Thánh Nikolaus, mang tạo không gian cho đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bên Giáo Hội Chính Thống Đông phương Nikolaus là một vị thánh lớn, và được sùng kính xếp ngay sau Đức Mẹ Maria.
Bên Giáo hội Tây phương Roma vị Thánh này được các trẻ em yêu mến biết đến nhiều hơn cả..
Hằng năm vào đầu mùa Vọng, ngày 06.Tháng 12. là ngày lễ Thánh Nikolaus được mừng kính nhớ với nhiều tập tục. Trong ngày này các trẻ em được tặng qùa. Nikolaus trở nên là „người cha“ phân phát qùa cho các trẻ em.
Nikolaus Giám mục thành Myra sinh ra ở Patara khoảng giữa năm 270 và 286, Ông qua đời ngày 6.12. khoảng những năm 326,345,3521 hay 365. , là một vị Thánh được biết đến và rất được sùng mộ mến ờ bên Giáo hội Đông phương và cả bên Giáo hội Tây phương.
Ngày 06. 12. hằng năm là lễ kính nhớ Thánh Nikolaus trong toàn thể Kitô giáo bên Đông phươmg cũng như bên tây phương với nhiều tập tục bình dân phổ biến trong dân gian.
Nikolaus là Giám mục thành Myra vào nửa đầu thế kỷ thứ 4.. Thành phố Myra thuộc vùng miền tiểu Á Lykien, ngày xưa vùng này nằm trong đế quốc Roma, nhưng sau này thuộc vương quốc Byzantino, và ngày nay thuộc lãnh thổ quốc gia Thổ nhĩ Kỳ.
Năm 325 Giám mục Nikolaus tham dự Công Đồng Nicea, nơi đây Nikolaus đã mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội chống lại lý thuyết Arianismus do Arius khởi xướng đưa ra lý thuyết thần học chối bỏ không công nhận Ba ngôi Thiên Chúa.
Trong lịch sử đời sống của Thánh Nikolaus có nhiều truyền thuyết nổi tiếng về lòng bác ái cứu giúp con người truyền tụng trong dân gian xưa nay.
Truyện kể một gia đình nghèo có ba người con gái để cho các cô đi làm nghề mãi dâm kiếm tiền nuôi sống gia đình. Biết được chuyện đó Nikolaus lặng lẽ ném ba lần liên tiếp vào ban đêm bao tiền vàng qua cửa sổ vào phòng các cô này , để họ có thể có tiền cho gia đình. Nikolaus đã cứu ba cô gái này khỏi không gian đời sống tội lỗi.
Truyện cũng kể, các thủy thủ trên đường vượt biển gặp tai nạn sóng to gío bão làm tầu thuyền họ chao đảo gặp như bị chìm. Họ đồng thanh cầu khấn Giám mục Nikolaus đến giúp đỡ. Ngay lập tức Nikolaus hiện đến giúp họ và dẫn đưa tầu thuyền họ đi vào bến bình an.
Truyện kể lại, ba quân sĩ bị hoàng đế phân xử bất công không đúng phải chịu hậu qủa tù tội, vì tội phản bội, và bị xử tử. Họ kêu cầu Nikolaus. Trong đêm trước ngày xử tử, Nikolaus đã hiện đến với hoàng đế trong giấc mơ, và nói cho biết là ba người này bị xử bất công không đúng với luật pháp. Thức dậy hoàng đế truyền thả tự do cho ba người này khỏi bị tù tội. Một không gia đời sống mới được giải oan cứu giúp Nikolaus đã phù giúp trao tặng những người bị hàm oan này.
Cũng có truyện kể, một bà mẹ vì không chú ý, nên để con mình bị cháy, bà than khóc kêu cầu Nikolaus, và Nikolaus đã cho em bé con bà sống trở lại.
Những câu chuyện truyền thuyết đó nói lên, Nikolaus ra tay xuất hiện cứu giúp con người khi sức lực, sự khôn ngoan của họ tới chỗ ngõ bí tận cùng.
Nikolaus trở thành người cha đích thực trao tặng ba cô gái nhân vị đời sống mới, mà chính người cha ruột thịt các cô không có thể bảo vệ các cô được. Nikolaus đã tạo cho các cô này không gian đời sống xứng hợp với nhân phẩm con người.
Các người thủy thủ gặp tai nạn trên biển họ kêu cầu Nikolaus. Và Nikolaus đã cứu giúp họ. Ông trở nên người cứu giúp những ai gặp hoạn nạn. Nikolaus đã mang đến cho họ một không gian khung trời đời sống bình an trong cơn hoạn nạn nguy biến.
Nikolaus đã cho em bé đời sống mới, vì mẹ em bất cẩn để con mình bị cháy bỏng. Như thế Nikolaus đã trở nên người cha sinh thành cho em đời sống mới, cho em sống lại. Nikoluas đã đem lại cho em bé và mẹ em một khung cảnh không gian niềm vui hạnh phúc đời sống được chữa lành cứu thoát.
Trong đời sống, không chỉ trẻ em luôn luôn cần đến bàn tay, tình phụ tử của người cha, nhưng tất cả mọi người.
Người cha Nikolaus có thể là một tấm gương cho mọi người trong đời sống, với trái tim lòng thương cảm lãnh nhận với trách nhiệm bổn phận là người cha bảo vệ gia đình mình.
Chiếc mũ đỏ, như hình mái lều, mà Nikolaus trao tặng các em bé, và cả người lớn nữa, ngày lễ Nikolaus, theo tập tục văn hóa dân gian nói lên „người cha Nikolaus“ bảo vệ săn sóc đến sự no ấm cho con cái mình.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Viễn tượng mùa Vọng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Niên lịch phụng vụ trong Giáo Hội Công giáo, và cả nơi Giáo hội Tin Lành, bắt đầu hằng năm với mùa Vọng - adventus- , thường vào cuối tháng Mười Một, hay đầu tháng Mười Hai dương lịch.
Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm tâm hồn đời sống đức tin chờ đợi đón mừng lễ sinh nhật Chúa Giêsu, ngày 25. 12. từ trời cao sinh xuống trần gian làm người mang ánh sáng ơn tha thứ, ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người khỏi hình phạt tội nguyên tổ Adong - Evà.
Mùa Vọng , mùa trông đợi -adventus - theo nguồn gốc mang ý nghĩa trong tiếng Hylạp: epiphania - hiện đến, hiển linh - , và mang ý nghĩa trong đế quốc Roma là sự đến, sự hiện diện, sự thăm viếng của một vị quan chức, đặc biệt sự đến của các vị Hoàng đế, các vị vua chúa.
Nó cũng có thể mang chỉ ý nghĩa sự kiện đến của Thần Thánh vào trong đền thờ.
Những tín hữu Chúa Kitô đã lấy dùng từ ngữ - adventus - để nói lên ý nghĩa mối tương quan liên hệ của mình trong niềm hy vọng trông đợi Chúa Giesu Kitô đến.
Như thế, bầu khí mùa Vọng mang sắc thái niềm hy vọng chờ đón niềm vui mừng đến.
Thời Giáo hội cổ xưa, mùa Vọng nguyên thủy là mùa ăn chay khoảng từ ngày 11. Tháng Mười Một đến lễ Chúa Hiển Linh ngày 06. Tháng Một. Trong thời gian mùa Vọng ăn chay này không được tổ chức lễ hội ăn mừng , lễ nghi hôn phối long trọng, nhưng cử hành âm thầm thôi. Nhưng từ 1917 luật lệ này không còn bắt buộc nữa.
Mùa Vọng có từ thế kỷ thứ 7. và được gọi là tempus ante nataleDomini : Thời gian trước sự sinh ra của Chúa, hay cũng có tên gọi tempus adventus Domini: Thời gian Chúa đến.
