Không nhượng bộ trung tín theo Chúa
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm người Công giáo Việt Nam mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta với lòng vui mừng và biết ơn các ngài.
Vui mừng biết ơn vì chúng ta có 117 Vị Thánh trên trời phù hộ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.
Vui mừng có các Thánh Việt Nam của chúng ta cùng đứng chung trong hàng ngũ các Thánh của Chúa từ khắp mọi dân nước trên trần gian đều có mặt trên trời bên ngai Thiên Chúa. Như Thánh Gioan trong sách Khải Huyền đã viết thuật lại: „Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế .“ ( Kh 7, 9)
Vui mừng hơn nữa, vì các Thánh của chúng ta đã để lại cho con cháu hậu duệ gương sáng sống động đức tin trung kiên vào Thiên Chúa, dù phải trải qua những cam go thử thách đe doạ cùng cám dỗ.
Các Thánh tử đạo sống đức tin trung kiên không nhượng bộ thỏa hiệp trước những dụ dỗ, hay bị đe doạ.
Thánh tử đạo Thầy giảng Giuse Nguyễn đình Uyển bị bắt ngày 29.05.1838 trong thời kỳ vua Minh Mạng bắt đạo gay gắt. Quân lính bắt Thầy bước qua Thánh gía, nhưng Thầy nhất định không chịu làm như thế.
Quan giận dữ đe doạ: Nếu mày không bước qua , tao sẽ chém đầu mày!“.
Thầy Uyển trả lời: Bẩm quan, nếu tôi bị chém chết, thì tôi mới trông được sống lại.………
Sau khi giam giữ thầy trong tù và cho đánh đòn, quan lại nói: Không sao, nếu muốn sống thì xuất giáo. Con chó còn muốn sống huống hồ là con người, hãy xuất giáo thì ta cho về ngay, bằng không thì phải chết!
Thầy Uyển trả lời: „Thưa quan, nếu quan thương thì tôi được nhờ, bằng không tôi sẵn sàng chết. Còn phải xuất giáo và bước qua thập gía thì tôi không bao giờ làm“
Vài ngày sau, quan lại đòi Thầy ra pháp đình và bắt phải bước qua thập tự . Quan hứa nếu lần này thầy bằng lòng bước qua, quan sẽ tha cho về ngay. Thầy Uyển thưa lại:
„ Bẩm quan, tượng này là tượng của Chúa trời đất muôn vật, xứng đáng cho hết mọi người phải thờ lạy. Nếu quan lớn tha thứ tôi được nhờ, bằng không tôi xin chịu chết cách vui lòng.“
Hết mọi người nghe lời ấy thì động lòng thương hại năn nỉ thầy: Ông chỉ việc bước qua thôi để được sống, tại sao ông không làm?.
Thầy trả lời: „Đời sống của tôi mau qua lắm. Tôi chỉ muốn dâng nó cho Thiên Chúa.“ ( Vũ Thành, Dòng máu anh hùng, Tập I I. ,tr. 137- 139.).
Thánh Giuse Uyển cũng như các Thánh tử đạo khác không coi thường sự sống là ân huệ cao cả, là qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Nhưng các ngài đặt lòng yêu mến Chúa, đức tin kính thờ Chúa lên trên. Các ngài tin rằng kính thờ, kính trọng Chúa, Đấng dựng nên sự sống con người, quan trọng hơn, đạo đức thâm sâu hơn. Vì thế các Thánh không nhượng bộ mà chối bỏ Chúa, không chà đạp bước qua thập gía Chúa Kito.
Các Thánh kính trọng sự sống do Chúa tạo dựng ban cho, các ngài muốn dâng đời sống trung thành vào Chúa, như Thầy Giuse Uyển tuyên xưng: „Đời sống tôi mau qua lắm. Tôi chỉ muốn dâng nó cho Thiên Chúa.“
Trong đời sống, con người luôn hằng vướng đụng vào những cám dỗ, thử thách làm cho xa lìa Chúa, chối bỏ Chúa cách tinh vi khôn khéo. Đó là những lúc, những giai đoạn hoang mang chao đảo hồ nghi, muốn tìm sự dễ dãi hay lạc vào đi tìm sự dễ dãi nhượng bộ.
Khi xưa trong lao tù, đức cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận, cũng đã sống trải qua những hoàn cảnh như thế. Nhưng ngài đã can đảm giữ vững tinh thần không nhượng bộ, giữ lý tưởng đức tin kiên trung vào Chúa. Và bây giờ ngài đã được Giáo Hội nâng lên hàng Bậc Đáng Kính trong tiến trình dự án phong Thánh, đã có cảm nghiệm suy tư: „ Không nhượng bộ, không phải là kiêu căng, tự ái hay ngoan cố. Không nhượng bộ là yêu thương quyết liệt lý tưởng của mình.“ (Đường Hy Vọng số 15.)
Thật là đời sống của một thánh nhân, như các Thánh tử đạo Việt Nam ngày xưa đã sống: có tâm hồn yêu mến Chúa và có tầm nhìn xa trông rộng!
Lễ giỗ năm thứ 15. Bậc Đáng Kính Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận, 17.09.2017
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Phero và thập gía
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Sau khi sống lại, Chúa Giesu hiện ra gặp các Tông đồ. Trong một lần hiện ra, Chúa Giesu nói chuyện với Thánh Phero, người được Chúa Giesu cắt cử đứng đầu các Tông đồ.
- Chúa Giêsu: Phero, chào con. Thầy nghĩ chúng ta cần noí chuyện lại về ý nghĩa sự đau khổ và thập gía..
- Phero khi nghe những lời đó của Chúa Giesu thì hơi ngượng nghịu có phần mắc cở, đưa nhìn ra xa có vẻ như hướng xuống đất nhiều hơn. Dẫu vậy, ông cũng nói, Dạ, thưa Thầy, nếu Thầy muốn con xin sẵn sàng nghe Thầy dạy bảo. Trong tâm trí con còn nhớ mãi cuộc nói chuyện lúc trước với Thầy, khi đó Thầy la mắng con đuổi con, cho con là satan. Đó là lời nguyền rủa nặng nề và rất nghiêm khắc, mà trước đó con chưa bao giờ sống trả qua với Thầy. Lời quở trách nguyền rủa đó của Thầy khi xưa làm con căm giận đau buồn không sao diễn tả cùng quên đi được!
- Chúa Giêsu: Này Phero, bây giờ sau khi Thầy sống lại, con có thể hiểu hơn điều liên qua tới Thầy. Con nhớ lại những giờ phút đau đớn cực độ cho tới chết trên thập gía Thầy đã phải quằn quại chịu đựng chiến đấu với sự chết và nhất blà sự cô đơn cảm thấy bị bỏ rơi một mình? Khi xưa đó Thầy đã trong cơn cùng cực cô đơn lớn tiếng kêu than: Lạy Chgúa, sao Chúa nỡ bỏ con? Và bây giờ thế nào? Con thấy và cảm nhận ra rằng Thầy sống. Thiên Chúa, cha Thầy đã đánh thức cho Thầy sống lại từ trong cõi người chết.
- Phero: Vâng, Thầy đã sống lại, đang sống giữa chúng con.
