Hãy Đi Khắp Tứ Phương Thiên Hạ
- Viết bởi Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR.
GNsP (01.06.2015) – Sài Gòn – Mc 16,15
“Tôi mong đợi nơi anh chị em điều mà tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo Hội : ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời : “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ”, đó là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ và hôm nay vẫn còn ngỏ với tất cả mọi người chúng ta.”
(trích Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxico gởi tất cả những người tận hiến, nhân dịp năm Đời sống Thánh hiến – II. 4 – bản dịch Lm. Giuse Phan Tấn Thành OP.).
Lạy Chúa,
xin lôi con ra khỏi tháp ngà an toàn,
bỏ lại sau lưng chốn tiện nghi trần thế,
để đến được với những vùng ngoại ô cuộc đời.
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR.
Lễ Chúa Ba Ngôi 2015
Chúng Tôi Không Biết
- Viết bởi Lm Vinh Sơn Phạm Trung Thành, DCCT
GNsP (31.05.2015) – Sài Gòn – Mc 11, 27 – 33
“Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi”. Họ liền bàn riêng với nhau rằng: “Nếu chúng ta trả lời “Bởi trời”, ông ấy sẽ nói: “Vậy sao các ông không tin Người?” Nhưng nếu chúng ta nói “Bởi người ta”, chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri. Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết”. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó”.
Lạy Chúa,
trốn tránh sự thật sẽ không đưa con đến với quyền năng của Chúa.
Xin đừng bao giờ để con trả lời “chúng tôi không biết” một cách đớn hèn.
Xin củng cố niềm tin của chúng con.
Lm Vinh Sơn Phạm Trung Thành, DCCT.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Ga 20, 19-23)
40 ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha : Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Ngài đến để làm gì ? Thưa, để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài " hiện diện " trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6), và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã " nhập thể " trong Hội Thánh. Như lời ca nhập lễ diễn tả : " Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia. "
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại : "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4). Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần trong ngày Ngài hiện xuống trên các thánh Tông đồ và những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.
"Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (Cv 2, 2).
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói : Ngôi nhà, sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự, người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Những " Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực " (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng " Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi " (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa : " Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế ". Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông đồ Công vụ (…) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông đồ ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội, Vương Quốc của Đức Giêsu lan rộng khắp địa cầu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Thánh Tôma Aquinô nói : "Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội " (Tổng luận Thần học, I-II, q. 106, a. 1c.). Ngài ngự trong Giáo hội cách thường hằng, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô nói : " Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi " (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, " khi nào Ngài đến, Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý " (Ga 16, 13) và gìn giữ khỏi mọi sai lầm. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sự phong phú siêu nhiêu : làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn các thánh trinh nữ ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn nhân thế ; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra ," tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố" (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán.
Ðức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói : Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Thiên Chúa là Tình Yêu, số 33).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ !" Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên Trời
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Chúa Giêsu lên Trời (Mc 16, 15 - 20)
Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : "Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó " Người lên Trời " (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải "có hai người mặt áo trắng đứng gần" (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở : "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?" (Cvtđ 1, 11). Sự kiện ấy cũng lôi kéo tâm hồn chúng ta lên với Chúa, làm chúng ta nhớ lại lời Chúa hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời và mong cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế.
"Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông : "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8 ). Từ đây nhiệm vụ được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha tặng ban, Ngài là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu " đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa " (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông : "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật " (Mc 16, 15). Dựa trên lời Thầy, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ, nói cho họ biết về Thiên Chúa để họ tin mà được cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô "cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo, dẫu biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa lên Trời, và trở lại.
Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc : "Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy" ( Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962 ). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : " Chúa Giêsu lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa " (Mc 16, 19).
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, "vinh quang của Đầu" đã trở thành "niềm hy vọng cho thân xác" (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, " Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc" (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng về Mẹ Maria "Nữ Vương Thiên Ðàng", chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ánh sáng cuối đường hầm
- Viết bởi Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Ngày 16 tháng 12 năm 2014, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra. Đó là vụ sập hầm công trình thủy điện Đạ Dâng, tỉnh Lâm Đồng. Đang khi các công nhân làm việc, bỗng một khối lượng đất đá khổng lồ sập xuống, vít chặt cửa hầm. Một số người nhanh chân chạy thoát. Trong số này, 12 người không chạy kịp nên bị giam trong hầm tối. Sự kiện sập hầm Đạ Dâng được nhiều người quan tâm theo dõi. Những người có trách nhiệm, từ trung ương đến địa phương, khẩn trương lập ra phương án giải cứu các nạn nhân. Các chuyên viên từ nhiều tỉnh thành được phái tới Lâm Đồng để tham gia giải cứu nạn nhân. Những người dân thì quan tâm theo dõi và gửi lời bình luận trên các trang mạng, bày tỏ ước nguyện mong cho các nạn nhân được bình an vô sự và sớm được cứu. Sự liên lạc từ bên ngoài đã được thực hiện nhờ điện thoại di động, nhờ đó, có thể chuyển đồ ăn là cháo và sữa qua hệ thống ống dẫn.
Trong số 12 người bị giam trong hầm tối, có một người phụ nữ. Họ sống trong kinh hoàng sợ hãi. Mặc dầu đã liên lạc được với bên ngoài, hy vọng cứu thoát vẫn rất mỏng manh. Mỗi phút qua đi thật nặng nề. Đói khát, tối tăm, lạnh lẽo, nhất là tâm trạng hoảng loạn làm cho họ đuối sức. Họ cảm thấy bị tách khỏi thế giới người sống và đã chạm tới sự chết.
May mắn thay, vào lúc 16h34 ngày 19-12, tức là sau 81 giờ trong ngục tối, những nỗ lực cứu hộ đã thành công. Từ một ánh sáng le lói ban đầu, các nạn nhân đã thấy cửa hầm mở ra, và họ được cứu thoát trong niềm vui vỡ òa của mọi người, nhất là những người thân đang từng giờ từng phút nghẹt thở theo dõi tiến trình cứu hộ. Qua các trang mạng, rất nhiều độc giả bày tỏ niềm vui và thán phục nỗ lực của những người tham gia cứu hộ. Những nạn nhân đã được cứu thoát. Họ đã từ cõi chết trở về cõi sống.
Trả lời nhà báo, các nạn nhân được cứu thoát đều kể lại tâm trạng của họ khi bị giam trong hầm tối. Trong lúc cái chết cận kề, họ nghĩ nhiều đến cha mẹ, họ hàng và những người thân. Họ khao khát nhìn thấy ánh mặt trời và thấy rằng sự sống vô cùng quý giá. Trong hầm tối, những nạn nhân rất thương nhau. Họ nhường nhau từng chút sữa bên ngoài chuyển vào. Họ động viên những người đang thất vọng, giúp họ tin rằng bên ngoài đã cố gắng bằng mọi giá để đưa các nạn nhân về với cuộc sống.
