Thánh hiến thánh đường Laterano
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo hội mừng lễ thánh hiến Vương cung thánh đường Laterano bên Roma vào ngày 09.11.
Đâu là ý nghĩa đạo đức thần học ngôi thánh đường dành cho việc phụng tự ?
Lịch sử Vương cung thánh đường Laterano.
Vương cung thánh đường Laterano bên, Roma còn được gọi là đại vương cung thánh đường Giovanni in Laterano, như dòng chữ ở ngoài cửa vào viết: „mater et caput" Thánh đường mẹ và đầu của mọi thánh đường trong thành phố Roma và trên toàn thế giới"
Vương cung thánh đường Laterano được xây dựng dưới thời Hoàng đế Contanstino trên phần đất của dòng tộc gia đình Laterani, và được Đức giáo hoàg Sivester 1. , dâng kính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, thánh hiến khánh thành ngày 09.11.324 .
Sau đó vào thế kỷ IX. vương cung thánh đường Laterano được thánh hiến dưới tên Thánh Gioan Tẩy gỉa. Và vào thế kỷ XII. Thánh tông đồ Gioan , người viết Phúc âm Chúa Giêsu, được thêm vào. Nên vương cung thánh đường có chùm tên dài : Đại vương cung thánh đường kính đấng rất thánh Cứu Chuộc và Thánh Gioan tẩy giả cùng Thánh Gioan Thánh sử Laterano.
Vương Cung thánh đường Gioan Laterano là một trong bốn đại vương thánh đường ở thành phố vĩnh cửu Roma: Thánh Phero, Đức Bà cả, Thánh Phaolo ngoại thành và Laterano. Vương cung thánh đường Laterano là nhà thờ chính tòa của Đức giáo hoàng.
Từ năm 313 các vị Giáo Hoàng của Giáo hội Công giáo, đến 1309 bắt đầu thời kỳ các đức Giáo Hoàng Vatican phải sống lưu vong ở Avignon bên Pháp, đều cư ngụ ở Laterano.
Năm 1377 chấm dứt thời sống lưu vong bên Avignon Đức Giáo Hoàng trở về Roma, nhưng Laterano đã xuống cấp hư hại nhiều. Nên vùng Vatican trở thành nơi cư ngụ của Đức giáo Hoàng . Năm 1586 Laterano được xây dựng mới lại và trở thành nơi cư ngụ mùa hè của đức giáo hoàng .
Vương Cung thánh đường Laterano có cửa Năm Thánh: Santa Porta. Cửa nầy được mở ra vào những dịp Năm Thánh, để cho mọi người tín hữu Chúa Kitô bước qua lãnh nhận ơn toàn xá. Như sắp tới đây dịp Năm Thánh lòng từ bi Chúa 2015-2016, Đức giáo hoàng Phanxico sẽ cử hành nghi lễ mở cửa Năm Thánh ở bốn đại vương cung thánh đường bên Roma, trong đó có cửa năm thánh ở đền thờ Laterano.
Laterano là nơi đã diễn ra 05 Công đồng của Gáo hội Công gíao vào thời Trung cổ. Vì thế có tên Công đồng Laterano.
Trong nếp sống đạo đức của Giáo hội, khi một thánh đường, một nhà nguyện được xây, có lễ nghi thánh hiến khánh thành ngôi nhà thờ mới dành cho việc cầu nguyện dâng lễ thờ kính Thiên Chúa, Đức Mẹ và các Thánh. Và ngôi thánh đường mới thường được chọn đặt tên dâng kính Chúa Giêsu, hay Đức mẹ hay một vị Thánh nào.
Ngôi thánh đường được xây dựng bằng vật liệu do con người chế biến làm ra theo nếp sống văn hóa thời đại nơi mỗi quốc gia đất nước địa phương. Nhưng còn có ngôi thánh đường khác hơn nữa
Ngôi thánh đường con người.
Thánh Phaolo trong thư mục vụ gửi Giáo đoàn Côrinthô nói đến ngôi thánh đường khác nữa: đền thờ. Ngôi đền thờ này là con người do Thiên Chúa xây dựng làm nên : „Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên." (1 Cor 3,11).
Con người chúng ta không là viên gạch , viên ngói, khúc gỗ, tảng đá, hạt cát trong một ngôi nhà kiến trúc. Nhưng trong ngôi nhà Giáo hội có nhiều con người khác nhau: gìa, trẻ, lớn, bé, nam, nữ... Dẫu có nhiều khác biệt nhau, nhưng tất cả có một mẫu số chung: Chúng ta thuộc về Chúa Giêsu Kitô.
Cũng vậy, nhìn vào một ngôi thánh đường được xây dựng do nhiều viên gạch, đá, gỗ, cửa... khác biệt nhau. Nhưng tất cả những thành phần đó đều có một chung hợp: Chúng là những thành phần kiến tạo nên ngôi thánh đường.
Nền tảng ngôi thánh đường
Ngôi nhà nào, ngôi biệt thự nào, ngôi thánh đường nào cũng được xây dựng trên một nền móng vừa sâu xuống lòng đất, vừa vững chắc kiên cố không để bị thấm nước. Có thế công trình xây dựng lên cao mới đứng vững kiên cố không bị mục ướt sụp đổ.
Nền móng ngôi đền thờ tâm hồn con người là Chúa Giêsu Kitô. Trên nền tảng Ngài, sự chết, sự sống lại của Chúa Giêsu chúng ta như những viên đá sống động trong công trình ngôi nhà của Giáo hội
„ Lễ thánh hiến vương cung thánh đường Laterano gợi nhắc nhớ đến một mầu nhiệm luôn thời sự: Thiên Chúa hằng muốn xây ngôi đền thờ tinh thần, nơi đó tinh thần và chân lý được thờ kính. ( Ga 4,23-24).
Ngày lễ này cũng nhắc nhớ đến sự qua trọng của những công trình xây dựng bằng vật liệu, nơi đó Cộng đoàn tín hữu Chúa tụ họp đọc kinh cầu nguyện cử hành các nghi lễ phụng vụ ca tụng Chúa. Mỗi Cộng đoàn xứ đạo có bổn phận gìn giữ ngôi thánh đường của chỗ mình.Vì ngôi thánh đường thể hiện giá trị cao đẹp nếp sống tôn giáo và văn hóa. „ ( Đức giáo hoàng Benedicktô XVI. , Kinh Truyền tin ngày (09.11.2008 ).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các phương thế giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục
- Viết bởi Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Bà Maria Simma chào đời ngày 21-2-1915 tại Sonntag thuộc Grosswalsertal (Vorarlberg) bên nước Áo. Bà là tín hữu Công Giáo thật đạo đức có lòng yêu thương cách riêng Các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội.