- Chúa Giesu: Phero con biết câu chuyện kể về hai dấu chân, nơi một môn đệ của Thầy có giấc mơ thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.
Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và phiền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa:” Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con ?”
Chúa quay sang bảo tôi:” Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha, vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!
- Phero khi nghe những lời tâm tình đó của Thầy Giêsu, Ông cảm động lấy tay lau quệt dòng nước mắt đang chảy ra trên khoé mắt mình, và tiến lại gần lắp bắp nới không thành tiếng: Giesu, lạy Chúa con, là Thầy con và là người nâng đỡ cứu giúp con!
- Chúa Giesu đặt tay trên vai Phero và nói: Phero, con đừng sợ, Thầy không bỏ con, Thầy hằng cùng đồng hành với con. Trong những giờ phút đau khổ khó khăn, con không chiến đấu một mình.
Sẽ giúp con có kinh nghiệm trong đời sống, khi con hiểu nhận ra sự đau khổ của Thầy nơi đau khổ của con, thập gía của Thầy nơi thập gía của con. Và khi đó con ssẽ càng thấu hiểu thâm sâu hơn nữa mầu nhiệm qua sự đau khổ và thập gía Thầy đã mang ơn cứu độ cho con người.
Điều này khi xưa con đã chưa hiểu. Và khi đó con đã can ngăn Thầy đừng lên Gierusalem để phải chịu đau khổ vác thập gía.
- Phero: Vâng bây giờ con hiểu nhận ra gía trị của đau khổ và thập gía Thầy đã trải qua.
- Chúa Giesu: Sau khoảnh khắc im lặng Chúa Giesu hỏi Phero: Simon, con có yêu mến Thầy hơn những người khác không? Phero: Thưa Thầy, Thầy biết đấy, con yêu mến Thầy.
Sau ba lần Phero nói lên lòng yêu mến với Thầy mình. Chúa Giesu trao cho Phero nhiệm vụ là mục tử người chăn chiên, nhiệm vụ lo phần đạo giáo thiêng liêng trong Hội Thánh Chúa trần gian.
Và Chúa Giesu còn cho Phero biết : Khi con còn trẻ, con tự mình thắt dây và đi đâu có thể như ý muốn. Nhưng khi con đến tuổi gìa, người ta sẽ kéo chân tay con ra, sẽ cột buộc con lại, đưa con đi đến nơi con không muốn. Nhưng con hãy theo Thầy!
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Thánh Phero đã thêm sức mạnh cùng lòng nhiệt thành can đảm cho Phero rất nhiều.
Vâng theo lệnh truyền sai đí của Chúa Giesu trước khi về trời: Anh hem hãy ra đi làm chứng cho Thầy đền tận cùng mọi biên giới trái đất. Thánh Phero đã lặn lội vượt biển sang thành Roma lập Hội Thánh Công giáo, nơi đây Thánh nhân chịu nhiều thử thách đau khổ vì bị vua chúa đế quốc Roma cấm đạo Kito giáo bắt bớ giết hại.
Theo tương truyền, Thánh Phero đã một lần trốn ra khỏi thành Roma, nhưng dọc đường Chúa Giesu hiện ra. Phero hỏi Chúa: Quo vadis , Domine - Lạy Chúa , Chúa đi đâu?. Chúa Giesu trả lời: Thầy đi chịu chết!
Nghe thế, Phero hiểu ra ý Chúa muốn. Và Phero trở lại thành Roma để được chết vì đức tin vào Chúa Giesu.
Năm 67 sau Chúa giáng sinh, Phero bị tuyên án tử hình đóng đinh vào thập gía. Vì lòng khiêm nhường, Phero xin cho được đóng đinh ngược, không như Thầy Giesu khi xưa.
Lễ kính thánh gía Chúa Giesu, 14.09.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cử chỉ bái gối trước Thiên Chúa toàn năng.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đâu đâu đời sống được thể hiện qua nhiều hình ảnh dấu chỉ. Hình ảnh dấu chỉ diễn tả điều chúng ta muốn tỏ bày nói lên.
Có những hình ảnh dấu chỉ người ta phải cắt nghĩa. Nhưng cũng có những hình ảnh dấu chỉ không cần phải làm điều đó. Như khi trao tặng bó bông hoa, cử chỉ tay bắt mặt mừng, ôm hôn mừng rỡ gặp nhau tình thân ái không cần phải nói gì. Tự nó đã là ngôn ngữ diễn tả cắt nghĩa tất cả rồi.
Đôi khi cũng có những dấu hiệu cử chỉ trong đời sống khó cắt nghĩa sao cho đúng cho ngay chính. Những dấu hiệu cử chỉ đó được thể hiện trong yên lặng, vì những điều đó được nhận hiểu ra trong bầu khí thinh lặng.
Trong đời sống tôn giáo đạo đức với Thiên Chúa, với Thần Thánh, con người thực hiện nhiều dấu hiệu cử chỉ. Trong phụng vụ thờ kính Thiên Chúa có nhiều động thái: bái gối, qùy gối trên nền nhà hoặc trên bàn qùy, khoanh tay, chắp đôi bàn tay trước ngực, đưa tay làm dấu thập gía trên thân thể, cúi mình, nằm rạp sấp mình xuống sát mặt đất và còn nhiều hành động khác nữa.
Người Công giáo có tập tục đạo đức khi vào nhà thờ có nhà Tạm Mình Thánh Chúa, hay trước thập gía Chúa Giêsu, cung kính thường bái gối kính chào Chúa Giesu .
Khi cầu nguyện trước bàn thờ Chúa trong nhà thờ, chúng ta cũng thường hay qùy hai gối, hai tay chắp lại trước mặt.
Cử chỉ bái gối hay qùy gối như thế muốn nói lên lòng kính trọng yêu mến Thiên Chúa, và đồng thời cũng muốn diễn tả lòng khiêm nhượng của mình nhỏ bé trước Đấng Toàn năng. Nó diễn tả sự thâm sâu của trái tim tâm hồn toát ra bên ngoài. Bái gối hay qùy gối không là hành động tự kỷ ám thị cho mình là con số không, nhưng là thể hiện lòng đơn thành khiêm hạ.
Cử chỉ qùy gối, bái gối nói lên sự giới hạn con người của người làm điều đó. Họ bái gối không chỉ muốn nói lên mình nhỏ bé, nhưng qua đó họ gần với đất hơn, nơi con người được tạo dựng sinh thành, sinh sống và sau cùng trở về nơi đó.
Bái gối hay qùy gối trước Thiên Chúa là ngôn ngữ muốn nói lên: Kính thờ sự thánh thiêng cao trọng của Thiên Chúa , và qua đó con người tự biết mình hơn.
Cử chỉ qùy bái gối của người tín hữu Chúa Kitô không là hình thức của sự hội nhập văn hóa, nhưng trái lại là nếp sống của văn hóa Kitô gíao.
Qùy bái gối không phát xuất từ một nền văn hóa nào, nhưng là từ Kinh Thánh và từ những hiểu biết nhận thức về Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh Tân ước từ ngữ „sấp mình xuống“ xuất hiện 59 lần, riêng trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan diễn tả về phụng vụ trên trời nói tới sấp mình bái qùy gối 24 lần, mà Hội Thánh áp dụng trong phụng vụ cũng theo thể thức cung cách đó theo ba cách thức gần sát họ hàng với nhau: Nằm sấp mình trải thân thể sát đất trước Thiên Chúa toàn năng, ngồi xát dưới chân và qùy gối.