Giáo Hội công giáo đang mừng lễ Phục Sinh. Chúa Giêsu đã chết trên cây thập giá và được an táng trong huyệt mộ. Chính quyền La Mã và các vị lãnh đạo tôn giáo của người Do Thái cẩn thận cho người canh gác huyệt mộ. Tuy vậy, quyền lực thế gian không thể khuất phục quyền năng Thiên Chúa. Vào lúc rạng đông ngày thứ nhất trong tuần, các môn đệ đi thăm mộ và thấy thân xác Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Các sứ thần cho biết, Người đã từ cõi chết sống lại. Chúa Giêsu đã bước ra khỏi hầm tối để trở về cõi sống. Người đã phục sinh như lời Người đã nói trước đó.
Đức Giêsu Phục Sinh đem cho chúng ta niềm hy vọng vào cuộc sống sau khi chết. Người khẳng định với chúng ta rằng, chúng ta được dựng nên để sống chứ không phải để chết. Huyệt mộ tối tăm không phải là điểm dừng cuối cùng của kiếp con người, nhưng đó chỉ là bến đỗ tạm thời trong khi chờ đợi quyền năng của Chúa can thiệp. “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Người công giáo tuyên xưng như thế trong Kinh Tin kính. Thân xác con người dù có mục nát sau khi được an táng trong lòng đất, cũng sẽ được sống lại tromg ngày tận cùng của lịch sử – ta vẫn gọi là ngày phán xét cuối cùng hay ngày tận thế. Tất cả mọi xác phàm sẽ sống lại, nhưng hậu vận của họ không giống nhau. Kẻ lành sống lại để được hạnh phúc muôn đời; kẻ dữ cũng được sống lại nhưng để trầm luân vĩnh viễn. Sự phục sinh của Chúa như ánh sáng cuối đường hầm. Căn hầm tăm tối mà chúng ta đang cảm nhận, đó là những khó khăn và bi quan chán nản của cuộc sống. Nhiều người trong cuộc sống hôm nay đang đứng trước ngõ cụt của cuộc đời. Họ không tìm được lối thoát khi phải đối diện với bạo lực, tệ nạn, chia rẽ, suy đồi luân thường đạo lý. Đó là lý do ngày càng nhiều người tự tử, hoặc tiêu cực tìm đến giải sầu trong men rượu và ma túy.
Lễ Phục Sinh mời gọi chúng ta giã từ tối tăm để vươn tới ánh sáng. Khi phạm tội là con người sống trong tối tăm. Từ bỏ tội lỗi là vươn ra ánh sáng, nhờ đó, mọi tư tưởng hành vi được minh bạch ngay thẳng. Chúa Giêsu là Ánh Sáng thế gian. Làm môn đệ của Người, tức là sống trong ánh sáng. Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm” (1 Ga 2,9-10). Như thế, sống trong yêu thương là một điều kiện cần thiết để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, vì Đạo của Chúa là Đạo Yêu Thương. Thiếu đức ái, danh xưng “người môn đệ của Chúa” chỉ còn là hư danh trống rỗng.
Lễ Phục Sinh còn nhắc bảo chúng ta: sự sống là quà tặng vô cùng quý giá của Thiên Chúa, cần phải trân trọng. Những công nhân bị giam trong hầm tối đã cảm nhận giá trị của cuộc sống. Cũng như những bệnh nhân từng giờ từng phút đang chiến đấu với tử thần, họ thấy sự sống thực sự có giá trị. Trong cảnh tối tăm của công trình bị sập, những nạn nhân thấy mọi người mọi vật đều rất thân thiết và đáng quý giá: từ cha mẹ người thân đến xóm làng; từ căn nhà, ngõ xóm đến bông hoa, ngọn cỏ. Tất cả đều dễ mến dễ thương. Sau khi được cứu thoát khỏi hầm tối, họ mong được về nhà để gặp gỡ những người thân. Mấy ngày xa cách đối với họ dài đằng đẵng như cả một thế kỷ, vì tưởng sẽ không bao giờ gặp lại. Cảm nhận cuộc sống này hữu hạn giúp ta sống tốt với mọi người và tránh làm họ tổn thương. Ý thức cuộc đời chóng qua nhắc bảo ta biết tận dụng thời gian để mỗi ngày sống là một ngày có ý nghĩa.
Sống ở thế gian là tranh đấu không ngừng. Đó là cuộc giao tranh giữa thiện và ác, giữa bóng tối và ánh sáng. Cuộc giao tranh này có những lúc khốc liệt cam go, khiến ta phải đổ máu. Chúa Giêsu đã chiến thắng trong trận chiến giữa Thánh ý của Chúa Cha và mưu mô của ma quỷ. Người đã phục sinh, đi lên vinh quang từ cõi chết. Sự Phục Sinh của Chúa là lời khẳng định: nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ sống với Người (x. Rm, 6,8-11). Người là Ánh Sáng cuối đường hầm cuộc đời để giải thoát chúng ta khỏi những đam mê, tối tăm và tội lỗi.
(Nguồn: WGPSG)
Ý nghĩa lịch sử ngày lễ kính lòng thương xót Chúa - Chúa nhật II Phục Sinh
- Viết bởi Dân Chúa
Năm 1931, Chúa hiện ra với thánh nữ Faustina trong một thị kiến. Thánh nữ nhìn thấy Chúa Giêsu mặc một chiếc áo trắng với cánh tay phải giơ lên như đang chúc lành. Tay trái của Ngài đụng vào áo nơi trái tim, nơi mà hai ánh sáng chiếu tỏa ra, một tia màu đó và một tia màu trắng lạt. Thánh nữ nhìn không chớp mắt thẳng vào Chúa trong thinh lặng, linh hồn thánh nữ tràn ngập lòng kính sợ, nhưng cũng tràn đầy niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu nói với thánh nữ:
Hãy vẽ một bức ảnh theo mẫu thức mà con nhìn thấy, kèm theo dòng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa. Cha mong ước bức ảnh này được tôn kính, trước hết, tại nguyện đường của con, sau đó, ở khắp nơi trên thế giới. Cha hứa là, linh hồn nào tôn kính bức ảnh này sẽ không bị hư mất. Cha cũng hứa cho linh hồn thắng được các kẻ thù ngay khi còn sống trên thế gian, nhất là trong giờ lâm tử. Chính Cha sẽ bảo vệ linh hồn ấy như là bảo vệ vinh quang của riêng Cha.
Khi con nói điều này với cha giải tội của con, con nhận được câu trả lời thế này: "Điều ấy có ý chỉ về linh hồn của con". Người bảo con là: "Đúng đấy, hãy vẽ hình ảnh Thiên Chúa trong linh hồn của con". Ra khỏi toà giải tội, con lại nghe thấy những lời như sau: Hình ảnh của Cha đã sẵn có nơi linh hồn con rồi.
