Ngỡ ngàng bỡ ngỡ!
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống ai chúng ta cũng đều sống trải qua nhiều giai đoạn, nhiều hoàn cảnh gây ra bối rối hốt hoảng, cùng ngạc nhiên bỡ ngỡ nữa.
Bối rối hốt hoảng thì không vui không thú vị. Nhưng ngạc nhiên bỡ ngỡ thì mang đến niềm vui cuộn trào từ trong thâm tâm.
Bối rối hốt hoảng làm cho lo âu sợ hãi co rút lại muốn cho mau chóng qua đi. Còn ngạc nhiên bỡ ngỡ lại gợi chú ý tò mò tìm hiểu.
Bối rối hốt hoảng mang đến hậu qủa tiêu cực khiến tâm trí và thể xác cơ bắp ra nặng nề chùng xuống. Trái lại, ngạc nhiên bỡ ngỡ gây ảnh hưởng như dòng mạch điện chạy làm toàn thân thể bừng lên, và khiến cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái.
Khi suy nghĩ về bộ máy thân thể của mình, chúng ta ngạc nhiên bỡ ngỡ rất nhiều. Vì không sao hiểu được bộ máy thân thể của mình, và còn có nhiều điều bí ẩn nhiệm mầu gây sự chú ý thích thú.
Suy nghĩ về con đường sự sống của mình cũng như của người khác, sự ngạc nhiên bỡ ngỡ lại càng nhiều hơn nữa. Vì có nhiều bí ẩn nhiệm mầu nối tiếp liên tục trên con đường đời sống, mà không lý giải ra được. Lẽ dĩ nhiên đời sống nào cũng có lịch sử. Và chính lịch sử đời sống mỗi người mỗi khác nhau đó là bí ẩn mầu nhiệm gây ngạc nhiên bỡ ngỡ.
Người mẹ, người cha nào cũng rất vui mừng, phải đó là niềm vui mừng thần thánh, khi hay tin được Trời cao ban cho có con đang là bào thai thành hình cung lòng người mẹ. Nhưng nào họ đâu có biết con họ ra sao! Họ đâu có biết tiến trình giai đoạn thành hình con mình ngay trong chính cung lòng mình như thế nào…
Cho đến khi người con mở mắt chào đời lúc đó cha mẹ mới biết con mình. Họ chỉ còn biết ngạc nhiên bỡ ngỡ thôi. Vì một công trình qúa lạ lùng cho họ. Cha mẹ qua tình yêu của họ với nhau không làm nên công trình lạ lùng đó. Nhưng họ là người cùng cộng tác vào công trình đó, để họ trở thành người đón nhận công trình sự sống người con của mình do Trời cao tác thành ban cho.
Và chưa hết, trong suốt dọc đời sống, cha mẹ càng ngày càng nhận ra nhiều ngạc nhiên bỡ ngỡ khác liên tiếp đến với đời sống người con qua sự phát triển thay đổi về thân xác hình hài lẫn tính tình, rồi con đường đời sống của người con…
Đời sống đức tin cũng có những ngạc nhiên bỡ ngỡ. Vì nơi đức tin ẩn chứa bí ẩn mầu nhiệm, mà tâm trí con người không sao hiểu thấu đáo được, dù luôn gợi hứng suy nghĩ tò mò tìm hiểu từ ngàn xưa nay.
Một trong những bí ẩn mầu nhiệm đức tin đó là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người trong cung lòng đức mẹ Maria.
Qúa trình để cấu thành một sự sống mới trong thiên nhiên cần hai yếu tố hóa học âm và dương, nam và nữ kết với nhau. Nhưng trong trường hợp Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa thành hình là bào thai trở thành con người trong cung lòng người phụ nữ Maria không theo con đường đó, như lời Maria nói với Thiên Thần: Việc đó xảy đến thế nào được. Vì tôi không biết đến việc vợ chồng?
Nhưng quyền năng của Thiên Chúa làm phép lạ tác động tạo dựng nên bào thai sự sống Con Thiên Chúa trong cung lòng mẹ Maria, như Thiên Thần nói với Maria. ( Lc 1,26-38). Và chính Maria cũng rất ngạc nhiên bỡ ngỡ về lời Thiên Thần loan báo đầy bí ẩn nhiệm mầu này.
Bí ẩn mầu nhiệm đức tin này gây ngạc nhiên bỡ ngỡ cho tâm trí con người: tâm lòng yêu mến mầu nhiệm và trí khôn suy nghĩ tìm hiểu mầu nhiệm.
Sự sống là qùa tặng qúy gía khôn lường của Thiên Chúa tạo dựng ban cho ẩn chứa bí ẩn mầu nhiệm. Do đó gây nên ngạc nhiên bỡ ngỡ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Giuse, người sống lòng đạo đức.
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong kinh cầu Thánh Giuse có lời ca tụng: „ Ông Thánh Giuse cực khôn cực ngoan.“
Không có sử sách nào viết nói về lai lịch cuộc đời Thánh Giuse. Nhưng trong Kinh thánh nơi phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Mattheo và theo Thánh Luca có nói đến Thánh Giuse, khi thuật về cuộc đời thơ ấu và niên thiếu của Chúa Giêsu.
1. Giuse người có lòng nhân đạo, tình người
Thánh sử Mattheo viết về Thánh Giuse: là người công chính. ( Mt 1,19).
Theo luật thời đó Giuse có quyền công khai tố giác Maria, vì khi cưới Maria về, Ông nhận ra Maria đã có thai. Khi tố cáo như vậy, chắc chắn người phụ nữ Maria sẽ bị luật pháp lúc đó luận tội kết án, bị xỉ nhục…
Nhưng Giuse đã không hành xử theo luật pháp, mà theo lương tâm của một con người lành mạnh vừa có lý trí suy nghĩ và trái tình cảm của lòng yêu mến.
Chắc chắn Giuse suy nghĩ dù sao Maria cũng là một tạo vật, một con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Đã là con người và chính mình cũng là một con người trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa, thì phải được bảo vệ tôn trọng về thể xác cũng như danh dự tinh thần. Có như thế mới xứng đáng là hình ảnh con Thiên Chúa.
Suy nghĩ như thế, Giuse đã đi đến quyết định chỉ muốn âm thầm kín đáo rời bỏ Maria. Làm như thế vừa bảo vệ tôn trọng đời sống thể lý và tâm lý cho người phụ nữ Maria không bị luật pháp kết tội luận phạt chê trách. Và chính Giuse cũng không bị sống vướng mắc trong lương tâm cắn rứt làm sự xấu, làm hại sự sống cùng thanh danh người khác…
Như vậy có thể nói được: Giuse đã sống theo lương tâm một người đạo đức có lòng nhân đạo và tình người.
2. Giuse, người dọn đường cho con đường ơn cứu độ
Ngày xưa thời Cựu ưước, Giuse con Tổ phụ Giacóp bị anh em bán sang nước Aicập. Cuộc đời lưu lạc của Giuse thứ nhất đã trở nên người cứu dân Ai Cập và cả dân Israel trong đó có gia tộc Giacóp khỏi bị đói . Vì nạn mất mùa kéo dài bẩy năm liên tiếp ở vùng Trung Đông lúc đó.
Sau đó hằng chục năm, có thể hằng thế kỷ, sống lưu lạc bị đầy đọa bên Ai Cập, Thiên Chúa đã ra tay cứu độ cho dân Israel trở về quê hương đất Thiên Chúa hứa ban.
Sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thiên Chúa bảo Giuse đem gia đ̣ình trốn tỵ nạn sang Ai Cập ( Mt 2,13.)… Chắc chắn Giuse cũng đã có suy nghĩ do dự về lịch sử ngày xưa dân Israel mình đã sang sinh sống bên đó, bị đối xử là nô lệ, và sau cùng đã lên đường xuất hành trở về quê hương Israel, mà bây giờ Thiên Chúa lại bảo phải đi sang đó tỵ nạn sống đời tha hương…thế có nghĩa là gì???
Suy nghĩ do dự đắn đo. Nhưng Giuse cũng đã lên đường đem gia đình sang Ai Cập sống đời tỵ nạn, như Thiên Chúa qua Thiên Thần hướng dẫn chỉ bảo.
Dân Israel theo lời kêu gọi của Ngôn sứ Mose như Thiên Chúa cứu dân khỏi cảnh nô lệ đã lên đường xuất hành trở về quê hương Israel.
