Mừng kính Chúa Giêsu lên trời
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm toàn thể Hội Thánh Công giáo mừng lễ Đức Chúa Giêsu lên trời.
Vậy đâu là nguồn gốc lịch sử và đức tin của ngày lễ mừng này?
Trong kinh Tin Kính chúng ta đọc tuyên xưng: „ Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha.“.
Lời tuyên xưng đức tin đặt trên nền tảng lời Kinh Thánh thuật lại trong Phúc âm theo thánh Luca 24, 50-53 và nơi sách Công vụ Tông Đồ 1, 1-11.
Cả hai đoạn Kinh Thánh thuật lại thời điểm cùng cung cách và nơi chốn Chúa Giêsu lan trời: 40 ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại, ở thành Gierusalem, có đám mây quyện cất cùng hai Thiên Thần hộ vệ đưa Chúa Giêsu lên trời cao.
Lễ Chúa Giêsu lên trời có ý nghĩa sâu rộng trong đức tin đạo Công giáo về khía cạnh thần học ngày cánh chung, ngày sau cùng.
Thánh Phaolô trong thư gửi Gíao đoàn Philippe đã viết về việc Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha cắt nhắc đưa lên cao:
„ Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập gía. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. „ ( Pl 2,8-9)
Đức tin vào Chúa Giêsu lên trời ngay vào thời khởi đầu Kitô giáo đã được cáo Giáo phụ viết trong các bản văn như nơi Giáo phụPolykarp thành Smyrna, Justin và Irene thành Lyon.
Từ thế kỷ thứ ba sau Chúa Giêsu giáng sinh đã nói đến Chúa Giêsu lên trời trong Hội Thánh công giáo Roma. Đến năm 325 và năm 381 dựa trên nền tảng đó, Kinh tin kính các Thánh Tông đồvà Công đồng Nicea đã viết lại thành văn bản tuyên tín:
Lateinisch:
„et resurrexit tertia die secundum scripturas,
et ascendit in cælum,sedet ad dexteram Patris,
et iterum venturus est cum gloriaiudicare vivos et mortuos,
cuius regni non erit finis;“
„ Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng tận.“
Phụng vụ lễ trọng mừng kính Chúa Giêsu lên trời có từnăm 383 ở Gierusalem. Dựa theo phúc âm Thánh Luca, lễ mừng kính vào ngày thứ Năm, 40 ngày sau lễ Chúa Giêsu phục sinh, và 10 ngày trước lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Theo tập tục nếp sống từ xưa bên Âu Châu, ba ngày trước lễ mừng Chúa Giêsu lên trời là ba ngày rước kiệu cầu mùa. Khi đi rước kiệu qua cánh đồng, qua khu nhà cửa sinh sống, kinh cầu các Thánh được đọc xướng xin chúc lành của Chúa qua lời chuyển cầu của các Thánh cho mùa màng, cho đời sống con người.
Ỏ Gierusalem trên vùng núi cây dầu có nhà nguyện Chúa Giêsu lên trời. Tương truyền nơi đó ngày xưa Chúa Giêsu đã đứng khi lên trời. Trong ngôi nhà nguyện bây giờ thuộc Hồi Giáo có dấu vết chân Chúa Giêsu đứng còn in trên mặt đất khi Người vềtrời.
Lễ mừng kính Chúa Giêu lên trời là lễ mừng hướng lên trời cao. Trời cao không chỉ nơi trên cao, nhưng trời che phủ, nâng đỡ mặt đất.
„ Phải chăng tôi cho rằng tôi phải chống đỡ trời, hay tôi nhận ra rằng trời che chở nâng đỡ tôi? Người nào tin tưởng rằng trời che chở năng đỡ mình, người đó đang gần sát với nền tảng căn bản đời sống của mình. Và từcăn bản đó, tâm trí đầu óc, trái tim tâm hồn, chân tay thân thể họ được tựdo bằng an trong cung cách nếp sống tình liên đới với mọi người.“ ( F. Kamphausen).
Lễ Chúa Giêsu lên trời 2016
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Tháng hoa kính mừng Đức Mẹ Chúa trời
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
1. Tháng hoa mừng kính mẹ Chúa Trời hiển vinh, chúng con thắp cây nến cùng với những cành bông hoa diễn tả lòng nhân ái nhớ đến Đức mẹ xưa đã mở cánh cửa cung lòng cho Chúa Giêsu xuống thế làm người, khi đức mẹ chấp nhận vâng theo thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là hoa qủa phúc lộc cho mẹ, và cho hết mọi người.
Thắp Cây nến và mang những cành bông hoa tươi thắm lên tòa Đức Mẹ, chúng con muốn nói lên tâm tình kính mến cha mẹ chúng con, những người đã sinh thành, trao tặng lòng nhân ái thương yêu dậy dỗ đào tạo chúng con nên người, như Đức mẹ xưa đã làm cho Chúa Giêsu.
2. Tháng hoa kính Đức Mẹ Chúa trời hiển vinh, chúng con thắp sáng cây nến lòng lễ nghĩa , cùng với những cành hoa tươi thắm lên trước tòa Đức mẹ.
Cây nến và cành bông hoa tươi thắm muốn nói lên cung cách Đức mẹ xưa kia đã sống niềm tin đạo giáo giữ lễ nghĩa, kính thờ yêu mến Thiên Chúa.
Cuộc sống kính trọng gìn giữ lễ nghĩa của Đức mẹ là gương mẫu cho chúng con sống với Chúa, với ông bà cha mẹ anh chị em, vợ chồng với nhau trong gia đình.
Đời sống có lễ nghĩa là cuộc sống tràn đầy đạo đức với Chúa và văn hóa tình người với nhau.
3. Tháng hoa chúng con mừng kính Đức mẹ Chúa Trời hiển vinh qua lời ca tiếng hát trầm bổng phát xuất từ tận đáy tâm hồn. Đó cũng là tâm tình vui mừng với Thiên Chúa là Cha đời mình, mà Đức mẹ đã bày tỏ qua lời kinh ca ngợi: Linh hồn tôi tung hô Chúa. Thần trí tôi mừng vui trong Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc tôi!
Xin thắp cây nến lòng hiếu thảo cùng với những cành bông hoa mầu sắc tươi thắm mừng kính Mẹ Chúa Trời.
Ước gì ánh sáng cây nến cùng với vẻ tươi thắm mầu rực rỡ bông hoa lòng hiếu thảo của Đức Mẹ chiếu lan tỏa tới tâm hồn chúng con biết sống lòng kính trọng với Thiên Chúa, và lòng biết ơn người sinh thành, cũng như những người làm ơn cho chúng con!
4. Tháng hoa chúng con chào kính Mẹ Chúa vinh quang qua ánh sáng cây nến cùng với những cành bông hoa nở rộ chiếu tỏa sức sống sáng tạo của trí khôn mà Thiên Chúa đã phú ban cho Mẹ.
Phát xuất từ trí óc sáng tạo, Mẹ đã tiên liệu việc Chúa làm: Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Ôi, lời chan hòa tình tự sự hiểu biết và trí khôn ngoan đặt nơi Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn đời sống con người!
Cùng với Mẹ trên trời, chúng con chúc tụng và cám ơn Thiên Chúa, Đấng đã phú ban cho con người kho tàng tài sản châu báu là trí khôn suy nghĩ và sáng tạo!
5. Tháng hoa chúng con ca ngợi Mẹ Chúa trời hiển vinh bằng ánh sáng cây nến, và những cành bông hoa mầu sắc tươi thắm lòng trung thành.
Xưa kia Mẹ đã âm thầm ghi nhớ mọi biến cố kỷ niệm xảy ra trong tâm hồn.
Mẹ theo dõi cuộc tử nạn Chúa Giêsu trong mọi bước đường.
Dưới chân thánh gía Mẹ đứng đó chứng kiến giờ phút sau cùng của Chúa Giêsu lúc Chúa tắt thở .
Lòng trung thành là nhân đức quí báu và cần thiết cho đời sống làm người với Chúa, giữa vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em, bạn bè với nhau trong gia đình và trong cộng đoàn xã hội.
6. Cùng với đóa hoa mầu tươi thắm, chúng con thắp cây nến lòng thành tín mừng kính Mẹ Chúa trời hiển vinh.
Mẹ đã sống tình nghĩa con người đến thăm người bà con chị họ E-li-sa-bét.
Mẹ đã bầu cử cứu giúp đôi bạn trẻ ngày thành hôn, khi họ lâm cảnh khó khăn, vì giữa tiệc cạn hết rượu. Mẹ quan tâm tới đời sống gia đình trước hết.
Cung cách sống thành tín mang đến cho nhau trong cuộc sống niềm vui và sự an toàn, nhất là trong bước đường gặp nghi nan lo âu.
Xin Đức Mẹ cầu bầu cho các gia đình chúng con. Giúp họ củng cố lòng tín nghĩa với nhau, những khi rượu tình yêu trong đời sống hầu sắp cạn!
7. Cùng với cành bông hoa mầu tươi tốt, chúng con thắp cây nến lòng dũng cảm chào kính Mẹ Chúa thiên đàng.
Mẹ đã can đảm chấp nhận cưu mang Chúa Giêsu như Thiên Chúa đã hoạch định,và hạ sinh trẻ Giêsu giữa cánh đồng trong chuồng xúc vật. Mẹ cùng với Thánh Giuse chấp nhận cuộc sống tỵ nạn bên Ai-Cập và âm thầm sống tại làng quê Na-da-rét.
Mẹ luôn ở bên cạnh các Tông đồ trong những giờ phút nguy hiểm u buồn lúc Chúa Giêsu chết. Và cùng với họ can đảm chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Lòng dũng cảm là nhân đức cao thượng trong cuộc sống. Lòng dũng cảm hun đúc đào tạo nên những con người thánh, những con người anh hùng có đời sống đạo đức văn hóa tình người.
8. Cùng với cành bông hoa mầu tươi tốt, chúng con thắp cây nến tuổi xuân xanh chào kính Mẹ Chúa thiên đàng.
Thắp sáng cây nến tuổi xuân xanh cùng với những nhánh bông nụ hoa mới bung nở tươi thắm cho con em bạn trẻ chúng con.
Khi xưa kia Mẹ đã nuôi dậy Chúa Giêsu khi Chúa Giêsu còn trong lứa tuổi thanh thiếu niên, nên mẹ đã có cảm nghiệm về sự phát triển vươn lên nơi người trẻ, cũng như kinh nghiệm về những khó khăn khúc mắc trong việc giáo dục dậy dỗ người trẻ.
Tuổi trẻ là niềm vui, niềm hy vọng cho ngày mai.
Tuổi trẻ chiếu ánh sáng vẻ đẹp cho đời sống phấn khởi vươn lên
Tuổi trẻ là nụ bông hoa tươi thắm trong khu vườn nhân loại mà Trời Cao ban tặng cho xã hội con người.
Nhưng trong đời sống họ luôn phải đối mặt gặp nhiều những thử thách, những cám dỗ làm chao đảo tinh thần, và cũng có khi bị sa ngã đi xa lạc đường...
Xin Đức Mẹ phù hộ trước tòa Chúa cho con em bạn trẻ chúng con
9. Cùng với cành bông hoa mầu tươi tốt, chúng con thắp cây nến nguyện cầu chào kính Mẹ Chúa thiên đàng.
Thắp sáng cây nến nguyện cầu và những nhánh bông hoa cho những người đã ra đi về đời sau.