Khi Giosua thấy Vị Chỉ huy của Thiên Chúa xuất hiện, Ông sấp mình xuống sát mặt đất . ( Sách Giosua 5,14).
Chúa Giêsu trong vườn ở núi cây dầu đã sấp mình xuống đất cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha ( Mc 14,35).
Trong phụng vụ Hội Thánh, hai ngày lễ tưởng niệm Chúa Giêsu chịu chết trên thập gía ngày thứ Sáu Tuần Thánh , và lễ phong chức thánh Phó tế, Linh mục và Giám mục, còn giữ cung cách nằm sấp mình xuống đất.
Ba nhà Đại Sĩ khi nhận ra ngôi sao Đấng Cứu Thế xuất hiện đã tìm đến sấp mình thờ lạy hài nhi Giêsu . ( Mt 2,11).
Trong phúc âm bốn nhiều lần nói đến qùy gối ( Mc 1,40- Mc 10,17- Mt 17,14, 27,29, Mt 14,33, Ga 9,35-38).
Khi cầu nguyện họ qùy gối dang tay ra như cảnh Vua Salomon và dân chúng trong ngày khánh thành thánh hiến đền thờ . ( 2 Sách Sử Biên 6,12-15).
Sau thời lưư đầy trở về quê hương Do Thái, lúc đó không có đền thờ, Esra dâng lễ vật cầu nguyện với cung cách qùy gối giơ hai tay lên cao cùng Thiên Chúa. ( Sách Esra 9,5).
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại Thánh Phero, Thánh Phaolo và Cộng đoàn Hội Thánh khi cầu nguyện cũng qùy gối đọc kinh. ( Cv 9,40, 20,36 và 21,5).
Thánh Stephano vị tử đạo tiên khởi của Hội Thánh đã qùy gối cầu nguyện khi bị xử án ném đá. ( Cv 7,60).
Thần học đạo đức về cung cách qùy gối khi cầu nguyện chúc tụng Thiên Chúa diễn tả rộng rãi cùng sâu xa nơi thánh thi ca ngợi Chúa Giesu Kito:
„ Khi vừa nghe danh thánh Giê-su,cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ;
Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa“. ( Philiphe 6, 10-11).
„ Cung cách Qùy bái gối của người tín hữu Chúa Kito như Thánh Luca diễn tả xa lạ trong văn hóa của Hy Lạp. Đó là ngôn ngữ đặc thù của Kitô giáo. Có thể đối với nền văn hóa mới xa lạ, nếu một nền văn hóa không biết đến đức tin, và không biết đến đức tin nữa, trước Đấng mà ta phải qùy bái gối diễn tả điều thâm sâu trong thâm tâm ra bên ngoài bằng cử chỉ.
Người nào học hỏi tin, cũng học cung cách cử chỉ bái qùy gối. Và một đức tin, hay một phụng vụ mà không còn biết đến bái qùy gối nữa, (như thế) điểm trung tâm sẽ trở thành bệnh họan. Nơi nào cung cách cử chỉ bái qùy gối đã bị sao lãng biến mất, phải học lại thói tục cung cách đó, để chúng ta tự mình lưu lại trong khi cầu nguyện với cộng đoàn các Thánh Tông đồ và các Thánh Tử đạo, với cộng đoàn của toàn thể vũ trụ và trong hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô. „ (Joseph Kardinal Ratzinger, Der Geist der Liturgie, Eine Einführung, Herder Freiburg, 6. Auflage 2002, tr. 166.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Dominus vobiscum - Chúa cùng Anh Ch Em!
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mở đầu thánh lễ hay một nghi lễ phụng vụ, linh mục chủ tế dang đôi tay rộng ra hai bên hướng về phía tín hữu tham dự và nói: Dominus vobiscum - Chúa ở cùng Anh Chị Em.
Nếu Vị chủ tế thánh lễ, nghi lễ phụng vụ, là Đức Giáo Hoàng hay một vị Giám mục, các ngài sẽ nói: Pax vobiscum - Bình an của Chúa ở cùng Anh Chị Em!
Cộng đoàn tín hữu đáp lại: „Et cum spiritu tuo - Và ở cùng cha!“
Lời chào hay đúng hơn lời cầu chúc này có trong lễ nghi phụng vụ của Hội Thánh Công giáo Roma, Hội thánh bên Đông phương theo nghi lễ Byzantino, cũng như trong Hội thánh Tin lành Luthero.
Công thức lời chào cầu chúc này có lịch sử nguồn gốc nơi sách Kinh Thánh:
„ Và kìa ông Bô-át từ Bê-lem đến, nói với thợ gặt: "Xin ĐỨC CHÚA ở cùng các anh! " Họ nói: "Xin ĐỨC CHÚA giáng phúc cho ông!“ ( Ruth 2,4)
Thánh Phaolo viết thư chào cầu chúc môn đệ Timotheo: „Chúa ở cùng thần trí anh. Chúc anh em được ân sủng.“( 2 Timotheo 22)
Hơn nữa lời chào, lời cầu chúc này chính là lời thần thánh của Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin chào đức mẹ Maria: „ Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng chị.“ ( Luca 1,28).
Lời chào, lời cầu chúc Dominus vobiscum - Chúa ở cùng Anh Chị Em! không là ngôn ngữ thần học khô khan cao siêu khó hiểu trong sách vở nghiên cứu. Nhưng là ngôn ngữ sống động dễ hiểu trong đời sống hằng ngày đi vào tâm hồn con người.
Lời chào, lời cầu chúc này loan báo Tin Mừng của Chúa cho con người: Thiên Chúa hằng luôn cùng đồng hành ở gần mọi người trong mọi hoàn cảnh!
Lời chào, lời cầu chúc đó có âm vang chiều sâu của tâm và trải rộng ra xa của tầm nhìn suy nghĩ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lời tuyên tín
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Ở các nước trên thế giới vào mùa tranh cử, các bích chương quảng cáo của đảng phái, các cá nhân ứng cử vào các cơ chế địa vị chính trị xã hội được dán treo khắp mọi nơi đường phố, nhất là nơi công cộng có nhiều người tụ họp qua lại. Mục đích kéo chú ý gây ấn tượng để người dân bầu phiếu cho mình ngày bầu cử.
Vào dịp bầu cử Giáo Hoàng của Hội Thánh Chúa, như năm 2005 và năm 2013 vừa qua không có bích chương quảng cáo tranh cử. Nhưng các vị Hồng Y họp kín trong nhà nguyện Sixtin bên Vatican cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng bầu chọn vị Giáo Hoàng mới.
Chúa Giêsu ngày xưa đi rao giảng truyền bá nước Thiên Chúa cũng không làm quảng cáo bích chương kéo chú gây ấn tượng trong dân chúng. Nhưng những lời rao giảng về tình yêu nước Thiên Chúa của Ngài, những hành động lòng thương xót bác ái cứu giúp con người Ngài thi hành làm nền tảng giáo lý cho đời sống đạo giáo tinh thần con người.
