LỄ GIAO THỪA
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Thực Hành Bát Phúc Để Trở Nên Phúc Nhân
THÁNH LỄ GIAO THỪA NĂM 2017
(Mt 5, 1-10)
Lẽ đất trời có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa. Và đây là giây phút thiêng liêng và tuyệt đẹp, trời đất giao hòa, âm dương đan dệt vào nhau, mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, nhưng cũng có một cái gì đó níu kéo lòng ta, chúng ta đang ở vào thời khắc cũ giao lại, mới đón lấy, năm cũ sang năm mới.
Trong giờ phút huyền nhiệm này, mở ra những ngày mới, giúp con người hy vọng, cậy trông và tín thác vào Đấng tác tạo cả đất trời, Đấng ấy là Cứu Chúa của chúng ta. Không gì thích hợp bằng việc chúng ta phải làm trước tiên là hướng tâm hồn lên Chúa là nguồn mạch mọi ơn phúc, để xin Ngài giáng phúc thi ân cho mọi người, mọi nhà, hầu tất cả được sống bình an và yêu thương trong sự quan phòng của Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót và thứ tha.
Lời Thánh vịnh 133,3 mới đẹp làm sao : “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion” ( Tv 133, 3 ). Lời nguyện dưới đây lôi kéo chúng ta về với Chúa, Đấng là Alpha và Ô Mêga, là Nguyên thủy và là Cùng đích: “Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh thánh” (Lời Ca nhập lễ).
Lời Môsê ngỏ với Aaron và các con ông Aaron như sợi dây lôi kéo phúc lành và bình an của Chúa xuống cho dân : “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em ! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Chúa và Chúa sẽ chúc lành cho chúng (Ds 6n 22,27). Tác giả Thánh Vịnh nói cho chúng ta biết lý do tại sao phải hướng lòng lên Chúa và van xin Ngài : “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 120, 1-2). Nếu như khi xưa thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Thêxalônica, nay ngài cũng khuyên chúng ta : “Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh” (1Tx 5,16).
Trước thềm năm mới, mỗi người chúng ta đều mang trong mình những những tâm tư và ước muốn. Ưu tư nhìn lại quá khứ, hy vọng hướng tới tương lại. Vậy giờ đây chúng ta có những tâm tình nào, ước muốn gì, chờ đời gì và nhất là nói gì với Chúa ? Chắc chắn một điều là ai cũng xin Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, rộng ban cho một năm mới phúc lộc dồi dào, và lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Chúa.
Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau đó là chúc được bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn, mà người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.
Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, nên Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng vào Ngài. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh? Huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Lời Chúa trong Thánh lễ Giao thừa minh chứng rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).
Cứ vào giây phút linh thiêng Giao thừa năm cũ chuyển giao sang năm mới, chúng ta lại có dịp nghe đọc đoạn Tin Mừng nổi tiếng của thánh Matthêu, đầy ấn tượng và hết sức ngạc nhiên, là Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Bát Phúc mà Chúa Giêsu đã công bố núi (x. 5, 1-12).
Bước sang năm mới, ai cũng mong ước những điều tốt đẹp mới từ con người đến cả tâm tư, để sống vui và hạnh phúc. Thì đây, với đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cung cấp chúng ta một mô hình sống nếu làm theo thì sẽ trở thành những người thực sự hạnh phúc.
Phải nói thật rằng, hạnh phúc chắc chắn là mục tiêu tất cả chúng ta tìm kiếm trong cuộc sống. Nếu hỏi người khác xem họ kiếm tìm hạnh phúc cho mình như thế nào, chắc sẽ có những câu trả lời rất khác nhau. Có người cho rằng, hạnh phúc ở trong gia đình, người khác cho rằng ở sức khỏe, nghề nghiệp, nhưng người khác lại tìm kiếm hạnh phúc nơi bạn bè, vui chơi và giải trí… người tiêu sài lại tìm kiếm hạnh phúc trong việc mua bán.
Tám Mối Phúc mà Chúa Giêsu trình bày, xem ra không giống với quan niệm về hạnh phúc của con người hôm nay. Cụ thể như : Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).
Sứ điệp của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn sống khiêm nhường, khao khát công chính, quan tâm đến tha nhân. Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta về mối phúc cuối cùng : “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 10). Thánh Basil nói rằng “hạnh phúc không phải do ước muốn, giầu có, quyền lực mang lại cho con người. Những thứ đó không làm cho chúng ta hạnh phúc”.
Thiên Chúa là nguồn mọi ơn phúc, và chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, Ngài cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc đích thật nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân.
Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời ! Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tạ Ơn Và Phó Thác
SUY NIỆM THÁNH LỄ TẤT NIÊN
(Is 63 7-9, 1Cr 1, 3-9, Lc 1, 39-55)
Một năm với tháng ngày dần trôi, giờ chúng ta đang sống là thời khắc cuối cùng của năm cũ 2016, năm Bính Thân và chuẩn bị bước vào năm mới 2017, năm Đinh Dậu, giờ phút thật linh thiêng. Vào dịp tạ ơn cuối năm, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđíctô XVI giải thích như sau : “Giáo hội gợi ý rằng chúng ta không nên kết thúc năm cũ mà không bày tỏ lời cảm tạ Chúa, vì những ơn lành Ngài đã thương ban”. Quả thật, do bởi tình thương mà chúng ta được hiện hữu trên đời và mỗi giây, mỗi phút, mỗi một ngày qua đi là biết bao hồng ân của Chúa tuôn đổ trên chúng ta.
Một năm sắp kết thúc, làm chúng ta liên tưởng đến sự kết thúc cuộc hành trình nơi dương thế của mỗi người. Có khởi đầu ắt sẽ có kết thúc như sách Giảng Viên dạy, “một thời để được sinh ra và một thời để chết” (Quoleth 3: 2). Sự thật này rất đơn giản và cơ bản nhưng lại thường bị lờ đi và lãng quên. Mẹ Hội Thánh dạy chúng ta, khi kết thúc một năm và mỗi ngày, chúng ta phải tự vấn lương tâm, và nhìn lại những gì đã xảy ra để tạ ơn Chúa.
Nhân loại nói chung vừa trải qua một năm với bao nhiêu ngày ghi đậm bạo lực, chết chóc, đau thương khôn tả của bao người vô tội do bọn khủng bố nhân danh Thượng Đế gây ra cho đồng loại, những người tị nạn ở Syria, Irắc, Trung Đông... buộc lòng phải rời bỏ quê hương, những con người nam nữ và trẻ em không còn gia cư nhất định, thiếu lương thực và kế sinh nhai, biết bao công trình tôn giáo bị con người tàn phá. Việt Nam nói riêng, hỏa hoạn, lũ lụt đến bây giờ vẫn chưa chấm dứt, ấy chưa kể đến những vụ giết hại anh em đồng loại cách mạn dợ. Dầu vậy cũng có bao nhiêu cử chỉ tốt lành, yêu thương và liên đới diễn ra trong những ngày tháng của năm cũ, mà không được các bản tin tức nói tới! Không thể để cho quyền lực sự ác che khuất những dấu chỉ tình thương ấy. Sự thiện luôn chiến thắng, cho dù có lúc sự thiện xem ra yếu ớt và âm thầm. Vì thế chúng ta phải dâng lời tạ ơn Chúa.
Tạ ơn
Khi thêm một năm nữa đã đến hồi kết thúc, người kitô hữu chúng ta dựa trên Thánh Kinh thấy thời gian không mang tính tuần hoàn mà là một đường thẳng: thời gian là con đường dẫn đến chung cuộc, nên một năm trôi qua là một bước đi hướng đến sự hoàn tất của lịch sử, đến cứu cánh của nhân loại là hy vọng và vui mừng được gặp Chúa, thì việc tạ ơn này thật là ý nghĩa.
Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì tất cả những dấu chỉ hào phóng Thiên Chúa thể hiện trong lịch sử nhân loại. Một lòng biết ơn không phải là một sự nhìn lại chẳng sinh ơn ích gì hay một ký ức trống rỗng về một quá khứ được lý tưởng hóa xa vời, nhưng là một ký ức sống động, một ký ức giúp hình thành nên sự sáng tạo cá nhân và cộng đoàn khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Tạ ơn Chúa là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Thiên Chúa. Trong cuộc sống, chúng ta thường quên đi những gì là ân huệ của Chúa. Và để sống tâm tình tạ ơn và phó thác vào Thiên Chúa thật không dễ chút nào!
Đi vào tâm tình tạ ơn, chúng ta nhìn nhận rằng, tội lỗi và yếu đuối đã làm ta xa rời Thiên Chúa Tình Yêu. Dù nhận thức được những điều mình phạm mất lòng Chúa, nhưng với sức con người, chúng ta khó thoát ra vòng xoáy tội lỗi. Chỉ có Chúa mới kéo chúng ta về với Chúa.
Trong giờ phút linh thiêng này, thật là đẹp, khi giờ đây chúng ta đồng thanh hiệp ý với Mẹ Maria hát lên bài ca tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã và còn đang thể hiện trong lịch sử : Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã và còn đang biểu lộ quyền năng của Ngài... đã và còn đang làm tan rã những kẻ kiêu căng... đã và còn đang hạ xuống người quyền thế... đã và còn đang nâng dậy kẻ khiêm cung... đã và còn đang ban tràn đầy ơn lành cho người đói khát... đã và còn đang đuổi người giàu có ra về tay không... đã và còn đang cứu giúp Israel Dân Người. Ðó là bảy hành động của Thiên Chúa là Chúa của lịch sử cứu độ. Thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta rằng: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5, 16-18). Chúng ta cảm tạ Chúa về ân huệ Người đã thương ban (1Cr 1, 3-9). Cảm tạ Chúa và xin Chúa thứ tha, kèm theo lòng phó thác cho Chúa năm mới sắp tới.
Xin ơn tha thứ
Cũng vào dịp cuối năm, cùng với việc tạ ơn, Đức Thánh Cha Phanxicô còn thức tỉnh con cái mình : “Chúng ta được kêu gọi kiểm điểm xem những thế sự có được thực hiện theo ý Thiên Chúa hay là chúng ta chỉ ưu tiên lắng nghe những dự án của con người, nhiều khi đầy những tư lợi, lòng khao khát quyền lực vô độ và bạo lực vô cớ” (Bài giảng Kinh Chiều cuối năm 2015). Nên chúng ta phải tạ lỗi với Chúa và với mọi người nữa. Tạ lỗi để nói lên lòng sám hối, ăn năn. Tạ lỗi về những điều thiếu sót, điều gì chưa chu toàn, điều gì chưa tốt, hoặc lỗi bác ái với tha nhân, hay chưa biết thương xót người như Chúa đã thương xót chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm trong năm qua. Tương lai tùy thuộc ở Chúa, chúng ta phải có tinh thần phó thác.
Sống phó thác
Nhìn lại một năm đã qua, chúng ta thấy các biến cố lần lượt diễn ra : các thảm kịch về tai nạn hàng không, những vụ khủng bố người giết người giã man hơn, niềm vui và đau khổ, chiến thắng và thất bại, đạo đức con người như đang bị suy giảm tới mức báo động trong các ngành nghề. Nhìn qua mọi sự, đến giờ phút này đây, chúng ta phải khẳng định rằng, Thiên Chúa là chủ lịch sử, Ngài hướng dẫn các biến cố nhân loại, đồng thời phó thác vận mệnh tương lai cho Chúa và thưa rằng: Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con được làm người, được làm con Chúa thêm một năm nữa. Xin cho đời chúng con trở thành bài ca tạ ơn Chúa bằng tâm tình sống biết ơn mọi người đang yêu thương giúp đỡ chúng con để danh Chúa được toả sáng. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Phó Thác Cho Chúa Tương Lai Đời Ta
SUY NIỆM LỄ MỒNG MỘT TẾT NĂM 2017
(Mt 6, 25-34)
Chúng ta vừa bước sang năm mới, năm Đinh Dậu, năm con gà. Con gà, đặc biệt là gà trống hiện diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Là vật nuôi từ được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại. Từ thời cổ đại, gà đã là một loài vật linh thiêng trong một số nền văn hóa và gắn chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật (vật hiến tế hay vật tế thần). Gà có vai trò quan trọng trong đời sống người dân, ở vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người ở những vùng quê êm ả. Trong văn hóa phương Đông, gà là một trong 12 con giáp với biểu tượng Dậu và cũng nằm trong lục súc.