Do đó Các Đẳng Linh Hồn được THIÊN CHÚA cho phép hiện về xin bà cầu nguyện, đền bù tội lỗi thay cho các ngài để các ngài được sớm hưởng Nhan Thánh Chúa. Sau đây là chứng từ của bà về các phương thế hữu hiệu nhất để giúp đỡ các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình.
1/ Thánh Lễ. Thánh Lễ là hy tế tối cao không gì có thể thay thế được.
2/ Các đau khổ đền bù. Mỗi một đau đớn thể xác hoặc tinh thần vui lòng chấp nhận đều có thể dâng cho Các Đẳng Linh Hồn.
3/ Kinh Mân Côi. Sau Thánh Lễ, kinh Mân Côi là phương thế hữu hiệu nhất để giúp Các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội. Mỗi ngày có số đông Các Đẳng Linh Hồn được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình nhờ Kinh Mân Côi, nếu không chắc hẳn các ngài còn phải chịu đau khổ lâu năm dài đăng đẳng trong Luyện Ngục.
4/ Đàng Thánh Giá. Đi Đàng Thánh Giá cũng giúp ích rất nhiều, làm giảm bớt hình khổ cho các Đẳng Linh Hồn.
5/ Các Ân Xá. Các Đẳng Linh Hồn cho biết là Các Ân Xá có một giá trị lớn lao. Các Ân Xá là của bồi thường thích đáng được Đức Chúa GIÊSU KITÔ dâng lên THIÊN CHÚA là CHA Người. Kẻ nào lúc còn sống lãnh nhiều Ân Xá cho người quá cố thì cũng sẽ nhận được - hơn những người khác - ơn toàn xá trong giờ lâm tử, là ơn được ban cho mỗi tín hữu vào giờ lâm chung "in articulo mortis".
Thật bất nhân nếu chúng ta không biết lợi dụng kho tàng ơn thánh của Hội Thánh để giúp ích cho Cắc Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Cứ tưởng tượng rằng chúng ta đang đứng trước một ngọn núi đầy đồng tiền bằng vàng và chúng ta có thể tự do lấy bao nhiêu tùy ý để giúp những người nghèo không thể lấy được, mà chúng ta lại nhẫn tâm không chịu lấy để giúp đỡ người khác, thì hẳn chúng ta ác độc biết biết là chừng nào! Tại rất nhiều nơi người ta thấy việc sử dụng các Kinh hưởng ân xá giảm bớt rất nhiều. Cần phải khuyến khích các tín hữu Công Giáo ở khắp mọi nơi trở lại với việc đạo đức lãnh các Ân Xá và nhường lại cho Các Đẳng Linh Hồn.
6/ Làm việc bố thí và các việc lành phúc đức, đặc biệt là việc dâng cúng tiền của cho công cuộc truyền giáo cũng giúp ích rất nhiều cho Các Đẳng Linh Hồn.
7/ Thắp nến cũng giúp ích cho Các Đẳng Linh Hồn. Lý do là cử chỉ ưu ái này làm giảm nhẹ đau khổ tinh thần của Các Đẳng Linh Hồn. Lý do khác là khi thắp sáng các cây nến đã được làm phép sẽ đẩy lui bóng tối mà Các Đẳng Linh Hồn đang chìm ngập trong Luyện Ngục.
Một hôm có một bé trai 11 tuổi ở Kaiser hiện về xin bà Maria Simma cầu nguyện cho cậu. Cậu bị giam trong Lửa Luyện Ngục bởi vì khi còn sống, vào ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn 2-11, cậu nghịch ngợm thổi tắt các cây nến được thắp sáng trên các ngôi mộ nơi nghĩa trang. Rồi cậu cũng ăn cắp nến để chơi đùa.
Các cây nến được làm phép có một giá trị rất lớn đối với Các Đẳng Linh Hồn. Vào một Ngày Lễ Nến 2-2 bà Maria Simma phải thắp sáng hai cây nến để cầu cho một Linh Hồn, cùng lúc bà phải chịu các đau khổ để đền bù thay cho Linh Hồn này.
8/ Rảy Nước Thánh có công hiệu làm giảm bớt các đau khổ Các Đẳng Linh Hồn đang phải chịu. Một hôm bà Maria Simma rảy nước thánh cho Các Đẳng Linh Hồn. Bà liền nghe một tiếng nói: "Xin rảy thêm nữa!"
Tất cả các phương thế không giúp ích cho Các Đẳng Linh Hồn cùng một phương cách như nhau. Nếu khi còn sống, người nào không quý chuộng việc tham dự Thánh Lễ, thì trong Lửa Luyện Ngục cũng không được hưởng bao nhiêu các ơn ích do Thánh Lễ mang lại. Nếu một người khi còn sống có lòng ác độc thì cũng không được giúp đỡ lúc bị giam trong Lửa Luyện Hình. Người nào phạm tội phỉ báng người khác thì phải đền bù cách nghiêm khắc các tội lỗi của họ. Nhưng kẻ nào có lòng tốt khi còn sống thì sẽ nhận được rất nhiều trợ giúp lúc bị giam trong Lửa Luyện Hình.
Một linh hồn lúc còn sống đã sao nhãng việc tham dự Thánh Lễ đã xin cử hành 8 Thánh Lễ để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Ngục. Lý do là khi còn sống Linh Hồn này đã xin cử hành 8 Thánh Lễ cho một Linh Hồn khác nơi Lửa Luyện Hình.
... "Lạy THIÊN CHÚA, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm. Lạy THIÊN CHÚA, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con" (Thánh Vịnh 51(50) 3-14).
("Le anime del Purgatorio mi hanno detto", Maria Simma, Edizioni Villadiseriane, Ottava edizione, trang 40-42)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Nay anh mai tôi- tháng 11
- Viết bởi Huệ Minh
Ngôi thánh đường nhỏ bé của giáo xứ tôi nằm cạnh nghĩa trang bé nhỏ của giáo xứ. Đứng bên đây thánh đường ngó bên kia thánh đường là những người thân thương trong giáo xứ đã ra đi trước chúng tôi. Không chỉ có nghĩa trang nhỏ bé này nhưng đâu đó ở các nghĩa trang và thậm chí đâu đó và tro cốt của ông bà cha mẹ của chúng ta vì có thể có những người xưa đã khuất nhưng không tìm thấy dấu vết bởi chiến chinh.