Cha mong có một Lễ Kính Lòng Thương Xót. Cha muốn bức ảnh mà con vẽ bằng cây cọ này phải được long trọng làm phép vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất sau Lễ Phục Sinh. Ngày Chúa Nhật này phải là ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót. Cha ước mong các linh mục loan truyền tình thương vĩ đại này của Cha cho các linh hồn những tội nhân. Để tội nhân đừng sợ tiến đến với Cha. Những ngọn lửa tình thương đang nung nấu Cha - bừng bừng muốn toé ra, Cha muốn tuôn đổ những ngọn lửa tình thương này xuống trên các linh hồn ấy. Cha muốn bức ảnh này phải được trưng bày nơi công cộng vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh. Chúa Nhật này là Lễ Kính Lòng Thương Xót.
Nhờ Ngôi Lời Nhập Thể, Cha tỏ vực sâu vô đáy của tình thương Cha ra. Hỡi con gái của Cha, hãy nhìn vào vực thẳm của tình thương Cha để chúc tụng và tôn vinh tình thương này của Cha. Con hãy làm như thế này: Hãy tụ họp tất cả các tội nhân từ khắp nơi trên thế giới lại, dìm họ vào vực thẳm của tình thương Cha. Con gái của Cha ơi, Cha muốn ban mình Cha cho các linh hồn, Cha khao khát các linh hồn. Vào ngày lễ của Cha, Lễ Kính Lòng Thương Xót, con sẽ đi khắp thế gian mà mang các linh hồn mệt nhược về suối nguồn của tình thương Cha. Cha sẽ chữa lành và tăng sức cho họ.
Có một lần, cha giải tội của con bảo con hỏi Chúa Giêsu về ý nghĩa của hai tia sáng trong bức ảnh, con trả lời với ngài là: "Dạ vâng, con sẽ hỏi Chúa". Đang khi cầu nguyện, con đã nghe thấy trong con những lời này: Hai tia sáng biểu hiệu cho Máu và Nước. Tia sáng nhạt là biểu hiệu của Nước, để làm cho các linh hồn nên công chính. Tia sáng đỏ là biểu hiệu của Máu, để ban sự sống cho các linh hồn... Hai tia sáng này phát xuất từ những thẳm sâu nhất của tình thương êm ái Cha, lúc mà Trái Tim đau thương của Cha bị lưỡi đòng chọc mở ra trên cây Thánh Giá. Những tia sáng này bao che các linh hồn cho khỏi cơn thịnh nộ của Cha Cha. Phúc cho kẻ nào được ẩn náu trong những tia sáng này, vì bàn tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không giáng xuống trên họ.Cha mong ước ngày Chúa Nhật thứ nhất sau Lễ Phục Sinh là ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót.
Nguồn gốc tấm hình lòng thương xót Chúa Ngày 22/02/1931, tại tu viện Plock sơ Faustina được Chúa Giêsu hiện ra. Trong nhật ký sơ ghi: "Ðêm đó, tôi được nhìn thấy Chúa Giêsu hiện ra. Ngài mặc áo trắng, một tay Chúa giơ lên ban phép lành, tay kia đặt trước ngực. Từ nơi ngực Chúa có hai luồng ánh sáng chiếu tỏa ra. Một luồng màu đỏ, luồng kia màu trắng nhạt. Chúa phán với tôi: "Con hãy vẽ một bức hình, theo những gì con trông thấy đây, với lời ghi chú: Giêsu, con tín thác vào Chúa" (gốc tiếng Ba Lan là Jezu, Ufam Tobie, ta thường thấy bản dịch ra tiếng Anh là Jesus, I trust in you)
Sơ có hỏi về ý nghĩa của 2 luồng sáng đó, Chúa nói:
"Những luồng ánh sáng trắng nhạt biểu hiện Nước, sẽ làm cho các linh hồn nên công chính đạo đức. Những luồng ánh sáng màu đỏ biểu hiện Máu, là sự sống của các linh hồn. Hai luồng ánh sáng này, phát xuất từ chốn sâu thẳm của lòng xót thương dịu dàng và êm ái nhất của Ta, lúc trái tim hấp hối Ta bị lưỡi thâu mở rộng ra. Phúc cho ai ẩn náu trong sự che chở của những luồng ánh sáng này, vì bàn tay công thẳng của Thiên Chúa không giáng phạt họ."
Sơ đi hỏi mẹ bề trên, và bà đã trả lời: "Con hãy vẽ Chúa đi". Nhưng vì khả năng hạn hẹp, nên dù đã cố gắng, không có bức vẽ nào đẹp.
Năm 1934, cha linh hướng Michal Sopócko của sơ liên lạc với 1 họa sĩ tên là Eugeniusz Kazimirowski ở Wilno, để vẽ lại ảnh Chúa theo sự mô tả của sơ, nhưng không được như ý lắm.
Đêm sau Chúa phán: "Giá trị của tấm ảnh này không căn cứ trên nét đẹp của màu sắc, nét vẽ, nhưng là ơn phúc của Ta. Đó là một nhắc nhở về lòng thương xót của Ta, Ta ban cho loài người con tàu để đưa họ tới nguồn suối xót thương và múc lấy mọi ơn phúc. Con tàu đó là tấm ảnh này."
Sau khi người nữ tu Maria Faustina qua đời ngày 05/10/1938, hương thơm thánh thiện của sơ lan tỏa nhiều nơi cùng với sự phổ biến rộng rãi việc thực hành lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa. Ngoài ra, nhiều người đã được những ơn lành Thiên Chúa ban cho qua lời cầu bầu của sơ Maria Faustina.
Tuy nhiên, tiến trình dẫn đến việc phong thánh cho nữ tu Maria Kowalska gặp phải nhiều thử thách. Mặc dầu tại Ba Lan nhiều tín hữu rất sùng mộ và học hỏi sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa được ghi lại trong nhật ký của sơ, Toà Thánh đã từng lên án cuốn sách này là "lạc đạo" vào năm 1959. Ðiều đó cũng dễ hiểu bởi vì Toà Thánh Roma nhận được một bản dịch nhật ký từ tiếng Ba Lan và được viết từ một người mới học hết lớp 3 (nữ tu Faustina là một người ít học nên nhật ký của sơ hầu như chẳng có ghi dấu chấm phết gì cả).
Khi Ðức Cha Karol Wojtila (Ðức Gioan Phaolô II tương lai) trở thành Tổng Giám mục Krakow năm 1964, ngài đứng trước một tình trạng tế nhị. Dầu sao đi nữa, ngài rất quen thuộc với sứ điệp nữ tu Faustina phổ biến vì lúc còn là chủng sinh "chui" trong thời Ðệ Nhị Thế chiến khi Ðức Quốc Xã cai trị Ba Lan, ngài đã thường xuyên viếng thăm Ðền Lòng Thương Xót Chúa ở đồi Lagiewniki, Krakow, nơi nữ tu Faustina từng cư ngụ và qua đời.
Ðức Tổng Giám mục Karol Wojtila cho điều tra sự việc và sau đó cho dịch lại một bản mới nhật ký của sơ Faustina để gửi cho Toà Thánh. Nhờ đó, vào năm 1978 Toà Thánh đã rút lại lệnh cấm cuốn nhật ký của Faustina, chỉ sáu tháng trước khi Ðức Tổng Giám mục Karol được bầu làm Giáo hoàng.