Họ là Ông Bà Tổ Tiên của chúng con.
Họ là những người đã làm ơn cho chúng con trong đời sống.
Họ là cjha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cháu, họ hàng trong gia tộc.
Họ là Bạn bè, người quen thân hữu xưa kia đã cùng chung con đường đời sống với nhau.
Họ là những vị anh hùng chiến sĩ đã có công xây dựng gìn giữ quê hương đất nước xã hội.
Họ là những người vô danh đã âm thầm ra đi không được nhớ biết tới.
Xin Đức Mẹ phù chuyền lời nguyện cầu của chung con, như làn khói tỏa ra từ cây nến bay lên cao, tới ngai tòa Chúa, và được Chúa nhậm lời cùng ban cho các linh hồn sự sống trong khu vườn trên nước Chúa hằng sống.
01.05.2016, tháng dâng hoa mừng kính Đức Mẹ Chúa Trời
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vòng mạo gai
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Trong các thánh đường và ở nhà người tín hữu Công giáo có treo cây thập gía, trên đó có tượng Chúa Giêsu Kitô bị đóng đinh: hai tay giang ra hai bên ngang cây thập gía, hai chân cũng bị đóng đinh vào chiều thẳng đứng cây thập gía, đầu Chúa Giêsu nghiêng gục xuống có vòng mạo gai quấn trên đầu máu nhỏ xuống thành gịot.
Một hình ảnh đau đớn thương tâm. Đó là biến cố đã xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm trên đồi Golgotha ở thành Giêrusalem bên nước Do Thái. Nhưng với người tín hữu Chúa Kitô đó lại là hình ảnh sự hy sinh mang lại ơn cứu độ của Chúa Giêsu cho con người khỏi hình phạt tội lỗi.
Vòng mạo gai đóng trên đầu Chúa Giêsu truyền đi sứ điệp gì cho người tín hữu?
Gai cây cỏ hay gai bằng sắt thép đều gây ra vết thương đau nhức chảy máu khi chúng đâm vào da thịt con người hay con thú vật. Gai như vậy qúa nguy hiểm, tốt nhất đừng nên đụng chạm vào gai.
Chúa Giêsu sau khi bị thẩm vấn xét xử, đã bị cho đội vòng mạo gai đóng trên đầu.Lẽ tất nhiên đau đớn nhức nhối. Nhưng Chúa Giêsu bị trói không thể cựa quậy có phản ứng gì được. Ngài cam chịu trận. Một người phải chịu đựng đau đớn nhục nhã đến tận cùng vì sự đau khổ của người khác.
Trong Kinh Thánh nói đến lòng Thiên Chúa thương xót con người: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.“ ( Xh 3,7).
Gai là hình ảnh dấu chỉ sự hiện của Thiên Chúa. Trong sách kinh thánh Xuất Hành thuật lại biến cố Thiên Chúa giải thoát cứu dân Do Thái khỏi cảnh sống nô lệ như bị gai đâm gây ra đau khổ cực nhọc bên Ai Cập. Và Thiên Chúa đã hiện ra với Ngên sứ Mose trong bụi gai không bị ngọn lửa thiêu rụi ( Xh 3,2).
Một ngọn lửa cháy mà không không thiêu rui cây cỏ. Phải chăng đây là hìn ảnh diễn tả về tình yêu? Phải, một ngọn lửa tình yêu có lửa bốc chháy nồng ấm, nhưng không hủy diệt.
Những gai nhọn của vòng mạo gai trên đầu Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập gía, người tôi tớ của Thiên Chúa như Ngôn sứ Isaia nói về ngài, diễn tả cụ thể về tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa như ngọn lửa bừng cháy, nhưng không hủy diệt phá hủy.
Nơi Chúa Giêsu bị đau khổ người tín hữu Chúa Kitô nhận ra ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa. Điều Ngôn sứ Mose nghe Thiên Chúa nói nơi bụi gai cháy, cũng như vậy, khi chúng ta đi tìm nhìn lên Chúa Giêsu bị chết treo trên cây thập gía. Và qua đó cảm nghiệm nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, đấng đã hạ mình đi xuống, và như ngọn lửa tình yêu trong bụi gai mang lại sự giải thoát và niềm hy vọng.
Chúng ta tôn kính thờ lạy Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá đội mạo gai. Vòng mạo gai trên đầu Chúa Giêsu truyền đi sứ điệp ngọn tình yêu của Thiên Chúa. Ngọn lửa tình yêu đó bừng cháy nơi tâm hồn con người.
Thứ sáu Tuần Tuần 2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các sự kiện của việc đóng đinh
- Viết bởi Vũ Văn An
Sự kiện đóng đinh, dĩ nhiên, không thích thú gì. Tuy nhiên, hiểu rõ việc đóng đinh sẽ giúp chúng ta hiểu Chúa Giêsu đã phải chịu đựng những gì vào ngày Người qua đời. Bài dưới đây dựa vào nhiều tài liệu y khoa, trong đó, có cuộc nghiên cứu của Bệnh Xá Mayo đăng trên Tạp Chí của Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ năm 1989.
Hình phạt đóng đinh có lẽ bắt đầu bởi người Ba Tư (nay là Iran). Thoạt đầu, nạn nhân bị treo lên để chân không chạm đất thánh. Người Phênixi, đi buôn bán khắp nơi, hình như đã bắt chước thực hành này và đem đi phổ biến ở nhiều nền văn hóa khác, trong đó có nền văn hóa Hy Lạp.
Alexăng Đại Đế (người Hy Lạp) du nhập thực hành này vào Carthage, nơi nó được người Rôma tiếp thu. Người Rôma bắt đầu sử dụng nó khoảng vào thời Chúa Giêsu sinh ra.
Họ cải thiện việc đóng đinh, biến nó thành một hình phạt nhằm tối đa hóa sự đau đớn và thống khổ. Không phải chỉ để giết một người, mà là giết cách khủng khiếp nhất. Người bị đóng đinh chịu lượng đau khổ lớn lao nhất.
Đóng đinh cũng là hình thức hành quyết hạ nhục nhất. Nó thường được dành cho nô lệ, ngoại kiều, phiến loạn, và những tội nhân đáng khinh. Chỉ những công dân Rôma nào phạm tội đào ngũ mới bị đóng đinh mà thôi.
Thế nào là đánh đòn?
Đánh đòn được thực hiện trước việc đóng đinh. Nó nhằm đem nạn nhân tới trạng thái gần như đã chết. Nó gây đau đớn, cùng cực.
Roi đánh có những viên bằng sắt gắn vào cuối mỗi sợi dây da. Đôi khi, những chiếc xương chiên rất sắc còn được cột vào gần cuối sợi dây ấy nữa. Những viên bằng sắt nhằm gây những vết bầm thật sâu, trong khi sợi dây da sẽ xẻ da ra. Xương chiên sẽ làm cho diễn trình xẻ da nhanh hơn. Sau một vài cú đánh, da sẽ bị xé nát và các bắp thịt bắt đầu bị xẻ. Máu lênh láng chẩy ra và cơn đau có thể làm nạn nhân kích ngất (shock).
Một cuộc đóng đinh tiêu biểu sẽ như thế nào?
Sau khi bị đánh đòn, nạn nhân sẽ vác xà ngang của cây thập tự của mình (gọi là patibulum) từ khu vực bị đánh đòn bên trong thành tới khu vực bị đóng đinh ở bên ngoài tường thành. Khu vực đóng đinh luôn ở bên ngoài thành phố, vì diễn trình đóng đinh rất khủng khiếp và gây kinh hoàng cho người dân.
Phần đứng thẳng của cây thập tự đã được dựng sẵn tại khu vực đóng đinh. Phần được nạn nhân vác là xà ngang, nặng chừng từ 75 tới 125 cân Anh. Xà ngang này được đặt cân bằng trên vai nạn nhân, và hai cánh tay nạn nhân bị cột vào xà ngang này. Ở thế này, nếu nạn nhân bị té, họ không thể dùng tay để đỡ được, nên chắc chắn sẽ té dập mặt thẳng xuống đất.
Nạn nhân được vệ binh Rôma hộ tống (thường là một viên bách quản và một số binh lính), những người này có nhiệm vụ canh giữ nạn nhân cho tới khi nạn nhân chết. Một trong các binh lính này sẽ đóng một tấm bảng viết tội của nạn nhân trên đó.
Khi đã tới khu vực đóng đinh, nạn nhân sẽ được uống một thứ rượu pha với nhựa thơm có tác dụng làm giảm cơn đau. Đây là một nghĩa cử của các phụ nữ Giêrusalem.
Rồi họ trao cho Người rượu pha nhựa thơm, nhưng Người không dùng nó - Máccô 15:23.
Sau đó, nạn nhân sẽ bị đóng đinh vào xà ngang cây thập tự. Đinh sẽ thâu qua cổ tay, chứ không phải bàn tay, vì làm vậy sẽ không giữ được sức nặng của thân xác.
Xà ngang cây thập tự sẽ được nâng lên và tra vào cột đứng thẳng, là cột được dùng để đóng đinh gót chân nạn nhân vào.
Một khi đã bị đóng đinh, nạn nhân thường sống thêm được chừng vài giờ tới vài ngày. Sống bao lâu phần lớn tùy ở việc đánh đòn dữ dằn ra sao.
Nếu không ai xin xác nạn nhân, xác này sẽ bị để nguyên trên thập tự để các loài chim ăn thịt. Tuy nhiên, gia đình có thể xin xác về chôn cất. Trong trường hợp này, một binh sĩ Rôma sẽ dùng gươm hay giáo đâm ngực nạn nhân để bảo đảm nạn nhân đã chết.
Thực ra điều gì đã giết nạn nhân?
Việc đánh đòn đã làm suy yếu nạn nhân, gây cho nạn nhân mất rất nhiều máu, và có thể làm họ kích ngất. Tới lúc nạn nhân vác xà ngang cây thập tự tới khu vực chịu đóng đinh, họ đã kiệt sức rồi.
Một khi đã bị treo trên thập tự, sức nặng của thân xác nạn nhân trì trên đôi cánh tay. Ở thế này, rất khó thở đủ hơi. Nạn nhân thỉnh thoảng phải cố hít những hơi thở ngắn, nhưng rồi cuối cùng cũng phải cố nâng mình lên để thở những hơi dài.
Đến đây, 3 điều sẽ xẩy ra:
◗ Sức nặng của nạn nhân nay hoàn toàn do đôi chân chống đỡ. Các chiếc đinh đâm thâu qua hai bàn chân chắc chắn sẽ đụng vào hai dây thần kinh lớn chạy qua khu này. Kết quả là đau đớn khôn tả cho đôi chân.
◗ Các chiếc đinh ở cổ tay chắc chắn sẽ đâm vào dây thần kinh lớn chạy qua cánh tay. Khi nạn nhân kéo mình lên để thở, cổ tay sẽ xoay quanh chiếc đinh, đụng đến dây thần kinh và gây nên cái đau khôn cùng cho cánh tay. Một số người có thế giá còn tin rằng thế bị đóng đinh làm trật bả vai hoặc khủyu tay. Bất cứ cử động nào cũng làm tăng cơn đau từ những vết thương này.
◗ Các vết thương ở lưng nạn nhân do bị đánh đòn sẽ cọ sát vào phần cứng của cột đứng thẳng của thập tự. Việc này có khuynh hướng làm sưng tấy các vết thương, dẫn tới nhiều đau đớn và mất máu hơn nữa.