Nhìn những nấm mộ đó, nơi những người thân của ta nằm đó, ta lại nhớ đến phận người. Phận người vẫn không thể nào thoát khỏi cái định mệnh của kiếp người : sinh - lão - bệnh - tử. Phận người là thế đó như theo kiểu cách nói của cố nhạc sĩ họ Trịnh :
Con chim ở đậu cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về trốn xa xăm cuối trời
Sương kia ở đậu miền xa
Con sáo ở trọ bao la đất trời
Nhân gian về trọ nhiều nơi
Bâng khuâng vì những đôi môi rất hồng
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
Tim em người trọ là tôi
Mai kia về trốn xa xôi cũng...gần
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
Môi xinh nở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều
Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành
Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Ơ hay là một vòng sinh
Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời
Phận người là thế, ở trọ để rồi cuộc đời khép lại sau cái chết.
Sau cái chết, tùy niềm tin của tôn giáo và gần hơn nữa là niềm tin của mỗi người khác nhau. Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết chỉ là khép lại cuộc sống trần gian để bước vào vương quốc vĩnh cửu.
Với Trịnh Công Sơn thì : "Người chết nối linh thiêng vào đời".
Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp ta suy nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta. Và: nay tôi, mai anh. Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là "chưa chết". Anh chỉ được "triển hạn", chứ không bao giờ được "miễn trừ".
Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng, trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình. Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết sẽ xẩy ra cho mình. Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta. Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.
"Người chết nối linh thiêng vào đời" là như vậy. Nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ... Vì sợ người chết, sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.
Có câu ngạn ngữ :"Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ". Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.
Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều "tham sinh úy tử" nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói : "Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay".
Đồng quan điểm với ông Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói : "Người chết mở mắt cho người sống", cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.
Ông Stephen Leacock nói : "Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm. Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi. Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới. Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi".
Khi ta nhìn thấy những nấm mồ ở nghĩa trang như muốn nhắc nhở ta : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh. "Hôm nay" là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.
Nhưng còn chữ "Ngày mai" là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói : "Sinh hữu hạn, tử bất kỳ" (Tục ngữ). Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.
Theo tâm lý chung, người đời ai cũng "tham sinh úy tử" (ham sống sợ chết). Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên. Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả. Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay
(Nguyễn Khuyến)
Dù cuộc sống cứ mãi trôi nhưng rồi thi thoảng ta phải dừng lại lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức nhận định một cách khách quan :
Tại sao tôi sống ?
Sống để làm gì ?
Chết rồi, ra sao ?
Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao ! Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.
Lẽ sống của người Ki tô hữu ngày hôm nay được làm rõ trong tất cả các bài đọc. Với tất cả lẽ sống đó, niềm tin đó ta lại hân hoan sống trong trần gian này với niềm vui, với niềm tin và hy vọng một ngày kia ta cũng sẽ đoàn tụ với cha ông chúng ta trên thiên đàng nơi mà Chúa đã dọn sẵn cho những ai mà Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.
Cuộc đời này rất ngắn và rất vội, Giáo Hội dành ra tháng 11 này cách đặc biệt để ta có dịp báo hiếu, cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, những người đã khuất trước chúng ta. Và, cũng nhắc nhớ phận người của mỗi người chúng ta. Ngày nào đó, ta cũng phải trở về với tro bụi trong quy luật hạn hữu của con người nhưng chuyện cần thiết và quan trọng nhất là sống làm sao để mai ngày được ơn cứu độ.
Sống ở đời, giàu hay nghèo, sang hay hèn, đại gia hay tiểu gia không phải là vấn đề. Không phải là vấn đề bởi lẽ ta thấy dù giàu hay nghèo, sang hay hèn đó khi nhắm mắt lìa đời chỉ có vài mét đất như nhau mà thôi. Vì thế, chuyện cần và đủ cho cuộc đời của mỗi người đó là sau khi chết ta có được một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa hay không ?
Với phận con người mỏng dòn và yếu đuối để rồi ta lại cứ tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện cho những người đã khuất và cầu nguyện cho chính bản thân chúng ta để ngày mỗi ngày ta biết trút bỏ những gì không là cần thiết, những gì làm vướng víu không để ta thanh thoát về với Chúa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta tiếp tục tin tưởng, cầu nguyện và tín thác những người thân của ta trong tay Chúa cũng như cuộc đời của ta trong tay Chúa vậy.
Huệ Minh
Nguồn: http://www.giaophanlongxuyen.org
Thiên đàng - Hoả ngục
- Viết bởi Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Tháng Mười Một dương lịch khởi đầu bằng hai ngày lễ nối tiếp nhau: ngày mồng một, chúng ta hân hoan vui mừng chiêm ngưỡng cộng đoàn đông đảo các thánh nam nữ trên trời. Trong số này, trước hết phải kể đến Đức Trinh nữ Maria, “Nữ vương các thánh”, rồi Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh nam nữ trải qua suốt bề dày của lịch sử cứu độ. Các ngài đã không ngừng cố gắng và hy sinh để diễn tả sự thánh thiện ngàn đời của Thiên Chúa. Cùng với các thánh đã được tôn phong, trong cộng đoàn các thánh được kính nhớ còn có ông bà, cha mẹ và anh chị em chúng ta, là những người khi còn sống đã yêu mến và phụng thờ Chúa và nay được hưởng phúc Thiên đàng.
Ngày kế tiếp, mồng hai tháng Mười Một, Phụng vụ mời gọi chúng ta cảm thông và cầu nguyện cho các tín hữu còn bị giam cầm nơi Luyện ngục. Họ là những người còn vướng mắc nhiều hậu quả của tội và đang được tinh luyện chờ ngày xứng đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Những người nào cho đến chết mà dứt khoát từ chối lòng thương xót của Chúa và cố tình thù ghét tha nhân thì hậu quả cuộc đời họ sẽ là Hoả ngục. Đây là tình trạng khổ đau vĩnh viễn, vắng bóng Thiên Chúa, không có tình thương. Chúa Giêsu đã diễn tả Hoả ngục là nơi đau khổ, những kẻ bị giam cầm sẽ khóc lóc nghiến răng và chịu lửa thiêu không hề tắt.
Hai ngày lễ đều được cử hành để nhớ tới những người đã khuất, nhưng ngày thứ nhất cử hành trong hân hoan chiến thắng, ngày thứ hai được nhớ tới với niềm thương cảm xót xa. Một ngày lễ mừng những người lữ hành đã đến đích, còn ngày kia tưởng nhớ những ai còn đang phải đoạ đày. Cũng một kiếp người, có người được phúc diện kiến Chúa, có người phải trải qua khổ đau chờ ngày được thanh luyện, thậm chí có người phải giam trong Hoả ngục đời đời. Trong truyền thống Công giáo, Thiên đàng và Hoả ngục là hai trong “Bốn sự sau” các tín hữu thường xuyên suy gẫm, tức là Sự chết, Phán xét, Thiên đàng và Hoả ngục. Năng suy gẫm “Bốn sự sau” của đời người sẽ giúp ta sống tốt lành hơn.