Giuse can đảm nghe lời Thiên Thần thúc dục theo lệnh của Thiên Chúa lên đường xuất hành lần thứ hai đem gia đình, Chúa Giêsu và đức mẹ Maria trở về quê hương Nazareth nước Israel.
Và như thế chương trình cứu độ của Thiên Chúa ngày xưa gọi dân Israel ra khỏi Ai Cập về quê hương, giờ đây gọi Con của Ngài là Chúa Giêsu cũng ra khỏi Ai cập về quê hương Israel, Người mang ơn cứu rỗi cho nhân loại. ( Mt 2,15)
Giuse đã can đảm là người dọn đường cùng cộng tác vào chương trình con đường ơn cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại qua Chúa Giêsu Kitô.
Và như thánh sử Mattheo viết gia phả Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua David, và Giuse, người cha nuôi Chúa Giêsu trên trần gian cũng là con cháu dòng dõi vua David. ( Mt 1, 1-22).
3. Lòng tôn kính Thánh Giuse trong hội Thánh Công giáo
Theo lịch sử lòng sùng kính Thánh Giuse có từ thế kỷ 9. bên Hội Thánh Đông phương từ năm 850 vào ngày 19.03. hằng năm. Chọn ngày 19.03. làm ngày lễ mừng kính Thánh Giuse với hậu ý thay thế hay “rửa tội“ cho ngày lễ kính thờ Thần Minerva, một vị nữ Thần của dân Roma quan thầy bảo trợ việc lao động chân tay.
Đức giáo hoàng Sixto IV. năm 1479 công nhận ngày 19.tháng Ba hằng năm là ngày mừng kính chính thức Thánh Giuse. Và từ năm 1621 ngày mừng kính Thánh Giuse được ghi chếp trong lịch phụng vụ của Giáo hội Công giáo.
Năm 1670 Đức giáo hoàng Clemente X. đã nâng ngày mừng kính Thánh Giuse lên hàng ngày lễ trọng. Năm 1714 Đức giáo hoàng Clemente XI. đã cho soạn thảo các lời nguyện lễ nghi phụng và kinh nhật tụng riêng cho ngày lễ kính Thánh Giuse.
Đến thời Đức giáo hoàng Benedicto XIII. tên Thánh Giuse được liệt kê vào Kinh cầu các Thánh.
Đức giáo hoàng Pio IX. đã công bố chọn Thánh Giuse làm quan thầy toàn Hội Thánh Công giáo.
Năm 1955 Đức giáo hoàng Pio XII. đã lấy ngày 1. Tháng năm hằng năm là ngày lễ kính Thánh Giuse lao động.
Và trong Hội Thánh Công giáo nhiều người đàn ông xưa nay chọn Thánh Giuse là vị Thánh quan thầy cho mình, và cả những hội đoàn, Dòng tu nam nữ và nhiều Giáo phận trên thế giới nữa.
////////////////////////////////////////
Thánh Giuse là một người có vị thế hầu như lu mờ đứng trong bóng rợp bên cạnh, bên lề. Ông là người được dùng trong những trường hợp cần sự giúp đỡ. Nhưng hoàn toàn giữ yên lặng không lý sự nói lời nào.
Thánh Giuse là người được Thiên Chúa luôn luôn dùng với những chỉ bảo sai đi mới lạ gây ngạc nhiên cho ông, lên đường ra đi và trở lại…Nhưng với lòng can đảm tin tưởng chấp nhận phiêu lưu mạo hiểm.
Thánh Giuse nghe Thiên Chúan phán bảo, Ông suy nghĩ do dự. Nhưng sẵn sàng vâng mệnh Thiên Chúa phán bảo.
Đó là điều mầu nhiệm ẩn dấu nơi con người Giuse thành Nazareth nước Isarael: người có nếp sống lòng đạo đức nhân đạo tình người.
Lễ mừng kính Thánh cả Giuse 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nước: nhu cầu cho đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nước lỏng, không hình dạng. Nhưng nước xưa nay từ khi công trình tạo dựng thiên nhiên giữ vai trò căn bản chính yếu cho sự sống mọi loài thụ tạo được nẩy sinh phát triển và gìn giữ duy trì.
Nước không chỉ giữ vai trò nền tảng then chốt cho sự sống còn của sự sống trên mặt đất. Nhưng nước dù không phát ra âm thanh mệnh lệnh cũng còn mang ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh, trong nếp sống niềm tin nơi tôn giáo nữa.
Nước là một thực thể lưu chuyển chảy không ngừng và bốc hơi lên cao, cùng không có thể đong đo lường được bằng thước tấc. Nhưng nước lại ẩn chứa nhiều bí ẩn.
Nhà hiền triết Thales thành Milet ( 624 - 546 trước Công nguyên) đã có suy tư nhìn nước là yếu tố khởi thủy của mọi vạn vật trong trời đất.
Nhà hiền triết Aristoteles ( 384-323 Trước công nguyên) kể nước là một trong bốn thành tố nền tảng của vạn vật: Lửa, Nước, không khí và đất.
Giáo huấn trong Đạo Lão Tử cho nước là yếu tố thứ năm bên cạnh Gỗ, lửa, đất và sắt thép.
Trong thời Hy lạp cổ xưa, nước được cho là yếu tố thứ năm theo quan niệm về thân thể của Platon.
Từ khi tạo dựng nên vũ trụ, nước đã có mặt trong trời đất: Thần linh Thiên Chúa bay là là trên nước. ( St 1,2)
Thiên Chúa làm cho mưa 40 ngày đêm, nước tràn ngập khắp mặt đất, gây ra cảnh nước lụt đại hồng thủy. ( St 7,7).
Thiên Chúa truyền cho Ngôn sứ Mose giang tay trên sóng nước biển, lập tức nước rẽ hai bên làm thành mở ra một lối đi giữa lòng biển, để cho dân Israel đi ngang qua. ( Xh 14,22).
Dân Israel trên đường trở về quê hương đất Thiên Chúa hứa ban, họ khát nước, đến than trách xin Ông Mose cho họ nước uống. ( Xh 17,2)
Thánh Gioan tiền hô nói với những người thắc mắc“ Tôi làm phép rửa bằng nước, nhưng giữa các Ông có đấng , mà các ông không biết. ( Ga 1,16).
Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ xứ Samarita bên bờ giếng Giacóp lúc chị này ra múc kín nước.( 4,1-13).
Trong nhiều tôn giáo thời cổ đại xa xưa dòng nước được tôn kính là nguồn thần thánh tựa như thánh địa.
Trong Kitô giáo nước là yếu tố chính dùng trong bí tích rửa tội. Trong đạo Công giáo nước thánh làm phép giữ vai trò đặc biệt.
Nước thánh dùng để ban chúc phúc lành khi làm phép nhà cửa, ảnh tượng… Mỗi khi người tín hữu vào thánh đường, họ thường chấm ngón tay vào bình nước thánh treo ở cửa ra vào và làm dấu thánh gía trên mình. Cử chỉ này nói lên ý nghĩa vừa xin Thiên Chúa chúc lành, và đồng thời nhớ lại nước bí tích rửa tội ngày xưa đã lãnh nhận lúc còn thơ bé.
Ngày nay khi thám hiểm các hành tinh khác ở vòng qũy đạo mặt trời, các nhà khoa học luôn chú ý tìm xem có dấu vết nước nơi đó không. Vì có nước hiện diện là có sự sống nơi đó.
Nước là tài nguyên của cải châu báu căn bản cùng cần thiết cho sự sống mọi loài trong vũ trụ vào mọi thời gian. Nhưng cũng có những phung phí coi thường tài nguyên này.
Nước chảy tới đâu mang sức sống sự nảy nở phồn thịnh xanh tốt đến đó cho mọi loài trên mặt đất cũng như dưới lòng sông biển. Nước do Trời cao, thiên nhiên ban cho sự sống mọi loài được nảy nở phát triển cùng duy trì. Nhưng cũng có những ích kỷ hay qúa tham lam ngăn chặn dòng nước chỉ muốn để cho riêng mình , cho sở hữu mục đích riêng mình.
Nước mang đến sức sống, sự trong lành thanh khiết chữa lành, tẩy rửa. Nhưng cũng có những lạm dụng làm vẩn đục, làm ô nhiễm độc hại dòng nước.