Đi rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ làm người kế vị thành lập Hội Thánh Chúa ở trần gian. Và trong số 12 Tông đồ Chúa Giêsu muốn chọn một vị làm thủ lãnh đứng đầu Hội Thánh. Cung cách tuyển chọn cũng không dựa vào tranh cử cùng năng lực cá nhân, nhưng trên lòng tin vào Chúa. Chính vì thế Chúa Giêsu hỏi 12 Tông đồ: các con cho Thầy là ai?
Tông đồ Phero đã nói lên mạnh mẽ lời tuyên xưng: Thầy là Đấng cứu thế con Thiên Chúa. Và sau khi Phero tuyên xưng đức tin như thế, Chúa Giêsu đã chọn Phero làm thủ lãnh đứng đầu Hội Thánh: trao cho Ông chìa khóa thiêng liêng quyền năng cầm buộc và tháo mở cánh cửa thiêng liêng cho phần rỗi con người. Và Ngài còn đoan hứa bảo đảm Hội Thánh Chúa được xây trên nền tảng Phero, mà Chúa Gêsu gọi tên là phiến đá vững chắc không sao có thể lay chuyển phá đổ được.( Mt 16,13-20)
Địa điểm diễn ra cuộc đối thoại lời tuyên tín và sự tuyển chọn Phero đứng đầu Hội Thánh ở là vùng Caesarea Philippi. Đây là vùng núi đá cao nơi là đầu nguồn của sông Jordan, nơi này cũng là một trong những thánh địa lơn thờ kính thần Pan do vua Herode thiết lập. Và Vua Herode đã ra chiếu chỉ chọn địa điểm này làm thủ phủ chính trị của toàn vùng phía Bắc nước Israel cho chính phủ mình. Và vì thế Ông đã lấy tên Hoàng đế Caesar Augustus và tên mình đặt tên cho miền này. (Joseph Ratzinger Benedickt XVI. JESUS von Nazareth, Herder 2007, trang 333-336)
„Phero con là đá. Trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy“ ( Mt 20,18). Có thực sự Phero là phiến tảng đá không?
Ông Phero không phải là một tảng phiến đá cứng nhắc khô khan vô hồn như đá ở núi đồi hay đá trải lót làm đường. Nhưng Ông là một con người có thân xác lúc khoẻ, lúc yếu đau, có tinh thần cũng có lúc cương trực can đảm và cũng có lúc sa ngã yếu hèn như bao người khác do được Thiên Chúa tạo thành nên.
Ông Phero tự bản thân không phải là phiến tảng đá nền tảng Hội Thánh Chúa, nhưng chính Chúa Giêsu, người đã đoan hứa bảo đảm ban sự vững chắc cho phiến đá không vững chắc Phero.
Và trong dòng lịch sử Hội Thánh, Chúa tuyển chọn những người yếu đuối làm người cộng tác trong công việc xây dựng nước Chúa ở trần gian. Đây là một mầu nhiệm đức tin, như thánh Phaolo viết suy tư:“ Thiên Chúa đã chọn sự yếu đuối trong trần gian, để làm cho những hùng mạnh phải xấu hổ.“ ( 1 cor 1,27).
Thánh Phero cũng đã nói đến chính Chúa Giêsu là tảng đá mà người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá chính góc tường nâng đỡ cho tòa nhà. ( 1Phero 2,7).
„ Thầy trao cho con chìa khóa nước trời: dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc; dưới đất con cởi tháo điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.“ ( Mt 16,19).
Chìa khoá thiêng liêng nước trời trao cho Phero không là chiếc chìa khóa để mở khóa cửa, khóa cổng dinh thự đền đài, nhà cửa. Nhưng đó là hình ảnh Chúa Giêsu trao cho Phero trách nhiệm phục vụ Hội Thánh Chúa ở dưới trần gian. Trách nhiệm thiêng liêng đó tiếp tục loan truyền sứ điệp tin mừng ơn cứu độ của Chúa cho con người dẫn đường mở lối cho họ đi vào cửa kho tàng trên trời với Chúa.
Thánh Phero thường được vẽ họa hay khắc tượng tay cầm chìa khóa và nơi chìa khóa có khắc hình thập gía. Điều này chỉ dẫn ra công việc loan truyền công bố sự chết và sống lại chúa Giêsu là chiếc chìa khóa ngày xưa Chúa Giêsu trao cho Phero. Chiếc chìa khóa thiêng liêng dẫn đưa con người đền sự sống trọn vẹn bên Chúa.
Tảng phiến đá và chìa khóa là những hình ảnh nói lên: Chúa Giêsu ban tặng con người bờ bến bình an ơn cứu độ, và chờ đợi con người đến mở cửa ơn cứu độ đó.
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Nếp sống lòng thương xót
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ hơn thập niên qua phong trào sùng kính lòng Chúa thương xót phát triển lan rộng thịnh hành khắp nơi. Đây là việc đạo đức tốt lành.
Nhưng lòng thương xót được hiểu quảng diễn như thế nào? Đã có nhiều suy tư về việc này dựa trên nền tảng Kinh Thánh cũng như truyền thống đạo đức xưa nay, cùng những mẫu gương sống đức tin của nhiều vị Thánh trong Giáo Hội.
Xưa nay hầu như ở các quốc gia trên thế giới đều có Hội hồng thập tự. Hội này có nhiệm vụ cứu giúp những người lâm hoàn cảnh cần được cấp cứu giúp đỡ như bị bệnh, bị thương, bị tai nạn cần được chuyên chỡ tới bệnh viện, cần giúp đỡ cho thoát khỏi vùng bị tai nạn đang hoành hành.
Khi đến cấp cứu những người lâm hoàn cảnh như thế, Hội không cần biết người cần được giúp đỡ về gốc tích mầu da chủng tộc hay tôn giáo, địa vị nghề nghiệp sinh sống.
Họ giúp vì người đó cần sự giúp đỡ mà chính người đó không thể tự làm cho mình được.
Lòng thươmg xót, công việc giúp đỡ thương người của Hội làm việc bác ái luôn túc trực sẵn sàng cùng vượt qua mọi biên giới rào cản phân biệt và cho hết mọi người kể cả người xa lạ và kẻ thù nữa.
Sự cứu giúp người trong hoàn cảnh khó khăn là ưu tiên trước hết.
Một xã hội như vậy là một xã hội có đời sống tôn trọng phẩm giá con người, có nếp sống đạo đức bác ái tình người.
Phúc âm thuật lại một người mẹ đến kêu xin Chúa Giêsu giúp đỡ chữa cho người con bị bệnh nặng. Người mẹ này chưa bao giờ được nghe Chúa Giêsu nói về nước Thiên Chúa. Bà không phải là người Kitô giáo. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có thể giúp bà. Chúa Giêsu thấy lòng tin của bà nên liền ra tay cứu giúp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.“.
Trong đời sống luôn có nhiều người không phải là Công giáo. Nhưng họ tin, họ cần sự trợ giúp của Thiên Chúa, của Trời cao. Nên họ cũng đi đến thánh đường, đến thánh địa hành hương cầu nguyện cùng Thiên Chúa, cùng Đức Mẹ, cùng các Thánh như mọi người Công giáo.