Sinh ra trên trần gian, ai cũng được hướng tới hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng thất bại hay thành công, một phần lớn do sự chọn lựa của mình. Chúa không bắt ép ai phải nên thánh. Ngài không tạo dựng con người giống như một khuôn đúc sản xuất dây chuyền, nhưng như những chủ thể tự do, có khả năng chấp nhận hay từ chối, kể cả phủ nhận Chúa. Nhân sinh quan Kitô giáo diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người là mối tình Cha - Con. Thiên Chúa yêu con người như người cha người mẹ yêu thương đứa con chính mình đã sinh ra. Dù đứa con ấy có khiếm khuyết bất toàn thế nào đi nữa, cha mẹ không nỡ từ bỏ con mình. Tình yêu thương của cha mẹ luôn đồng hành theo sát con cái, kể cả khi chúng đã khôn lớn, hay khi chúng bất hiếu phản nghịch. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa mong muốn cho con người được hạnh phúc. Hạnh phúc nơi con người còn diễn tả vinh quang của Thiên Chúa, như Thánh Irênê đã viết: “Vinh quang Thiên Chúa là con người sống vui”. Hạnh phúc Thiên đàng là phần thưởng bất diệt Thiên Chúa ban cho những ai suốt đời thành tâm yêu mến Ngài.
Thiên đàng và Hoả ngục là hai kết cục cuối cùng của thân phận con người. Người ta không sống mãi ở trần gian. Cuộc sống đời này, dù sang hèn đến mấy cũng có thời có buổi. Sau khi kết thúc cuộc đời trần thế, Thiên đàng hoặc Hoả ngục chính là hai đích điểm tương ứng với hạnh kiểm của con người khi họ sống nơi dương gian. “Gieo nhân nào thì gặt quả nấy”, “Gieo gió gặt bão”, Ông Bà ta đã dạy thế và lòi dạy này rất phù hợp với giáo huấn của Chúa. Người công chính sẽ được hạnh phúc Thiên đàng, kẻ bất lương sẽ lãnh chịu Hoả ngục.
Thiên đàng và Hoả ngục không phải là do Thiên Chúa định trước. Đừng gán cho Thiên Chúa là tác giả và nguyên nhân của sự ác. Thiên Chúa là vị Trọng tài khôn ngoan và công bằng. Người trả cho chúng ta xứng với những điều chúng ta đã làm. Thiên Chúa cũng là vị Thẩm phán đầy lòng nhân hậu bao dung. Vì thế, không bao giờ là quá muộn đối với những tội nhân biết thành tâm sám hối và quay đầu trở lại. Người cha nhân hậu trong Tin Mừng (x. Lc 15, 11-32), mặc dầu đau buồn về sự ra đi của đứa con, nhưng vẫn mòn mỏi trông đợi nó trở về. Ông chuẩn bị sẵn, để khi nào nó trở về thì làm tiệc thết đãi hàng xóm. Thiên Chúa của chúng ta là Đấng thương xót từ bi và sẵn sàng tha thứ, nếu chúng ta nhận ra lỗi lầm của mình và hối cải. Có thể nói, khi sống ở đời này, chính chúng ta đang chọn lựa cho mình hạnh phúc Thiên đàng hay trầm luân Hoả ngục.
Thiên đàng hay Hoả ngục, không phải đến lúc kết thúc cuộc đời ta mới nhận thấy. Ngay trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng có thể nếm hưởng hạnh phúc Thiên đàng hay bị nghiền nát do hình phạt Hoả ngục. Khi đối xử với nhau chân thành ngay thẳng, trái tim chúng ta có Thiên đàng ngự trị; khi sống mưu mô lường gạt người khác, trái tim chúng ta có Hoả ngục đoạ đày. Trái tim có Thiên đàng tràn đầy niềm vui; Trái tim mang Hoả ngục chất chứa hận thù. Thiên đàng là nơi có Chúa; Hoả ngục là nơi vắng bóng Ngài. Đâu có Chúa, ở đó có niềm vui và hạnh phúc; Đâu vắng bóng Ngài, là đau khổ ngục tù. Có những gia đình đang tồn tại trên thế gian mà đã bị so sánh như hoả ngục, vì ở đó chỉ có sự chia rẽ và hận thù. Có những cộng đoàn Đức tin, thay vì làm chứng cho sự hiện diện hồng phúc của Thiên Chúa, lại trở thành Hoả ngục vì tồn tại những bè phái xung đột tranh chấp khôn nguôi.
Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành những người xây dựng Thiên đàng ngay tại thế gian này. Quả vậy, nếu Thiên đàng là nơi có Chúa ngự, thì mỗi khi chúng ta đem Chúa đến nơi nào, thì nơi ấy có Thiên đàng. Nếu Thiên đàng là nơi ngày đêm vang lên lời tôn vinh cảm tạ Chúa, thì mỗi khi giúp cho một người biết tôn vinh cảm tạ Chúa là chúng ta mang Thiên đàng đến với họ. Nếu Thiên đàng là nơi phản ánh vinh quang vĩnh cửu của Chúa, thì mỗi khi làm cho ánh sáng Tin Mừng và sự thánh thiện phản chiếu qua cách sống của chúng ta, là chúng ta làm cho Thiên đàng hiện diện trên trần gian. Tiếc thay, có những người không xây dựng Thiên đàng mà lại đi gieo rắc hoả ngục; thay vì nối kết con người trong tình liên đới yêu thương, lại đi xây những bức tường ngăn cách. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho “Nước Cha trị đến”, tức là xin Chúa cho Thiên đàng được khởi đầu ở trần thế này. “Nước Chúa” là vương quốc của yêu thương, hoà bình, lòng nhân hậu bao dung và quảng đại. Ai xây dựng hoà bình và lòng nhân ái là xây dựng Nước Chúa.
Nên thánh hay trở thành ma quỷ, hạnh phúc Thiên đàng hay hình phạt Hoả ngục, đó chính là chọn lựa của chúng ta. Có thể chúng ta sẽ nói: điều đó khó quá, sao tôi có thể làm được. Chúa Giêsu trấn an chúng ta: đối với con người thì như vậy, nhưng Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, miễn là chúng ta khiêm tốn cầu xin ơn phù trợ của Ngài (x. Mt 19,26).