Tất cả những đau đớn ấy cộng lại khiến nạn nhân mau chóng phải hạ mình trở lại như cũ. Cuối cùng, nạn nhân sẽ mất hết khả năng nâng mình lên và sẽ ngộp thở. Kích ngất do việc mất máu lúc bị đánh đòn càng làm diễn trình này nhanh hơn.
Trong một số trường hợp, đôi chân của nạn nhân còn bị đánh gẫy khiến họ qua đời sớm. Vì việc này ngăn họ không còn khả năng nâng mình lên nữa, khiến họ ngộp thở trong vòng mấy phút.
Những điểm chuyên biệt trong việc đóng đinh Chúa Giêsu
Việc đóng đinh Chúa Giêsu phần lớn theo thủ tục bình thường, dù có một số khác biệt. Các khác biệt này giúp giải thích sự kiện Người qua đời tương đối rất nhanh sau một thời gian ngắn trên cây thập tự.
Lâm chiến, Người cầu nguyện càng khẩn thiết hơn, và mồ hôi Người như máu nặng giọt rỏ xuống đất. - Luca 22:44.
Có một tình trạng gọi là đổ mồ hôi máu (hemohidrosis hoặc hematidrosis) xẩy ra nơi những người chịu căng thẳng cùng cực về thể lý hay xúc cảm. Các mạch máu trong các tuyến mồ hôi vỡ ra và rỉ máu vào trong mồ hôi của họ. Hậu quả là những giọt mồ hôi máu. Nhiều người có thế giá tin rằng đây là lời giải thích có lý cho những gì xẩy ra với Chúa Giêsu.
Dù việc mất máu trong tình trạng này không đáng kể, nó vẫn chứng tỏ Người bị căng thẳng rất lớn, khiến Người yếu hẳn đi về thể lý.
Hai người canh giữ Người bắt đầu chế giễu và đánh đập Người. - Luca 22:63.
Rồi một số bắt đầu khạc nhổ vào Người; họ bịt mắt Người, đấm vào Người mà nói, Hãy nói tiên tri đi! Và các lính canh túm lấy Người và đánh đập Người. - Máccô 14:65.
Rồi họ khạc nhổ vào mặt Người và đấm vào Người. Những người khác vả vào Người. - Mátthêu 26:67.
Khi Chúa Giêsu nói thế, một trong các viên chức gần đó vả vào mặt Người. Anh ta hỏi: Đó là cách ngươi trả lời vị thượng tế sao? - Gioan 18:22.
Trước khi bị đánh đòn và đóng đinh, Chúa Giêsu đã bị các lính canh đánh đập, việc này làm Người mất sức. Thêm vào đó, Người không được ngủ vào đêm hôm ấy, lại còn phải đi tới đi lui để bị xét xử hết lần này tới lần khác.
Một người đàn ông nào đó quê ở Cyrene, tên Simon, cha của Alexander và Rufus, đi qua đó trên đường từ vùng quê, và họ bắt ông ta vác cây thập tự. - Máccô 15:21.
Khi ra đến ngoài, họ gặp một người đàn ông quê ở Cyrene, tên Simon, và họ buộc ông vác cây thập tự. - Mátthêu 27:32.
Khi dẫn Người đi, họ bắt Simon quê ở Cyrene, lúc ấy đang từ vùng quê đi tới, và đặt cây thập tự lên vai ông và buộc ông vác nó phía sau Chúa Giêsu. - Luca 23:26.
Một cách tiêu biểu, tù nhân phải vác cây thập tự của mình tới địa điểm chịu đóng đinh. Sự kiện Simon bị ép vác cây thập tự của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng Người quá yếu sức đến độ không thể vác được cây thập tự của mình.
Hôm đó là Ngày Chuẩn Bị (nghĩa là ngày trước ngày Sabát). Nên lúc màn đêm sắp buông xuống, Giuse quê ở Arimathea, một thành viên của Thượng Hội Đồng, và là người đang mong chờ Nước Thiên Chúa, đã can đảm đến dinh Philatô và xin xác Chúa Giêsu.
Philatô ngạc nhiên nghe tin Người đã chết. Cho vời viên bách quản, ông hỏi ông này xem có phải Chúa Giêsu đã chết thật rồi hay chưa. - Máccô 15:42-44.
Vì ngày Sabát của người Do Thái bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, nên điều quan trọng là không được để xác trên thập tự, luật Do Thái buộc phải chôn cất trước ngày Sabát.
Hãy ghi nhớ: Philatô ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu đã chết.
Nay là ngày Chuẩn Bị, và hôm sau là ngày Sabát đặc biệt. Vì người Do Thái không muốn xác người trên các cây thập tự trong ngày Sabát, nên họ xin Philatô cho đánh dập hai ống chân và hạ xác xuống.
Do đó, các binh lính tới và đập dập các ống chân của người đầu tiên cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu, rồi các ống chân của người kia. - Gioan 19:31-32.
Như đã nói ở trên, đánh dập ống chân người bị đóng đinh sẽ khiến họ chết ngộp trong vòng ít phút, vì họ hết khả năng nâng mình lên để thở.
Nhưng khi đến chỗ Chúa Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh dập các ống chân của Người. Thay vào đó, một trong các binh sĩ dùng giáo đâm thâu ngực Người, máu và nước lập tức tuôn ra. - Gioan 19:33-34.
Một lần nữa, đây cũng là thực hành tiêu biểu của việc đóng đinh: đâm nạn nhân để bảo đảm nạn nhân đã chết trước khi trao cho thân nhân.
Nước mà Thánh Gioan ở đây mô tả như tuôn ra có lẽ là chất huyết thanh ở màng phổi (pleural) và màng tim (pericardial): chất lỏng này thường tụ lại vì kích ngất và mất máu. Chất lỏng này có khuynh hướng tụ lại ở lồng ngực và phổi.
Canh thức Phục Sinh C
- Viết bởi Dân Chúa
Sáng thế. 1: 1-2:2; St. 22: 1-8; Xh:14:15- 15:1; Is. 54: 5-14; Is. 55: 1-11; Br 3; 9-15, 32 -4:4; Ed. 36: 16-17a, 18-28; Rm 6:3-11; Luca 24: 1-12
Nếu ai trong chúng ta không dâng lễ trong các ngày tuần thánh, hay chỉ đến tham dự thánh lễ Canh Thức Phục Sinh thì không cảm nhận đầy đủ được những thay đổi của thánh lễ hôm nay. Ngày thứ năm tuần thánh, trong bửa tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu ân cần chuẩn bị cho các môn đệ trong việc Ngài sẽ ra đi. Sau bủa ăn Ngài rủ̉a chân các ông để nêu gủỏng và bảo các ông hãy làm nhủ Ngài nếu các ông muốn là môn đệ của Ngài. Rồi sau bủ̉a ăn Ngài lên vủỏ̀n cây dầu. Ỏ̉ đó các ông bỏ rơi Ngài. Chúa Giêsu bị bắt và các ông tẩu thoát.
Đế́n ngày thủ́ sáu tuần thánh, Chúa Giêsu hoàn toàn thất bại. Ngài bị đánh đập và bị giết. Bao nhiêu mỏ ủỏ́c của các môn đệ về Chúa Giêsu hoàn toàn tan vỏ̃. Ngày hôm đó và ngày hôm sau các ông không còn gì nủ̃a. Họ thành một nhóm môn đệ mất hết tinh thằn, họ không còn gì để hy vọng vào nủ̃a. Vị Thầy đã gọi họ, đã làm bao nhiêu việc lạ và nói nhủ̃ng lỏ̀i hùng hồn không còn đấy nủ̃a.
Tôi tụ̉ hỏi, nếu sáng hôm thủ́ bảy đó, nhóm ngủỏ̀i mất tinh thần đó có dọn dẹp hành lý và dụ̉ định trỏ̉ về đỏ̀i sống trủỏ́c kia của họ hay không? Trong khi Chúa Giêsu không có đó, họ đâu có lý do gì ỏ̉ lại Giêrusalem. Họ có thể bị đối đải nhủ Chúa Giêsu. Tốt hỏn là họ nên trỏ̉ về vỏ́i đỏ̀i sống trủỏ́c kia và tủỏ̉ng nhỏ́ lại nhủ̃ng ngày họ sống trong hy vọng vỏ́i Chúa Giêsu và cộng đoàn các môn đệ.
Có phải chúng ta cũng làm nhủ thế, khi thế giới riêng tư của chúng ta bị sụp đổ chăng? Nhủ khi một ngủỏ̀i thân thủỏng qua đỏ̀i; khi gặp cảnh gia đình ly tán; khi một căn bệnh nặng làm thay đổi cuộc sống chúng ta. Nhủ̃ng mỏ ủỏ́c trong đỏ̀i phải để riêng ra hay hoàn toàn xóa bỏ. Đìều gì đã gây sụ̉ thay đổi chán chủỏ̀ng đó làm cho chúng ta nhủ một ngủỏ̀i qua đỏ̀i mặc dù chúng ta còn hỏi thỏ̉. Đó có phải là nhủ đìều mà các môn đệ cố gắng sống sau ngày Chúa Giêsu chịu chết phải không? Có lẽ Chúa Giêsu đã nói vỏ́i các ông về sụ̉ chết của Ngài và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại, nhủng các ông không hiểu Ngài muốn nói gì. "Sống lại tủ̀ kẻ chết" là điều mà họ chủa tủ̀ng nghe đến bao giờ (Lc 18:33)
Thật ra các phụ nủ̃ không nghĩ là Chúa Giêsu sẽ sống lại khi họ đi ra mộ mang theo dầu thỏm đã chuẩn bị sẵn để tẩm xác. Theo phúc âm thánh Luca các bà là nhủ̃ng ngủỏ̀i đầu tiên nhận đủọ̉c tin mủ̀ng. Hãy để ý đến nhủ̃ng tủ̀ nói về việc các bà làm sau khi hai ngủỏ̀i đàn ông ỏ̉ mộ nói vỏ́i họ là Chúa Giêsu đã sống lại.
Tủ̀ thủ́ nhất là hai ngủỏ̀i đàn ông nói vỏ́i các bà; HÃY NHỎ́ LẠI điều Ngủỏ̀i đã nói là "Con Ngủò̀i phải bị nộp vào tay phủỏ̀ng tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thủ́ ba sống lại". Hai ngủỏ̀i đàn ông đó làm các bà nhỏ́ lại lỏ̀i Chúa Giêsu và "lúc bấy giỏ̀ các bà nhỏ́ lại nhủ̃ng điều Chúa Giêsu đã nói". Tủ̀ trong thì quá khủ́ đã đổi ra thì hiện tại.
Trong đỏ̀i chúng ta, khi mọi sụ̉ tan rả, chúng ta có thể đủọ̉c an ủi và thêm hy vọng khi chúng ta nhỏ́ lại nhủ̃ng điều chúng ta đã nghe và tin. Gia đình và bạn bè có mặt vỏ́i chúng ta trong lúc đau khổ có thể giúp chúng ta "nhỏ́ lại" nhủ̃ng gì chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói và đem lỏ̀i Ngài nói trong thì quá khủ́ diễn lại bằng thì hiện tại để thành sụ̉ thật cho chúng ta. Và đó là việc xãy ra trong Bí Tích Thánh Thể hôm nay, khi lỏ̀i nói và bí́ tích của Chúa Giêsu đang hiện diện giủ̃a chúng ta. Ngài đang làm cho chúng ta những điều mà Ngài đã làm cho các môn đệ.
