Hình ảnh con cá
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Một trường công lập ở thủ đô Berlin bên Đức đã không phép cho một cô giáo được đeo dây ở cổ có hình thập gía trong khi dậy học ở nhà trường. Lý do vì nhà trường của chính phủ áp dụng theo luật lệ trung lập mà thành phố Berlin về phương diện chính trị đã biểu quyết ban hành.
Sự kiện này gây nên những phản ứng khó chịu nơi dân chúng… Cô giáo viên này thay vì đeo hình thập gía vào sợi dây chuyền, đã lấy hình con cá đeo thế vào đó.
Phải chăng đó là kiểu cách tránh né để khỏi bị luật lệ pháp luật gây khó dễ, và biết đâu cũng có thể là một hình thức trang sức cho đẹp???
Nhưng về phương diện đạo Kitô giáo dấu hiệu con cá lại mang một ý nghĩa đạo đức thần học cùng lịch sử sâu xa nền tảng trong Kinh Thánh.
Vậy đâu là ý nghĩa thần học đạo đức ẩn chứa nơi dấu hiệu hình ảnh con cá?
Khi tạo dựng công trình thiên nhiên, vào ngày tạo dựng thứ sáu Thiên Chúa tạo dựng nên con người và nói với con người:“ Hãy làm bá chủ cá biển.“ (St 1, 28).
Khi ra rao giảng nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã kêu gọi các Môn đệ làm người cộng sự: „ Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. ( Mt 4,19)
Khi làm phép lạ cho 5000 người ăn: Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người.“ ( Mc 6, 41).
Khi hiện ra với các Môn đệ bên bờ hồ Chúa Giêsu hỏi các Ông: „Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy ăn trước mặt các ông.“ ( Lk 24, 42-43)
Trong ngôn ngữ Hy lạp chữ cá được viết:ICHTHYS, iχθύς
Từ 5 mẫu tự của chữ Ichtys người ta đọc viết ra tước hiệu của Chúa Giêsu Kitô con Thiên Chúa, vị cứu tinh:
Ἰησοῦς Χριστός Θεοῦ Υἱός Σωτήρ:
• ἸΗΣΟ˜ΥΣ — Iēsoũs - Ιησούς- Jesus
• ΧΡΙΣΤῸΣ — Christós „Christus“ - Người đựơc xức dầu
• ΘΕΟ˜Υ — Theoũ (neugr. Θεού theoú) - Tjiên Chúa
• ΥἹῸΣ — Hyiós - Υιός Iós - người con
• ΣΩΤΉΡ — Sōtḗr (Σωτήρας Sotíras) - vị cứu tinh
Hình con cá là ký hiệu bí ẩn - mật- của người tín hữu Kitô Giáo ngày xưa thời đạo Công gíao bị bắt bớ bách hại ở những thế kỷ đầu tiên ở Roma. Cứ theo dấu hiệu hình con cá mà họ nhận ra là những người Kitô giáo. Ngày nay khi thăm viếng những hang toại đạo bên Roma còn thấy có những hình con cá khắc hay vẽ trên tường hay nơi phần mộ.
Con cá là loài sinh vật làm lương thực nuôi sống con người được Thiên Chúa tạo thành trong thiên nhiên, nhưng nó lại trở thành một hình ảnh không nói lời gì tương xứng với hình ảnh nếp sống lòng khiêm nhượng của một con người. Hình ảnh này mang ý nghĩa rất sâu đậm chỉ về Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu Kitô là Ngôi hai Thiên Chúa đã trở thành người trên trần gian. Khiêm hạ như con cá , Ngài chấp nhận số phận của con người, và chịu để cho con người hành hạ kết án đóng đinh vào thập gía cho đến chết. Sự hy sinh quên mình của Ngài mang đến ơn cứu độ phần linh hồn cho mọi người trên trần gian, và sự tưởng nhớ cái chết sự hy sinh của ngài trong Bí tích Thánh Thể bánh và rượu thành Mình và Máu là lương thực cho đức tin tâm hồn con người.
Để nuôi đoàn người đang đói khát, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa ra nhiều làm lương thực nuôi sống 5000 người khi xưa.
Giáo phụ Tertulian, sống vào khoảng năm 200 sau Chúa giáng sinh, đã diễn tả người nhận lãnh làn Bí tích rửa tội như là con cá nhỏ được sinh ra từ con cá (lớn) Chúa Giêsu Kitô.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Sùng kính Đức mẹ Maria
- Viết bởi Dân Chúa
Một linh mục người Đức có nhận xét: „Người Công giáo Việt Nam có cung cách giữ đức tin sống sùng kính Đức Mẹ sốt sắng tuyệt vời, nhưng như nhiều cùng cao hơn Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô! „
Nhận xét riêng tư này gợi suy nghĩ.
Vì lẽ gì chúng ta có cung cách lòng sùng kính Đức Mẹ cách sốt sắng trọng thể sâu xa đến nỗi gợi nên ấn tượng nhận xét như thế?
Chúng ta có cung cách sống lòng sùng kính Đức mẹ Maria, nhưng vẫn hằng tâm niệm: qua Đức mẹ đến với Chúa Giêsu.
Và tin tưởng rằng: Đức mẹ Maria đã trao tặng chúng ta món qùa mang đến sự an vui cho tâm hồn đời sống là Chúa Giêsu Kitô.
Qua sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có được ơn cứu độ. Chúa Giêsu ban tặng con người ân phúc và niềm vui ơn cứu độ, cùng được làm con Thiên Chúa, Đấng là Cha con người.
Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, người mẹ săn sóc đến sự an vui con mình, hằng chú ý sao cho những người con mình được sống trong gìn giữ che chở yêu thương.
Người mẹ nào cũng vậy không chỉ sinh thành ra con mình, nhưng lúc nào cũng hằng nuôi dưỡng giúp con mình lớn lên khoẻ mạnh trưởng thành về thân xác lẫn tinh thần trí khôn.
Người mẹ làm công việc này với cả tấm lòng trách nhiệm chan chứa tình yêu thương.
Người mẹ làm công việc này giúp con mình không chỉ lớn lên về thân xác, nhưng còn uốn nắn hướng dẫn đời sống tinh thần con mình sống theo lý tưởng cao đẹp trở nên người tốt hữu ích, biết phân biệt lựa chọn sự tốt lành, xa từ bỏ sự dữ điều xấu, sống có trách nhiệm cho chính bản thân và cho gia đình xã hội cùng Cộng đoàn Giáo hội.
Người mẹ làm công việc này với cả tấm lòng chan chứa niềm vui hạnh phúc, dẫn dắt con mình biết phấn đấu vượt qua khó khăn đến thành công từ lúc còn nhỏ tuổi, cùng mong sao cho đời sống con mình có niềm vui hạnh phúc.
Chúa Giêsu khi còn thơ ấu sống ở nhà với Đức mẹ ở quê nhà làng Nazareth cho đến khi trưởng thành đi vào trường đời, như Kinh Thánh viết thuật lại:“ Còn Hài Nhi Giêsu ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.“ ( Lc 2,40).
Đức mẹ Maria, người mẹ thiêng liêng trên trời của con người cũng quan tâm săn sóc chúng ta như vậy, khi con người với lòng tin tưởng chạy đến kêu khấn cùng người xin ơn phù giúp.
Lòng sùng kính Đức Mẹ, người mẹ thiêng liêng trên trời, cho dù nhiều khi cung cách bên ngoài đưa đến cảm tưởng trọng thể rực rỡ. Nhưng không vì thế mà quên Thiên Chúa, bỏ Thánh giá Chúa Giêsu sang một bên hay cho thấp bé hơn, để Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là hơi thở sự sống bị rơi vào quên lãng.
Trái lại, đó là tâm tình lòng biết ơn mẹ Thiên Chúa, cùng xin Đức mẹ cầu thay nguyện giúp cho trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi ân đức chúc phúc lành.
Tháng hoa kính Đức mẹ Maria
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày hành hương bên dòng suối Đức Mẹ Banneux
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đức Thánh Cha Phanxico hằng khuyến khuyến khích cổ võ việc đạo đức hành hương : ”hành hương là một lòng đạo đức bình dân, là một hình thức chân thực loan báo Tin Mừng, luôn luôn cần được cổ võ và đề cao giá trị. Tại các đền thánh, tín hữu sống một linh đạo sâu xa, một lòng đạo đức từ bao thế kỷ đã nhào nặn đức tin với những lòng sùng mộ đơn sơ nhưng rất có ý nghĩa”.
Người Công Giáo Việt Nam xưa nay sống lòng sùng kính Đức Mẹ Maria rất sâu đậm thân thiết. Vì thế từ nhiểu năm nay, vào Tháng Năm, tháng hoa kính Đức Mẹ họ kéo về thánh địa Đức mẹ Banneux hành hương kính mừng Đức mẹ Chúa Trời.
Từ những năm qua (2010- 2017) vào ngày chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm, tháng hoa kính Đức Mẹ Maria - Ở nhiều nước bên Âu châu ngày chúa nhật thứ hai tháng Năm cũng là ngày hiền mẫu nhớ ơn người mẹ sinh thành con người theo phong tục văn hóa xã hội .
Năm nay vào ngày chúa nhật 14.05.2017 từ 10.00 giờ hàng ngàn người từ khắp các nước Bỉ, Đức, Hòalan, Anh quốc, Lụcxâmbảo, Pháp đã về bên dòng suối nước Đức Mẹ Banneux.
1. Cộng đoàn Công giáo Bruexelles Vương quốc Bỉ với Cha Phanxico Nguyễn Xuyên.
2. Cộng đoàn Nữ vương các Thánh tử đạo bên Hòa Lan với Cha Giuse Trần đức Hưng.
3. Cộng đoàn Công giáo vùng Paderborn Essen bên Đức với Cha Phanxico Nguyễn ngọc Thủy
4. Cộng đoàn Công giáo vùng Frankfurt Mannheim bên Đức với cha Daminh Trần mạnh Nam
5. Cộng đoàn Công giáo vùng Muenster Osnabrueck bên Đức với Cha Giuse Huỳnh công Hạnh
6. Cộng đoàn Công giáo CDCG VN vùng Lilles bên Phàp với hai Cha Daminh Thanh Lương và cha Giuse Hữu Phước.
7. Cộng đoàn Công giáo Luxemburg với Cha Gioan Lê Trung
8. Cộng đoàn Công giáo Giáo xứ London bên Anh Quốc, với Cha Simon Nguyễn đức Thắng.
9. Cộng đoàn Công giáo Wien bên Áo với cha Phaolo Lê tấn Kính
10. Các Cộng đoàn Công giáo vùng Courtrais và Anvers bên Bỉ với Cha Joakim Nguyễn ngọc Tám.
11. Phong trào Tông đồ Fatima với Cha Giuse Lê văn Thắng
12. Cộng đoàn Công giáo Liege bên Bỉ
13. Cha Jean Maie Bùi văn Tráng bên Bỉ
14. Cha cố Phero Nguyễn trọng Qúy, bên Đức
15. Cha bề trên Dòng Xitô Giuse Trần thanh Hải, bên Đức
16. Cha Raphael Mai quang Khoa, cùng ba Thầy Dòng Xitô, bên Đức.
17. Cha Ignatio Đoàn như Qúy thuộc giáo Phận hải Phòng Việt Nam
18. Cha Phaolo Đào văn Thạnh, bên Bỉ
19. Cha Gioan Nguyễn văn Thông, bên Hòa Lan.
20. Cha Martino Vũ quốc Vinh, Dòng Ngôi Lời bên Đức.
21. Cộng đoàn Công giáo vùng Saarland giáo phận Trier bên Đức
22. Các Sơ Dòng Mến Thánh Gía Louvain bên Bỉ và Bon bên Đức.
19. Và Giáo đoàn Đức Mẹ Lavang Koeln Aachen bên Đức với cha Daminh Nguyễn ngọc Long.
Xin chúc mừng các Cha:
Cha Phanxico Nguyễn Xuyên mừng 35 năm thụ phong Linh mục
Cha Giuse Trần đức Hưng mừng ngân khách Linh mục
Và Cha Giuse Huyền công Hạnh mừng ngân khánh Linh mục.
Kéo về thánh địa Banneux hành hương kính viếng Đức mẹ Maria, người mẹ trên trời xin ơn phù giúp cho bản thân, cho gia đình. Nhưng không quên công ơn sinh thành dưỡng dục của các người mẹ chúng ta trên trần gian. Xin chúc mừng các người mẹ nhân ngày hiền mẫu nhớ ơn mẹ theo tập tục văn hóa xã hội.