Bên Giáo hội Roma mùa Vọng kéo dài từ 4 tới 6 tuần lễ. Đến thời Đức giáo hoàng Gregor cả ( 540-604) mùa Vọng được ấn định có 4 tuần lễ.
Bốn tuần lễ là con số biểu trưng diễn tả 4 ngàn năm con người trông đời Đấng Cứu thế đến, từ khi Ông bà nguyên tổ phạm tội tới lúc Chúa Giêsu sinh ra.
„ Mùa Vọng khởi đầu một năm phụng vụ mới của Giáo hội Chúa, một con đường mới trong đức tin. Một bên nhớ đến biến cố Chúa Giêsu Kitô sinh ra, và một bên mở ra viễn tượng được hoàn thành chung cuộc. Hai viễn tượng trong mùa Vọng vừa hướng tầm nhìn đến Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức mẹ Maria, và vừa sự đến của người trong tương lai tràn đầy vinh quang, khi người đến , như trong kinh Tin Kính đọc „ phán xét người sống và người đã qua đời“ ( Đức giáo hoàng Benedickt 16.).
Mùa Vọng 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bức tranh ngày tận thế
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khi vào thăm bảo tàng viện Vatican, hầu như tất cả các khách thăm viếng đều đi qua những dẫy phòng, những hành lang trưng bày những bức tượng, bức tranh, kỷ vật lịch sử của nhiều nền văn hóa, của nhiều thời đại trên thế giới suốt khu nhà bảo tàng, và sau cùng đi đến ngôi nhà nguyên nổi tiếng Sixtina ở cuối khu nhà bảo tàng.
Nơi đây không chỉ là địa điểm lịch sử xưa nay các Hồng Y Giáo Hội Công giáo bầu chọn vị Giáo Hoàng mới, khi Đức giáo hoàng cũ qua đời hay từ chức, như đã diễn ra vào năm 2005 và 2013 mới gần đây. Nhưng nơi đây có bức tranh thời danh diễn tả chiều sâu đạo đức vẽ trên tường nhà nguyện: Bức tranh ngày tận thế.
Bức tranh đạo đức lịch sử này được danh họa Michael Angelo vẽ họa cách đây trên bốn thế kỷ vào năm 1540 dựa theo chi tiết những gì Thánh sử Mattheo viết diễn tả trong Phúc âm Chúa Giêsu ( Mt 25,31-46).
Lẽ dĩ nhiên theo dòng thời gian xưa nay đã có nhiều danh họa cũng đã vẽ họa những bức tranh ngày tận thế khác nhau tùy theo sự suy tưởng cùng cách thức bố trí văn hóa kỹ thuật và mỹ thuật ngành hội họa.
Nhưng Bức tranh ngày tận thế của danh họa thiên tài Michael Angelo ở nhà nguyện Sixtina nổi tiếng thời danh nhất, hấp dẫn thu hút mọi người đến chiêm ngắm thưởng ngoạn.
Bức danh họa ngày tận thế này không chỉ hiển thị tài năng của danh họa kiến trúc sư Michael Angelo về phương diện kỹ thuật, mỹ thuật, cách trình bày sống động. Nhưng còn ẩn chứa sứ điệp thần học đạo đức nữa. Vì những gì bức tranh diễn tả đều dựa trên nền tảng như trong phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo về ngày tận thế do chính Chúa Giêsu đã giảng viết thuật lại.
Đoạn kinh Thánh về ngày tận thế trong phúc âm theo Thánh Mattheo có mức độ hấp dẫn rất to lớn về khía cạnh suy niệm đạo đức thần học cùng nhắc nhở kêu gọi lương tâm con người rất khẩn thiết.
Quang cảnh phán xét ngày tận thế, như trong phúc âm thuật lại, được hiểu là cung cách sống và tình yêu Kitô giáo trên trần gian.
Tình yêu, tình bác ái, lòng thương xót trong đời sống giữa con người với nhau là nhân lõi trung điểm cho cán cân sự phán xét thưởng phạt của Thiên Chúa toàn năng đối với con người trong hoàn cảnh nghèo đói, khó khăn.
Ai luôn luôn sống chứng tỏ tình yêu lòng bác ái tình liên đới đối với con người, người đó thi hành trọn vẹn giới luật của Thiên Chúa, bất kể người đó là Kitô hữu hay không phải là Kitô hữu: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách lạ đỗ nhà, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù rạc, bệnh tật…
Thánh giáo phụ Origines (185-254) giải thích công việc bác ái lòng thương xót với con người không chỉ theo nghĩa đen từng câu chữ, nhưng còn là lương thực thức ăn tinh thần, như cho kẻ rách rưới quần áo ăn mặc là sự khôn ngoan và mang đến sự an ủi tinh thần.
Dụ ngôn ngày phán xét sau cùng vẽ ra hai hình ảnh: tòa án và sự phân xử phán xét.
Tòa án nơi xét xử con người ngày sau cùng ra trước mặt Thiên Chúa theo công việc cụ thể, cung cách sống họ đã sống thực hiện khi xưa lúc còn sinh sống trên trần gian. Chúa Giêsu Kitô xuất hiện là vị thẩm phán tối cao, và chỉ mình Ngài là vị thẩm phán thôi . Ngài nhìn theo hướng trái tim lòng con người.
Thánh sử Mattheo trước khi thuật lại quang cảnh ngày phán xét với Chúa Giêsu, vị thẩm phán, đã thuật lại lịch sử đời Chúa Giêsu là „ Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta“ , Chúa Giêsu là người giúp đỡ là người chữa lành.
Thánh sử Mattheo không vẽ lên bức tranh tòa án ngày tận thế như đe doạ làm cho sợ hãi. Nhưng muốn đạt đến sự qủa quyết dứt khoát, sự cởi mở và tình liên đới với con người.
Hình ảnh thứ hai của dụ ngôn là sự phán quyết phân biệt giữa chiên và dê. Hình ảnh này làm nhiều người lo âu sợ hãi trước tòa Chúa phán xét. Hình ảnh phân biệt phán quyết này không chỉ hướng đến ngày phán xét sau cùng, nhưng còn đến những công việc thi hành bây giờ của con người nữa.
Nơi đây và lúc này Chúa Giêsu Kitô muốn đòi hỏi con người phải quyết định thi hành công việc theo hợp với giới răn lề luật của Thiên Chúa, và một đời sống có tình nghĩa con người.
Ngày sau cùng trước tòa Thiên Chúa, Đấng dựng nên, nuôi sống con người. Ngài thấu suốt tất cả những gì con người suy nghĩ, con người sống. Nghĩ đến đó, ai cũng lo âu sợ hãi.
Nhưng con người là hình ảnh tác phẩm của Thiên Chúa. Vì thế con người có thể cậy trông vào lòng thương xót của Ngài là Cha đời con người chúng ta.
Và một đời sống bác ái lòng thương xót thể hiện giữa con người với nhau ngay ở đời này giúp an tâm ra trước Thiên Chúa toàn năng đầy lòng thương xót, là Vua lòng con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Niềm hy vọng chống lại sự chết
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong lao tù, Đức cố Hồng Y Phanxico Nguyễn văn Thuận thuở những năm 70. 80. của thế kỷ trước đã viết thành tập sách „Đường hy vọng|“ những suy niệm nội tâm của mình về đức tin vào Thiên Chúa. Trong đó có câu suy niệm:
„Người đời cho là chết, con phải là kẻ sống. Người đời gọi là hơi thở cuối cùng, con phải gọi là cuộc đời mới. Người đời gọi là chấm dứt, nhưng đối với con là khởi sự.“ (Đường hy vọng, Câu số 669).
Câu suy niệm chan chứa niềm hy vọng này không phải chỉ là cảm nghiệm tâm lý để an ủi mình trong cô đơn lâm vào đường cùng! Nhưng đó là suy niệm nói lên đức tin vào Thiên Chúa, đấng là sự sống, là khởi đầu và cùng đích của đời sống con người.