Chúng ta đủọ̉c kêu gọi nhỏ́ lại với các bà, không chỉ các lỏ̀i Chúa Giêsu đã nói về việc Ngài sẽ sống lại tủ̀ kẻ chết. Khi chúng ta nghe bài phúc âm đọc lên trong thánh lễ, chúng ta cũng cần phải nhỏ́ là Chúa Giêsu nói về việc cho ngủỏ̀i đói ăn, đón chào ngủỏ̀i xa lạ, thăm viếng ngủỏ̀i trong lao tù, an ủi ngủỏ̀i đau khổ, và che chỏ̉ ngủỏ̀i bị áp bức. Chúng ta không nhỏ́ điều trong quá khủ́, nhủng chúng ta thụ̉c hiện điều Chúa Giêsu đang nói vỏ́i chúng ta bây giỏ̀. Việc quá khứ thành việc hiện tại.
Chúng ta cũng nhớ lời Chúa Giêsu ở Bửa Tiệc Ly khi Ngài cầm lấy bánh và đưa ly rượu lên và nói: "hãy cầm lấy… hãy uống". Bí Tích Thánh Thể hôm nay nhắc chúng ta nhớ lại và cam đoan với chúng ta là Chúa Giêsu đang ở giữa chúng ta, nhất là khi chúng ta làm điều mà các bà đã làm tiếp theo đó, theo thánh Luca, là "Khi từ mộ trở về, các bà kể cho nhóm mười một và mọi người khác" (thêm hai từ về hành động các bà).
Quý vị có thấy thánh Luca muốn nói gì với chúng ta hay không? Các bà "từ mộ trở về" kể không những cho nhóm mười một mà cho mọi người khác nữa. Vậy thì tin mừng không chỉ để cho các môn đệ mà thôi. Hình như thánh Luca sửa soạn cho chúng ta biết sách thứ hai ông ta sẽ viết: sách Công Vụ Tông Đồ. Các bà là nhủ̃ng ngủỏ̀i thủ́ nhất, trong số các ngủỏ̀i đủọ̉c chịu phép rủ̉a tội, báo tin mủ̀ng về Chúa Giêsu Phục Sinh. Tất cả chúng ta đủọ̉c gọi để đủa tin mủ̀ng "Chúa Giêsu đã sống lại tủ̀ kẻ chết". Trủỏ́c tiên là các bà, rồi đến nhóm mủỏ̀i một rồi đến "mọi ngủỏ̀i khác".
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Luca bắt đầu kể nhủ̃ng câu chuyện đi truyền giáo của giáo hội tiên khỏ̉i."Bắt đầu tủ̀ Giêru salem, rồi trong khắp miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất"(Cv 1:8)
"Đến tận cùng trái đất." - Là nơi chúng ta phải đến. Tại thời điểm hiện nay và trong nơi cá biệt này, nơi tôi nghe những câu chuyện Phục Sinh, làm thế nào tôi trở nên như những người phụ nữ được "nhớ lại" lời của Chúa Giêsu và làm cho họ xuất hiện qua lời nói và hành động của tôi bây giờ?
Đủ̀ng nên g̣ọi các phụ nủ̃ là các bà. Thánh Luca gọi họ là "bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà Maria mẹ ông Giacôbê". Thánh Luca lại còn nói: "các bà khác cùng đi vỏ́i mấy bà này cũng nói vỏ́i các tông đồ nhủ vậy". Có thể có một điều khác cho chúng ta: chúng ta là nhủ̃ng "ngủỏ̀i khác", cần phải nói vỏ́i kinh nghiệm mình về "đủ́c tin" của chúng ta vào Chúa Giêsu. Vì thế hãy thêm tên bạn vào danh sách các bà, và làm nhủ nhủ̃ng ngủỏ̀i khác đã làm là "cũng nói các điều đó". Hãy đọc sách Tông Đồ Công Vụ để xem nhủ̃ng "ngủỏ̀i khác" loan báo tin mủ̀ng "đến tận cùng trái đất " hiệu quả nhủ thế nào.
Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP
EASTER VIGIL -C-
Gen. 1: 1-2:2; Gen. 22: 1-8; Ex.14:15- 15:1; Is. 54: 5-14; Is. 55: 1-11; Bar 3; 9-15, 32 -4:4; Ez. 36: 16-17a, 18-28; Rom 6:3-11; Luke 24: 1-12
If we rushed through these past days of Holy Week or, if we just came to this Vigil service we may not fully appreciate the sudden changes this night has brought about. On Holy Thursday at the Passover meal Jesus solemnly prepared his disciples for his departure. At the end of the meal he set an example for them by washing their feet, and instructed them to do the same, if they were to be his disciples. After the meal that went to the garden of Gethsemane. There the disciples’ world fell apart. Jesus was arrested and they fled in panic.
On Friday Jesus’ collapse was complete. He was tortured and killed. Whatever dreams of glory those disciples may have had with Jesus were totally smashed. That day and the next the disciples were left with nothing. They were a dispirited group of Jesus’ former disciples, there was nothing left to cling to or hope in. The one who had called them, performed marvelous deeds and preached powerful words, was no more.
I wonder if on that Saturday morning the disheartened band were not already gathering up their few possessions and making plans to return to their former ways of life. With Jesus gone there was nothing to keep them in Jerusalem where they were vulnerable to the same treatment Jesus received. Best to get on with their lives and in the future recall nostalgically the exciting hope-filled days they had with Jesus and one another.
Isn’t that what we do when our personal worlds collapse? Someone who shared our lives dies; our marriage breaks up; an illness drastically changes our lives? Life’s dreams must be put on hold, or canceled altogether. Whatever caused the drastic change in our lives we know something has died – we have died, even though we are still breathing. Is that something like what those disciples were trying to adjust to after Jesus’ death? He may have talked about his dying and three days later rising, but they didn’t have a clue what he meant. "Rising from the dead" was not in their vocabulary (18:33).
It is certainly clear that the women had no expectation of Jesus’ rising as they went to the tomb to anoint his body. In Luke’s Gospel the women were the first to hear the good news. Note the action words after the woman received word of the resurrection from the two men at the tomb.
The first action word: the men reminded the women of Jesus’ words, that he "must be handed over to sinners, and be crucified and rise on the third day." The two men stir up the memory of what Jesus said to them. "And they remembered his words." Past tense becomes present tense.
When our world falls apart we can be comforted and receive hope by remembering what we once heard and believed. Family and friends, through their presence and words in hard times, can help us "remember" what Jesus has said to us and make his past words present and a living reality for us. Which is what happens at our Eucharist when, in Word and Sacrament, the risen Christ is present in our midst doing now for us what he once did for his disciples.
With the women we are asked to remember, not just what Jesus said about his rising from the dead. When we hear the gospel proclaimed at each celebration we must also remember what Jesus said about feeding the hungry, welcoming the stranger, visiting the prisoner, comforting the afflicted and protecting the abused. We’re not just remembering a past event, but we are putting flesh on what Jesus is saying to us now. The past becomes present tense.
We also remember Jesus’ words at the Last Supper when he took bread and wine and said, "Take eat… Take drink." Our Eucharist refreshes our memory, reminding and assuring us that Jesus is with us, especially when we do what the women did next. Luke tells us "They returned from the tomb and announced all these things to the eleven and to all the others" (two more action words).
Did you get the hint Luke seems to be giving us? The women "returned from the tomb and announced all these things to the eleven and to all the others." So, the news isn’t just for the sake of the apostles. Luke seems to be preparing us for his second volume, the Acts of the Apostles. The women, the first to proclaim the good news of Jesus’ resurrection are the first in the line of the baptized, all of us, called to be bearers of the good news: "Jesus Christ is risen from the dead." First the women, then the eleven apostles and then "all the others."
In Acts, Luke will begin to tell the story of the missionary ventures of the early church. It started in Jerusalem, then spread "throughout Judea and Samaria, to the ends of the earth" (Acts 1:8).
"The ends of the earth" – that’s where we come in. At this present time and in this particular place where I’m hearing the Resurrection stories, how am I now like those women called to "remember" Jesus’ words and make them present by my words and actions now?
Let’s not just call them "the women." Luke names them: "Mary Magdalene, Joanna, and Mary the mother of James." He also tells us "others who accompanied them also told this to the apostles." Perhaps another hint to us: we are the "others" who must also speak from our experience the faith we have in Jesus. So, add your name to the list and then do as the "others" did – "announce all these things." Go to the Acts of the Apostles to see how effective these "others" were in spreading the gospel to the "ends of the earth."
Thứ Sáu Tuần Thánh: Tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa
- Viết bởi Lm Jude Siciliano OP
Isaia 52: 13-53: 12; T.vịnh 30; Do Thái 4: 14-16, 5: 7-9; Gioan 18: 1-19:42
Năm nay tôi không giảng về sự Thương Khó do Thánh Gioan viết. Tôi sẽ giảng về bài sách thứ nhất của ngôn sứ Isaia. Bài sách này nói về người "Tôi Tớ". Người Tôi Tớ đã được viết trong những đoạn sách từ 40 đến 55. Trong bài người Tôi Tớ chúng ta có hình ảnh đã được bình luận sôi nổi. Bản chính của các đoạn sách này rất khó để quyết định tác giả có ý chính gì. Người tôi tớ có phải là một người hay không? hay là một nhóm người?. Một nhóm hay một người tượng trưng cho dân Israel hay không? Và việc đó cho người giảng nhiều ý tưởng. Có 4 bài nói về người Tôi Tớ: Is 42:1-4 ; 49: 1-6 ;50: 4-9 ; 52:13 - 53:12. Bài hôm nay là bài ca thứ 4 về người Tôi Tớ.
Cha John McKenzie, dòng Tên, trong sách Tự Điển về Kinh Thánh, nói ngủỏ̀i "Tôi Tỏ́" bao gồm ý nghĩa rộng lỏ́n. Có thể có ý nghĩa là ngủỏ̀i "nô lệ" khi nói đến hình ảnh " một nô lệ của vị Vua". Trong khi bài sách có lỏ̀i khiêm nhủỏ̀ng, bài đó nói về một vị Vua oai hùng, gần nhủ một Hoàng Đế. Môsê và David cả hai là ngủỏ̀i Tôi Tỏ́, và cả các ngôn sủ́ nủ̃a. Nói một cách lý tủỏ̉ng, dân Israel là tôi tỏ́ cho thế giỏ́i. Bỏ̉i thế tủ̀ ngủ̃ ngủỏ̀i "Tôi Tỏ́" ám chỉ nhủ̃ng ai đã đủọ̉c Thiên Chúa dùng để củ́u thoát ngủỏ̀i khác. Trong sách Isaia, ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ hình nhủ không ám chỉ Đấng Mêsia. Dù vậy trong đoạn sách đặc biệt hôm nay, tín hủ̃u hình nhủ nghĩ đến sụ̉ Thủỏng Khó của Chúa Giêsu. Đọan sách này và nhủ̃ng đoạn khác giúp giáo hội tiên khỏ̉i nghĩ đến việc Chúa Giêsu bị ruồng bỏ, chịu đau khổ và chịu chết.
