Chanukka và lễ mừng Chúa giáng sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm từ khi Hoàng đế Constantino đế quốc Roma công nhận đạo Công giáo năm 313 sau Chúa giáng sinh, toàn thể Giáo hội mừng sinh nhật Chúa Giêsu Kitô vào ngày 25. tháng 12. dương lịch.
Theo lịch sử ngày này là ngày thờ kính Thần mặt Trời theo tôn giáo của người Roma. Giáo hội Công giáo đã chọn ngày này là ngày mừng kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là mặt trời công chính xuống trần thế làm người mang ơn cứu chuộc đến cho con người.
Nhưng ngày 25.12. còn có một nguồn gốc lịch sử cùng tôn giáo từ đạo Do Thái nữa: Chanukka.
1. Cuộc nổi dậy thanh tẩy đền thờ
Vào năm 3597 lịch Do Thái ( năm 164 trước Chúa giáng sinh) phong trào Judas Maccabeus của người Do Thái đã nổi lên chống lại sự độ hộ thống trị của người Hy lạp và ngoại ngoại bang Seleukidien, như sách Kinh thánh Maccabeus , cũng như sử gia Flavius Joseph và sử sách Talmud của người Do Thái thuật kể lại.
Cuộc nổi dậy chống ngoại bang của Judas Maccabeus thành công chấm dứt chế độ đô hộ cai trị trên dân tộc Do Thái, nhất là chấm dứt sự phá hủy làm cho đền thờ Gierusalem của Do Thái giáo bị trở thành ô uế. Vì quân ngoại bang sau khi chiếm đất đai, đuổi dân đi ra ngoài cùng chiếm đền thờ Giêrusalem. Họ đã biến đền thờ để tôn thờ Thiên Chúa Giave bằng bàn thờ kính thần Zeus của người Hy Lạp ngay trong đền thờ. Đó là điều người Do Thái không thể chấp nhận nổi.
2. Ngọn đền bảy ngọn
Từ thời nô lệ trở về quê hương đất nước Chúa hứa, dân Do Thái đã có biểu tượng tôn giáo do chính Thiên Chúa truyền cho làm để thờ kính ngài. Biểu tượng này rất quan trọng với người Do Thái: cây đèn bảy ngọn . Thiên Chúa nói truyền cho Mose:
31 "Ngươi sẽ làm một trụ đèn bằng vàng ròng. Ngươi sẽ làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn.32 Sáu nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia.33 Trên nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế.34 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa.35 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế.36 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng.37 Rồi ngươi sẽ làm bảy cái đèn, đặt lên đó thế nào cho chúng toả ánh sáng ra phía trước trụ đèn.38 Kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn sẽ bằng vàng ròng.39 Ngươi phải dùng đến ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn và mọi đồ phụ tùng đó.40 Hãy nhìn xem và làm theo mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.“ ´(Sách Xuât hành 25,31-40)
Vì thế trong đền thờ Giêrusalem nơi cao trọng thờ kính Giave Thiên Chúa có ngọn đèn bảy ngọn hằng cháy chiếu sáng ngày đêm. Nhưng từ khi đền thờ bị phá, rồi bị thay thế bằng bàn thờ kính thần Zeus ngoại bang, cây đèn bảy ngọn đã bị dập tắt.
3. Ngọn đèn chín nhánh: Chanukka
Khi quân của phong trào Judas Maccabeus chiếm lại đền thờ, họ chỉ còn tìm thấy có một bình dầu đã làm phép còn lại, mà số lượng dầu này chỉ đủ đốt cháy cho một ngày thôi. Và để có dầu thánh mới cần tới tám ngày mới có. Nhưng qua nhờ phép lạ ngọn đèn vẫn cháy chiêu sáng tới 8 ngày, cho tới khi dầu mới được thánh hiến. Vì thế ngọn đèn được làm thành 8 nhánh đèn để nhắc nhớ lại phép lạ này, và có tên ngọn đèn Chanukka.
Ngọn đèn Chanukka có 9 nhánh đèn. Tám nhánh ngọn đèn nhớ đến phép lạ 8 ngày, và nhánh ngọn thứ 9. ở giữa chỉ về sứ vụ phục vụ, theo nghi thức chỉ từ lửa nơi ngọn nhánh 9. những 8 ngọn nhánh khác chung quanh được đốt lên chiếu sáng.
Việc thờ kính Thiên Chúa Giave trong đền thờ Giêrusalem được khôi phục lại. Các thần ngoại bang bị phá hủy tẩy trừ ném ra khỏi đền thờ. Ngọn đền Chanukka được ngày đêm đốt cháy chiếu sáng.
Từ ngày đó có lễ mừng Chanukka hằng năm theo Do Thái giáo. Đây là lễ mừng kỷ lần thứ hai đền thờ Giêrusalem được thánh hiến. Lễ này kéo dài 8 ngày từ năm 164 trước Chúa giáng sinh vào ngày 25. Tháng Kislew theo lịch Do Thái- tương đương vào tháng 12. lịch Tây phương.
Sách Maccabeus ( 1 Maccabeus 4,36-59, 2 Maccabeus 10,5-8, và phúc âm Thánh Gioan 10, 22) nói thuật về Chanukka lễ mừng thánh hiến đền thờ Giêrusalem. Lễ này được mừng kính cho tới năm 3830 theo lịch Do Thái - theo lịch Tây phương vào năm 70 sau Chúa giáng sinh - đền thờ bị đế quốc Roma chiếm phá hủy.
Đất nước tan hoang bị xâm chiếm, dân Do Thái phải đi sống lưu vong khắp nơi trên thế giới. Không còn đền thờ, nhưng người Do Thái vẫn kiên trì gìn giữ tập tục nếp sống lòng ái quốc, nhất là tín ngưỡng Do Thái thờ kính Thiên Chúa Giave. Nên lễ Chanukka vẫn được mừng ở nhà tư của họ, dù họ sinh sống nơi đâu. Chính điều này đã nung cháy lòng đạo đức tôn kính Giave Thiên Chúa, và lòng yêu mến quê hương tổ quốc mà Thiên Chúa đã ban cho tổ tiên dân tộc của họ.
Ngày 25. thánh 12 , ngày mửng lễ Chanukka , lễ ánh sáng của người Do Thái nhắc nhớ đến dân Do Thái được tái sinh, ngày đền thờ Giêrusalem được tẩy rửa khôi phục trở lại việc thờ kính Thiên Chúa Giave.
4. Lễ mừng Chanukka và Chúa Giêsu
Lễ Chanukka là lễ mừng ánh sáng trong Do Thái giáo.
Chúa Giêsu đã khẳng định„ chính ngài là ánh sáng trần gian,. Ai đi theo ngài sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng có ánh sáng sự sống. ( Ga 8,12)
Nơi ngọn đèn Chanukka ở giữa có nhánh ngọn đèn phục vụ. Từ ngọn đèn này 8 nhánh ngọn đèn khác được đốt thắp lên.
Chúa Giêsu nói về chính mình đến để phục vụ con người, mang ánh sáng đến cho con người, để con người trở thành ánh sáng cho nhau. ( Marco 5,14)
Những Kitô hữu đầu tiên đã nhận ra sự tương quan giữa Chanukka và sự sinh ra của Đấng Cứu Thế: Chanukka là lễ mừng nơi ngôi nhà trên trần thế - Lễ mừng Chúa giáng sinh là lễ mừng ngôi đền thờ sống động của Chúa, Đấng từ trời cao sinh xuống làm người trên trần gian. Chúa Giesu đã nói về thân xác ngài là ngôi đền thờ: Phá hủy đền thờ này đi, và trong ba ngày ta sẽ xây dựng lại. ( Ga 2,19).
Sự kiện lịch sử Ba Vua tìm đến báo lạy hài nhi Giêsu như vị vua của các vua trên trần gian nói lên cách gián tiếp mối tương quan này ( Mattheus 2,2).
Các vị vua được xức dầu phong vương. Ngọn đèn Chanukka không chỉ dùng dầu thánh hiến để đốt thắp, nhưng chính Thiên Chúa đã ban tặng dầu qua phép lạ làm cho dầu còn lại dư đủ dùng đốt cháy tám ngày liên tiếp.
5. Lễ Chanukka và lễ mừng Chúa Giáng sinh
„ Tuần lễ từ ngày 25. đến 31. tháng 12. đồng thời là tuần lễ trước năm mới bắt đầu. Vì thế việc khôi phục trở lại còn có một ý nghĩa sâu xa nữa: Tuần lễ này trình bày về một khởi đầu công trình sáng tạo mới cho niềm hy vọng vào thời gian mới được sống trong tự do.
Vì thế vào thời gian những năm 100 trước Chúa giáng sinh, sự sinh ra đời của đấng Cứu Thế được trông mong chờ đợi.
Đấng cứu thế, như lòng tin tưởng trông mong, sẽ chỉ dẫn cho con người biết cung cách thờ kính Chúa thế nào cho đúng, và người dẫn đưa vào sống trong thời gian mới của tự do .