„ Nước sạch là một vấn đề mang ý nghĩa hàng đầu, vì đó là điều tất yếu cho đời sống con người và gìn giữ hệ sinh thái của trái đất và nước. Những nguồn nước ngọt cần cho lãnh vực sức khỏe, đất đai nông nghiệp và kỹ nghệ, Trong một thời gian dài, việc dự trử nước tương đối ổn định, hiện tại rất nhiều nơi phải đặt vấn đề vì vượt quá sự dự trử, đưa đến những hậu quả nặng nề trong thời gian ngắn cũng như dài hạn. Nhiều thành phố lớn, cần đến những khối nước lớn để sử dụng, cũng phải đau khổ vì sự cạn kiệt nguồn nước, không đủ xài trong thời gian khủng hoảng. Việc thiếu nước diễn ra đặc biệt tại Phi Châu, nơi phần đông dân số không thể tiếp cận với nước uống hay phải chịu đựng những thời gian hạn hán, gây khó khăn cho việc sản xuất lương thực. Trong nhiều quốc gia, có nước dư thừa nhưng đồng thời lại có những quốc gia thiếu nước trầm trọng. „ (Laudato Si số 28.).
Bảo vệ dung lượng và chất lượng nước là bảo vệ sự sống cho con người trong xã hội.
„ Ngay cả khi chất lượng nước sẵn sàng đang liên tục thiếu thốn, thì ở một số nơi có một xu hướng đang gia tăng, bất chấp sự khan hiếm nước, tư hữu hoá nguồn này, biến nó thành một món hàng hoá chịu sự chi phối của các quy luật của thị trường. Mặc dù việc được sử dụng nguồn nước an toàn uống được là quyền con người căn bản và mang tính toàn cầu, bởi vì thật là thiết yếu để con người được tồn tại và, như thế, là một điều diện cho việc thi hành quyền con người khác. Thế giới của chúng ta đang mang một mối nợ xã hội nặng nề đối với người nghèo là những người đang thiếu nguồn nước uống, bởi vì họ bị khước từ quyền đối với một cuộc sống nhất quán với phẩm giá không thể nhượng lại được của họ.“ ( Laudato Si số 30.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúc phúc lành
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Được chúc phúc lành luôn là nhu cầu cho đời sống thể xác cũng như tinh thần con người xưa nay. Vì chúc lành mang đến niềm vui, bình an cho tâm hồn cùng sức khoẻ cho đời sống.
Chúc phúc lành luôn là khát vọng của con người không chỉ cho đời sống thể xác cùng tinh thần riêng mình, nhưng còn cho cả người đã qua đời, cho mồ mả, cho những đồ đạc vật thể nhà cửa, thú động vật nữa gắn bó với mình nữa. Vì thế, xưa nay có tập tục làm phép chúc lành quan tài, phần mộ người qua đời, nhà cửa, xe cộ, đường đi, cây cầu, tầu thuyền, thú động vật…
Chúc phúc lành không là ảo thuật phù phép, hay nghi thức bày đặt trang hòang, nhưng là lời cầu xin kéo ơn phù hộ thiêng liêng từ Trời Cao xuống cho con người cùng vật thể dưới trần gian.
Nghi thức cùng lời chúc phúc lành xưa nay có trong nhiều tôn giáo.
Thiên Chúa sau khi sáng tạo chim trời cá biển, mọi thú động vật trên mặt đất cùng con người, Ngài cũng đã chúc phúc lành cho chúng. (St 1,20-28)
Thiên Chúa nói với Tổ phụ Abraham: Con được Ta chúc phúc lành. Và con hãy trở nên chúc phúc lành cho người khác! ( St 12,1-4).
Thiên Chúa dạy khi chúc phúc lành phải nói lời như sau:
"Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh (em)!
Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!
Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)! ( Dân số 6,24-26)
Chúa Giêsu khi gặp các trẻ con trên đường loan truyền tin mừng nước Thiên Chúa đã chúc lành cho các trẻ em qua lời cầu nguyện chúc phúc và đặt tay trên chúng. ( Mt 19, 13-15)
Từ ngữ chúc phúc lành trong Kitô giáo theo tiếng latinh “ benedictio“ từ hai chữ „ bene“ có nghĩa sự tốt lành, và „dicere“ có nghĩa nói. Như vậy chúc phúc lành - benedictio - trong ý nghĩa nói lời tốt lành cho người nào đó.
Đích điểm của chúc phúc lành là cầu xin sự may mắn hạnh phúc, sự phát triển vươn lên, cùng sự bảo đảm được gìn giữ bảo vệ.
Chúc phúc lành thể hiện bằng lời cầu nguyện, nói lời cầu chúc phúc song song với cử chỉ, như đặt tay, dùng tay ban phép lành làm dấu thánh gía, rảy nước thánh, xức dầu…
Chúc phúc lành cho con người nói lên tâm tình: Chớ gì ân đức của Thiên Chúa luôn hằng cùng đồng hành với, ban cho Bạn may mắn thành công, che chở gìn giữ Bạn trong mọi hoàn cảnh bất trắc nguy hiểm thể xác cũng như tinh thần. Ước gì Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa luôn hằng bao phủ đời sống Bạn. Cũng như xưa Thiên Chúa nói Abraham: Ta chúc phúc cho con, và con cũng là lời chúc phúc cho người khác:
Khi Bạn gặp gỡ người nào đó đang trong hoàn cảnh đau buồn, họ cảm nhận ra được chút niềm vui truyền sang từ nơi Bạn.
Khi Bạn gặp gỡ người nào đó đang trong hoàn cảnh cô đơn, họ cảm nhận ra có người cùng ở bên cạnh.
Khi Bạn gặp gỡ người nào đó đang vướng trở trong lo âu sợ hãi, họ cảm nhận ra có người mang đến sự an ủi cho mình.
Khi Bạn gặp gỡ người nào đó đang sống trong nghi nan hoang mang chán nản, họ cảm nhận ra có người mang đến sự phấn chấn khích lệ đứng dậy vươn lên.
Sau mỗi thánh lễ Misa, linh mục chúc phúc lành của Chúa cho mọi người ra đi về nhà bằng an.
Cha mẹ là chúc phúc lành cho con cháu qua lời cầu nguyện, qua sự thương yêu chăm chóc nuôi dưỡng đời sống họ từ khi còn tấm bé.
Con cháu là chúc phúc lành cho cha mẹ. Vì con cháu là hoa trái phúc lộc Trời cao ban cho đời sống hôn nhân của vợ chồng. Con cháu là hạnh phúc niềm vui cho đời cha mẹ hôm nay và ngày mai.
Hơn khi nào hết đời sống trong thế giới xã hội ngày nay cần chúc phúc lành của Thiên Chúa. Vì những chao đảo, đe dọa, chiến tranh, nghèo đói, tan rã gia đình, nếp sống tinh thần đạo đức sa sút càng lúc càng khốc liệt làm mất thăng bằng, mất bình an.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mùa chay trong nếp sống Giáo Hội Công giáo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống phụng vụ của Giáo hội Công giáo chia ra những mùa, thời kỳ sống đức tin khác nhau: mùa Vọng, mùa Giáng sinh, mùa thường niên, mùa chay.
Sự phân chia ra những mùa như thế khuyến người tín hữu sống đức tin hiểu biết sâu rộng thêm vừa về khía văn hóa, vừa về khía cạnh tâm linh tinh thần đạo đức.
Đồng thời diễn tả đặc tính mầu nhiệm đức tin riêng của mỗi mùa giai đoạn thời gian. Và như thế nâng đỡ tâm tính người tín hữu sống đặc tính mầu nhiệm đức tin cụ thể sống động hơn.
Vậy đâu là lịch sử cùng ý nghĩa đặc tính của mùa chay?
Mùa chay trong Giáo hội Công giáo kéo dài 40 ngày. Con số 40 là con số biểu trưng nhiều hơn là con số theo toán học. Con số 40 biểu trưng có nguồn gốc trong Kinh Thánh.
Con số 40 nhắc nhớ lại trận đại hồng thủy, mà Thiên Chúa cho mưa suốt 40 ngày đêm trên mặt đất. để tẩy rửa tội lỗi con người đã gây ra.( St 7,4-6).