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã khẳng định với chúng ta: ai cũng có thể nên thánh. Ngài viết: “Sự thánh thiện là điều có thể đối với hết mọi người, mọi tuổi tác cũng như mọi hoàn cảnh, vì mỗi chúng ta đều lãnh nhận ơn trợ giúp từ Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta hãy đón nhận một ơn huệ là sự thánh thiện, và hãy cố gắng sống những đòi hỏi của ơn đó. Chúng ta hãy để cho mình được Thiên Chúa biến đổi do tác động của Chúa Thánh Thần, và làm cho chúng ta nên giống thánh ý Ngài. Theo bước các thánh, mỗi chúng ta hãy trở nên một phần nhỏ trong bức tranh ghép diễn tả sự thánh thiện mà Thiên Chúa đã tạo nên trong lịch sử” (Zenit 13-4-2011)
Tưởng nhớ người đã ra đi.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻcuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm buồn vui ngày xưa đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cảnhững người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họlà những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa trao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ. Và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến cùng mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ, và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh gía.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh, và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống đức tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha.
Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễhọcùng hợp với của lễChúa Giêsu nhớđến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau .
Xưa kia các Thầy, các chịem Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từt rời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chịem Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau. Và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống, và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, những người đi tỵ nạn đã chết đuối qua đời trên biển cả, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cảcũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình thương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
8. Xin tưởng nhớ các bậc tổ tiên, ông Bà, cha mẹ, các vị anh hùng chiến sỹ đã dấn thân hy sinh dựng xây đất nước, phát tiển đời sống văn hóa xã hội nước Việt nam, và gìn giữ bờ cõi biên cương lãnh thổ quê hương đất nước từ hàng năm ngàn xưa, mà nay đã ly trần.
Nhớ về họ với lòng biết ơn sâu xa cùng ngưỡng mộ kính phục.
Xin Thiên Chúa tình yêu, Đấng dựng nên vũ trụ, đã ban quê hương đất nước cho dân tộc Việt nam chúng con, chúc phúc lành cho quê hương chúng con.
Và xin Thiên Chúa ban cho linh hồn họ được cùng sống lại trong nước Chúa trên quê trời.
9. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn đức tin chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong Cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta. Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họtrước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
Lễ tưởng nhớ các Linh hồn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kính mừng các Thánh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong suốt năm, hầu như hằng ngày đều lễ mừng kính nhớ riêng một hay nhiều Vị Thánh với tên tuổi cùng lịch sử đời họ. Dẫu thế cũng không sao mừng kính hết cả các Thánh trong Giáo Hội được. Vì thế, Giáo Hội dành một ngày để mừng kính chung tất cả mọi Vị Thánh.
Chúa Giêsu Kito sống lại và niềm tin người chết được sống lại, là trung tâm ý nghĩa đạo đức thần học của lễ mừng kính chung các Vị Thánh.
Theo đức tin Công gíao các Thánh là những người sống trong Cộng đoàn với Chúa và họ họp thành Giáo hội trên trời. Suy nghĩ này cũng là động lực tinh thần giúp thúc đẩy người tín hữu Chúa Kitô đang còn trên đường lữ hành trần gian, trong đời sống cố công gắng sức sống theo phúc âm của Chúa và con đường thánh thiện.
Ngày lễ mừng kính chung các Thánh có nguồn gốc lịch sử từ thế kỷ thứ tư. Vào thời điểm lúc đó các Vị Thánh Tử đạo thuở Giáo hội ban đầu được mừng kính .
Ngày 13. 05.609 đền thờ Pantheon ở Roma, đền thờ của người ngoại giáo Roma kính các vị Thần, dưới thời đức Giáo hoàng Bonifatius IV. được biến đổi thành thánh đường kính Đức Mẹ và các Thánh trong Giáo hội Công giáo Roma
Năm 731 Đức giáo hoàng Gregor III. khánh thành trong vương cung thánh đường Thánh Phero một nhà nguyện kính chung tất cả mọi Vị Thánh, và ấn định ngày 01.11. hằng năm là ngày lễ kính chung các Thánh.
Đức Giro hoàng Gregor IV. năm 839 truyền ngày lễ này mừng trong toàn thể Giáo Hội Công giáo.
Giáo hội Chính Thống mừng kính chung các Thánh vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Năm 2006 Đức gíao hoàng Benedictô XVI. đã có suy tư về ngày lễ này: „ Vào ngày lễ mừng kính các Vị Thánh, chúng ta hướng mắt nhìn với tâm tình lòng biết ơn lên đoàn thể to lớn các tín hữu Chúa Kitô, mà giờ đây đang tham dự vào vinh quang của Thiên Chúa trên trời. Chúng ta được kêu gọi đi theo con đường tám mối phúc thật của Chúa Kitô. Con đường này dẫn đưa chúng ta về quê hương vĩnh cửu. Các Vị Thánh giúp chúng ta trên con đường này qua đời sống gương mẫu và lời thay nguyện giúp của họ.“
Lễ Các Thánh Nam Nữ
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đến tận cùng biên giới
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu trước khi trở về trời đã căn dặn các Thánh Tông đồ, Giáo Hội của Chúa: “ Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Đức Chúa Thánh Thần xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.“ (CV 1,8)
Trải qua dòng thời gian hơn hai ngàn năm, Giáo hội Chúa Giêsu vẫn hằng luôn trung thành với sứ vụ Chúa đã trao phó cho. Và đời sống đức tin vào Chúa, ơn cứu độ của Chúa cho nhân loại, đã cùng đang được loan truyền rộng rãi khắp mọi nơi, cho mọi dân tộc tới mọi vùng biên giới trên khắp địa cầu.
Nhưng những thách đố đặt ra cho việc truyền giáo không phải là không có, cùng không phải là ít. Trái lại nhiều cùng tế nhị khó khăn nữa.
Một trong những thách đố tế nhị khó khăn cho việc rao truyền đức tin vào Chúa là nếp sống văn hóa của mỗi dân tộc đất nước.
Nói đến văn hóa là nói đến nếp sống đặc thù riêng của mỗi địa phương đất nước, của mỗi dân tộc. Văn hoá không là tất cả đời sống con người. Nhưng con người sinh ra, lớn lên cùng làm ăn sinh sống trong dòng sông cội nguồn quê hương đất nước của họ. Vì thế, văn hóa như gia sản gắn liền với đời sống con người.