Vào thời Chúa Giêsu Kitô người ta đã mừng lễ ánh sáng như lời Ngôn sứ Isaia đã nói về viễn cảnh này: „ Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.“ ( Isaia 9,1).
Thánh sữ Luca đã thuật lại lịch sử thời niên thiếu Chúa Giêsu trong ý nghĩa tràn đầy hình ảnh biểu tượng. Với những mốc niên đại lúc Chúa Giêsu sinh ra được sắp xếp diễn tả trong đêm ánh sáng tỏa lan, trùng hợp với lễ mừng Chanukka là lễ ánh sáng của Do Thái giáo, đã trở thành lễ mừng Chúa giáng sinh của Kitô giáo.
Thánh sử Luca chỉ muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa lời ca tiếng hát của các Thiên Thần: Điều Judas Maccabeus chưa làm được như mong muốn thực hiện, Chúa Giêsu Kitô sinh ra trong trần thế đã thực hiện làm được.
Chúa Giêsu Kitô đã tẩy xóa hình ảnh những thần thánh ra khỏi trần gian. Ngài đã xây dựng đền thờ bằng chính thân thể mình. Ngài đã khôi phục lại sự yêu mến kính thờ Thiên Chúa.
Nơi nào con người tin theo Chúa Giêsu Kitô, họ cũng khởi đầu một đời sống con người mới xây dựng hòa bình, dù trần gian còn có tan hoang đổ nát .“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI.)
Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh sử Mattheo ( 2)
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh sử Mattheo viết phúc âm Chúa Giêsu để đáp ứng nhu cầu về giáo lý cho Cộng đoàn những tín hữu Chúa Giêsu gốc Do Thái ngay từ thuở ban đầu. Ông viết theo cung cách của một thầy dậy, nên Ông đã viết 5 bài giảng lớn như lời của Chúa Giêsu là thầy dậy: Bài giảng trên núi (Mt 5-7), bài giảng về sai các môn đệ đi truyền giáo ( Mt 19), bài giảng về các dụ ngôn ( Mt), Bài giảng về Giáo hội ( Mt 18), bài giảng chỉ trích nhóm Biệt Phái, về đời sống bác ái cùng ngày sau cùng (Mt 23-25).
5 Bài giảng lớn nhắc nhớ đến 5 quyển sách Kinh thánh Mose, hay gọi là Ngũ thư: Sáng thế ký, Xuất hành, Levi, Dân số và Đệ nhị luật .
Qua đó Chúa Giêsu được hiểu là Mose mới. Mose đến truyền rao để lại lề luật cho dân Do Thái. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa giải thích lề luật truyền thống có từ thời Mose theo cách thế mới khác.
Theo phương pháp sư phạm của một thầy giáo dậy học, Mattheo viết trước tác nội dung theo một hệ thống. Ông sử dụng những con số làm biểu tượng cho dễ hiểu.
Ông thích con số ba là hình ảnh nói về sự trọn vẹn hoàn toàn - Ba lần 14 những nhóm thế hệ gia phả của Chúa Giêsu (1,2-7), ba điều khôn ngoan của việc đạo đức (6,1-18)
Trong trình thuật về cây gia phả nguồn gốc Chúa Giêsu ( Mt 1,1-17) Thánh sử Mattheo đã viết xây dựng cây gia phả đầy tính chất nghệ thuật theo thang cấp lấy những con số biểu tượng: ba lần mười bốn dòng giống thế hệ.
Con số Ba là biểu tượng chỉ về sự tròn đầy. Con số 14 biểu tượng nói về sự chữa lành và biến đổi. Có 14 vị Thần Thánh hộ giúp bên văn hóa xứ Babylon.
Con số 14 là một con số tượng trưng suy ra từ tên Vua David theo nguyên ngữ Do Thái - theo nguyên ngữ tiếng Do Thái những vần chữ tên David hợp chung lại thành con số 14 : D=4, W = 6 và D= 4. Và dựa theo tên Vua Davit, tổ tiên của Chúa Giêsu, nên gia phả cũng chia làm ba giai đoạn. Ba giai đoạn với ba lần 14 thế hệ trong lịch sử từ gốc rễ Abraham và Vua David đến Chúa Giêsu là cung ngai vĩnh cửu.
Chúa Giêsu qua sự sinh ra xuống trần gian làm người đã giải thoát con người khỏi bị xâu xé vì tội lỗi và liên kết họ lại với nhau. Ngài đi vào trần gian mang ơn cứu độ chữa lành vết thương tâm hồn trong dòng lịch sử bất hạnh vì tội lỗi bị chúc dữ.
Ba nhóm, mỗi nhóm có 14 thế hệ dòng tộc vẽ rõ lằn ranh cao điểm của lịch sử ơn cứu chuộc nơi David, mức thấp tận cùng thời lưu đày và sau cùng được thực hiện với sự sinh ra đến trong trần gian của Chúa Giêsu. Những cao điểm cùng cũng như những mức xuống thấp của lịch sứ dân Do Thái, Chúa Giêsu đã trải bước qua và biến đổi.
Con số bảy với Mattheo là con số quan trọng, nơi chương 13 nói đến 7 dụ ngôn: Người gieo giống, Cỏ lùng, Hạt cải, Men trong bột, Kho báu, Ngọc qúi, và Chiếc lưới.
Nơi chương 23 thuật lại bảy lời lên án „ khốn cho các ngươi“ của Chúa Giêsu với các Kinh sư và người Phariseo.
Con số 10 là hình ảnh nói về toàn phần, Mattheo thuật lại 10 phép lạ chữa bệnh của Chúa Giêsu cho con người nơi chương 8 và 9.
Con số 12 là con số nói về một cộng đoàn đầy đủ, vì thế Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Môn đệ làm nền tảng căn bản cho Giáo hội Chúa sau này.
Thánh sử Mattheo trình bày Chúa Giêsu không phải là một Thầy dậy đưa ra những lề luật, nhưng Ngài là một Thầy dậy giảng bằng hành động cụ thể qua chính đời sống của mình. Ngài không phải là người chỉ tay giảng luân lý, nhưng là người giảng bằng hành động thực tiễn. Sau bài giảng trên núi ( chương 5-7) tiếp theo là 10 phép lạ chữa bệnh cho những người ốm đau bệnh nạn ( chương 8 - 9).
Qua đó Mattheo nói đến mối tương quan cuộc xuất hành của dân Do Thái từ Ai cập trở về nước Do Thái, trong đó theo truyền thống Do Thái có 10 phép lạ đã xảy ra.
Bài giảng trên núi và 10 phép lạ chứng thực rằng Chúa Giêsu là Mose mới. Ngôn sứ Mose là người bgày xưa dẫn đưa dân Chúa về đất Chúa hứa ban rừ Ai Cập.
Chúa Giêsu, Mose mới dẫn đưa con người về quê hương trên trờivới Thiên Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Gioan Tẩy gỉa, người sống giữa thiên nhiên
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Căn cứ theo Phúc âm diễn tả hình ảnh “ Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. „ ( Mt 3, 4).
Nên người ta làm hình tượng Thánh Gioan tẩy gỉa là một người đàn ông mặc quần áo quấn vấn gần như nửa thân mình, đi chân không hao hao như một người sống trong rừng núi giữa thiên nhiên hoang dã, và một ngón tay chỉ hướng lên trời.
Như thế, có thể nói Gioan đã vượt qua mọi lối sống văn hóa cách bình thản, và chọn nếp sống như những người du mục trong hoang địa sa mạc.
Chiếc dây thắt lừng bằng da nhắc nhớ đến Ngôn sứ Elija cũng ăn mặc tương tự như vậy. Ông Gioan sống trong sa mạc không chỉ giữa những thú vật hoang dã, nhưng còn lấy lông thú vật lạc đà làm quần áo quấn mặc. Có truyền thuyết cho rằng Ông đã mặc áo bằng da lạc đà. Điều này vi phạm ngược lại với luật lệ về sự trong sạch của Do Thái.
Nhưng Gioan đã bước ra ngoài vòng lối sống của những người theo giữ lề luật thói tục bên ngoài, biểu trưng cho nền văn hóa của đất nước.
Da lạc đà còn nói lên Ông đã hội nhập hòa nhịp với đời sống thú vật có lối sống năng động, có tình dục tự nhiên, có sức mạnh chuyển động của loài thú vật.
Gioan một người có lối sống hoang dã giữa thiên nhiên tìm ra được con đường đến mọi thú hoang dã và để cho thú hoang dã thấm nhập vào chung quanh mình.
Lối sống hoang dã giúp cho Ông như nguồn sức lực thiên nhiên chân thực, để loan báo tin mừng của Chúa cho con người, và kêu gọi con người ăn năn sám hối trở về.