Lời suy niệm tuyên tín này cũng củng cố mang lại sức mạnh tinh thần cho chính ngài lúc đó và cho nhiều người khác nữa.
Lời suy niệm này diễn tả chiều sâu của lời tuyên tín trong kinh Tin Kính: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lạị.
Hằng năm, xưa nay từ hàng chục thế kỷ, từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, Giáo hội Công giáo luôn hằng kêu gọi khuyến khích người tín hữu Chúa Giêsu Kitô nhớ đến cầu nguyện cho người đã qua đời. Và dành tháng Mười Một hằng năm tưởng nhớ cầu nguyện cho các người đã qua đời trong toàn thể Giáo hội Công giáo,.
Cung cách sống đức tin như thế biểu lộ niềm hy vọng cho đời sống con người sau khi cuộc sống trên trần gian chấm dứt: có một đời sống ở bên kia sau khi chết, có một khởi đầu mới sau khi con đường đời sống trên trần gian đã qua đi.
Cung cách sống đức tin liên kết với người đã qua đời qua lời cầu nguyện, qua tưởng nhớ đến họ còn nói lên: đời sống con người không chỉ như cơ hội về sinh vật học về tâm lý giới hạn thu hẹp trong một không gian và thời gian nào. Sự chết không là sự chấm dứt căn bản sự sống.
Cung cách sống tưởng nhớ đến người qúa cố không căn cứ vào phần mộ của người đã qua đời có hay không còn nữa.
Nhưng người đã qua đời, dù đã lâu năm hay không còn phần mộ, không biến mất khỏi tâm hồn, khỏi trái tim lòng nhớ nhung, lòng biết ơn nơi người còn sống trên trần gian. Giữa người đã qua đời và người còng sống, như vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em, bạn bè… khi còn chung sống với nhau sợi dây đời sống tình nghĩa, tình máu mủ ruột thịt gắn liền chặt khăng khít với nhau suốt đời sống rồi. Nên một người tuy đã qua đi, nhưng họ vẫn hằng sống động trong tâm hồn trái tim người còn đang sống trên trần gian.
Nấm mồ của người qua đời là cái gì cụ thể cho người còn sống trông thấy được. Và ai cũng muốn rằng có nấm mồ người đã qua đời để ra thăm viếng chăm sóc... Nhưng khi nấm mồ không còn, hay không có nữa, hình ảnh người qua đời, công đức tình nghĩa của người qua đời đâu có vì thế mà không còn. Trái lại có khi càng hiển thị sâu đậm khăng khít hơn nơi người còn sống. Họ vẫn hằng sống trong tâm hồn trong trái tim của người còn sống.
Và con người được Thiên Chúa tạo dựng nên không chỉ có thân xác, xương cốt, nhưng còn có phần tinh thần, phần linh hồn nữa. Khi chết thì thân xác xương cốt tan rã, nhưng linh hồn, lịch sử đời sồng con người trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình.
Thiên Chúa dựng nên thân xác con người từ hư vô, từ bụi đất. Và ngày sau cùng , như chúng ta tuyên xưng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, Thiên Chúa cũng sẽ cho người đã chết sống lại với một đời sống mới và khác, do quyền năng của Ngài tạo dựng nên từ hư vô. Và như thế nào con người chúng ta không ai biết được.
Tưởng nhớ đến người đã qua đời là lòng biết ơn, lòng trung thành gắn bó giữa người còn sống với người đã qua đời. Đó là nếp sống đạo đức, là niềm hy vọng, là nếp sống tình người, cùng rất đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng dựng nên đời sống con người hôm qua hôm nay và ngày mai.
Đức cố Hồng Y Joachim Meisner đã có suy tư về sự chết : „ Sự chết với tôi thuộc về đời sống. Nó không là gì khác hơn, đó là sự trao phó dâng đời ta sang bàn tay của Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người!“
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chất Dầu trong đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ khi kỹ nghệ công nghiệp phát triển trong đời sống xã hội, nhiên liệu dầu phát ra năng lượng dùng cho máy móc kỹ nghệ sản xuất trở nên huyết mạch quan trọng. Vì thế, các nước tân tiến kỹ nghệ ngày càng tìm cách khai thác nguồn quặng mỏ dầu thô trên thế giới ở những vùng đất nước có quặng mỏ dầu nằm sâu dưới lòng đất, cùng dưới lòng biển sâu.
Và cũng vì đó xảy ra những khủng hoảng, chiến tranh về khai thác vận chuyển và về gía cả nguyên liệu dầu thô trên thế giới.
Từ khi khám phá ra chất nhiên liệu này, dầu năng lượng dùng cho máy móc kỹ nghệ, dùng cho xe hơi chạy và dùng để đốt thắp sáng đèn, đun nấu ở nhà bếp vào thời kỳ hay những nơi nào chưa có đèn điện.
Nhưng ngày nay hầu như dầu năng lượng chỉ được dùng cho máy móc kỹ nghệ, cho xe hơi, máy nổ thôi. Còn dùng để thắp đèn hay đun nấu nơi nhà bếp thì hầu như không còn nữa. Vì vấn đề gìn giữ bảo vệ môi trường sinh sống và cũng để tránh nguy hiểm dễ gây hỏa hoạn.
Trong Kinh thánh nói đến chất dầu dùng vào việc chữa bệnh, mang lại sức khoẻ, xức dầu để tấn phong làm vua, làm Tư Tế, dầu mang niềm vui cho người được xức dầu trên đầu trên thân thể. Đó là loại dầu lấy từ thảo mộc, như dầu Oliu, dầu dừa… không phải là dầu nhiên liệu đốt cháy phát ra năng lượng.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu nói đến dụ ngôn 10 cô trinh nữ xách đèn dầu đi dự tiệc cưới: năm cô khôn ngoan mang đèn rồi mang còn theo bình dầu dự bị và năm cô khờ dại mang đèn mà không mang bình dầu dự bị theo. ( Mt 25, 1-13)
Vì thức lâu chờ tiệc cưới ban đêm, nên đèn cạn đầu. Năm cô mang theo dầu, có dư đủ. Họ có dư dầu nhưng không chia sẻ cho năm cô khác lúc đèn cạn thiếu dầu thắp và vào lúc đêm tối nữa mua ở đâu.
Đọc đoạn dụ ngôn này gợi lên suy nghĩ năm cô dư dầu có lối sống ích kỷ. Và Chúa Giêsu nêu ra dụ ngôn này cũng không lên án năm cô sống ích kỷ đó không chịu chia sẻ với người khác đang trong lúc thiếu thốn.
Năm cô mang theo dầu dự bị được cho là có lối sống không ngoan. Nhưng cách sống của năm cô đó còn diễn tả chiều thâm sâu của người có lý trí lành mạnh.
Năm cô không mang theo dầu dự bị, bị cho là người khờ dại. Vì họ có cách sống không suy nghĩ nông sâu, không có tầm nhìn của đôi con mắt nhận ra thực tại đời sống.
Theo nhà hiền triết Platon người khôn ngoan có suy nghĩ đắn đo luôn là người tốt. Trong khi người theo lối sống khờ dại không suy nghĩ nông sâu là người xấu. Ai có lối sống đắn đo suy nghĩ, người đó nhận ra ý nghĩa thâm sâu của thần thánh.
Chúa Giêsu qua dụ ngôn hình ảnh này muốn nói: Trong đời sống có những quyết định đến trong khoảnh khắc giây phút, mà con người không thể chờ vào người khác được. Nếu không sống tỉnh thức, thì cũng không thể trông chờ người khác mở mắt tỉnh thức cho mình được.