Trong nhà đạo, có lắm chuyện về con gà, từ chuyện vui đến chuyện thật. Chúng ta cùng mở Kinh Thánh để tìm chuyện con gà, hầu có thể đem ra suy gẫm nhân ngày đầu năm mới. Nếu có gà trống nghêng ngang như sách Gióp mô tả :
“Ai làm cho cò lửa khôn ngoan,
Ai ban trí tuệ cho gà trống?” (Gióp 38,36),
Thì cũng có gà mái hiền lành luôn chăm sóc cho đàn con thơ bé. Mở Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta tìm thấy hình ảnh đàn gà mẹ con ấy được Chúa Giêsu sánh ví như là tình thương của Chúa đối với loài người : “Đã bao lần ta muốn tập họp các ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh” (Mt 23,37; Lc 13,3).
Nếu tiếng gà gáy biểu hiện một sự kêu gọi tỉnh thức trong cuộc sống thường ngày, cụ thể tại các nước Á Đông như Việt Nam, tiếng gáy của gà trống như báo hiệu nhiều may mắn và tốt đẹp cho ngày mới, thì tiếng gà làm ông Phêrô giật mình bừng tỉnh, nhớ lại lời Đức Giêsu nói tối hôm qua: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần” (x. Mt 26, 75; Mc 14, 30; Lc 22,61). Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Kể từ đó, ông Phêrô đã thống hối liên lỉ như Ngắm Đứng đã mô tả: “Lọn đời đến sớm mai gà gáy, nhớ đến tội xưa liền khóc lóc”.
Vào thế kỷ VI, Đức Giáo hoàng Grêgôriô I tuyên bố gà trống là biểu tượng của Kitô giáo. Vì thế, nhiều nhà thờ bên Âu Châu có đặt hình một con gà trống ở trên nóc. Tại Việt Nam, nhà thờ chính toà Đà Lạt cũng được gọi là “nhà thờ con gà”.
Ở các nước châu Á, con gà gắn liền với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật. Ở Việt Nam, gà là một dấu tích của văn minh nông nghiệp, thường được nhắc đến trong sách báo, hình ảnh con gà cục tác lá chanh là những nét chấm phá về một làng quê an bình với những triết lý sống nhân bản, thiên nhiên. Những nhà nho xưa cho rằng gà trống có đủ ngũ đức, gồm cả văn, vũ, nhân, trí và dũng:
Mào gà là mũ quan văn,
Cựa gà: võ khí của quan vũ tài.
Gà trống có cái dũng oai,
Xông vào địch thù đá hoài không ngơi.
Chữ nhân: khi kiếm được mồi,
Nhắc lên gà trống kêu mời mái ăn.
Chữ trí: gà biết đêm tàn,
Gáy vang báo thức cả làng tỉnh mơ.
Vì đủ ngũ đức như vậy nên gà trống có được cái oai phong lẫm liệt, uy dũng của một tổng tư lệnh điều binh khiển tướng. Sách Cách Ngôn đã tả cái dáng đường bệ của gà trống như một ông vua xuất chinh dẹp loạn.
Thôi thì cho dù năm Khỉ, Heo, Mèo, Gà thì cả tháng nay, mọi người đã sắm Tết, ăn Tết rồi. Hôm nay ngày đầu năm mới, ai cũng có cảm tưởng là có cái gì đó mơi mới, nên dùng chữ năm mới. Năm mới mọi cái đều phải mới.
Từ mấy hôm nay, chúng ta đã đi chúc tết nhau, và sẽ còn chúc tết nhau nữa. Thường người dướt tết người trên : con cháu tết ông bà cha mẹ, em tết anh chị, công nhân viên tết thủ trưởng, kèm theo món quà, tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo. Ngoài bánh chưng bánh tét, hoa đào, hoa mai… có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Muốn lời chúc của chúng ta trở thành hiện thực, hãy đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, bởi tất cả mọi sự đều do Chúa như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 36, 5).
Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí là dâng những giây phút đầu năm cho Thiên Chúa. Người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới. Lời nguyện nhập lễ chúng ta xin :" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài" (Tv 66, 2-3). Chúa mới chính là gia nghiệp, là cùng đích mà con người cần phải kiếm tìm và đó cũng chính là sự tồn tại của con người.
“Các con chớ áy náy về ngày mai” (Mt 6,34). Chúa luôn muốn mọi người nghĩ đến hạnh phúc mai hậu của sống mình. Tương lai mỗi người đều nằm trong tay Thiên Chúa. Với tình thương và lòng nhân hậu của Ngài, chúng ta luôn tin tưởng và phó thác, bởi Ngài là người Cha luôn muốn những điều tốt nhất cho con cái. Lo lắng, bận rộn, tất bật làm việc để tích luỹ và để bảo đảm cho tương lai… tất cả đều tốt và cần thiết, nhưng cũng nên nhớ một điều “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”. Hãy làm tốt bao nhiêu có thể, những bổn phận và trách nhiệm của mình, phần còn lại hãy phó thác trong tay quan phòng của Thiên Chúa. Ngài sẽ hoàn tất những gì còn lại.
Kinh Thánh còn có những câu khác nói đến con gà trong năm mới Đinh Dậu. Nhưng thiết nghĩ trưng ra mấy câu trên cũng đủ chứng tỏ con vật cầm tinh trong năm Dậu cũng đã được Thánh Kinh nhắc đến.
Kính chúc mọi người một năm mới con gà đầy tràn ngũ đức: văn, vũ, nhân, trí, dũng, những đức tính mà các cụ xưa đã ca tụng con gà trống. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Người Công Giáo VN làm gì trong những ngày Tết?
- Viết bởi Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Người Công Giáo Việt Nam làm gì trong những ngày Tết?
Tết là khoảng thời gian đặc biệt mà người công giáo Việt Nam muốn dành cho Thiên Chúa, cho gia đình và cho tha nhân. Ngoài những phong tục truyền thống của ngày tết như chúc tết, xông đất, mừng tuổi hay mâm cỗ, người Công giáo không quên Thiên Chúa luôn là mùa xuân của mỗi người. Bởi đó, ta thấy những thánh lễ, buổi nguyện cầu thật thiêng liêng đầm ấm của người Công giáo nơi giáo đường, trong gia đình, và trong từng lời chúc.
Đã từ lâu, đêm giao thừa luôn là đêm thánh thiêng của mọi người. Cách riêng, người Công giáo thường tham dự thánh lễ nửa đêm: Lễ giao thừa. Họ tề tựu nơi nhà thờ để cùng nhau cầu nguyện và tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa đã luôn yêu thương và chăm sóc cho mỗi người trong năm tháng vừa qua; đồng thời ai ai cũng ước nguyện cho mình và gia đình sẵn sàng bước sang năm mới với nhiều hạnh phúc bình an. Sau thánh lễ đêm giao thừa, mỗi gia đình trở về nhà mình để chia sẻ những câu chuyện cuối năm. Họ muốn ngồi lại bên Chúa và cùng nhau hàn huyên tâm sự những gì đã xảy ra trong năm qua, nói lên những ước vọng trong năm mới. Và do đó, đêm cuối năm bao giờ cũng thật ấm cúng dành cho mỗi người khi họ cùng với Thiên Chúa đón thời khắc giao thừa.
Ngày quan trọng nhất của mùa xuân bao giờ cũng là Mùng Một Tết. Bầu không khí trong lành, tiếng chim hót líu lo, và muôn hoa khoe sắc khiến lòng người rộn ràng thêm vui trong ngày đầu năm. Chúc mừng năm mới! Sáng mùng một tết, người công giáo dành thánh lễ đầu năm để chúc tụng Thiên Chúa. Họ ý thức Thiên Chúa luôn làm chủ thời gian, làm chủ cuộc đời mỗi người. Trong thánh lễ sáng nay, mỗi người tạ ơn Chúa thương ban thêm một năm mới an lành; đồng thời ai cũng cầu xin Chúa ban cho bản thân, gia đình và mọi người được mạnh khỏe, hạnh phúc và bình an. Họ ước sao càng thêm tuổi càng thêm nhân đức, và sống làm sao trong năm mới này cho Danh Thiên Chúa được cả sáng hơn.
Ngoài ra, thời gian thánh thiêng nơi giáo đường sáng nay cũng để mọi người hái Lộc Xuân. Đó là những câu lời Chúa hướng dẫn họ sống một năm mới tròn đầy. Trong ngày đầu xuân, người người cùng chúc cho nhau muôn vàn ân phúc, nguyện mong Thiên Chúa luôn là mùa xuân của mỗi người.
Ngày Mồng Hai Tết là thời gian đặc biệt để cháu con báo hiếu với ông bà cha mẹ, với tiền nhân. Trong thánh lễ Mùng Hai này, họ cầu nguyện đặc biệt cho ông bà, cha mẹ và tổ tiên của họ. Là người con hiếu thảo, họ xin Chúa trả công bội hậu cho những đấng bậc đã sinh thành dưỡng dục họ. Con cháu ước mong cha mẹ, ông bà sống lâu bên con cháu, nên những bóng mát cho con cháu nương nhờ. Đặc biệt mỗi người con, người cháu xin Chúa cho mình sống làm sao để xứng đáng với đạo nghĩa gia phong mà tiền nhân đã son sắt giữ gìn. Cũng vậy, ông bà cha mẹ nguyện xin Thiên Chúa ban cho con cháu hồn an xác mạnh, sống tin yêu Thiên Chúa mỗi ngày một hơn.
Nếu những ngày năm mới người người chúc cho nhau làm ăn phát đạt, thì người Công giáo dành cả một thánh lễ Mồng Ba Tết để cầu mùa. Trong thánh lễ này, họ tin Thiên Chúa là đấng làm chủ thiên nhiên, ban cho họ một năm mới với nhiều huê lợi, được mùa. Ai cũng xin Chúa ban ơn trợ giúp để công ăn việc làm trong năm mới được thuận buồm xuôi gió. Công việc ổn định và cuộc sống ấm no hạnh phúc luôn là ước vọng chính đáng của mỗi người. Chắc hẳn Thiên Chúa không quên những ước nguyện đầu năm đầy chân thành của mỗi người. Do đó, ai cũng hy vọng một năm mới với nhiều ơn lành của Chúa, từng dự định của mỗi người sẽ gặp nhiều thuận lợi, vận may.
Thật ý nghĩa và dễ thương biết bao khi người Công giáo chúc cho nhau những điều tốt đẹp đến từ Thiên Chúa. Những ngày xuân tay bắt mặt mừng, họ cầu mong cho người thân, bạn bè nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Trong từng câu chúc, họ tin vào bàn tay quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa. Khi đó, niềm vui của ngày xuân luôn lan tỏa đến từng người mà họ có dịp gặp gỡ, chuyện trò.
Ước mong trong những ngày xuân năm nay, ai cũng hướng đến truyền thống xuân tốt lành của dân tộc. Đồng thời, mỗi người xin Thiên Chúa gieo ánh xuân với muôn vàn ơn lành. Để xuân năm nay, ai cũng được Thiên Chúa ở cùng, được vui xuân trọn vẹn và được một năm mới bình an!