Nhớ đến dân Do Thái trên đường từ Aicập trở về quê hương đất Thiên Chúa hứa ban, họ đã vượt qua sa mạc 40 năm. ( XH 16,35)
Nhớ đến Ngôn sứ Mose ở trên núi Sinai 40 ngày để diện kiến Thiên Chúa. ( XH 24,18).
Nhớ đến Ngôn sứ Giona kêu gọi dân thành Ninive ăn chay hãm mình 40 ngày ăn năn đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ cho khỏi bị phạt. ( Giona 3,4).
Và sau hết chính Chúa Giêsu đã vào sống trong sa mạc 40 ngày đêm ăn chay cầu nguyện. ( Mt 4,2).
Mùa chay bắt đầu từ ngày Thứ Tư lễ Tro đến ngày chúa nhật lễ Lá.
Vào ngày thứ Tư lễ Tro bắt đầu mùa Chay người tín hữu Chúa Kitô nhận lãnh nghi thức xức tro trên đỉnh đều hoặc trên trán như dấu chỉ sự ăn năn thống hối đền tội. Nghi thức xức tro từ thời Đức giáo hoàng Urban II. ( 1091) phổ biến trong toàn thể Giáo hội Công giáo.
Tro là dấu chỉ sự mau tàn chóng qua, dấu chỉ của sự chết. Khi nhận xức tro ngày lễ Tro là muốn nói lên thực tế trong đời sống:
Không có gì là hoàn hảo. Tất cả đều có lỗi lầm khiếm khuyết.
Không có gì là không có tận cùng. Tất cả đều có kết thúc.
Không có gì là hằng có bền vững vĩnh viễn. Tất cả đều qua đi.
Nhưng Thiên Chúa cho ta cảm nhận ra rằng, con người được Thiên Chúa tạo dựng nên, và Ngài hằng ban cho ta lòng thương xót của Ngài. Nhờ đó con người nhận được ơn tha thứ cùng sự sống sau khi qua đời.
„ Khi mùa Đông gía lạnh tối tăm qua đi, mùa trong sáng đẹp trời trở về với thiên nhiên, những Thủy thủ chèo đẩy tầu thuyền ra khơi, người lính chiến lau chùi khí giới và thắng ngựa sẳn sàng trong tư thế chiến đấu, bác nông dân mài dũa liềm hái cho sắc bén, người đi thám hiểm sửa soạn cuộc hành trình dài, người lực sĩ thi đấu thể thao cởi bỏ áo quần ngày thường và luyện tập chuẩn bị kỳ thi đấu sắp tới.
Cũng thế, chúng ta bắt đầu mủa chay hằng năm, như sự trở về với mùa xuân tinh thần thiêng liêng. Giống như người lính chiến lau chùi khí cụ, người nông dân mài dũa liềm hái, người thủy thủ coi lại con tầu thuyền, người tín hữu Chúa Kitô chúng ta cũng sẵn sàng chuẩn bị cho con thuyền tinh thần tâm linh mình chống vượt qua đam mê xô đẩy vào sự xấu.
Cũng giống như người hành trình thám hiểm chúng ta định phướng hướng con đường đời sống hướng về trời cao. Và như người lực sĩ chúng ta sửa soạn sẵn sàng hy sinh chịu đựng gian nan cực khổ thi đấu, khi từ bỏ tất cả.“ (Đức Giáo hoàng Benedictô 16. Bài giảng ngày 21.02.2007).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chùm rễ cây
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Nói đến rễ, ta liên tưởng đến thảo mộc cây cối, dù là cây to lớn trong rừng, hay bé nhỏ như cỏ mọc bên ven đường, trên sườn núi, dưới thung lũng, bên bờ sông ao hồ….Vì cây nào, loài cỏ nào mà chẳng có chùm rễ nằm chằng chịt ẩn chui dưới lòng đất.
Rễ cây có nhiệm vụ hút thẩm nước chất dinh dưỡng từ lòng đất cát đá nuôi cho cây sống phát triển.
Rễ cây càng chằng chịt ăn sâu cùng lan tỏa ra xa, cây càng đứng vững vươn thẳng lên cao giữa không trung.
Nghĩ đến rễ, ta mường tượng đến cây gia phả, dòng tộc của mỗi gia đình. Gia đình nào cũng tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng xa gần. Vì thế cây được dùng là hình ảnh nói về dòng họ, gia tộc con người.
Cây này có tên „cây gia phả“. Nếp sống, truyền thống phong tục do Tổ Tiên Ông Bà một dòng họ gia tộc, gia đình lập ra được ví kể như rễ của cây gia phả.
Gia tộc nào càng có đông nhiều anh em, con cháu, có nhiều truyền thống phong tục nếp sống…tầng cây, tàn cành là cây gia phả càng lan tỏa phủ rợp bóng càng rộng thêm ra.
Nhớ đến rễ, ta cũng nghĩ đến lịch sử một Hội đoàn đạo đời, nhất là đến cây đức tin của mình.
Sức sống, sự thành hình của một Đoàn thể cũng tựa như một cây có nhiều tầng rễ ăn sâu. Những tầng rễ đó là những chặng đường lịch sử ngày hôm qua, ngày hôm nay và kéo dài vào tương lai.
Những tầng rễ lịch sử đó nuôi sống cho Đoàn thể phát triển, trở nên vững chắc trong thời gian và không gian trước những thách đố đòi hỏi của lịch sử mỗi thời đại.
Tầng rễ lịch sử của một Đoàn thể là những kinh nghiệm qúy giá, rất nhiều khi là xương máu đã sống trải qua, những phong tục thói quen.
Những rễ kinh nghiệm đó nuôi sống cho sinh hoạt con người trong đoàn thể .
Những rễ kinh nghiệm đó giúp học hỏi năng đỡ suy nghĩ tìm ra sáng kiến trong đoàn thể.
Những rễ kinh nghiệm đó như tấm thảm muôn mầu, muôn kích thước lớn nhỏ khác nhau, cùng khác biệt nhau. Nhưng làm nên nền tảng cho lịch sử „cây đoàn thể“ đứng vững sống phát triển vươn lên cao.
Hình ảnh rễ cây xưa nay luôn là dấu chỉ về niềm hy vọng có sự sống trở lại như ngoài thiên nhiên, như nhiều nơi chỉ có một vài rễ cây còn sót lại sau vụ hỏa hoạn nay lụt lội, mà sau có những cây cối mọc trở lại. Và trong Kinh Thánh cũng dùng hình ảnh này diễn tả niềm hy vọng đao đức:
„ Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh,
như khúc rễ trên đất khô cằn.“ ( Isaia 53,2)
Đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta trong Hội Thánh cũng phát triển lớn dần như một cây. Và rễ nuôi sống cây đức tin cho phát triển chính là Chúa Giêsu:
"Ta là Giê-su, Ta đã sai thiên thần của Ta đến với các ngươi để làm chứng về những điều trên đây, liên quan đến các Hội Thánh. Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đa-vít, là Sao Mai sáng ngời.“ ( Kh 22, 16).
Như thế, sự phát triển của cây cối thảo mộc trong rừng, ngoài đường…hay cây gia phả, cây đoàn thể, cây đức tin đều có rễ. Chính rễ mang đến cho cây sức sống phát triển cùng vững mạnh đứng vững.
Thân cây, cành là cây không làm ra rễ cây. Nhưng rễ cây làm cho thân cùng cành lá cây phát triển tươi tốt vươn lên.
Cũng vậy, cây đức tin luôn cần phải có rễ Chúa Giêsu mới phát triển đứng vững được.
„Đâu phải bạn mang rễ, mà là rễ mang bạn!“ (Roma 11,18)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vua David
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong kinh cầu Đức Bà có câu cầu xin: „Đức Bà như lâu đài Da-vít vậy“.
Da-vít là ai mà sao lại so sánh ví như vậy ?
1. David được tuyển chọn làm vua dân Israel
Vào thời xa xưa bên Israel, các vị Vua có vai trò vị trí rất nổi bật quan trọng. Vua là cha của dân tộc, nên số phận dân tộc tùy thuộc vào nhà vua.
Nếu một vị vua cai trị dân với đức tính công bình chính trực, với nghệ thuật cao điều hành chính trị và có lòng đạo đức, cung cách của vua đó thuyế phục mang lại lòng tin tưởng nơi người dân. Và có thể nói nói được mọi sự việc diễn xảy ra tốt đẹp.
Từ căn bản được dân chúng tin tưởng, họ cho rằng vị vua đó được Thiên Chúa tuyển chọn.
