vì Chúa, có thể chính chúng ta “chơi ép” Chúa, “điều khiển” Chúa, rồi lại tự tôn bằng các biện hộ đó là Ý Chúa. Lạy Chúa tôi!
Ngày Xuân, dịp Tết, nếu còn cha mẹ, thật hạnh phúc cho bạn, nhưng hãy “động não” một chút: Khi bạn đang uống ly nước giải khát, hãy nghĩ xem cha mẹ thường uống gì. Khi bạn mặc những bộ quần áo đắt tiền hàng hiệu, xin hãy nghĩ xem cha mẹ bạn thường mặc ra sao. Khi bạn thoải mái chi tiêu, hãy nghĩ đến những thứ cha mẹ bạn thường dùng thế nào. Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ bao công sức, đổ bao hạt mồ hôi, đều chỉ vì mong cho bạn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những thứ bạn đang dùng đều là do công sức cha mẹ tạo ra. Xin hãy yêu quý cha mẹ và cố gắng giữ trọn chữ hiếu cho xứng đáng là người con. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này, biết đâu bạn không còn kịp nữa đâu!
Tết đến bình an nhờ Thiên Chúa
Xuân về hạnh phúc với Thánh Gia
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con có ông bà, cha mẹ, xin thương chúc lành cho họ; xin giúp chúng con biết giữ trọn Đạo Hiếu với Chúa và với ông bà, cha mẹ của chúng con. Xin tình yêu Thánh Gia luôn tràn đầy trong mọi gia đình. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Cù Lao là siêng năng, cần mẫn, nhọc nhằn. Chín đức cù lao: [1] Sinh: Cha mẹ đẻ ra, [2] Cúc: Nâng đỡ, [3] Phủ: Vỗ về, vuốt ve, [4] Súc: Cho ăn, bú mớm; [5] Trưởng: Nuôi dưỡng thể xác; [6] Dục: Giáo dưỡng tinh thần; [7] Cố: Trông nom, nhìn ngắm; [8] Phục: Quấn quít, săn sóc không ngơi; [9] Phúc: Bồng ẵm, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, bảo vệ con khỏi bị ăn hiếp.
Nguồn: DCCT
Nguồn gốc Mùa Chay
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU (Viết theo CatholicEducation.org)
VRNs (19.02.2015) – Sài Gòn – Mùa Chay là thời gian đặc biệt để cầu nguyện, sám hối, hy sinh và làm việc lành để chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Muốn canh tân phụng vụ Giáo hội, Hiến pháp về Phụng vụ Thánh của Công đồng Vatican II nói: “Hai yếu tố là đặc tính của mùa Chay – nhớ lại Bí tích Thánh Tẩy hoặc chuẩn bị cho Bí tích này, và sám hối – nên được nhấn mạnh trong phụng vụ và giáo lý. Qua đó, Giáo hội chuẩn bị cho các tín hữu về việc cử hành lễ Phục sinh, trong khi họ lắng nghe Lời Chúa nhiều hơn và dành thời gian cầu nguyện nhiều hơn” (số 109). Chữ Lent (mùa Chay) được rút ra từ chữ Lencten trong ngôn ngữ Anglo-Saxon, nghĩa là “mùa Xuân”, và Lenctentid không chỉ có nghĩa là “mùa Xuân” mà còn có nghĩa là “tháng Ba”, vì mùa Chay thường rơi vào tháng này.
Từ thời Giáo hội sơ khai, có chứng cớ về mùa Chay để chuẩn bị lễ Phục sinh. Chẳng hạn, Thánh Irênê (qua đời năm 203) đã viết cho Thánh Giáo hoàng Victor I, nói về việc cử hành lễ Phục sinh và sự khác nhau giữa hai việc cử hành này trong Giáo hội Đông phương và Tây phương: “SỰ tranh luận không chỉ về ngày này, mà còn về đặc tính của việc ăn chay. Một số người nghĩ rằng họ nên ăn chay một ngày, một số người nghĩ nên ăn chay hai ngày, một số người khác lại nghĩ nên ăn chay nhiều ngày hơn; một số người khác lại nghĩ nên ăn chay 40 giờ cuối cùng. Sự khác nhau trong cách giữ luật như vậy đã không có nguồn gốc như ngày nay, mà rất khác trước, từ thời xa xưa” (Eusebius, Lịch sử Giáo hội, V, 24).
Khi Rufinus dịch đoạn văn này từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latin, có dấu phẩy giữa số 40 và chữ “giờ” khiến ý nghĩa hóa thành 40 ngày, mỗi ngày 24 giờ. Do đó, tầm quan trọng của đoạn văn vẫn là từ thời tổ tiên xa xưa – luôn được diễn tả là thời các tông đồ, và thời gian 40 ngày mùa Chay đã xuất hiện. Tuy nhiên, việc thực hành thực sự và thời gian mùa Chay vẫn chưa tương ứng trong cả Giáo hội.
Mùa Chay trở nên phổ biến hơn sau khi Kitô giáo được công nhận năm 313 (sau công nguyên). Công đồng Nicê (325), trong giáo luật ghi rằng hai công nghị nên được tổ chức hằng năm, “một công nghị trước 40 mùa Chay”. Thánh Athanasiô (qua đời năm 373) trong các “Lễ Thư” (Festal Letters) kêu gọi giáo đoàn ăn chay 40 ngày trước khi ăn chay nghiêm ngặt hơn trong Tuần Thánh. Thánh Cyril thành Giêrusalem (qua đời năm 386) nói trong các bài giảng giáo lý, ngày nay gọi là RCIA (Rite of Catholic Initiation for Adults, nghi thức khai tâm Công giáo cho người lớn), trong đó có 18 điều hướng dẫn trước khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội được trao cho các tân tòng trong mùa Chay. Thánh Cyril thành Alexandria (qua đời năm 444) viết trong một loạt “Lễ Thư” cũng cho biết rằng việc thực hành đó trong mùa Chay chú trọng thời gian 40 ngày ăn chay.
Cuối cùng, Thánh Giáo hoàng Leo (qua đời năm 461) đã giảng rằng các tín hữu phải “hoàn tất việc ăn chay 40 theo luật”, đồng thời chú ý nguồn gốc mùa Chay. Có thể kết luận rằng, vào cuối thế kỷ IV, thời gian 40 ngày ăn chay chuẩn bị lễ Phục sinh được coi là mùa Chay như ngày nay, cầu nguyện và ăn chay đã tạo nên các bài luyện tập tâm linh thời sơ khai.
Dĩ nhiên, con số 40 luôn có có ý nghĩa tâm linh đặc biệt quan tâm sự chuẩn bị. Trên núi Hô-rép (núi Sinai), chuẩn bị nhận Mười Điều Răn, “Môsê ở đó với Đức Chúa 40 ngày và 40 đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Điều” (Xh 34:28). Êlia đi bộ “40 ngày và 40 đêm lên núi Hô-rép để gặp Thiên Chúa” (1 V 19:8). Quan trọng nhất là Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện “40 ngày và 40 đêm” trong hoang địa trước khi Ngài công khai sứ vụ (Mt 4:2).