Phải chăng đây là một loại dụ ngôn nhắc nhở cũng tương tự như cách cắt nghĩa một giấc mơ có tính cách báo hiệu nhắc nhở!
Xưa nay có nhiều suy luận cắt nghĩa về ý nghĩa của dầu trong dụ ngôn , như dầu được cho là việc tốt lành làm cho đức tin bùng cháy chiếu tỏa sáng ra.
Thánh Augustino có suy tư dầu trong dụ ngôn là cách sống của một người. Cách sống đó thể hiện đức tin người tín hữu Chúa Kitô. Chất dầu là hình ảnh diễn tả về tình yêu thương. Mỗi người có cách sống riêng, họ không thể đem cách sống của mình chia cho người khác được. Những cô khôn ngoan không thể chia cách sống tình yêu thương của mình với những cô khờ dại được.
Người ta có thể chia với nhau tấm bánh, chén cơm, chén rượu, điều trí tuệ suy nghĩ. Nhưng người ta không thể dùng cách sống của mình áp đặt bắt người khác được. Cách sống là việc riêng của mỗi người.
Và như thế theo Augustino đó cũng là dụ ngôn mang có tính cách nhắc nhở để đánh thức khơi dậy tình yêu thương có sẵn ở nơi mỗi người.
Một người mẹ nói với các con mình: Khi còn sống, chúng ta có thể thảo luận cách này cách khác giúp đỡ nhau. Nhưng ngày sau cùng ra trước tòa Chúa chỉ một mình người đó với Thiên Chúa thôi. Không ai có thể giúp ai được. Cho nên khi còn sống ở đời này, cách sống tốt nhất là sống tốt lành ngay chính, yêu mến kính sợ Chúa và có lòng nhân đạo bác ái.
Đó là cách sống hôm nay cho ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đoàn người đông đảo trên trời.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày 01.Tháng Mười một, Giáo Hội Công Giáo mừng kính toàn thể các Thánh nam nữ trên trời.
Giáo hội Công giáo trong suốt năm hầu như mỗi ngày đều mừng kính một hay nhiều vị Thánh với tên tuổi ngày tháng cùng nơi sinh ra, và ngày tháng năm nơi chốn qua đời. Nhưng vẫn còn nhiều Vị Thánh chưa hay không được biết đến tên tuổi, như Thánh Gioan viết thuật lại:
„ Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.“( Kh 7,9)
Nên Giáo hội mừng tất cả mọi Vị Thánh chung vào ngày 01. Tháng mười một hằng năm.
Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI. đã có suy tư về ngày lễ kính: „ Ngày lễ mừng kính các Thánh chúng ta hướng tầm nhìn lên với lòng biết ơn đoàn thể lớn lao các Tín Hữu đang cùng tham dự vào vinh quang của Chúa ở trên trời. Chúng ta tất cả được kêu mời sống theo con đường Tám mối phúc thật, như Chúa Giesu Kito rao giảng, Đấng hằng muốn dẫn đưa chúng ta về quê hương vĩnh cửu, nơi là nguồn đời sống. Trên con đường đời sống đó các Thánh phù giúp chúng ta qua gương sáng làm chứng và lời chuyển cầu của các ngài.“
Lễ mừng kính chung các Thánh là ngày lễ trọng trong Giáo hội Công giáo. Lễ mừng kính này là một trong những ngày lễ mừng trọng thể, có thể nói là cao điểm như lễ mừng Chúa Giesu giáng sinh, lễ mừng Chúa Giesu phục sinh, những ngày lễ trong tuần thánh, lễ mừng kính Chúa Giêsu lên trời hay lễ mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Như các ngày lễ trọng mừng Chúa Giesu giáng sinh và phục sinh, phẩm phục phụng vụ trong lễ mừng này là mầu trắng. Mầu trắng trong phụng vụ diễn tả ý nghĩa sự trong trắng tinh tuyền và sự vui mừng của ngày lễ mừng kính các Thánh.
Nguồn gốc ngày lễ này có từ thế kỷ thứ tư. Trước hết lễ mừng kính các Thánh được mừng vào ngày Chúa nhật sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Bên Giáo hội Tây phương - Roma- Đức giáo hoàng Binifatius IV. năm 610 đã làm phép thánh hiến đền thờ các vị Thần Roma, đền thờ Pantheon tôn kính các Vị Thần của thế giới cổ đế quốc Roma, cho Đức trinh nữ Maria và toàn thể các Thánh, và truyền hằng năm mừng kính ngày lễ vào ngày Thứ Sáu sau lễ Phục sinh.
Đức giáo hoàng Gregor III. đã làm phép thánh hiến một nhà nguyện ở trong đền thờ Thánh Phero dâng kính tất cả mọi Vị Thánh, và do đó thành phố Roma mừng kính lễ vào ngày 1. Tháng Mười một hằng năm. Và từ đó ngày lễ mừng kính được phổ biến rộng rãi trên toàn thể Giáo hội bên Tây phương.
Đến thời đức Giáo hoàng Gregor IV. năm 835 lễ mừng kính các Thánh được ấn định trong toàn thể Giáo hội vào ngày 01. Tháng Mười Một hằng năm.
Từ thời đức Giáo hoàng Sixtus IV. năm 1475 ngày lễ này trở thành lễ trọng trong toàn thể Giáo hội khắp hoàn vũ.
Theo khía cạnh thần học đạo đức lễ mừng kính toàn thể các Thanh Nam Nữ ngày 01.Tháng Mười một là ngày lễ tất cả mọi người đã đạt tới sự trọn vẹn yên nghỉ trong Chúa Giêsu Kitô, nguyên thủy được mừng kính vào ngày Chúa nhật sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, và đến thời Đức giáo hoàng Gregor IV. lễ được ấn định mừng vào ngày 01.Tháng Mười một.
Ngày 02.Tháng Mười một là ngày lễ cầu cho các Linh hồn do Tu Viện trưởng Odio thành Cluny năm 998 đã thiết lập để tưởng nhớ cầu nguyện trước hết cho các Tu sĩ trong các hội dòng của họ.
Hai ngày lễ liền sát gần nhau cùng với ý nghĩa cho các Thánh đã qua đời và cho các người đã qua đời, và bước sang mùa Đông, theo thời tiết xứ lạnh bên Âu châu, gợi lên suy nghĩ hai ngày lễ song đôi này đan quyện vào nhau.
Ngày lễ mừng kính các Thánh 01. Tháng Mười một hằng năm là ngày lễ diễn tả vẻ muôn mầu sắc của tất cả mọi người, của mọi dân tộc. Họ là chúc lành cho thế giới hôm qua và hôm nay.
Ngày lễ mừng kính các Thánh 01. Tháng Mười một hằng năm chung cho tất cả mọi người đã có đời sống tin tưởng vào tình yêu thương, và đã sống theo tình yêu thương với mọi người. Đời sống chan chứa tình yêu thương của họ được Thiên Chúa an ủi chúc phúc lành.
Gương đời sống các Thánh giúp con người chúng ta thêm nhuệ khí can đảm sống trong công trình thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng như mình là, như mình có thể.
Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho một con đường đời sống riêng. Và Thiên Chúa cần mỗi người, như các Thánh, là chúc lành cho hoàn vũ.
Lễ Các Thánh, 01.11.2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
500 năm phong trào cải cách
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 31.10.2017 Giáo hội Tin Lành mừng kỷ niệm 500 năm Phong trào cải cách. Phong trào cải cách - reformatio - mang ý nghĩa đổi mới, điều chỉnh trở về cho đúng. Phong trào khởi đầu ở trong đời sống nội bộ Giáo Hội Công giáo thời thế kỷ 16. bên Âu châu.
Phong trào cải cách ở nước Đức do linh mục Dòng Augustino Martin Luther khởi xướng . Ở nước Thụy Sĩ do Gioan Calvin và Huldrych Zwingli.