Ngày 18/04/1993, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong Chân phước cho Nữ tu Faustina Kowalska sau khi một người phụ nữ tên Maureen Digan được chữa lành khỏi một bệnh di truyền về máu nhờ lời cầu bầu của nữ tu Faustina. Và cuộc phong thánh vào ngày 30/04/2000 với rất nhiều người tham dự là kết quả của một phép lạ chữa lành cha Ronald P. Pytel (Baltimore, Hoa Kỳ) khỏi bệnh tim.
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi Thánh nữ Maria Faustina là "món quà của Thiên Chúa ban cho thời đại chúng ta".
Trong bài giảng của buổi lễ phong thánh, Ðức Thánh Cha nói: "Tương lai của nhân loại trên mặt đất này sẽ ra sao? Chúng ta không được biết. Tuy nhiên, con người có thêm tiến bộ thì không may cũng không thiếu kinh nghiệm đớn đau. Nhưng ánh sáng của lòng thương xót Chúa. sẽ chiếu sáng đường đi cho con người trong thiên niên kỷ thứ ba. Ðức Thánh Cha cũng đã chính thức công bố từ nay về sau Chúa nhật II Phục sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.
Trong bài giảng, Ðức Thánh Cha cho rằng chỉ khi nào con người cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại thì con người mới có thể "nhìn vào anh chị em của mình với đôi mắt mới, với thái độ vị tha và liên đới, đại lượng và tha thứ".
Việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa hiện nay được phổ biến trong nhiều quốc gia khắp thế giới qua sự cổ võ hoạt động của khoảng 2 triệu thành viên trong tổ chức "Tông đồ Lòng Thương Xót Chúa" gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Quyển nhật kí của sơ Maria Faustina sau này được biên tập và xuất bản lại dưới tựa đề: Divine Mercy in My Soul: The Diary of St. Faustina.
Vào năm 1943, một họa sĩ tên là Adolf Hyla đã vẽ lại bức tranh Lòng Thương Xót Chúa, và đây là bức tranh chính thức thứ hai (được treo trên mộ của Thánh nữ Maria Faustina trong tu viện Our Lady of Mercy ở Cracow-Lagiewniki, ba Lan), sau bức đầu tiên của họa sĩ Eugeniusz Kazimirowsk, bức này được lan truyền và sao chép lại khá giống với các bức hình mà ta thấy ngày nay. Ngoài ra, người ta còn cho rằng bức vẽ thứ ba cũng khá phổ biến là của họa sĩ người Mỹ - Robert Skemp, vẽ Chúa đứng trước một cánh cửa hình vòm.
nguồn: banthothienchua.com
Những tâm tình sau "Khóa Tập Huấn Xây Dựng Năng Lực Cho Nhóm Tự Lực Và Biện Hộ"
- Viết bởi thành viên nhóm tự lực
“Tôi nghĩ tôi là người có H thì không phải là dấu chấm hết. Vì bản thân mỗi người trong tư thế sẳn sàng về với Chúa, thì hãy cứ sống vui, sống khỏe, sống có ích cho bản thân và cho mọi người để đón nhận niềm vui mỗi ngày. Đừng bao giờ đặt dấu chấm hết cho người còn sống. Tôi cho rằng: tôi là người có H may mắn nhất, từ khi có H tôi càng có mục tiêu rõ ràng hơn trong cuộc sống . Tôi đón nhận nhiều tình yêu và hạnh phúc. Tôi gặp được rất nhiều bạn tốt, đó là tài sản quý giá vì một người bạn tốt là một tài sản lớn. Tôi muốn tôi là một cơn gió mát cho cuộc đời.” - Chia sẻ của thành viên nhóm tự lực
***
Nó được tham gia khóa tập huấn “Xây dựng năng lực cho nhóm tự lực và biện hộ” do Caritas Việt Nam tổ chưc cho 3 Giáo tỉnh: Hà Nội, Huế, Sài Gòn từ ngày 10/3 và kết thúc ngày 12/3/2015. Khóa tập huấn đã thành công tốt đẹp, mở ra thêm nhiều bàn tay nối kết để cùng phục vụ những đối tượng yếu thế nhất trong xã hội.
Ngày cuối cùng của khóa học đã để lại trong nó nhiều khoảnh khắc thân thương, thật sự là một gia đình của những người con cùng một Cha trên trời. Tình gia đình đong đầy và đẹp đến nỗi cô giáo, dù không phải là Công Giáo nhưng rất cảm phục và kính trọng. Cô nói: “Lần đầu tiên tôi được dạy cho một lớp học có nhiêu quý Cha, quý Soeurs, các anh chị nhân viên, anh chị em có H - những con người dễ mến này đã để lại trong tôi nhiều ấn tương hết sức tốt đẹp. Những chia sẻ của quý vị đã cho tôi thật nhiều bài học. Tôi đã học từ quý vị rất nhiều.”
Riêng nó, khóa học còn cho nó cơ hội được lắng nghe nhiều kinh nghiệm làm việc từ các giáo phận trong việc chiến đấu với căn bệnh HIV cũng như cách làm việc, chăm sóc và tiếp cận với những anh chị em có H. Đặc biệt những chia sẻ từ “người trong cuộc” đã làm cho nó thật hổ thẹn vì nó vẫn chưa làm được gì cho họ, cho những người yếu thế.
Cũng có lần nó rơi nước mắt khi đọc dòng chia sẻ của một bạn gái có HIV đang sống tại Bến Tre. Nó cảm thấy người bình thường như nó vẫn chưa hiểu gì về những anh chị em yếu thế kia, nó cẩn phải mở trái tim ra nhiều hơn nữa, một trái tim biết lắng nghe.
Buổi chiều mát dịu, trên đường chạy xe về ngôi nhà thân thương, nó nói nhỏ lời cám ơn Giê su vì đã ban cho nó có ba ngày được sáng mắt, sáng lòng.
Nó cám ơn Phòng Dự án Caritas Việt Nam, đặc biệt là Sr Maria Kim Loan luôn luôn vất vả lo toan cho mọi người mỗi khi tổ chức các khóa tập huấn. Nó biết ơn Văn phòng Caritas giáo phận đã cho phép và tạo điều kiện để nó học tập tốt, dù thời gian nó đang học, ở văn phòng biết bao việc cần làm, cần chuẩn bị cho “trận đánh” lớn. Nó hiệp thông và xin Chúa chúc lành cho sự thành công của chương trình Nhịp Cầu Caritas 2 mà Caritas Sài Gòn đang bước vào giờ G. Vì lòng yêu mến tha nhân và người nghèo khổ, xin Chúa chúc lành cho cả chúng con.
Nó cũng dâng đời sống của những anh chị em có H mà nó đã sống cùng 3 ngày lên Thánh Tâm yêu thương Chúa. xin Người nâng đỡ, đồng hành và ban cho các anh chị thêm nhiều nghị lực hơn nữa.