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
(dongten.net 23.01.2017)
Muôn việc kỳ diệu
- Viết bởi Elisabeth Nguyễn
Trong đời sống thường ngày của nhân loại, từ tạo thiên lập địa đến nay có biết bao điều kỳ diệu xảy ra từ thiên nhiên, từ tự nhiên, từ con người, từ muôn vật. Tôi xin kể chút kỳ diệu (đối với tôi) của chính tôi cho quý vị nghe chơi nha. Tôi là một „con bé“ hơi kỳ cục. (Hi hi người đời gán cho tôi như thế)
Trong tác phẩm Giây Phút Hiện Tại, LM Louis-Marie Parent khuyên mọi người hãy tập thói quen làm điều tích cực trong giây phút hiện tại bằng cách ý thức rằng sự can đảm và nghị lực của ta kín múc được sức mạnh tự nhiên và siêu nhiên, giúp cho cuộc sống dồi dào sinh lực. Hãy chào đón một ngày mới với tất cả trìu mến trong lòng, với niềm vui tràn trề trong tâm hồn, ông cổ võ mọi người nên sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương. Điều này tôi cũng rất thích, đã học được qua Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận khi ngài ghé thăm Đức Quốc nhiều lần vào thập niên 90 và qua anh chị em tín hữu trong một chuyến hành hương „Theo Vết Chân Thánh I-nhã“ mà tôi vẫn chưa thực hành cho nên thân được.
Mỗi sáng thức dậy, tạ ơn Chúa đã gìn giữ tôi qua một đêm an lành, nằm trên giường tôi đọc vài kinh dâng ngày này cho Chúa xin Ngài dẫn dắt tôi trong ý nghĩ, lời nói, việc làm… Chúa cho mình tự do để xử dụng 24 tiếng đồng hồ, mình sẽ làm những điều mình muốn theo khả năng mình. Tôi tự nhủ, mình luôn luôn tạo ra chút nắng ấm của mặt trời trong lòng để ngày sống luôn được ấm áp. Tôi chào đón ngày mới với niềm an lạc rộng mở, tâm hồn hân hoan, vui tươi yêu đời. Tôi ước mong sẽ đem niềm vui đến cho người bên cạnh và những người mình sẽ gặp trong ngày. Tôi sẽ bình tâm chấp nhận nỗi buồn, nỗi bực bội, nỗi khổ tâm nếu có, vì nhờ chúng tập luyện cho tình yêu trong tâm hồn tôi lớn lên, và cho tôi biết sống tín thác hơn vào Thầy Giêsu yêu quý.
Ngày đến dù trời mưa hay nắng, trời nhiều mây ảm đạm hay lạnh lẽo gió nhiều v.v…tôi vẫn lấy làm thích thú mà tận hưởng thời tiết của trời, mưa cho cây cỏ hoa màu tươi tắn, làm sạch không khí, làm dịu mát tâm hồn, mưa to cho nước đầy hồ đầy sông, gió lớn cho những tàng lá cây nhảy múa múa uốn éo… Ôi, đẹp biết bao, vài chiếc lá chao đi chao lại rồi xao xuyến nuối tiếc lìa cành… Mưa bay bay cho không gian và thời gian thêm chút thơ mộng lãng mạng …, nắng lên cho thiên nhiên bừng sáng, bầu trời cao xanh điểm những đám mây trắng lững lờ trôi nhàn nhã… ánh nắng mặt trời sưởi ấm thân thể, tâm hồn phấn chấn, vui sống, chim chóc líu lo ca hót chuyền cành, bay lượn khắp trời… cây cỏ hoa lá cũng hớn hở nô nức đón mừng… Trời ảm đạm, nhiều mây và sương mù dăng dăng vì trời đang buồn buồn một chút… mình cũng buồn buồn theo hai chút, trời nổi gió với những cơn lạnh đi theo khiến lòng chạnh niềm thương người già cả, người cô đơn trong lòng tăng lên nhiều chút (vì trong đó có mình hi hi…) Đông đến, nhìn tuyết rơi trắng xóa không gian, ngắm tuyết rơi mênh mông, ta chỉ biết ca tụng Đấng Tạo Hóa ban cho thế gian có bốn mùa luân chuyển, đổi thay tuyệt đẹp, lòng cảm thương cho những người làm việc ngoài trời…những người phải lái xe trên tuyết đến sở làm…
Nói thì hay như vậy, ước mong mình thực hiện được như vậy nhưng trên thực tế tôi đâu có thần thánh như vậy được. Tôi là „con bé“ (hi hi…) yếu đuối, mỏng dòn dở ẹc à vì không biết canh chừng kềm hãm tính khí thất thường của mình. Gặp điều không vừa ý là la toáng lên với người bên cạnh, chả thấy bình an, bình tâm gì cả... (điều này xảy ra hằng ngày với anh chàng xã xệ của tôi) vì tôi là „con nhỏ“ nóng nảy, hay quên lại còn vô tư, vô tình, vô ý, vô tứ và „tánh tình thì thẳng như ruột ngựa“ (không biết ruột con ngựa có thẳng không, mẹ tôi thường nói về tôi như thế từ khi tôi còn nhỏ và tôi lấy làm thích thú cười hi hi…).
Gặp nỗi khổ tâm là tôi hay buồn, lo nghĩ… có khi giận dỗi với người bên cạnh không thèm hở một lời khi họ hỏi mình v.v… lúc ấy tôi quên mất Chúa đang hiện diện với mình, quên mất giây phút hiện tại mà miệng mình cứ nói là „sống giây phút hiện tại cho tràn đầy yêu thương“. Thực tình mình đã quên luôn những điều mà mình vẫn mong ước, xin xỏ và tuyên hứa lúc mới ngủ dậy… hu hu… Thế mới biết nói thì dễ dàng trơn tru mà khi đối diện với thực tế thì u mê ám chướng… Chúa ơi, con xin lỗi Chúa. Xin lỗi ông xã xệ hu hu… hu hu…đấy là chuyện quá khứ (xưa ơi là xưa… hi hi…) trong hành trình sống đức tin của tôi. Xin Chúa thêm sức cho tôi có đủ nghị lực để biết kềm chế tánh khí bất thường của mình.
Yêu thương đâu chẳng thấy mà chỉ thấy … đỏng đảnh… cái tôi ngự trị, cái tôi tự ái, cái tôi đòi hỏi v.v… lúc này thì cái tôi ở trong tôi thật đáng ghét. Thường thường tôi hay nói đùa với mọi người cái tôi thật đáng yêu vì thực ra, cứ cho cái tôi đáng ghét thì tội nghiệp cho cái tôi được hình thành từ tình yêu của cha mẹ, đã được truyền thừa từ bao nhiêu ngàn năm trải qua bao nhiêu thế hệ. (Để có cái tôi của mình hiện diện trên mặt đất này tôi cần có hai người là cha mẹ. Sự hiện diện của cha mẹ cần có 4 người. Hiện diện 4 người cần có 16 người…) Cứ thế ta nhân lên thì phải công nhận sự hiện diện của „cái tôi“ mỗi người quả là một điều kỳ diệu.
Bà con của tiên sinh Lục Vân Tiên, hậu duệ của cụ Đồ Chiểu, là tôi nên hễ „thấy chuyện bất bình chẳng tha“ nghĩa là ai làm điều gì sai trái, không ngay thẳng, không thật thà là tôi ngứa ngáy cái miệng, khó chịu trong lòng nên mở miệng cho họ biết ngay mà không biết lựa lời, lựa thời, lựa lúc…không biết giữ thinh lặng. (cái tôi ngu muội, cái tôi đáng ghét). Thế mà chẳng ai làm ơn lên tiếng khuyên bảo tôi chi cả. Tôi ao ước được có người nói thẳng về những khiếm khuyết của mình mà chả ai bố thí cho một lời. (Ai sao mặc kệ. Như vậy mới là khôn ngoan ru?)
Tác giả Michel Hubaut trong “ Những nẻo đường thinh lặng“ diễn tả về trường hợp này như sau: „đó là những thinh lặng „ma quỷ“,nó đóng kín môi miệng họ không cho phép nói lên chân lý làm chứng và ngợi khen“. Vị vua Baudouin rất nhân đức của Vương Quốc Bỉ cũng ao ước có những người dám nói thẳng, nói ngược ý mình. Ngài tâm sự với Chúa trong nhật ký: „Nguy hiểm đang chờ chúng con, đó là những lời ngọt ngào tâng bốc. Chúng con cần có những người dám nói ngược lại chúng con và ngăn cản chúng con khi chúng con có một dự định nào đó đáng phải cản ngăn. Lạy Chúa, xin gởi đến chúng con những con người có can đảm và lòng cương trực như thế và xin cho chúng con biết chấp nhận lời nói ngược ý chúng con“ (tác phẩm „Âm hưởng một cuộc đời“ của Hồng Y Suenen)
Mấy đứa em của tôi chúng nó rất sợ cái thẳng thắn như chém đinh chặt sắt của tôi lắm, chỉ có một cô em gái út là hiểu tôi nên nó nói „bình thường chị ăn nói chững chạc dịu dàng và hiền hòa yêu thương, sao những lúc chị không bằng lòng chuyên gì nhất là chuyện đối xử với mẹ không đúng, hay hỗn hào với mẹ là chị nổi giận ăn nói như hùm như hổ, thẳng thừng và gay gắt nữa, làm em sợ quá, nhưng em hiểu chị, biết tâm chị rất tốt, lòng chị luôn thương người, hay chia sẻ và luôn lo lắng cũng như bao bọc cho mẹ và chúng em, và luôn giúp đỡ người thiếu thốn khác. Chị đừng buồn vì những anh chị em khác trong gia đình không hiểu chị nhé“. Tôi chỉ cười… chả giân gì ai cả, vì có gì đáng giận đâu, cũng đâu cần ai hiểu… hi hi
*
Bây giờ, chuyện gì xảy đến với tôi dù cay đắng, buồn khổ, tôi đều chấp nhận. Ngày nào tôi cũng tìm đến với Thầy Giêsu Thánh Thể để tạ ơn Ngài và hòa giải với Ngài là hòa giải với mọi người, mọi nỗi, mọi việc đến với mình, thậm chí tập yêu mọi sự để tâm thanh tịnh. Đôi khi nghĩ về những chuyện quá khứ làm tôi đau buồn, làm tôi giận hờn, làm tôi mặc cảm hay thất vọng, những phản bội của những người mình giúp đỡ họ… hoặc những chuyện vui, những kỷ niệm đẹp, những người làm ơn cho mình hoặc nhớ về một nghĩa cử của ai đối với mình, tôi đều diễn tả kể lể dâng hết cho Chúa. Tôi tin những chuyện đó là chương trình của Chúa dành cho tôi để tôi luyện cái tôi của mình, sinh ích lợi cho tâm hồn tôi, và hỏi Ngài xem tôi phải làm gì? Ngài trả lời: Con đã dâng cho Cha hết rồi thì con hãy yêu thương mọi người, mọi sự như Cha đã yêu con. Tôi đáp xin vâng. (nhưng con thực hành được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu nha)
Chúa đã ban cho tôi niềm tín thác mãnh liệt vào Ngài cách tuyệt đối nên tôi rất bình tâm, bình tĩnh và bình an giải quyết mọi việc một cách bình thản sáng suốt. Mấy ngày nay ông chồng yêu quý của tôi bị đột quỵ nằm trong phòng cấp cứu, tôi chạy đi chạy về vào những giờ thăm để chăm sóc và thưa chuyện với các bác sĩ chứ chàng chỉ nằm một chỗ không biết gì cả thì làm sao! Có cậu con trai lấy ngày nghỉ để giúp mẹ lo cho bố mọi việc, vài ngày sau hai cô con gái cũng được nghỉ những ngày này. Các cháu thay nhau lo cho bố nên tôi cũng được an ủi những lúc quá mệt mỏi, quá đuối sức và lo lắng…
Khi anh bị té trên sàn nhà, người cứng đơ trong tư thế không cử động gì, lay gọi hoài mà không thấy chàng trả lời (như bình thường trước kia mà xảy ra chuyện như thế này là tôi quýnh quáng lo sợ không biết xử trí ra sao). Tôi lẩm nhẩm, Chúa ơi, Chúa ơi xin thương xót chúng con. Rồi tôi bình tĩnh cầm điện thoại liền gọi 112 cấp cứu ngay, rồi gọi điện thoại báo cho con trai lớn biết. Quay qua nhìn thấy miệng chàng bắt đầu méo, tôi ra sức dùng hai tay, một bên níu kéo lại chiều khác, một bên thoa bóp thật nhiều.. . rồi thoa mặt, đầu, cổ, vùng ngực, bấm mạnh vào hai tai v.v… thậm chí sợ chàng đi vào hôn mê tôi tát, vả thật mạnh vào má và bấm mạnh vào huyệt nhân trung thì thấy chàng đưa tay gạt tay tôi ra. Ôi! Cám ơn Chúa anh còn tỉnh. Cùng lúc bác sĩ đến, họ làm mọi việc cách nhanh chóng, bình tĩnh giải quyết mọi việc thật êm thắm… vừa làm họ vừa hỏi về bệnh tình của bệnh nhân. Tôi cung cấp những thuốc men mà chàng dùng hằng ngày. Tôi kể sơ về việc thoa bóp khi trông thấy miệng chàng bắt đầu méo thì ông bác sĩ và hai chàng sinh viên y khoa cười nói tốt tốt… 10 phút sau thì xe bệnh viện đến. Cám ơn Chúa. Cám ơn các bác sĩ, trợ tá, y tá… làm việc thật tận tâm yêu nghề, họ săn sóc bệnh nhân thật tận tình và dịu dàng, biết cảm thương nỗi đau của bệnh nhân và thân nhân. Cám ơn nhân dân và chính phủ Đức quốc đã cưu mang chúng tôi.