Khi 40 ngày chay được thiết lập, việc kế tiếp là quan tâm mức độ ăn chay. Chẳng hạn, tại Giêrusalem, người ta ăn chay 40 ngày, các ngày từ thứ Hai tới thứ Sáu trong tuần, nhưng không ăn chay vào thứ Bảy hoặc Chúa nhật, do đó mùa Chay kéo dài 8 tuần. Tại Rôma và Tây phương, người ta ăn chay 6 tuần, các ngày từ thứ Hai tới thứ Bảy trong tuần, do đó mùa Chay kéo dài 6 tuần. Cuối cùng, người ta ăn chay 6 ngày mỗi tuần trong 6 tuần, thứ Tư lễ Tro được thiết lập để tăng số ngày cho đủ 40 ngày trước lễ Phục sinh. Luật ăn chay có khác nhau.
Thứ nhất, một số vùng kiêng cữ các loại thịt và các sản phẩm làm từ động vật, một số vùng lại trừ các thực phẩm như cá. Chẳng hạn, Thánh Giáo hoàng Grêgôriô (qua đời năm 604), viết cho Thánh Augustine thành Canterbury, nói về quy luật này: “Chúng ta phải kiêng những đồ tươi như thịt, và các loại tươi khác như sữa, bơ và trứng”.
Thứ nhì, luật chung cho mọi người là mỗi ngày chỉ ăn một bữa, buổi tối hoặc lúc 3 giờ chiều.
Luật ăn chay trong mùa Chay cũng thay đổi. Cuối cùng, được phép ăn nhẹ trong ngày để giữ sức khỏe mà làm việc. Được phép ăn cá, và sau đó cũng được phép ăn thịt suốt tuần, trừ thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu. Rồi được phép ăn các sản phẩm làm từ sữa, và cuối cùng luật này được hoàn toàn nới lỏng. Tuy nhiên, kiêng cữ cả các sản phẩm sữa cũng dẫn đến việc ăn trứng Phục sinh và ăn bánh kẹp vào thứ Ba béo (Gras Mardi, Shrove Tuesday), trước thứ Tư lễ Tro.
Thời gian trôi qua, luật được thay đổi dần, thế nên ngày nay việc ăn chay không chỉ đơn giản mà còn quá dễ. Thứ Tư lễ Tro vẫn là khởi điểm mùa Chay, từ đó kéo dài 40 ngày, không kể Chúa nhật. Luật ăn chay và kiêng thịt ngày nay rất đơn giản: Chỉ giữ vào thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, các tín hữu ăn chay (một bữa no, hai bữa nhẹ) và kiêng thịt; còn các thứ Sáu khác trong mùa Chay chỉ phải kiêng thịt. Giáo hội khuyến khích “từ khước cái gì đó” để hy sinh trong mùa Chay. Có điều thú vị vào các Chúa nhật và lễ trọng như lễ Thánh Giuse (19 tháng Ba) và lễ Truyền Tin (25 tháng Ba), người ta “được miễn trừ” và có thể tận hưởng bất cứ thứ gì phải kiêng trong mùa Chay.
Hãy hy sinh từ khước điều gì đó vì Chúa. Làm thật lòng chứ đừng như người Pharisêu (giả hình) để được người ta “chú ý”. Hãy chú trọng hoạt động tâm linh, như tham dự đi Đàng Thánh Giá, Thánh lễ, chầu Thánh Thể, cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng, xưng tội và rước lễ. Hãy tập trung vào hoạt động mùa Chay: Sám hối, canh tân đời sống, thể hiện đức tin và chuẩn bị cử hành Mầu Nhiệm Cứu Độ.
TRẦM THIÊN THU
(Viết theo CatholicEducation.org)
Thoáng tản mạn về đời thánh hiến
- Viết bởi Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
VRNs (19.02.2015) – Giáo Hội Công giáo đã bước vào năm thánh hóa đời thánh hiến và Giáo Hội Công giáo Việt nam cũng đã khai mở năm tân Phúc Âm hóa đời sống cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn đời sống thánh hiến. Thử hỏi rằng đời sống tận hiến tu trì, cách riêng trong Công giáo còn có vai trò và ý nghĩa nào đối với nhân loại hôm nay?
Người ta vốn hiểu một cách phổ thông: tu là sửa. Đi tu là chọn con đường sửa mình. Sửa mình để làm nền tảng cho những hoạt động lớn lao hơn. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Sửa mình để rồi mưu ích cho tha nhân, cho xã hội. Anh em Phật tử thì chọn con đường đi tu để giác ngộ, cách riêng với phái Đại Thừa thì giác ngã để giác tha… Theo nhãn quan Kitô giáo đi tu là chọn một con đường, một cách thế theo sát Đức Kitô hơn trên con đường sống đức ái, là phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách triệt đễ và hữu hiệu hơn. Và con đường tu sĩ tự nguyện chọn theo sát Đức Kitô hơn đó là các lời khuyên Phúc Âm: Vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh.
Đức vâng phục của chúng ta có trở nên một nguyên cớ để người ta cho mình là thiếu trách nhiệm, là chưa trưởng thành? Phải chăng có đó khá nhiều tu sĩ sống thiếu bản lĩnh, sống không có lập trường, sai đâu thì đánh đó? Họ nại cớ vâng phục để rồi luời biếng suy nghĩ về chương trình hành động, nại cớ vâng phục để rồi hành động một cách thiếu tinh thần trách nhiệm? Sự đơn sơ phó thác phải chăng đã có lúc trở thành tấm màn che đậy một tinh thần, một thái độ ấu trĩ?
Nếu giả như điều này là hiện thực thì không duy chỉ có phần lỗi của các tu sĩ bề dưới mà còn có phần lỗi lớn của các vị đứng đầu tập thể lớn nhỏ. Chúng ta đã từng lầm tưởng và có thể đang in trí rằng: ý bề trên là ý Chúa. Đã là ý chúa thì không thể sai lầm. Đã là ý Chúa thì phải nhất nhất tuân hành, không một ý kiến phản hồi hay góp ý. Chưa kể đến chuyện nếu dám to gan “thắc mắc” trước ý bề trên thì dễ bị quy chụp là chống đối, lỗi đức vâng lời. Chúa thường hướng dẫn chúng ta qua bề trên. Nhưng xin đừng đồng nhất ý bề trên là ý Chúa. Nếu vậy thì đâu có chuyện Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II rất nhiều lần lên tiếng xin lỗi. Phận bề dưới, chúng ta cần tìm và đón nhận ý Chúa qua ý bề trên. “Điều ấy xảy đến thế nào được vì tôi không biết đến chuyện phu thê!” (Lc 1,34). Đức Maria, Mẹ chúng ta quả là to gan khi dám cật vấn cả Thiên sứ. Ngay trong một cộng đoàn nhỏ bé, thử hỏi chúng ta có thực tâm đem việc chung ra thảo luận hay không? Ngoại trừ các em thỉnh sinh, các em thanh tuyển, thiết tưởng rằng tuổi đời của các khấn sinh, dù là khấn tạm hiện nay không thể nói là còn non nớt. Thực tế đang còn đó nhiều vị đã vĩnh khấn, đã lãnh nhận thiên chức linh mục mà vẫn bị xem như là chưa trưởng thành!