Vai trò vị trí khác thường của vua thể hiện ở chỗ nữa, vua đứng là vị đại diện Thiên Chúa trước toàn dân , và ngược lại vua đại diện cho dân trước Thiên Chúa. Chính vì thế vua giữ vai trò lớn lao cho dân.
Trong các vị vua Israel của thời kinh thánh cựu ước vua David là vị vua có bao gồm những đặc điểm đó.
Nơi Kinh thánh Cựu và Tân ước không có tên vua nào được viết nói nhắc đến nhiều như vua David với 889 lần.
2. Triều đại vua David trong Kinh Thánh
David - theo tiếng Do Thái có ý nghĩa Người được yêu mến - mở mắt chào đời vào năm 1034 trước Chua giáng ở Bethlehem. Ông là người con thứ tám cũng con trai út trong gia đình Isai thuộc chi tộc Juda. Ông qua đời năm 971 trước Chúa giáng sinh ở Gierusalem. Ông làm Vua cai trị Israel từ năm 1004 đến 971 v.C.
David theo theo sách 1. và 2. Samuel, sách 1. Các Vua và sách 1. Biên niên sử của Kinh Thánh Cựu ước, là Vua của chi tộc Giuda và là người kế các vị Vua Sa-un.
Vua David sống vào năm 1000. trước Chúa giáng sinh , Ông cũng đồng thời là tác giả của nhiều Thánh Vịnh.
Vào thời trước David các Ngôn sứ tuyển chọn những người có uy tín làm trưởng tộc cai trị dân Israel. Nhưng với David thì khác, Ông là người được tuyển chọn cai trị làm vua cai trị dân và được Thiên Chúa kêu gọi cho công việc loan truyền đức tin của dân Israel vào Thiên Chúa, Đấng đồng hành ở giữa con người. (1. Samuel 16, 1-13).
Thiên Chúa sai ngôn sứ Samuel đi tìm tấn phong David làm Vua chăn dắt dân Israel theo tôn chỉ: „ Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm. Người phàm chỉ thất điều mắt thấy, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng. „ ( 1.Samuel 16,7).
Theo tôn chỉ này, người được kêu gọi tuyển chọn toàn thể bản chất của họ. Thiên Chúa kêu gọi chấp nhận mặt sáng cũng như bóng tối, khả năng cũng như những mặt trái tận sâu thẳm nơi họ.
Theo tôn chỉ Thiên Chúa đã qua Ngôn sứ Samuel tuyển chọn xức dầu phong Davis làm Vua cho dân Israel.
3. Vua David và Chúa Giêsu
Trong gia phả Chúa Giêsu do Thánnh sử Mattheo viết thuật lại Chúa Giêsu Kitô có liên quan dòng máu là con cháu thuộc dòng dõi Vua David.( Mattheo 1, 1-17)
Cây gia phả chia là ba khúc thời kỳ:Thời kỳ thứ nhất từ Tổ Abraham đến Vua David có 14 đời, thời kỳ thứ hai từ Vua Salomon đến thời bị lưu đày sang Babylon với 14 đời, và thời kỳ thứ ba từ sau thời lưu đầy đến Chúa Giêsu Kito sinh ra có 14 đời.
Con số 14 là một con số tượng trưng suy ra từ tên Vua David theo nguyên ngữ Do Thái - theo nguyên ngữ tiếng Do Thái những vần chữ tên David hợp chung lại thành số 14 : D=4, W = 6 và D= 4.
Và dựa theo tên Vua Davit, tổ tiên của Chúa Giêsu, nên gia phả cũng chia làm ba giai đoạn. Ba giai đoạn với ba lần 14 thế hệ trong lịch sử từ gốc rễ Abraham và Vua David đến Chúa Giêsu là cung ngai vĩnh cửu.
Nói đến David, như Kinh Thánh thuật lại nhớ đến một người trai trẻ thanh niên cân chiên cừu nhưng đã chiến thắng Goliath bằng mưu kế bắn dùng chiếc nỏ dây bắn viên đá giết chết Goliath dũng mãnh có gươm giáo (1.Samuel 17, 40-54).
Từ đó trong dân gian trở thành huyền thoại“ David chiến đấu chống Goliath“ muốn nói thế kẻ yếu bé nhỏ chiến đấu với kẻ dũng mạnh to lớn.
David là vị Vua có thiên tài khả năng không chỉ về cách thức cai trị dân, nhưng Ông còn là người có tâm hồn nếp sống đạo đức kính sợ Giave Thiên Chúa nữa, nên Ông đã sáng tác nhiều bài Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa đầy âm điệu thi ca cùng rất giầu hình ảnh. Ngày nay trong Kinh Thánh Cựu ước có 150 Thánh Vịnh cho là do Vua David viết sáng tác.
Và Vua David cũng được nhìn nhận là người yêu thích cùng có khả năng âm nhạc. Vì thế trong nghệ thuật Ông được vẽ khắc tượng đang chơi đàn Lục huyền cầm (Harpe(.
}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}}
Vua David cũng được tôn kính là vị Thánh trong dân gian. Trong nếp sống Giáo hội Công giáo ngày 29.12. hằng năm là ngày kính nhớ Vua Thánh David.
Câu kinh cầu ca tụng: Đức Bà như lâu đài Da-vít vậy! muốn diễn tả nói cung lòng Đức mẹ Maria đã cưu mang sinh hạ Chúa Giêsu cũng tựa như hoàng cung Vua David ngày xưa là tổ tiên của Chúa Giêsu trên trần gian.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ánh sáng trần gian - Muối cho đời!
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ xưa nay, ánh sáng và muối là nhu cầu cần thiết cho đời sống con người. Nhưng có những nơi còn sống ẩn mình trong bóng tối, và có những nơi vẫn còn thiếu chất muối gia vị cho đời sống.
Ánh sáng và muối là hai yếu tố không cho riêng mình, nhưng là yếu tố làm nên ý nghĩa khi tác dụng vào cho thành phần thứ hai. Muối là gia vị dùng cho pha chế vào thức ăn, và ánh sáng để soi chiếu cho sáng tỏ nơi bóng tối bao trùm.
Ánh sáng là yếu tố đầu tiên khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất để phân biệt với bóng tối: „Hãy có ánh sáng.“ ( Sáng Thế 1,3), cùng làm căn bản cho sự sống trong vũ trụ được phát triển.
Nơi nào ánh sáng chiếu dọi tới, nơi đó có niềm vui phấn khởi, sức sống bừng lên, và con người thích tới nơi đó. Trái lại bóng tối bao trùm tới đâu mang đến sự lo âu sợ hãi làm mất bình an.
Ánh sáng tự nó không có mục đích ý nghĩa cho chính nó. Ánh sáng dùng cho việc chiếu soi. Bóng tối càng dầy đặc, ánh sáng chiếu soi vào nơi đó càng nổi bật rõ nét. Ánh sáng xua đuổi bóng tối.
Con người trong tương quan với nhau là ánh sáng cho nhau. Ánh sáng của con người có thể xua đuổi bóng tối lo âu sợ hãi nơi người khác, khi con người giao tiếp gây niềm phấn chấn an ủi nhau, mang đến cho nhau sự tha thứ bình an.
Con người đến với nhau mang ánh sáng hòa bình tạo ra sự tin tưởng giữa nhau.
Không có muối sự sống không lành mạnh, nhưng nhiều muối qúa cũng không tốt cho sức khoẻ và còn có thể gây ra nguy hiểm cho sự sống nữa. Muối có chức năng là gia vị ướp nêm vào thức ăn cho có hương vị mặn nồng, cùng gìn giữ cho cá thịt được tươi không bị hư thối. Với dung lượng nhất định Muối trở thành chất xúc tác tẩy rửa và chữa lành.
Ngày xưa muối còn được dùng làm bản vị tiền tệ để trao đổi mua bán hàng hóa trong giao thương buôn bán. Vì thế muối một thời còn được cho là “vàng trắng“
Chúa Giêsu khẳng định:“ Các con là muối cho đời“, muốn nói người Kitô hữu phải là gia vị muối giữa lòng đời sống xã hội đang bị tục hóa xa dần các gía trị tinh thần đạo đức.