Nói đến văn hóa là nói đến mức độ phát triển đời sống xã hội nơi đất nước xã hội con người đang sinh sống. Chính sự phát triển đó củng cố xây dựng đời sống con người nơi đất nước đó thêm giầu mạnh về của cải vật chất cũng như tinh thần. Đây là kho tàng về các gía trị cho các thế hệ dân tộc con người nơi quê hương đất nước đó.
Nói đến văn hóa là nói đến tình tự tôn giáo tín ngưỡng. Đây là nhu cầu cùng là điểm tựa tinh thần cho tâm hồn đời sống con người có được bình an, cùng tìm được sự quân bình cho đời sống.
„ Hôm nay việc truyền giáo của Giáo Hội đang phải đối mặt với thách đố trong việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người để quay lại với cội nguồn của họ và để bảo vệ các giá trị nơi nền văn hóa của họ.
Điều này có nghĩa là phải biết tôn trọng các truyền thống khác nhau và các nền triết lý khác nhau và nhận ra rằng nơi tất cả các dân tộc và các nền văn hóa đều có quyền được trợ giúp từ bên trong truyền thống của chính mình để đi vào mầu nhiệm khôn ngoan của Thiên Chúa và đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng và là sức mạnh biến đổi tất cả các nền văn hóa.“ (Đức Thánh Cha Phanxico, Thông điệp Ngày khánh nhật truyền giáo 2015).
Ngày xưa, các đây gần bốn thế kỷ các vị Thừa Sai từ Âu châu sang truyền giáo ở vùng trời đất nước Á Đông bên Việt Nam. Các Vị đã rao truyền tin mừng đức tin Công giáo vào Chúa cho con người trong xã hội với cách sống hội nhập văn hóa Việt Nam.
Chữ Quốc Ngữ mà các vị đã phát triển xây dựng làm ra dựa trên nền tảng tinh thần tâm hồn văn hóa dân tộc lúc đó là một công trình góp phần vào việc tôn trọng cùng duy trì phổ biến nếp sống văn hóa cho dễ dàng rộng rãi ra.
Những kinh sách các Vị viết đặt ra để giúp cầu nguyện thực hành đức tin vào Chúa không phải là những bản dịch từ tiếng Latinh, tiếng Pháp, tiếng Y pha nho sang tiếng Việt Nam, nhưng là những bản kinh tiếng Việt Nam có vần điệu, cô đọng tâm tình người Việt Nam.
Việc hội nhập văn hóa của các Vị Thừa Sai lúc sang sinh sống truyền giáo ở Việt Nam, cùng những đóng góp của các ngài như đem kiểu xây dựng những thánh đường, những kiến thức kiểu mô thức văn hóa bên Âu Châu vào xã hội Việt Nam, không là những mảnh miếng xa lạ thừa thãi, hay ốc đảo giữa lòng xã hội đất nước Việt Nam. Trái lại, nó góp phần vào làm cho gia sản văn hóa thêm giầu có phong phú.
Đến tận cùng biên giới về không gian hình thể địa lý, về thời gian, về hoàn cảnh sinh sống con người, về tâm tình nếp sống văn hóa nơi mỗi dân tộc đất nước. Đó là bước chân cùng tinh thần của các vị Thừa Sai hôm qua, hôm nay và ngày mai cho việc rao giảng làm chứng cho tin mừng vào Chúa.
Khánh nhật truyền giáo 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Willkommenskultur Chào mừng người tỵ nạn với nếp sống văn hóa.
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Từ hơn tháng trời nay, nước Đức mở rộng cánh cửa đón tiếp người tỵ nạn gần như hằng ngày ồ ạt không giới hạn vào cùng sinh sống.
Nhiều người hoài nghi cùng đưa ra những phê bình chỉ trích việc làm này của Chính phủ Bà Thủ tướng nước Đức Angela Merkel.
Nhưng Bà Thủ tướng Merkel đã nhiều lần khẳng định „Wir schaffen das - Chúng ta có thể làm được!" „ Das Asylrecht kennt keine Obergrenze - Quyền cho người tỵ nạn không kể tới giới hạn con số!".
Nước Đức mở rộng cánh cửa đón nhận người tỵ nạn từ các nước có chiến tranh bên vùng Trung Đông: Syria, Irak, Afghanistan, giúp cho ho cho họ có được nếp sống an toàn bảo vệ để xây dựng lại đời sống.
Họ đón tiếp người tỵ nạn với lòng nhân đạo của văn minh Kitô giáo, và với nếp sống văn hóa. Vì thế, người tỵ nạn được quảng đại đón tiếp với vòng tay phấn khởi dang rộng Willkommenkultur - Chào mừng người tỵ nạn với nếp sống văn hóa!
Dòng chữ này bây giờ được nói đến hầu như hằng ngày khắp nơi trong và ngoài nước Đức. Nhưng đâu là ý nghĩa dòng chữ Willkommenskultur?
Dòng chữ Willkommenskultur ghép bởi hai chữ: Willkommen và kultur.
Chữ kultur có gốc rễ từ tiếng Latinh: colere (từ động từ colo): chăm sóc - Như thế Kultur mang ý nghĩa sự chăm sóc các trạng thái tinh thần do con người tạo lập ra. Đồng thời nó cũng mang ý nghĩa làm cho hoàn thành tốt đẹp điều kiện đời sống do con người nghĩ xây dựng làm ra trong cộng đồng xã hội, và cũng như thế cho những điều kiện sống còn bảo vệ môi trường thiên nhiên.
Willkommen - chào mừng - nối dung chữ này nằm trong những mối tương quan xã hội nơi con người sinh ra lớn lên.
Willkommen trong bối cảnh với những người tỵ nạn xa lạ mang ý nghĩa chúng tôi chào đón các bạn. Chúng tôi không đóng cánh cổng, cánh cửa, cũng như không khép kín trái tim tâm hồn chúng tôi lại.
Willkommen nói lên: chúng tôi tôn trọng nhân phẩm của mọi người xa lạ. Không ai bị loại bỏ,vì chủng tộc mầu da, ngôn ngữ tiếng nói hay tôn giáo.
Willkommen: Trong tâm tình vui mừng cùng kiên nhẫn lắng nghe nhau, cùng dành thời giờ nói chuyện với nhau. Vì người xa lạ như sứ gỉa của Thiên Chúa đến với chúng ta trong cuộc sống.
Chúa Giêsu trong dụ ngôn ngày phán xét sau cùng đã nói đến những người được cứu rỗi được Willkommen, vì „ Ngày xưa Ta là khách lạ và không nhà cửa mà các ngươi đã đón tiếp Ta." ( Mt 25,34).