Đức khó nghèo của chúng ta đã trở nên dấu chỉ khả tín về Thầy Chí Thánh, Đấng tự nguyện trở nên nghèo khó để cho muôn dân được nên phong phú và giàu có chưa? (x.2Cr 8,9). Cái chuyện “khó mà nghèo” dù là chuyện khôi hài vỉa hè nhưng cũng đủ nói lên hiện trạng của đời tu, nhất là hiện nay. Thậm chí có người dám hóm hỉnh rằng cả Đức Chúa Trời Ba Ngôi cũng không biết dòng Tên vâng phục ai? Dòng Đaminh, Dòng Chúa Cứu Thế thuyết giảng chuyện gì và dòng Phanxicô có bao nhiêu tiền?
Vẫn có đó nhiều tu sĩ an tâm vì vật sở hữu không nhiều, nhưng lại đang được sử dụng quá nhiều phương tiện vật chất mà cả người trung lưu có mơ cũng chẳng được. Ngay cả bà con tín hữu trong đạo cũng mang tâm thức rằng các cha nhiều tiền, các thầy, các sơ thì thiếu gì tiền! Hội Thánh vốn tự xưng là tập thể những người nghèo và sống ưu tiên cho người nghèo thế mà thực tế thì sao đây? Tu sĩ chúng ta sống đức nghèo khó như thế nào? Có người nại đến Tin Mừng Matthêu để chỉ hài lòng về sự khó nghèo trong tinh thần. Nhưng xin đừng quên Tin mừng Luca nói rõ về sự khó nghèo toàn diện (x.Mt 5,3; Lc 6,20).
Nào chúng ta nói đến Đức Khiết tịnh. Đây quả là một ưu phẩm của giới tu trì trước mặt người thế gian. Hy sinh cảnh sống ấm êm của đời hôn nhân gia đình quả là một hiến dâng quảng đại. Để đề cao công lao và nhân đức của một lãnh tụ nào đó người ta thường tuyệt đối hóa sự hy sinh này. Tuy nhiên vẫn còn đó cái dấu hỏi ngầm rằng họ có thể vượt qua sự đòi hỏi bình thường kiếp nhân sinh chăng? Chúng ta cần thú nhận sự hạn chế của bản thân trong kiếp người. Không một ai có thể tự hào mình đã, đang và sẽ lướt thắng mọi chước cám dỗ lỗi đức khiết tịnh cách này cách khác. Là tu sĩ, phải chăng chúng ta nên có một cái nhìn đúng đắn về lời khấn khiết tịnh. Vô tri thì bất mộ. Cũng có thể nói thêm: vô tri thì bất khả hành.
Ta giữ đức vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh không phải là vì chính sự khiết tịnh, khó nghèo hay vâng phục, mà là để theo sát Đức Kitô trên con đường sống đức ái trọn hảo. Không gì hơn, hãy xét xem Đức Giêsu sống vâng phục, khó nghèo, khiết tịnh để yêu mến Cha và yêu thương nhân loại như thế nào.
- Chúa Giêsu không ngồi chờ Cha phán mà nỗ lực tìm kiếm thánh ý Cha hằng ngày. Nguời tìm kiếm thánh ý Cha bằng những giờ cầu nguyện liên lỉ từ sáng sớm hay đêm về ở các nơi thanh vắng. Người tìm kiếm thánh ý Cha qua việc tiếp xúc với tha nhân. Chẳng hạn qua sự kiên trì và khiêm hạ của người mẹ xứ Canaan có đứa con gái bị quỷ ám (x.Mt 15,21-28; Mc 7,24-30), qua thái độ quảng đại dâng hiến của bà góa nghèo ở Đền thờ Giêrusalem (x.Lc 21,1-4; Mc 41-42), qua niềm tin kiên vững của viên đại đội trưởng (x.Mt 8,5-13; Lc 7,1-10). Biết được ý Cha trên trời thì không đợi Cha sai bảo, Người tích cực thực hiện cho dù nhiều khi phải trả với giá đau thương. Và Người đã nhận ra con đường Người đi là “Hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28), để thế gian qua Người mà tin vào tình yêu của Cha trên trời hầu được cứu độ (x. Ga 3,16-18).
- Chúa Giêsu tự nguyện làm kẻ “không có chỗ gối đầu” không phải để coi thường vật chất của cải, nhưng để có điều kiện đến với nhiều người, đến với người bất hạnh, cô thế cô thân trong sự đồng cảm, đồng thân, đồng phận. Đức khó nghèo của Người hiển sáng khi người tự nguyện nên đồng hàng với tội nhân để nâng tội nhân lên từ đáy sâu bùn lầy tội lỗi. Người không chỉ khó nghèo trong sở hữu, trong sử dụng mà đặc biệt là trong hiện hữu. Thánh Phaolô Tông Đồ đã triển khai ý tưởng này trong bài ca tự hủy gửi giáo đoàn Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…” (Pl 2, 6-11).
- Chúa Giêsu đã sống khiết tịnh khi tích cực đón nhận mọi người, mọi giới làm anh chị em của mình, làm bạn hữu của mình. Sự khiết tịnh của Người được tỏ bày bằng việc Người đón nhận mà không giữ riêng cho mình nhưng dâng lại tất cả cho Chúa Cha. Sự khiết tịnh của Người thể hiện bằng việc Người làm cho những người mà Người yêu mến được triển nở và sinh hoa kết trái dồi dào. Sự khiết tịnh của Người lên đến đỉnh cao khi Người tự nguyện ra đi để cho những người mà Người yêu mến được ích lợi hơn. “Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em” (Ga 16,7). Một tình yêu đượm đức khiết tịnh là khi ta làm cho người mình yêu nên đáng yêu hơn, được nhiều người yêu mến hơn và có khả năng yêu mến nhiều người khác hơn. Một điều dường như tưởng là khôn ngoan của những vị có trách nhiệm đó là gìn giữ các thành viên dưới mình cách độc quyền. Sự độc quyền ngay cả trong tình yêu cũng là lỗi đức khiết tịnh đó. Và một trong những biểu hiện bên ngoài đó là thấy khó chịu khi một thành viên nào đó được người khác yêu thương hơn mình. Thế là lấy sự khôn ngoan ra để ngăn cản, để la lối, để chỉ trích…
Điểm tới của các lời khuyên Phúc Âm đó là Đức ái. Tu sĩ nam nữ tự nguyện theo sát Đức Kitô để sống yêu thương cách cụ thể, hữu hiệu và đích thực hơn. Tình yêu này bắt nguồn từ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tuy là Ba Ngôi riêng biệt, khác biệt, nhưng cùng một bản tính, cùng một vinh quang, danh dự và uy quyền nên chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm khôn dò này mời gọi chúng ta sống tình yêu thương cách cụ thể và thiết thực ngay từ chính cộng đoàn của mình. Chính vì thế mà bất cứ Hội Dòng nào cũng đề cao tính cộng đoàn.
Cộng đoàn là nơi các tu sĩ thể hiện tình yêu cách rõ nét. Cùng với cộng đoàn và trong cộng đoàn, các tu sĩ ngày một hoàn thiện trên con đường sống đức ái. Tuy nhiên cộng đoàn ở đây không phải là cộng đoàn khép kín nhưng phải là cộng đoàn mở. Tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu trọn hảo. Và Tình yêu ấy đã mở ra với các loài thụ tạo, cách riêng với loài người, hình ảnh của chính Thiên Chúa. Để phản ánh phần nào tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa, xin đề xuất một vài gợi ý:
Cần thường xuyên củng cố và tăng cường tình liên đới và hiệp nhất giữa các thành viên trong các cộng đoàn dòng tu. Đặc biệt cần lưu tâm đến những thành viên kém may mắn, hoặc bị hạn chế mặt này mặt kia. Tôi thường nửa thật nửa đùa với quý tu sĩ khi có dịp nói chuyện rằng: Đời đã đủ cảnh khổ rồi. Xin đừng hành khổ nhau. Và chúng ta cũng đừng quên người ta sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô bằng chính đời sống yêu thương, liên đới, hiệp nhất giữa chúng ta (x.Ga 13,35).