Xưa nay nói đến Phong trào cải cách về đạo Công giáo, rồi từ đó tách ra khỏi Giáo hội Công giáo và phát sinh Giáo hội Tin lành ở Âu châu ,và lan rộng ra trên toàn thế giới, khuôn mặt Martin Luther là người nổi bật, được kể là người tiên khởi hay sáng lập ra phong trào này.
1. Vị sáng lập Martin Luther
Martin Luther sinh ngày 10. 11. 1483 ở Eisleben bên nước Đức. Martin Luther được mẹ giáo dục rất cẩn thận nghiêm khắc. Theo sử sách, Ông là một học sinh chăm chỉ, nhưng tính tình rụt rè như có vẻ sợ sệt sự gì.
Năm 1501 Luther bắt đầu học đại học ở Erfurt. Cha của Martin muốn con mình học môn Luật để sau này có thể trở thành luật sư. Nhưng Ông lại chọn đi theo con đường khác. Năm 1505 Ông xin đi tu, gia nhập Dòng khổ tu Augustino ở Erfurt.
Năm 1507 Martin Luther được nhận chức Linh mục. Ông học thần học và 1512 trở thành giáo sư ở đại học Wittenberg. Là giáo sư thần học, Ông
nghiên cứu kinh thánh rất kỹ, nhất là thư của Thánh Phaolo gửi Giáo đoàn Roma.Và từ hiểu biết của nguồn đó Ông nhận ra chỉ nhờ ơn Chúa con người được công chính chứ không phải do công trạng việc làm của con người.
Ý tưởng mong muốn cải cách nhen nhúm trong tâm trí Ông từ ngày đó.
2. Ngày lịch sử 31.10.1517
Điều nhận thức đó trái ngược với giáo huấn về mua bán ơn toàn xá trong Giáo hội xảy ra thời lúc đó, và đã thúc đẩy Luther đưa ra 95 luận đề ngày muốn phản bác , cùng cải tổ lối sống lạm dụng trong Giáo hội Công giáo Roma.
Ngày 31.10.1517 Mrtin Luther đã viết 95 luận đề lên án đòi hỏi phải hủy bỏ tệ nạn mua bán ân xá để được tha các tội lỗi, mua bán chức tước trong đời sống Giáo hội, nhất là việc mua bán bằng ân xá để lấy tiền xây dựng đền thờ Thánh Phero bên Roma.
Linh mục Martin Luther thấy những việc làm mua bán đó trái ngược với nền tảng trong phúc âm của Chúa Giêsu.
95 đề án cải cách của Martin Luther được Ông dán công bố nơi cửa thánh đường ở Wittenberg. Bản văn 95 đề án này nhanh chóng được in ra phân phát rộng rãi trong dân chúng
Những luận đề này gây tranh cãi quyết liệt giữa Thầy Dòng Linh mục Martin Luther và Giáo Hội Công giáo Roma, giữa phe nhóm ủng hộ Luther và phe chống lại Luther. Và sau cùng đi đến phạt vạ cho nhau gây ra chia rẽ ly giáo.
Năm 1521 Martin Luther dịch Kinh Thánh từ nguyên bản tiếng Hy Lạp sang tiếng Đức. Đây có thể nói vào thời điểm lúc đó là một cuộc cách mạng trong lòng Giáo hội Công giáo.Vì vào thời điểm lúc đó Kinh Thánh chỉ được chính thức đọc bằng tiếng Latinh.
Linh mục Martin Luther lên tiếng muốn cải tổ đời sống Giáo hội, nhưng từ phong trào cải cách đã trở thành đạo Tin lành thệ phản Luther bên Đức, và trên toàn thế giới song song hay đối nghịch với Giáo hội Công giáo Roma.
Martin Luther tiếp tục giảng dậy viết sách bênh vực cho công cuộc cải cách xây dựng Giáo hội Tin lành thệ phản mới cho tới khi qua đời ngày 18.02.1546 ở Eisleben, thọ 62 tuổi.
3. Cuộc chiến giữa Hoàng đế Corolo V. và các vị Bá Tước cai trị vùng
Vào thời Trung cổ, ảnh hưởng, tiếng nói của Giáo hội Công giáo rất mạnh ở bên xã hội Âu châu không những trong lãnh vực đạo mà cả trong lãnh vực chính trị vục trần thế xã hội nữa.
Chung cho toàn nước Đức vào thế kỷ 16. có Hoàng đế được Giáo hội Roma phong vương, Hoàng đế Carolo V. . Nhưng các vùng hay tỉnh thành phố tự trị lại do các Bá Tước, các Ông Hoàng trực tiếp cai trị.
Khi những đòi hỏi cải cách của Luther được nêu ra lan truyền đã đụng chạm đến không những đời sống Giáo hội, mà còn cả đời sống chính trị nữa: Hoàng đế và các Bá Tước. Hoàng đế Carolo V. một bên ủng hộ Giáo hội Công giáo Roma và một số vị Bá Tước vùng một bên ủng hộ theo cải cách của Martin Luther.
Các vị Bá Tước vùng mạnh mẽ ủng hộ bảo vệ Luther cùng những đề án cải cách của Ông. Họ đã thực hiện cải cách như Luther đòi hỏi ngay trong những vùng tỉnh thành của họ về đời sống tôn giáo, và như thế thoát khỏi quyền bính của Hoàng đế và của Giáo hoàng.
Càng ngày càng có nhiều vùng tự trị ủng hộ theo phong trào cải cách Luther đe dọa vương quốc phân hóa chia rẽ làm hai về phương diện tôn giáo. Năm 1530 Quốc hội của vương quốc họp ở thành phố Augsburg trao đổi về những vị trí khác biệt thời lúc đó. Những người Thệ Phản theo ủng hộ cải cách Luther vận động để đi đến hòa bình hầu tránh chia rẽ đụng độ nhau.
Họ đề nghị lên Hoàng đế Carolo V. bản „ Confessio Augustana - Bản tự thú thành August“ . Trong bản này yêu cầu có sự độc lập về tôn gíao thoát ra khỏi sự chi phối ảnh hưởng của Giáo hoàng Roma. Nhưng Hoàng đế Carolo V. bác bỏ bản văn yêu sách đề nghị này.
Các vị Bá Tước vùng liền thành lập liên minh bảo vệ nhau. Nhưng Liên minh này trong trận chiến 1547 ở Muehlberg bị quân đội của Hoàng đế đánh dẹp tan.
Đến năm 1555 hoà bình trong vương quốc và hòa bình về tôn giáo được thỏa thuận kiến tạo giữa Hoàng đế và các Bá Tước theo phe thệ phản cải cách. Nó cho phép mỗi vị Bá Tước được chọn tôn giáo trong vùng cai trị của mình.
Trên thực tế từ khi có bản văn đề nghị ở Augsburg năm 1530, học thuyết của Luther đã được công nhận công khai hóa. Và như thế sự cố gắng đưa phong trào cải cách, những người Thệ Phản trở về với Giáo hội Công giáo không thành công rồi.
Phong trào cải cách lan rộng ra khắp nơi, không chỉ ở nước Đức, mà toàn Âu châu. Nguyên phong trào cải cách cũng phân chia thành các tôn giáo Thệ Phản khác nhau vì những học thuyết suy luận khác biệt nhau. Phong trào cải cách Luther là một trong các phong trào cải cách theo hướng Giáo Hội Thệ phản Tin Lành.
4. Nền tảng đạo giáo theo Giáo hội tin lành thệ phản Luther
Sự phân chia tách rời Giáo hội thệ phản Luther khỏi Giáo hội Công giáo được chính nhà cải cách Martin Luther xây dựng đặt trên bốn yếu tố nền tảng: Sola gratia, solus Christus, sola scrpitura, et sola fide.