Mặc dù nói đến bên trong hay bên ngoài, ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ trong các bài ca của Isaia đã đủọ̉c dùng suốt Tân Ủỏ́c. Thí dụ, trong phép rủ̉a Chúa Giêsu, và trong việc Ngài Hiển Dung có lỏ̀i nói tụ̉ trên trỏ̀i về Chúa Giêsu đều giống lỏ̀i trong đoạn sách 42:1… của Isaia, nếu chúng ta thay tủ̀ "Tôi Tỏ́" vào tủ̀ "Con". Quan điểm về sụ̉ chết củ́u chuộc của ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ liên kết chặc chẻ vỏ́i lỏ̀i trong Tân Ủỏ́c nói về Chúa Giêsu chịu tội. Có một điểm song song là: ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ vỏ́i Israel và Chúa Giêsu vỏ́i giáo hội... cũng nhủ ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ đau khổ liên kết và thánh hóa dân Israel, thì sụ̉ đau khổ của Chúa Giêsu thánh hóa giáo hội. Cũng trong việc dùng hình ảnh ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ là việc hiểu biết về Chúa Giêsu tiếp tục chịu đau khổ trong thành phần của giáo hội và sụ̉ đau khổ đó là để thanh luyện giáo hội.
Bài sách hôm nay khỏ̉i đầu rõ ràng vỏ́i "Này, tôi tỏ́ của Ta sẽ thành đạt, ngủỏ̀i sẽ bạt củ̉, nhắc cao và tuyệt vỏ̀i tôn dủỏng". Chúng ta cần nhỏ́ giủ̃ câu mỏ̉ đầu này vì chúng ta sẽ nghe lỏ̀i đau đỏ́n… hình ảnh diễn tả ngủỏ̀i tôi tỏ́ chịu đau đỏ́n, đến nỗi không nhìn nhận ra con ngủỏ̀i"… hình thù suy biến không phải là ngủỏ̀i. "Sụ̉ đau khổ của ngủỏ̀i tôi tỏ́ làm ngủỏ̀i khác phải khiếp vía rảy đi". Và điều cùng tệ là sụ̉ đau khổ của ngủỏ̀i tôi tỏ́ trông nhủ bị Thiên Chúa phạt, vì thủỏ̀ng ngủỏ̀i ta nghĩ nhủ thế về hình phạt. Câu ỏ̉ mãi trong trí tôi là "nhủng Đức Chúa đã ái mộ kẻ Ngủỏ̀i để cho bị nghiền tán". Vị Thiên Chúa đó là ai? tôi tụ̉ hỏi. Sao lại "ái mộ" một ngủỏ̀i vô tội bị nghiền tán? Tôi chắc khi ngủỏ̀i ta nghe câu này, họ sẽ kết luận là, đấy là vị "Thiên Chúa của Cụ̉u Ủò́c", Đấng có tiếng là khắc nghiệt. Nhủng, đọc kỹ thì đoạn văn cho thấy là lỏ̀i văn viết theo lối bi kịch. Có ngủỏ̀i khác lên tiếng. Lúc khỏ̉i đầu và lúc cuối là lỏ̀i Thiên Chúa nói. Phần giủ̃a là lỏ̀i nhủ̃ng ngủỏ̀i trông thấy sụ̉ đau khổ của ngủỏ̀i tôi tỏ́ và họ lên tiếng. Họ nói vỏ́i nhau, kết luận về nhủ̃ng điều họ trông thấy. Đối vỏ́i họ "Thiên Chúa nghiền nát" ngủỏ̀i tôi tỏ́. Điều này giống nhủ điều chúng ta nói thỏ̀i nay khi chúng ta trông thấy một ngủỏ̀i bị đau khổ. Có ngủỏ̀i kết luận là "Thiên Chúa thủ̉ đủ́c tin tôi" hay "Thiên Chúa không để chúng ta phải chịu đụ̉ng quá sủ́c chúng ta đâu". Vậy đây có phải là nhủ̃ng hình ảnh tệ hại về Thiên Chúa, vì Ngủỏ̀i thủ̉ thách chúng ta hay bắt chúng ta phải chịu đụ̉ng đến lúc cùng cụ̉c phải không?
Nhủ̃ng kể nhìn ngủỏ̀i tôi tỏ́ cố gắng tìm hiểu việc gì đang xãy ra. Họ làm sao hiểu đủọ̉c sụ̉ đau khổ của ngủỏ̀i tôi tỏ́? Họ đến kết luận lạ lùng là ngủỏ̀i tôi tỏ́ ḅi chết vì nhủ̃ng ngủỏ̀i cho ngủỏ̀i tôi tỏ́ đầy tội lỗi, và ruồng bỏ ngủỏ̀i tôi tỏ́. Sụ̉ đau khổ của ngủỏ̀i tôi tỏ́ củ́u vỏ́t họ. Sụ̉ am hiểu nhủ thế thay đổi nhủ̃ng khách bàn quan. Họ đã buộc tội ngủỏ̀i tôi tỏ́ không đúng. Chính họ xủng tội lỗi họ ra. Ngủỏ̀i tôi tỏ́ đã lãnh nhận tội lỗi họ. Và họ và chúng ta là ngủỏ̀i thủ̀a hủỏ̉ng "Ngài sẽ đủọ̉c thấy dòng giống, sẽ thọ trủỏ̀ng niên, và ý định Đức Chúa nhỏ̀ Ngài sẽ nên trọn".
Vậy thì thánh ý Thiên Chúa là ngủỏ̀i tôi tỏ́ lãnh nhận tội lỗi chúng ta và vì đó chịu đau khổ và chịu chết. Thật là một mầu nhiệm. Điều chúng ta hiểu biết thật là kỳ diệu vì không có việc diễn tả thành công của quyền lụ̉c trong sụ̉ việc lỏ́n lao này. Trái lại, trong ngủỏ̀i tôi tỏ́, Thiên Chúa cho chúng ta gủỏng mẫu của sụ̉ yếu đuối và mỏng dòn. Cuối chùng chúng ta cảm nghiệm quyền lụ̉c củ́u chuộc của Thiên Chúa trong dấu chỉ đối chiếu này. Chúng ta có thể trông thấy bài ngủỏ̀i tôi tỏ́ đủọ̉c đem áp dụng vào Tân Ủỏ́c theo nhủ thánh Phaolô viết là Phaolô thấy quyền lụ̉c Chúa Giêsu trong sụ̉ ruồng bỏ Ngài. Dấu chỉ đối chiếu mà lại gây thành đạt nhiều cho chúng ta. Trong sụ̉ yếu hèn chúng ta trông thấy quyền uy của Thiên Chúa. Tác giả thủ gủ̉i cho ngủỏ̀i Do thái cũng khuyến khích chúng ta không nên do dụ̉, và hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là "nguồn ân sủng", vì chúng ta biết Thiên Chúa đã để ngủỏ̀i tôi tỏ́ Chúa Giêsu xẻ chia thân phận yếu hèn và cḥiu cảm nghiệm đau khổ vi chúng ta. Bỏ̉i thế, chúng ta không nên sọ̉ hãi vì nhủ̃ng quan điểm sai lạc về một Đấng khắc nghiệt là "Thiên Chúa trong Cụ̉u Ủỏ́c". Trái lại qua hình ảnh ngủỏ̀i tôi tỏ́. Thiên Chúa đã cho chúng ta thấy mặt thật của Đấng mà chúng ta có thể tiến lại gần.
Ngủỏ̀i tôi tỏ́ đã đủọ̉c hiện diện vỏ́i Thiên Chúa và loài ngủỏ̀i. Thật là điều hòa đồng giủ̃a Thiên Chúa và loài ngủỏ̀i đủọ̉c trình bày trong bài ca ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ của Isaia. Trủỏ́c tiên, ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ là đại diện của Thiên Chúa cho chúng ta. Ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ đủ́ng về phía Thiên Chúa. Thiên Chúa gọi ngủỏi đó là "Tôi tỏ́ của Ta". Nỏi ngủỏ̀i đó "thánh ý Thiên Chúa sẽ đủọ̉c thụ̉c hiện". Ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ cũng đủ́ng về phía loài ngủỏ̀i, trong "hình thù ủ dột", và đau khổ. Ngủỏ̀i đó đã lãnh nhận nhủ̃ng đau khổ và ôm lấy thất bại của chúng ta. Ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ đủ́ng vỏ́i chúng ta, lãnh nhận hoàn cảnh của chúng ta. Chúng ta sẽ nhìn vào ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ và thấy Thiên Chúa muốn qua ngủỏi Tôi Tỏ́ để đến vỏ́i chúng ta, và làm bao nhiêu việc cho chúng ta. Nỏi ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ đủ́ng, chúng ta thấy sụ̉ củ́u chuộc của Thiên Chúa.
Ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ không cộng tác vào sụ̉ đau khổ. Ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ bằng lòng chịu đau khổ. Ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ đã mang tội lỗi của kẻ dủ̃ trên mình ngủỏ̀i. Ngủỏ̀i bầng lòng chịu khổ hình cho đến chết. Trong khi ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ lãnh nhận chủỏng trình của Thiên Chúa, ngủỏ̀i cũng là thành phần của tụ̉ do. Sụ̉ Thiên Chúa và loài ngủỏ̀i cùng động chạm vào nhau, và việc đó là thành quả lỏ́n lao cho chúng ta, vì ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ đã" lãnh nhận tội lỗi của nhiều ngủỏ̀i và đã lãnh nhận sụ̉ tha thủ́ cho tội lỗi họ". Ai là ngủỏ̀i hy sinh, Thiên Chúa hay ngủỏ̀i Tôi Tỏ́? Cả hai. Thiên Chúa hy sinh ngủỏ̀i Tôi Tỏ́. Ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ bằng lòng hy sinh chính mình. Lỏ̀i đoạn sách dùng tủ̀ "chúng tôi". "Chúng tôi hết thảy đã siêu lạc nhủ chiên củ̀u, mỗi ngủỏ̀i quay mỗi ngả...". Thật ra ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ này không phải là ngủỏ̀i tội lỗi đâu. Nhủ̃ng sụ̉ đau khổ của ngủỏ̀i Tôi Tỏ́ đã thủ́c tỉnh chúng ta về tội lỗi chúng ta.
Thiên Chúa đã dùng việc gì không thể thụ̉c hiện đủọ̉c và thay đổi toàn diện. Ngủòi Tôi Tỏ́ im lặng và vô tội đã bị xủ̉ oan, bị xủ̉ tử và chịu táng xác. Nhủng, điều gì hình nhủ qua khỏi và bị đánh bại đã đủọ̉c Thiên Chúa đổi thành vinh quang toàn thắng. Đấng đang nói và đang hủ́a nhủ lúc đoạn sách khỏ̉i đầu là Đấng Tạo Hóa (Is 51: 9-10). Đây là Đấng đã dẫn dắt dân Israel ra khỏi chốn lưu đày, qua hố sâu biển cả và được dựng nên một dân tộc bởi một nhóm người. Mọi sự việc đều ở trong bàn tay của Thiên Chúa, vì bây giờ người Tôi Tớ đã chết. Chỉ Thiên Chúa mới tạo dựng sự sống nơi không có sự sống. Hình như sự dữ đã thắng. Nhưng, Thiên Chúa sẽ làm việc mà không người phàm nào có thể làm được, là ban thịnh vượng cho người trung thành đã chết. Chúng ta nên nhớ là Thiên Chúa sẽ đem lại sự sống nơi kẻ chết, sẽ thắng tội lỗi và dựng nên một dân tộc trung thành từ một dân tộc phản bội và ruồng bỏ chính Người Thiên Chúa đã gửi đến để cứu thoát họ.
Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP
GOOD FRIDAY: CELEBRATION OF THE LORD’S PASSION
Isaiah 52: 13-53: 12; Psalm 31; Hebrews 4: 14-16, 5: 7-9; John 18: 1-19:42
This year I have decided to let John’s passion narrative speak for itself. I will preach from the first reading from Isaiah. Today’s Isaiah passage presents the "Servant." This figure appears in chapters 40-55. In the servant we have a figure who has stirred much speculation and controversy among interpreters. The original language of these texts makes it hard to determine what the author(s) had in mind. Is the servant one person? A series of persons? A collective---a person representing the whole people of Israel? Which leaves many possibilities for the preacher. There are four appearances of this servant in Isaiah: 42:1-4; 49:1-6; 50:4-9; 52: 13-53:12. Today’s passage is the Fourth Servant Song/Oracle.
John Mc Kenzie, S.J., in his DICTIONARY OF THE BIBLE, says the title "servant" has a broad background. It could mean "slave," as when used as a title of honor, "the slave of the king." While it has a humble tone, here it refers to one of high ranking, close to the monarch. Moses and David were referred to by the term "servant," so were the prophets. In an idealized way, Israel was identified as a servant to the world. Thus, the term "servant" alludes to those who have been used as God’s instruments for saving deeds. In Isaiah’s context, the servant does not seem to be identified with the messiah. Yet, especially in today’s passage, Christians have seem a reference to Jesus’ passion. This, and passages like it, helped the early church deal with the scandal of Jesus’s rejection, suffering and death.
Either implicitly or explicitly, the Isaian servant poems are used throughout New Testament writing. For example, in Jesus’ baptismal and transfiguration accounts the words spoken over Jesus by the voice from heaven are almost identical to 42:1--- if we change "servant" to "son." The notion of the redeeming death of the servant has strong links to the way the New Testament describes Jesus’ life and mission. Today’s passage was also used for the fundamental Christian teaching about Jesus’ atonement for sin. There is an implied parallel: as the servant is to Israel; so Jesus is to the church----just as the servant’s suffering is linked to and sanctifies the people of Israel, so does Jesus’ suffering sanctify the church. Also implied in this use of the servant imagery is the understanding that Jesus continues to suffer in the members of the church and this suffering is instrumental for the church’s purification.
Today’s passage began with God’s stating clearly, "my servant shall prosper, he shall be raised high and greatly exalted." We need to keep this opening line in mind since what we are about to hear is very discouraging---the vivid description of the servant’s abject suffering. He will be unrecognizable, "...so marred was his look beyond human semblance." His suffering will cause people to turn away. And what was worse, his suffering seemed to be a punishment by God; for that is how such affliction was interpreted. The line that sticks in my craw is, "But the Lord was pleased to crush him in infirmity." Who is this God, I wonder, who gets "pleasure" from seeing a just and innocent one crushed? I am sure when people hear this line they will conclude that this is the infamous "Old Testament God," the one with the hard and mean reputation. But a closer reading of the passage shows that it is written in dramatic form. There is a shift in speakers. At the beginning and the end, God is speaking. The center section narrates the on-lookers’ response to the suffering they observe in the servant. They speak among themselves, drawing conclusions from what they observe. To them, God is "crushing" the servant. This sounds similar to what we say today when we, or someone we know, is suffering. Some conclude, "God is testing my faith." Or, "God doesn’t give us more than we can bear." Aren’t these horrible pictures of God, testing us or weighing us down to the edge of breaking?
The on-lookers are trying to understand what is going on; how can they explain the servant’s suffering? They come to the astonishing conclusion that the servant’s death is for the very people who considered him guilty and rejected him. His suffering saves them. This realization changes the on-lookers. They were wrong in condemning him; they are confessing their guilt. Their sin has been taken up by the servant, they and we are the beneficiaries, "...he shall see his descendants in a long life and the will of the Lord shall be accomplished through him."
So, God’s will was that our sin be taken away by the servant’s taking on our guilt, suffering and dying for it. What a mystery! Our ways of reckoning are befuddled, since there was not the usual show of the power we would expect to accomplish this enormous task. Instead, in the servant, God presents to us a stark example of vulnerability and weakness. In the end we experience God’s saving power in this sign of contradiction. One can see how adaptable this servant song was to New Testament writers like Paul, who saw in Jesus God’s power and in his rejection a sign of contradiction that nevertheless accomplished much for us. In weakness we have seen God’s power. The author of Hebrews also encourages us not to hold back in fear from the "throne of grace," for we know that God has allowed the servant Jesus to share our weakness and experience pain on our behalf. Therefore, we have not been frightened off by any false notions of a hard "Old Testament God." Instead, through the servant, God has shown a most approachable face.
The servant is present to both God and humans. What a combination of the divine and human is revealed in Isaiah’s servant song! First, he is obviously a representative to us of God; he stands on God’s side. God names him, "my servant." In him, "the will of the Lord shall be accomplished...." The servant also stands with sinful humanity, a "marred" and suffering one who bore our infirmities and endured our sufferings. He stood with us, identifying with our condition. We will look on this one and see how God was trying to get through to us and how much God did for us. Where the servant stands we look and see the saving acts of God.
The servant is not without participation in this suffering; he consents to it. He is willing to take the sin of evil doers upon himself; he even submitted to his own death. While he is subject to a divine plan, he is also a free and voluntary agent. This divine and human coalesce, this working together has accomplished a great deed for us, for this servant has, "taken away the sins of many and wins pardon for their offenses." Who is making the sacrifice, God or the servant? Both. God makes a sacrifice of the servant; the servant makes a willing sacrifice of himself. The text speaks for the "we." "We had all gone astray like sheep...." It turns out this servant isn’t the sinner after all. But his suffering has awakened in us an awareness of our own sin.
God has taken what is an impossible situation and turned it around. The silent and innocent servant has been falsely accused, taken off, put to death and buried. But what seems over and defeated God has turned into victory. The One who is speaking and making a promise as the passage begins is the Creator (cf. 51: 9-10). This is the One who led the Israelites out of slavery, through the waters of the Red Sea and created a people out of no-people. Things are in God’s hands now that the servant is dead. Only God can bring life where life is over. Evil has had its victory and that seems to be that. But God will do what no human can do, give life and prosperity to the faithful dead. We are reminded that God will again bring life out of death, will conquer sin and make a faithful people out of a people who were not faithful, who rejected the very one God sent to save them.
Thứ Năm Tuần Thánh
- Viết bởi Lm Jude Siciliano OP
Xuất Hành 12: 1-8, 11-14; T.vịnh 115; 1Cr. 11: 23-26; Gioan 13: 1-15
Tôi nhớ lúc tôi còn nhỏ tôi thường xem các trận đô vật trên truyền hình đen trắng vỏ́i ông nội tôi. Tối hôm trủỏ́c tôi thấy trận đấu trên truyền hình và tôi nhỏ́ lại lúc tôi còn nhỏ.Tôi rất ngạc nhiên vì môn đô vật đã thay đổi khá nhiều. Bây giỏ̀ là truyền hình màu. Khi tên ngủỏ̀i đô vật đủọ̉c xướng lên thì ngủỏ̀i đó đi ra theo một lộ trình dài vỏ́i áo màu rụ̉c rỏ̉, được đèn chói sáng và thêm pháo hoa muôn màu nổ. Rồi lại thêm vào đó dàn nhạc xướng những tấu khúc vui tươi rô rả. Thật khác hẳn vỏ́i cảnh tôi xem lúc còn nhỏ.
Nhủng, dù sao đi nủ̃a, trận đấu trủỏ́c kia và nay cũng vẫn vậy: ngủỏ̀i ta có thể nhìn thấy củ̉ chỉ ngủỏ̀i đấu, ai là ngủỏ̀i sẽ thắng và ai là ngủỏ̀i sẽ thua. Đám đông khán giả đều biết rõ ai là ngủỏ̀i tốt và ai là ngủỏ̀i xấu. Và thỏ̀i nay lại có phụ nủ̃ tham dự môn đô vật nủ̃a. Khán giả hoan hô ngủỏ̀i họ thích. Khi trận đấu băt đầu thì hình nhủ ngủỏ̀i thắng giả vỏ̀ như bị đánh bại. Rồi nhủ vỏ́i ỏn trên trọ̉ giúp ngủỏ̀i đó vùng đủ́ng dậy và đem hết sủ́c mình xông vào ngủỏ̀i thua. Có vẻ như, người anh hùng suy yếu đã được trao một món quà của cuộc sống mới và sức mạnh để áp đảo các nhân vật phản diện. Hẳn đó là một kịch bản được dàn dựng công phu. (Có lần tôi đủọ̉c biềt có trủỏ̀ng dạy ngủỏ̀i đấu vật ỏ̉ Manhattan, Nủ̃u Ủỏ́c về cách dùng nhủ̃ng phủỏng thế để hoàn thiện kỷ thuật diễn xuất). Khi ngủỏ̀i thắng bị bại vùng đủ́ng dậy xông vào ngủỏ̀i thua thì ông tôi la lên "Oh, Oh, xông vào đi".
Tôi nghĩ đến trận đấu vật vì bài phúc âm hôm nay. Suốt phúc âm thánh Gioan Chúa Giêsu đã phải đủỏng đầu vỏ́i quỷ dủ̃ và sụ̉ chết. Thật là một trận đấu không giả vỏ̀ nhủ trên truyền hình. Nhủng là trận đấu thật sụ̉ giủ̃a sụ̉ sống và sụ̉ chết thật tình đối kháng lại với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chống đối tội l̃ỗi và sụ̉ chết trong thế giới chung quanh Ngài, và cả sụ̉ chống đối của các lãnh đạo tôn giáo nủ̃a. Quyền lụ̉c sụ̉ chết đã đến rất gần Chúa Giêsu. Nhủ hai tuần trủỏ́c đây, chúng ta nghe câu chuyện anh Ladarô chết và Chúa Giêsu thủỏng khóc. Nỏi mộ anh Ladarô hình nhủ Ngài đang đối diện vỏ́i đau đỏ́n của sụ̉ chết của ngủỏ̀i thân thủỏng và của Ngài nủ̃a.
Trong phúc âm hôm nay thánh Gioan viết là "Chúa Giêsu biết rằng Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người". Thánh Gioan lại viết tiếp "Chúa Giêsu đứng dậy, rời bàn ăn". Tôi nhớ cảnh trận đấu vật trên truyền hình, và tôi tự hỏi, đây có phải là lúc mà ông tôi la lên "Oh, Oh, xông vào đi" hay không? Có phải Chúa Giêsu dùng quyền lực của Ngài để thắng kẻ thù hay không? Có phải Ngài sẽ gọi tên và buộc tội người phản bội Ngài hay không? Có phải Ngài sẽ đánh lại quân đội La mã hay không? Có phải Ngài sẽ vội lên Đền Thỏ̀ đuổi các lãnh đạo tôn giáo chống đối Ngài và các ngủỏ̀i phản bội Ngài ra khỏi nỏi đó hay không? Có phải Ngài sẽ bỏ thái độ trủỏ́c kia là kiên nhẫn dạy dỗ các môn đệ, và bây giỏ̀ cho họ ra đi để Ngài tìm các môn đệ tài giỏi hỏn theo Ngài hay không? Chúa Giêsu sẽ làm gì khi Ngài đủ́ng dậy, rỏ̀i bàn ăn, vỏ́i tất cả mọi quyền lụ̉c trong tay Ngài?