Cho nên đời sống người Kitô giáo phải là nhân chứng chất muối gia vị cho nền văn hóa gìn giữ bảo vệ những giá trị tinh thần đạo đức nơi xã hội con người.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị dịp Đại Hội giới trẻ thế giới năm 2002 , ở Canada lần XVII. đã có tâm tình với các bạn Trẻ:
„ Các con được kêu gọi bảo vệ gìn giữ chất muối cho đời từ ngày các con lãnh nhận đức tin vào Thiên Chúa và tiếp tục mang đến cho những người khác. Thời buổi đời sống các Con ngày hôm nay đặt ra nhiều thử thách cho việc gìn giữ bảo vệ Ðức Tin.
Các Con hãy đi tìm tòi khám phá nguồn rễ đức tin Kitô giáo, học hỏi về lịch sử Giáo Hội, đi sâu vào gia tài tinh thần đạo giáo lưu truyền lại cho các Con, cùng nhìn học gương sáng của những nhân chứng đức tin đã sống đi trước các con.
Chỉ khi nào các Con trung thành là sứ gỉa của Thiên Chúa, Ðấng đã chịu chết trên Thánh giá cho loài người, các Con sẽ trở thành Tông đồ môn để và chứng nhân của thiên niên ky ngàn năm mới.
Bạn Trẻ các Con được kêu gọi xây dựng một nền văn minh mới về sự thật và tình yêu giữa lòng thế giới. Vì các Con là“ ánh sáng trần gian và muối cho đời.“
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
LỄ GIAO THỪA
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Thực Hành Bát Phúc Để Trở Nên Phúc Nhân
THÁNH LỄ GIAO THỪA NĂM 2017
(Mt 5, 1-10)
Lẽ đất trời có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa. Và đây là giây phút thiêng liêng và tuyệt đẹp, trời đất giao hòa, âm dương đan dệt vào nhau, mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, nhưng cũng có một cái gì đó níu kéo lòng ta, chúng ta đang ở vào thời khắc cũ giao lại, mới đón lấy, năm cũ sang năm mới.
Trong giờ phút huyền nhiệm này, mở ra những ngày mới, giúp con người hy vọng, cậy trông và tín thác vào Đấng tác tạo cả đất trời, Đấng ấy là Cứu Chúa của chúng ta. Không gì thích hợp bằng việc chúng ta phải làm trước tiên là hướng tâm hồn lên Chúa là nguồn mạch mọi ơn phúc, để xin Ngài giáng phúc thi ân cho mọi người, mọi nhà, hầu tất cả được sống bình an và yêu thương trong sự quan phòng của Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót và thứ tha.
Lời Thánh vịnh 133,3 mới đẹp làm sao : “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion” ( Tv 133, 3 ). Lời nguyện dưới đây lôi kéo chúng ta về với Chúa, Đấng là Alpha và Ô Mêga, là Nguyên thủy và là Cùng đích: “Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh thánh” (Lời Ca nhập lễ).
Lời Môsê ngỏ với Aaron và các con ông Aaron như sợi dây lôi kéo phúc lành và bình an của Chúa xuống cho dân : “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em ! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Chúa và Chúa sẽ chúc lành cho chúng (Ds 6n 22,27). Tác giả Thánh Vịnh nói cho chúng ta biết lý do tại sao phải hướng lòng lên Chúa và van xin Ngài : “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 120, 1-2). Nếu như khi xưa thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Thêxalônica, nay ngài cũng khuyên chúng ta : “Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh” (1Tx 5,16).
Trước thềm năm mới, mỗi người chúng ta đều mang trong mình những những tâm tư và ước muốn. Ưu tư nhìn lại quá khứ, hy vọng hướng tới tương lại. Vậy giờ đây chúng ta có những tâm tình nào, ước muốn gì, chờ đời gì và nhất là nói gì với Chúa ? Chắc chắn một điều là ai cũng xin Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, rộng ban cho một năm mới phúc lộc dồi dào, và lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Chúa.
Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau đó là chúc được bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn, mà người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.
Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, nên Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng vào Ngài. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh? Huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Lời Chúa trong Thánh lễ Giao thừa minh chứng rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).
Cứ vào giây phút linh thiêng Giao thừa năm cũ chuyển giao sang năm mới, chúng ta lại có dịp nghe đọc đoạn Tin Mừng nổi tiếng của thánh Matthêu, đầy ấn tượng và hết sức ngạc nhiên, là Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Bát Phúc mà Chúa Giêsu đã công bố núi (x. 5, 1-12).
Bước sang năm mới, ai cũng mong ước những điều tốt đẹp mới từ con người đến cả tâm tư, để sống vui và hạnh phúc. Thì đây, với đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cung cấp chúng ta một mô hình sống nếu làm theo thì sẽ trở thành những người thực sự hạnh phúc.
Phải nói thật rằng, hạnh phúc chắc chắn là mục tiêu tất cả chúng ta tìm kiếm trong cuộc sống. Nếu hỏi người khác xem họ kiếm tìm hạnh phúc cho mình như thế nào, chắc sẽ có những câu trả lời rất khác nhau. Có người cho rằng, hạnh phúc ở trong gia đình, người khác cho rằng ở sức khỏe, nghề nghiệp, nhưng người khác lại tìm kiếm hạnh phúc nơi bạn bè, vui chơi và giải trí… người tiêu sài lại tìm kiếm hạnh phúc trong việc mua bán.
Tám Mối Phúc mà Chúa Giêsu trình bày, xem ra không giống với quan niệm về hạnh phúc của con người hôm nay. Cụ thể như : Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).
Sứ điệp của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn sống khiêm nhường, khao khát công chính, quan tâm đến tha nhân. Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta về mối phúc cuối cùng : “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 10). Thánh Basil nói rằng “hạnh phúc không phải do ước muốn, giầu có, quyền lực mang lại cho con người. Những thứ đó không làm cho chúng ta hạnh phúc”.
Thiên Chúa là nguồn mọi ơn phúc, và chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, Ngài cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc đích thật nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân.
Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời ! Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tạ Ơn Và Phó Thác
SUY NIỆM THÁNH LỄ TẤT NIÊN
(Is 63 7-9, 1Cr 1, 3-9, Lc 1, 39-55)
Một năm với tháng ngày dần trôi, giờ chúng ta đang sống là thời khắc cuối cùng của năm cũ 2016, năm Bính Thân và chuẩn bị bước vào năm mới 2017, năm Đinh Dậu, giờ phút thật linh thiêng. Vào dịp tạ ơn cuối năm, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđíctô XVI giải thích như sau : “Giáo hội gợi ý rằng chúng ta không nên kết thúc năm cũ mà không bày tỏ lời cảm tạ Chúa, vì những ơn lành Ngài đã thương ban”. Quả thật, do bởi tình thương mà chúng ta được hiện hữu trên đời và mỗi giây, mỗi phút, mỗi một ngày qua đi là biết bao hồng ân của Chúa tuôn đổ trên chúng ta.
Một năm sắp kết thúc, làm chúng ta liên tưởng đến sự kết thúc cuộc hành trình nơi dương thế của mỗi người. Có khởi đầu ắt sẽ có kết thúc như sách Giảng Viên dạy, “một thời để được sinh ra và một thời để chết” (Quoleth 3: 2). Sự thật này rất đơn giản và cơ bản nhưng lại thường bị lờ đi và lãng quên. Mẹ Hội Thánh dạy chúng ta, khi kết thúc một năm và mỗi ngày, chúng ta phải tự vấn lương tâm, và nhìn lại những gì đã xảy ra để tạ ơn Chúa.
Nhân loại nói chung vừa trải qua một năm với bao nhiêu ngày ghi đậm bạo lực, chết chóc, đau thương khôn tả của bao người vô tội do bọn khủng bố nhân danh Thượng Đế gây ra cho đồng loại, những người tị nạn ở Syria, Irắc, Trung Đông... buộc lòng phải rời bỏ quê hương, những con người nam nữ và trẻ em không còn gia cư nhất định, thiếu lương thực và kế sinh nhai, biết bao công trình tôn giáo bị con người tàn phá. Việt Nam nói riêng, hỏa hoạn, lũ lụt đến bây giờ vẫn chưa chấm dứt, ấy chưa kể đến những vụ giết hại anh em đồng loại cách mạn dợ. Dầu vậy cũng có bao nhiêu cử chỉ tốt lành, yêu thương và liên đới diễn ra trong những ngày tháng của năm cũ, mà không được các bản tin tức nói tới! Không thể để cho quyền lực sự ác che khuất những dấu chỉ tình thương ấy. Sự thiện luôn chiến thắng, cho dù có lúc sự thiện xem ra yếu ớt và âm thầm. Vì thế chúng ta phải dâng lời tạ ơn Chúa.