Họ tin, và sống lòng tin vào Thiên Chúa qua lời cầu khẩn thiết tha xin được ơn cứu giúp.
Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót chắc chắn nhìn thấu lòng tin của con người, và Ngài ban ơn trợ giúp khi con người cần đến cho đời sống tâm linh tinh thần cũng như thể xác.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
- Viết bởi Lm. Pherô CMC
Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Các nền tảng tín lý Đức Maria hồn xác lên trời trong lịch sử Giáo Hội
- Viết bởi Linh Tiến Khải
Ngày mùng 1 tháng 11 năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII công bố Tông hiến ”Munificentissimus Deus” Thiên Chúa rất quảng đại định nghĩa tín điều Đức Maria hồn xác lên trời.
Tông hiến trình bầy ba lý chứng. Trước hết là sự đồng thuận của hàng Giám Mục toàn thế giới; lần này các Giám Mục đồng nhất hơn khi định nghĩa tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội một thế kỷ trước đó. Tiếp đến Tông hiến tóm gọn lịch sử cho thấy kiểu đức tin nơi biến cố Đức Maria hồn xác lên trời được khẳng định, phát triển, biện minh và thắng thế và trở thành một sự thật đại đồng trong Giáo Hội. Và sau cùng Tông hiến chỉ cho thấy các nền tảng mạc khải của niềm tin này trong Giáo Hội: đó là sự kết hiệp mật thiết giữa Mẹ Maria với Chúa Kitô như Thánh Kinh dậy, đặc biệt là Tiền Tin Mừng sách Sáng Thế chương 3 câu 15, được minh giải bởi giáo lý truyền thống Evà Mới.
Lý do thứ nhất là sự đồng thuận của hàng Giám Mục trên thế giới, dựa trên một giáo lý nền tảng của Giáo Hội công giáo: đó là Huấn Quyền bình thường và phổ quát của Giáo hội, không thể sai lầm trong việc dậy dỗ chân lý mạc khải, không phải do các nghiên cứu hay các sự hiểu biết tự nhiên, nhưng nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, bảo đảm nguồn gốc mạc khải của điều Giáo Hội dạy một cách đồng nhất, độc lập với các chứng tá tích cực hay suy tư triết lý có thể dẫn đưa tới giáo huấn của mình. Chính vì các Giám Mục đã trả lời một cách đồng nhất chưa từng thấy cho câu hỏi có thể định nghĩa tín lý Đức Maria hồn xác lên trời không, nên Tông huấn kết luận: ”Vì thế, từ sự đồng ý phổ quát của Huấn quyền bình thường của Giáo Hội được rút tiả ra một lý do chắc chắn và bảo đảm để khẳng định rằng việc xác của Trinh Nữ diễm phúc được đưa lên trời - điều đó liên quan tới sự vinh quang của thân xác đồng trinh của Mẹ Thiên Chúa oai nghiêm - không thể được biết bởi khả năng nhân loại nào với các sức lực tự nhiên của nó, là sự thật được Thiên Chúa mạc khải, và vì thế tất cả mọi con cái của Giáo Hội phải tin với sự vững vàng và trung thành”.
Dĩ nhiên lý luận có tính cách tín lý này không thể có giá trị đối với người không chấp nhận sự không thể sai lầm của Huấn Quyền bình thường và phổ quát của Giáo Hội. Chẳng hạn như trường hợp của các anh em tin lành không chấp nhận bất cứ huấn quyền bất khả ngộ nào. Các anh em chính thống trái lại chỉ có thể chấp nhận một định nghĩa tín lý, khi do một Công Đồng Chung ban hành.
Liên quan tới sự phát triển lịch sử giáo lý về việc Đức Mẹ hồn xác lên trời, chứng tá đầu tiên là của Giám Mục Epifanio, sống trong vùng Galilea và qua đời tại Salamina năm 403. Trong bút tích của mình Đức Cha Epifanio ba lần đặt vấn nạn về cái chết của Đức Maria và đưa ra ba giả thuyết có thể và được nhiều tác giả khác nhau ủng hộ. Giả thuyết thứ nhất là Đức Maria đã không chết, mà đã được Thiên Chúa chuyển lên nơi tốt lành hơn; giả thuyết thứ hai là Đức Maria đã chịu tử đạo; và giả thuyết thứ ba là Đức Maria đã chết một cách tự nhiên. Giám Mục Epifanio không biết lựa chọn giả thuyết nào, vì đã không có ai biết Đức Maria đã kết thúc cuộc sống ra sao. Nhưng người nghĩ rằng sự kết thúc đó phải ”vinh quang” xứng đáng với Mẹ. Chứng tá của Giám Mục Epifanio bảo đảm cho chúng ta biết rằng vào cuối thế kỷ thứ V đã không có truyền thống nào chính xác liên quan tới cái chết của Đức Maria, trên bình diện lịch sử cũng như trên bình diện tín lý.
Sau Đức Cha Epifanbio là chứng tá của khoảng 20 tác phẩm mạo thư có nguồn gốc khác nhau và thuộc các gia đình khác nhau. Các tác phẩm cổ xưa nhất xem ra là các mạo thư Siri, Ai Cập và các mạo thư của một gia đình Hy lạp. Trên bình diện lịch sử thì không có gì chắc chắn cả, nhưng chúng diễn tả phản ứng của đức tin bình dân trong hai thế kỷ thứ V-VI đối với sự kết thúc cuộc sống của Đức Maria. Tư tưởng chung của các mạo thư là thân xác Đức Maria không thể bi hư nát trong mộ được. Nhưng liên quan tới điều kiện của nó thì các tác phẩm không đồng nhất với nhau. Một vài tác phẩm cho rằng xác Đức Maria không hư nát đang nằm trong thiên đàng hạ giới chờ sự sống lại trong ngày sau hết. Vài tác phẫm khác xem ra mới hơn, cho rằng xác Đức Maria đã được sống lại và đã được đưa lên trời trong vinh quang bên cạnh Chúa Giêsu Con Mẹ.
Các tài liệu phụng vụ cũng trình bầy một sự tiến triển tương tự. Các nguồn gốc của lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời chưa được minh giải hoàn toàn. Các dấu chỉ đầu tiên của lễ ”sự qua đi” của Đức Maria hay ”Đức Maria ngủ”, được tìm thấy bên Đông Phương giữa các năm 540-570, như được các tín hữu hành hương đã viếng thăm Giêrusalem thời đó kể lại. Ít lâu sau đó, vào khoảng năm 600 hoàng đế Maurizio ra sắc lệnh mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời vào ngày 15 tháng 8 trong mọi vùng thuộc đế quốc Bisantin.
Bên Tây Phương các dấu hiệu đầu tiên của một lễ ”nhớ” Đức Trinh Nữ là vào thế kỷ thứ VI, bên Gallia, cử hành ngày 18 tháng Giêng dưới tước hiệu lễ ”đặt xác Đức Thánh Maria”. Lễ Đức Maria hồn xác lên trời được du nhập sang Roma vào thế kỷ thứ VII cùng với các lễ khác kính Đức Maria như lễ Thanh Tẩy, lễ Truyền Tin và lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, nhưng ngay lập tức nó trở thành lễ quan trọng nhất và ngay từ đầu đã có tên gọi và ý nghĩa như hiện nay: lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.