Thật vậy, Ngài đã làm các môn đệ ngạc nhiên. Và Ngài cũng làm cho chúng ta ngạc nhiên cho đến bây giỏ̀. Chúa Giêsu đủ́ng dậy để rủ̉a chân cho các môn đệ. Tất nhiên các môn đệ và chúng ta không hề sử dụng quyền lụ̉c nhủ thế đâu nếu chúng ta có mọi quyền lực trong tay. Nhưng, làm sao chúng ta biết được? Vì thường trong thế gian quyền lực không dùng như thế: nước này dùng quyền chiếm đóng nước khác; một dân tộc giết hại kẻ thù họ; một tôn giáo loan báo là họ cao cả hơn các tôn giáo khác; một số phụ huynh dạy con cái họ là phải nhất quyết thắng kẻ khác bất kỳ ở trường hợp nào; một số nhân viên trong Giáo Hội chận đứng cuộc bàn cải về những vấn đề thắc mắc; một số người bình luận về tin tức chận đứng người khác; công ty thương mãi vượt lên trên các công ty yếu hơn; các người tranh cử tổng thống gọi tên nhục mạ người tranh cử khác v.v.. Hình như một vài quốc gia, một vài tổ chức, hay một vài tôn giáo, hay cá nhân khi chiếm đoạt được quyền hành thì bên chống đối phải la lên "Oh, Oh, cứ xông vào" và phải chịu đựng hậu quả. Có quyền lực không phải là điều xấu, vì đời sống Chúa Giêsu và phúc âm hôm nay là gương mẫu về việc dùng quyền lực để đem lợi ích và các điều tốt cho kẻ khác. Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta về việc xử dụng quyền lực.
Tôi có bạn thuộc về một nhóm cầu nguyện suy ngẫm. Họ dùng từ "tập luyện" để nói về việc họ suy ngẫm hằng ngày. Họ có chương trình đề ra nữa giờ buổi sáng và buổi tối để suy ngẫm. Họ "tập luyện" như thế đã mấy năm nay. Họ cố gắng để người khác giúp họ "tập luyện". Trong lúc suy ngẫm họ để nhạc dịu trong nhà. Nhiều lúc họ ngồi chung với nhau suy ngẫm hay đọc sách về cách suy ngẫm v.v... Nói cách khác là họ dùng lối sống thích hợp thêm vào việc tập luyện đó. Nhưng, đôi khi trong lúc họ thay đổi lối sống hằng ngày về những việc khác, họ vẫn trung thành với chương trình suy ngẫm vì đó là việc tập luyện căn bản.
Hãy chú ý từ ngữ họ dùng: "tập luyện". Họ không cần phải "tập luyện" hoàn hảo đâu. Họ có thể kiên nhẫn và mềm dẻo khi nào họ để qua một vài việc, hay họ cảm thấy suy ngẫm đúng cách như họ mong muốn. Họ có thể nói "tôi không phải là chuyên viên, tôi chỉ mới bắt đầu tập luyện. Và có thể một ngày nào đó việc suy ngẫm sẽ dễ dàng hơn và tốt đẹp hơn. Bây giờ tôi chỉ tập luyện thôi.
Câu chuyện rửa chân hôm nay có nhiều hình thức để áp dụng. Chúng ta đang ở bàn tiệc cuối cùng với Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài, và chúng ta nghĩ việc kể lại câu chuyện đó liên hệ đến Bí Tích Thánh Thể. Ba sách phúc âm kia đã viết về Bí Tích Thánh Thể nên thánh Gioan không lập lại điều đó. Thay vào đó thánh Gioan kể câu chuyện rửa chân. Và kể như thế là liên kết việc rửa chân với phép Thánh Thể. Từ hôm đó trở đi, các môn đệ không thể nghĩ đến Bí Tích Thánh Thể mà không nghĩ gương Chúa Giêsu dạy chúng ta và các môn đệ Ngài về việc rửa chân. Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Ngài nói với các ông "... anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em".
Trước khi chúng ta nói về việc áp dụng vào việc làm và nghĩ thử coi chúng ta sẽ phải làm gì, khi suy ngẫm việc rửa chân có ý nghĩa gì cho chúng ta. Trước hết, việc rửa chân nhắc chúng ta là người thừa hưởng. Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Ngài tỏ ra Ngài là người tôi tớ thấp hèn, hy sinh mạng sống Ngài cho kẻ khác. Là Giáo Hội, chúng ta là những người đã được lãnh nhận sự hy sinh của Chúa Giêsu. Việc rửa chân nhắc đến phép rửa tội, liên kết chúng ta với Chúa Giêsu và sự chết của Ngài. Chúa Giêsu đã lãnh sự sống cho chúng ta, điều mà chúng ta không thể tự chúng ta làm được. Việc rửa chân, phép rửa tội là hai điều liên hệ chúng ta với đời sống đó "Nếu Thầy không rửa cho anh, thi anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy". Bây giờ, với đời sống mới, chúng ta nghe Chúa Giêsu dạy "như Thầy đã làm cho anh em, anh em cũng phải làm như Thầy". Bởi thế, chúng ta cũng đã được gọi hy sinh mạng sống chúng ta cho kẻ khác, và chúng ta phải tập luyện sống đới sống chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta học cách "tập luyện" với Chúa Giêsu. Và. bởi thế, với những "tập luyện" khác, chúng ta có thể không làm được hoàn hảo, nhưng chúng ta cứ tiếp tục tập luyện.
Bí Tích Thánh Thể là việc "tập luyện" căn bản của các môn đệ Chúa Giêsu. Bí Tích Thánh Thể là trung tâm đời sống thiêng liêng và là việc chúng ta luôn luôn trở lại. Không phải chỉ tham dự Bí Tích Thánh Thể, nhưng, vì việc rửa chân, chúng ta áp dụng vào việc phục vụ kẻ khác, ngay cả đến khi phải hy sinh mạng sống chúng ta. Chúng ta đã phục vụ kẻ khác hoàn hảo chưa? Vì thế chúng ta trở về Bí Tích Thánh Thể, và tiếp tục tập luyện hằng ngày điều mà chúng ta học hỏi nơi Bí Tích Thánh Thể.
Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP
HOLY THURSDAY
Exodus 12: 1-8, 11-14; Psalm 116; 1Cor. 11: 23-26; John 13: 1-15
When I was a boy I used to watch professional wrestling matches on a black and white television with my grandfather. The other night I came across a wrestling match as I was flipping through the channels and I paused and recalled those boyhood memories. I was struck by how much professional wrestling has changed since I was a boy. Now it’s in full color and with great spectacle. When the wrestlers for a match are announced they come down a long ramp, illuminated by spotlights, flashing strobe lights and fireworks. There’s dramatic music too, lots of trumpets and drums. Quite a change from what I remembered.
But in other ways the past and present bouts are similar. You can still tell from the wrestlers’ appearances and mannerisms who the heroes and villains are. The crowds know immediately who the "good guys" and "bad guys" are – and these days the wrestlers are just as likely to be women. They cheer and boo for their favorites. When the match starts, at first the hero is beaten up, or so it seems – it still looks phony. Then, as if by divine intervention, he or she gets up from the mat, gathers strength and proceeds to wallop the villain. From out of nowhere, it seems, the weakened hero has been given a gift of new life and power to overwhelm the villain. Of course it is all drama and pretense. (I was told once there is a drama school in Manhattan for wrestlers to perfect their acting technique.) When the victim hero got up to stride forward to finish off the rival, my grandfather and I would say, "Oh, oh, here it comes!"
The wrestling match comes to mind because of today’s gospel. Throughout John’s gospel Jesus has been doing battle against evil and death. It has been a wrestling match: not the fake television kind, but a life and death struggle against very real and powerful opponents. He has confronted sin and death in the surrounding world and also in the resistance of the religious leaders to his message. Death’s powers have come close to him. For example, two weeks ago many of us heard the Lazarus story. We watched Jesus weep at his friend’s tomb as he confronted death’s power to inflict pain and loss among those he loved – and to himself as well.
In today’s gospel John says that Jesus, "was fully aware that the Father had put everything into his power...." Then we are told that Jesus "rose from supper." I remember those television matches and I wonder, is this going to be one of those, "Oh, oh, here it comes" moments? Will Jesus use the power he has been given to overcome his enemies? Will he name and condemn his betrayer? Will he smite the Roman army? Dash over to the Temple and cast out his religious opponents and banish the unfaithful? Will he break his previous pattern of patiently instructing his disciples, dismiss them and go get a better and brighter crop of followers? What will Jesus do when he rises from table with all that power available to him.
Well, he certainly surprised his disciples. And he continues to surprise us this day. Jesus rises and washes his disciples’ feet. That’s not how they or we would use all the power, were it available to us. How do we know? Because it isn’t the way power is usually used in our world: nations dominate nations; one ethnic group purges its rival; one religion proclaims its dominance over others; some parents, by word and example, teach their children to succeed at any cost; some church officials cut off dialogue over disputed issues; news commentators shout down one another on talk shows; businesses take over weaker rivals, presidential candidates call each other names and yell at each other etc. It does seem that when some nations, organizations, religions and individuals come to power, other groups must shudder and say, "Oh, oh, here it comes!" – and suffer the consequences. Having power is not necessarily a bad thing and Jesus’ life and today’s gospel are examples of ways to use power to the benefit and for the good of others. His use of power is also an example to us.
I have friends who belong to a mediation group. They use the term "practice" to refer to their daily meditative exercise. So, they schedule into their day a half hour meditation each morning and evening. It’s their "practice" and they have been doing it regularly for some years. They try to support this "practice" by other disciples. They play meditative music in their home; occasionally join group meditative sittings; read books about meditation, etc. In other words, they feed their basic practice with an appropriate life style. But while they may change routines and what they do the rest of the day, they stay faithful to their meditation schedule. It is their basic "practice."
Notice the word they use – "practice." It takes the perfectionist pressure off what they do, they don’t have to do it perfectly. They can be patient and tolerant when they let things slip or they don’t feel a meditation went as they had hoped. They can say, "I am no expert, I am just a beginner. I just practice, maybe I’ll get it right some day. Someday it will be easier and better---right now I practice."
There are a lot of levels of application in today’s foot washing story. We are at Jesus’ last supper with his disciples and so we think of the Eucharist. The other three gospels already have the account of the institution of the Eucharist, so John doesn’t have to repeat that. Instead, he narrates the washing of the feet and in doing that, links it to the Eucharist. From now on, disciples cannot think of the Eucharist without Jesus’ example and instruction to us, his disciples, about the washing of feet. After he washes their feet Jesus tells his disciples, "...you ought to wash one another’s feet. I have given you a model to follow, so that as I have done for you, you should also do."
Before we get too work-oriented and think about what we must do, let’s reflect on what the washing means for us. First of all, it reminds us that we are recipients. In washing his disciples’ feet, Jesus has acted as the lowly servant, given his life in service for others. As a church, we are who we are because of Jesus’ offering of himself. The washing reminds us that our baptism unites us to Jesus and his death. He has gained life for us, something we couldn’t do on our own. Our washing, our baptism, is what puts us in touch with that life, "Unless I wash you, you will have no inheritance with me." Now, with that new life, we hear Jesus’ instruction, "As I have done for you, you should also do." So, we too are called to lay down our lives in service to others —and we set about practicing the life we have received. We learn our "practice" from him. And of course, as with any other "practice," we probably won’t get it perfect, but we will keep at it.