Tạ ơn
Khi thêm một năm nữa đã đến hồi kết thúc, người kitô hữu chúng ta dựa trên Thánh Kinh thấy thời gian không mang tính tuần hoàn mà là một đường thẳng: thời gian là con đường dẫn đến chung cuộc, nên một năm trôi qua là một bước đi hướng đến sự hoàn tất của lịch sử, đến cứu cánh của nhân loại là hy vọng và vui mừng được gặp Chúa, thì việc tạ ơn này thật là ý nghĩa.
Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì tất cả những dấu chỉ hào phóng Thiên Chúa thể hiện trong lịch sử nhân loại. Một lòng biết ơn không phải là một sự nhìn lại chẳng sinh ơn ích gì hay một ký ức trống rỗng về một quá khứ được lý tưởng hóa xa vời, nhưng là một ký ức sống động, một ký ức giúp hình thành nên sự sáng tạo cá nhân và cộng đoàn khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Tạ ơn Chúa là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Thiên Chúa. Trong cuộc sống, chúng ta thường quên đi những gì là ân huệ của Chúa. Và để sống tâm tình tạ ơn và phó thác vào Thiên Chúa thật không dễ chút nào!
Đi vào tâm tình tạ ơn, chúng ta nhìn nhận rằng, tội lỗi và yếu đuối đã làm ta xa rời Thiên Chúa Tình Yêu. Dù nhận thức được những điều mình phạm mất lòng Chúa, nhưng với sức con người, chúng ta khó thoát ra vòng xoáy tội lỗi. Chỉ có Chúa mới kéo chúng ta về với Chúa.
Trong giờ phút linh thiêng này, thật là đẹp, khi giờ đây chúng ta đồng thanh hiệp ý với Mẹ Maria hát lên bài ca tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã và còn đang thể hiện trong lịch sử : Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã và còn đang biểu lộ quyền năng của Ngài... đã và còn đang làm tan rã những kẻ kiêu căng... đã và còn đang hạ xuống người quyền thế... đã và còn đang nâng dậy kẻ khiêm cung... đã và còn đang ban tràn đầy ơn lành cho người đói khát... đã và còn đang đuổi người giàu có ra về tay không... đã và còn đang cứu giúp Israel Dân Người. Ðó là bảy hành động của Thiên Chúa là Chúa của lịch sử cứu độ. Thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta rằng: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5, 16-18). Chúng ta cảm tạ Chúa về ân huệ Người đã thương ban (1Cr 1, 3-9). Cảm tạ Chúa và xin Chúa thứ tha, kèm theo lòng phó thác cho Chúa năm mới sắp tới.
Xin ơn tha thứ
Cũng vào dịp cuối năm, cùng với việc tạ ơn, Đức Thánh Cha Phanxicô còn thức tỉnh con cái mình : “Chúng ta được kêu gọi kiểm điểm xem những thế sự có được thực hiện theo ý Thiên Chúa hay là chúng ta chỉ ưu tiên lắng nghe những dự án của con người, nhiều khi đầy những tư lợi, lòng khao khát quyền lực vô độ và bạo lực vô cớ” (Bài giảng Kinh Chiều cuối năm 2015). Nên chúng ta phải tạ lỗi với Chúa và với mọi người nữa. Tạ lỗi để nói lên lòng sám hối, ăn năn. Tạ lỗi về những điều thiếu sót, điều gì chưa chu toàn, điều gì chưa tốt, hoặc lỗi bác ái với tha nhân, hay chưa biết thương xót người như Chúa đã thương xót chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm trong năm qua. Tương lai tùy thuộc ở Chúa, chúng ta phải có tinh thần phó thác.
Sống phó thác
Nhìn lại một năm đã qua, chúng ta thấy các biến cố lần lượt diễn ra : các thảm kịch về tai nạn hàng không, những vụ khủng bố người giết người giã man hơn, niềm vui và đau khổ, chiến thắng và thất bại, đạo đức con người như đang bị suy giảm tới mức báo động trong các ngành nghề. Nhìn qua mọi sự, đến giờ phút này đây, chúng ta phải khẳng định rằng, Thiên Chúa là chủ lịch sử, Ngài hướng dẫn các biến cố nhân loại, đồng thời phó thác vận mệnh tương lai cho Chúa và thưa rằng: Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con được làm người, được làm con Chúa thêm một năm nữa. Xin cho đời chúng con trở thành bài ca tạ ơn Chúa bằng tâm tình sống biết ơn mọi người đang yêu thương giúp đỡ chúng con để danh Chúa được toả sáng. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Phó Thác Cho Chúa Tương Lai Đời Ta
SUY NIỆM LỄ MỒNG MỘT TẾT NĂM 2017
(Mt 6, 25-34)
Chúng ta vừa bước sang năm mới, năm Đinh Dậu, năm con gà. Con gà, đặc biệt là gà trống hiện diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Là vật nuôi từ được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại. Từ thời cổ đại, gà đã là một loài vật linh thiêng trong một số nền văn hóa và gắn chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật (vật hiến tế hay vật tế thần). Gà có vai trò quan trọng trong đời sống người dân, ở vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người ở những vùng quê êm ả. Trong văn hóa phương Đông, gà là một trong 12 con giáp với biểu tượng Dậu và cũng nằm trong lục súc.
Trong nhà đạo, có lắm chuyện về con gà, từ chuyện vui đến chuyện thật. Chúng ta cùng mở Kinh Thánh để tìm chuyện con gà, hầu có thể đem ra suy gẫm nhân ngày đầu năm mới. Nếu có gà trống nghêng ngang như sách Gióp mô tả :
“Ai làm cho cò lửa khôn ngoan,
Ai ban trí tuệ cho gà trống?” (Gióp 38,36),
Thì cũng có gà mái hiền lành luôn chăm sóc cho đàn con thơ bé. Mở Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta tìm thấy hình ảnh đàn gà mẹ con ấy được Chúa Giêsu sánh ví như là tình thương của Chúa đối với loài người : “Đã bao lần ta muốn tập họp các ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh” (Mt 23,37; Lc 13,3).
Nếu tiếng gà gáy biểu hiện một sự kêu gọi tỉnh thức trong cuộc sống thường ngày, cụ thể tại các nước Á Đông như Việt Nam, tiếng gáy của gà trống như báo hiệu nhiều may mắn và tốt đẹp cho ngày mới, thì tiếng gà làm ông Phêrô giật mình bừng tỉnh, nhớ lại lời Đức Giêsu nói tối hôm qua: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần” (x. Mt 26, 75; Mc 14, 30; Lc 22,61). Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Kể từ đó, ông Phêrô đã thống hối liên lỉ như Ngắm Đứng đã mô tả: “Lọn đời đến sớm mai gà gáy, nhớ đến tội xưa liền khóc lóc”.
Vào thế kỷ VI, Đức Giáo hoàng Grêgôriô I tuyên bố gà trống là biểu tượng của Kitô giáo. Vì thế, nhiều nhà thờ bên Âu Châu có đặt hình một con gà trống ở trên nóc. Tại Việt Nam, nhà thờ chính toà Đà Lạt cũng được gọi là “nhà thờ con gà”.
Ở các nước châu Á, con gà gắn liền với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật. Ở Việt Nam, gà là một dấu tích của văn minh nông nghiệp, thường được nhắc đến trong sách báo, hình ảnh con gà cục tác lá chanh là những nét chấm phá về một làng quê an bình với những triết lý sống nhân bản, thiên nhiên. Những nhà nho xưa cho rằng gà trống có đủ ngũ đức, gồm cả văn, vũ, nhân, trí và dũng:
Mào gà là mũ quan văn,
Cựa gà: võ khí của quan vũ tài.
Gà trống có cái dũng oai,
Xông vào địch thù đá hoài không ngơi.
Chữ nhân: khi kiếm được mồi,
Nhắc lên gà trống kêu mời mái ăn.
Chữ trí: gà biết đêm tàn,
Gáy vang báo thức cả làng tỉnh mơ.