Những chuyện hằng ngày tôi trao hết cho Thầy Giêsu yêu dấu của tôi nên cảm thấy an vui và tin tưởng. Dù ông xã xệ của tôi có ra sao thế nào thì tôi xin chấp nhận vì yêu Chúa và yêu chàng. Chúa là người thợ gốm tuyệt hảo, chàng là tác phẩm của Chúa tạo nên và trao tặng cho tôi từ mấy chục năm trước, tác phẩm ấy giờ đây, theo thời gian đã cũ mèm, Ngài muốn nhào nắn chàng ra sao nữa thì đó là ý Ngài. Hiện giờ chàng đang trong tình trạng không nghe, không viết, không đọc, không nhận được mặt chữ, không nói được nguyên câu. Thật tội nghiệp vì Hobby của chàng là đọc sách và lướt internet. Mấy ngày nay được bệnh viện cho về nhà đón mừng Lễ Giáng Sinh, chàng cứ mân mê, xếp dọn tủ sách, lau chùi bịu bặm..di chuyển sách từ kệ này qua kệ khác…xếp đi sắp lại mà dường như chưa vừa ý.
Chắc chắn tôi phải vui chấp nhận từ bỏ hết mọi hobby, mọi việc qua một bên chỉ để lo săn sóc cho chàng Mọi việc xảy đến cho tôi hàng ngày, dù vui hay buồn, bực mình hay hoan hỉ, ốm bệnh hay khỏe mạnh, bị khinh chê hay điều tiếng gì đến với tôi, với gia đình đều là trong kế hoạch của Ngài dành cho tôi. Tôi xin chấp nhận để vui hưởng cuộc đời theo từng hoàn cảnh (đây là cả một sự liên lỉ cố gắng sống và yêu cùng học hỏi Lời Chúa (Lời Ngài thanh tẩy và đổi mới tâm hồn) trong hành trình đức tin của tôi, kéo dài bao nhiêu năm theo Thầy nhờ những khóa tĩnh tâm Linh Thao tôi tham dự hằng năm). Muôn việc như vậy chẳng là kỳ diệu sao, phải không Thầy yêu dấu của con!
Elisabeth Nguyễn (những ngày cuối năm 2016)
Đón nhận sự sống
- Viết bởi Elisabeth Nguyễn
Con người sống trên trái đất này được chia ra làm năm châu lục, hiện nay có khoảng hơn bẩy tỉ người sống trong 140 quốc gia, phần đông nhân loại thường sống rải rác nơi thôn quê và sống chen chúc nơi phố thị phồn thịnh.
Trên đời này, không ai trong loài người chúng ta có thể tự làm nên sự sống. Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, sự sống là một hồng ân được truyền thừa từ khi Người tạo thành trời đất muôn vật, tiếp nối từ đời nọ qua đời kia, cho đến ngày nay. „Phần tôi, tôi cũng chỉ là một con người phải chết, giống như mọi con người. Tôi thuộc dòng dõi của con người đầu tiên đã được nắn ra từ bụi đất“ ( Kn 7,1). Sự sống của chúng ta, nó đi từ sâu thẳm thời gian qua thân xác, trái tim và tinh thần của hàng tỉ tỉ triệu triệu con người, sự sống đó đã chuyển lần lần đến tận cha mẹ chúng ta, họ, sau khi đã lãnh nhận sự sống qua cha mẹ của họ, họ lại ban tặng sự sống đó cho chúng ta. „. Suốt chín tháng trời nơi dạ mẫu thân, thân xác tôi thành hình trong máu huyết, kết tụ bởi tinh khí nam nhân, và khoái lạc đi liền với giấc ngủ. Ngày tôi chào đời, tôi hít thở chung một bầu khí. Tôi rơi trên đất chịu chung số phận với mọi người. Tôi cất tiếng khóc, tiếng đầu đời của bất cứ một ai“ (Kn 7,2-3) ( để có sự hiện diện của ta trên mặt đất này, cần có hai người là cha mẹ. Để có sự hiện diện của cha mẹ cần có 4 người. Sự hiện diện của 4 người, cần có sự hiện diện của 16 người. Cứ thế ta nhân lên thì phải công nhận là trải qua bao nhiêu đời sống của những con người mới có sự hiện diện của ta. Lời giảng cha Vũ Thế ToànSJ) „Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang ba năm bú mớm, mẹ đã cưu mang con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy“ (2Mcb 7, 27b – 28)
Sự sống chúng ta đã lãnh nhận từ quá khứ và còn lãnh nhận trong hiện tại, ngày hôm nay, tất cả là từ nhân loại, từ vũ trụ, từ không khí, từ ánh sáng mặt trời, từ bóng tối trong màn đêm, nước uống, thực phẩm, biển cả, đồi núi, sông hồ v.v… từ đất đai, cây cối, cỏ hoa, thú vật trên mặt đất, trên không gian, dưới lòng biển, trên rừng, dưới sông, cả những vật dưới lòng đất, dưới lòng biển v.v.. và v.v… Một phần khác là từ các quốc gia trên thế giới, những tinh hoa truyền thừa từ các tôn giáo, những công trình nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, y học, văn hóa, văn chương v.v... từ những bậc cai trị đất nước, các bậc tu hành, các nhà giáo dục, những người làm ra cơm bánh, của cải, thuốc men, những nông dân, nông nghiệp, ... và nhất là khoa tin học trong khoảng hai, ba chục năm gần đây tiến lên thật nhanh chóng, chính nhờ Thiên Chúa ban cho những người khôn ngoan đó có điều kiện, có bộ óc thông minh và ý chí cần cù sáng tạo , đã cho chúng ta những phương tiện như internet mà chúng ta đang xử dụng. v.v… Tất cả những thứ này chúng ta nhận lãnh một cách nhưng không, ngay từ khi ta chỉ là một em bé chào đời cho đến khi ta rời khỏi thế giới này. Đây thật là một Hồng Ân lớn lao Thiên Chúa ban cho nhân loại, những người và những vật bằng cách này hay cách khác đã nuôi dưỡng, đang nuôi dưỡng chúng ta và sẽ nuôi dưỡng con cháu chúng ta.„Từ chân trời này vươn mạnh tới chân trời kia, Ngài cai quản mọi loài thật tốt đẹp“(Kn 8,1).
Ngay cả một phần nhỏ của sự sống chúng ta cũng không thể tự có được. Con người trong chúng ta không ai được lựa chọn sinh ra và chết đi theo ý mình. Ta không được lựa chọn ai là cha mẹ mình, làm đàn ông hay đàn bà, với ngoại hình đẹp xấu, cao lùn, tính cách, tài năng, tánh tình, thông minh hay ngu độn, giàu có hay nghèo hèn, da trắng hay vàng, nâu hay đen v.v... „Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ như thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ săp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người và đã sáng tạo muôn loài. Chính Người do Lòng Thương Xót, cũng sẽ trả lại cho các con Thần Khí và sự sống bởi các con trọng luật lệ của Người hơn bản thân mình“ (Mcb 7, 22-23.)
Nhưng chúng ta ai ai cũng đến thế gian này với cả một hồng ân trong mắt Chúa, chúng ta có một giá trị cao trọng trước mặt Chúa, Ngài cho chúng ta sự tự do để chúng ta có cơ hội duy nhất là được làm chính mình. Chúng ta muốn tự xây dựng nên mình, có cơ hội sống như mình muốn, làm điều mình tin tưởng, sáng tạo điều mình mơ ước hay theo đuổi điều mình khao khát ước ao thì ta hãy đón nhận sự sống một cách ý thức và tự do.
Trong tự do ta có nên chọn lối sống của phường vô đạo: „…. Vậy, nào đến đây, hưởng lấy của đời này, tuổi còn trẻ ta cố mà tận dụng hết những chi đang có sẵn trên trần. Nào, ta say rượu quý, ta ngất hương thơm, những đóa hoa xuân ta đừng bỏ phí. Nụ hoa hồng, ta đem kết triều thiên trước khi hoa tàn lụi. Đừng ai vắng trong các cuộc truy hoan, dấu vết ăn chơi, ta để lại khắp nơi, khắp chốn, bởi đó chính là phần số ta được hưởng. Ta hãy bức hiếp tên công chính nghèo hèn, kẻ góa bụa ta đừng buông tha, bọn tóc bạc già nua, cũng chẳng nể…“(Kn 2, 6-10) „song chúng không biết rằng sống như thế thật là tai hại, bệnh hoạn, vô luân… gieo rắc sự xấu, sự khổ cho nhân loại: „chúng suy tính như vậy thật sai lầm, vì ác độc mà chúng ra mù quáng. Chúng không biết những bí nhiệm của Thiên Chúa, chẳng trông chờ người thánh thiện sẽ được thưởng công, cũng không tin kẻ tinh tuyền sẽ được ân thưởng“ (Kn 3,21-22)
Hay ta chọn lối sống của những người công chính: „Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. (Kn3, 1) Sống công chính là sống nhân ái theo ý Thiên Chúa, biết thương xót, chia sẻ cho những kẻ nghèo khốn, thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần (thương linh hồn 7 mối, thương xác 7 mối) .„Họ còn sống, người người noi gương, họ khuất đi ai cũng thương tiếc. Trong cõi đời đời, đầu đội triều thiên, họ khải hoàn vinh hiển. Người công chính dù có chêt non cũng được an nghỉ. Vì tuổi thọ đáng kính không phải bởi sống lâu cũng không phải số tuổi. Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa nên được Thiên Chúa yêu thương. Và họ sống giữa những kẻ tội lỗi nên được Thiên Chúa dời đi nơi khác.“ (Kn 4, 7-8 +10)
Trong chương trình của Thiên Chúa thì mỗi người dù nhỏ bé hèn mọn, bệnh tật hay bất hạnh đến đâu cũng có một chỗ đứng trên thế gian này. Sự sống tự nó đã là một mầu nhiệm. Vậy ta hãy chuẩn bị cho sự sống của cá nhân mình cho xứng đáng làm một con người đích thực, chân thực và hữu ích cho thế giới này với vốn liếng của mỗi người là „năm chiếc bánh và hai con cá“ và quyền xử dụng các tạo vật mà Thiên Chúa đã ban cho để mưu cầu hạnh phúc cho đời sống. Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta cần phải sống xứng đáng là con người công chính mang hình ảnh Chúa và hãnh diện được tham gia lao tác với Ngài trong công trình Cứu Độ Loài Người.