Thế rồi từ Roma lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời lan sang toàn Tây Phương một cách nhanh chóng trong các thế kỷ thứ VIII và thứ IX, kể cả Gallia, bằng cách xác định nội dung và thay đổi ngày mừng lễ. Các nguồn gốc và sự phát triển của ngày lễ cũng như việc duyệt xét kỹ lưỡng các chứng tá phụng vụ cho thấy sự phát triển giáo lý: ban đầu đối tượng của việc phụng tự là ”sự chuyển tiếp”, việc bước vào cuộc sống trên trời của Đức Maria, sau này là ”việc hồn xác lên trời”.
Sự phát triển này xem ra đã hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ VII và đầu thứ ký thứ VIII bên Đông Phương, nhưng có các dầu chỉ minh nhiên tính cách mới mẻ nơi bốn chứng nhân thời đó là Germano thành Constantinopoli qua đời năm 733; Andrea đảo Creta qua đời năm 740; Giovanni Damasceno qua đời năm 749; và tác giả của một bài thuyết giảng về lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, được gán cho Đức Cha Modesto, Giám Mục Giêrusalem, qua đời năm 634. Khi giải thích và biện minh cho lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời như chúng ta hiểu hiện nay, các tác giả này đã quy chiếu về các tác phẩm mạo thư hay truyền thống. Nhưng một cách thường xuyên hơn các vị biện minh cho niềm tin chung với các lý lẽ phát xuất từ thánh mẫu học tổng quát như: sự thánh hiến thân xác của Đức Maria qua chức làm Mẹ Thiên Chúa, danh dự mà Chúa Con dành cho Mẹ mình, sự kết hiệp thực sự giữa Mẹ và Con, việc Đức Maria thụ thai và sinh con đồng trinh, danh dự của Đức Maria như là Evà Mới (Damasceno). Các lý do này đã không chiếm được sự chấp thuận ngay lập tức đối với giáo lý Đức Mẹ hồn xác lên trời, vì chúng ta còn tìm thấy các thắc mắc và các nghi ngờ cho tới thế kỷ thứ X. Nhưng sự minh giải của phụng vụ đã nhanh chóng chiếm hữu được sự khẳng định tích cực. Có thể nói rằng tư tưởng của Giáo Hội Bisantin đã được vĩnh viễn xác định từ thế kỷ thứ X.
Bên Tây Phương sự phát triển giáo lý tiến hành chậm hơn bên Đông Phương. Mặc dù có sự chỉ dẫn rõ ràng của phụng vụ, từ thế kỷ thứ VII tới thế kỷ thứ X có nhiều tác giả vẫn tỏ ra nghi ngờ. Vào thế kỷ thứ IX một tác giả nổi tiếng như ông Pseudo-Girolamo, tóm tắt tư tưởng của họ bằng cách nói rằng ”Tốt hơn là để tất cả mọi sự cho Thiên Chúa, là Đấng không có gì là không thể làm được, hơn là định nghĩa một cách táo bạo từ quyền bính của chúng ta điều mà chúng ta không thể chứng minh được”. Có một tác phẩm phổ biến dưới tên của Agostino, thường được gọi là Pseudo Agostino, được cho là sáng tác hồi thế kỷ XII, nhưng có lẽ đã có ngay từ thế kỷ thứ X. Nội dung và có lẽ chủ ý của nó là trả lời cho lập trường của tác giả Pseudo Girolamo kể trên và cho rằng, vì không có một khảo luận chắc chắn nào liên quan tới Đức Maria hồn xác lên trời, thì phải xem xét lý do đâu là sự thật, như thế ”sự thật trở thành quyền bính”.
Lý do nền tảng là ơn thánh và phẩm giá đặc biệt mà Thiên Chúa đã vinh danh Đức Maria. Điều này loại trừ một cách tuyệt đối sự hư nát của thân xác đồng trinh của Mẹ và làm chứng rằng Thiên Chúa đã phải ban cho Mẹ danh dự đó. Ngoài ra, ”Chúa Giêsu Kitô, là Đấng toàn năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng đã có chung mọi sự với Thiên Chúa Cha, và vì thế có thể làm tất cả mọi sự Người muốn, và muốn rằng tất cả mọi sự đều công bằng và xứng đáng, đã phải muốn sự vinh quang tràn đầy của Mẹ”. Đây là nguyên tắc của thần học gia Duns Scoto, nhưng đã được trình bầy trước hai ba thế kỷ.
Tuy nhiên, các thần học gia tiếp tục bị chia rẽ trong vài thế kỷ, có người thuận, có kẻ nghi ngờ và không chắc chắn. Cũng nên ghi nhân sự kiện cả một vài vị trong số các chuyên viên thánh mẫu học nổi tiếng nhất như thánh Bernarđo và Duns Scoto cũng không nhấn mạnh một cách đặc biệt giáo lý Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhưng từ từ dư luận chung thành hình, dựa trên các lời trích kinh thánh (Tv 44,10.14-16; Tv 103,8; Dc 3,6; Kh 12,1 tt... ) và dựa trên lý lẽ thần học việc Đức Maria hồn xác lên trời được tin một cách đạo đức, nghĩa lá được coi như một giáo lý có nền tảng và được chấp nhận với lòng mến và sự tôn trọng trong Giáo Hội, nhưng không bắt buộc.
Từ hậu bán thế kỷ XV, nghĩa là sau năm 1450, thái độ của các thần học gia thay đổi. Giáo lý về việc Đức Mẹ hồn xác lên trời được chứa đựng rõ ràng trong lễ phụng vụ và được rao giảng một cách phổ quát, xem ra chắc chắn tới độ không chấp nhận nó sẽ là điều bất cẩn và gây gương mù gương xấu.
Một vài thần học gia bắt đầu coi nó là đức tin, vì được tin một cách đại đồng trong Giáo Hội. Người khác như Suarez thì coi nó ngang hàng với giáo lý về sự vô nhiễm ngyuên tội và nói rằng một ngày kia Giáo Hội có thể định nghĩa nó là tín lý. Và các lập trường dừng lại đó cho tới năm 1854.
Khi yêu cầu định nghĩa tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, vài Giám Mục cũng bày tỏ ước muốn định nghĩa cả việc Đức Mẹ hồn xác lên trời nữa. Đây cũng đã là ước muốn và đề nghị của nhiều nghị phụ Công Đồng chung Vaticăng I. Phong trào ”Đức Mẹ hồn xác lên trời” bắt nguồn từ đó, và lan tràn cho tới khi Đức Giáo Hoàng Pio XII công bố các tài liệu năm 1944 và tông thư ”Deiparae” ngày mùng 1 tháng 5 năm 1946, trong đó ngài hỏi ý kiến các Giám Mục toàn thế giới xem có thể và có thích hợp định nghĩa việc Đức Maria hồn xác lên trời là sự thât đức tin hay không. Trong khi đó các thần học gia thảo luận về khả thể và các nền tảng của một định nghĩa tín lý như vậy. Và các thảo luận đã chỉ kết thúc với việc ngày 14-8-1950 Tòa Thánh loan báo sẽ công bố định nghĩa tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời.