Ngày hành hương
Ngày hành hương như từ những năm qua ( 2010-2017), khởi đầu bằng cuộc rước Đức Mẹ Banneux và di tích xương thánh các Thánh Tử Đạo Việt Nam đi vòng xuyên qua khu rừng có 15 chặng đàng Thánh gía tiến vào nhà thờ lớn tước hiệu Đức Mẹ của người nghèo .
Đòan tín hữu Chúa Kitô hàng ngàn người bước đi theo con đường dài trong rửng thông tiến vào nhà thờ Đức mẹ của người nghèo.
10.45 giờ đoàn rước bắt đầu theo con đường trong khu rừng có 15 chặng suy ngắm đàng thánh gía Chúa Giêsu. Nơi dòng suối nước Đức Mẹ Banneux, đoàn kiệu dừng lại suy niệm và ca tụng Đức Mẹ là suối nước trong.
Đoàn kiệu uốn khúc đến trạm dừng chân thứ hai suy niệm và ca khen nhân đức anh hùng thánh đức của các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Đến trạm thứ ba đoàn kiệu dừng lại tưởng nhớ tới 100 năm Đức mẹ hiện ra ở Fatima, mọi người đọc kinh dâng nước Việt Nam cho trái tim Đức Mẹ và hát bài Năm xưa trên cây sồi làng Fatima xa xôi….
Sau cùng đoàn kiệu vào tới thánh đường chính của trung tâm hành hương: Đức Mẹ của người nghèo . Ngôi thánh đường lớn này có đủ chỗ ghế ngồi cho 5.000 người.
Trước Thánh lể các em thiếu nhi Giáo Đoàn Đức mẹ Lavang và cộng đòan Lilles dâng hoa kính mừng Đức mẹ Chúa trời hiển vinh
Sau phần rước kiệu tôn kính Đức Mẹ và di tích xương các Thánh tử đạo Việt Nam ngoài trời trong khu rừng là phần thánh lễ Misa lúc 12.00 giờ như cao điểm của ngày hành hương tại ngôi nhà thờ lớn này.
Mọi người dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Đức Mẹ, cùng cầu Thiên Chúa và Đức mẹ chúc phúc lành phù hộ cho bản thân mỗi người, cho Giáo Hội, cho quê hương đất nước dân tộc Việt Nam, cho các gia đình, cho con em bạn trẻ, và cho các người thân yêu đã đi về cùng Chúa.
Sau phần thánh lễ là giờ mọi người gặp gỡ nhau khoảng 14.30 giờ trong bữa ăn trưa tự túc mang theo. Đây có thể nói được là một kiểu „ picnic“ tự động, mọi gia đình, mọi nhóm đứng ngồi nơi các gốc cây, chỗ có ghế ngồi, chỗ tảng đá...cùng chia sẻ với nhau bữa ăn huynh đệ tình người. Thật là một cảnh nhộn nhịp mầu sắc, mang sâu đậm hương vị ấm cúng giữa con người với nhau quanh bữa ăn dã chiến giữa trời thinh không bên bóng che chở của Đức Mẹ.
Đến 15.30 giờ đi viếng chặng đường thánh giá Chúa Giêsu trong khu rừng. Và ngày hành hương kết thúc lúc 16.30 giờ trong nhà thờ lớn Đức Mẹ của người nghèo với buổi Chầu Thánh Thể và hôn kính Xương các Thánh tử đạo Việt Nam.
Ngày hành hương Đức Mẹ Banneux từ 10.00 giờ sáng tới 17.30 chiều ngắn gọn đơn giản. Nhưng diễn ra trong không khí đạo đức truyền thống long trọng sầm uất cùng chan chứa tình tự con người với Thiên Chúa, với Đức Mẹ và với nhau.
Năm 1933 Đức Mẹ Maria đã hiện ra và đã dẫn Mariette theo con đường ra đến dòng suối nước. Trên con đường nảy Đức mẹ đã dẫn Mariette đi, Đức Mẹ đi trước quay mặt về phía Mariette cùng những người đi theo sau. Điều này nói lên, Đức Mẹ hằng quan tâm đến mọi người, nhìn cùng lắng nghe tâm sự của con người. Và cũng do cung cách Đức Mẹ đã làm như thế, nên ở thánh địa Banneux, kiệu tượng Đức mẹ Banneux đi trước mặt quay về phía người tín hữu đi theo sau kiệu. Đây là một đặc điểm riêng ở thánh địa Banneux, và hầu như không thấy có ở nơi nào khác.
Năm nay hơn 6.000 người tín hữu Chúa Kitô từ khắp các nước trong Âu Châu gồm đủ mọi thành phần dân Chúa, 22 linh mục, các Tu sỹ nam nữ, người lớn tuổi, bậc trung niên, bạn trẻ, thanh thiếu niên, thiếu nhi, người khoẻ mạnh, người đau yếu, và có cả những người không Công giáo cũng đi hành hương với.
Thật là cảnh tượng của một buổi lễ hùng vĩ tráng lệ đạo đức, cùng uy nghi cảm động. Đây là một bài giảng sâu sắc hùng hồn sống động của hàng ngàn trái tim tâm hồn con người hôm nay đã cùng diễn giảng tình yêu lòng thương xót cao cả của Thiên Chúa và của Đức Mẹ, Đấng là Mẹ Thiên Chúa và con người rồi.
Bài giảng này là một bài giảng thoát ra từ tâm hồn lòng yêu mến, lòng cung kính và nguyện cầu của con người. Như thế còn gì thần học đạo đức thân thiết với đời sống bằng, còn gì văn chương cao đẹp hơn cùng thời sự sống động sâu sắc hay hơn nữa.
Tấm lòng chân tình
Xin ca ngợi cảm phục tấm lòng đạo đức của mọi người đã về cùng hành hương kính Đức Mẹ Banneux hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Xin nói lên lời hoan hô cùng cám ơn tinh thần nét sống trẻ trung phấn khởi của các em thiếu nhi đội Dâng Hoa, các em hội Giúp Lễ, các bạn Trẻ đã cùng tham dự ca hát, diễn xuất làm cho buổi lễ hành hương có mầu sắc trăm hoa đua nở sống động. Đây có thể nói được là một bài giảng sống động khởi sắc, mà các con em bạn trẻ chúng ta đã cùng rao giảng làm chứng cho vẻ đẹp xuân xanh tươi tốt trong khu vườn của Thiên Chúa ở trần gian.
Hằng năm mọi người về hàng hương thánh địa Đức mẹ Banneux với tâm hồn song kính cùng vui mừng cầu khẩn, họ mang theo thực phẩm nước uống không chỉ cho mình, cho gia đình mà còn có tấm lòng hiếu khách mời người khác cùng ăn uống nữa. Thật là một không khí thấm đậm tình người.
Và đặc biệt hơn nữa ai nấy đều tự trọng không xả vứt rác trên bãi cỏ, trên đường đi… Nhưng họ ý thức thu gom tất cả hoặc đem vứt thùng rác công cộng hoặc đem về nhà. Đây là nét sống văn hóa vệ sinh tốt đẹp. Nó vừa bảo vệ giữ cho môi trường công trình thiên nhiên được sạch sẽ , vừa tạo nên khung cảnh thẩm mỹ cho thánh địa linh thiêng Banneux.
Xin cám ơn sự hy sinh dấn thân của các Linh mục, các anh chị trong Ban tổ chức đã nỗ lực quảng đại cho việc chung, việc đạo đức kính thờ Thiên Chúa, mừng kính Đức Mẹ Maria cùng tôn vinh các Thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta.
Trước hết và sau hết xin cúi đầu chắp đôi tay nguyện cầu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, cùng cám ơn Đức Mẹ đã ban ân đức chúc phúc lành cho ngày thánh mẫu hành hương Đức Mẹ Banneux được diễn ra tốt đẹp, như lòng mong ước của chúng ta.
Năm tới, chúng ta cũng cùng hẹn nhau vào ngày Chúa nhật 13.05.2018 lại trẩy về thánh địa Banneux hành hương kính Đức Mẹ Banneux lần thứ IX.
Thánh địa Banneux, ngày 14.05.2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người ai cũng muốn được sống khoẻ mạnh. Nhưng nào đã có ai chưa một lần nào không có đau bệnh nặng hay nhẹ. Và khi đau bệnh ai cũng mong muốn sao cho mau được lành bệnh khoẻ mạnh trở lại.
Lẽ dĩ nhiên, khi có đau bệnh dùng thuốc uống, đến bác sĩ nhà thương để được chữa trị. Nhưng không chỉ đau bệnh về thân thể, mà còn ảnh hưởng đến tinh thần nữa. Bệnh về lãnh vực tinh thần đâu có thuốc chữa trị. Niềm tin là phương thuốc chữa trị hiệu nghiệm kết qủa tốt chữa lành đau bệnh tinh thần.
Chính vì thế, xưa nay con người một mặt dùng thuốc, một mặt vẫn hằng cầu khấn kêu xin ơn Trên chữa lành cho khỏi đau bệnh, nhất là cơn đau bệnh nặng trầm trọng.
Người Công giáo tin vào Thiên Chúa là nguồn ơn chữa lành bệnh tinh thần cũng như thể xác cho con người. Vì Ngài là Đấng dựng nên con người, nuôi dưỡng con người, thương yêu con người.
Và họ cũng tin rằng lời cầu xin ơn chữa lành bệnh , nếu được Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa chuyển cầu phù hộ, được Thiên Chúa dễ nhậm lời hơn. Vì thế, chúng ta thường hay chạy đến kêu xin Đức mẹ phù hộ cho, như lòng tin tường: Đức bà cứu kẻ liệt, kẻ khốn!
Đến với Đức mẹ Maria trong tâm hồn, nơi bàn thờ ở nhà tư, ở thánh đường và nơi trung tâm hành hương kính Đức Mẹ khắp nơi trên thế giới.
Ở Âu châu có nhiều trung tâm hành hương kính viếng Đức Mẹ Maria, như Lourdes ở Pháp, Fatima ở Bồ đào nha, Loreto bên Ý, Đức Mẹ đen Tschenstochau, ibên Balan...
Bên vương quốc Bỉ có thánh địa Banneux, nơi là trung tâm hành hương kính viếng Đức mẹ Maria. So với các thánh địa trung tâm khác ở Âu châu, thánh địa Banneux còn trẻ mới có từ năm 1933. Trung tâm hành hương kính Đức mẹ Banneux này có biệt hiệu „ Đức mẹ của người nghèo“.. Nghèo không chỉ về của cải vật chất, nhưng còn nghèo về tinh thần, nhất là nghèo vì đời sống yếu đuối hay đau bệnh moing cần được xoa dịu chữa trị.
1. Lịch sử địa lý
Về địa dư, Banneux là một làng nhỏ miền thôn quê cách thành phố lớn Liege 20 cây số, thuộc về vùng cao nguyên Ardene. Thành phố Liege là trung tâm văn hóa của miền Wallonien vương quốc Bỉ nói tiếng Pháp, nơi đây có tòa Giám mục, có trường đại học, có kỹ nghệ nặng, có sân bay, có đường xe lửa nối liền sang các nước lân bang...
Vào năm 1933 làng Banneux có hơn 300 người dân cư. Những người dân sinh sống nơi đây làm nghề nông nghiệp. Họ có đời sống yên tĩnh thanh bình nhưng nghèo. Vì là một làng nhỏ, nên Banneux không là một xứ đạo Công gíao riêng, nhưng là một họ lẻ có cha phó lo việc mục vụ thôi.
Dẫu vậy, Bannuex lại trở thành trung tâm điểm thu hút mọi người không chỉ ở nước Bỉ, mà ngày nay còn trên khắp thế giới nữa. Banneux trở nên nổi danh là nhờ có Đức Mẹ Maria hiện ra với cô bé Mariette Beco năm 1933.
2. Lịch sử Đức Mẹ Banneux.
Gia đình Beco là một gia đình nghèo sống ở ven bờ khu rừng trong làng Banneux.
2.1. Hiện ra lần thứ nhất
Ngày 15.01.1933 từ cửa sổ nhà Mariette Beco, lúc đó cô lên 11 tuổi, vào lúc tối trời nhìn thấy một người phụ nữ tỏa ánh sáng lung linh ở ngoài vườn. Hồi hộp Mariette gọi mẹ mình và nói reo lên: „Con thấy một Bà trong vườn nhà mình kìa.“ Mẹ Mariette Beco cũng nhìn thấy thế, nhưng cho là „một mụ phù thủy“ , rồi làm ngơ thúc dục con vào giường đi ngủ. Bà đóng cửa sổ lại. Mariette bắt đầu đọc kinh cầu nguyện và rồi trở lại nơi cửa sổ. Nhưng ánh sáng Bà lạ đã biến mất. Đó là lần thứ nhất Đức Mẹ hiện ra trong khu vườn nhà Beco.