Khi có một công việc tốt lành nào đó, chúng ta nên tạo dịp để có nhiều thành viên tham gia, góp phần. Xin đừng để bất cứ một ai trong cộng đoàn mang mặc cảm mình là người bất tài và vô dụng. “Yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau mà cùng nhau nhìn về một hướng” (St. Exupéry). Nhất là khi cùng nhau hướng về một điều thiện hảo nào đó thì sự hiệp nhất sẽ hình thành và được củng cố.
Hiệp thông, cộng tác trong tinh thần liên đới với các thành viên khác dòng. Đây là một vấn đề gai góc khó vượt qua. Xưa cũng như nay, đã có đó tình trạng đố kỵ giữa các hội dòng trong việc mục vụ cũng như truyền giáo. Lịch sử Hội Thánh Việt Nam đã từng ghi lại hiện thực này. Chuyện hai cô ca sĩ có khen nhau bao giờ, phải chăng cũng vương vấn trong đời sống các dòng tu?
Xin được nhắc lại chân lý rút ra từ tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, nguyên lý và cứu cánh của mọi vật, mọi loài, của đời người, cách riêng của đời tận hiến đó là không một điều tốt đẹp nào là thành quả công lao của riêng một ai. Như thế, nếu có sự độc quyền trong việc tốt, điều lành thì điều ấy, việc ấy không tốt và cũng chẳng lành. Chước cám dỗ độc quyền, độc tôn, tự cho mình là bất khả thay thế luôn là chước cám dỗ khó cưỡng khiến Đức Giáo Hoàng Phanxicô dịp cuối năm 2014 vừa qua đã đặc biệt lưu ý giáo triều Roma và Ngài đã đưa nó thành căn bệnh hàng đầu trong 15 căn bệnh mà những người có quyền chức thường vương phải.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Nguồn: DCCT
Chúc mừng mùa xuân năm mới
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm theo phong tục tật quán nếp sống văn hóa Á Đông, dù bây giờ ở xa quê hương Việt Nam, chúng ta vẫn sống giữ nếp phong tục văn hóa mừng ngày Tết Nguyên Đán đầu mùa Xuân mới.
Nếp sống phong tục văn hóa này đã in khắc sâu vào đời sống tinh thần tâm trí con người Việt Nam chúng ta.
Cung cách đón mừng ngày Tết Nguyên Đán có thể khác với thời gian những năm tháng ngày xưa. Nhưng tâm tình tinh thần nếp sống văn hóa ngày Tết thiết tưởng không ra khác.
Vui đón mừng mùa Xuân mới, đón mừng ngày Tết Nguyên Đán, nhưng không quên tâm tính cám ơn Trời Đất, với người Công giáo chúng ta cám ơn Thiên Chúa, Đấng sáng tạo nên trời đất, nên thời giờ tứ thời bát tiết cho con người sinh sống trong vũ trụ.
Chúng ta cám ơn Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ, những người đã sinh thành đào tạo dậy dỗ chúng ta nên người ở đời. Vào ngày mừng Tết Nguyên Đán, con cháu mang qùa lễ vật tết mừng tuổi Ông Bà cha mẹ mình.
Dịp mừng Tết Nguyên Đán cũng là dịp tốt anh chị em tụ họp mừng tuổi năm mới cho nhau. Dịp này cũng còn là cơ hội bạn bè gặp lại nhau, học trò nhớ đến thầy cô giáo cùng những người đã sống làm ơn cho ta trong đời sống.
Sống tâm tình vui mừng, nhưng cũng không quên nhớ đến những người thân yêu trong đời ta mà nay đã ra đi trước về đời sau. Người còn đang sinh sống trên trần gian và người đã ra đi thành người thiên cổ vẫn hằng liên kết nhớ đến nhau trong tâm tình lòng nhớ nhung biết ơn nhau.
Hướng về thời gian tương lai năm mới đang đến, chúng ta vui mừng, nhưng cũng phần nào có ưu tư suy nghĩ. Vì không ai biết trước được tương lai sẽ như thế nào.
Tư lự suy nghĩ, nhưng không vì thế mà bi quan đầu hàng bỏ cuộc. Trái lại vẫn sống tâm tình niềm hy vọng cậy trông.
Hy vọng cậy trông vào Chúa, Đấng là nguồn sự sống cùng niềm hy vọng của con người.
Hy vọng cậy trông vào Chúa, Đấng là người sắp đặt nuôi dưỡng công trình ngài tạo dựng nên, trong đó có con người chúng ta.
Hy vọng cậy trông vào Chúa, Đấng là chủ thời gian năm tháng thế kỉ.
Nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ Lavang, và các Thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta với niềm tin tưởng vào Chúa tiến bước vào đường đời sống thời gian năm mới.
V ới lòng cậy trông phó thác vào bàn tay quan phòng của Chúa, chúng ta bước sang năm mới hân hoan phấn khởi sống đức tin người công giáo giữa lòng xã hội thế giới trong những tương quan ràng buộc và trong những thử thách, niềm vui có và cả đau khổ cay đắng cũng không ít.
Năm mới mở ra thời gian tương lai cho kiến tạo vươn lên.
Và đời sống năm mới cũng thúc đẩy đòi buộc chúng ta sống hy sinh cố gắng vươn lên. Có thế đời sống mới có ý nghĩa, nhất là trong tương quan chiều thẳng đứng vươn lên tới Thiên Chúa trên trời cao, và chiều ngang đường chân trời trong tương quan với mọi người cùng chung sống xung quanh mình.
Chúc mừng năm mới Ất Mùi 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tro và Hoa
- Viết bởi Tâm Giao
Trên cung thánh nhà thờ chiều nay - Lễ Tro và ngày Tất niên -, hơn một chục đĩa tro ở góc trái, một chậu mai cao nở rộ hoa ở góc phải. Cảnh song đối ngộ nghĩnh khiến mình muốn đưa cả tro và hoa vào tâm.
Cũng một gương mặt được điểm tro trên trán, nhưng ánh mắt lại hướng về hoa. Bạn thấy tro trên trán tôi chứ không nhìn được dấu tro trên trán mình, nhưng tất cả chúng ta đều có thể thấy hoa…
Hoa tàn lâu ngày thành bụi tro, tro vun bón cho cây, cây lại nở hoa. Như thể trong hoa đã hàm chứa tro và trong tro có tiềm ẩn hoa.
Hoa có tuổi, người có thời. Có ai là hoa khôi hay hoa hậu cả đời đâu! Vương miện chỉ giữ được một năm thôi, rồi mọi hoa hậu "hoàn vũ" hay quốc tế ngày nào đó cũng trở về bụi tro.