(Thánh Mẫu Học bài 334)
Linh Tiến Khải
Tinh thần trái tim tỉnh thức
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khi lên ngôi làm Vua cai trị nước Israel, nhà Vua trẻ tuổi Salomon đã không cầu xin Thiên Chúa cho mình được giầu sang phú qúy, sống lâu trường thọ, sức mạnh uy quyền dũng mãnh làm bá chủ thống trị mọi dân nước muôn năm vĩnh cửu, mưu lược chiến thắng đè bẹp quân thù.
Không, vua trẻ tuổi Salomon đã không cầu xin như thế. Nhưng cầu xin cho được một tinh thần có trái tim tỉnh thức biết phân biệt điều phải trái, điều tốt dữ, để cai trị đất nước. ( 1 Sách Các Vua 3,9).
Lời cầu xin khác thường của vua Salomon đơn thành và chan chứa lòng khiêm nhượng đó là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống con người, dù ở thứ bậc nào trong xã hội và vào thời đại nào.
Lời cầu xin tuy đơn giản nhưng lại rất cần thiết và hữu ích cho đời sống.
Nhưng thế nào là tinh thần trái tim tỉnh thức?
- Hình ảnh trái tim người mẹ
Trong đời sống hằng ngày người mẹ nuôi con, nhất là trong suốt thời gian những năm tháng khi con còn thơ bé, là hình ảnh nói về tinh thần trái tim tỉnh thức rõ nét cùng sống động nhất.
Từ khi người con từ cung lòng mẹ mở mắt chào đời cho tới khi em bé biết nói, tất cả mọi nhu cầu em cần cho em đều cần đến mẹ hiểu nhận ra và làm cho em.
Em chưa biết nói, nhưng những tín hiệu không lời của em được mẹ em bắt nhận cùng phân biệt ra ngay được.
Em chưa có khả năng biết nói ra điều mình muốn, nhưng nhìn gương mặt em, làn da thớ thịt em, nghe em ê a, nghe tiếng em khóc la…là mẹ em nhận ra tín hiệu con mình đói đòi ăn, hay muốn được thay tã quần áo mới, đoán con mình đau yếu thế nào, biết em khó chịu mệt nhọc muốn được đi ngủ, hay em đã thức giấc đòi mẹ, nóng hay lạnh…
Tinh thần trái tim người mẹ luôn lúc nào cũng tỉnh thức bên con mình, dù ban ngày hay ban đêm cả trong giấc ngủ. Có thế, người mẹ mới nhậy bén cảm nhận ra được nhu cầu của con mình đang cần tới.
Khả năng này không ai huấn luyện cho người mẹ. Nhưng được Đấng Tạo Hóa phú bẩm ban cho tự nhiên như thế.
Vả khả năng tinh thần trái tim tỉnh thức này nơi người mẹ, tuy có mẫu số chung, nhưng lại cá biệt nơi từng người mẹ, và từng hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói được Đấng Tạo Hóa đã đặt sẵn khả năng tinh thần trái tim tỉnh thức nơi mỗi người mẹ một làn sóng tần số của cột thu lôi riêng biệt để bắt nhận ra tín hiệu của con mình.
- Hình ảnh trái tim trong kinh thánh.
Khi nói hay nghĩ đến trái tim, con người chúng ta thường có ý niệm hình ảnh về trái tim là nơi chốn của tình cảm, nhất là của tình yêu. Vì thế , khi nghe vua Salomon cầu xin cho mình tinh thần trái tim tỉnh thức, ta nghĩ ngay đến sự gì thấm nhuộm tình cảm, đến trực giác. Nhưng lời cầu xin của nhà vua trẻ tuổi Salomon tập trung hướng về điều gì khác hơn.
Theo Kinh Thánh và cũng theo hình ảnh tưởng tượng của con người, trái tim ở vị trí trung tâm thâm sâu trong mỗi con người. Trái tim là nơi chốn của lý trí sự hiểu biết, của những dự tính suy nghĩ, và cũng là nơi chốn của tình cảm và lương tâm.
Một trái tim tỉnh thức là một tinh thần chú ý biết lắng nghe, để hiểu biết cùng biết phân biệt được những điều đã nghe, đã cảm, đã nhìn quan sát nhìn thấy.
Trong đời sống giữa con người với nhau trong xã hội, biết lắng nghe và được chú ý lắng nghe không chỉ là một nghệ thuật, nhưng là nhu cầu rất cần thiết cho đời sống tinh thần cũng như thể xác.
Khả năng hay nhân đức tốt lành một tinh thần trái tim tỉnh thức này được diễn tả là sự khôn ngoan.
- Sự khôn ngoan và vua Salomon
Sự khôn ngoan theo Kinh Thánh trước hết là sự thực hành trong đời sống với lòng cẩn trọng, để nhận ra con đường hành động cho đúng dẫn đến thành công. Sự khôn ngoan cũng đòi buộc sự hiểu biết qua sẵn sàng học hỏi, qua tiếp tục học tập đào tạo nghiên cứu, nhưng phải có lòng đơn thành khiêm nhượng cùng tôn trọng lẽ phải.
Sách Châm Ngôn ( Châm Ngôn 8) đã diễn tả đức khôn ngoan là trật tự do Thiên Chúa đã khắc ghi tạo dựng trong thiên nhiên, để con người có thể khám phá ra ý nghĩa trong những cấu trúc được sắp đặt có thứ tự trong thiên nhiên.
Khi con người càng hiểu biết nhiều hơn về trật tự trong thiên nhiên, họ càng hiểu nhận ra Thiên Chúa hơn. Đó là sự khôn ngoan.
Nhà vua trẻ tuổi Salomon cầu xin Thiên Chúa cho mình khả năng sự khôn ngoan. Vì Ông tin tưởng khả năng này có giá trị hơn được sống lâu dài, hơn sự giầu sang phú qúi, hơn quyền hành uy dũng bách chiến bách thắng, hay những điều các vua chúa thường hay theo đuổi mong muốn.
Đức Thánh cha Benedictô XVI. năm 2011 đã có suy tư:
„ Thánh Phaolô viết „ Dân ngoại là những người không có Luật Mô-sê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không có Luật Mô-sê.15 Họ cho thấy là điều gì Luật đòi hỏi, thì đã được ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải.“ ( Roma 2.14-17). Ở đây hai tư tưỏng căn bản tự nhiên và lương tâm được nhấn mạnh nói đến.
Lương tâm thật ra không là gì khác hơn là một tinh thần trái tim tỉnh thức mà Vua Salomon nói đến trong lời cầu xin, cũng không là gì khác hơn là ngôn ngữ của lý trí con người.“ (Đức thánh Cha Benedictô XVI., Diễn văn ngày 22.09.2011ở Quốc Hội nước Đức bên Berlin).
Trong đời sống con người, khi khởi đầu một giai đoạn con đường đời sống mới, thường có những tâm niệm ước muốn lời cầu xin thầm kín hay bày tỏ công khai ra ngoài.
Nhà vua trẻ tuổi Salomon trong giờ phút lên ngôi trị vì đã cầu xin cho mình được có tinh thần trái tim tỉnh thức để biết phân biệt phải trái, lành dữ trong việc cai trị mang lại hoà bình cùng công lý cho người dân.