Và Chúa Giesu còn chỉ ra những cụ thể giúp đỡ người khác như ly nước, miếng cơm bánh, áo quần, mái nhà che trú ẩn náu cũng được kể tính đến công nhận như công trạng lòng bác ái thương người.
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Kính mừng Maria - Ave Maria!
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Người Công giáo khi cầu nguyện chung hoặc riêng thường đọc kinh Kính mừng Maria - Ave Maria!
Kinh kính mừng Maria người Công giáo học đọc thuộc lòng từ khi còn nhỏ, và đọc suốt trong đời sống ở thánh đường cũng như lúc ở nhà hay khi hội họp nhóm cầu nguyện chung với nhau.
Lời kinh đơn giản. Nhưng lại chất chứa đầy ý nghĩa đạo đức thần học.
1. " Kính mừng Maria, đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Đây là lời chào của Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel khi đến báo tin vui cho Maria : Thiên Chúa chọn Maria làm mẹ cưu mang sinh hạ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người trong cung lòng Maria. ( Phúc âm Thánh Luca 1,28)
Sự việc diễn ra ở nhà Maria trong làng Nazareth bên nước Do Thái cách đây hơn hai ngàn năm.
Ngôi làng nhỏ Nazareth ở miền miền Bắc thuộc vùng Galileo nước Do Thái. Ngôi làng nhỏ này chưa bao giờ được nhắc đến trong Kinh Thánh cựu ước. Nhưng Nazareth được biết đến rộng rãi từ khi trở thành quê hương của Chúa Giêsu.
Trước hết Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel, sứ giả của Thiên Chúa, từ trời cao được sai đến hiện ra với Maria, báo tin Thiên Chúa muốn chọn trinh nữ Maria làm mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Sau khi sinh hạ Chúa Giêsu ở Bethlehem, miền Nam nước Do Thái, và sau quãng thời gian di cư sang sinh sống bên Ai Cập, gia đình Chúa Giêsu, đức mẹ Maria và Thánh Giuse trở về quê cũ Nazareth sinh sống. Nơi đây Chúa Giêsu cùng với mẹ Maria và Thánh Giuse trải qua 30 năm sinh sống. Và cũng từ miền Nazareth Chúa Giêsu bắt đầu ra đi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa.
( Mt 2,23 )
Đến thăm viếng hành hương Nazareth, ngôi vương cung thánh đường truyền tin bằng đá mầu trắng to lớn ở trung tâm Nazareth có chiều cao 67,5 mét, rộng 35 mét được xây dựng từ 1954-1969 nhắc nhớ biến cố lịch sử ơn cứu độ Thiên Thần truyền cho Maria.
Năm 1955 khi xây ngôi Vương cung thánh đường truyền tin này, các nhà khảo cổ học đã khám phá tìm ra phần còn lại của một vùng dân cư thuộc thời xa xưa Hylạp-Roma trước Chúa Giêsu giáng sinh. Nơi đây gia đình Chúa Giêsu đã làm ăn sinh sống cư ngụ trong cảnh đơn giản nghèo nàn.
Và các nhà khảo cổ cũng tìm ra dấu vết ngôi thánh đường thời Byzantin được xây cất khoảng thế kỷ 5. Đến thế kỷ thứ 12. đạo binh Thánh gía xây dựng tiếp nối một ngôi thánh đường nữa mà bây giờ còn lưu sót lại một ngôi nhà nguyện.
Ở tầng dưới vương cung thánh đường, theo truyền thống thuật lại, cạnh phía bên phải bàn thờ chính ở giữa , là ngôi nhà của đức Mẹ Maria, nơi ngày xưa đã diễn ra biến cố lịch sử Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Maria thụ thai Chúa Giêsu bởi phép Đức Chúa Thánh Thần.
2. „ Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ."
Những lời này cũng là lời mừng ca ngợi của bà Thánh Elisabeth, người chị em họ hàng với Maria, lúc Maria đến nhà thăm chị mình ở làng Ein Karem vùng ngoại ô phía Tây thành Giêrusalem. (Lc 1,42).
Các Thánh Giáo Phụ khi đọc đoạn phúc âm nói về cảnh Đức mẹ Maria đang mang thai Chúa Giêsu trong cung lòng mình đi từ Nazareth xuống Giêrusalem làng Ein Karem thăm người chị họ Elisabeth, đã có suy tư đó là một cuộc rước kiệu Thánh Thể thứ nhất cùng dài nhất, mà Đức mẹ Maria đã thực hiện từ khi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đang thành hình sự sống là một con người trong cung lòng Đức Mẹ. Vì thế, khi gặp Maria, Elisabeth đã mừng rỡ hân hoan thốt lên lời ca ngợi với đầy lòng cung kính về Giêsu, người con của Maria còn đang trong cung lòng em mình
Địa điểm Ein Karem ngay từ cổ xa xưa thời Ngôn sứ Gieremia đã được nói đến:
" Con cái Ben-gia-min, hãy trốn khỏi Giê-ru-sa-lem.
Tại Tơ-cô-a, hãy rúc tù và; trên Bết Ha Ke-rem, hãy giương cao cờ hiệu,
vì tai ương đang rình rập từ phương Bắc:thật là một thảm hoạ lớn lao." (Gr 6,1)
Ein Karem là địa điểm hành hương quan trọng của người Kitô giáo.Vì nơi đây là quê hương của gia đình Thánh Gioan Tẩy gỉa, người anh em họ hàng của Chúa Giêsu. Cũng nơi đây đức mẹ Maria đã đến thăm gia đình chị họ Elisabeth, cùng ở lại sinh sống với gia đình vài tháng. (Lc 1,39)
Nơi đây có ngôi thánh đường Đức mẹ thăm viếng Elisabeth. Ngoài sân thánh đường có bức tượng Maria mang thai Chúa Giêsu và Elisabeth mang thai Gioan tẩy giả gặp gỡ nhau. Trên tường chung quanh có khắc ghi kinh Magnificat ( Lc 1,46-55) bằng gần 50 ngôn ngữ khác nhau, trong đó có bản kinh bằng tiếng Việt Nam, mà ngày xưa đức Mẹ Maria đã trong vui mừng xuất thần thốt lên lời kinh ca ngợi này. Kinh Magnificat trở thành lời kinh phụng vụ chính thức trong Giáo hội. Các Linh mục, Tu sỹ hằng ngày đọc kinh này vào giờ kinh chiều.