Nhận ra tro trong hoa và hoa trong tro là chạm đến mầu nhiệm vượt qua, là bắt đầu dìm mình vào dòng sông hy vọng Kitô giáo.
Thấy tro trong hoa, để không chấp trụ vào cái vô thường, bớt dính bén, tập từ bỏ cái si để gắn bó với Đấng thường hằng yêu thương.
Thấy hoa trong tro, để không nản lòng khi thất bại, thêm tín thác, tập nhìn với ánh mắt của Thầy Chí Thánh trên thánh giá và hướng về ngày quang lâm của Đấng Phục sinh.
Thấy tro và hoa trong tôi, để không cao ngạo vì ý thức mình vốn là thân tro bụi, nhưng cũng không mặc cảm vì Nghệ nhân Thần linh có thể làm cho hoa trổ sinh từ phân tro trấu.
Thấy tro và hoa trong người, để không thành kiến về bất cứ ai, đồng thời dám hy vọng lòng người - dẫu tăm tối hay lỗi tội -, có thể được cải thiện bởi thánh ân và tình thương.
…
Là tro hay hoa, tùy Tâm!
Nguồn: TGP SàiGòn
Thánh lễ Minh Niên - Ngày cầu Bình an cho Năm Mới
- Viết bởi Vietcatholic
THÁNH LỄ MINH NIÊN - MÙNG 1 TẾT
Ngày cầu Bình an cho Năm Mới
LỜI NGUYỆN ƯỚC BÌNH AN
Thuở ban đầu, tình Chúa – tình người thật dễ thương. Thế nhưng, từ giây phút con người đánh mất tình Chúa ta lại bắt gặp con người cũng lại đánh mất luôn cả tình người. Bằng chứng hết sức sống động đó chính là việc Cain đã sát hại Abel – người em yêu dấu của mình.
Chắc có lẽ ta còn nhớ câu chuyện bi đát đánh mất tình người của Cain và Abel trong chương 4 của trình thuật sách Sáng Thế.
Sách Sáng Thế kể lại cho ta nghe rất rõ về tâm tính của Cain. Cain tức tối vì Thiên Chúa đã nhận lễ vật của Abel chứ không nhận lễ vật của mình. Thiên Chúa thấy như thế v à hỏi thẳng Cain : "Hà cớ chi ngươi phải tức tối? Hà cớ chi ngươi phải sầm mặt xuống? Há không phải là, nếu ngươi ở tốt lành, ngửng lên ; nếu ngươi ở không tốt lành, tội mai phục, trên ngươi sự hăm he của nó, và ngươi sẽ khống chế nó”.
Như dầu cho thêm vào lửa đang cháy, lòng hận thù của Cain tăn lên ngùn ngụt và rồi Cain rủ em mình ra đồng để “xử lý” Abel.
Sau khi giết Abel, Cain đã bị Thiên Chúa lật mặt nhưng Cain vẫn chối bây bẩy và rồi Thiên Chúa cũng đã nói với Cain : “Ngươi đã làm gì? Tiếng máu của em ngươi từ đất kêu oán lên Ta. Bấy giờ, ngươi hãy là đồ chúc dữ và bật khỏi mặt đất màu mỡ đã há miệng hớp lấy từ tay ngươi máu, em ngươi. Ngươi có canh tác đất đai, đất đai sẽ chẳng còn cho ngươi sức lực của nó. Ngươi sẽ vất vơ vất vưởng rong chạy trên đất”.
Ta thấy Cain thưa với Thiên Chúa : “Tội vạ tôi quá lớn làm sao mang nổi. 14Này hôm nay Người đuổi tôi khỏi mặt đất màu mỡ và khuất khỏi nhan Người, nên kẻ vất vơ vất vưởng chạy rong trên đất. Và có ai bắt gặp tôi tất sẽ giết tôi”.
Sau tội ác tày đình đó, Cain đã ra khỏi nhan Thiên Chúa và cư ngụ ở phía đông Êđen.
Rõ ràng, đang được hưởng hạnh phúc, đang được hưởng nhan Thiên Chúa là Chúa, là Chủ cuộc đời của mình nhưng đáng tiếc thay Cain đã khước từ những ơn huệ mà Thiên Chúa đã ban một cách nhưng không cho Cain.
Sự bất an đã lan tràn vào mặt đất, sự bất an đã len lỏi vào đời sống của con người. Chính vì thế, sự bình an là niềm khao khát của con người bởi lẽ cũng dễ hiểu khi tâm hồn bất an con người sẽ không cảm thấy thoải mái và lúc nào trong lòng cũng sôi sục điều gì đó mà không thể nào diễn tả được.
Chúng ta đã, đang và sẽ bước vào năm mới Ất Mùi. Một năm mới với biết bao nguyện ước dâng lên Thiên Chúa. Nhưng, trong tất cả mọi niềm ước ao của con người không có ước ao nào lớn cho bằng ước ao được sự bình an. Vì thế, ngày hôm nay, ngày đầu năm mọi người hân hoan đi vào năm mới và đồng thời cũng trao phó cuộc đời, trao phó tất cả những gì dính bén đến mình vào lòng bàn tay của Chúa để xin sự bình an.
Sự bất an đến với con người khi con người cảm thấy mình chưa đủ, mình thua kém người khác. Chính khi mình thấy mình chưa đủ, mình không bằng người khác đó lòng mình sẽ trỗi lên sự căm hờn và hơn thua như Cain là bài học, là mẫu gương cho ta học về sự bình an trong cuộc đời.
Cain cứ nghĩ tương rằng sau khi giết Abel là lòng mình được thảnh thơi vì đã khử được một đối thủ và từ nay trở đi Cain chiếm trọng vẹn Thiên Chúa của mình. Khởi đi từ cái suy nghĩ lệch lạc là khử chính đứa em của mình đi mình sẽ được hưởng phúc, hưởng nhan Thiên Chúa nhưng ngược lại.
Dừng lại một chút để ta thấy cuộc đời này, vòm trời này … tất cả đều được sấp xếp rất trật tự do bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Bài đọc thứ nhất trích trong sách Sáng Thế nhắc nhớ chúng ta về Thiên Chúa mới chính là chủ công trình tay Ngài sáng tạo : “Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm. Và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp”.
Chắc có lẽ, con người ngày nay cũng như nhiều thế hệ trước đều mắc phải sai lầm là khước từ sự quan phòng của Thiên Chúa để rồi con người mang lấy sự bất an vào đời mình.
Chuyện ở đời, rất đơn sơ và bình dị mà ông bà mình vẫn thường dạy cho chúng ta nhất là trên các bàn thờ mà gia đình bày biện vào dịp Tết và nhất là người miền Nam đó chính là mâm hoa quả.
Trên cái mâm hoa quả, với ý niệm đơn sơ, người ta vẫn thường chưng những loại quả có cái tên ghép lại thật dễ thương : “cầu (mãng cầu) vừa (quả dừa) đủ (quả đu đủ) xài (quả xoài)”. Có người đùa : “Nhà tui, tui thêm quả sung nữa để thành cầu vừa đủ xài sung”. Cũng có người thêm vào nữa là tui thêm cái líp xe đạp và cái baga nữa để thành cầu xài líp baga !
Đó là những câu đùa vui nhưng cũng gói ghém tâm tình của năm mới.
Có lẽ trong cái mâm hoa quả đó, quả đu đủ phải chăng là quả “đinh”.