Eucharist is our most basic "practice" for Jesus’ disciples; it is the center of our spirituality and is what we regularly return to. It is not only that we attend Eucharist, but, because of the foot washing, we try to put it into practice by serving the needs of others. We try to act towards the world as Jesus acted towards us, by being his faithful witness and serving others, even to the point of giving our lives. Have we gotten it perfect yet? No. That’s why we return to Eucharist and that’s why we keep practicing in our daily lives what we have learned at Eucharist.
Nhìn Ngắm Thánh Giá Khám Phá Tình Yêu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Suy niệm thứ Sáu Tuần Thánh
(Ga 18,1-19,42)
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Câu chuyện tình yêu
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03.2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : "Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết".
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : "Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta" (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết "Thiên Chúa là Tình Yêu ", thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó.Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : "Thiên Chúa là Tình Yêu".
Thờ lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Thưa,Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, "sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?" (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Kỷ Vật Tình Yêu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
THÁNH LỄ TIỆC LY
(Ga 13, 1-15)
Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước đêm hấp hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự hiện diện thực sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.
Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. "Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta" ( Ca nhập lễ ).
"Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Tất cả chẳng phải là Kỷ Vật Tình Yêu Thiên Chúa để lại cho chúng ta đó hay sao?
“Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống, chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Người đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.
Chưa hết, thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện : “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tín nhiệm con người, trao cho con người tiếp tục việc làm yêu thương ấy. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta : “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm : Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục - không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó liên kết chặt chẽ với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh. Trở nên một, chúng ta không còn tách biệt được nữa.
Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh em. Mỗi lần chúng ta tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thưa “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).
Tình yêu là kỷ vật cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
Thánh Thể là Kỷ Vật tuyệt đỉnh của tình yêu, một ơn cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.
Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngôn sứ Mose ( 2)
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Mose cùng em Ông là Aaron được Thiên Chúa tuyển chọn ủy thác cho sứ mệnh làm thủ lãnh thương thảo với Vua Pharao để cho dân Do Thái ra đi trở về quê hương Thiên Chúa hứa ban.
Sứ mệnh này với sự trợ giúp của Thiên Chúa đã đạt kết qủa thành công. Vua Pharao đã đồng ý cho dân Do Thái ra đi, và Mose đã tổ chức lễ Vượt Qua dẫn dân chúng ra khỏi đất Ai Cập vượt qua biển Đỏ trở về quê hương Do Thái.
Nhưng vai trò trung gian của Mose không chấm dứt nơi đây. Trái lại còn kéo dài trong suốt cuộc hành trình đi trong sa mạc.
Giữa Thiên Chúa và đoàn dân
Thiên Chúa đã phù hộ giơ tay uy quyền cứu dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập. Trong sa mạc hành trình về quê hương, Thiên Chúa muốn lập Giao ước với dân Do Thái, để củng cố và phát triển nếp sống lòng tin của dân chúng với Ngài.
Thiên Chúa lần nữa chọn Mose làm người giữ vai trò Trung gian đại diện dân Do Thái ký kết Giao ước với Thiên Chúa trên núi Sinai. Giáo ước Thiên Chúa lập ký kết gồm trong bản 10 Điều Răn.
Trên núi Sinai Ngôn sứ Mose được diện kiến Thiên Chúa và Ngài trao cho bản 10 Điều Răn đem xuống cho dân chúng (Xh 19- 20). Và như thế, Mose không chỉ trở thành người Trung gian mà còn là người được cả Thiên Chúa và dân chúng ủy thác cho công việc làm luật cùng công bố luật lệ nữa.
Những bản thu thập Lề luật, giới răn Thiên Chúa truyền cho dân qua Mose ghi chép lại trong Tora - Hòm Bia cách Lề luật ( Xh 21/23), những nghi thức hành lễ của thầy cả ( Levi 17/26) và sách Đệ nhị luật ( Dnl 12-26).
Khi Mose từ trên núi Sinai của Thiên Chúa trở xuống tay cầm bia lề luật 10 Điều Răn như trong sách thuật lại ( Xh 34,29-30) mặt Ông chiếu sáng chói lòa. Vì ánh sáng từ gương mặt Ông phản hiếu ánh sáng của Thiên Chúa, mà Ông đã diện kiến nói chuyện với. Nên Ông Aaron và toàn dân chúng kính sợ lấy khăn che mặt không dám nhìn thẳng vào Mose. Tia sáng chiếu ra từ nơi Mose trông giống như hai chiếc sừng . Có lẽ vì thế, Mose được vẽ hay tạc tượng trình bày có hai chiếc sừng trên đầu.
Trong thời gian dừng chân ở sa mạc, dân Do Thái đã có nhiều cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa và Mose, như họ đúc một con Bò Vàng làm vị Thần thờ lạy như vị Thiên Chúa đã cứu họ ra khỏi cảnh lưu đầy nô lệ bên xứ Ai Cập. Thấy cảnh bất trung đó Mose nổi giận đập bể tấm bia 10 Điều Răn mang từ trên núi Sinai xuống, bắt phá hủy hình tượng con bò vàng nghiền nát ra thành tro đem rải xuống nước.
Dân chúng được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ, không còn phải làm ăn bóc lột. Nhưng trên đường đi trở về quê nhà có nhiều thay đổi, thiếu thốn, bất trắc xảy ra không vừa ý muốn của họ, thế là họ khó chịu bất mãn kêu la than thở nhớ lại thức ăn thịt rau thuở xưa bên Ai Cập.
„ Con cái Ít-ra-en nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay ĐỨC CHÚA trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây! „( Xh 16, 3)
Là người dẫn dân hồi hương theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, Ông Mose cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho dân mình. Thiên Chúa nhậm lời cầu xin và ban lương thực dư đủ cho dân chúng ăn no thỏa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa quyết định không cho thế hệ con dân Do Thái bây giờ đang trên đường trở về quê hương được vào quê hương mới, như đã hứa. Nhưng họ sẽ bỏ mình trên đường đi trong sa mạc giữa đường, cả Ngôn sứ Mose cũng cùng chịu chung số phận như vậy.
Biết mình được Thiên Chúa cho biết ngày cuối cùng đời sống trên trần gian, Ngôn sứ Mose cho tập họp dân chúng lại nói lời từ gĩa, trao quyền cho Josua, nhắc nhớ mọi con dân Do Thái nhớ giữ những lề luật của Thiên Chúa ban cho,. Và sau cùng Ngôn sứ Mose qua đời trên vùng núi Nebo thuộc vùng đất nước Jordania đối diện với thành Jericho đất nước Do Thái.
Ngôn sứ Mose từ trên núi Nebo nhìn sang miền đất quê hương Thiên Chúa hứa cho dân Do Thái. Nhưng Ông không được bước chân tới đó trước khi qua đời.
Tora, Hòm Bia sách Lề Luật, kết thúc với sự chết của Ngôn sứ Mose. Từ đó không có lề luật nào mới được làm ra nữa. Nhưng một khởi đầu mới được khởi sự: Mose nhắc cho dân nhớ đến lời đoan hứa của Thiên Chúa mà Người đã ban làm cho dân Do Thái. Lời nhắc nhở của Mose đánh thức khơi dậy niềm hy vọng mới vào ngày mai của lời đoan hứa.
Ngôn sứ Mose trong lịch sử dân Do Thái cùng lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa là vị Trung gian đàm phán giữa dân chúng Do Thái với Vua Pharao, vị Trung gian giữa những yêu cầu của Thiên Chúa với dân Do Thái, người trung gian tiếp nhận lề luật, cùng làm luật và công bố luật của Thiên Chúa cho dân chúng, cùng là vị Trung gian cầu bầu cùng Thiên Chúa cho dân chúng.
Lịch sử đời Ngôn sứ Mose
Đời sống của Ngôn sứ Mose, như trong sách Kinh Thánh Ngũ Thư thuật lại không là bài tường thuật mang dấu vết tính lịch sử, nhưng bao gồm nhiều truyền thống trình thuật khác nhau bao gộp lại.
Những tường thuật về Thiên Chúa kêu gọi Mose được viết lặp lại nhiều lần (Xh 3, 1/4, 18, Xh 2,23, 4,19 và lần nữa Xh 6) cho thấy sự thành hình những tường thuật như thế trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nói về ơn Kêu gọi của Ngôn sứ Mose.
Vào thời điểm nào xuất hiện những tường thuật đó?
Những bản Kinh Thánh Do Thái nhắc nhớ đến biến cố ra đi trở về quê hương từ Ai Cập như biến cố nền tảng cho đời sống đức tin của dân Do Thái.
"21 Anh (em) sẽ trả lời cho con anh (em): "Chúng ta xưa làm nô lệ cho Pha-ra-ô bên Ai-cập, nhưng ĐỨC CHÚA đã ra tay uy quyền đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập.“ ( Dnl 6,21).
Thiên Chúa luôn là Vị cứu dân Do Thái khỏi cảnh nô lệ. Nhưng mãi tới muộn sau này, người Trung gian mới xuất hiện nơi sách của Tiên Tri Hosea, khi Hosea viết nhắc nhớ đến biến cố ra khỏi Ai Cập trở về đất Thiên Chúa hứa. Như thế, sớm nhất cũng vào cuối thế kỷ thứ 8. hay 7. trước Chúa giáng sinh mới có bản tường thuật nói về lịch sử Ngôn sứ Mose, vị Trung gian.
Ngôn sứ Mose theo như trong Kinh Thánh thuật lại không phải là vị Tổ phụ dòng dõi tổ tiên như tổ phụ Abraham, Jacob. Ngôn sứ Mose là một con người trong thời kỳ chuyển tiếp từ thời nô lệ lưu đầy bên Ai Cập bước sang thời trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa.
Sứ mạng trung gian của Mose từ thời tôn gíáo vua chúa theo truyền thống của chi tộc Juda chuyển sang tôn giáo của dân tộc Do Thái, mà Tora, Hòm Bia sách Lề Luật là “quê cha đất tổ luôn mang theo “ của dân Do Thái.
|||||||||||||||||||||||||||||||||
Sách Đệ nhị Luật kết thúc với câu: „„ Trong Ít-ra-en, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông Mô-sê, người mà ĐỨC CHÚA biết rõ, mặt giáp mặt.11 ĐỨC CHÚA đã sai ông thực hiện mọi điềm thiêng dấu lạ tại nước Ai-cập, phạt Pha-ra-ô cùng tất cả bề tôi và cả nước.12 Ông Mô-sê đã biểu dương tất cả sức mạnh bàn tay ông và gây tất cả nỗi kinh hoàng lớn lao trước mắt toàn thể Ít-ra-en.“ ( Dnl 34,10-12)
Như thế, sự chết của Ngôn sứ Mose chấm dứt thời kỳ lưu đày nô lệ bên Ai Cập của dân Do Thái, đồng thời mở ra thời kỳ bắt đầu lịch sử của Do Thái như tôn giáo của Tora - Hòm Bia Lề luật.
Mùa Chay 2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Ngôn sứ Mose
- Mồng Một Tết: Xuân Đã Về
- Nhảy nhót như loài Khỉ !
- Bước qua ngưỡng cửa
- Dấu chỉ phép lạ Cana
- Giáo Hội - nơi mọi người gặp được lòng thương xót
- Tâm tình ngày cuối năm
- Cánh thư ngày cuối năm cũ bước sang năm mới.
- Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, ngày 01.01.2016
- Chúa Nhật Trong Tuần Bát Nhật Lễ Chúa Giáng Sinh