Vì đủ ngũ đức như vậy nên gà trống có được cái oai phong lẫm liệt, uy dũng của một tổng tư lệnh điều binh khiển tướng. Sách Cách Ngôn đã tả cái dáng đường bệ của gà trống như một ông vua xuất chinh dẹp loạn.
Thôi thì cho dù năm Khỉ, Heo, Mèo, Gà thì cả tháng nay, mọi người đã sắm Tết, ăn Tết rồi. Hôm nay ngày đầu năm mới, ai cũng có cảm tưởng là có cái gì đó mơi mới, nên dùng chữ năm mới. Năm mới mọi cái đều phải mới.
Từ mấy hôm nay, chúng ta đã đi chúc tết nhau, và sẽ còn chúc tết nhau nữa. Thường người dướt tết người trên : con cháu tết ông bà cha mẹ, em tết anh chị, công nhân viên tết thủ trưởng, kèm theo món quà, tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo. Ngoài bánh chưng bánh tét, hoa đào, hoa mai… có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Muốn lời chúc của chúng ta trở thành hiện thực, hãy đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, bởi tất cả mọi sự đều do Chúa như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 36, 5).
Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí là dâng những giây phút đầu năm cho Thiên Chúa. Người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới. Lời nguyện nhập lễ chúng ta xin :" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài" (Tv 66, 2-3). Chúa mới chính là gia nghiệp, là cùng đích mà con người cần phải kiếm tìm và đó cũng chính là sự tồn tại của con người.
“Các con chớ áy náy về ngày mai” (Mt 6,34). Chúa luôn muốn mọi người nghĩ đến hạnh phúc mai hậu của sống mình. Tương lai mỗi người đều nằm trong tay Thiên Chúa. Với tình thương và lòng nhân hậu của Ngài, chúng ta luôn tin tưởng và phó thác, bởi Ngài là người Cha luôn muốn những điều tốt nhất cho con cái. Lo lắng, bận rộn, tất bật làm việc để tích luỹ và để bảo đảm cho tương lai… tất cả đều tốt và cần thiết, nhưng cũng nên nhớ một điều “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”. Hãy làm tốt bao nhiêu có thể, những bổn phận và trách nhiệm của mình, phần còn lại hãy phó thác trong tay quan phòng của Thiên Chúa. Ngài sẽ hoàn tất những gì còn lại.
Kinh Thánh còn có những câu khác nói đến con gà trong năm mới Đinh Dậu. Nhưng thiết nghĩ trưng ra mấy câu trên cũng đủ chứng tỏ con vật cầm tinh trong năm Dậu cũng đã được Thánh Kinh nhắc đến.
Kính chúc mọi người một năm mới con gà đầy tràn ngũ đức: văn, vũ, nhân, trí, dũng, những đức tính mà các cụ xưa đã ca tụng con gà trống. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Người Công Giáo VN làm gì trong những ngày Tết?
- Viết bởi Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Người Công Giáo Việt Nam làm gì trong những ngày Tết?
Tết là khoảng thời gian đặc biệt mà người công giáo Việt Nam muốn dành cho Thiên Chúa, cho gia đình và cho tha nhân. Ngoài những phong tục truyền thống của ngày tết như chúc tết, xông đất, mừng tuổi hay mâm cỗ, người Công giáo không quên Thiên Chúa luôn là mùa xuân của mỗi người. Bởi đó, ta thấy những thánh lễ, buổi nguyện cầu thật thiêng liêng đầm ấm của người Công giáo nơi giáo đường, trong gia đình, và trong từng lời chúc.
Đã từ lâu, đêm giao thừa luôn là đêm thánh thiêng của mọi người. Cách riêng, người Công giáo thường tham dự thánh lễ nửa đêm: Lễ giao thừa. Họ tề tựu nơi nhà thờ để cùng nhau cầu nguyện và tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa đã luôn yêu thương và chăm sóc cho mỗi người trong năm tháng vừa qua; đồng thời ai ai cũng ước nguyện cho mình và gia đình sẵn sàng bước sang năm mới với nhiều hạnh phúc bình an. Sau thánh lễ đêm giao thừa, mỗi gia đình trở về nhà mình để chia sẻ những câu chuyện cuối năm. Họ muốn ngồi lại bên Chúa và cùng nhau hàn huyên tâm sự những gì đã xảy ra trong năm qua, nói lên những ước vọng trong năm mới. Và do đó, đêm cuối năm bao giờ cũng thật ấm cúng dành cho mỗi người khi họ cùng với Thiên Chúa đón thời khắc giao thừa.
Ngày quan trọng nhất của mùa xuân bao giờ cũng là Mùng Một Tết. Bầu không khí trong lành, tiếng chim hót líu lo, và muôn hoa khoe sắc khiến lòng người rộn ràng thêm vui trong ngày đầu năm. Chúc mừng năm mới! Sáng mùng một tết, người công giáo dành thánh lễ đầu năm để chúc tụng Thiên Chúa. Họ ý thức Thiên Chúa luôn làm chủ thời gian, làm chủ cuộc đời mỗi người. Trong thánh lễ sáng nay, mỗi người tạ ơn Chúa thương ban thêm một năm mới an lành; đồng thời ai cũng cầu xin Chúa ban cho bản thân, gia đình và mọi người được mạnh khỏe, hạnh phúc và bình an. Họ ước sao càng thêm tuổi càng thêm nhân đức, và sống làm sao trong năm mới này cho Danh Thiên Chúa được cả sáng hơn.
Ngoài ra, thời gian thánh thiêng nơi giáo đường sáng nay cũng để mọi người hái Lộc Xuân. Đó là những câu lời Chúa hướng dẫn họ sống một năm mới tròn đầy. Trong ngày đầu xuân, người người cùng chúc cho nhau muôn vàn ân phúc, nguyện mong Thiên Chúa luôn là mùa xuân của mỗi người.
Ngày Mồng Hai Tết là thời gian đặc biệt để cháu con báo hiếu với ông bà cha mẹ, với tiền nhân. Trong thánh lễ Mùng Hai này, họ cầu nguyện đặc biệt cho ông bà, cha mẹ và tổ tiên của họ. Là người con hiếu thảo, họ xin Chúa trả công bội hậu cho những đấng bậc đã sinh thành dưỡng dục họ. Con cháu ước mong cha mẹ, ông bà sống lâu bên con cháu, nên những bóng mát cho con cháu nương nhờ. Đặc biệt mỗi người con, người cháu xin Chúa cho mình sống làm sao để xứng đáng với đạo nghĩa gia phong mà tiền nhân đã son sắt giữ gìn. Cũng vậy, ông bà cha mẹ nguyện xin Thiên Chúa ban cho con cháu hồn an xác mạnh, sống tin yêu Thiên Chúa mỗi ngày một hơn.
Nếu những ngày năm mới người người chúc cho nhau làm ăn phát đạt, thì người Công giáo dành cả một thánh lễ Mồng Ba Tết để cầu mùa. Trong thánh lễ này, họ tin Thiên Chúa là đấng làm chủ thiên nhiên, ban cho họ một năm mới với nhiều huê lợi, được mùa. Ai cũng xin Chúa ban ơn trợ giúp để công ăn việc làm trong năm mới được thuận buồm xuôi gió. Công việc ổn định và cuộc sống ấm no hạnh phúc luôn là ước vọng chính đáng của mỗi người. Chắc hẳn Thiên Chúa không quên những ước nguyện đầu năm đầy chân thành của mỗi người. Do đó, ai cũng hy vọng một năm mới với nhiều ơn lành của Chúa, từng dự định của mỗi người sẽ gặp nhiều thuận lợi, vận may.
Thật ý nghĩa và dễ thương biết bao khi người Công giáo chúc cho nhau những điều tốt đẹp đến từ Thiên Chúa. Những ngày xuân tay bắt mặt mừng, họ cầu mong cho người thân, bạn bè nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Trong từng câu chúc, họ tin vào bàn tay quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa. Khi đó, niềm vui của ngày xuân luôn lan tỏa đến từng người mà họ có dịp gặp gỡ, chuyện trò.
Ước mong trong những ngày xuân năm nay, ai cũng hướng đến truyền thống xuân tốt lành của dân tộc. Đồng thời, mỗi người xin Thiên Chúa gieo ánh xuân với muôn vàn ơn lành. Để xuân năm nay, ai cũng được Thiên Chúa ở cùng, được vui xuân trọn vẹn và được một năm mới bình an!
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
(dongten.net 23.01.2017)