Hãy tạ ơn Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn vật. Ghi ơn Ngài về Ân Sủng và Tình Thương của Ngài ban cho toàn thể nhân loại.
Hãy biết ơn tổ tiên, cha mẹ, đấng sinh thành, nuôi nắng, dạy dỗ ta nên người.
Hãy biết ơn tôn giáo ban cho ta một kho tàng tinh thần siêu nhiên để ta sống dồi dào, thăng hoa, hạnh phúc..
Hãy biết ơn tổ quốc, những vị lãnh đạo, những anh hùng có công giữ nước, dựng nước để ta có một quê hương.
Hãy biết ơn người giúp đỡ ta khi ta hoạn nạn, khi ta đói khát (tinh thần lẫn vật chất)...
Hãy biết ơn những quốc gia tiếp nhận và cưu mang cuộc sống của chúng ta khi chúng ta đang gặp nguy hiểm, lênh đênh trên biển cả.
Hãy biết ơn những người cứu giúp ta bước qua một khúc quanh, một lối thoát, vực ta lên khi ta tuyệt vọng.
Hãy biết ơn hàng xóm láng giềng những người sống xung quanh ta, những người giàu có, kẻ nghèo nàn v.v...
Tạ ơn Thiên Chúa về tất cả hồng ân Ngài ban cho cá nhân con và cho gia đình con, cho cả nhân loại trên thế gian này. Amen.
Elisabeth Nguyễn.
Ngôi sao Bethlehem
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong tập tục nếp sống đức tin của người Công Giáo hằng năm mừng lễ Chúa giáng sinh ngày 25.12., khi làm xây dựng hang đá Chúa giáng sinh, ngoài những bức tượng Thánh, và các con xúc vật chiên bò, lừa…còn có ngôi sao treo trên đỉnh nóc hang đá nữa.
Bởi đâu có tục lệ ngôi sao hang đá Chúa giáng sinh ?
„1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem,2 và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người."3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.5 Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:6 "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời."
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người."9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng" ( Matheo 2,1-9).
Như thế tập tục ngôi sao Chúa giáng sinh hay còn có tên ngôi sao Bethlehem có căn bản từ nơi Kinh Thánh.
Nhưng ngôi sao đó có phải là một ngôi sao như bao ngôi sao khác mà Thiên Chúa đã tạo dựng trên vòm trời không theo khía cạnh khao học, thiên văn học ? Hay ngôi sao đó còn ẩn chứa ý nghĩa sứ điệp gì khác hơn nữa?
Những nhà Chiêm tinh từ Phương Đông theo Ngôi sao hướng dẫn trên nền trời tìm đến nơi hài nhi Giêsu sinh ra, là những nhà khoa học về ngành thiên văn, ngắm nhìn sao trên nền trời tìm hiểu cùng lý giải ý nghĩa sứ điệp từ các ngôi sao xuất hiện. Họ đã nhìn thấy cùng nhận ra ngôi sao Hài Nhi vị vua mới sinh ra.
Phúc âm chỉ viết thuật lại không có chi tiết gì về thời điểm, nơi chốn ngôi sao lịch sử Bethlehem. Vì thế xưa nay hằng có những giả thuyết hay những khảo cứu tìm hiểu về Ngôi sao Bethlehem theo phương diện lịch sử cùng thiên văn học.
Theo lịch sử văn hóa thời cổ xưa (hành tinh) Saturn được cho là ngôi sao của dân Do Thái, ngôi sao Sabath, đang khi đó (hành tinh) Jupiter là ngôi sao của hoàng đế.
Các nhà khoa học đã đưa ra suy diễn vào năm 7. sang năm 6. trước Chúa giáng sinh xuất hiện sự gặp gỡ của hai vì sao Saturn và Jupiter. Và thời điểm này có thể là năm Chúa Giêsu giáng sinh.
Ở Roma người ta cho rằng biến cố hai ngôi sao Saturn và Jupiter xuất hiện trùng hợp vào thời điểm đó là hình ảnh dấu chỉ về vị vua mang lại hòa bình trong toàn đế quốc Roma: Hoàng đế Augustus. Chúa Giêsu giáng sinh lúc đế quốc Roma đang thống trị toàn vùng Trung Đông thời hoàng đế Augustus cai trị ở Roma.( Luca, 2,1-20)
Bên vùng Babylon biến cố hiếm lạ hai ngôi sao Saturn và Jupiter cùng xuất hiện được hiểu là dấu chỉ sự đến của Đấng Cứu Thế mang lại niềm hy vọng. Đó là lời đoan hứa cho Bileams đã được thành hiện thực, và các nhà Chiêm Tinh từ Phương Đông đến:
„ Một vì sao xuất hiện từ nhà Gia-cóp,
một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en“ ( Sách dân số, 24,17)
Phái đạo đức Qumran trước thời Chúa Giêsu sinh ra cũng đã so sánh ví sự xuất hiện của ngôi sao với sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.: Ngôi sao của ngài chiếu tỏa trên nền trời như một vị vua.
Các Thánh giáo phụ cũng nhìn nhận Chúa Giêsu với ngôi sao: ngôi sao ban mai, ngôi sao ban chiều tối. Thánh Phero trong thư viết cho giáo dân cũng xác nhận hiểu Chúa Giêsu Kitô là vì sao mai xuất hiện soi chiếu ánh sáng trong trái tim tâm hồn ta, khi ngày của Chúa đến . ( 2 Phero 1,19).
Ngôi sao Bethlehem dẫn đường cho các nhà Chiêm Tinh đi tìm Chúa Giêsu, trước hết dẫn họ đến Gierusalem nơi cung vua Herode ở. Từ nơi đây họ cần sự chỉ dẫn cụ thể của Kinh Thánh Do Thái, lời Chúa qua các Ngôn sứ thời Cựu ước đã loan báo trước về nơi vua mới, Đấng Cứu Thế sinh ra, là hậu duệ đích thật của dòng dõi Vua David. Theo sự chỉ dẫn cụ thể đó Ngôi sao lại xuất hiện dẫn đường cho họ đi tới Bethlehem, nơi hài nhi, vị Vua mới sinh ra.
Điều này làm nhớ lại lúc sau này khi Chúa Giêsu bị lên án đóng đinh trên thập gía, Tổng trấn Pilatus đã cho viết bảng ghi: INRI - Vua dân Do Thái! đóng vào ngay trên đỉnh thập gía Chúa Giêsu.
Lời chỉ dẫn nơi Chúa Giêsu là vua, Đấng Cứu Thế dòng dõi vua David sinh ra ở Bethlehem được loan báo từ Gierusalem - nơi hoàng cung vua Herodes- cho các nhà Chiêm Tinh, những người dân ngoại giáo từ phương xa đi tìm Chúa Giêsu.
Và cũng tại Gierusalem Chúa Giesu bị kết án - nơi dinh quan toàn quyền Roma - và sau cùng Chúa Giêsu được tuyên xưng là Vua dân Do Thái do quan Pilatus, cũng là một người dân ngoại gíao.
Thánh giáo phụ Gregor thành Naziano đã có suy tư về ngôi sao Chúa Giesu dẫn đường cho các nhà Chiêm Tinh tìm đến bái lạy tôn thờ hài nhi Giêsu: Ngôi sao thiên văn trên nền trời dẫn đường đã kết thúc, ngôi sao Chúa Giêsu quyết định con đường tâm hồn của họ.
„ Thánh Phaolô trong lao tù đã viết thư cho anh chị gíao hữu của Giáo đòan Kolosseo và Epheso thăm hõi khích lệ cùng nhấn mạnh đến Chúa Giêsu Kitô phục sinh chiếu sáng thống trị trên các quyền lực sức mạnh. Cũng trong con đường chỉ dẫn đó, ngôi sao dẫn đường cho các nhà Chiêm Tinh: Không phải ngôi sao quyết định số phận đời sống của Hài nhi Giêsu, nhưng chính Hài nhi Giêsu đã hướng dẫn đường cho Ngôi sao.
Và như vậy theo phương diện nhân chủng xuay chiều chuyển hướng có thể nói được: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã sinh xuống trần gian làm người biểu hiện uy quyền lớn lao hơn các sức mạnh vật chất trên trần gian và còn nhiều hơn tất.“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI.).
Ở trong đền thờ Chúa giáng sinh bên Bethlehem, theo tương truyền nơi đây Chúa Giesu sinh ra được đặt nằm trong máng cho xúc vật ăn ngày xưa, bây giờ được vẽ ghi dấu lại bằng một hình ngôi sao vẽ chạm đá mầu có 14 cánh.
Không có bằng chứng nào nói hình tượng ngôi sao với 14 cánh là ngôi sao Bethlehem ngày xưa đã soi chiếu dẫn đường cho các nhà Chiêm Tinh tìm đến nơi Chúa Giêsu sinh ra. Nhưng ngôi sao có 14 cánh là hình ảnh nói đến gốc tích Chúa Giêsu, như Thánh Matheo thuật lại : Cây Gia phả dòng dõi Chúa Giêsu được chia ra ba thời kỳ:Thời kỳ thứ nhất từ Tổ Abraham đến Vua David có 14 đời, thời kỳ thứ hai từ Vua Salomon đến thời bị lưu đày sang Babylon với 14 đời, và thời kỳ thứ ba từ sau thời lưu đầy đến Chúa Giêsu Kito sinh ra, lời hứa ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện, cũng có 14 đời. (Mt 1, 1-17.)
Và Con số 14 là một con số tượng trưng suy ra từ tên Vua David theo nguyên ngữ Do Thái - theo nguyên ngữ tiếng Do Thái những vần chữ tên David hợp chung lại thành con số 14 : D=4, W = 6 và D= 4. Và dựa theo tên Vua Davit, tổ tiên của Chúa Giêsu, nên gia phả cũng chia làm ba giai đoạn. Ba giai đoạn với ba lần 14 thế hệ trong lịch sử từ gốc rễ Abraham và Vua David đến Chúa Giêsu là cung ngai vĩnh cửu.
Lễ Chúa Hiển Linh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Năm mới, khởi đầu mới
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Một tuần lễ sau lễ mừng Chúa giáng sinh ngày 25.Tháng 12. , năm cũ Dương lịch kết thúc vào ngày 31. Tháng 12., và thời gian năm mới bắt đầu xuất hiện tiến vào không gian đời sống sinh hoạt xã hội.
Đức Giáo hoàng Leo cả đã có suy tư về ngày lễ Chúa giáng sinh: „ Chúng ta với lòng kính mến mừng sinh nhật Đấng cứu chuộc xuất hiện sinh ra. Điều này nói lên chúng ta mừng chính khởi đầu của chúng ta. Hôm nay tôi có thể bắt đầu mới, vì Thiên Chúa đã sinh ra nơi tôi như một hài nhi.“.
Lễ mừng Chúa giáng sinh là lễ Thiên Chúa bắt đầu khởi đầu mới nơi con người trên trần gian. Điều cũ dù thấm nhập khắc ghi dấu vết nơi con người, phai lạt cùng mất sức mạnh trên ta. Con người không bị ràng buộc cứng nhắc với thời gian qúa khứ, với những vết thương đau đớn. Thiên Chúa khai mở ra cho con người một khởi đầu mới. Con người được phép có những ước mơ dự định với lòng phấn khởi mới. Họ không còn phải luôn hằng mang theo mình gánh nặng cũ, nhưng được phép bắt đầu mới.
Giáo hội Công giáo mừng lễ đức mẹ Maria là mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm mới, 01.01. hằng năm cũng nói lên ý nghĩa đức mẹ Maria đã trao tặng nhân loại hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, một khởi đầu mới.