Cuộc đời, hơn nhau ở quan niệm rằng cuộc sống mình có đủ hay không ? Nếu mình biết đủ mình sẽ bình an, nếu không biết đủ sẽ bất an và có khi cái bất an đó dẫn đến chuyện sát hại người đồng loại như Cain.
Trang Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ cầu bình an cho năm mới được Thánh Matthêu thuật lại rất hay. Trang Tin Mừng gói ghém thân phận của con người. Tất cả cái phận người đó đều nằm trong lòng bàn tay Thiên Chúa : “Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Quả thật ! Cuộc đời chúng ta, hơn một lần chúng ta có cái cảm nghiệm hay nói đúng hơn là cái kinh nghiệm về sự lo lắng của cuộc đời. Cũng chính vì lo lắng quá nhiều, cố gắng quá nhiều mà không đặt tất cả mọi sự trong lòng bàn tay Thiên Chúa để rồi càng lo càng thấy thiếu, càng lo càng bực mình vì ngoài tầm tay với.
Trang Tin Mừng hôm nay ngẫu nhiêng trùng với ước nguyện của người Việt chúng ta trong lời nguyện đầu năm mới.
Chúng ta thấy, ngày hôm nay, bài học hơn thua ganh ghét và đấu đá của Cain dù đã lâu nhưng vẫn còn rất mới và rất mới. Chuyện quan trọng là ta xin với Chúa cho ta được sự bình an thật sự trong tâm hồn. Sự bình an đó đến với ta nếu như ta biết thấy mình đủ và nhất là biết rằng có Chúa là đủ cho cuộc đời ta.
Kim chỉ Nam mà Thánh Phaolô gửi tín hữu Phillip cũng như gửi mỗi người chúng ta thật hay trong năm mới này : Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Đức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vả lại, hỡi anh em, những gì là chân thật, trong sạch, công chính, là thánh thiện, đáng yêu chuộng, danh thơm tiếng tốt, là nhân đức, là luật pháp đáng khen, thì anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy.
Và như thế, trong mọi ngày sống, phút sống, giây sống trong năm mới này chúng ta hãy trình bày ước nguyện cũng như lời cảm tạ của ta lên Thiên Chúa. Có như thế, sự bình an của Thiên Chúa sẽ ở lại trong chúng ta. Khi chúng ta bình an thật sự trong tâm hồn chúng ta mới có thể chia sẻ cho người khác được.
Nguyện xin Chúa Xuân đến, ở lại và ban bình an cho mỗi người chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho xứ đạo chúng ta trong năm mới Ất Mùi này.
Chúc Tết Gia Đình
- Viết bởi Đức Ông Mai Đức Vinh
Hết năm Giáp Ngọ, đến Ất Mùi,
Con cảm tạ Chúa, muôn hồng ân,
Được về ăn Tết, với gia đình,
Cha Mẹ, Anh Em, mọi Người Thân,
Xuân về, thành tâm, con kính chúc :
‘An Bình’, ‘Liên Đới’, Sống Chứng Nhân’.
‘AN BÌNH’ : Xin Chúa cho mọi gia đình được an vui trong tình thương vợ chồng. Cho hai người nên một, cho tình thương được bảo đảm bởi luật giá thú dân sự, nhờ ơn Bí Tích Hôn Phối, và với tình yêu chân thật của vợ chồng, của mẹ cha. Xin cho cha mẹ yêu thương con cái ngay từ phút đầu đời của chúng. Không quên giáo dục con cái quân bình và trọn vẹn về Đức Dục, Trí Dục và Thể Dục. An bình của gia đình phải mua bằng yêu thương và quên mình, như Thánh Phanxicô thành Átsi dạy :
… « Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
Xin hãy dùng con như khí cụ bình an, của Chúa…
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ …
Xin thương ban xuống cho những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình ».
‘LIÊN ĐỚI’ : Xin Chúa thay đổi tâm ý của nhiều gia đình hôm nay : biết đặt hạnh phúc gia đình trên hạnh phúc cá nhân – biết sống tình liên đới giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau. - Người lớn biết lo lắng cho người trẻ, người trẻ biết quan tâm đến người lớn, và con cái phải kính trọng bố mẹ già… Thiếu liên đới sẽ đưa tới sự hiểu lầm, gây nên đụng chạm và đổ vỡ gia đình… Liên đới trong niềm tin vào Chúa và Giáo Hội, trong tình nghĩa gia đình và họ hàng, trong công ăn việc làm và trong cách sống hằng ngày.
Để diễn tả tình liên đới ruột thịt trong một gia đình hay một gia tộc, ông bà dạy : ‘Máu chảy ruột mềm’, ‘Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con’, ‘Anh em nào phải người xa, cùng chung bố mẹ, một nhà cùng thân’, ‘Quyền huynh thế phụ’, ‘Chị ngã em nâng’, ‘Mất cha còn chú, mất mẹ bú vú dì’, ‘Máu loãng còn hơn nước lã’, ‘Họ chín đời còn hơn người dưng’, ‘Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh’, ‘Yêu già, già để tuổi cho’, ‘Mẹ (cha) già như chuối ba hương, như xôi nếp một, như đường mía lau’, ‘kính lão đắc thọ’…
‘CHỨNG NHÂN’ : Xin Chúa giúp chúng con hiểu rằng : Thời nay trong gia đình, con cái chuộng gương sáng cụ thể hơn bài nói suông. Con cái nhìn vào gương cha mẹ hơn là nghe lời chỉ dạy hay cấm đoán. Nếu giữa vợ chồng hay cha mẹ, phải tránh nỗi khổ ‘chồng ăn chả, vợ ăn nem’, thì giữa cha mẹ với con cái, xin đừng quên ‘lời nói bay đi, gương lành lôi cuốn’. Người trách nhiệm bây giờ không được ‘nói ba làm một’, nhưng là ‘nói một làm ba’. Một trong những phuơng cách ‘sống chứng nhân’ là ‘đồng hành với người mình hướng dẫn’.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chẳng bảo chúng ta nhiều lần : « Các con hãy sống trọn lành như Chúa Cha ở trên trời là Đấng trọn lành » (Mt 5,45), «Các con hãy hiệp nhất nên một như Chúa Cha với Chúa Con là một » (Ga 17,21) « Các con hãy thương nhau như Thày đã thương các con’ (Ga 13,34), « Các con hãy rửa chân cho nhau như Thày đã rửa chân cho các con » (Ga 13,16), «Các con hãy phục vụ như Con Người đến để phục vụ » (Mc 10,45). Thánh Phaolô cũng bảo: « Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Giêsu » (1Cr 11,1).
Xin Chúa giúp các Gia Đình sống trọn ba lời chúc này trong năm Ất Mùi – 2015. Mong thay !
Đức Ông Mai Đức Vinh
Nguồn: GXVN Paris
Nhân phẩm của bụi tro
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bụi tro, bụi đất nhỏ li ti không có gía trị sức nặng kí lô nào đáng kể.
Bụi tro, bụi đất bay vất vưởng trong không khí gây ô nhiễm làm ngột ngạt khó thở có hại cho sức khoẻ.
Bụi tro, buị đất người ta quét vun lại rồi quăng vất ra góc vườn ngoài đồng ruộng cho sạch sẽ lối đi.
Nhưng theo kinh thánh thuật lại con người được Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất.