Nó cũng cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho Hội đồng Giám Mục Việt Nam đề ra những đường hướng mục vụ cụ thể để những đối tượng bị xã hội bỏ rơi được hưởng nhờ từ một “Giáo hội sống vì người nghèo và cho người nghèo”.
Nguồn: Caritas VN
Lễ ra mùa
- Viết bởi Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Trong ngôn ngữ bình dân tại một số địa phương miền Bắc, lễ Phục Sinh được gọi là “Lễ Ra Mùa”. “Ra mùa” có nghĩa là kết thúc Mùa Chay. Bởi lẽ, thứ Tư lễ Tro là lúc “vào mùa”, nên có ngày ra mùa là vậy.
Khí hậu miền Bắc cũng rất phù hợp với Mùa Chay. Khi Mùa Chay bắt đầu thì cũng là lúc bước vào tiết Xuân. Mưa phùn ẩm ướt tạo bầu không khí trầm buồn bi ai. Đây là cũng là thời điểm mà độ ẩm trong không khí cao nhất, có những khi lên tới 100%. Tiết trời u ám, ẩm ướt và mưa phùn dường như làm cho ta dễ suy ngắm sự thương khó của Chúa hơn. Vì Mùa Chay gắn liền với thời tiết ẩm, nên những người lương dân thường hỏi bà con công giáo: Bao giờ lễ Ra Mùa. Vì hễ đến lễ Phục Sinh thì trời bừng sáng và kết thúc thời gian khí hậu ẩm ướt. Nhiều nơi còn nói: chỉ khi nào “Ông cầm cờ” đi ra (ý nói kiệu rước tượng Chúa Phục Sinh, tay cầm cờ chiến thắng), thì ánh nắng mới bừng lên được. Cùng với niềm vui Phục Sinh, trời đất cũng đổi thay, ánh nắng bừng lên và mưa rào xuất hiện. Khi có mưa rào, cây cối như bừng tỉnh, không khí trong lành và đường phố nhà cửa như vừa được thanh tẩy hết mọi bụi bặm tích lũy trong suốt thời gian ẩm thấp. Lễ Ra Mùa cũng báo hiệu mùa hè đã sang.
Lễ Ra Mùa thường trùng với tiết Thanh Minh, có khi sớm hay muộn hơn một hai ngày. Đây là lúc tiết trời trong sáng, mặt trời bừng lên sau những ngày ảm đạm. Ngày Thanh Minh cũng được gọi là “Tết Thanh Minh” nên nhiều nơi còn tục lệ hội họp để ăn uống. Tùy điều kiện kinh tế, người ta tổ chức những buổi gặp mặt, thường là giữa các bạn bè với nhau. Nếu những người lương dân mừng “Tết Thanh Minh” vì mặt trời đã trở lại và làm cho vũ trụ tươi sáng, thì những người công giáo cũng hân hoan mừng Đấng Phục Sinh, là Ánh Sáng soi sáng trần gian. Thanh Minh cũng là dịp anh chị em lương dân đi tảo mộ, tức là sửa sang phần mộ của những người thân. Đây cũng là điều trùng hợp thú vị giữa Đức Tin Kitô giáo và những người theo đạo Ông Bà. Trong Tuần Thánh, các tín hữu suy tư về ngôi mộ của Chúa. Nhiều nơi còn làm những hang đá giả, tượng trưng cho ngôi mộ của Chúa ngày xưa. Trong đêm thứ Sáu và trọn ngày thứ Bảy Tuần Thánh, từng đoàn người lặng lẽ đến viếng mộ để suy niệm về sự chết của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chiến thắng thần chết để bước ra khỏi mộ vinh quang. Qua sự phục sinh, Người khẳng định rằng Người là Đấng có quyền trên sự sống và sự chết. Người còn có quyền ban sự sống cho con người, vì “nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”. Ánh sáng phục sinh tỏa ra từ nấm mộ của Chúa không chỉ là ánh sáng chói lọi của mặt trời khi khởi đầu mùa hè, nhưng là ánh sáng thiêng liêng vĩnh cửu chiếu soi con người và giúp họ tìm được nẻo chính đường ngay.
Lễ Ra Mùa nhắc người tín hữu hãy cùng Chúa Giêsu bước ra khỏi mộ. Đức Giêsu sống lại mời gọi chúng ta hãy cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Vì thế mà trong đêm Vọng Phục Sinh, Giáo Hội cử hành phụng vụ phép Rửa, vừa nhắc nhớ các tín hữu bí tích Thanh Tẩy họ đã nhận lãnh, vừa khuyên họ tước bỏ những gì không xứng đáng với danh hiệu làm con Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Dòng nước tái sinh vừa dìm chúng ta trong sự chết của Chúa, vừa giúp ta gột bỏ bụi trần, để thực sự trở nên con người mới. “Ông cầm cờ” đã chiến thắng tội lỗi và chiến thắng thế gian. Người là vị thủ lãnh đi trước dẫn chúng ta đến với Chúa Cha là nguồn mạnh của hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu.
Lễ Ra Mùa cũng nhắc cho mọi tín hữu bước ra khỏi sự ích kỷ của mình để đến với tha nhân. Bước ra khỏi bầu khí sám hối của Mùa Chay để sống trong niềm vui của Tin Mừng. Đi ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, đồng thời mang đến cho họ sứ điệp của Chúa. Thật vậy, mỗi khi chúng ta cử hành hy tế Thánh Thể, là chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, đồng thời mong đợi Người lại đến.
(Nguồn: WHĐ)
Chuỗi hạt Mân Côi mất cây Thánh Giá
- Viết bởi FB Suong Quynh
VRNs (06.4.2015) – FB Suong Quynh – Tôi đi thăm cha cùng chị, cha lắng nghe mọi lời tâm sự. Nghe chị kể về cuộc đời chị cha ứa nước mắt. Nhìn cha khóc tôi vừa ngỡ ngàng vừa bối rối, bởi con người đó trong mắt tôi kiên cường lắm, cứng cỏi lắm. Trong mọi sự việc cha thật sáng suốt và luôn khuyên tôi những lời khuyên rất chí tình, cha khuyên tôi đừng bám chấp điều gì, hãy yêu thương và thứ tha. Tôi là người cũng mau nước mắt, nhưng nhìn cha khóc tự nhiên tôi lại thấy trong tâm “mỉm cười”, tôi vui vì tôi đã không lầm khi xin cha làm cha đỡ đầu cho tôi, tôi vui vì hiểu cha hơn. Tôi hiểu chỉ khi cha thấu hiểu nỗi đau của nhân thế, chia sẻ và yêu thương bằng cả tâm hồn mình thì cha mới có thể rao giảng Tin Mừng bằng cả sự tôn kính và yêu thương được. Chỉ khi sự yêu thương và thứ tha thực sự ngự trong tâm hồn con người thì sự tuyên xưng Đức Tin mới tinh tuyền và mạnh mẽ. Nước mắt của Cha đó chính là Tinh Thần Kitô, đó là sự yêu thương, cảm thông , chia sẻ và đó cũng chính là thánh ý Chúa. Đạo Kitô chính là đạo của YÊU THƯƠNG
Cha kể những câu chuyện về những người bị bệnh siđa tại bệnh viện Nhân Ái. Họ tuy mắc căn bệnh hiểm nghèo và đối diện trước cái chết báo trước, nhưng họ có Đức Tin tuyệt đối vào Chúa. Do đó, dù bệnh tật, dù thể xác lở loét, dù đớn đau tận cùng, nhưng khi giây phút lìa cõi trần gian này hầu như đều ra đi thật thanh thản, thanh thản đến độ ngạc nhiên, đến độ kẻ đang sống sờ sờ cũng phải cảm thấy ghanh tị. Cha kể: có một cậu, dù nằm trên giường bệnh nhưng mặt vẫn cười tươi roi rói khi cha đến thăm, cậu nói với cha: “Chúa sẽ làm con đi được cha ạ” với bộ mặt ngời lên một lòng tin tuyệt đối. Mặc dù như cha nói “xương của cậu ta bị giòn tan, chỉ cần một tác động hơi mạnh có thể bị gẫy”. Nhưng lòng tin vào Đức Chúa ngời ngợi trong ánh mắt đã làm cho cậu bé đó có nụ cười hồn nhiên, tin tưởng đến tuyệt đối đến như thế, phó thác tất cả cho Ngài đến như thế. Cha kể về nụ cười của cậu bé, nhưng nước mắt cha lại rơi xuống, giọng cha nghẹn lại.