Phải chăng đây cũng là tâm niệm, công thức hay thước đo không chỉ cho những nhà chính trị cai trị đất nước xã hội, nhưng còn cho mọi người trong đời sống ở vào bất cứ địa vị hoàn cảnh nào!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cầu thay nguyện giúp
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống đức tin, chúng ta cầu nguyện cùng Chúa với lòng tin tưởng sâu xa, lòng mến yêu nhiệt thành và lòng cậy trông thành khẩn.
Nhưng nhiều khi chúng ta vẫn còn cảm thấy áy náy. Vì không dám chắc mình đã sống xứng đáng đẹp lòng như Chúa mong muốn.
Vì thế, con người chứng ta thường hay chạy đến cậy nhờ các Thánh cầu thay nguyện giúp cho mình, nhất là trong những khi gặp hoàn cảnh khốn khó đau buồn. Vì tin tưởng, các Thánh là những vị có đời sống đức tin, đời sống đạo đức đẹp lòng Chúa. Các Vị đã trải qua đời sống được thanh luyện. Các Vị đã sống đứng vững trước những thử thách về lòng tin, lòng kính mến và lòng cậy trông vào Chúa. Các Vị là những người có đời sống gương mẫu anh hùng trước mặt Chúa và con người.
Các Vị vì thế bây giờ sống gần bên Chúa, lời phù hộ cầu thay nguyện giúp của các Vị dễ dàng được Chúa nhận lời hơn.
Và qua kinh nghiệm đời sống đã trải qua, các Thánh thấu hiểu thông cảm hoàn cảnh đời sống con người, nên cũng sẵn sàng ra tay cứu giúp phù hộ cầu thay nguyện giúp cho ta.
Xưa nay vẫn hằng luôn có những tâm hồn luôn bám chặt vào một hay hai Vị Thánh. Với họ, vị Thánh đó là người luôn sát bên cạnh đời sống.Vị Thánh đó là vị Thánh người yêu mến của họ. Có gì họ cũng tâm sự nói với vị Thánh đó, xin vị Thánh đó cầu bầu che chở cùng Chúa cho.
Đây là nếp sống đức tin tốt lành thánh đức, biểu hiện chiều sâu lòng thành kính cậy trông các Thánh phù giúp cho mình.
Nhưng còn có một lối sống đức tin sống sâu sa cùng sống động nữa, mà Thánh Phaolô đã có suy tư: „Thưa anh em, có Chúa Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thánh Thần Chúa cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần Chúa muốn nói gì, vì Thánh Thần Chúa cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.“ ( Roma 8,26-27).
Nhưng Chúa Thánh Thần là ai?
Chúa Thánh Thần là một người trong ba ngôi Thiên Chúa: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Giêsu và Đức Chúa Thánh Thần.
Đức Chúa Thánh Thần không có hình hài là một con người như các Thánh. Nên để cho dễ nhận diện ra Chúa Thánh Thần, ta có thể lấy làn gió trong không gian, như hình ảnh biểu tượng nói về Ngài.
Vào ngày trời nóng nực mùa hè, khi có gió thổi đến, ta cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Làn không khí dịu mát làm cho tinh thần bỗng tươi tỉnh phấn khởi lên. Trái lại, khi trời nóng bức mà không có gió thổi đến, ta cảm thấy ngột ngạt khó chịu, khó thở nữa.
Không nhìn thấy Gió. Nhưng gió không phải là bóng ma quái gì. Trái lại gió là một thực tại trong thiên nhiên cần thiết cho đời sống con người.
Trong đời sống đức tin đạo giáo cũng cần làn gío thổi vào. Chúa Giesu đã nói cho biết ngọn gió đó là Đức Chúa Thánh Thần ( Ga 3,8).
Trong ngôn ngữ Hylạp Pneuma và tiếng Do Thái Ruach, chỉ về Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là làn gió là hơi thở.
Mà đã là gió thì thể không nhìn thấy bằng mắt, nhưng cảm nhận ra qua những hiệu qủa của gió.
Trong kinh thánh nơi sách Sáng Thế ký diễn tả Đức Chúa Thánh Thần như làn gió bay lượn trên mặt nước trong không gian (St 1,1)
Cũng trong Sáng thế ký thuật lại khi tạo dựng nên con người, Thiên Chúa lấy bùn đất nặn nên hình tượng họ và thổi hơi vào mũi, con người liền có hơi thở sức sống. ( St 2,7).
Thần khí Thiên Chúa hay Đức Chúa Thánh Thần là làn gió, làn khí hơi thở thần thánh phát xuất từ Thiên Chúa.
Sách Tông đồ công vụ vẽ hình ảnh Đức Chúa Thánh Thần như làn gío thổi:
„Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.“ ( Cv 2,1)
Đức Chúa Thánh Thần như thế là năng lượng cùng là sức sống hơi thở cho đời sống.
Người ta cảm thấy có gío thổi đến, nhưng không bắt giữ gió lại được. Chúng ta chỉ có thể đặt mình trước gió hứng hiệu qủa làn gió thổi mang đến, như những cánh quạt được dựng trong không gian hứng gió thổi làm cho quay vận chuyển trong gió phát ra điện, hay như cánh buồm căng ra khi gió thổi đến làm tầu thuyền chạy di chuyển.
Vì thế, Chúa Giêsu khi nói chuyện với Ông Nicodemo về Chúa Thánh Thần đã tâm sự: „ Gió muốn thổi đâu thì thổi; Ông nghe tiếng gió thổi, nhưng không biết gió từ đâu tới và thổi đi đâu. Ai sinh bởi Thần khí (Chúa Thánh Thần) thì cũng như vậy.“ ( Ga 3, 8).
Người Công giáo Việt Nam có tập tục nếp sống đạo rất có ý nghĩa về mặt tuyên xưng đức tin. Mỗi khi đọc kinh cầu nguyện chung cũng như riêng, trước hết đọc kinh xin Đức Chúa Thánh Thần xuống trong tâm hồn, xin Đức Chúa Thánh Thần cùng dạy hướng dẫn cho cầu nguyện, cùng cầu thay nguyện giúp cho.
Đây là một cung cách sống đức tin sống động cao đẹp cùng thể hiện lòng tin yêu cậy trông sâu thẳm vào Chúa.
Xin cám ơn các Vị Thừa Sai ngày xưa, khi sang truyền giáo bên quê hương Việt Nam, đã mang tinh thần cung cách sống đức tin bằng lời kinh nguyện Xin Đức Chúa Thánh Thần xuống mỗi khi đọc kinh cầu nguyện.
Cung cách nếp sống đức tin này không cho ngày hôm qua, nhưng luôn cần thiết cho ngày hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Thuế tôn giáo tăng, nhưng số người tín hữu giảm
- Hôn nhân nôi phát triển nhân cách cùng nuôi dưỡng sự sống con người
- Khuôn mặt lãnh đạo
- Thánh Gioan, vị sứ giả dọn đường
- Lạy Chúa là Chúa cả trời đất …
- Ngôn ngữ của dấu chỉ
- DNA Hội Thánh Chúa Kitô
- Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần
- Hình ảnh con cá
- Sùng kính Đức mẹ Maria