Mariette Beco là con gái lớn trong gia đình. Từ ba tháng trước đó Mariette, theo lời mẹ của Mariette kể lại, không đi tham dự thánh lễ ở thờ, không đi học Giáo lý xưng tội rước lễ lần đầu, và cũng chẳng đọc kinh cầu nguyện nữa. Mariette là một đứa trẻ có đời sống tâm linh không sốt sắng đạo đức.
Nhưng qua biến cố nhìn thấy Bà lạ với ánh sáng trong vườn, Mariette đã thay đổi đời sống ngược hẳn lại. Lúc 07.30 giờ ngày hôm sau Mariette thức dậy đi đến nhà thờ tham dự Thánh lễ Misa và đi học giáo lý với cha phó Jamin. Cha phó thấy Mariette đến, ông rất đỗi kinh ngạc.
Cha phó ngạc nhiên, vì nghĩ rằng Marette không học giáo lý xưng tội lần đầu nữa. Mariette chỉ đến học thời gian trước đây rất bất thường họa hiếm. Việc Mariette bê trễ như thế có lý do, vì cô là con gái lớn trong gia đình có bảy người con. Nên cô phải lo phụ giúp mẹ việc trong nhà, mà mẹ cô lại hay đau yếu không được khoẻ. Còn cha Mariette là người dửng dưng đã quyết định con gái mình không bắt buộc phải tiếp nhận Bí Tích Rước Lễ lần đầu.
Cha phó Jamin ngạc nhiên, vì trước đây nửa tháng trước đó ngài đã tới Beauraing trong nước Bỉ, nơi Đức Mẹ cũng đã hiện ra trong khoảng từ ngày 29.11.1932 đến 03.01.1033 với năm trẻ em. Nơi đó cha phó Jamin cùng nhóm hành hương đã làm tuần chín ngày cầu nguyện xin cho đời sống đức tin trong xứ đạo Banneux được đổi mới sốt sắng việc đạo đức kính mến thờ phượng Chúa. Nhưng ngài đâu có nghĩ tới việc ăn năn trở lại của một người trong xứ có đời sống đạo nguội lạnh thờ ơ với đạo nghĩa nhà thờ đâu.
2. 2. Lần hiện ra thứ hai
Ngày 18.01.1933 lúc 19.00 giờ Mariette ra ngoài vườn qùy gối hai tay chắp lại. Cha cô thấy thế chạy lại gần đánh thức cô cho khỏi cơn mê ngất trí cùng làm cho cô bớt sợ hãi. Nhưng Mariette không màng chi tới hành động của cha mình lúc đó. Ông chạy đi báo cho cha phó Jamin, nhưng không gặp được cha phó.
Mariette đứng dậy đi ra khỏi vườn theo chân Bà lạ gọi dẫn đường. Hai lần Mariette té qùy xuống nền đường tuyết phủ đóng cứng. Lần ngã qùy thứ ba bên vệ đường nơi có vũng nước chảy ra từ một nguồn nước ngầm.
Bà lạ nói với Mariette:“ Con hãy nhúng đôi tay con vào nước này „. Mariette ngoan ngoãn làm theo lời chỉ dạy nhúng hai tay vào vũng nước lạnh buốt xuống tận đáy sâu. Và khi làm như thế Mariette để rơi cỗ tràng hạt, nhưng ngày hôm sau tìm lại được. Mariette nhắc lại lời Bà lạ đã nói với mình:“ Dòng nước này dành cho con. Chúc con một buổi chiều tối an bình. Tạm biệt con.“
Ngay buổi chiều hôm đó cha phó Jamin được nói cho biết sự thể đã diễn biến xảy ra với Mariette. Ông đã tới nhà Beco thăm gia đình. Cha của Mariette nói với cha phó:“ ngày mai con sẽ đi xưng tội và rước lễ.“ Đây là việc ăn năn trở lại thứ hai.
2. 3. Lần hiện ra thứ ba.
Thứ năm ngày 19.01.1933 thời tiết ngoài trời rất xấu. Mariette ra qùy gối trên một lối đi nhỏ hẹp trong vườn. Lúc đó vào khoảng 19.00 giờ và có 06 người cùng theo Mariette.
Bà lạ xuất hiện, Mariette hỏi: „ Thưa Bà đẹp, bà là ai vậy?“ „ Ta là người mẹ của người nghèo“. Mariette nhắc lạ: „ O, Bà là người mẹ của người nghèo.“
Đức Mẹ Maria dẫn Mariette đi tới dòng nước. Mariette hỏi tiếp: „ Thưa Bà đẹp, ngày hôm qua bà nói với con: Dòng nước này dành cho con. Tại sao lại cho con?“. Vừa nói cô vừa chỉ vào thân mình có ý muốn nói, dòng nước này cho riêng mình. Đức mẹ mỉm cười trả lời: „ Dòng nước này cho mọi dân tộc“ Mariette nhắc lại“ Cho tất cả mọi dân tộc, mang lại sự yên ủi cho người đau bệnh, cho những người bị bệnh tật. Cám ơn Bà.“.
Đức mẹ Maria nói thêm vào:“ Mẹ sẽ cầu nguyện cho con. Tạm biệt con.“
Mariette nhắc lại lời „ Dân tộc“, cô không hiểu chữ đó mang ý nghĩa gì và đi trở về nhà. Đến nhà nhìn thấy cha mình, cô chạy đến ôm cha.
2. 4. Lần hiện ra thứ tư
Thứ sáu ngày 20.01.1933, Mariett cả ngày nằm trong giường để nghỉ cho đỡ mệt. Vì đêm qua cô trải qua cơn khó ngủ. Lúc 18.454 giờ cô chỗi dậy ra khỏi giường mặc quần áo và đi ra ngoài, cho dù bị ngăn cản. Cô mời những người lớn cùng đi với mình. Trên đường đi cô qùy gối đọc kinh cầu nguyện ít lâu.
Khi Đức mẹ hiện đến, Mariette kêu lên:“ O, kìa Bà đến rồi.“ Rồi cô nói chuyện với Đức Mẹ:“ Thưa Bà đẹp, Bà muốn điều gì?“.
Đức Mẹ mỉm cười nói:“ Mẹ muốn có một ngôi nhà nguyện nhỏ.“ Rồi Đức mẹ giơ tay ra và lấy tay phải chúc lành cho cô. Mariette ngất xỉu ngả qụy nằm xuống mặt đất. Người ta xúm, lại khiêng cô về nhà, sau đó cô tỉnh lại.
Liền ba tuần sau đó từ ngày 21. 01. đến 11. 02. Đức mẹ không hiện ra. Mọi sự trở lại yên tĩnh. Những người tò mò không còn đến xem đông nữa. Riêng Mariette vẫn trung thành hằng ngày vào lúc 19.00 giờ cô ra ngoài vườn qùy cầu nguyện cho dù trời lạnh mùa Đông. Cô đọc kinh lần chuỗi bốn, năm , sáu , bảy tràng hạt. Đôi khi cô đọc kinh một mình không biết mệt mỏi.
2. 5. Lần hiện ra thứ năm
Lần hiện ra này xảy ra hôm 11.02.1933. Như những lần trước Mariette đi trên đường ra chỗ dòng nước qùy gối xuống hai lần và nhúng đôi tay vào dòng nước cùng làm dấu thánh gía trên mình. Bỗng chốc cô đứng dậy chạy nhanh về nhà và khóc. Cô hỏi cha mình về ý nghĩa „ xoa dịu“, mà cô không hiểu lời Đức Mẹ nói với cô: „ Mẹ đến đây xoa dịu nỗi đau khổ“
Lẽ ra đến tháng Năm Mariette mới được rước lễ lần đầu, nhưng ngày hôm sau Cô được lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể lần đầu.
2. 6. Hiện ra làn thứ sáu.
Ba ngày qua đi và người tò mò đến xem cũng giảm bớt đi. Ngày 15.02.1933 vào buổi chiều Mariette chỉ có ba người đồng hành được chứng kiến lần hiện ra thứ sáu của Đức Mẹ. Mariette nói với Đức mẹ thắc mắc của cha phó Jamin:“ Thưa Mẹ rất thánh, cha phó yêu cầu con nói với Mẹ xin một dấu chỉ.“ Đức mẹ Maria trả lời: „ Hãy tin tưởng vào Mẹ. Mẹ sẽ tin tưởng các con.“ Rồi Đức Mẹ nói thêm vào: „ Hãy cầu nguyện nhiều. Tạm biệt con.“. Mariette cầu nguyện, xấp mặt xuống đất, cô khóc vì Đức mẹ biến đi mất. Đức mẹ Maria đã tin tưởng trao mầu nhiệm cho đứa con nhỏ Mariette.
2. 7. Lần hiện ra thứ bảy.
Ngày 20.02.1933 Mariette qùy gối giữa trời tuyết đổ gía rét. Cô đọc kinh lần chuỗi mân côi có 8 người cùng đồng hành bên cạnh. Bất ngờ cô đọc kinh to tiếng và nhanh hẳn lên. Cô đứng dậy đi ra khỏi vườn, qùy xuống hai lần trên mặt đường và lần thứ ba nơi dòng nước hôm trước. Nơi dòng suối nước cô cầu nguyện và khóc. Đức mẹ Maria nói với cô:“ Con yêu qúi, hãy cầu nguyện nhiều.“
Theo lời Đức mẹ nhắn bảo, Mariette đã làm theo, đêm hôm đó vào khoảng 22.00 giờ cha cô đã thấy con gái mình qùy bên giường dựa vào một chiếc ghế, tay lần hạt đọc kinh.
8. Mariette phải chờ đợi tám ngày trước khi Đức mẹ hiện ra lần thứ tám và cũng là lần sau chót ở Banneux với Mariette .
Thứ năm ngày 02.03.1933 lúc 15.00 giờ trời mưa như trút nước. Vào khỏang 19.00 giờ Mariette che dù đi ra ngoài, đang khi lần hạt đến chục thứ ba, trời tạnh ngừng mưa. Mariette giữ thinh lặng, giang tay ra, đứng dậy đi thêm một bước và qùy xuống. Cô chống khủy tay xuống khóc nức nở. Thấy vậy cha cô đến đỡ cô dậy. Trời lại đổ mưa tiếp. Về nhà cô thuật lại trong dòng nước mắt sứ điệp Đức mẹ nói với cô:“ Ta là mẹ Đấng cứu chuộc, Mẹ Thiên Chúa. Con hãy cầu nguyện nhiều.“ . Đức Mẹ chắp đôi tay lại và nói:“ Tạm biệt con.“. Mariette nói“ Đức Mẹ nói với tôi chào tạm biệt, Tôi sẽ không nhìn gặp lại Đức Mẹ. Sau này Mariette nói:“ Đức Mẹ chỉ nói một chữ tạm biệt.“
Như thế Đức mẹ hiện ra với Mariette Beco tất cả tám lần ở Banneux với bốn lần ra dòng suối nước, và bốn lần khác ở trong vườn hay ngoài đường.
Và từ ngày đó dòng suối nước Đức Mẹ Banneux như lời Đức Mẹ nói với Beco „ dòng suối nước dành cho mọi dân tộc“ đã trở nên dòng suối nước linh thiêng thu hút hàng trăm ngàn người đến cầu nguyện kính viếng Đức Mẹ nơi thánh địa Banneux.
3. Thánh địa Banneux.
Sự kiện Đức mẹ Maria hiện ra với Mariette Beco đã được Giáo quyền địa phương chú ý theo dõi kiểm tra, đức giám mục giáo phận Liege từ năm 1942 đến 1947 đã chính thức công nhận việc sùng kính Đức mẹ Maria là mẹ của người nghèo. Ngày 22.08.1949 sự kiện Đức mẹ hiện ra tám lần ở Banneux được công nhận là đúng cùng chân thật.
Từ đó những khách hành hương kính viếng Đức Mẹ Banneux hoặc cá nhân riêng lẻ hay đoàn từng đoàn thể hằng kéo đến đông đảo, nhất là vào thời gian từ tháng Năm đến tháng Mười hằng năm. Họ đến nhúng đôi tay vào dòng suối nước ban ơn lành, họ đến đọc kinh cầu nguyện cho những ý chỉ ước nguyện riêng tư, họ đến để kín múc nguồn ơn cho nhu cầu chữa lành, an ủi bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn
Ngày 21. 05.1985 đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị, bây giờ là Hiển Thánh trong Giáo hội, đã hành hương đến Banneux nơi dòng suối nước này, và Ngài đã nhúng đôi tay vào dòng nước đó đang khi cầu nguyện. Dịp này có 100.000 người cùng đến hành hương chung với ngài.