Cha tặng chị và tôi mỗi người một chuỗi hạt Mân Côi và dạy cách đọc kinh. Tôi xin cha: con thích chuỗi hạt mầu đen cơ. Cha nói: Chuỗi này do bà sơ ở trại siđa cho cha đó, trong tối nó phát quang. Tôi nhận chuỗi hạt từ tay cha và cất vào túi. Nhưng cũng không biết thế nào cha lại vào phòng lấy ra chuỗi hạt vòng tay màu nâu đưa tặng tôi và cũng đưa cho tôi xem một chuỗi Mân Côi bằng thuỷ tinh màu xanh cô bạn, nhưng chuỗi này lại bị mất cây Thập Giá. Cha kể: “Chuỗi hạt này của một cậu cũng bị mắc bệnh siđa, khi nó chết các sơ dọn dẹp và nhặt được và đưa lại cho cha, không hiểu sao nó lại mất cây Thánh Giá”. Tôi cầm lấy, xin cha cho mình và đeo vào cổ, tôi còn bỏ vô trong áo để sát với da thịt mình hơn. Cha hỏi: Sao chuỗi cha tặng con cất, mà chuỗi này con lại đeo ngay? Cha đùa: Không sợ bọ lây si đa sao ? Tôi cười: Chuỗi hạt Cha tặng đó là kỷ vật con rất trân trọng, con sẽ treo lên đầu giường con. Còn chuỗi hạt này con sẽ dùng thường xuyên để cầu nguyện vì con cảm nhận một linh hồn đớn đau đã từng lẫn chuột hạt này và tin tưởng vào lòng yêu thương của Chúa. Cha nhìn tôi hơi ngỡ ngàng trong một giây, nhưng ngay lập tức cha hiểu, người cười và gật đầu.
Vâng ! Từ đó đến nay mỗi Chúa Nhật đi lễ, tôi đều đeo trên cổ mình chuỗi hạt Mân Côi mất Thánh Giá nay và luôn thầm nói với con người mà tôi chưa từng biết, cậu thanh niên đã mất vì căn bệnh si đa đó : “Chị đưa em cùng đi xem lễ cùng với chị đây”. Tôi tin ở trên cao đó linh hồn cậu thanh niên sẽ mừng vui. Thực ra, trong tôi luôn thắc mắc tại sao chuỗi Mân Côi lại bị mất Thánh Giá ? Bởi với Đức Tin như em, chắc chắn chuỗi hạt Mân Côi này được em nâng niu và cẩn trọng đến mức nào. Phải chăng em đã không muốn ai đó phải mang vác cây Thánh Giá của em, phải chăng em đã không muốn ai đó chịu khổ nạn như em? nên em đã dựt đứt nó mang theo mình khi về với Thiên Chúa. Và mỗi lần đi lễ, tôi dâng lên Đức Chúa Toàn Năng lời nguyện cầu: Lạy Chúa, con không xin Chúa ở bên con, nhưng con xin Chúa hãy ban cho những linh hồn đớn đau ở dưới thế này, con cầu khẩn Ngài hãy cho họ tình yêu thương của Ngài. Tôi tin với tình yêu bao la của Ngài, Ngài vẫn- sẽ đem YÊU THƯƠNG VÀ THỨ THA cho tất cả các linh hồn mà Ngài đã sắp đặt dưới thế.
Hôm nay ngày 4.4.2015, trong đêm Vọng Phục Sinh chúng tôi đã nhận bí tích Thánh Tẩy trở thành con cái của Thiên Chúa. Sương Quỳnh với tên thánh: Têrêsa Avila và chị Ánh Hồng với tên thánh: Rosa Lima. Hai tên Thánh này chúng tôi vinh hạnh được linh mục Giuse Đặng Chí San chọn đặt và chính ngài là cha đỡ đầu của chúng tôi.
Cảm ơn tất cả các bạn đã tới dự Đại Lễ Phục Sinh và chia sẻ với chúng tôi.
Nguon: DCCT
Chứng từ của chỗi dậy
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thiên Thần canh mộ Chúa nói : „Ngài đã chỗi dậy từ cõi chết. Ngài không còn ở đây nữa.“ (Mc 16,6).
Hằng năm vào mùa mừng lễ Chúa sống lại, cây nến Chúa Giêsu phục sinh cao to lớn hơn mọi cây nến trong thánh đường được dựng thắp sáng trên cung thánh. Cây nến này là hình ảnh biểu tượng cho ánh sáng Chúa Giêsu Kito đã chỗi dậy sống lại.
Chỗi dậy sống lại là một biến cố không chỉ lạ lùng, mà nó vượt ra ngoài mọi biên giới của trí tưởng của trí khôn suy hiểu con người chúng ta. Như ánh sáng cây nến Chúa phục sinh lan toả ra, cũng thế sức sống mới từ Chúa Kitô phục sinh cũng lan tỏa ra như vậy.
Chúa Giêsu chỗi dậy sống lại không là một biến cố thuộc về qúa khứ. Nhưng vẫn còn tiếp tục kéo dài vào hiện tại, sát gần gũi với đời sống con người, và có thể cùng muốn điều gì xảy đến với con người chúng ta nữa.
Trong dòng lịch sử đời sống Giáo hội xưa nay có rất nhiều những khuôn mặt đã sống trải qua là nhân chứng cho chỗi dậy sống lại, mà Chúa Kitô phục sinh đã lan toả sức sống mới của Ngài sang đến cho họ.
1. Maria Magdalena
Vị Thánh nữ này có đời sống sôi nổi lên xuống rất hấp dẫn khác thường.