Bên trong thánh đường nơi bức tường bên cạnh cửa ra vào có một lỗ hổng có một phiến đá tròn che chắn. Theo tương truyền nơi đây Bà thánh Elisabeth đã cất dấu Gioan còn thơ bé lúc quân lính theo lệnh vua Herode đi tìm lùng bắt giết các hài nhi thời điểm Chúa Giêsu sinh ra ở Bethlehem trong toàn vùng.( Mt 2, 16-18)
Kinh Kính mừng Maria - Ave Maria! bắt đầu bằng lời chào của Tổng lãnh Thiên Thần, nên kinh này được gọi như „ Lời chào của Thiên Thần".
Từ thế kỷ 4. và 5. kinh cầu nguyện này được phổ biến bên vùng Đông phương. Và từ thế kỷ 8. được đưa vào phụng vụ bên Tây phương.
Như thế lời kinh cầu nguyện này mang sâu đậm tâm tình sắc thái lòng sùng kính Đức Mẹ của Giáo hội, như Công Đồng Epheso năm 431 đã nhấn mạnh đến việc tôn vinh Đức Mẹ Maria là mẹ sinh Con Thiên Chúa.
3. Từ thế kỷ 13. sang thế kỷ 14. lời kinh chào mừng của Thiên Thần được thêm phần cầu xin cùng Đức Mẹ:
„Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
Tâm tình này thể hiện lòng khiêm nhường nhận mình là con người giới hạn, tội lỗi yếu đuối, xin Đức Mẹ phù hộ cùng Thiên Chúa cho đời sống hôm nay và ngày mai trong giờ phút sau cùng.
Kinh Kính mừng Maria là lời kinh cầu nguyện căn bản trong đời sống đức tin cùng với Kinh Lạy Cha khi lần hạt Mân côi. Từ thời Trung cổ vào thời điểm lòng sùng kính Đức Mẹ phát triển dâng cao, lời kinh Kính mừng Maria có chỗ đứng đặc biệt trong kho tàng cầu nguyện của Gíao hội, và là cung cách cầu nguyện bình dân đại chúng phổ biến lan rộng cho hết mọi người tín hữu Chúa Kito khi vui cũng như lúc đau buồn gặp thử thách gian nan.
Lời kinh kết thúc với lời Amen mang sâu đậm tâm tình" Con xin tin, con xin được như vậy!
Kinh Kính mừng Maria tuy là những lời đơn giản, nhưng chất chứa tâm tình đạo đức cùng con người sâu đậm.
Người tín hữu Chúa Kitô đọc kinh này trong tâm tình cầu nguyện xin Đức mẹ, Mẹ Chúa Trời chuyển lời cầu xin phù hộ cho trước tòa Thiên Chúa.
Những nhà nghệ thuật xưa nay đã lấy cảm hứng từ kinh này làm đề tài cho những sáng tác nhạc thánh ca, nhạc hòa tấu, tranh vẽ, hình tượng điêu khắc, thi ca thơ phú trong kho tàng nghệ thuật văn hóa dân gian.
Tháng Mân Côi kính Đức Mẹ Maria
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lòng hân hoan
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Trong suốt dọc đời sống, ai cũng đều đã, đang cùng luôn sống tâm tình tạ ơn. Nói cách khác sống lòng biết ơn.
Nhưng biết ơn ai và về điều gì?
Theo chiều ngang đường chân trời, chúng ta nghĩ nhớ ngay đến những người chung quanh mình từ ngày mở mắt chào đời, cùng về những việc họ đã làm xây dựng đời sống cho ta.
Những người chung quanh gần ta nhất là cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng giáo dục đào tạo ta nên người.
Rồi những người thân yêu ruột thịt trong gia đình họ hàng: ông bà, anh chị em, cậu cô, chú bác. Và xa hơn là những bạn bè, những người làm ơn cho ta mà ta không biết họ là ai.
Tầm nhìn suy tư theo đường thẳng hướng lên cao, con người nhận ra mình còn mắc nợ cám ơn Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên sự sống cùng hằng nuôi sống con người.
Công trình tạo dựng thiên nhiên, mà Đấng Tạo Hóa làm ra cho mọi thế hệ con người không biết có từ bao ngàn năm lâu nay rồi, và hằng còn tiếp tục không chỉ tồn tại, nhưng luôn còn đổi mới phát triển mãi mãi từ thế hệ này nối tiếp sang tới thế hệ khác
Công trình tạo dựng thiên nhiên là ngôi nhà cho con người sinh sống, là trường học, thư viện cho tâm trí con người được khai tâm, nghiên cứu học hỏi, là nguồn suối gợi cảm hứng đề tài cho trí khôn con người phát triển cùng cộng tác sáng tạo xây dựng, là kho tàng tài nguyên nuôi sống mọi loài cho luôn phát triển tồn tại do Đấng Tạo Hóa dựng nên, và đồng thời cũng là ngôi thánh đường giúp cho cầu nguyện, cho ăn ăn hối lỗi tìm lại sự bình an.
Càng đi sâu vào công trình tạo dựng thiên nhiên, con người càng khám phá ra những ngạc nhiên mới lạ gây bỡ ngỡ thích thú khác nhiều hơn: những thứ loại cây cối bông hoa khác nhau, những chủng loại động vật, thú vật mới lạ cùng hiếm qúy khác nhau ở những vùng núi rừng trên trái đất, những kho tàng tài nguyên ẩn chứa trong lòng đất, những hình thể rừng núi sông biển ao hồ...
Và „ Ngoài ra chúng ta là Kitô hữu, còn được mời gọi, đón nhận "vũ trụ như một bí tích của cộng đoàn, như một phương tiện chia sẻ với Thiên Chúa và tha nhân trong chiều kích vũ trụ . (Laudato Si , số 9).
Trong chiều hướng đó, Thánh Phanxicô thành Assi khi chiêm ngắm công trình thiên nhiên đã thốt lên tâm tình:
„ Lạy Thiên Chúa Tối Cao,
Toàn năng và Tốt lành,
Lời ngợi khen, tôn vinh, danh dự
và mọi lời chúc tụng đều thuộc về Ngài,
và xứng hợp cho riêng mình Ngài,
ôi Đấng Tối Cao,
và không ai xứng đáng gọi Danh Ngài.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
với muôn loài thọ tạo."
Lễ Thánh Phanxico, 04.10.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh hôn nhân và gia đình (5)
- Hình ảnh hôn nhân và gia đình (4)
- Gương đức ái
- Hình ảnh hôn nhân và gia đình (3)
- Hình ảnh hôn nhân và gia đình 2
- Hình ảnh hôn nhân và gia đình
- Hình ảnh chiếc cầu vồng
- Thư gửi Chúa Giêsu từ bệnh viện ung bứu
- Tâm thần phân liệt hoang tưởng
- Chia sẻ của một Linh Mục tuổi đã xế chiều