Và hằng năm có tổng số khoảng hơn kém bốn trăm ngàn người đến dòng suối nước Banneux hành hương kính viếng Đức Mẹ, chủ yếu vào thời gian từ tháng Năm đến tháng Mười.
Ngày nay nơi thánh địa Banneux ngôi nhà của gia đình Beco còn được gìn giữ bảo trì, khu vườn sau nhà bây giờ là sân đốt nến cầu nguyện có một ngôi nhà nguyện nhỏ được xây dựng như ý Đức Mẹ mong muốn. Ngôi nhà nguyện được xây dựng khánh thành ngày 15.08.1933.
Trong nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra nơi Đức Mẹ đứng lúc hiện ra có lát đá hình kiểu Mosaic với dòng chữ „ HUC Velens, VoLUIt MatrIsr eCLUDere peCtus“ - Khi Đức mẹ hiện đến nơi đây, Đức mẹ muốn mở trái tim người mẹ ra.“.
Trên con đường đi đến dòng suối nước, Mariette đã ngã qùy xuống ba lần. Nơi những chỗ này còn ghi dấu lại với Logo có dòng nước và ngôi sao năm cánh của khắc ghi trên đó.
Ngôi nhà thờ lớn dâng kính Đức Mẹ của người nghèo với hơn 5.000 chỗ cho khách hành hương được xây dựng năm 1984. Ngôi thánh đường này được xây dựng nhìn bên ngoài như một chiếc lều, mà trong Kinh thánh Cựu diễn tả chiếc lều đựng Hòm Bia lề luật Thiên Chúa nơi gặp gỡi Thiên Chúa với dân của Ngài đang trên đường di chuyển lữ hành từ Ai Cập trở về quê hương Chúa hứa.
Ngoài ra còn có hai nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra và nhà nguyện Thánh Phanxico nằm song song hai bên công trường Esplana, mỗi nhà nguyện có hơn 400 chỗ ngồi.
Dòng suối nước là trạm cuối cùng nơi Đức Mẹ hiện ra dẫn Mariette Beco và mọi người đến đó. Bể chứa đựng nước chảy ra từ nguồn vách đá như hiện nay được xây dựng làm năm 1985 có khắc ghi dòng chữ „ Fons UnUS ChrIstUS JesUs hUnC aLMa reCLUDit - Chúa Giêsu Kit là nguồn dòng nước duy nhất, mà Đức mẹ dẫn chúng ta đến, luôn hằng rộng mở cho mọi người.“. Bên trên tường dòng suối nước tượng Đức Mẹ Banneux hai tay chắp trước ngực, đầu hơi nghiêng cúi xuống mắt hướng nhìn đoàn con bên dưới đang nhúng tay cầu khẩn xin ban ơn phù giúp.
Trong khu rừng thông thánh địa là con đường với 15 chặng đàng thánh gía. Rải rác bên vệ đường trong thánh địa có những ngôi nhà nguyện nhỏ, những trạm bàn thờ kính Đức Mẹ, kính vị Thánh của những dân tộc đã đến đây hành hương. Đó là ước nguyện mong muốn của trung tâm hành hương Banneux như một dấu tích kỷ niệm để lại nơi đây.
Những con đường trong khu rừng thánh địa nơi đây tỏa chiếu không khí linh thiêng rất thích hợp cho những nhóm đoàn thể tổ chức rước kiệu cung nghinh Đức Mẹ từ quảng trường Esplana theo con đường đi qua dòng suối nước xuyên qua khu rừng có bóng râm mát tiến về nhà thờ dâng thánh lễ. Khu vực như thế này không có ở thánh địa bên Lourdes cũng như ở bên Fatima.
Ở thánh địa Banneux có nhà dành riêng để tiếp đón những người bệnh đến hành hương kính viếng Đức Mẹ. Trong thời gian hành hương từ tháng Năm tới tháng Mười, hằng ngày đều có giờ Chầu Thánh Thể và chúc lành cho bệnh nhân.
Từ 10 năm nay, các Cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở nước Đức, rồi từ các nước Âu Châu như Bỉ, Hòalan, Pháp, Anh, Lục xâm bảo đến đây hành hương cung nghinh rước Đức Mẹ Banneux chung trong khu thánh địa vào ngày Chúa nhật thứ hai tháng Năm hằng năm, ngày này theo phong tục nấp sống văn hóa Âu châu cũng là ngày nhớ ơn mẹ. Số người đi hành hương ngày càng đông lên tới hàng ngàn người.
Thánh địa Banneux không rộng lớn về diện tích cùng bề dày lịch sử so với Lourdes, và Fatima. Nhưng địa điểm Banneux thuận tiện đường giao thông đi lại gần cho người Công giáo Việt Nam sống ở chung quanh các nước vùng Trung Âu châu, Bỉ, Đức, Pháp, Hòalan,Luc-xam-bảo, Anh quốc. Và nhất là thánh địa Banneux có chỗ lý tưởng cho việc rước kiệu, vốn dĩ là phong tục nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam có từ thời các Vị Thừa Sai người tây phương sang truyền giáo cách đây gần bốn trăm năm.
4. Mariette Beco, người thị kiến Đức Mẹ hiện ra là ai?
Những người được Đức Mẹ hiện ra ở Lourdes và Fatima là những người không lập gia đình vào sống trong tu viện trở thành nữ tu sau đó. Và sau khi qua đời đã được phong Á Thánh hay Hiển Thánh trong Giáo Hội.
Nhưng trường hợp Mariette Beco ở Banneux thì không như vậy. Mariette Beco vẫn là một giáo dân Công giáo sống đời sống hôn nhân gia đình giữa lòng xã hội trần thế cho tới khi qua đời.
Mariette Beco là con gái lớn đầu lòng của gia đình đông con. Nên Mariette bận phải lo phụ giúp mẹ việc trong nhà nhiều hơn.
Mariette trước khi được Đức Mẹ hiện ra, không là người sùng đạo, bỏ đi lễ nhà thờ, bỏ học giáo lý xưng tội rước lễ lần đầu thường xuyên. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra khuyên bảo hãy cầu nguyện nhiều, Mariette mới quay trở lại chăm chỉ cầu nguyện nhiều, nhưng như cô nói: Không muốn nói hay tỏ hiện ra bên ngoài cho ai thấy.
Năm 1942 Mariette Beco lập gia đình và có ba người con, người con thứ ba qua đời lúc còn thơ bé sau khi mở mắt chào đời.
Đời sống hôn nhân của Mariette Beco gặp khủng hoảng, vợ chồng chia tay sống ly thân. Mariette Beco sống yên lặng lui vào ẩn dật không tiếp xúc công cộng cũng chẳng bao giờ cho phỏng vấn chụp hình hay nói về biến cố thêm bớt cùng rút lại những gì ngày xưa đã được Đức Mẹ hiện ra tám lần với mình.
Năm 1985 Đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị tới thánh địa Banneux hành hương kính viếng Đức Mẹ, Mariette Beco bằng lòng đến gặp Đức Thánh cha trong phòng áo nhà nguyện. Trong cuộc gặp gỡ này, Mariette Beco đã nói với Đức Thánh Cha: „ Con chỉ là người đưa thư sứ điệp của Đức Mẹ thôi.“
Đời sống của Mariette Beco có nhiều đau khổ về tinh thần vì hoàn cảnh gia đình chia ly, cô đơn, con mất sớm, lại thêm bệnh tật đau yếu, chân đau mắt càng nhìn yếu kém gần như mù lòa lúc tuổi đời càng cao. Lúc tuổi gìa yếu Bà Mariette Beco vào sống trong nhà hưu dưỡng bên Banneux. Và ngày 02.12.2011 Bà Mariette Beco đã qua đời thọ 90 tuổi.
Mariette Beco đã được Đức Mẹ hiện ra và đã thuật lại những gì đã thấy đã nghe về biến cố phép lạ này. Mariette Beco sau biến cố phép lạ được Đức mẹ hiện ra bị nhiều người coi khinh có cả bị nhạo báng, bị hồ nghi và cho là cô đã phản bội.
Nhưng cho tới khi qua đời, Mariette Beco đã không bao giờ phản bội sứ điệp Đức Mẹ Banneux, và cũng chẳng bao giờ rút lại, cũng chẳng thêu dệt thêm bớt gì nữa. Mariette Beco trước sau vẫn trung thành giữ vững vị thế lập trường của mình. Cô thường nói: „ Tôi đã nói tất cả những gì tôi phải nói. Tôi không có một lời nào nữa thêm vào hay rút lại.“
Khi hiện ra lần thứ năm hôm 11.02.1933 , Đức mẹ đã nói với Mariette Beco „ Mẹ đến đây xoa dịu nỗi đau khổ“, nhưng cuộc đời Mariette Beco cho tới khi qua đời lại gặp, theo con mắt nhìn suy hiểu của con người phàm trần, qúa nhiều sự đau khổ.
Vậy đâu là ý nghĩa đạo đức thần học ẩn chứa qua biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Banneux?
5. Những dấu chỉ đạo đức thần học.
5.1 Đức Mẹ Banneux đi lùi hướng mắt về đàng sau
Đức Mẹ Maria đã hiện ra với Mariette Beco khởi đầu trong khu vườn sau nhà và đã dẫn Mariette theo con đường ra đến dòng suối nước. Trên con đường nảy Đức mẹ đã dẫn Mariette đi, Đức Mẹ đi trước quay mặt về phía Mariette cùng những người đi theo sau. Như thế Đức Mẹ đi lùi, mặt quay hướng nhìn người đi theo đàng sau. Điều này nói lên, Đức Mẹ hằng quan tâm đến mọi người, nhìn cùng lắng nghe tâm sự của con người.
Những người đến nơi này kính viếng luôn được Đức Mẹ ngó xuống nhìn cùng lắng nghe chúng ta tâm sự. Nơi dòng suối nước ban ơn lành, hai tay nhúng vào dòng nước xin ơn và mắt ngước lên tượng Đức Mẹ Banneux trên bờ tường cũng đang nhìn ta bên dưới.
Và cũng do cung cách Đức Mẹ đã làm như thế, nên ở thánh địa Banneux, kiệu Đức mẹ Banneux đi đầu mặt quay về phía người tín hữu đi theo sau kiệu.
Đây là một đặc điểm riêng ở thánh địa Banneux, và hầu như không thấy có ở nơi nào khác.
5. 2. Mẹ của người nghèo
Lần hiện ra thứ ba với Mariette Beco, Đức mẹ đã trả lời thắc mắc của Mariette: „ Ta là mẹ của người nghèo“. Với lời tự nhận đó, Đức Mẹ muốn mình ở giữa những người nghèo không chỉ về vật chất của cải tiền bạc, nhưng còn nghèo về đời sống tinh thần tâm linh nữa.
Chúa Giêsu trong bài giảng tám mối phúc thật đã ca tụng „những người có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ.“ (Mt 3,1). Họ nghèo về vật chất, nhưng lại giầu có tinh thần, vì tin tưởng vào Chúa.
5.3. Dòng suối nước cho mọi người
Đức Mẹ dẫn Mariette từ vườn sau nhà đi đến dòng nước rồi chỉ cho nhúng tay vào đó, rồi Đức Mẹ biến đi. Như thế, Đức mẹ muốn dẫn Mariette và mọi người đến với dòng suối nước ơn cứu độ là Chúa Giêsu, Đấng là nguồn ân đức các Bí Tích và sự sống vĩnh cửu.
Từ ngày đó biết bao nhiêu ngàn người lũ lượt hành hương đến cúi mình nhúng đôi tay vào dòng suối nước này cầu nguyện xin ơn chúc lành phù hộ của Đức Mẹ. Và nhiều người đã được ban ơn như lòng tin tưởng cầu xin.
Cử chỉ nhúng tay sâu vào dòng nước nói lên tâm tình muốn gặp gỡ Chúa Giêsu là nguồn suối mọi ân đức nơi Lời của Chúa và nơi các Bí Tích. Đời sống đức tin vào Chúa cho chúng ta cùng được tham dự chia sẻ vào mầu nhiện ơn cứu chuộc của Chúa, không phải chỉ qua sự hiều hiết của lý trí, nhưng còn là lòng tin tưởng yêu mến cùng gắn bó mật thiết với Chúa nữa.
Dòng suối nước Đức Mẹ Banneux trở nên thời danh qua nhờ những phép lạ chữa bệnh, mà người tín hữu đến nhúng tay vào trong đó như Đức mẹ truyền bảo Mariette Beco: “ Cho tất cả mọi dân tộc, mang lại sự yên ủi cho người đau bệnh, cho những người bị bệnh tật.“.