Phúc âm Thánh Luca thuật lại, Maria Magdalena được Chúa chữa lành giải thoát khỏi bảy qủi dữ (Lc 8,1-3).
Rồi từ đó có lẽ chị ta đã theo Chúa trở thành mên đệ trung tín của Chúa Giêsu cho tới giờ phút cuối cùng của Chúa trên trần gian. (Mc 15,41)
Maria Magdalena là nhân chứng cùng với đức mẹ Maria theo dõi cuộc khổ nạn thương khó của Chúa Giêsu, đứng dưới chân thập gía Chúa tới khi Chúa chết, rồi cùng tham dự tích cực vào cuộc an táng Chúa Giêsu. (Mc 15,40…Mt 27,55…Lc 23,49.., Ga 19,25…),
Và sau cùng là người đầu tiên đã được nghe Thiên Thần báo tin Chúa Giêsu đã sống lại, rồi được gặp nhìn Chúa Giêsu Kito sống lại. (Mc 16,1, Mt 27,61).
Maria Magdalena là nhân chứng tận mắt nhìn vào ngôi mộ chôn Chúa Giêsu trống không còn xác Người nữa.Vì Người đã chỗi dậy sống lại. Ga 20,1-18, Mc 16,9-11.
Theo đức Giáo Hoàng Gregor cả ( 540 in Rom; † 12. März604, là Giáo hoàng 590-604) Maria Magdalena cũng là Maria đã khóc lóc ăn năn tội lỗi mình, và lấy tóc lau chân Chúa Giêsu như trong phúc âm thuật lại (Lc 7,36-50).
Đức giáo hoàng Gregor cả còn cho rằng Maria thành Betania (Lc 10,39), em của Martha và chị của Lazaro được Chúa Giêsu cho chỗi dậy sống lại khi đã chết, cùng là người đã xức dầu chân Chúa (Ga 12,1-11) cũng là Maria Magdalena.
Cũng còn có ý kiến nghĩ rằng người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt đưa đến trước mặt Chúa Giêsu ở sân đền thờ Giêrusalem, và theo luật pháp bị xử ném đá, đã được Chúa Giêsu cứu khỏi bị xử ném đá (Ga 7,53-8,11.), cũng được cho là chính Maria Magdalena.
Dù đời sống Magadalena thế nào đi chăng nữa, Chúa Giêsu đã cho vị Thánh nữ này chỗi dậy, và có được kinh nghiệm cùng cảm nghiệm bản thân thế nào là chỗi dậy sống lại.
2. Saulus
Trên đường đi Damaskus Chúa Kitô sống lại đã hiện ra gặp Saulus. Ngài để cho ông ngã ngựa, và cho ông biết Ngài chính là Chúa Kitô đã chỗi dậy, mà ông đang đi truy lùng những tín hữu của Ngài.
Từ đó Saulus chỗi dậy được cải tên trở thành Phaolo nhận ra Chúa Kitô đã vượt qua sự chết và đã chỗi dậy sống lại. Ông đã xuay hướng thay đổi đời sống, và trở thành nhà truyền giáo can đảm nhiệt thành nhất đi rao giảng làm nhân chứng cho tin mừng Chúa Giêsu Kito đã chỗi dậy sống lại.
Kinh Thánh thuật lại về Ông: 22 "Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó,23 trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi.24 Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.“ (Cv 20, 22-24).
Thánh Phaolo đã được Chúa Giêsu Kitô, đấng đã chỗi dậy, làm cho ông cũng được chỗi dậy, sống làm chứng cho sự chỗi dậy của Chúa Kitô.
3. Phanxico thành Assi
Lúc đạt tới 23 tuổi Phanxico đã quay lại lưng lại không gia nhập đội ngũ phục vụ vị lãnh chúa đi chiến đấu trong chiến tranh nữa. Vì Phanxico nhận ra rằng chỉ có một vị Chúa thật, Người sống vượt trên mọi thiên nhiên. Chúa đó là Chúa Kitô đã chỗi dậy sống lại.
Một hôm đang khi múa nhảy ca hát ngoài đường phố, bỗng nhiên Phanxico đứng khựng lại. Ông cảm thấy cô đơn. Rồi một sức mạnh bừng dậy trong người ông. Sức mạnh đó là ơn gọi làm thay đổi đời ông. Theo ơn gọi đó Phanxico sống là nhân chứng cho Chúa Kito qua cung cách sống nghèo khó khiêm nhượng đến tận cùng.
Chúa Giêsu Kitô đã chổi dậy và đã cho Phanxico cũng chỗi dậy trở thành một vị Thánh thời danh trong Giáo hội.
4. Anphonsô thành Ligouri
Trong đời sống vị Thánh này, Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy đã cho phong trào đạo đức của ông chỗi dậy cách lạ lùng.
Là linh mục, Anphongsô lúc đầu đã tụ tập một ít người đồng chí hướng để cầu nguyện chung và trao đổi về đời sống cảm nghiệm đức tin. Dần dần vòng thân hữu đạo đức này lan rộng thành những những buổi hội họp ban chiều. Năm 1798 có 85 buổi với trên dưới 1.000 tham dự viên. Năm 1834 lên tới 100 buổi với 300 tham dự viên ở mỗi buổi họp. 50 năm sau con số tham dự viên lên tới 30.000 người.
Một ý tưởng và những cảm nghiệm về đức tin đã đưa dẫn đến một nếp sống mới, mà Chúa Giêsu Kito chỗi dậy đã làm cho tâm hồn con người đông đảo tham gia tích cực phong trào đạo đức do Thánh Anphonsô đề nghị khơi lên.
4. Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta.
Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta đã có thể kể ra rất nhiều kinh nghiệm là nhân chứng về Chúa Giêsu Kitô đã chỗi dậy sống lại, mà Thánh nữ luôn hằng trong đời sống mình có liên quan chặt chẽ với.
Thân phận của những người nghèo khổ cùng đinh đã đánh động làm cho ytâm hồn Mẹ Teresa ăn ngủ không yên. Chính điều này đã trở thành ơn Gọi thứ hai cho mẹ. Mẹ viết lại: năm 1946 tôi đi đến Darjeeling để tham dự tuần cấm phòng. Trên xe lửa tôi nghe thấy tiếng gọi nói trong tâm hồn bỏ mọi sự và theo Chúa Giêsu đến vùng người dân đang sống nghèo khổ cùng đinh, để phục vụ Chúa giữa những người nghèo khổ bất hạnh nhất. Những gì xảy ra trong những năm tháng tiếp theo sau đó, sẽ trở thành không, nếu không có Đấng đã chỗi dậy sống lại.
Tiêng gọi của Đấng đã chỗi dậy làm cho mẹ Teresa chỗi dậy đi đến với người nghèo khổ bất hạnh trên trần gian.
5. Các vị truyền giáo
Các nhà truyền giáo ngày xưa đây cách ba hay bốn trăm năm từ Âu châu đã bỏ lại quê hương sau lưng bôn ba sang tận Á Châu, Phi Châu, Mỹ châu, Úc châu….