Sola gratia - duy chỉ một mình ơn Chúa - theo M. Luther, con người được cứu chuộc không do tự sức của công việc riêng mình. Nhưng cho tất cả và cho từng người do bởi ơn của Chúa mà thôi.
Thiên Chúa là đấng cứu chuộc con người. Ngài là Đấng Tạo hoá nên con người. Và ngài cũng là Đấng Tạo Hóa mới sau khi con người chết. Ngài trao tặng con người không vì thành tích của con người đạt được hay làm ra. Ngài ban tặng con người sự công chính.
Duy chỉ ơn Chúa ban tặng con người chúng ta, nên chúng ta được cứu rỗi, và chúng ta được quyền tin tưởng vào ơn của Chúa thôi.
Solus Christus - duy chỉ một mình Chúa Kitô - Người tín hữu gắn bó chỉ với một mình Chúa Kitô của Thiên Chúa thôi, không với đức mẹ Maria, không với các Thánh hay với con người nào, không với công cụ, vật chất nào, không với hành hương rước kiệu hay bất cứ hình thức nào.
Duy chỉ riêng một mình Chúa Kitô mà chúng ta tuyên xưng, ngài là hiện thân của Thiên Chúa nơi trần gian cho con người, là người mang đến Lời Chúa cho ta, và sau cùng hy sinh hiến thân chịu chết trên thập tự và sống lại. Đó là đức tin và niềm hy vọng cho chúng ta.
Sola scriptura - duy chỉ kinh thánh - không bị làm cho sai lệch là căn bản nói về sự chân thật, loan truyền sứ điệp phúc âm.
Không truyền thống nào, không bài giáo lý nào của Giáo hoàng, của Giám mục là điều quyết định hay bắt buộc cả. Duy chỉ Kinh thánh thôi.
Nơi Kinh thánh chứa đựng Lời của Chúa với toàn thể sức lực và sự trong sáng. Sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của Kinh Thánh và diễn tả về lòng thương xót của Thiên Chúa. Kinh thánh là thước đo cho đời sống Kitô giáo, và đồng thời cũng là quan tòa thẩm phán về những việc làm của con người.
Kinh Thánh là căn bản cho giáo huấn, cho những việc làm và truyền thống của giáo hội.
Sola Fide - duy chỉ đức tin - Nhờ đức tin con người bất toàn yếu đuối được cứu chuộc. Không việc làm, không lời cầu thay phù hộ nào của các Thánh, không sự trung gian qua Giáo hội, không nhờ thánh lễ, không nhờ hành hương rước kiệu, không nhờ ơn toàn xá hay bất cứ việc làm gì khác, mà con người đạt được ơn cứu rỗi của Chúa, nhưng chỉ duy nhờ đức tin.
Đức tin trước hết và sau đó đến những việc làm tốt lành, đến đời sống, lời nói và hành động ngay lành.
“““““““““““““““““““““““““““““
Martin Luther căn cứ suy tư của mình dựa trên nền tảng Kinh Thánh nơi thư của Thánh Phaolo gửi Giáo đoàn Roma: „ Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống.“ ( Rm 1,17).
Thầy Dòng Linh mục Martin Luther với luận cứ thần học như vậy đã trở thành Nhà-cải-cách trong lòng Giáo hội Công giáo. Ông phủ nhận trật tự phẩm trật, các truyền thống trong Giáo hội Công giáo Roma. Và do bị Giáo hội Công giáo không chấp nhận cùng bị lên án, Nhà cải cách Martin Luther đã trở thành nhà sáng lập ra đạo Tin lành thệ phản Luther.
Theo thuật lại, Martin Luther đã có lần nói lên suy niệm sự hay đúng hơn lời tuyên tín “ Chúng ta là người hành khất“.
Phải, chúng ta tất cả là người hành khất đi tìm xin ơn đức của Thiên Chúa tình yêu, sự che chở chúc lành, sự tha thứ ơn cứu chuộc cho đời sống hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ơn gọi Truyền gíao
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cha Alexander De Rohdes, vị thừa sai truyền giáo ở nước Việt Nam từ 1624 đến 1645 , sinh trưởng bên quê hương nước Pháp thành Avignon, và là một trong những vị tiên khởi đã sáng tạo tìm ra Chữ Quốc Ngữ cho văn hóa đất nước dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17. , viết thuật lại ơn gọi truyền giáo của mình:
„ Cùng lúc khi Chúa ban ơn gọi tôi gia nhập Dòng, thì cũng cho tôi quyết định rời bỏ Âu châu để đi Ấn Độ. Đó là lý do chính khiến tôi chọn Dòng này hơn các Dòng khác. Tôi chỉ thích đi tới những miền đất xa xôi tốt đẹp, nơi bao nhiêu linh hồn sa đọa vì thiếu người giảng, và Chúa đã thành công dẫn đưa tôi vào ý định Người đã gợi nơi tôi.“ (Alexander De Rohes, Divers voyages et missions 1653 - Hành trình và truyền gíao, bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, 1994.).
Và trong dòng lịch sử Giáo hội Công giáo từ hơn hai ngàn năm luôn hằng có những tâm hồn nghe cảm nhận được tiếng Chúa kêu gọi hy sinh dấn thân rời bỏ quê hương nơi sinh ra đi đến miền vùng đất nước hẻo lánh xa lạ về mọi phương diện, để sống đời truyền giáo giữa con người xa lạ khác biệt về mọi khía cạnh nơi đó.
Họ sống như thế nào ở những nơi đó?
- Nữ tu Ruth Katharina Pfau, sinh ngày 9.9.1926 ở thành phố Leipzig nước Đức, sau khi tốt nghiệp là nữ bác sĩ đã xin rửa tội trở thành tín hữu đạo Tin Lành, và sau đó năm 1953 xin vào đạo Công Giáo.
Năm 1957 Bác sĩ Pfau xin nhập Dòng Những người con của trái tim Đức Mẹ Maria. Năm 1960 nhà Dòng gửi chị nữ tu Pfau sang Ấn Độ làm việc là Bác sĩ cho các người phụ nữ. Nhưng vì giấy nhập cảnh bị trục trặc, nên vị nữ tu bác sĩ này ở lại thành phố Karachi bên nước Pakistan. Nơi đây nữ tu bác sĩ Ruth Pfau đã sống cống hiến đời mình chữa trị những bị bệnh phong cùi, bệnh lao phổi, cho tới khi qua đời ngày 10.08.2017.
Suốt cuộc đời vị nữ tu bác sĩ sống giữa những người bị bệnh lao phổi, bệnh phong cùi và chữa trị cho họ.
Khả năng chuyên là một thầy thuốc chữa bệnh, và là một nữ tu có tâm hồn đạo đức tràn đầy lòng thương yêu Thiên Chúa và con người, nên nữ tu Pfau đã không chỉ là một vị bác sĩ chữa bệnh phần thân xác cho những người mắc bệnh, nhưng còn mang đến cho họ tình yêu thương an ủi, niềm hy vọng, mà Chị đã lãnh nhận cùng cảm nghiệm ra từ nơi Thiên Chúa, đấng sinh thành ra đời mình.
Vì thế, Nữ tu bác sĩ Ruth Pfrau được ca ngợi vinh danh là „Mẹ của người phong hủi.“.
Sự hy sinh dấn thân nỗ lực làm việc của nữ tu Ruth Pfau giữa cùng cho người bệnh tật xấu số là muối men là ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14). Đó là công việc truyền giáo giữa lòng đời sống xã hội .
- Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta nước Ấn Độ sống cống hiến đời mình cho những người có cuộc sống bất hạnh xấu số thiếu thốn lương thực, bệnh tật đau yếu bị khinh miệt kỳ thị, những trẻ em sống lang thang bị bỏ rơi rơi ngoài đường phố .