Dòng suối nước Đức Mẹ Banneux là dấu chỉ của lòng yêu mến Chúa dành cho mọi người. Đức Giê-su nói: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga 4,14.)
5.4. Những lần té ngã trên đường đi
Trên đường từ nhà được Đức mẹ dẫn đến dòng suối nước, Mariette Beco đã ngã té xuống đất ba lần. Những chỗ đó được ghi lại với hình ngôi sao khắc trên mặt đường.
Đức Mẹ hiện ra đã dẫn Mariette ra đến dòng suối nước bốn lần nói lên: Trong đời sống con người chúng ta hầu như hằng ngày đều đi trên cùng một con đường. Rồi bước đi tới cũng như trở lại trên con đường hằng ngày là hình ảnh nói lên sự chuyển động, làm lại đổi mới đời sống
Những lần Mariette ngả té qùy gối xuống nền đường là hình ảnh những yếu đuối, những đau khổ thất vọng, những thử thách trải qua, những khiếm khuyết lỗi làm tinh thần chùng xuống, khiến ngã qụy trên đường đến nguồn nước ân đức Chúa Giêsu Kito.
Nhưng Đức mẹ Banneux lúc nào cũng nhìn Mariette cùng đoàn người đi theo với nụ cười trên môi. Như thế, Đức mẹ muốn nhắn gửi đi sứ điệp: Không có bình luận phê phán, chê trách lên án cùng đe doạ. Đức Mẹ Banneux luôn khuyến khích hãy can đảm lên và luôn vực nâng đứng dậy khi té ngã.
/////////////////////////////////////////////////////////////////
Đến thánh địa Banneux hành hương người ta sẽ không tìm thấy nơi đây những gì mang dấu vết văn hóa nghệ thuật thời xưa cũng như hiện đại. Không, đây là vùng thôn quê hẻo lánh, nên không có những điều đó.
Đến thánh địa Banneux người ta cũng không tìm thấy những vết tích của sự kiện lạ lùng hấp dẫn. Nhưng là để cầu nguyện xin ơn phù hộ an ủi từ nơi Đức mẹ Maria theo ý nguyện riêng tư.
Đến thánh địa Banneux người ta cũng không sống trải qua cảnh ồn ào nhộn nhịp của từng đoàn người hành hương nối dài đi ra, đi vào nơi này. Nhưng có được bầu không khí bình lặng thiêng liêng nơi đây của những người hành hương thanh thản đến cúi mình nhúng đôi tay vào dòng suối nước Đức mẹ, âm thầm đọc kinh hoặc nói lời tâm sự với Đức Mẹ, rồi họ lại thinh lặng ra đi vào khu rừng đọc kinh suy niệm đàng thánh gía, hay vào những nhà nguyện đốt thắp nến đọc kinh xem lễ.
Đến hành hương Đức mẹ Banneux xin sự bình an chữa lành cho đời sống.
Tháng Hoa kính Đức Mẹ Maria.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Năm xưa cây sồi làng Fatima“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Fatima là một tỉnh nhỏ của nước Portugal thuộc vùng Vila Nova de Ourém, cách thủ đô Lissabon 130 cây vể hưóng Bắc. Diện tích thành phố Fatima vào khoảng 71 cây số vuông với dân số 10.000 người theo thống kê năm 2001.
Tỉnh nhỏ Fatima trở nên thánh địa hành hương nổi tiếng khắp thế giới trong Hội Thánh Công gíao vì có Đức mẹ đã hiện ra nơi đây.
Fatima trở thành trung tâm hành hương lòng sùng kính Đức Mẹ Maria của nước Portugal và của Gíao Hội Công Giáo hoàn cầu. Mùa hành hương diễn ra từ tháng 05. tới tháng 10. Hằng ngày trong thời gian này đều có buổi lần hạt mân côi, rước kiệu Đức Mẹ Fatima với nến cháy sáng hát bài Ave Maria theo cung điệu của Fatima nước Portugal lúc 21.00 giờ rất lung linh huyền nhiệm.
1. Đức mẹ Maria hiện ra ở Fatima
Chỉ ở Fatima trước khi Đức mẹ hiện ra với ba em nhỏ chăn chiên cừu năm 1917 ở thôn Alijustrel, Thiên Thần năm 1916 đã hiện ra dạy cho các em biết cầu nguyện, cho các em rước lễ.
Đức mẹ đã hiện ra với ba em Lucia 10 tuổi, Phanxico 9 tuổi và Jacinta 7 tuổi tất cả 6 lần vào các ngày 13. từ tháng Năm đến tháng Mười 1917. riêng hiện ra lần thứ tư không vào ngày 13.08. nhưng vào ngày 19.08.1917 vì hôm 13.08. 1917 ba em em bị nhà cầm quyền Vila Nova de Ourem bắt giam trong ba ngày.
Khi hiện ra với ba em, theo lời ba em thuật lại „ Bà đã hiện ra nơi cây sồi“ ở Cova da Iria . Bây giờ nơi thánh địa đó một nhà nguyện được xây dựng năm 1919 bên cạnh có cây sồi to lớn rào kín chung quanh làm di tích kỷ niệm biến cố lịch sử là năm xưa. Nơi ngôi nhà nguyện mái bằng nhỏ đơn sơ này chung quang không có tường vách, hằng ngày đều có Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ, có bức tượng Đức Mẹ Fatima, từ sáng sớm tới chiều tối các đoàn hành hương các dân tộc có thể đến xin dâng lễ riêng cho đoàn mình nơi ngôi nhà nguyện lịch sử này.
2. Sứ điệp Đức mẹ Fatima
Khi hiện ra Đức mẹ nói với ba trẻ:“ Ta muốn các con tiếp tục lần chuỗi mân côi mỗi ngày cho những người tội lỗi. Hãy hy sinh cầu nguyện cho nhữnng người tội lỗi với lời nguyện: „Lạy Chúa, con xin dâng việc hy sinh này vì lòng mến Chúa cho kẻ có tội ăn năn trở lại, và để đền tạ những sự xúc phạm đến trái tim vẹn sạch Đức mẹ“. Ta muốn các con dâng mình cho trái tim vẹn sạch của ta, và rước lễ đền tạ mỗi thứ bảy đầu tháng. Nếu các con nghe lời Ta, nước Nga sẽ trở lại, thế giới sẽ được hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ phổ biến các sai lầm trên toàn thế giới gây ra chiến tranh và bách hại Giáo hội, nhiều người tốt lành sẽ bị chết vì đạo, đức thánh cha sẽ phải đau khổ nhiều, nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt, Nhưng sau cùng trái tim mẹ sẽ thắng.“.
3. Ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra
Từ ngày 13. Tháng Năm 2017 là năm mừng kỷ niệm biến cố lịch sử Đức mẹ hiện ra ở Fatima được đúng tròn 100 năm.
Những lễ mừng kỷ niệm biến cố lịch sử 100 năm, những chuyến hành hương sang Fatima được tổ chức trong suốt cả năm kỷ niệm. Đức Thánh Cha Phanxico cũng hành hương sang Fatima dịp này. Trung tâm Fatima cũng xây dựng con đường hành hương trong khu thánh địa để khách hành hương có thể đi theo con đường đó đến các trạm dừng lại cầu nguyện.
Hai em chăn chiên cừu được Đức mẹ hiện ra ở trên cây sồi vùng Cova da Ira là Phanxico và Jacinta được Đức Thánh Cha Phanxico tôn phong lên hàng Hiển Thánh trong Hội Thánh Công gíao vào ngày 13. Tháng Năm 2017 dịp mừng kỷ niệm có một không hai này.
Thánh trẻ Phancico Marto sinh ngày 11.06.1908 ở Aljustrel, qua đời ngày 04.04.1919 ở Aljustrel Fatima. Trước hết thi hài em được an táng nơi nghĩa trang Fatima, và được cải táng đưa vào Vương cung Thánh Đường Fatima ngày 13.03.1952 cạnh bàn thờ Chúa Thánh Thần.
Thánh trẻ Jacinta Marto sinh ngày 11.03.1910, qua đời ngày 20.02.1920 ở bệnh viện Lissabon. Thi hài được an táng ở Vila Nova de Ourem cho đến ngày 12.09.1935. Sau đó được cải táng đưa về nghĩa trang Fatima, và lại được cải táng đưa vào Vương cung thánh đường Fatimma cạnh bàn thờ Truyền tin.
Hai em đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị phong lên hàng Chân phước ngày 13. Tháng Năm 2000 ở Fatima, dịp ngài sang hành hương lần thứ ba kính viếng và tạ ơn Đức mẹ Fatima đã cứu sống ngài thoát chết khi bị ám sát vào đúng ngày 13.05. 1981 ở Vatican.
Nữ tu Lucia, Lucia de Jesus dos Santos, sinh ngày 22.03.1907 ở Aljustrel Fatima, qua đời ngày 13. 02. 2005 ở Coimbra. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, năm 1948 Chị Lucia vào dòng kín Carmel ở Coimbra sống đời tu trì trong nhà Dòng kín cho tới khi qua đời.
Ngày 15.02.2005 ngày an táng Nữ tu Lucia toàn thể nước Portugal để tang là ngày quốc tắng để vinh danh Chị nữ tu trong lịch sửnước Portugal ngày xưa năm 1917 đã được Đức mẹ hiện ra ở Fatima . Và ngày 19.02.2006 thi hài Vị Nữ tu Lucia đưa cải mộ đem về an táng trong Vương cung Thánh đường Fatimabên cạnh hai vị Thánh Jacinta và Phanxico.
Và tiến trình phong Thánh cho Nữ tu Lucia đang trong giai đoạn lập dự án theo như luật Giáo Hội ấn định.
4. Hành hương kính viếng Đức Mẹ Fatima
Suốt dọc thời gian từ 100 năm nay, hàng triệu người trên khắp thế giới trong suốt cả năm kéo về thánh địa Fatima hành hương kính viếng Đức Mẹ, dâng thánh lễ, lần hạt đọc kinh cầu khấn.
Cung cách sống đạo hành hương bình dân thôi, nhưng thế hiện đức tin sống động vào Chúa qua việc sùng kính lòng yêu mến tôn kính Đức mẹ là mẹ Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Phanxico đã có tâm tình về ý nghĩa hành hương: ”Hành hương là một lòng đạo đức bình dân, là một hình thức chân thực loan báo Tin Mừng, luôn luôn cần được cổ võ và đề cao giá trị. Tại các đền thánh, tín hữu sống một linh đạo sâu xa, một lòng đạo đức từ bao thế kỷ đã nhào nặn đức tin với những lòng sùng mộ đơn sơ nhưng rất có ý nghĩa”.
”Trong thực tế, người hành hương mang trong mình lịch sử riêng, đức tin với những điểm sáng điểm tối của cuộc đời. Mỗi người mang trong con tim ước muốn đặc thù và một kinh nguyện riêng... Đền thánh thực sự là một môi trường ưu tiên để gặp gỡ Thiên Chúa và đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa.”
Hằng tháng vào những ngày 12. và 13. là những ngày cao điểm mùa hành hương, nhất là từ tháng Năm tới tháng Mười.
Vào chiều tối ngày 12. hằng tháng vào lúc 21.00 giờ lần hạt kính Đức mẹ bằng các thứ ngôn ngữ được chọn, sau đó hàng ngàn Gíao dân tay cầm nến cháy sáng cùng với đoàn kiệu có Vị Hồng Y , các Giám mục và hàng trăm Linh mục mặc phẩm phục trắng rước kiệu Đức mẹ Fatima vòng sân công trường Fatima đến lễ đài cuối Vương cung thánh đướng Fatima dâng thánh lễ mở đầu đêm canh thức hành hương tới 24.00 giờ.
Sáng ngày 13. hằng tháng ngày hành hương kỷ niệm Đức mẹ hiện ra vào lúc 09.00 giờ lần hạt, sau đó rước kiệu Đức mẹ ra ngoài công trường như hồi đêm canh thức, dâng thánh lễ đại trào kính Đức Mẹ. Sau Thánh lễ có Chầu Thánh Thể, ban phép lành cho các bệnh nhân và rước kiệu từ giã Đức Mẹ kết thúc ngày hành hương vào khoảng 12.00 giờ.
Hằng ngày tối nào cũng có lần hạt rước kiệu Đức Mẹ ngắn và nhỏ thôi với khoảng vài trăm cho tới một ngàn người ở công trường Fatima.
Ngôi Vương cung thánh đường kính Đức Mẹ Fatima cũ Basilica Antiga, được xây năm 1928, tháp chuông cao 56 mét, trên nóc tháp có triều thiên vĩ đại bằng đồng nặng 07 tấn, Trong nhà thờ có mộ của Chân Phước Phanxicô, Jaxinta và Lucia, càng ngày càng trở nên nhỏ với số lượng khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn kéo đổ về.