Hằng năm vào ngày thứ Tư lễ Tro, ngày bắt đầu mùa chay 40 ngày, theo tập tục nếp sống đức tin của đạo Công giáo, mọi người tín hữu Chúa Kitô đến trước bàn thờ cúi đầu xin lãnh nhận bỏ tro trên đỉnh đầu, trên trán. Dấu chỉ này nói lên lòng ăn năn thống hối xin Chúa ban ơn tha thứ những tội lỗi đã vấp phạm.
Dấu chỉ này cũng nói lên tâm tình từ nay xin từ bỏ cung cách nếp sống kiêu ngạo tự khoe mình, lấy mình làm trung tâm điểm.
Dấu chỉ khiêm cung lãnh nhận được rắc tro bụi trên đầu nói lên lòng kính trọng chân nhận mình là con cháu của Ông Bà nguyên tổ Adong và Eva, người được tạo dựng nên từ bụi đất.
Là tro bụi con người không có thể làm được tất cả. Con người là một tạo vật có khả năng giới hạn sống trên mặt đất. Đời sống con người như dòng sông, dòng điện trôi qua đi mau. Họ không thể kéo giữ lại những gì đã xảy ra ngay cả những gì cho là hay đẹp nhất. Tất cả tuần tự trôi qua đi như cát trôi dạt ngoài biển khơi, như bụi tro bay lưu lạc trong không khí.
Tâm tình lòng tin tưởng nhớ mình được tạo thành từ bụi tro nhắc nhớ mình là một tạo vật mỏng dòn. Nhưng mang trong mình hơi thở mầm sự sống của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh thần thánh Thiên Chúa khắc ghi vào nơi mỗi con người.
Vì thế con người có gía trị hơn tro bụi nhiều. Hơi thở hình ảnh của Thiên Chúa nơi mỗi người là sự sống, là ơn kêu gọi, những khả năng, cơ hội tiềm tàng trong thân xác, trong tâm trí chờ được phát triển bung nở vươn ra.
Ngày xưa bên bờ sông Jordan dân chúng xắp hàng đến xin Thánh Gioan làm phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối trở về với Thiên Chúa.
Ngày thứ Tư lễ Tro, người tín hữu Chúa Kităô cũng sắp hàng đến xin nhận lãnh bụi tro rắc trên đầu tỏ lòng ăn năn thống hối.
Trong Thánh lễ Misa người tín hữu cũng thứ tự xắp hàng với hai bàn tay trắng lên tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kito cho tâm hồn đức tin của mình.
Điều này nhắc nhớ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người từ tro bụi, đã trở nên Bí tích Thánh Thể cho con người.
Tấm bánh Thánh Thánh nhắc nhớ đến tấm bánh ngày xưa Thiên Thần đã mang đến cho Thánh Tiên Tri Elia trong sa mạc hoang vắng. Tấm bánh này cũng được nướng trong lò lửa có tro bụi. Như thế trong tro bụi tấm bánh đã được nung nướng thành, mà Thiên Thần mang đến cho Eilia trong lúc đói lả mệt nhọc giữa đường đi.
Trong tro bụi Chúa Giêsu cũng đã nằm, ngài chính là bánh sự sống. Ngài đã chia sẻ thân phận nếp sống tro bụi của con người. Ngài đã sinh xuống trần gian làm người nơi hang chuồng xúc vật ở Bethlehem. Ngài đã đi bộ đó đây trên khắp nẻo đường quê hương đất nước Do Thái, dính bụi đất dọc đường, và sau cùng vác thập gía chịu khổ hình đến nơi chịu chết vì tro bụi dơ bẩn tội lỗi của con người.
Bụi tro đất làm nên thân xác hình hài con người có giá trị tốt. Vì được Thiên Chúa chúc phúc thánh hóa cùng ban hình ảnh hơi thở sự sống của Ngài cho con người.
Bụi tro đất làm nên con người có gía trị cao qúi mang lại sự sống. Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chia sẻ thân phận đời sống tro bụi làm người với con người. Và Ngài đã trở nên bánh sự sống đức tin cho con người.
Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và được kêu gọi cùng sống lại với Chúa Kito phục sinh.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con Dê hiến tế
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Dê là loái thú vật vừa hoang dã trong vùng rừng núi nơi khô cao, cũng vừa là thú vật nuôi ở nhà, theo ngôn ngữ văn chương khoa học được gọi là Sơn dương. Loài thú vật này không hung dữ làm hại người. Chúng có sừng rắn cứng, thân thể chúng mạnh mẽ , có bốn chân chạy nhảy nhanh lẹ. Thức ăn của chúng là cỏ, lá cây thực vật.
Con Dê không tượng trưng cho hình dáng đẹp tích cực, trái lại là hình ảnh nói về sự tiêu cực, như „ cứng đầu như Dê“, hay „bộ chòm râu Dê“.
Loài Dê cũng được nuôi như loài thú vật heo gà trong nhà. Nó cũng mang lại lợi ích kinh tế. Vì Dê cung cấp sữa để làm phó mát vị mặn mà, và thịt dê cũng là món ăn đặc sản.
Bên vùng Trung Đông ngày xưa, ai có nhiều thú vật Dê là người giầu có về tài sản vật chất như nói trong sách Sáng Thế 38,17.
Dê thời xa xưa cũng có gía trị để đổi chác trong việc mua bán giống như tiền bạc, hay được dùng là qùa tặng biếu xén Ezekien 27,21, Sáng Thế 38,17.20, Sách Thẩm Phán 15,1.
Trong Kinh Thánh Cựu ước con Dê là hình ảnh của quyền lực sức mạnh. Sách Ngôn Sứ Daniel 8,4-8.21 diễn tả sức mạnh quyền lực của đại đế Hy lạp Alexander bằng hình ảnh con Dê có sừng đã đánh bại những vị vua khác của dân Meder và Batư.
Sách Diễm tình ca 4,1 và 6,5 theo cung cách lãng mạng đã ca tụng mái tóc đen óng ả rủ xuống trên đầu của người tình tựa như hình ảnh đàn Dê - Sơn dương - chạy nhảy trên sườn núi cao xuống bên dưới.
Trong Kinh Thánh hình ảnh Dê tượng trưng cho sự xấu và tội lỗi. Từ ngữ con Dê là con vật tế lễ đền tội có viết trong Sách Leviticus 9,3.
Nghi lễ dùng con Dê hiến tế đền tội được cử hành như sau:„ Aaron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê còn sống , sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Israel, mọi việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng, nó sẽ trút cả lên đầu con dê, rồi dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc. Con dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của dân chúng vào sa mạc.“ Leviticus 16, 21-22.
Chúa Giêsu trong dụ ngôn về ngày phán xét chung cũng nói đên dê là hình ảnh chì về những người tội lỗi bị hình phạt: „ Khi Con Người đến trong vinh quang, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái.“ Mt 25, 31-33.
Năm nay con dê là hình ảnh theo vòng chu kỳ âm lịch, mỗi năm có một con vật làm chủ tượng trưng cho năm đó. Năm âm lịch có tên Ất Mùi theo tập tục văn hóa truyền thống Á Đông Việt Nam.
Chúng ta đón mừng mùa Xuân năm mới Ất Mùi với tâm hồn vui mừng cùng hòa nhịp với nếp sống văn hóa dân tộc là cội nguồn của đời sống con người việt Nam chúng ta.