Toàn thể vũ trụ đón mừng Năm Mới, và năm mới nhắc nhớ con người muốn tất cả bắt đầu mới lại. Nơi sự mới, điều gì mới còn ẩn chứa điều hứa hẹn trong đời sống con người. Dẫu vậy kinh nghiệm sống cho hay, sự hay điều mới trôi qua nhanh chóng và trở thành cũ. Trong năm mới con người vẫn còn sống trải qua cái gì cũ còn lưu lại.
Trong ngôn ngữ Hy lạp có hai từ ngữ nói về mới: „neos“ và „kainos“.
Neos chỉ về sự mới, như người học trò bắt đầu học nghề nghiệp, mà trước đó họ chưa có hiểu biết hay kinh nghiệm về lãnh vực này.
„Kainos“ có ý nghĩa ngược lại, cũng chỉ về sự mới, nhưng trong đó gói ghém lời hứa: sự mới ẩn chứa điều tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu loan báo tin mừng mới, và ngài nói: người ta không đổ rượu mới vào bình cũ. Ngài lập gia ước mới và trao cho những người tin theo ngài điều răn mới: Giới luật yêu thương. Thời gian năm mới xuất hiện với dung mạo dáng vẻ của „kainos“. Thời gian năm mới là lời hứa, cho đời sống nội tâm được làm mới lại, và như thế sự mới bắt đầu chiếu tỏa sáng tự nơi con người.
Từ ngữ „ bắt đầu“ có ý nghĩa khởi sự làm từ nguyên thủy hoang sơ. Hình ảnh một thửa ruộng có đầy dẫy cỏ dại gai góc hoang dại mọc chen lấn um tùm nói lên ý nghĩa sâu đậm về nguyên thủy hoang sơ.
Truyện về một tu sỹ được sai phái đi lao động khai phá cánh đồng ruộng đầy cây cỏ hoang dại thuật lại : Một tu sỹ trẻ tuổi than phiền với Tu sỹ Viện Trưởng rằng mình đã ra công sức khai phá thửa ruộng hoang, nhưng trên đường luôn có gai góc vướng chắn gây trở ngại, nên không sao tiến thêm hơn được. Những sai lỗi cũ cứ vẫn luôn mọc thêm ra, không sao có thể khai phá diệt trừ hết cỏ hoang dại được…
Vị Tu sỹ Viện Trưởng kể cho vị tu sỹ trẻ một câu truyện: Một người cha sai con trai mình ra ruộng đồng khai phá sao cho trở nên nguyên thủy như lúc ban đầu. Nhưng thửa ruộng lại lớn cùng đầy dẫy những cây cỏ hoang dại gai góc mọc lan tràn um tùm. Anh ta vâng lời cha ra đi đến đó, và ngắm nhìn rồi thất vọng tìm chỗ bóng mát nghỉ và ngủ thiếp đi…Vì anh ta không tin tưởng nơi sức mình làm sao có thể phá những cây cỏ gai góc hoang dại mọc lan tỏa dầy kín trên thửa ruộng này được..
Người cha sau vài ba ngày ra nhìn đồng ruộng thấy mọi sự vẫn còn như cũ, không có gì xảy ra…Thất vọng, nhưng Ông ta vẫn gọi con mình tới và bảo: Con hãy khai phá làm mỗi ngày một khoảng đất to lớn nhiều như sức con có thể làm được!
Người con nghe lời cha chỉ bảo, và sau một thời gian ngắn nỗ lực từ từ khai phá từng ngày từng mảnh đất nhỏ. Tuy chậm nhưng sau cùng cả thửa ruộng trở thành mầu mỡ không còn cỏ cây hoang dại gai góc. Và vùng ruộng đất đó trở thành như lúc nguyên thủy hoang sơ.
Dân gian có ngạn ngữ: vạn sự khởi đầu nan! Bắt đầu nào cũng thường có niềm lo sợ ẩn chứa lởn vởn trong tâm trí đầu óc của ta. Vì thế ta thường có cảm nghĩ ái ngại, không làm nổi, cho nên đẩy bắt đầu sang một bên. Hay là từ chối bắt đầu: Việc đó đâu có đưa đến kết qủa gì ! Và kinh nghiệm sống dân gian cho hay càng kéo dài do dự đẩy sự bắt đầu sang một bên, công việc càng nặng nề khó khăn thêm ra để bắt đầu lại.
Thiên Chúa qua sự giáng sinh của Con ngài xuống trần gian đã làm cho thửa đất trần gian thành nguyên thủy hoang sơ như lúc khởi đầu. Ngài đã gieo trồng mầm hạt giống tình yêu xuống thửa ruộng tâm hồn con người, và mong muốn hạt giống đó nẩy mầm sinh hoa trái tươi tốt.
Việc này tùy vào con người cùng cộng tác làm việc trên thửa đất tâm hồn mình, để cho sự khởi đầu mới mà Thiên Chúa đã gieo trồng có thể phát triển sinh hoa kết qủa tươi tốt.
Sự bí ẩn mầu nhiệm của Năm Mới được khai mở nơi mầu nhiệm lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người, nói với ta: Con người không bị trói chặt ràng buộc vào qúa khứ. Họ có thể bắt đầu một khởi đầu mới. Vì sự mới ở trong con người họ. Nơi mỗi con người có hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa sinh ra cùng cư ngụ. Và nhờ thế con người tiếp xúc trực tiếp đụng chạm với sự mới còn nguyên thủy thuở ban đầu không bị làm cho sai lạc, chưa được đem ra sử dụng.
Hãy tin tưởng điều mới còn nguyên thủy nơi con người của mình!
Lễ Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, 01.01.2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chào biệt, Auf Wiedersehen, Adieu, Good bye, Au revoir năm 2016
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Năm 2016, cũng như tất cả mọi năm khác trứơc đó đã trôi qua, đang đi dần vào qúa khứ. Khi các kim đồng hồ ngày 31.12.2016 chỉ chập vào nhau đúng chỗ con số 12.00 giờ lúc nửa đêm, thời điểm năm 2016 kết thúc. Và cũng từ thời điểm đó ngày 01.01.2017 bắt đầu xuất hiện mở cánh cửa tiến vào không gian năm mới, một khởi đầu mới đến trong trời đất và lòng con người. Đó là cách tính phân chia niên lịch theo tập tục nếp sống văn hóa con người trần gian.
Khi năm cũ 2016 kết thúc, nó để lại dấu vết 12 tháng đã trôi qua. Trong quãng thời gian đó có 52 tuần lễ, 366 ngày, 8784 giờ, 527040 phút cùng 31.622.400 giây đồng hồ ghi khắc lưu lại trong lịch sử, cùng với những biến cố chung cũng như cá nhân riêng tư của trời đất và của con người.
Thời gian năm tháng năm cũ trôi qua đi vào qúa khứ, nhưng tâm tình lòng con người không vì thế cũng vô tình trôi theo nhanh chóng như dòng nứơc chảy. Trái lại những suy nghĩ cùng cảm xúc của con người luôn hằng nhìn trở ngược lại thời gian năm cũ, đồng thời cũng hướng tầm nhìn suy tư vào năm mới đang ló dạng.
Tâm tình những ngày cuối cùng năm cũ sắp kết thúc nơi nhiều người là tâm tình tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Trời đất, tạ ơn những bậc sinh thành nuôi dưỡng giáo dục ta nên người, mà nay đã khuất núi, cám ơn những ân nhân đã giúp đỡ trong đời sống vượt qua những bước đường khó khăn buồn tủi, cám ơn những người thân yêu ruột thịt đã cùng chung vai sát cánh nâng đỡ khuyến khích nhau cố gắng vươn lên, và cùng nhau mừng vui cũng như cùng chịu đựng trong mọi hoàn cảnh lên xuống trong đời sống.
Nhìn nghĩ lại những điều đã đạt được thành công trong đời sống, cũng như những thất bại đã phải gánh chịu, vui mừng hạnh phúc có mà cũng có những suy nghĩ thất vọng hay hối hận nữa. Suy nghĩ đi tìm nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại, nhiều công việc sự kiện khách quan hay chủ quan xuất hiện dần ra trong tâm trí.
Lẽ dĩ nhiên, con người với tâm trí suy hiểu, đều muốn rút ra bài học kinh nghiệm cho mình vào thời gian tương lai năm mới ngày mai. Nhưng sau cùng ta không thể đổ lỗi tất cả cho những lý do dẫn đến thất bại, hay tự hào mình đạt được thành công là do tài trí sức lực của riêng mình.
Trong dân gian có ngạn ngữ khôn ngoan: Làm bởi bay, ban bởi ta! hay Mình lo Chúa liệu!
Ngạn ngữ khôn ngoan này không là sự an ủi rẻ tiền, hay khuyến khích sự lười biếng.
Không, ngạn ngữ này là kinh nghiệm qúy báu thấm nhuần sâu đậm tâm tình đạo đức: con người được Đấng Tạo Hóa tạo dựng nuôi dưỡng cùng phú ban cho thân xác, trí tuệ, sức khoẻ cùng cơ hội sống ở đời. Họ cần cố gắng nỗ lực làm việc phát triển, nhưng họ có giới hạn không có thể làm được tất cả mọi sự như mong muốn, hay do tài trí sức của mình làm đạt được.
Đấng tạo Hóa khi tạo dựng nên con người đã có chương trình con đường đời sống cho mỗi người. Đời sống mỗi người có cánh thư của Đấng tạo Hóa gửi cho đời họ. Cánh thư đó dần dần được mở ra bằng chính đời sống của người đó, như nhà triết học Kiekergaard đã có suy tư: „ Mỗi người đi vào lòng thế giới với một lá thư trong một phòng bì còn dán kín niêm phong.“
Con người ai chả muốn, cùng nỗ lực vượt qua mọi hàng rào cản ngăn giới hạn. Nhưng có những giới hạn ta không thể vượt qua bài trừ được. Những lằn ranh giới hạn đó có nhiều tên tuổi khác nhau, như sức khoẻ thể xác lẫn tinh thần, tuổi tác, như cơ hội thuận tiện hay không thuận tiện, nhất là chữ „ nhưng, nào ai ngờ được!“.
Điều này nói lên con người luôn cần chúc phúc lành, sự trợ giúp của Đấng Tạo Hóa đã dựng nên mình, nuôi dưỡng mình và trao cho mình lá thư còn dán kín niêm phong.
Một tâm tình vừa diễn tả thâm sâu giới hạn loài thụ tạo của mình cùng luôn cần sự phù giúp từ trên Trời Cao cho đời sống, và cũng là tâm tình tạ ơn Đấng Tạo Hóa , mà Martin Luther đã viết nói lên: Chúng ta là người hành khất!
Ngày cuối năm 31.12.2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh sử Mattheo ( 3)
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Biểu tượng xưa nay trong Giáo Hội khắc tạc vẽ Thánh sử Mattheo là hình một người có hai cánh , tay cầm bút đang viết.
Đâu là nghĩa ẩn chứa nơi biểu tượng này diễn tả về Thánh sử Mattheo?
Thánh sử Mattheo viết Phúc âm Chúa Giêsu khởi đầu ngay từ chương thứ nhất với trình thuật về gia phả Chúa Giêsu, về nguồn gốc dòng dõi con người của Chúa Giêsu trên trần thế bắt đầu từ tổ phụ Abraham. ( Mt 1,1-17)
Thánh sử đã hệ thống cây gia phả của Chúa Giêsu theo ba giai đoạn thời gian, mỗi giai đoạn thời gian có 14 đời thế hệ:
„ Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.“ ( Mt 1,17).
Ngoài ra, chỉ có Thánh sử Mattheo viết thuật về các nhà Thiên Văn, mà chúng ta quen gọi là Ba Vua, tìm đến thờ lạy hài nhi Giêsu lúc sinh ra ở Bethlehem. ( Mt 2, 1-12).
Như thế Thánh sử Mattheo viết nhấn mạnh đến nguồn gốc dòng dõi thân thế con người của Chúa Giêsu, mặc dù Ngài căn bản Con Thiên Chúa từ trừi cao đến trong trần gian, và đã làm người.