Ngôn ngữ và cách thế rao giảng của Gioan cũng tỏa ra không khí hoang dã. Ông không nể nang với sự nhậy cảm khó chịu của người nghe . Ông thẳng thừng chỉ trích nói nặng lời với lớp người Biệt phái được xã hội trọng vọng:
„Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? „ ( Mt 3,7…).
Ông Gioan không phải chiều lòng ai cả. Ông nói những gì Ông cảm nhận ra. Ông hoàn toàn tự do không bị lệ thuộc vào ai. Ông biết mình là người làm công việc của Chúa sai.
Tâm hồn ông có tự do. Sự tự do giúp Ông can đảm thản nhiên chỉ trích nặng lời cả nhà Vua Herode. Vì Vua Herode lấy vợ của em mình. Vua Herode đã cho bắt ông giam trong ngục tù. Vợ vua muốn giết Gioan, nhưng Herode kính sợ Gioan. Vì Herode nhận ra Gioan là người công chính, một đấng thánh. Do đó Herode tìm cách bảo vệ Ông.
Herode một vị vua đầy quyền lực, đầy mưu lược và độc ác tàn nhẫn, nhưng lại sự hãi trước một người sống đời hoang dã ngay thẳng. Vua Herode sợ Gioan và còn bị thu hút lôi cuốn bởi Gioan nữa. Herode cảm nhận ra nơi con người Gioan có một sức lực thâm hậu nội tâm và có tự do không sợ một ai, điều mà nơi mình thiếu vắng.
Gioan không để mình bị áp lực uốn cong. Gioan là một vị thánh sống, vì Ông không theo ai. Ông được kéo ra khỏi vòng của những người khác. Người ta không thể thống trị áp lực ông được. Gioan có một sức mạnh khác, sức mạnh thần thánh.
Herode thích nghe nói chuyện với Gioan.Nhưng càng nghe Gioan, Herode càng cảm thấy bất an và trở nên câm điếc không còn biết nói gì nữa. Herode cảm nhận ra nơi Gioan sự gì là chân thật và chính thực.
Chúa Giêsu nói về Gioan: „ Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: "Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng?8 Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua.9 Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
11 "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.“ ( Mt 11,7-11).
Bằng những lời như thế, Chúa Giêsu đã phác họa vẽ lên hình ảnh Gioan với những đức tính thánh thiện của một con người ngay thẳng tâm hồn cao thượng, mà lại có nếp sống đơn giản trong hoang dã.
Gioan không theo lối sống ngả theo chiều gío như cây sậy bị bẻ uốn theo chiều gío thổi, nhưng Ông đứng vững ngay thẳng cho dù bị gío bão tấn công. Gioan không màng đến quần áo vẻ bên ngoài.
Chúa Giêsu muốn đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau giữa Gioan và Herode. Herode vị vua chú trọng đến sự sang trọng quần áo lụa là vẻ bên ngoài. Còn Gioan hoàn trái ngược, một người có đời sống hoang dã nơi hoang dã, không đặt gía trị nơi vẻ sang trọng bên ngoài như vua Herode.
Herode không chỉ có đời sống xa hoa nhung lụa, nhưng ông còn có lòng dạ tàn ác hiểm hóc. Những người chống đối hầu như đều bị lên án thanh toán. Vua Herode một người có đầy quyền lực, nhưng lại bị lệ thuộc vào phụ nữ nơi vợ con. Ông chiều và hứa cho con gái Salome nửa vương quốc làm qùa tặng, và theo ý muốn của vợ cùng con gái cho chém đầu giết Gioan, người mà Ông kính nể, sợ hãi cùng ra sức bảo vệ.
Còn Gioan thì ngay thẳng rõ ràng, vẻ bên ngoài không quan trọng cùng có lối sống ăn mặc như người hoang dã và đầy sức lực tự tin. Nhưng đồng thời Gioan lại có trái tim nhân hậu quảng đại. Ông không làm hại ai. Ông tìm cách giúp cho đời sống họ đứng thẳng vươn lên. Gioan không sợ ai, Ông nói điều ông suy nghĩ.
Gioan không cần mặt nạ để che dấu gì. Ông là Ông như Ông là.
Chúa Giêsu diễn tả công việc bổn phận của Gioan: dọn đường cho Chúa đến. Đó là công việc lịch sử của Gioan trong tương quan với Chúa Giêsu.
Người hoang dã Gioan dọn mở con đường chân thật ngay chính trong đời sống chúng ta. Lời rao giảng và gương đời sống chân thật ngay thẳng của Ông giúp giải thoát chúng ta khỏi vai trò, khỏi mặt nạ, mà chính chúng ta bị vướng mặc vào
Gioan có lối sống bẻ gãy loại bỏ vẻ bên ngoài. Và nhờ đó chúng ta tìm được con đường về với nội tâm sâu thẳm trong tâm hồn, tìm về được trung tâm của chính mình và tìm tới Chúa Kitô, Đấng là Emmanuel - Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Mùa Vọng 2016
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Tín điều Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 08.12.1854 Đức thánh cha Pio IX. loan báo tín điều Đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội.
Đâu là nguồn gốc lịch sử của tín điều này?
Tín điều này trình bày Đức mẹ Maria ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai là người trong cung lòng mẹ mình , bà Thánh Anna, đã được giải thoát không bị vướng mắc vào tội tổ tông truyền lại từ khi Ông Bà nguyền tổ Adong-Evà phạm tội lỗi luật Thiên Chúa ăn qủa cây trái cấm trong vườn địa đàng.
Phụng vụ mừng đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội bên Đông phương có từ thời thế kỷ 10. đến thế kỷ 12. với tên gọi: Ngày vô nhiễm nguyên tội của rất thánh mẹ Thiên Chúa sinh bởi Thánh Anna.
Bên Tây phương Thánh Anselm Canterbury năm 1100 đã thiết lập lễ này trong giáo phận của ngài.
Sau khi Dòng Thánh Phanxico được thành lập, năm 1263 dưới sự hướng dẫn của Thánh Bonaventura Hội Dòng ở Pisa đã lập lễ đức mẹ Vô nhiễm nguyên tội là lễ kính của riêng hội Dòng.
Lần đầu tiên Công đồng ở Basel trong phiên họp thứ 36. ngày 17.09.1439 đã cắt nghĩa, Đức mẹ Maria không hề bao giờ bị vướng mắc vào tội tổ tông truyền lại.
Năm 1477 Đức thánh cha Sixtus IV. đã thiết lập lễ này trong thành Roma.
Công đồng Trient ( 1545-1565) công bố tội nguyền tồ không có dấu vết nơi Đức mẹ Maria.
Năm 1708 lễ mừng kính đức mẹ vô nhiễm nguyên tội thời đức thánh cha Clemens XI. trở thành lễ mừng kính trong toàn thể Giáo hội Công giáo hoàn cầu.
Ngày 08.12.1854 Đức Thánh Cha Pius IX. loan báo tín điều tin nhận Đức mẹ maria vô nhiễm nguyên tội trong Giáo hội
Năm 1858 Đức mẹ Maria hiện ra với Bernadette Soubirous ở Lourdes bên nước Pháp và xưng mình: Ta là đấng vô nhiễm nguyên tội.
Lễ mừng kính đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội liên hệ chặt chẽ với ngày lễ mừng sinh nhật Đức mẹ, 08.09. hằng năm, một lễ kính Đức mẹ Maria có từ lâu đời nhất từ thế kỷ thứ 5., cũng là lễ nói lên ý nghĩa cùng vị trí của Đức mẹ Maria trong công việc cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Và lễ Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội cũng trong liên quan với lễ mừng kính Đức mẹ Maria hồn xác được đưa về trời ngày 15.08. hằng năm, cũng như lễ kính Đức mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh mà cũng gọi là lễ Nến, kính ngày 2.2. hằng năm.
Lễ mừng kính đức mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội bao gồm lịch sử của công trình ơn cứu chuộc trước đó, và làm cho sự hoàn thành ơn cứu độ tỏ rõ trong hiện tại.
Nơi đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, điều đoan hứa với tổ phụ Adong, tổ phụ Abraham và dòng dõi Vua David được thể hiện hoàn tất.
Khi Đức mẹ Maria sinh ra, thời gian được hoàn tất để Thiên Chúa có thể sai gửi Con của Ngài đến trần gian.
Mẹ Maria đã thụ thai Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu, bởi quyền năng Chúa Thánh Thần - lễ truyền tin kính mừng ngày 25.03. hằng năm - và chín tháng sau - ngày 25.12. - hạ sinh Con Thiên Chúa, hài nhi Giêsu.
Sau khi sinh hài nhi Giêsu, đức mẹ Maria đã đem Chúa Giêsu mà toàn dân đang trông chờ là vị Cứu Thế, trình diện cho dân Chúa nơi đền thờ - lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ ngày 2.2. hằng năm.
Và đức mẹ Maria sau khi hoàn tất cuộc lữ hành đời sống trên trần gian được Chúa Giêsu đem cả hồn lẫn thân xác về trời, lễ mừng kính đức mẹ hồn xác lên trời ngày 15.08. hằng năm.