Mẹ Thánh Teresa sinh trưởng bên nước Albania, trở thành nữ tu Dòng Đức mẹ bên Anh quốc, nhưng đã tình nguyên dấn thân sang thành phố Calcutta bên Ân Độ làm việc. Nơi đây vị nữ tu Teresa đã thành lập Dòng Những chị em truyền giáo cho tình yêu thương con người.
Suốt dọc đời sống cho tới khi qua đời ngày 05.09.1997, Nữ tu Teresa và Chị em Dòng đã sống trọn đời mình phục vụ cho những người bất hạnh xấu số ở nơi đó.
Mẹ Thánh Teresa và Chị em nữ tu Dòng của mẹ đã làm công việc truyền giáo: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách, con người có nhà ở nương thân, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.
Việc truyền giáo của mẹ Thánh Teresa cùng Dòng của mẹ, và Nữ tu bác sĩ Ruth Pfau tập trung ở nơi cuộc sống ngay giữa con người nghèo khổ cần được giúp đỡ về vật chất cho thể xác và tinh thần.
Công việc truyền giáo của họ mang đến niềm an ủi, niềm hy vọng cho con người., đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật , mà Chúa Giêsu đã rao giảng ( Mt 5, 1- 11)
Thánh Teresa thành Calcutta lúc sinh thời vì những công việc truyền giáo bác ái đã được vinh danh ca ngợi là Mẹ Teresa.
- Cách đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ bên Âu châu sang nước Việt Nam công việc truyền giáo là loan truyền tin mừng phúc âm của Chúa cho con người. Các ngài đã hòa mình chấp nhận cuộc sống xa lạ khác biệt về mọi phương diện, cuộc sống thiếu thốn khổ ải, tù đày rồi bị kết án hành quyết cho tới chết.
Các ngài không chỉ làm công việc rao giảng tin mừng phúc âm đức tin vào Chúa, nhưng còn nỗ lực tìm cách giới thiệu phát triển nếp sống văn minh mới của Âu châu cho con người nữa, mà không loại bỏ hay làm lu mờ phong tục tập quán nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Các ngài đã làm công việc truyền giáo hội nhập văn hóa dân tộc nơi đó.
Chữ Quốc Ngữ là một bằng chứng điển hình cho nền văn hóa hội nhập trong lòng dân tộc đất nước hôm qua hôm nay và ngày mai.
Các nhà thờ cổ kính nghệ thuật văn hóa Âu châu mà các ngài đã có công xây dựng là những di tích lịch sử văn hóa lâu dài cho đất nước xã hội.
Các bài kinh sách, ca vè, những tập tục nếp sống đạo đức…các ngài đã phát triển theo cung cách hội nhập văn hóa cho trở nên có nét đẹp trong sáng vẫn hằng sống động trong nếp sống con người.
„ Nhiệm vụ của kitô hữu trong thế giới này là trở thành các thừa sai của niềm hy vọng, mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh, có khả năng tái trao ban nhựa sống cho những gì xem ra đã mất đi vĩnh viễn…
Đức tin, niềm hy vọng của chúng ta không chỉ là một sự lạc quan; nó là một cái gì khác, hơn nhiều! Nói như thể các tín hữu là những người có một “mảnh trời” hơn nữa ở trên đầu. Điều này thật đẹp! Chúng ta là những người có một mảnh trời hơn nữa ở trên đầu, được đồng hành bởi một sự hiện diện mà ai đó không thể trực giác được.
Như thế nhiệm vụ của các kitô hữu trong thế giới này là mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh có khả năng trả lại nhựa sống cho những gì xem ra đã mất luôn mãi. Khi toàn bầu trời âm u, thì thật là một phúc lành ai biết nói về mặt trời.“ (Đức Giáo Hoàng Phanxico, Giáo lý buổi triều yết ngày thứ tư, 04.10.2017).
Khánh nhật truyền giáo 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chiếc áo trong đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống con người luôn cần quần áo mặc che thân thể tránh gío lạnh, hay nắng nóng bức, lúc khoẻ mạnh cũng như lúc đau bệnh ngay từ khi còn là một em bé mở mắt chào đời cho đến ngày xuôi hai tay được bao bọc đặt nằm trong cỗ áo quan.
Và con người cần quần áo khác nhau tùy theo phong tục tập quán nơi mình sinh sống, tùy theo tuổi tác, tùy theo địa vị xã hội, cùng tùy theo từng trường hợp lễ nghi yến tiệc trong sinh hoạt văn hóa xã hội.
Thú vật được Trời sinh tùy theo chủng loại có da có bộ lông là quần áo cho thân thể chúng. Con người Trời cao ban cho tâm trí phát minh dùng vải chế biến may thành quần áo dùng mặc để che chở cùng trang trí thân thể mình.
Quần áo như vậy ngoài chức năng che thân thể, tránh mưa nắng và gío, còn có chức năng diễn tả nếp sống văn hóa xã hội, nét đẹp nếp sống tinh thần con người nữa.
Trong dân gian có thành ngữ nói lên điều diễn tả chức năng của quần áo mặc: Y phục xứng kỳ đức!
Thiên Chúa tạo dựng con người đầu tiên trong công trình sáng tạo thiên nhiên: Ông Adong và Bà Evà. Kinh thánh nói hai Ông Bà sống trần truồng không có quần áo, nhưng họ không xấu hổ trước mặt nhau ( Sách Sáng Thế, 2, 25).
Và sau khi Ông Bà lỗi luật ăn trái cây Thiên Chúa cấm ăn. Ăn xong Ông Bà thấy mình trần truồng. Xấu hổ Ông Bà đi lấy lá cây làm quần áo che thân. ( Sách sáng Thế 5, 1-10).
Như thế lịch sử cần có quần áo mặc che thân thể có nguồn gốc từ trong Kinh Thánh với con người đầu tiên trong công trình sáng tạo thiên nhiên. Quần áo dùng che thân cùng liên quan với sự yếu đuối về tinh thần thể xác, cùng với sự xấu hổ trước nhau.
Từ nhận thức cùng cảm giác đó, quần áo trở thành nhu cầu cần thiết, không có không được, cho con người để bảo vệ thân thể cùng nhân vị mình trước nhiên và trước nhau.
Đời sống đức tin đạo giáo cũng cần có quần áo. Ngày nhận lãnh Bí tích rửa tội, tấm áo trắng rửa tội là hình ảnh dấu chỉ đời sống mới được mặc hay đặt trên em bé.
Theo khía cạnh ý nghĩa thần học chiếc áo rửa tội được so sánh như chiếc áo cưới. Trong hôn nhân hai người nam nữ hứa thề kết hợp với nhau trọn suốt cuộc đời. Cũng vậy, qua bí tích rửa tội con người và Thiên Chúa gắn bó kết hợp với nhau.
Chiếc áo rửa tội mầu trắng cũng như chiếc áo cưới mầu trắng diễn tả sự trong trắng, sự vô tội, niềm mong chờ đợi trông, và sự vui mừng trong sáng không bị làm lu mờ.
Và chiếc áo trắng rửa tội cũng là hình ảnh nói về Chúa Giêsu Kitô, như Thánh Phaolo đã cắt nghĩa: " Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.“ ( Thư Galata, 3, 27)
Chiếc áo rửa tội mầu trắng là hình ảnh dấu hiệu nói lên Thiên Chúa bao bọc con người. Mầu trắng chỉ về Ba ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần - cũng là mầu sắc diễn tả về sự tốt lành, về lòng thương xót và về tin mừng.
Ngoài chiếc áo trắng rửa tội, người Kitô hữu còn có chiếc áo khác nữa, như Thánh Phaolo viết thuật lại: „1Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy mặc vào chiếc áo lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại“ ( Thư Colosseo 3,12).
Chiếc áo bằng vải bằng lụa mặc để che thân, bảo vệ thân xác nhân vị cùng tương xứng hợp với văn hóa phong tục xã hội cần thiết cho đời sống con người.