Vì thế một ngôi vương cung thánh đường kính Chúa ba ngôi -Igreja da Santissima Trindade- mới đã được xây cất thêm, và ngày 12.10. 2007 đã được khánh thành.
Ngôi thánh đường mới ở cuối quảng trường Fatima đối diện với Vương cung thánh đường cũ ở phía đàng cuối công trường. Ngôi thánh đường mới này có chu vi rộng 125 mét, có chỗ ngồi cho gần 9000 người trong lòng nhà thờ, cổng chính mang tên Chúa Giêsu với 64 mét vuông, chung quanh có 12 cửa ra vào với tên của 12 Thánh Tông Đồ.
Đây là ngôi thánh đường lớn thứ tư trên thế giới của Giáo Hội Công Giáo được xây cất vào thế kỷ thứ 21. Trong ngôi thánh đường này có nhiều nhà nguyện nhỏ khác nhau cho những nhóm hành hương muốn dâng lễ riêng.
Bên cạnh quảng trường Thánh địa Fatima có Bảo tàng viện trưng bày những di tích kỷ vật về Fatima, đặc biệt có triều thiên Đức Mẹ với viên đạn đã bắn làm bị thương Chân Phước Giáo hoàng Gioan Phaolo đệ nhị năm 1981. Triều thiên này vào những ngày 12. và 13. từ tháng 05. tới tháng 10. được đội lên tượng Đức Mẹ Fatima đem ra rước kiệu.
Khu chặng đàng Thánh gía nằm trong một khu rừng nhỏ. Cũng trong khu này có địa điểm với bức tượng Thiên Thần hiện ra trao Mình Thánh Chúa cho ba trẻ.
Ở cuối chặng đàng Thánh Gía có nhà nguyện kính Thánh Etienne, do người tỵ nạn Công Giáo Hung gia Lợi dâng cúng năm 1964.
Ở ngoài bìa khu rừng đàng Thánh giá có hai ngôi nhà di tích lịch của gia đình ba trẻ ngày xưa đã sinh ra và lớn lên. Trong khu vườn phía sau có giếng nước, nơi đây Thiên Thần đã hiện ra với ba trẻ. Còn giếng nước ngày xưa và có tượng Thiên Thần và tượng ba trẻ bằng đá cẩm thạch mầu trắng..
‘’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
Thiên Thần hiện ra với ba trẻ dạy ba em cầu nguyện và cho các em rước lễ, Thiên Thần mặc áo mầu trắng.
Khi hiện ra với ba trẻ trên cây sồi ở Fatima Đức mẹ mặc áo trắng.
Và trong sứ điệp thứ ba của Fatima mà Nữ tu Lucia viết lại như lời Đức mẹ đã nói với chị đề cập đến „vị Giám mục mặc áo trắng“ bị ám sát.
Có lẽ vì thế những Thánh đường xây dựng ở khu thánh địa Fatima cũ cũng như mới tường vách đều bằng mầu đá trắng, cả những trạm bàn thờ của 14 chặng đường thập gía Chúa Giêsu cũng xây dựng bằng đá mầu trắng.
Và ngày 13. hằng tháng, sau thánh lễ hành hương kết thúc ngày hành hương từ lễ đài Vương cung thánh đường trở về nhà nguyện thánh địa, mọi người tay giơ lên cao vẫy tấm khăn mầu trắng chào từ biệt khi kiệu Đức Mẹ đi ngang qua. Thật là một quang cảnh đầy cảm động và thi vị như một biển nước mầu trắng đang chuyển động hòa chung vào tiếng hát ca tụng Đức Mẹ vang lên khắp cả bầu trời nắng buổi trưa giữa công trường rộng lớn.
Mầu trắng là mầu ánh sáng, chỉ về sự trong trắng và toàn vẹn. Khi một em bé nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tối, tấm áo trắng được trao mặc cho em: chiếc áo trắng rửa tối. Và ngày sau cùng của đời sống người qua đời cũng được tẩm liệm mặc áo mầu trắng. Như thế có thể suy ra mầu trắng cho khởi đầu và cho sau cùng!
Và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan nói đến cảnh đoàn người mặc áo trắng đứng trước Con Chiên Thiên Chúa trên trời ( Kh 7,9).
Mầu trắng là mầu biểu hiệu của Đức mẹ Fatima, mẹ Chúa trời hiển vinh.
Kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima 1917 - 2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Regina familiae - Nữ vương các gia đình.“
- Viết bởi Dân Chúa
Mỗi khi, nhất là trong tháng Năm, tháng hoa kính Đức mẹ Maria, người tín hữu Công gíao đọc kinh cầu Đức Bà, có câu ca ngợi cầu xin:“ Nữ vương các gia đình.“
Hình ảnh gia đình con người xưa nay có cha, mẹ và các người con. Đây là tế bào căn bản của xã hội con người.
Từ tế bào căn bản này, sự sống con người triển nở từ thế hệ này truyền sang thế hệ nối tiếp trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Đấng tạo Hóa, Đấng là nguồn sự sống.
Không có yếu tố mầm sự sống - của người đàn ông (người cha) phối hợp với yếu tố trứng tế bào- nơi người phụ nữ ( người mẹ), không nảy sinh ra sự sống thứ ba là người con được.
Từ tế bào căn bản xã hội này, nền văn hóa, tập tục nếp sống tinh thần đạo gíao được thành hình gầy dựng, được duy trì phát triển, tạo nên mối dây tình liên đới giữa con người với nhau từ trong gia đình thu hẹp lan rộng ra ngoài xã hội bên ngoài.
Từ tế bào xã hội căn bản này, con người được yêu thương cùng học hỏi có kinh nghiệm nhận ra thế nào là tình yêu thương, cùng gía trị của sự sống nơi thiên nhiên.
Đây là định luật thiên nhiên mà Đấng Tạo Hóa đã khắc ghi trong công trình sáng tạo thiên nhiên. Cho dù xưa nay, với trình độ phát triển của khoa học, triết học văn chương đã và đang có những lý thuyết, thử nghiệm mong muốn để cấu tạo ra sự sống ngoài quy luật thiên nhiên này, nhưng vẫn không vượt qua khỏi biên giới của định luật thiên nhiên. Nên không đạt kết qủa thành công được.
Sự sống trong thiên nhiên là món qùa qúy báu của Trời cao ban cho nhân loại. Con người nhận được sự sống, cùng được hưởng dùng sự sống. Và họ có trách nhiệm qúy trọng, bảo vệ gìn giử sự sống.
Trách nhiệm qúy trọng bảo vệ gìn giữ món qùa sự sống không chỉ quy hướng vào sự sống cây cỏ, thảo mộc cùng thú động vật sinh sống trong rừng núi, hay nuôi ở nhà. Nhưng còn phải kính trọng, bảo vệ, gìn giữ sự sống của chính con người nữa. Vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa sinh thành nuôi dưỡng con người. ( St 1,27).
Người ta ngạc nhiên bỡ ngỡ về sự sống con người, và cũng có hoài nghì về nó, nên có thắc mắc nêu ra: sự sống con người thành hình khởi sự từ lúc nào ?
Có nhiều bàn thảo liên quan đến luân lý đạo đức về thắc mắc này. Nói đến sự sống con người là chạm tới biên giới việc bí ẩn mầu nhiệm linh thiêng. Nên Giáo huấn của đạo giáo luôn được lấy làm căn bản chỉ hướng cho những suy nghĩ bàn luận.
Ngày xưa thời vào Trung Cổ, Thánh Toma thành Aquino dựa theo triết học Hy Lạp của Aristoteles cho rằng bào thai tạo thành người là con trai kéo dài 40 ngày, và bào thai thành con gái kéo dài 80 ngày.
Theo Do Thái giáo , sau khi hai yếu tố Mầm sự sống nơi người cha và Trứng tế bào nơi người mẹ phối hợp với nhau kéo dài 40 ngày tạo thành bào thai giai đoạn khởi đầu
„ Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy;
mọi ngày đời được dành sẵn cho con
đều thấy ghi trong sổ sách Ngài,
trước khi ngày đầu của đời con khởi sự. ( Tv 139,16)
Theo suy tư tin tưởng của Do Thái giáo ba nhân tố tham dự vào sự thành hình sự sống một con người: Thiên Chúa, người cha và người mẹ.
Mầm sự sống ( tinh trùng) mầu trắng từ nơi người cha tạo thành xương , móng tay, móng chân, trí óc.
Từ Trứng tế bào mầu hồng nơi người mẹ kết thành da, thịt, máu.
Thiên Chúa phú thác vào cho con người tinh thần, sự sống, thính giác nghe được, thị gíac nhìn, sự hiểu biết và sự khôn ngoan.
Thiên Chúa ấn định về giới tính nam hay nữ, mạnh mẽ hay yếu. Nhưng sự phát triển về tính tình của một người sau này trở nên người tốt hay người hung dữ nằm trong tay của chính con người.
Hội Thánh Công giáo xưa nay, dù tôn trọng những suy luận khác biệt về thành hình sự sống thân xác hình hài con người, nhưng luôn đứng bảo vệ sự sống thân xác hình hài con người. Nên Hội Thánh khẳng định: ngay từ giây phút đầu tiên khi hai yếu tố - Mầm sống và Trứng tế bào - của người cha và người mẹ phối hợp với nhau, đã đang phát triển thành sự sống thân xác hình hài một con người rồi.
Vì thế không chấp nhận việc hủy hoại sự sống con người là bào thai trong cung lòng người mẹ, cho dù ở vào giai đoạn khởi đầu hay sau đó.
Nữ vương các gia đình - Cầu cho chúng con!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tin mừng Chúa phục sinh thành hình như thế nào?
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Văn hào Wolfgang Goethe người Đức có suy tư: „ Tin mừng tôi đã chú tâm nghe, nhưng nơi tôi còn thiếu lòng tin!“
Có lẽ khi đọc tuyên xưng đức tin: Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên cây thánh gía, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại..“ ( Kinh Tin Kính).
Và hằng năm chúng ta mừng mầu nhiệm cao cả Chúa Giêsu phục sinh sống lại, chúng ta cũng có đã có đôi lần tâm tình suy nghĩ tương tự như vậy.
Nghe, đọc và tin. Nhưng vì là con người nên không khỏi có lúc dừng chân suy nghĩ: như thế nghĩa là gì? Có thể tìm hiểu cắt nghĩa đức tin Chúa Giêsu phục sinh sống lại được không, dù chỉ là cách thử tìm hiểu thôi? Đâu là mấu chốt có thể lấy đó làm nền tảng đi tìm ra giềng mối để sắp xếp lại sự thành hình Tin mừng Chúa Phục sinh sống lại từ cõi chết?
Phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo Thánh sử Mattheo ( Mt 28,1-10) viết tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu Kitô phục sinh giúp tìm hiểu sự thành tin mừng Chúa Giêsu phục sinh sống lại từ cõi kẻ chết.
Thánh sử Mattheo trình bày mầu nhiệm Chúa Giêsu sống lại theo ba bước, đúng hơn sự thành hình tin mừng Chúa Giêsu sống lại theo ba quang cảnh.
Quang cảnh thứ nhất xảy ra với cảnh động đất kinh hoàng và Thiên Thần Chúa xuất hiện tỏa chiếu ánh quang khác thường phá tan màn bóng tối đang đè nặng tâm hồn các người phụ nữ trong tâm trạng buồn sầu đau khổ, vì Chúa Giêsu, thần tượng lòng tin đã chết và đang trên đường đến mộ thăm viếng.
Thánh sử Mattheo qua biến cố phục sinh như thế muốn nói đến sự xảy ra về ngày phán xét sau hết. Sự hiện diện của Chúa tràn đầy niềm hy vọng cùng chan chứa ơn cứu chuộc xảy đến ngoài sự chờ đợi, không thể không nghe biết được, cùng hkông thế không nhìn thấy được.
Đức tin phục sinh không đạt được qua suy luận đạo đức thần học, nhưng là điều ngoài sức tưởng tượng khám phá của suy tưởng.
Biến cố Chúa sống lại gây ra cho con người sự ngạc nhiên bỡ ngỡ đến sợ hãi. Người lính canh mộ hoảng hốt kinh khiếp. Biến cố Chúa phục sinh làm chao đảo tâm trí họ, vì nó ngoài sức tưởng tượng của tâm trí suy nghĩ.
Quang cảnh thứ hai Thánh sử Mattheo tường thuật đi vào trung tâm sứ mạng: Lễ Phục sinh phải được loan báo rộng ra khắp nơi cho mọi người.