Có những suy luận tranh cãi hồ nghi về tín điều Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội. Nhưng „ với Thiên Chúa không có sự gì là không thể làm được.“ ( Lc 1,37).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh sử Mattheo ( 1)
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đại thánh đường Thánh Phero ở Vatican, nơi đầu cột ở bốn góc bên trên vòm cung thánh chung quanh bàn thờ chính - bàn thờ tuyên xưng đức tin của đức Giáo hoàng - khắc hình bốn khuôn mặt khác nhau có cánh. Đó là hình tượng các Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Hình tượng một người có cánh tay cầm bút đang viết là hình tượng Thánh sử Mattheo. Đây là nét đặc điểm của Phúc âm Thánh Mattheo
Những khuôn mẩu biểu tượng đó cũng được vẽ hay khắc tạc ở nhiều nơi trong các Thánh đường trên thế giới, hay nơi các bục đọc sách Lời Chúa.
Thánh sử Mattheo là ai và ở đâu cùng vào hoàn cảnh lịch sử văn hóa nào Ông đã viết phúc âm Chúa Giêsu?
Sau Công đồng Vaticano II. ( 1962-1965) nền Phụng Vụ trong Giáo hội Công giáo được cải tổ. Những bài đọc phúc âm lời Chúa vào các ngày Chúa nhật được chia làm ba chu kỳ A, B, và C. Năm A đọc phúc âm của Thánh sử Mattheo, năm B đọc phúc âm của Thánh sử Marco, và năm C đọc phúc âm của thánh sử Luca.
Vì thế, khi đọc phúc âm linh mục khởi đầu long trọng bằng lời: Phúc âm - hay Tin mừng - Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mattheo (… Thánh Marco hay Thánh Luca).
Thông thường xưa nay khi viết sách tác gỉa thường đề tên mình là người viết cuốn sách đó. Nhưng sách Phúc âm Chúa Giêsu thì không như thế. Không tác gỉa nào đã để lại bút tích tên mình viết cuốn phúc âm đó.
Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh sử Mattheo được các Cộng đòan Kitô hữu thế kỷ thứ hai sau Chúa giáng sinh nêu lên đặt cho. Có thể khi đó các Cộng đoàn Kitô tiên khởi có nhiều bản văn viết về Lời Chúa khác nhau. Và để phân biệt cho rõ ràng họ đã đặt cho mỗi bản văn giáo lý một tên, dựa theo xuất xứ cùng hoàn cảnh cụ thể mà họ biết. Đây cũng là điều dễ hiểu, và có nền tảng căn nguyên lịch sử nguồn gốc theo như họ biết nguồn gốc truyền thống để lại. Và bản văn phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo thời Giáo hội sơ khai lúc ban đầu rất được yêu chuộng thường được đọc trong các buổi hội họp phụng vụ cầu nguyện suy niệm Lời Chúa, như sách giáo lý cho Cộng đoàn.
Giám mục Papias thành Hieropolis , trong thời gian vào năm 130 sau Chúa giáng sinh, đã viết về lịch sử Giáo hội có ghi chú: Mattheo đã ghi chép lại những lời của Chúa Giêsu bằng tiếng Do Thái thời cổ - thổ ngữ Aramer ngôn ngữ nói trong dân gian lúc thời Chúa Giêsu. Ông đã viết diễn dịch lại đúng theo như Ông hiểu biết.
Trong bản văn phúc âm theo Thánh sử Mattheo ( 9,9) và trong Phúc âm theo Thánh sử Marco ( 2,14) tên Mattheo , một người làm nghề thu thuế được chính Chúa Giêsu gọi đi theo làm Tông đồ cho ngài. Như thế, Mattheo là nhân chứng mắt thấy tai nghe lời của chính Giêsu lúc còn sống trên trần gian.
Theo ý kiến các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng Mattheo là một nhà trí thức Do Thái tin theo Chúa Giêsu Kitô thuộc vào thế hệ thứ hai. Là người Do Thái trở thành tín hữu Chúa Kitô nên Ông có cung cách cởi mở với những người không phải là Kitô giáo, điều này thể hiện rõ nét nơi nội dung bản văn phúc âm Ông viết ra.
Sách phúc âm Mattheo được viết trước tác vào khoảng từ năm 80 đến năm 90 sau Chúa giáng sinh ở Antiochia, nơi người tín hữu Chúa Kitô sống chung với những cộng đoàn người Do Thái, Hy Lạp và những nhóm dân tộc khác.
Nơi Phúc âm theo thánh sử Mattheo, Chúa Giêsu được trình bày trong tương quan với Do Thái giáo, là người chính thực cắt nghĩa về lề luật từ thời Mose.
Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo nhấn mạnh đến lòng nhân từ thương xót của Chúa. Thánh sử Mattheo trích dẫn lời Ngôn sứ Hosea ( 6,6): Hãy đi và học cho biết ý nghĩa câu này: Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế. Vì ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. ( Mt 9,13 và 12,7).
Hãy đi và học nơi trường học của Chúa Giêsu về lòng nhân từ thương xót. Vì Thiên Chúa là Đấng giầu lòng nhân từ thương xót. Ngài không muốn lễ tế. Vì nó làm cho con người tự ti bé nhỏ lại, cùng phá hủy chính họ.
Ngài muốn con người với lòng biết ơn nhận hiểu ra Thiên Chúa là Đấng nhân từ thương xót mọi người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ trong trái tim tâm hồn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lời kêu gọi „ Anh em hãy sám hối!“ là trung tâm sứ điệp mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa giáng sinh, như lời Ông Thánh Gioan tiền hô rao giảng.
Và lời kêu gọi „ sám hối“ cũng luôn là trung tâm sứ điệp trong đời sống tinh thần đạo giáo trong chiều tương quan hướng thượng với Thiên Chúa, cùng chiều ngang đường chân trời với môi trường thiên nhiên và con người cùng chung sống trong xã hội.
Đâu là nội dung lời kêu gọi „ sám hối.“?
Nói đến sám hối ngày nay không hấp dẫn, không phải là điều mới mẻ tân tiến. Vì nhiều người không muốn nhìn nhận trách nhiệm điều sai phạm lỗi trái của mình nữa. Họ muốn đẩy những điều đó sang phía người khác, hay cho điều kiện môi trường phải chịu trách nhiệm đã trực tiếp hay gián tiếp gây ảnh hưởng đưa đến hậu qủa sự sai trái lỗi lầm!
Tôi không chịu trách nhiệm, vì tôi không còn làm chủ được mình nữa! Nơi tôi thiếu sự tôn trọng nền tảng về nhân phẩm con người của tôi…
Đang khi, sự sám hối phải biểu hiện: tự chính mình nhận trách nhiệm, và như thế được tự do trong những quyết định thi hành của mình.
Với Chúa Giêsu ăn năn sám hối là nội dung cốt lõi sứ điệp rao giảng của Ngài.
Các Ngôn sứ thời cựu ước đã luôn cắt nghĩa sám hối là công việc từ trong trái tim tâm hồn, một sự ăn năm trở về từ trong nội tâm. Đó là sự quay lưng lại với sự dữ, và trở về với Chúa, Đấng là cội nguồn sự tốt lành thánh đức, và trở về với con người cùng thiên nhiên. Vì tội lỗi sự dữ , sự sai trái cách nào đó làm xa Chúa và con người với nhau, cùng xa thiên nhiên.
Sám hối còn mang khía cạnh là một món qùa tặng cho tâm hồn. Ăn năn sám hối không phải là thành tích của con người chúng ta. Nhưng là ân đức của Chúa trao tặng qua sự hy sinh chết trên thập gía của Ngài mang lại ơn cứu chuộc, sinh ơn ích giúp ta làm mới lại đời sống tâm hồn. Vì thế, cùng tham dự dâng thánh lễ là cung cách nếp sống cần thiết của việc ăn năn sám hối.
Bí tích Rửa tội và giải tội là những bí tích căn bản mang lại ơn tha thứ, làm mới lại đời sống tâm hồn cùng củng cố giúp ăn năn sám hối.
Giáo hội kêu gọi sám hối để bảo vệ gìn giữ công trình sáng tạo môi trường thiên nhiên, mà Thiên Chúa tạo dựng ban cho đời sống con người. Vì môi trường thiên nhiên càng ngày càng bị chính con người làm hư hại phá hủy. Đó là trọng tội, nên cần phải ăn năn sám hối trở về với Chúa nguồn thiên nhiên:
„ Nếu thực sự “các sa mạc bên ngoài gia tăng, chỉ vì sa mạc nội tâm cũng lớn dần” [152], cơn khủng hoảng môi trường là một lời kêu gọi sự sám hối nội tâm sâu thẳm. Chúng ta phải công nhận rằng, có một số Kitô hữu dấn thân và cầu nguyện, thường cười cợt các cảnh cáo về môi trường với lời xin lỗi của chủ nghĩa thực tế và chủ nghĩa thực dụng.