Đức tin vào Chúa Giêsu có nguồn gốc là một con người về phương diện chủng tộc máu huyết trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Vì thế, hình biểu tượng hình người có đôi cánh và tay cầm bút được lấy đặt cho Thánh sử Mattheo viết về con người Chúa Giêsu.
Cây gia phả của Chúa Giêsu
Thánh sử Mattheo viết khởi đầu: Liber generationis Jesu Christi - Sách gia phả Đức Giêsu Kitô. ( Mt 1,1)i.
Với câu khởi đầu này, Mattheo nhắc đến mối tương quan nơi sách sáng thế ký: „ Istae generationes caeli et terae quando creatur sunt - Đó là gốc tích trời đất được sáng tạo.“ ( St 2,4).
Bằng những lời nhưmthế, Thánh sử mattheo muốn nói lên ý nghĩa mầu nhiệm của con người Chúa Giêsu.
Lịch sử dân Do Thái khởi đầu với lời đoan hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Abraham“ Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.“ ( St 12,3).
Nơi Chúa Giêsu, lịch sử mà Thiên Chúa tạo dựng đoan hứa có một khởi đầu mới.
Như Thiên Chúa ngay từ khởi đầu đã tạo dựng trời và đất, ngàincũng tạo dựng nơi con người Chúa Giêsu ý nghĩa và mục đích của công trình tạo dựng.
Chúa Giêsu hoàn tất những gì Thiên Chúa đã đoan hứa với tổ phụ Abraham“ là chúc lành cho mọi thế hệ tương lai.“
Trong trình thuật cây gia phả Chúa Giêsu có nhắc tới bốn người phụ nữ: Tamar, Rahab, Ruth và Batseba. Các nhà chún giải Kinh Thánh căn cứ vào lịch sử ighi chép để lại cho rằng bốn người phụ nữ này là những người tội lỗi, nhưng đó không phải là ý muốn của Thánh sử Mattheo khi nhắc đến bốn người phụ này.
Với Mattheo bốn ngưpời phụ này đều là người ngoại quốc, và như thế Ông muốn nơi dòng dõi gia phả Chúa Giêsu ngay từ đầu rằng, Chúa Giêsu chấp nhận toàn thể nhân loại , dù là người ngoại giáo họ cũng được hưởng ơn cứu độ.
Bốn người phụ nữ đó chỉ hướng về người phụ nữ thứ năm là Maria, dù cây gia phả hướng đến Thánh Giuse nhiều hơn. Nhưng vai trò Maria rất quan trọng: Chúa Giêsu Kitô sinh ra làm người từ cung lòng Maria. ( Mt 1,16).
Maria là người phụ nữ thứ năm trong cây gia phả Chúa Giêsu. Qua Maria hoàn tất điều bốn người phụ trước đó ước vọng muốn nói đến.
Cây giả phả của Chúa Giêsu có những giai đoạn hay những người trong dòng họ có đời sống không tốt đẹp tích cực nói lên, Thiên Chúa không thực hiện theo khuôn thước của con người, và cũng nói lên lịch sử Chúa Giêsu Kitô chấp nhận trải qua với những cao điểm thăng trầm lên xuống, với những con đường thẳng và cả với những khúc đoạn quanh co đường vòng.
Nơi Maria công việc của Thiên Chúa đạt đến mức cao điểm: Ngay giữa thời điểm lịch sử của ơn cứu độ và sự sa ngã bất hạnh Thiên Chúa đã đặt để một khởi đầu mới. Điều này có thể cắt nghĩa được: Maria là người phụ nữ thứ năm.
Trong năm sách lề luật của Mose - Ngũ thư- cũng có nnăm người phụ nữ đứng đối diện. Con số năm là con số của nữ thần Venus, nữ thần tình yêu. Tình yêu hoàn tất lề luật. Bốn bước dẫn đưa đến sự phát triển từ thế giới thiên nhiên sang thế giới thảo mộc, thế giới loài động vật và tới con người. Bước thứ năm là bước nhảy vọt dẫn đưa đến mức thần thánh.
Nơi Maria nhân loại bước qua và hướng về Chúa, đang khi Thiên Chúa trở thành người sống giữa con người nơi trần thế.
Thánh sử Mattheo thuật lịch sử Chúa Giêsu sinh ra làm người dựa trên hình ảnh khung cảnh kinh thánh báo trước về Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là một Mose thứ hai. Chúa Giêsu đến hoàn thành điều Mose đã nói với dân Do Thái.:
„ Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy.“ ( Đệ nhị luật 18,15).
Thánh sử Mattheo không chỉ muốn thuật lại lịch sử, nhưng Ông còn muốn cắt nghĩa làm sáng tỏ lịch sử, bằng cách diễn tả sự sinh ra của Chúa Giêsu và những năm đầu đời của Chúa Giêsu trên nền tảng lịch sử đời Ngôn sứ Mose.
Lịch sử sinh ra của Ngôn sứ Mose trong cộng đồng Do Thái thời lưu đày nô lệ bên Aicập luôn được nói đến rộng rãi trong dân chúng xã hội Do Thái mãi cả sau này, Thánh sử Mattheo cũng đã học biết lịch sử đó. Bài tường thuật về lịch sử sự sinh ra của Chúa Giêsu cũng có nố tương tự song song.
Thời Mose sinh ra có lệnh truyền của Vua Pharao bên Ai cập truyền giết tất cả nhửng hài nhi trẻ em nam giới người Do Thái mới sinh. Việc này gây ra làn sóng lo sợ giữa người Do Thái đang bị đày đoạ sống làm nô lệ bên Ai Cập.
Lịch sử sinh ra của Chúa Giêsu bắt đầu cũng với sự sợ hãi: Giuse người chồng đính hôn của Maria phát hiện Maria đã đang có thai..
Theo luật pháp đạo đời thời lúc đó, người phụ nữ có thai ngoài hôn nhân bị lên án bị ném đá cho chết. Giuse người có đời sống công chính, không muốn bị mù lòa vô nhân đạo vì luật lệ đó. Ông có ý nghĩ làm sao nối kết sự công chính với lòng thương xót. Đây là điều quan trọng với Thánh sử Mattheo.
Nếu Giuse hoàn thành như luật dạy, chắc chắn sẽ đưa tới hậu qủa là Maria bị ném đá cho chết. Nhưng Ông không muốn bị lề luật khuất phục như thế. Trái lại Ông muốn con người được đối xử nhân đạo công bằng. Ông muốn chọn cung cách vừa công bằng chính trực vừa có lòng thương xót. Ông muốn viết cho Maria lá thư từ gĩa chia tay khỏi bị ràng buộc lời hứa với nhau nữa. Như thế vừa hợp với luật lệ, vừa công bằng với lới hứa hôn.
Ngay trong lúc con người còn đang hoang mang suy nghĩ do dự, thì Thiên Thần Chúa hiện đến với Giuse trong giấc ngủ và nói lời can thiệp vào: Giuse được cắt nghĩ cho hiểu, thai nhi trong cung lòng Maria là Con Thiên Chúa do quyền phép Chúa Thánh Thần tác động vào. Con trẻ sinh ra là đấng Cứu Thế cho toàn nhân loại.
Thiên Thần Chúa yêu cầu Giuse nhận Maria làm vợ người bạn đường, để cho con trẻ theo luật lệ Do Thái là con con trai hợp pháp của Giuse. Đây là chương trình đầy bí ẩn mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà Thiên Thần đã cho Giuse biết.
Con trẻ Giesu là lời đoan hứa về Đấng Cứu Thế được hoàn thành:“ : Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là „Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.“ ( Mt 1,23).
Thánh sử Mattheo đã viết bài tường thuật lịch sử sự sinh ra của Chúa Giêsu với nghệ thuật khéo léo, Ông liên kết sự khởi đầu và sự kết thúc lại với nhau. Điều gì khởi sự lúc sinh ra, sẽ được chứng thực trong bài diễn từ của Chúa Giêsu phục sinh lúc từ gĩa các môn đện để trở về trời:
„Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 28, 20).
Mùa lễ mừng Chúa giáng sinh 2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lời Chúa cho Giáng Sinh
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tại sao Thiên Chúa làm người?
Suy Niệm Lễ Ban Ngày
(Ga 1, 1-18)
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc : Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng : "Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít" (Lc 2,10-11).
Câu "Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi ", gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng : Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói : "Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…" Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi.
Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo : Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: "Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó" (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại : "Người đã đến nhà các gia nhân Người" (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta "; " Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người "quyền trở nên con cái Thiên Chúa"(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào "gen", đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Ðấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Ðấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Ðấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Ðấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM LỄ VỌNG GIÁNG SINH
“Con Thiên Chúa Hòa Mình Vào Lịch Sử Nhân Loại”
(Mt 1, 1-25)
Phụng vụ Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh dìu chúng ta về với gia phả nhân loại, có Con Thiên Chúa làm người là Đức Giêsu Kitô sinh ra trong gia phả ấy.
Gia phả của Đức Giêsu Kitô
Người ta có cố có ông, có cha có mẹ có ông có bà, tức là có một gia phả. Đức Giêsu dù là Thiên Chúa, nhưng làm người, nên cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên ấy. Gia phả của Đức Giêsu Kitô được Thánh sử Matthêu viết thật là dài cả thảy 42 đời, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học. Gia phả này nhắc nhớ chúng ta rằng, “Sau sự sa ngã phạm tội của Ađam và Evà, Thiên Chúa đã không muốn bỏ rơi nhân loại một mình, cũng như đã không muốn phó mặc nhân loại cho sự ác. Ngài đã đáp trả lại sự nặng nề của tội lỗi bằng sự phong phú tràn trề của ơn tha thứ. Lòng Thương Xót luôn luôn vượt lên trên mọi mức độ của tội lỗi, và không ai có thể đặt ra những giới hạn cho Tình Yêu tha thứ của Thiên Chúa” (x. Misericodiae Vultus số 3). Thiên Chúa đã đi tìm Ađam và Evà và đồng hành với con người. Thiên Chúa đã gọi Abraham người đầu tiên trong gia phả, thứ đến là các tổ phụ khác. Thiên Chúa đã hòa mình vào lịch sử với chúng ta, một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, có những thánh nhân vĩ đại nhưng cũng có những tội nhân thấp hèn. Đó là Tình Yêu an ủi của Thiên Chúa, Đấng tha thứ và ban tặng niềm hy vọng cho chúng ta.
Theo thánh Mátthêu, Đức Giêsu xuất thân từ dòng dõi Abraham, và cuộc đời Người gắn kết với dân tộc Israen, một dân được tuyển chọn trong tình thương. Đức Giêsu cũng là Con của vua Đavít, nên Người có cơ sở để là Đấng Kitô như lời hứa.
Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa làm người, sinh ra trong một gia đình, sống trong xã hội, nên cũng chịu chi phối bởi xã hội trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó. Là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (x. Mt 1,16-17). Tất cả lịch sử của dân tộc Israen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tột đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Người, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành toàn.
Như chúng ta đã nói ở trên, Con Thiên Chúa hòa mình vào một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, một gia phả khác thường đối với Do thái giáo. Bởi lẽ, trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ, đó là chuyện lạ, vì người Do Thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria ra, còn bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Tama và Rakháp gốc Canaan, Rút gốc Môáp, vợ Urigia người Híttít. Mỗi bà lại có hoàn cảnh khác thường không ai giống ai. Tama giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giuđa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Rakháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bétsabê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (x. 2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bôát là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (x. R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này, nên cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại nếu tính theo gia phả, dẫn đến cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường.