Các người phụ nữ đã nghe, đã thấy sự việc, nhất là chứng kiến tận mắt ngôi mộ trống không còn xác Chúa Giêsu ở đó nữa. Họ không được dừng lại nơi đây, mà phải đi loan báo tin mừng này cho các học trò, của Chúa Giêsu cho những người tin theo Chúa Giêsu. Họ phải lên đường di chuyển đến miền Galilea.
Quang cảnh thứ ba Thánh Mattheo trình bày cao điểm sự việc Chúa Giêsu phục sinh: dọc đường hối hả trở về từ ngôi mộ, đến các Tông đồ trong tâm tạng vừa sợ hãi lo lắng và niềm vui, các người phụ nữa gặp Chúa Giêsu phục sinh sống lại.
Vị Sứ giả của Thiên Chúa giữ lời người đã hứa. Thiên Chúa thực hiện như lời người đã nói. Nơi Người con người đặt niềm tin tưởng.
Trên bước đường loan báo tin mừng Chúa sống lại đầy chông gai khó khăn Chúa Giêsu phục sinh đã hiện đến gặp gỡ các người phụ nữ và chào hỏi họ.
Sự phục sinh bao gồm ý nghĩa, Thiên Chúa gặp gỡ con người chúng ta qua sự chỗi dậy sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Lễ phục sinh là lễ Thiên Chúa đến gặp gỡ con người.
Khi Chúa Giêsu phục sinh sống lại, Ngài đã củng cố tâm hồn các người phụ nữ đến ra viếng mộ, gây niềm can đảm hào hứng cho tâm hồn các học trò tông đồ mạnh dạn ra đi loan báo làm chứng cho tin mừng đức tin Chúa Giêsu Kitô đã sống lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ phục sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm người tín hữu Chúa Giêsu Kitô mừng lễ phục sinh, một lễ mừng mầu nhiệm đức tin căn bản trong đời sống đức tin vào Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô
Nhưng đâu là nguồn gốc khởi thủy cùng ý nghĩa của lễ mầu nhiệm đức tin này?
1. Trong mẩu đối thoại về trái trứng
Có câu chuyện kể lại mẩu đối thoại giữa hoàng đế Maxentius và Bà Catharina : „Hoàng đế Maxentius cai trị đế quốc Roma từ 306 -312 ( * 278 - + 312) muốn nghe tìm hiểu về đức tin Kitô giáo, nên đã cho vời Catharina, một nữ tín hữu Chúa Giêsu Kitô ở thành phố hải cảng Alenxandria bên Aicập, đến giải thích cắt nghĩa.
Catharina bằng lòng đáp ứng yêu cầu của hòang đế và thuật kể về đời sống, sự chết và nhất là sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu. Nhưng hoàng đế không thể tin nổi người đã chết làm sao có thể sống lại được.
Hoàng đế nói: „ Làm sao có chuyện đó được? Bà phải làm sao cho một hòn đá sống động được, thì ta mới tin!“
Ngày hôm sau Catharina đến yết kiến hoàng đế mang theo một trái trứng vịt đã được ấp ủ tới ngày con vịt con sắp bật chui ra khỏi vỏ trứng trình diện. Bà cho Ông xem trái trứng bề ngoài nhìn tựa như một hòn đá mầu xám. Nhưng bên trong đó con vịt con đã thành hình, nó dùng chính mỏ mổ thành một làn vết rạn nứt vỏ trứng để tự giải thoát mình chui ra khỏi vỏ bao bọc nó.
„ Như thế, tâu hoàng thượng, xem như đã chết và dẫu vậy vẫn sống động.“ Catharina nói với Hoàng đế Maxentius.
Từ một trái trứng vịt, một con vịt con thành hình hài trong trái trứng chui ra khỏi vỏ trứng trở thành con vịt sống động. Đây cũng là hình ảnh dấu hiệu sự phục sinh - sống lại - của Chúa Giêsu Kitô chết chôn trong mồ đá dưới lòng đất ba ngày, rồi đã chỗi dậy sống lại ra khỏi mồ mả tối tăm. Điều này là một mầu nhiệm đức tin, nhưng không sao cắt nghĩa hiểu thấu được.
Đây là một phép lạ, một mầu nhiệm sự sống do Thiên Chúa thực hiện.
2. Trong dòng lịch sử thời gian
Lễ mừng phục sinh Kitô giáo có liên hệ đầu tiên với lễ Vượt Qua ( Pessah) của Do Thái giáo. Ngay từ ban thưở ban đầu thuở Giáo hội sơ khai, người ta đã mừng lễ Chúa Giêsu sống lại vào ngày lễ Vượt Qua của Do Thái giáo. Lễ này trùng đúng vào ngày trăng tròn của mùa Xuân.
Ngày lễ mừng Chúa Giêsu sống lại dần được chuyển vào ngày Chúa nhật sau tuần trăng tròn thứ nhất trong mùa Xuân, như Công đồng Nizea vào năm 325 đã ấn định lễ mừng này trong toàn thể Giáo hội Công giáo.
Quyết định của Công đồng Nizea như thế muốn tách biệt ra khỏi nguồn gốc rễ ngày lễ Vượt Qua của Do Thái giáo , và nhấn mạnh ngày Chúa nhật là ngày lễ mừng của Kitô giáo. Vì thế ngày lễ phục sinh, mừng Chúa Giêsu sống lại, thay đổi tùy theo niên lịch phụng vụ mỗi năm trong khoảng thời gian từ ngày 22. Tháng Ba đến ngày 25. Tháng Tư Dương lịch.
Dù ngày lễ mừng phục sinh có tách riêng ra khỏi vòng lễ Vượt Qua của Do Thái giáo, nhưng sự tương quan về nội dung với ngày lễ mừng phục sinh của vẫn gắn bó với nhau.
Sự tương quan gắn bó thể hiện nơi ngôn ngữ tên ngày lễ, nhất là ở những đất nước có nền ngôn ngữ văn hóa tiếng latinh và một vài tên khác về ngày lễ bắt nguồn từ lễ Vượt Qua ( Pascha).
3. Trong văn hóa ngôn ngữ dân gian
Lễ phục sinh theo tiếng Latinh:dies paschalis hay pascha - Tiếng Ý:Pasqua- Tiếng Pháp: Paques- Tiếng Tây ban Nha: Pascua…
Lễ Pascha - Passah của người Do Thái có nguồn gốc lịch sử ngày xưa họ được Thiên Chúa giải cứu ra khỏi ách nô lệ từ bên AiCập trở về đất Chúa hứa Israel ( Xuất hành 12,27).
Lễ Pascha của người Do Thái là lễ mừng ơn cứu độ nhắc nhớ lại biến cố Thiên Chúa giải thoát họ khỏi cảnh sống nô lệ lưu đày sống tha hương bên Ai Cập, là lễ mừng Thiên Chúa „ Ta là Đấng tự hữu - Đấng luôn hằng cùng đồng hành với. “ đã nghe thấu lời kêu than của dân chúng trong cảnh lầm than thống khổ bị áp bức bóc lột.
Lễ Pascha của Do Thái giáo là lễ không chỉ mừng biến cố ơn cứu độ giải thoát Thiên Chúa làm cho họ, nhưng còn là lễ nói về niềm hy vọng được cứu khỏi sự chết bước sang sự sống vào tương lai.
Ý hướng con đường thần học ngày lễ Pascha của Do Thái giáo diễn tả kinh nghiệm của đức tin của người Do Thái là mốc điểm quan trọng hướng chỉ cắt nghĩa đức tin sự sống lại cho người Kitô giáo.
Lễ phục sinh tiếng Đức có tên „Ostern“ , và tiếng Anh có tên „Easter“ có một nguồn gộc khác nữa cắt nghĩa về ý nghĩa ngày lễ mừng. Dựa theo nguồn gốc ngôn ngữ cùng phong tục tập quán của dân gian, người ta đã truy tầm tìm hiểu sau một thời gian dài, rất có thể là đúng tên của Vị nữ thần Mùa Xuân và vị nữ thần Ánh sáng Eostra hay Ostara. Theo tìm hiểu về Eos - Mặt Trời- trong văn hóa Hylạp dẫn đưa tới chữ Eostro - Bình minh - . Chữ này trong ngôn ngữ cổ tiếng Anh thành „Eastron“, và trong ngôn ngữ cổ tiếng Đức thành „ostarum“.
Tên biến đổi này phù hợp với ý nghĩa của Kitô giáo về lễ phục sinh: „ Vào buổi sáng sớm lúc ánh bình minh ló dạng ngay thứ ba sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu đã diễn xảy ra. Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô nên trong đêm này tới sáng sớm lúc bình minh ngày hôm sau canh thức, và vào lúc buổi sáng sớm mừng lễ phục sinh, Chúa Giêsu Kitô sống lại“
( Canones Hippolytus năm 350).
Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng của Thiên Chúa. Ánh sáng của Ngài mang đến cho con người trong bóng tối sự chết vì tội lỗi ơn tha thứ, sự sống lại cho linh hồn con người. Ánh sáng của Chúa phục sinh xóa tan xua đuổi bóng tối trong mồ chôn nơi lòng đất, và bóng tối đêm đen tội lỗi trong tâm hồn con người. Ngài trở thành ánh sáng sự sống cho con người, những ai tin vào Ngài và vào sự phục sinh sống lại của ngài.
4. Trong tuyên tín vào Chúa Giêsu phục sinh
Lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh là lễ tuyên xưng lòng tin vào sự sống. Đây là ngày lễ mùa Xuân, một lễ của sức sống bừng dậy vươn lên sau mùa Đông chết khô cứng. Lễ phục sinh là lễ mừng sự sống.
Lễ phục sinh nói lên lòng tuyên tín vào hành động cứu độ của Thiên Chúa, như Ngài ngày xưa đã hướng tới con người cứu thoát họ khỏi đời sống nô lệ bên Ai Cập cho họ trở về sống trên quê hương đất nước Israel. Cũng vậy, Chúa Giêsu Kitô được Thiên Chúa gọi đánh thức cho sống lại không dừng nằm lại nơi bóng tối sự chết trong mồ huyệt. Qua đó Thiên Chúa hướng về con người luôn luôn cứu họ thoát mọi cảnh nguy khốn . Lễ phục sinh là lễ mừng niềm hy vọng.
Lễ phục sinh diễn tả lòng tuyên tín vào ánh sáng, mà Chúa Giêsu Kitô mang đến, khi ngài sinh ra trong trần gian, và cùng với sự phục sinh sống lại đã chiếu tỏa sức mạnh ánh sáng đó ra cùng khắp nơi. Bóng tối đêm đen sự chết bị ánh sáng chiếu vào chế ngự xua tan. Công trình này mang lại hiệu qủa to lớn trên những người tin tưởng vào Chúa, cho những ai cần đến sự trợ giúp của Chúa trong cơn nguy nan khốn khó muốn đứng dậy vươn lên. Lễ phục sinh là lễ mừng sự phấn khởi đứng dậy bừng lên.
‘’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
Trong đời sống con người xưa nay vào mọi thời đại thời gian cũng như không gian, và tùy theo nếp sống văn hóa luôn cần có những phong tục tập quán, lễ mừng.
Văn hào Antoine de Saint-Exupery viết trong truyện Hoàng tử nhỏ mẩu đối thoại : “ Cần phải có những tập tục nhất định. „. và Hoàng nhỏ hỏi „ Tập tục cố định là gì vậy?“ Con chó Sói trả lời: „ Và cả những điều đã bị quên lãng. Đó là những điều để có thể phân biệt ngày này khác biệt với ngày khác, thời giờ này với những thời giờ khác…Không thì mọi ngày sẽ trở thành giống nhau.“.
Phong tục, tập tục nếp sống trong đời sống cần thiết, qua đó ý nghĩa đời sống được làm nổi bật, cùng như sợi giây liên kết giúp những cá nhân lại thành một xã hội cùng chung sống trong mọi lãnh vực đời sống phần tâm linh tinh thần cũng như hoạt động sinh sống.
Hằng năm người tín hữu Chúa Kitô trong Hội Thánh Công giáo có những nếp sống tập tục sống mùa chay thánh, mùa thương khó Chúa chịu nạn, rồi ngày lễ Lá, ngày Thứ Năm Tuần Thánh, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày Thứ bảy Tuần Thánh và cao điểm ngày lễ mừng Chúa phục sinh.
Những tập tục tinh thần đạo giáo này giúp người tín hữu sống hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa cứu độ con người qua những giai đoạn biến cố, và sau cùng đạt tới cao điểm ý nghĩa lễ phục sinh : ngày lễ mừng sự sống Chúa Giêsu chiến thắng khải hoàn trên sự chết.