Một số khác thụ động, quyết tâm không thay đổi các thói quen và trở thành rời rạc. Họ thiếu một sự sám hối thuộc sinh thái, giúp thấy những gì họ gặp gỡ với thế giới chung quanh; điều xuất phát từ sự gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô, sẽ giúp cho tất cả nở hoa.
Sống ơn gọi là một người bảo vệ cho công trình của Thiên Chúa là một phần tất yếu của một hiện sinh đạo đức; đó không phải là điều gì của định kiến, cũng không phải là một phương diện thứ yếu trong kinh nghiệm Kitô giáo.“ ( Đức Giáo Hoàng Phanxico, Laudato Si số 217)
Mùa Vọng là thời gian tĩnh tâm ăn năn sám hối.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thời gian mùa Vọng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm Giáo hội Công giáo bắt đầu niên lịch Phụng vụ mới với mùa Vọng, mùa chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người.
Đó là nếp sống tinh thần đức tin trong Giáo hội. Nhưng dẫu vậy, nếp sống đức tin mùa Vọng có nguồn gốc lịch sử cùng ý nghĩa thần học đạo đức trong dòng thời gian.
Mùa Vọng, thời xa xưa bên Việt Nam còn gọi là mùa Át. Chữ mùa Át có nguồn gốc từ chữ tiếng latinh „Adventus - đến“. Đầy đủ là „Adventus Domini - Chúa đến“ - bây giờ dịch là Mùa Vọng, mùa chuẩn bị tâm hồn đức tin đón mừng lễ sinh nhật Chúa Giêsu đến trần gian làm người.
Mùa Vọng đồng thời cũng nhắc nhớ người tín hữu Chúa kitô trông chờ Chúa Giêsu Kitô đến lần thứ hai.
Mùa Vọng nguyên thủy trong Giáo hội thời xưa là mùa ăn chay từ ngày 11.11. đến ngày 06. tháng Một năm sau ( lễ Ba Vua). Trong mùa này không được ăn mừng ca múa vũ hát không có lễ hôn phối. Nhưng từ năm 1917 theo luật Giáo Hội Công giáo còn không bắt buộc như thế nữa.
Mùa Vọng có nguồn gốc lịch sử từ thế kỷ thứ 7. , có tên „tempus ante natale Domini - Thời gian trước lễ sinh nhật Chúa“ , hay „tempus adventus Domini - Thời gian Chúa đến.“.
Nơi Giáo hội Công giáo phương Tây trước hết mùa Vọng kéo dài từ bốn tới sáu chúa nhật, nhưng từ thời Đức giáo hoàng Gregor cả ấn định mùa Vọng có bốn chúa nhật.
Bốn Chúa nhật nói lên hình ảnh bốn ngàn năm con người trông mong chờ đợi Đấng Cứu Thế đến, sau khi Ông Bà nguyên tổ Adong -Eva lỗi phạm tội bị Thiên Chúa phạt đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
Mùa Vọng bắt đầu từ Kinh chiều thứ nhất ngày Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng ( năm nay vào lúc 18.00 giờ ngày 26.11.2016., và chấm dứt với Kinh chiều thứ nhất ngày 24.12.2016 - trước ngày mừng lễ Chúa giáng sinh ra.)
Trong mùa Vọng không đọc hay hát Kinh Vinh danh ( Gloria) và lễ phục phụng vụ trong thánh đường là mầu tím.
Chúa nhật thứ ba mùa Vọng có tên „ Gaudete in Domino semper - Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa.“. Vì thế phẩm phục lễ nghi phụng vụ vào ngày này là mầu hồng. Để nói lên niềm vui mừng, vì ngày lễ mừng Chúa đang đến sát gần.
Mùa Vọng trong Giáo hội Công giáo có bốn tuần lễ, bốn ngày Chúa nhật và mỗi Chúa nhật có một chủ đề riêng:
- Chúa nhật 1. mùa Vọng nói đến Chúa Kitô đến trở lại vào ngày phán xét cuối cùng.
- Chúa nhật 2. và 3. mùa Vọng nói về khuôn mặt Thánh Gioan Tiền hô, người đi trước rao giảng dọn đường cho Chúa Kitô đến.
- Chúa nhật 4. mùa Vọng nói về Đức Mẹ Maria, mẹ sinh thành ra Chúa Giêsu, mẹ Thiên Chúa.
Trong mùa Vọng các bài sách Thánh phần lớn lấy trích từ sách Ngôn sứ Isaia. Các nhà thần học Kitô giáo ngay từ thời xa xưa đã đọc sách Ngôn sứ Isaia trong tương quan với những sách Tân ước. Họ tìm thấy nhiều bản văn trong đó có liên quan chặt chẽ mật thiết về Chúa Giêsu Kitô, và tin rằng : Nơi đây Chúa Giêsu Kitô được nói đến là Đấng cứu Thế ( Messias).
Lời tiên báo về vai trò Immanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta- nơi sách Ngôn sứ Isaia ( 7,14), lời đoan hứa về hài nhi Đấng cứu thế nơi Isaia 9,5, lời tường thuật về cung cách cai trị của Đấng cứu thế và vương quốc hòa bình nơi Isaia 11,1-10, cũng như lời loan báo trước về Ông Gioan tiền hô xuất hiện rao giảng dọn đường cho Chúa đến nơi Isaia 40,3-5, giữ vai trò mấu chấu đặc biệt nói về Chúa Giêsu Đấng cứu thế, như Thiên Chúa đã đoan hứa cho nhân loại.
Trong đời sống hằng ngày, con người có nhiều bận rộn. Họ thường than thở „ không có thời giờ “. Giáo hội loan báo tin mừng: Thiên Chúa ban tặng con người thời giờ. Chúng ta luôn có ít thời giờ, nhất là tìm ra giờ dành cho Chúa. Nhưng Chúa dành thời giờ cho chúng ta.
Thời giờ Chúa ban tặng dành cho con người là công trình sáng tạo thiên nhiên ngôi nhà nền tảng cho sự sống, sự phát triển đời sống, là Lời của Ngài qua Chúa Giêsu mang đến cho con người, và ơn cứu độ Chúa Giêsu đã thực hiện cho con người có lại đời sống vĩnh cửu bên Chúa sau khi qua đời.
Trong khía cạnh đó thời giờ mang dấu ấn sâu đậm nền tảng tình yêu Thiên Chúa, một món qùa tặng qúi gía được ban tặng trao vào tay con người.
Vì thế trong mùa Vọng, lời kêu hãy tỉnh thức dùng thời giờ hướng tâm hồn lên Chúa trên cao, và trải rộng ra chiều ngang với con người trong sự phó thác vào lòng thương xót của Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trên nền tảng
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Ngày 31.10.1517 Linh mục Dòng Thánh Augustino Martin Luther đã công bố bản tuyên ngôn 95 đề tài ở nhà thờ Wittenberg bên Đức phản đối việc lạm dụng ơn toàn xá, và những việc vật chất hóa ơn thánh Chúa trong đời sống Giáo Hội Công giáo, đồng thời kêu gọi cải cách trong Giáo hội.
Từ thời điểm đó Giáo hội thệ phản Luthero thành hình tách riêng ra khỏi Giáo hội Công giáo, và dần lan rộng khắp cả thế giới.
1. Martin Luther là ai?
Martin Luther mở mắt chào đời ngày 10. 11. 1483 ở Eisleben bên nước Đức. Martin Luther được mẹ giáo dục rất cẩn thận nghiêm khắc. Theo sử sách, Ông là một học sinh chăm chỉ, nhưng tính tình rụt rè như có vẻ sợ sệt sự gì.
Năm 1501 Luther bắt đầu học đại học ở Erfurt. Cha của Martin muốn con mình học môn Luật để sau này có thể trở thành luật sư. Nhưng Ông lại đi theo con đường khác. Năm 1505 Ông xin đi tu, gia nhập Dòng khổ tu Augustino ở Erfurt.
Năm 1507 Luther được nhận chức Linh mục. Ông học thần học và 1512 trở thành giáo sư ở đại học Wittenberg. Là giáo sư thần học, Ông nghiên cứu kinh thánh rất kỹ, nhất là thư của Thánh Phaolo gửi Giáo đoàn Roma. Và từ hiểu biết của nguồn đó Ông nhận ra chỉ nhờ ơn Chúa con người được công chính chứ không phải do công trạng việc làm của con người.
Điều nhận thức đó trái ngược với giáo huấn về mua bán ơn toàn xá trong Giáo hội thời lúc đó, và đã thúc đẩy Luther đưa ra 95 luận đề ngày 31.10.1517 ở Wittenberg muốn phản bác cùng cải tổ lối sống lạm dụng trong Giáo hội Công giáo Roma.
Những luận đề này gây tranh cãi quyết liệt giữa Linh mục Martin Luther và Giáo Hội cùng phe nhóm ủng hộ Luther. Và sau cùng đi đến phạt vạ cho nhau gây ra chia rẽ ly giáo.