Sự giáng sinh của Con Một Chúa
Thiên Chúa muốn cứu độ con người bằng cách sai Con Một Chúa xuống thế gian, nhập thể làm người. Cách làm người của Con Thiên Chúa vừa bình thường lại vừa tuyệt đối khác thường. Bình thường vì Người được sinh ra bởi một người nữ (x. Gl 4, 4). Khác thường vì Người không được sinh ra bởi người nam (cha ruột), nhưng do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1, 18. 20). Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Có thể nói, Đức Giêsu có dược “nhập khẩu” vào dòng dõi vua Đavít hay không đều tùy thuộc vào lời đáp trả của thánh nhân. Nên Thánh Mátthêu đã làm nổi bật dung mạo vị cha nuôi của Chúa Giêsu, vừa nhấn mạnh rằng, nhờ qua thánh nhân, Con Trẻ được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavid ”. Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít với một gia phả. Có một gia đình cần thiết để sống và lớn lên.
Trong giờ vọng lễ Mừng Chúa giáng sinh đêm nay, chúng ta hướng nhìn về Thánh Giuse, vị hôn phu của Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, cha nuôi Đức Giêsu, mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19). Vai trò của Thánh Giuse với nhân đức trổi vượt không thể nào bị rút gọn về khía cạnh luật pháp mà thôi. Ngài được Thiên Chúa tín nhiệm trao ban quyền làm “Người gìn giữ Ðấng cứu thế”, trong gia đoạn đầu của công trình cứu chuộc, khi hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, thật xứng hợp biết bao hướng về ngài, cầu xin ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm Ðức Tin cao cả này.
Noi gương ngài, chúng ta mở rộng lòng mình ra, chuẩn bị nội tâm để đón nhận và gìn giữ Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta. Uớc chi Chúa có thể gặp thấy trong chúng ta lòng quảng đại sẵn sàng đón Chúa đến, như đã xảy ra như vậy tại Bêlem trong Ðêm Cực Thánh Chúa sinh ra đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
(Tình Yêu Nhập Thể)
(Lc 2, 1-14)
Đêm nay, Đêm Tình Yêu. Chúng ta có thể nói như thế mà không sợ sai lầm. Vì yêu, Thiên Chúa đã thể hiện hết tình đối với con người khi làm cho ánh sáng chân thật chiếu trần thế (x. Lời nguyện nhập lễ). Đêm con người được Chúa yêu thương, “dân tộc bưới đi trong u tối được nhìn thấy sự ánh sáng” (x. Is 9,2-7). Đại tin vui đến với con người đêm nay : “Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui ?” (x. Is 9, 4). Đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta” (đáp ca).
Thiên Chúa là Tình Yêu
Theo thánh Augustinô thì toàn bộ Kinh Thánh chỉ là bản “tường thuật tình yêu của Thiên Chúa”. Chính tình yêu này giải thích mọi sự khác, cắt nghĩa vì sao có tạo dựng, có nhập thể làm người, có chết và sống lại để cứu chuộc. Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó.
Kiểu nói “Thiên Chúa là Tình” có hai nghĩa rất khác nhau. Hoặc Thiên Chúa là đối tượng của tình yêu (yêu Chúa). Hoặc Ngài là chủ thể của tình yêu (Chúa yêu). Thư thứ nhất của Gioan cho chúng ta câu trả lời : “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu thương chúng ta” (1Ga 4,10). Như thế, Thiên Chúa là Tình yêu, còn chúng ta là đối tượng được Thiên Chúa yêu thương.
Con người được Chúa yêu thương
“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa đã hạ sinh cho chúng ta vì yêu thương.
Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, làm cho chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2016 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại.
“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.
Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ của tình yêu, sẻ chia và hy vọng.
Tình Yêu, vì : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một Người” (Ga. 3, 16-17). Hy vọng, vì Thiên Chúa giáng sinh làm người để giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi muôn điều lo sợ, sợ thiên tai, nhân tai, sợ chết. Sẻ chia vì : “Thiên Chúa làm người để con người trở nên thiên chúa”. Trở nên thiên chúa đây nghĩa là gì ? Đó chính là trở nên tình yêu như Ngài là Tình Yêu. Vâng, Thiên Chúa xuống thế làm người để trao ban tình yêu và mời gọi con người đáp lại tình yêu, đón nhận tình yêu và trở nên tình yêu đối với anh em.
Chúng ta hãy yêu thương nhau
Nơi Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu giáng trần không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Chúa Giêsu đã nhâp thể làm người vì yêu để con người trở nên khí cụ của tình yêu ấy.
Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, là Tình Yêu đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử.
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Người sẽ cứu dân ngài khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi người nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao, là Tình Yêu của Chúa Cha. Nhờ sự sinh hạ của Người mà chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào.
Trong cuộc sống hôm nay, nhiều nơi, nhiều chốn, nhiều gia đình, sống nhưng lại sống vất vưởng, vì ở đó thiếu vắng tình yêu. Nhân dịp mừng sinh nhật Con Chúa, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho toàn thể nhân loại tình yêu của Chúa và xin Chúa xua tan đi bóng đêm hận thù, ghen tỵ, tranh chấp đang còn len lõi đó đâu trong các gia đình, trong các cộng đoàn, giữa lòng các dân tộc hay trên thế giới.
Lạy Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha muôn thủa, Ông Vua Thái Bình, xin hâm nóng trái tim mỗi người chúng con để chúng con biết yêu, biết trao ban tình yêu từ Chúa cho người chúng con gặp gỡ ! Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Cây thông giáng sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mừng lễ Chúa giáng sinh theo tập tục văn hóa dân gian, nhất là ở các xã hội Tây phương không thể thiếu cây thông giáng sinh trong các thánh đường, nơi nhà tư cùng cả nơi công cộng nữa.
Ngay từ thời Trung Cổ đã có tập tục dựng một cây xanh tốt với những trang trí rực rỡ vào những dịp mừng vui, như vào ngày đầu tháng Năm, dịp đặt kèo cột xây dựng nhà. …
Vào dịp mừng lễ Chúa giáng sinh trong thánh đường vào ngày 24. Tháng 12. từ ngày xưa thường có hoạt cảnh tưởng nhớ Ông Bà nguyên tổ Adong và Evà. Từ tập tục đó một cây vườn địa đàng, cũng có thể gọi được là cây sự sống, với những trái táo được treo trang trí nơi cành cây, cũng được dựng làm vào những ngày lễ mừng Chúa giáng sinh.
Những trái táo đó là hình ảnh chỉ về hoa qủa của cây biết lành dữ, và gợi nhớ đến sự sa ngã lỗi luật Chúa của Ông Bà nguyên tổ, cùng nhắc nhớ đến Chúa Giêsu đã xuống trần gian làm người mang ơn cứu chuộc giải thoát con người khỏi tội tổ tông Adong Evà.
Cho đến thế kỷ 19. người ta còn trang hoàng cây giáng sinh có hình Ông Adong và Bà Evà và con rắn làm bằng gỗ hay đúc nặn bằng sành sứ hoặc đất nung. Vì theo lịch phụng vụ cũ ngày 24.tháng 12. là lễ kính Ông Adong và Bà Evà.
Năm 1492 đã bắt đầu có cây giáng sinh bằng cây thông có lá xanh tươi tốt. Vào mùa Đông xứ lạnh các cây đều rụng hết lá, chỉ trừ cây thông vẫn còn lá xanh tươi tốt. Vì thế, cây thông được chọn làm cây giáng sinh biểu hiệu cho sức sống của Thiên Chúa không bị tàn héo, dù trong thời tiết gía lạnh mùa Đông.
Cây thông giáng sinh theo Kitô giáo là cây biểu hiệu sự phát triển tươi tốt, nơi đó hoa trái được cắt hái. Vì thế nơi cây thông giáng sinh treo trang trí những trái táo, trái hạt dẻ hay cả những trái cầu tròn to nhỏ. Đây là hình ảnh chỉ về sự toàn thể và chữa lành của vườn địa đàng.
Theo một truyền thuyết cổ xưa, lúc Ông Adong lâm trọng bệnh sắp qua đời đã sai con trai mình là Set đến vườn địa đàng lấy dầu của cây sự sống đem về xoa bóp cho khỏi bị đau nhức. Nhưng Tổng lãnh Thiên Michael đã nói cho Ông Adong rằng 5500 năm nữa Con Thiên Chúa sẽ xuống trần gian dẫn đưa Ông tới cây sự sống, tới cây lòng thương xót và cây ân đức phúc lành. Và Tổng lãnh Thiên Thần Micael đồng thời cũng trao cho Set một chồi nhánh cây sự sống như lời đoan hứa rằng, mang về anh ta cần phải gieo trồng xuống lòng đất.
Vì thế cây Kitô giáo là chồi của cây ân đức, mà Chúa dẫn đưa con người chúng ta qua sự sinh ra của Con Thiên Chúa đến đó, để dầu của cây làm giảm bớt sự đau đớn của con người.
Cây cối là biểu tượng quan trọng nơi tất cả mọi dân tộc chỉ về sự sinh sôi nảy nở tươi tốt và nguồn sự sống.
Trong thời thượng cổ những loại cây cối khác nhau được xếp loại cho các thần thánh, như cây gỗ cứng chắc cho thần Jupiter, cây lá có ba nhánh cho thần Apollo, cây có mùi hương thơm cho thần Venus.
Kinh Thánh cựu ước nói đến cây sự sống trong vườn địa đàng, còn gọi là cây biết lành dữ. Cây sự sống này theo niềm tin Kitô giáo được thể hiện nơi cây thập gía, nơi đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh hy sinh chịu chết mang lại sự sống ơn cứu chuộc cho con người khỏi hình phạt tội lỗi. Cây thập gía mang đến sự sống ơn cứu chuộc, nối liền trời và đất lại với nhau.
Các Cây được trồng cắm bén sâu trong lòng đất và thu hút lôi kéo sự sống từ lòng đất mẹ ra. Cùng lúc cây vươn thẳng lên trời, và phát triển cành lá như vòng triều thiên hướng lên cao.
Cây thông giáng sinh Kitô giáo cũng mang hình ảnh với những ý nghĩa biểu tượng . Cây này cũng là hình ảnh nối liền trời và đất với nhau. Chúa Giêsu giáng sinh xuống trần thế đã xóa bỏ biên giới giữa trời và đất ngăn cách xa nhau. Trời và đất qua Chúa Giêsu được nối liền lại với nhau.
Cây thông giáng sinh là hình ảnh nói lên Chúa Giêsu Kitô qua sự sinh ra xuống trần gian làm người, sự sống nơi con người đã chiến thắng không còn bị mùa Đông gía lạnh khuất phục chèn ép.
„ Nơi cây thông giáng sinh còn trang trí những cây nến hay những bóng đèn điện chiếu sáng. Hình ảnh này gợi nhắc nhớ đến lời Ngôn sứ Isaia : ánh sáng đã chiếu sáng bừng lên cho dân sống trong bóng tối ( Isaia 9,1). Thiên Chúa đã trở thành người và sống giữa con người chúng ta. Người đã xua đổi bóng tối sự lầm lạc, tội lỗi và đem ánh sáng của Thiên Chúa đến cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi rực rỡ nơi cây thông giáng sinh nhắc nhớ đến điều đó và luôn hằng có đó từ bao thế kỷ nay mà không bị hao mòn tắt lịm đi, nhưng luôn luôn chiếu tỏa cho mỗi người chúng ta từ khi bắt đầu sinh ra sống trong trần gian, hay những khi gặp hoàn cảnh vô định mờ mịt và những khó khăn trong đời sống trên trần gia, như lời Chúa Giêsu nói“ Ai theo Ta, sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng sự sống. ( Ga 8,12).“ ( Giáo hoàng Benedickt XVI., ngày 14.12.2012).
Cây thông giáng sinh Kitô giáo được dựng vào dịp mừng lễ Chúa giáng sinh có chiều dài lịch sử từ hơn 500 năm nay. Tập tục văn hóa này mang ý nghĩa chiều sâu đạo đức trong mùa Đông gía lạnh tối trời với cành lá thông mầu xanh tươi tốt là hình ảnh biểu tượng nói lên sự sống mới, cũng như những cây nến hay bóng đèn điện chiếu sáng nói lên niềm hy vọng hơn là chỉ để trang trí.
Mừng lễ Chúa giáng sinh 2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long