Họ đi đến những đất nước ở vùng chân trời xa lạ không phải để lập nghiệp, cũng không phải để đi tỵ nạn. Nhưng để làm công việc truyền bá tin mừng tinh thần đạo giáo cho Chúa Giêsu Kito, Đấng đã chỗi dậy sống lại.
Xưa nay chúng ta gọi họ là những vị Thừa sai. Nếu nghĩ theo kiểu chơi chữ, họ không phải là người „ thừa“ , người làm việc „sai“. Nhưng họ là những người được sai đi.
Người được sai đi phải chỗi dậy mới đi được. Chỉ có sức mạnh của Đấng đã chỗi dậy là Chúa Giêsu Kito mới thúc đẩy làm cho họ chỗi dậy bỏ quê hương xứ sở lên đường ra đi. Họ chỗi dậy ra đi chỉ có một nhiệm vụ sống làm chứng cho Chúa Giêsu Kito đã chỗi dậy sống lại.
6. Đức cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận
Trong những tù biệt giam bên Việt Nam, Đức tổng giám mục Phanxico xavie Nguyễn văn Thuận đã có được kinh nghiệm cùng cảm nghiệm của mình về làm chứng cho Chúa Kitô đã chỗi dậy sống lại thế nào với người Cộng sản“
„ Trong cuộc đời tôi, có những lúc chính hoàn cảnh thực tế đã giúp soi sáng tôi khi nghĩ tới nhiệm vụ lớn lao làm chứng tá cho Chúa Kitô.
Trong thời gian bị biệt giam, tôi được giao cho 5 người canh gác. Họ thay phiên nhau luôn luôn có hai người ở với tôi. Các cấp chỉ huy nói với họ: Cứ mỗi hai tuần chúng tôi sẽ thay thế các anh bầng một nhóm khác, để các anh không bị : tiêm nhiễm bởi ông Giám mục nguy hiểm này.“
Sau một thời gian, chính họ lại đổi quyết định:“ Chúng tôi sẽ không thay đổi các anh nữa, bởi nếu không thì ông giám mục đó sẽ tiêm nhiễm tất cả công an của chúng ta.“
Ban đầu công an canh gác không nói chuyện với tôi. Họ chỉ trả lời có hay là không.
Thật là buồn. tôi muốn tử tế và nhã nhặn với họ mà không được. Họ tránh nói chuyện với tôi.
Đêm nọ, một tư tưởng đến với tôi: „ Phanxicô, con còn giầu lắm, con còn tình yêu Chúa Kitô trong tim, hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu thương con.“
Ngày hôm sau tôi bắt đầu yêu Chúa Giêsu nơi họ hơn nữa, bằng cách cười nói trao đổi với họ vài câu thân tình. Tôi bắt đầu kể cho họ nghe về những chuyến đi ngoại quốc của tôi, cho họ biết các dân tộc tại Mỹ, tại Nhật Bản, tại Phi luật Tân...sống như thế nào, và nói với họ về kinh tế, về sự tự do, về kỹ thuật.
Tôi đã kích thích tính tò mò của họ và đưa họ tới chỗ đặt rất nhiều câu hỏi. Dần dần chúng tôi trở thành bạn với nhau. Họ muốn học tiếng ngoại quốc: tiếng Pháp, tiếng Anh...và như thế những người canh tù trở thành học trò của tôi.“ Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, Các bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và Giáo triều Roma, Vatican mùa Chay 12.-18. Tháng Ba 2000. Dân Chúa xuất bản 2001 trang 100 )
Trong đêm tối cùng quẫn cô đơn, Chúa Kitô đấng chỗi dậy sống lại đã đánh thức đức Cha Thuận chỗi dậy đem tin mừng tình yêu thương cho kẻ ghét làm hại mình.
7. Những bậc cha mẹ
Có lẽ những bậc cha mẹ chúng ta là những người có kinh nghiệm cảm nghiệm nhiều, cùng sâu sắc về đời sống chỗi dậy như thế nào.
Thuở ban đầu lúc mới thành hôn lập gia đình với nhau có lẽ hai vợ chồng mới không cảm thấy sự chỗi dậy bao nhiêu cùng như thế nào. Vì đường đời sống chưa gặp thử thách. Nhưng dần theo dòng thời gian, nhất là khi có con, họ càng nhận ra điều này rõ ràng hơn, và coi chỗi dậy là nhu cầu cần thiết của đời sống.
Nhiều vợ chồng trẻ kể lại rất sung sướng hạnh phúc khi họ có người con chào đời trong gia đình.
Nhưng nhất là người cha càng dần cảm thấy bị „ stress“ nhiều. Vì phải cùng với vợ dành nhiều thời giờ có khi cả thức đêm săn sóc đứa con, những lúc nó đau ốm khóc đêm, rồi phải hy sinh nhiều cho gia đình…
Càng có thêm con trong gia đình, vui mừng đấy, nhưng vợ chồng càng có thêm „ stress“. Họ than thở nhiều khi mệt qúa không chỉ thân xác mỏi mệt, nhưng cả tinh thần cũng chùng xuống nữa. Và chỉ muốn buông xuôi. Những khi như thế hai vợ chồng an ủi nhau, khuyến khích nhau chỗi dậy tiếp tục. Vì đó là bổn phận, là đời sống của chính mình, là tương lai của con cái mình.
Rồi khi con lớn khôn, việc dậy dỗ giáo dục uốn nắn những đứa con sống nên người về học hành, nghề nghiệp, tinh thần đạo gíao, là vần đề lớn cho cha mẹ. Vấn đề lo nghĩ mà rất nhiều khi phân vân không sao tìm ra giải đáp đã làm tinh thần họ uể oải chùng xuống, như người nằm ngồi sát tận nền nhà mặt đất. Những khi như thế mà chỗi dậy được khác nào như sống lại.
Cha mẹ có đức tin Công giáo vào Chúa Giêsu Kitô đã chỗi dậy sống lại là gương mẫu thúc đẩy cho tinh thần của họ, những khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn đứng khựng lại.
Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy sống lại mang ánh sáng niềm vui phấn khởi cho con người. Theo dấu chân đó của Chúa Giêsu Kitô, cha mẹ chỗi dậy làm việc bổn phận mang niềm vui hạnh phúc cho chính mình và cho con cái mình trong đời sống.
//////////////////////////////////////
Chỗi dậy là nhu cầu cần thiết cho đời sống. Chúa Giêsu Kito là người thứ nhất đã chỗi dậy sống lại mang sự sống ơn cứu độ cho con người khỏi hình phạt tội nguyên tổ Adong Evà.
Sống theo dấu vết của Chúa Giesu chỗi dậy và loan truyền làm chứng cho Chúa Giêsu chỗi dậy sống lại là tiếp nối công việc mang ánh sáng tin mừng sự sống của Chúa giữa lòng đời sống con người trên trần gian.
Mừng lễ Chúa Giesu Kito phục sinh 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long