Năm 1521 Martin Luther dịch Kinh Thánh từ nguyên bản tiếng Hy Lạp sang tiếng Đức. Đây có thể nói vào thời điểm lúc đó là một cuộc cách mạng trong lòng Giáo hội Công giáo. Vì vào thời điểm lúc đó Kinh Thánh chỉ được chính thức đọc bằng tiếng Latinh.
Linh mục Martin Luther lên tiếng muốn cải tổ Giáo hội, nhưng từ phong trào cải cách đã trở thành đạo Tin lành thệ phản Luther bên Đức, và trên toàn thế giới song song hay đối nghịch với Giáo hội Công giáo Roma.
Martin Luther tiếp tục giảng dậy viết sách bênh vực cho công cuộc cải cách xây dựng Giáo hội Tin lành thệ phản mới cho tới khi qua đời ngày 18.02.1546 ở Eisleben.
2. Nền tảng đạo giáo theo Giáo hội tin lành thệ phản Luther
Sự phân chia tách rời Giáo hội thệ phản Luthero khỏi Giáo hội Công giáo được chính nhà cải cách Martin Luther xây dựng đặt trên bốn yếu tố nền tảng: Sola gratia, solus Christus, sola scrpitura, et sola fide.
Sola gratia - duy chỉ một mình ơn Chúa - theo M. Luther, con người được cứu chuộc không do tự sức của công việc riêng mình, nhưng cho tất cả và cho từng người do bởi ơn của Chúa mà thôi.
Thiên Chúa là đấng cứu chuộc con người. Ngài là Đấng Tạo hoá nên con người. Và ngài cũng là Đấng Tạo hóa mới sau khi con người chết. Ngài trao tặng con người không vì thành tích của con người đạt được hay làm ra. Ngài ban tặng con người sự công chính.
Duy chỉ ơn Chúa ban tặng con người chúng ta, nên chúng ta được cứu rỗi, và chúng ta được quyền tin tưởng vào ơn của Chúa thôi.
Solus Christus - duy chỉ một mình Chúa Kitô - Người tín hữu chỉ gắn bó chỉ với một mình Chúa Kitô của Thiên Chúa thôi, không với đức mẹ Maria, không với các Thánh hay với con người nào, không với công cụ, vật chất nào, không với hành hương rước kiệu hay bất cứ hình thức nào.
Duy chỉ riêng một mình Chúa Kitô mà chúng ta tuyên xưng, ngài là hiện thân của Thiên Chúa nơi trần gian cho con người, là người mang đến Lời Chúa cho taâ, và sau cùng hy sinh hiến thân chịu chết trên thập tự và sống lại. Đó là đức tin và niềm hy vọng cho chúng ta.
Sola scriptura - duy chỉ kinh thánh - không bị làm cho sai lệch là căn bản nói về sự chân thật, loan truyền sứ điệp phúc âm.
Không truyền thống nào, không bài giáo lý nào của Giáo hoàng, của Giám mục là điều quyết định hay bắt buộc cả. Duy chỉ kinh thánh thôi.
Nơi Kinh thánh chứa đựng Lời của Chúa với toàn thể sức lực và sự trong sáng. Sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của Kinh Thánh và diễn tả về lòng thương xót của Thiên Chúa. Kinh thánh là thước đo cho đời sống Kitô giáo và đồng thời cũng là quan tòa thẩm phán về những việc làm của con người.
Kinh Thánh là căn bản cho giáo huấn, cho những việc làm và truyền thống của giáo hội.
Sola Fide - duy chỉ đức tin - Nhờ đức tin con người bất toàn yếu đuối được cứu chuộc. Không việc làm, không lời cầu thay phù hộ nào của các Thánh, không sự trung gian qua Giáo hội, không nhờ thánh lễ, không nhờ hành hương rước kiệu, không nhờ ơn toàn xá hay bất cứ việc làm gì khác, mà con người đạt được ơn cứu rỗi của Chúa, nhưng chỉ duy nhờ đức tin.
Đức tin trước hết và sau đó đến những việc làm tốt lành, đến đời sống, lời nói và hành động ngay lành.
Ơn Chúa, tin vào Chúa Kitô, tin tưởng vào Kinh Thánh và đức tin làm thành nền tảng, bức tường và mái nhà cho ngôi nhà đức tin. Hướng mắt và tâm hồn lên duy chỉ ơn Chúa với lòng tin tưởng, duy chỉ đến cùng Chúa Kitô với niềm tuyên xưng xác tín, duy chỉ nơi Kinh Thánh làm điểm tựa cho suy nghĩ hành động, và duy chỉ đức tin mang đến gía trị cùng sự thánh đức.
Thầy Dòng Linh mục Martin Luther với luận cứ thần học như vậy đã trở thành Nhà-cải-cách trong lòng Giáo hội Công giáo. Ông phủ nhận trật tự phẩm trật, các truyền thống trong Giáo hội công giáo Roma. Và do bị Giáo hội Công giáo không chấp nhận cùng bị lên án, Nhà cải cách Martin Luther đã trở thành nhà sáng lập ra đạo Tin lành thệ phản Luther.
Martin Luther căn cứ suy tư của mình dựa trên nền tảng Kinh Thánh nơi thư của Thánh Phaolo gửi Giáo đoàn Roma: „ Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống.“ ( Rm 1,17).
3. Nền tảng đời sống đức tin của Giáo hội Công giáo
Giáo hội Công giáo Roma từ khi Chúa Giêsu thành lập trong dòng thời gian lịch sử từ năm thứ 1. sau Chúa giáng sinh luôn đặt nền tảng trên giáo huấn của các Thánh Tông đồ Chúa Giêsu và của phẩm trật cùng các truyền thống trong Giáo hội.
Các Đức Giáo Hoàng, các Giám mục là những người kế vị các Thánh Tông Đồ có trách nhiệm cai quản Giáo hội, xây dựng đời sống thiêng liêng. Những giáo huấn của Giáo hội trong dòng thời gian tạo thành truyền thống trong nếp sống cho đời sống Giáo hội.
Ơn Chúa là căn bản tiên quyết tối thượng cho đời sống thiêng liêng có được ơn cứu chuộc. Nhưng con người cũng cần phải cộng tác vào để ơn Chúa sinh hiệu qủa nơi con người. Ơn Chúa cần, nhưng không có sự cộng tác của con người cũng không được. Khi con người từ chối tiếp nhận ơn Chúa, Thiên Chúa không dùng sức mạnh can thiệp bắt buộc họ phải nhận.
Con người không có thể dựa vào thành tích công trạng việc làm của mình trước mặt Chúa. Trong Giáo hội có những vị Thánh lớn. Dù có đời sống hy sinh tốt lành thánh thiện, họ cũng vẫn luôn luôn nhận mình là người tội lỗi, người yếu đuối khiếm khuyết và cần đến ơn Chúa trợ giúp. Có thế họ mới trở nên những người tốt lành thánh thiện.
Ơn Chúa và sự cộng tác của con người luôn cần thiết làm vinh danh Thiên Chúa và mang đến hạnh phúc ơn cứu chuộc cho con người.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, đấng cứu độ trần gian. Ngài là con đường dẫn tới Thiên Chúa. Ngài là lương thực cho đời sống thiêng liêng. Ngài là ánh sáng trong trần gian, là cửa vào nhà Chúa Cha. Ngài là nhịp cầu nối liền Thiên Chúa và con người.
Nhưng không chỉ có một mình Chúa Giêsu trong đức tin của người Công giáo, mà có Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nữa.
Qua Chúa Giêsu Kitô chúng ta nhận biết khuôn mặt Đấng Tạo Hóa, gìn giữ công trình thiên nhiên, đấng Cứu Chuộc và Thần Linh Chúa, người thổi hơi vào cho đời sống được duy trì. Nên chúng ta phải nói lên đức tin solus Deus, solus Christus solus spiritus - duy chỉ Thiên Chúa, duy chỉ Chúa Kitô, duy chỉ Chúa Thánh Thần.
Kinh Thánh là những cuốn sách chứa đựng Lời Chúa làm căn bản cho những chỉ dẫn cho đời sống thực hành của người tín hữu Chúa Kitô. Nhưng sách Kinh Thánh không phải là cuốn sách từ trời cao rơi đáp xuống trần gian. Mà trong đó mang đậm những nét văn hóa, ngôn ngữ và cách thế hiểu, cách sống đức tin vào Thiên Chúa của con người ở thời đại sách được gom góp viết ra thành văn bản. Như thế có thể nói được Lời Chúa được đúc kết gói ẩn trong ngôn ngữ lời nói của con người.
Trong sách Kinh Thánh chứa đựng những tường thuật truyền thống về đức tin. Những truyền thống này được thành hình dần dà trong thời gian đời sống cùng với nếp sống thần học văn hóa thời đại.