Vui mừng đón mùa Xuân mới trong niềm hy vọng cậy trông vào Thiên Chúa, đấng là chủ thời gian năm tháng ngày giờ, và đời sống con người.
Mừng mùa Xuân mới Ất Mùi 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thương Tết !
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (18.02.2015) – Sài Gòn – Tết vui tưng bừng, Xuân mừng khấp khởi. Ai cũng có thể cảm nhận mùa Xuân. Nhưng tại sao lại thương Tết? Nếu là thương mến hoặc thương yêu thì không có gì đáng nói, nhưng điều đáng quan tâm ở đây vì thương này là “đáng thương”, là “tội nghiệp”.
Người ta đón Xuân và ăn Tết vì người ta có những niềm vui, cuộc đời đầy may mắn, luôn xuôi chèo mát mái và hanh thông mọi bước đời. Họ là những người “đẻ bọc điều” hoặc “có tràng hoa quấn cổ”. Họ may từ khi chào đời, lớn lên cũng chưa phải nặng đầu suy nghĩ, hầu như chưa biết thế nào là nỗi khổ – cả tinh thần và vật chất.
Trong khi trời đất vào Xuân, phố xá nhộn nhịp, bước chân người như trẩy hội, thì còn có bao người phải lầm lũi “đi bên cạnh cuộc đời”, họ không mong Tết, vì Tết có về thì họ cũng chẳng thấy mùa Xuân ở đâu, thậm chí họ không hề muốn Xuân về! Không phải họ không thích vui, mà họ không thể an tâm mà vui. Lòng họ trĩu nặng ưu sầu, lo toan chật tháng ngày, hình như họ đã quên cười từ lâu rồi!
Khi bạn đang nô nức nói cười, cụng ly chúc mừng nhau, cùng nhau ăn những miếng ngon trên bàn tiệc Xuân,… bạn có bao giờ chợt nghĩ đến họ và cầu nguyện cho “những người không có Tết”? Họ là ai?
Rất đa dạng, cả tinh thần và vật chất. Khôn xiết kể! Chẳng hạn đó là…
Những người nghèo rớt mồng tơi, lụi đụi suốt năm, làm nhiều mà chẳng có dư tiền sắm Tết. Họ nghèo lắm, ăn bữa nay đã phải lo bữa mai, khổ vô cùng, hầu như chưa có thời gian rảnh, mở mắt ra đã tìm kế sinh nhai cho đến khuya, chân lấm tay bùn, áo đẫm mồ hôi, thế mà họ vẫn không có được giấc ngủ bình an!
Những người sớm tối thui thủi một mình, lạc loài giữa rừng người, bơ vơ giữa chợ đời. Có thể đó là những người mồ côi cha mẹ – nhất là những trẻ thơ, những người đổ vỡ hôn nhân, những người có tang vào những ngày “năm hết, Tết đến”, những người phải ăn nhờ ở đậu vì tha phương cầu thực, sớm tối rối bời lắng lo,… Đôi khi họ muốn bật khóc nhưng cũng chẳng còn nước mắt mà khóc!
Những người không cửa, không nhà, nay đây mai đó, sống kiếp người chẳng khác dân du mục, thuê nhà trọ cũng chẳng yên, chủ lúc nào cũng “đe” tăng giá. Ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, bệnh cũng ráng chịu chứ cũng không dám mua viên thuốc uống cầm chừng!
Những người thua lỗ trong công việc làm ăn, bị phá sản công ty,… khi không họ bỗng thành nợ như Chúa Chổm, thậm chí còn phải trốn chui trốn nhủi hết chỗ này đến chỗ kia, ăn không ngon mà ngủ cũng chẳng yên. Không chỉ vậy, có khi chính những người thân thuộc nhất – dù là vợ, chồng, cha mẹ hoặc con cái – cũng tránh xa họ như tránh xa dịch bệnh!
Những người bị bệnh nọ tật kia – nhất là những người bị chứng ung thư quái ác, họ phải nằm co ro một mình, muốn uống miếng nước cũng không thể tự thân vận động, mà phải nhờ người khác. Gặp những đứa con ngoan, đứa cháu tốt thì còn đỡ tủi thân, không may mà gặp những nghịch tử và ác tôn thì thật bất hạnh, chỉ còn biết khóc và chỉ mong mình được mau chết!
Những người thất vọng vì điều này hoặc lẽ nọ, ưu tư chồng chất, khổ tâm tột cùng. Họ muốn có ai cùng tâm sự để họ trải tấm lòng cho nhẹ bớt, nhưng đâu ai muốn gần người u buồn, vì sợ xui xẻo trong năm mới. Đôi mắt xa xăm, ý nghĩ mông lung, ngồi ủ rũ như chó xích, có ai thọc lét chắc họ cũng không thể cười nổi, thế thì làm sao họ có được niềm vui Xuân?
Những người phải chịu cảnh tù đày và những người phải di tản chỉ vì thiên tai, vì chiến tranh, vì bị áp bức, bị bóc lột, bị hắt hủi, bị khinh miệt, bị hành hạ,… Đời họ chỉ còn hiện tại, tương lai mù mịt coi như không có!
Và còn biết bao những cảnh đời đáng thương khác vẫn hằng ngày ở ngay bên chúng ta.
Trăm người trăm cảnh đọa đày
Những người không Tết, biết ai bạn cùng!?
Cố NS Trịnh Công Sơn nói: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Tấm lòng đó là yêu thương, là cảm thông, là động lòng trắc ẩn và thể hiện lòng thương xót. Thật vậy, ai có lòng yêu thương đồng loại thì mới xứng đáng nhận danh hiệu con người. Là Kitô hữu thì điều đó càng phải được ưu tiên hơn, có vậy mới xứng đáng là môn đệ của Đại Sư Giêsu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Chúa Giêsu đã luôn cảm thông nên mới “chạnh lòng thương” những con người khốn khổ mà Ngài gặp ở bất cứ nơi nào (x. Mt 9:36; Mt 14:14; Mt 15:32; Mt 18:27; Mt 20:34; Mc 1:41; Mc 9:22; Lc 7:13), Ngài cũng BẮT BUỘC chúng ta phải sống trọn Luật Yêu Thương, và phải trả cho đến “đồng xu” cuối cùng (Mt 5:26).
Thánh Phaolô xác định: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8).
Ngày Xuân, có thể trong chúng ta có nhiều người còn may mắn được hưởng những ngày tết cổ truyền một cách thoải mái. Xin hãy dành một vài phút để cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những người xấu số hơn mình, xin cho họ cũng được chút vui khi Tết đến, Xuân về.
Cũng rất có thể nỗi bất hạnh của họ là do lỗi của chúng ta, vì tất cả đều có mối liên đới – dù đó là tội lỗi. Vả lại, có thể họ chịu bất hạnh để chúng ta được hạnh phúc. Và nếu vậy, chúng ta phải có trách nhiệm và liên quan tới họ.
Lạy Chúa giàu lòng xót thương, xin bớt gánh nặng khổ đau cho những con người đau khổ đang ở khắp nơi, đặc biệt trên quê hương Việt Nam của chúng con, để họ có thể nở nụ cười trong những ngày Xuân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Nguồn: DCCT