Nhưng chiếc áo tinh thần, chiếc áo đức tin đạo giáo trong tâm hồn con người, tỏ hiện ra nơi cung cách đối xử sinh sống với nhau hằng ngày cũng cần thiết không kém chiếc áo bằng vải, bằng lụa là mặc nơi thân thể.
Chiếc áo bằng vải diễn tả nếp sống văn hóa con người, thì chiếc áo đạo gíao tinh thần góp phần đáng kể chính yếu giúp cho nếp sống văn hóa, nếp sống giữa con người với nhau trong cộng đồng xã hội được vun xới triển nở thêm phong phú, xây dựng tình yêu thương hòa bình cùng mang lại niềm hy vọng.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„ Đức Bà như ngôi sao mai sáng vậy.“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong kinh nhật tụng của Hội Thánh, mà các Linh mục đọc hằng ngày, có bài thánh thi bằng tiếng Latinh „Ave maris stella“. Bài thánh thi này được phổ nhạc cung điệu Bình ca hát long trọng.
„Ave, maris stella,
Dei mater alma
atque semper virgo,
felix caeli porta.
………
Bài thánh thi này phổ biến rộng rãi từ thế 8. hay 9. , và không rõ nguồn gốc tác giả là ai đã sáng tác ra. Bài thánh thi này được dùng là kinh cầu nguyện trong Hội Thánh, nhất là vào thời Trung Cổ. Bài chứa đựng cùng diễn tả tâm tình sùng kính Đức mẹ Maria, và xin Đức mẹ như ánh sáng ngôi sao soi đường phù giúp cho trên đường vượt biển trần gian.
Bài thánh thi này xưa nay đã gợi thi hứng cho nhiều nhạc sĩ sáng tác ra những bài hát thánh ca ngợi khen Đức mẹ Maria.
Trong kho tàng thánh ca Việt Nam có bài hát „ Lạy mẹ là ngôi sao sáng“ do Nhạc sĩ Tâm Bảo sáng tác. Bài thánh ca này cũng được hát rất phổ thông, rất nhiều người hát bài này thuộc lòng như kinh cầu nguyện của mình.
Bài „Ave maris stella“, hay bài „Lạy Mẹ là ngôi sao sáng", ca tụng Đức mẹ Maria như ngôi sao sáng. Và kinh cầu Đức mẹ cũng ca tụng“ Đức bà như ngôi sao mai sáng vậy“.
Tại sao ca tụng Đức mẹ Maria là ngôi sao sáng?
Trên bầu trời vào ban đêm trong sáng không có những áng mây xám đen che phủ, xuất hiện những vệt sáng, những dải dài như dòng sông lấp lánh ánh sáng của các vì sao. Và cũng có những vì sao xuất hiện riêng lẻ xa nhau rải rác khắp bầu trời. Tùy theo mùa thời tiết các vì sao chiếu ánh sáng tỏa ra sáng tỏ hay mờ mờ huyền ảo.
Các nhà thiên văn xưa nay hằng quan sát khảo cứu về các ngôi sao tìm hiểu về nguồn gốc cùng sứ mạng của chúng. Nhưng con đường khảo cứu về các ngôi sao vẫn luôn còn có những khám phá mới lạ, còn có những các vì sao bí ẩn xa tít ngoài tầm quan sát, ngoài tầm phủ sóng của ống viễn vọng kính đi săn tìm chúng.
Theo Kinh thánh thuật lại, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và Ngài đã tạo dựng các ngôi sao trên bầu trời cùng với mặt trăng để chiếu ánh sáng ban đêm vào ngày sáng tạo thứ tư. ( St 1, 16).
Đức mẹ Maria là người con gái của Thánh Gioakim và Thánh nữ Anna quê ở làng Nazareth nước Do Thái. Và Giáo hội mừng ngày sinh nhật Đức mẹ Maria hằng năm vào ngày 08. tháng Chín.
Như thế Đức mẹ là loài thụ tạo, là con người như bao người khác được Thiên Chúa tạo dựng nên có linh hồn, có thân xác trong công trình sáng tạo thiên nhiên.
Và như vậy Đức mẹ Maria đâu có là ngôi sao chiếu ánh sáng ban đêm như các ngôi sao của dải ngân hà trên bầu trời.
Và Đức mẹ Maria cũng không là ánh sáng của một đốm lửa, của đèn điện. Đức Mẹ Maria cũng cần đến ánh sáng để được soi chiếu vào ban đêm, cũng như ánh sáng thiêng liêng cho tâm hồn.
Trời càng tối, ánh sáng càng chiếu tỏa mạnh rõ ra.
Thời tiết càng gía lạnh, ánh sáng càng có ý nghĩa mang đến sự sưởi ấm cho thể xác lẫn tâm hồn.
Sự đau khổ, sợ hãi u buồn trong tâm hồn con người khác nào bóng tối che phủ làm họ chùng xuống hoang mang. Và khi có ánh sáng chiếu tới khác nào như sức mạnh mang lại sự an ủi phấn khởi cho tâm hồn tìm lại được phương hướng đứng dậy vươn lên.
Ngày xưa vào ban đêm các người đi tầu thuyền trên sông nước biển cả, các người đi trong rừng núi vùng thung lũng thường hay ngắm sao trời tìm phương hướng mà đi.
Đức mẹ Maria không là ngôi sao chiếu sáng. Nhưng là người đã sinh hạ Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng. Vào ngày Chúa Giêsu sinh ra trên trần gian, Ba nhà Thiên văn, quen gọi là Ba Vua, là ba nhà Đạo sĩ từ bên phương Đông đã nhìn thấy ngôi sao của Chúa Giêsu xuất hiện trên nền trời. Và các Ông đã lần theo ánh sáng ngôi sao dẫn đường tìm đến nơi Chúa Giêsu sinh ra ở thành Bethlehem bên nước Do Thái.
Đức mẹ Maria không là ánh sáng ngôi sao. Nhưng là người mẹ đã sinh thành ra Chúa Giêsu, Đấng là mặt trời công chính, là ngôi sao chiếu sáng vào trong đêm tối tội lỗi trần gian cho con người tìm nhận ra đường đi về với Thiên Chúa.
Đức mẹ Maria không là ánh sáng ngôi sao. Nhưng đã sinh hạ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng, như Ngài đã nói „ Thầy là ánh sáng“ cho tâm hồn con người trên đường sống ở trần gian.
Ca tụng Đức mẹ Maria là „ Maris stella“ là „ Ngôi sao mai sáng vậy“ ,„ Lạy mẹ là ngôi sao sáng“ muốn nói lên tâm tình đầy lòng tin tưởng Đức mẹ đã hạ sinh Đấng là ánh sáng, Đấng là ngôi sao dẫn đường cho con người trên đường lữ hành ở trần gian.
Bài thánh ca ca tụng Đức mẹ là ngôi sao sáng còn diễn tả lòng cậy trông niềm hy vọng xin Đức Mẹ đã sinh thành ra Ngôi sao sáng Chúa Giêsu phù hộ cho được an ủi che chở những khi cuộc đời gặp bước đường có nhiều sóng gió , nhiều bóng tối bao phủ thử thách cám dỗ hôm nay và ngày mai.
Tháng Mân côi kính Đức mẹ Maria
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hai thái độ cung cách xử sự.
- Không nhượng bộ trung tín theo Chúa
- Thánh Phero và thập gía
- Cử chỉ bái gối trước Thiên Chúa toàn năng.
- Dominus vobiscum - Chúa cùng Anh Ch Em!
- Lời tuyên tín
- Nếp sống lòng thương xót
- Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
- Các nền tảng tín lý Đức Maria hồn xác lên trời trong lịch sử Giáo Hội
- Tinh thần trái tim tỉnh thức