Vì thế, môn khoa nghiên cứu Kinh Thánh, dẫn giải Kinh Thánh luôn cần thiết để hiểu nhận ra ý nghĩa thần học chứa đựng trong đó cho thời đại con người hôm qua cũng như hôm nay.
Đức tin vào Chúa là quan trọng nền tảng cho đời sống thiêng liêng của Kitô giáo. Nhưng đâu phải chỉ có duy đức tin không, mà chúng ta ngoài đức tin ra còn có đức mến, đức cậy nữa.
Như thế cần phải nói sola Fide, sola caritas, sola spes. Ba nhân đức thần thánh nền tảng này diễn tả về ba khuôn mặt của Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Việc đi hành hương, rước kiệu, lần hạt kính Đức Mẹ Maria, kính các Thánh xin ơn phù giúp cầu bầu, cầu nguyện cho người qúa cố hay tạ ơn…không phải là công trạng thành tích để có được ơn cứu chuộc. Nhưng là cung cách sống đức tin xin phù giúp kéo ơn Chúa xuống cho đời sống tâm hồn đức tin của mình, đồng thời cũng là cung cách sống truyền giáo cho tình yêu Chúa giữa lòng xã hội con người. Và điều đó cũng nói lên cung cách sống của tâm hồn có lòng khiêm nhượng.
Nhớ đến cầu nguyện cho người qúa cố là cung cách sống lòng đạo đức tình liên đới, văn hóa lòng biết ơn với người đã qua đời: Tôi tin các Thánh cùng thông công.
===================
Hằng năm ngày 31.10. là ngày mừng kỷ niệm Phong trào cải cách của Giáo hội Tin Lành thệ phản Luther. Từ hơn 50 năm nay phong trào đại kết được nhấn mạnh. Những cuộc đối thoại trao đổi giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Tin Lành đã có những bước tiến khả quan xích lại gần nhau nhiều về phương diện thần học, như công nhận Bí Tích Rửa tội, cùng nhau cử hành phụng vụ Lời Chúa…
Ngày 31.10.2016 vừa qua Đức giáo hoàng Phanxico của Giáo hội Công giáo đã sang Thụy Điển thành phố Lund để cùng khai mạc 500 năm kỷ niệm Phong trào cải cách ngày xưa Martin Luther đã khởi xướng 1517- 31.10.- 2017.
”Với tuyên ngôn chung này, chúng tôi, các tín hữu Công Giáo và Luther, bày tỏ lòng biết ơn vui mừng đối với Thiên Chúa vì ơn được cầu nguyện chung tại Nhà thờ Chính tòa Lund nhân dịp khai mạc năm kỷ niệm 500 năm cuộc Cải Cách. 50 năm đối thoại đại kết song phương liên tục và có thành quả giữa Công Giáo và Luther đã giúp vượt thắng nhiều khác biệt và đã kiến tạo sự cảm thông lẫn nhau và tín nhiệm giữa chúng tôi. Đồng thời chúng tôi đã tiến đến gần nhau trong việc cùng phục vụ những người thân cận của chúng tôi, thường ở trong bối cảnh đau khổ và bị bách hại. Vì thế, qua đối thoại và cùng làm chứng tá, chúng tôi không còn là những người xa lạ nữa. Trái lại, chúng tôi đã học biết rằng có nhiều điều liên hết chúng tôi hơn là những điều chia rẽ.“ ( Tuyên ngôn chung Thụy Điển ngày 31.10.2016)
Tháng 11. 2016 cầu cho các Linh hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bước vào đời sống vĩnh cửu
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Hằng năm vào ngày 02.11. người tín hữu Chúa Giêsu Kitô dâng thánh lễ cầu kinh tưởng nhớ đến những người đã qua đời. Đó là nếp sống đức tin trong Hội Thánh Công giáo.
Cung cách sống đức tin này nói lên nếp sống văn hóa lòng biết ơn giữa người còn sống với người đã qua đời.
Cung cách sống đạo đức này thể hiện thâm sâu lòng xác tín: sự sống thay đổi chứ không mất đi, cho dù sự chết gây ra sự chia lìa thân xác cách đau buồn tiêu tan nơi cuộc sống trên trần gian.
Cung cách sống này diễn tả niềm hy vọng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại! Như Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại. Sự sống lại của Chúa Giêsu là tin mừng hy vọng cho linh hồn con người sau khi thân xác chết cũng được sống lại.
Trước nấm mồ hay trước di ảnh người qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc, những kỷ niệm ngày xưa đã cùng chung sống trải qua với người qua đời xuất hiện trở lại trong tâm trí. Con người hầu như ai cũng có thắc mắc về sự chết là gì vậy. Người tín hữu Chúa Kitô không cần phải tìm cách cắt nghĩa về sự chết, nhưng họ tìm hiểu về sự sống. Vì qua đời sống chúng ta tìm được ý nghĩa đích thật của toàn thể đời sống con người.
„ Trong khu rừng gìa yên tĩnh, chim chóc gục đầu rũ cánh, lim dim tìm giấc ngủ trưa trên các cành cây thưởng thức hương vị yên tĩnh buổi trưa hè nóng nực.
Đàng xa thình lình một chú chim Yến ngẩng đầu tư lự cất tiếng hỏi: “Đời sống là cái gì vậy?”
Mọi loài chợt tỉnh thức vì câu hỏi vang lên giữa bầu khí yên lặng. Câu hỏi thật khó mà trả lời. Cây Hồng dưới thung lũng vươn mình khoe hương sắc qua nhánh lá non tươi xinh vừa nhú khỏi thân cây và nụ hoa vừa chớm nở, lên tiếng trả lời: “Đời sống là một chuỗi phát triển. Không có phát triển không có sự sống mới!”
Chú Bươm Bướm mầu sắc óng ánh rực rỡ tung tăng bay lượn qua lại trên các nụ hoa tươi mới nở đang hút nhựa, thưởng thức hương hoa ngọt ngào từ các nhánh hoa nhí nhảnh lên tiếng: “Xem này, đời sống là niềm vui. Xem kìa ánh sáng mặt trời chiếu tỏa mọi nơi mang niềm vui đến cho mọi loài.”
Dưới gốc cây chú Kiến càng đang mệt nhọc bò từng đoạn đường, miệng tha ống hút mật. Có lẽ ống to hơn chú gấp năm mười lần, uể oải lên tiếng: “À, đời sống đâu là cái quái gì. Tất cả chỉ là cố gắng, hy sinh và làm việc...”
Chú Ong vàng bay lượn hút mật hoa kêu vo ve cũng góp lời: “Đời sống ư. Đời sống là một chuỗi biến chuyển, thay đổi, lúc làm việc, lúc nghỉ ngơi thưởng lãm!”
Chú Sâu đất trồi mình lên khỏi mặt đất thều thào lên tiếng: “Đời sống là một cuộc chiến đấu liên tục trong u tối!”
Chú Chim bắt sâu hóm hỉnh lên tiếng: “ Các bạn nói phải quá và hay lắm đấy. Nhưng có biết không, biết bao nhiêu lần người ta phải làm những cái, mà không biết điều đó là cái gì!”
Nghe thế mọi loài gục đầu tư lự suy nghĩ tiếp. Và họ hoài nghi ngay cả chính kinh nghiệm về đời sống của mình nữa...Thình lình một cơn mưa rào kéo đến làm tan bầu khí nặng nề sôi nổi. Anh ta lên tiếng: “Đời sống ư, nào có là gì khác hơn nước mắt, nước mắt và nước mắt!”
Những gịot nước mưa tụ lại thành một giòng nước nhỏ chảy theo các đường rãnh quanh co từ trên đồi cao xuống con suối bên dưới gần đó. Và từ đó lại tiếp tục chảy ra ngoài sông lớn. Sau nhiều tuần, nhiều tháng dòng nước chảy trôi xuôi ra tới biển cả mênh mông.
Ngoài đại dương những làn sóng bạc đầu dâng cao, đuổi nhau, chạy xô đập vào bờ biển làm bắn tung toé bọt sóng nước trắng phau lên bờ đá gồng ghềnh. Và rồi lại từ bờ đá sóng nứơc lấy đà tăng tốc độ chạy ngược trở ra ngoài khơi mênh mông. Ngọn sóng nước ầm vang như muốn gào thét thành lời: “Đời sống là một cuộc đuổi chạy vòng vo tiêu hao công lao sức lực đi tìm tự do.”
Trên bầu trời cao, xa tít tận mây xanh chú Phượng Hoàng dương đôi cánh bay lượn, chao đi chao lại, oai nghi hùng dũng cất tiếng quát: “Đời sống là vươn lên, vươn lên và vươn lên cao mãi!”
Một cơn giông kéo tới sườn đồi, tạt mạnh qua cánh đồng cỏ mọc xanh rì. Khiến thảm cỏ xanh nằm rạp xuống tận mặt đất theo chiều gío và phát ra những âm thanh rì rào như lời phát vào không gian: Đời sống là một cuộc uốn mình: có lúc phải ngả nghiêng theo chiều gío, có lúc phải khép mình theo một trật tự; có lúc phải âm thầm im lìm ẩn khuất, nhất là những khi đường đời có nhiều gánh nặng, lo âu, có nhiều khó khăn phải vượt qua...