Tập tục nếp sống đạo đức đó nhắc nhớ cùng làm sống động, và củng cố đức tin vào Chúa.
Mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh, 16.04.2017
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bảy lời sau cùng của Chúa Giesu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trên thập gía trước khi qua đời, Chúa Giêsu đã nói những lời sau cùng. Phúc âm theo Thánh Mattheo và thánh Maccô thuật chỉ có một lời, đang khi Phúc âm theo Thánh Luca thuật lại ba lời, và phúc âm theo Thánh Gioan thuật lại thêm ba lời. Cộng chung lại có tất cả bảy lời của Chúa nói trên thập gía.
1. „ Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.“ Lc 23,34
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vào giây phút sau cùng trước khi chết cho bạn hữu , cho cả kẻ thù nghịch giết mình, cho kẻ không tin chấp nhận Chúa và kẻ ghét hận thù Chúa. Lời cầu nguyện xin ơn tha thứ làm hòa bao trùm cho quan tòa xử án , cho lính tráng thi hành bản án đóng đinh Chúa vào thập gía. Và cho cả những người đạo đức không sao hiểu nổi được tại sao Chúa lại để bị xử như thế.
2. „ Ngay hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.“ Lc 23,43
Như thế Chúa Giêsu chấp nhận lòng chân thành của tên trộm cùng bị xử án đóng vào thập gía với Chúa. Người trộm này đã thành thật nhận tội lỗi việc làm bất chính của mình, đồng thời công nhận tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, xin Ngài tha thứ cho và nhớ đến mình.
Người „ trộm lành“ này đã được Chúa Giêsu không chỉ cho vào Thiên đàng sau khi chết, mà còn như được Chúa phong Thánh cho nữa. Nên Giáo hội Chính Thống tin như vậy, và họ lập một bàn thờ trong đền thờ mộ Chúa Giêsu sống lại ở Gierusalem, tôn kính vị Thánh trộm lành này.
3. „ Thưa bà, đây là con bà / Đây là mẹ của con.“ Ga 19,26
Mẹ Maria đã cùng theo sát con đường vác thập gía của con mình đến tận đồi Golgotha, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía. Ngày xưa Mẹ Maria đã cưu mang trong cung lòng mình Chúa Giêsu, rồi trong suốt quãng đường hơn 30 năm, mẹ Maria đã lo lắng chăm sóc nuôi Chúa Giêsu con mình, và giờ phút chót đau khổ sau cùng đời sống con mình, mẹ Maria cũng có mặt sát bên con mình. Không phải chỉ trong tinh thần, nhưng mẹ Maria đến đứng ngay sát dưới chân thập gía Chúa Giêsu.
Thấy mẹ mình, lòng hiếu thảo nơi con người Chúa Giêsu đã bừng dậy. Và Chúa đã tin tưởng trao dối nhiệm vụ cho Thánh Gioan, môn đệ Chúa cũng đang đứng đó : Anh hãy làm công việc lo săn sóc cho mẹ của tôi. Mẹ của tôi cũng là mẹ của anh.
4. Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa, sao Chúa nỡ bỏ rơi con? Mc 15,34, Mt 27,46
Những lời than thở này bằng tiếng Aramien thời Chúa Giêsu: Eli, eli lema sabachthani? Lời này là lời cầu xin than van trong Thánh Vịnh 22,2 về sự bị Chúa bỏ rơi cô đơn. Lời cầu nguyện than thở này đồng thời nói lên tâm tình Thiên Chúa không quên ai khi kêu cầu với Người.
5. “ Tôi khát“ Ga 19,28
Chúa Giêsu trong cơn đau khổ đã xin sự giúp đỡ. Đói và khát lả nhu cầu căn bản của đời sống. Người đang hấp hối quằn quại trong đau khổ. Chúa khát nước cũng còn nói lên: Có biết bao nhiêu người cũng đang đói khát như Ngài, thực phẩm nước uống, nhất là thực phẩm nước uống tinh thần đức tin.
6. „ Thế là đã hoàn tất“ Ga 19,30
Sau trận chiến thắng, vị chỉ huy chiến dịch nói báo cáo với cấp trên“ sứ mạng đã hoàn tất“. Chúa Giêsu nói lời này là một người chiến thắng. Nhưng không là người chiến thắng được người khác đến bắt tay chúc mừng.
Chiến thắng của Người là tình yêu người mang đến cho con người đã đạt đến đích điểm. Hoàn tất những gì mang đến sự sống cho con người bị kết án phải chết vì tội lỗi. Ý muốn của đức Chúa Cha đã được thực hiện viên mãn. Sự cứu độ đã được thực hiện hoàn tất trọn vẹn trên thập gía.
7. Lạy Cha, con phó dâng linh hồn con trong tay Cha.“ Lc 23,46
Cái chết của Chúa Giesu trên thạp gía là sự chiến thắng của Thiên Chúa. Lời này Chúa Giêsu ở trong Thánh Vịnh 31,6 của Vua thánh David chỉ về tương lai cứu độ. Thiên Chúa che chở gìn giữ những kẻ trung thành tin tưởng nơi Ngài. Nước thiên đàng mở ra cho những người như thế.
Chúa Giêsu chịu đau khổ và sau cùng chết là một người Do Thái đạo đức. Bảy lời sau cùng của Chúa là bằng chứng lịch sử cho sự chết này.
Những người đứng chung quanh dưới chân thập gía Chúa Giêsu năm xưa đã tận tai nghe những lời này.
Họ là mẹ Maria cùng những người phụ nữ khác, đã không chạy ra xa trốn khỏi đồi Golgotha. Không gian khu đồi Golgotha và bức tường thành bao vây xung quanh đền thờ Gierusalem, những người lính canh và những kẻ tò mò, đều đã nghe tiếng những lời này vọng đến.
Thánh Gioan tông đồ của Chúa, người sau này đã viết phúc âm, đã tận mắt nhìn thấy những sự việc đã xảy ra và đã nghe, là nhân chứng thân thiết sống động về biến cố này.
Và cả Ông Nicodemo và Ông Giuse thành Arimathia, họ đã tháo gỡ thân xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập gía, rồi mang an táng trong mộ huyệt đá ở khu vườn gần nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, cũng là những người đã thấy, đã nghe và làm chứng về những lời sau cùng của Chúa Giêsu.
Những lời ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu từ hơn hai ngàn năm nay vẫn luôn để lại cho con người trẩn gian.i Đó là những lời tình yêu, lời mang lại sự sống cho linh hồn con người.
Thứ sáu tuần thánh
Daminh Nguyễn ngọc Long
Hosiana - Chúc tụng Thiên Chúa.
- Viết bởi LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Trong dòng lịch sử vào năm 33. sau Chúa giáng sinh, Chúa Giêsu lần đầu tiên cỡi trên lưng một con lừa tiến vào thành thánh Giêsrusalem dịp lễ Vượt Qua ( Pascha)của người Do Thái, như trong các Phúc âm thuật lại - theo Thánh Gioan 12,13-15, Matheo 21,1-11, Lc 19,28-40 - và được dân chúng chào mừng đón tiếp tung hô vạn tuế Hosiana.
1.Con lừa trong nếp sống văn hóa
Hình ảnh Chúa Giêsu vào thành Gierusalem được đón tiếp tưng bừng như thế dưới mắt của quân đội Roma đang thống trị nước Do Thái lúc đó là một sự khiêu khích thách thức quyền hành của đế quốc Roma.
Dưới con mắt người Do Thái lúc đó là hình ảnh vị vua cứu tinh cho dân đang mong thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Roma.
Nhưng Chúa Giêsu tiến vào thành Giêsurusalem không phải với tư cách sứ mạng như thế. Ngài đến là hình ảnh hiện thân của một vị vua hòa bình. Vì thế Ngài cỡi trên lưng con lừa con còn non trẻ chưa chở ai bao giờ.
Con Lừa hồi đó theo văn hóa bên vùng Trung Đông chỉ dùng để chở đồ, chở người vượt qua vùng đồi núi hẻo lánh thôi.
Nếu là người có quyền hành sức mạnh thì cỡi ngựa, chứ xưa nay không có vị tướng hay vua chúa nào cỡi lừa cả. Chính vì thế, không gây ra sự khó chịu cùng vướng cản trở cho quân lính Roma. Và cũng vì thế gây ra sự thất vọng cho dân Do Thái.
2. Con lừa và Chúa Giêsu
Chúa Giêsu cỡi lừa đi vào thành Giêsusalem là một vị vua hoà bình , vị vua bẻ gẫy chiếc cung binh khí chiến tranh, vị vua của nếp sống đơn giản, vua của người nghèo, như Ngôn sứ Sacharia đã nói từ trước.
„ Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi:
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn còn theo mẹ.“ (Sacharia 9,9)
Cảnh các Tông đồ trải áo trên lưng lừa cho Chúa cỡi, và dân chúng thấy vậy cũng trải áo trên đường nơi Chúa đi qua, có truyền thống gốc tích trong nước Israel, như trong sách Các Vua thuật lạ „ ĐỨC CHÚA phán rằng: Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en."13 Họ vội vàng lấy áo choàng trải lên đầu thềm cấp, dưới chân ông. Họ thổi tù và, rồi hô lên: "Giê-hu làm vua! " (2 Các Vua, 9,13.)
Dân chúng reo hò vạn tuế Chúa Giêsu. Lời họ mừng rỡ tung hô Chúa Giêsu đang trên lưng lừa là những lời trong Thánh Vịnh 118, 26-27. „Hosiana, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa đến, Chúc tụng triều đại của Vua David đang đến. Hosiana trên nơi cao thẳm.“
3. Từ Hosiana đến Crucifigere - Đóng đinh vào thập gía.
Dân Do Thái thời Chúa Giêsu luôn mong mỏi chờ đợi vị cứu tinh đến giải thoát đất nước họ khỏ ách đô hộ thống trị của đế quốc Roma. Vì thế khi thấy một vị được tôn phong như thần thánh cỡi lừa vào thánh Giêrusalem, họ những tưởng là vị cứu tinh đến làm tròn đầy niềm hy vọng trông mong cho họ, cho đất nước Do Thái, nên họ theo Kinh Thánh đã viết, chạy ra ngoài đường chào đón với lòng hân hoan phấn khởi cuồng nhiệt.
Nhưng họ đã thất vọng. Chúa Giêsu đến vào thành Gierusalem không phải là vị cứu tinh giải thoát khỏi đế quốc chính trị Roma lúc đó, như họ mong tưởng. Mà ngài đến là vị vua hòa bình, vua của nước Thiên Chúa tình yêu.
Nên từ lời hoan hô cuồng nhiệt Hosiana ngày đầu tuần, họ đã thay đổi thành lời hô hoán Crucifigere- đóng đinh nó vào thập gía, ngày thứ sáu tuần thánh.
Nơi Chúa Giêsu có hai bản tính: Thiên Chúa và con người. Về phía bản tính con người, ngài được hoan hô Hosiana, rồi lại bị xỉ vả Crucifigere, lên án đóng đinh nó vào thập gía. Ngài đã trở nên ánh sáng hy vọng là người hướng dẫn, sau đó liền bị phản bội và lên án cho đến chết.
Nhưng về bản tính Thiên Chúa, Ngài không nằm dừng lại nơi đó. Sau khi chết được an táng trong lòng mộ huyệt, Ngài đã sống lại. Sự sống lại của Ngài là ơn cứu độ cho con người khỏi hình phạt tội lỗi do Ông Bà nguyên tỗ Adong-Evà gây ra.
‘’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’’
Giáo hội Chúa Kito hằng năm đều rước lá mừng kỷ niệm biến cố ngày xưa Chúa Giêsu vào thành Gierusalem, ngày Chúa nhật đầu tuần thánh với tâm tình vui mừng, cùng tưởng nhớ tới biến cố Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể trước khi chịu đóng đinh chết trên thập giá là lễ hiến tế đền tội cho mọi người trần gian.
Tập tục rước lá kỹ niệm biến cố Chúa Giêsu vào thành Gierusalem được biết đến rộng rãi hồi thế kỷ thứ 4. thứ 5. và thứ 8. Ngày xưa lúc Chúa Giesu cỡi lừa vào thành Gierusalem, dân chúng mừng rỡ nói lời Hosiana chúc tụng Đấng nhân Dang Thiên Chúa đến.
Ngày nay Giáo Hội Chúa Kitô chào mừng Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Ngài đến hiện diện ở giữa con người. Đồng thời Giáo hội chào mừng Ngài luôn luôn đến ở lại với chúng ta, và dẫn đưa chúng ta đến với Ngài đang đến.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long