Mặt trời đã lặn sang phía chân trời bên kia. Và màn đêm buông xuống bao phủ khắp cánh rừng. Trong lùm cây rậm rạp chú chim Cú mèo nhẹ nhàng chuyền từ cành này sang cành khác tìm mồi, thỏ thẻ lên tiếng: “Đời sống chẳng qua là những cơ hội cho ta, khi những con vật khác đi ngủ!”
Khu rừng bây giờ chìm hẳn trong đêm tối và trở nên yên lặng tĩnh mịch. Đêm đã khuya, xa xa trong một ngôi làng bên cạnh khu rừng, một cha xứ vừa thổi tắt ngọn đèn dầu hoa kỳ và nhủ thầm: “Đời sống ư, quanh năm ngày tháng bận bịu với việc đọc sách báo, suy tư, cầu nguyện và dọn bài. Đời sống có khác gì là một bài giảng!”
Cũng trong ngôi làng đó một thầy giáo ngồi chấm bài, âm thầm suy nghĩ: “Đời sống cũng chẳng khác gì hơn là suốt đời gắn liền với việc dậy dỗ con em học sinh nơi trường học!”
Đêm đã về khuya, trên con đường vắng bóng người, một chàng trai lầm lũi, dáng điệu mệt mỏi thất thểu bước đi lẩm bẩm một mình: Cuộc đời nói cho cùng lúc có nhiều giai đoạn : lúc hứng khởi rộn ràng, lúc sống dửng dưng lạnh lùng, lúc có niềm vui, lúc sống trong sầu buồn thất vọng...!
Một cơn gío nhẹ trong đêm khuya thổi tạt qua, như muốn nói cùng chàng trai này: Phải rồi, cuộc đời là một chuỗi vô định, nào có ai biết được sẽ đi về đâu!
Đêm dài qua đi. Bình minh ló dạng. Mặt trời mỉm cười lên tiếng: “Các bạn hãy xem đây, tôi mang niềm vui, ánh nắng sức sống cho vạn vật. Tôi là dấu hiệu khởi đầu cho một ngày mới. Cuộc đời là khởi đầu bước vào ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu!” (Theo truyện thần thoại xứ Thụy Điển: Das Maerchen vom Leben).
Đời sống như thế có nhiều bộ mặt khác nhau cùng có gía trị cao qúy. Vì đời sống không do con người hay một công thức máy móc nào tính toán ấn định làm ra. Nhưng do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tạo dựng ban cho con người, mà chúng ta tự hào cho đó là công trình thiên nhiên. Mỗi người với chương trình đời sống của mình đi vào lòng thế giới tiến vào đời sống vĩnh cửa ngày mai.
Ngày 02.11. hằng năm, ngày cầu nguyện tưởng nhớ các linh hồn, những người đã qua đời, là ngày chúng ta hướng lòng nhìn lên Chúa Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết
Tin tưởng vào sứ điệp phục sinh của Chúa Giêsu, ta hướng nhìn lên Mặt Trời trên cao chiếu tỏa ánh quang báo hiệu một đời sống mới không bao giờ tận cùng, như Chúa đoan hứa cho hết mọi người tin tưởng vào Ngài.
Lễ cầu cho các Linh Hồn, 02.11.2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Làm dấu thập gía
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Trong nếp sống phụng vụ đạo Công giáo không chỉ làm dấu thập gía đơn trước khi ngủ, trước khi ăn, trước khi đọc kinh cầu nguyện…Nhưng còn có ba dấu thập gía được cử hành liền một lúc bằng ngón tay trỏ trên trán, trên môi miệng và trên ngực nữa.
Ba dấu thập gía cử hành được cử hành trong mỗi thánh lễ Misa trước khi nghe đọc Phúc âm, đang khi nói lời tuyên xưng : Lạy Chúa Kitô ngợi khen Chúa!
- Làm dấu thập gía đơn đưa bàn tay phải theo đường thẳng từ trên trán xuống dưới ngực, và theo đường ngang hình chân trời từ bờ vai trái sang phía bờ vai phải, đang khi đọc lời kinh tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba ngôi: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thầ Amen.
Ta muốn nói: Thiên Chúa ở trên trời cao xuống trần gian, Thiên Chúa đến với con người, và con người liên kết với nhau trong Chúa Thánh Thần. Ba ngôi Thiên Chúa ở trong con, trên thân thể và trong tâm hồn.
Còn khi cử hành ba dấu thập gía bằng ngón tay trỏ ở ba vị trí khác nhau: trên trán một hình chữ thập, trên môi miệng một chữ thập và trên ngực một chữ thập nữa.
Khi làm dấu thập gía ở trên ba vị trí đó muốn nói lên điều gì?
- Làm dấu thập gía trên trán muốn nói lên: Con nghe Lời Chúa với trí suy hiểu của trí não trên đỉnh đầu thân thể.
Từ nơi trí óc những ý tưởng, chương trình được suy nghĩ phát triển ra. Cũng từ nơi bộ óc thu nhận lan toả ra những lo âu làm ta lo sợ, những vấn đề gây ưu tư sầu muộn. Và cũng từ nơi trí não phát truyền ra những điều ta hài lòng cũng như không hài lòng, những phán đoán tốt xấu , trong sáng vẩn đục, những lời hứa hẹn hay thất hứa, những suy nghĩ mới cũ, những điều vui buồn.
Vì thế dấu thập gía làm nơi đó muốn nói lên: Xin thập gía Chúa Kitô mang ơn cứu chuộc đến thánh hóa chúc phúc lành ban ơn tha thứ những gì từ đầu óc trí não phát xuất ra.
- Dấu thập gía làm trên môi miệng muốn diễn tả: con nghe Lời Chúa và muốn dùng môi miệng con loan truyền đi tiếp.
Môi miệng là cửa giao thương với mọi người, với thiên nhiên bằng tiếng nói ngôn ngữ những suy nghĩ trong trí óc. Lời nói có thể là những lời biểu lộ hòa bình, tình yêu thương thông cảm. Nhưng cũng có thề là những lời gẩy bất an, bất bình làm tổn thương người khác, những lời chân chính thành thật, mà cũng có thể là những lời gian trá , cũng có thể là những lời đầy kinh nghiệm sự khôn ngan mà cũng có thể là những lời vô bổ ích, lời khen ngợi và lời chê trách, lời mang đến niềm vui và lời gây ra khó chịu bực tức….
Dùng ngón tay vẽ hình thập gía trên môi miệng cầu xin sự thánh hóa, chữa lành chúc phúc cho những lời nói thoát ra từ cửa môi miệng, để lời nói thoát ra từ môi miệng không mang đến sự gì xấu độc hại cho người khác. Và nhất là biết nhường nhịn gìn giữ lời nói.
- Hình Thập gía làm trên lồng ngực chứa đựng tâm tình: Con nghe lời Chúa với lòng yêu mến.
- Trong lòng ngực thân thể con người cũng như loài thú động vật có trái tim, nơi là trung tâm bơm máu lan tỏa sự sống khắp cùng cơ thể, và đồng thời cũng là nơi phát tỏa tình yêu thương.
Trong dân gian nói đến ai có lòng tốt là muốn nói người đó có trái rộng mở quảng đại, hay người mẹ yêu thương con mình với tất cả tấm lòng là muốn nói người mẹ dành hết trái tim lòng yêu mến cho con mình.
Nhưng ta cũng ta sợ trường hợp người nào đó có trái tim lạnh lùng, không quan tâm chú ý gì đến người khác. Từ nơi trái tim phát tòa ra tình cảm sự thất vọng, lo âu sợ hãi, buồn phiền sầu não, không thông cảm…
Làm dấu thập tự Chúa Kitô trên lồng ngực muốn xin sự chữa lành tha thứ và tình yêu thương của Ngài cho những tình cảm từ nơi sâu thẳm trái tim của con người mình lan tỏa tình yêu thương tới cho người khác, hầu xóa tan những tiêu cực khó chịu cho nhau trong đời sống.
Hình Thập gía Chúa Giêsu Kitô là Logo của người Công giáo. Với những dấu thập giá Chúa Giêsu Kitô làm vẽ trên thân thể, nhất là nơi vị trí của trái tim, chúng ta muốn mở rộng trái tim tình yêu mến cùng sự sống cho Thiên Chúa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Tôi tin Thiên Chúa, nhưng…
- Nước trong ngôi nhà thiên nhiên
- Tạ ơn Trời Đất
- Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa
- Lòng thương xót với người làm khốn mình
- Lòng thương xót với những mảnh đời bất hạnh
- Nền văn minh tình liên đới
- ĐH giới trẻ thế giới 2016
- Đã diễn xảy ra như thế!
- Brexit khiến khối EU tan rã ?