Cuộc chơi banh và niềm hy vọng
- Viết bởi Dân Chúa
Trong đời sống ai cũng nuôi niềm hy vọng cho đời sống. Vì niềm hy vọng cần thiết như lương thực cho đời sống hôm nay và ngày mai.
Niềm hy vọng không chỉ giúp tinh thần chi khí phấn khởi vươn lên, mà còn nâng đỡ cho gân cốt bắp thịt thêm mạnh sức nữa. Và từ cơ bản đó nẩy sinh phát triển sáng kiến bất ngờ cùng hấp dẫn.
Bên khung trời Âu châu đang diễn ra những trận thi đấu bóng đá giữa các đội tuyển quốc gia ở bên lục địa này. Tuy là môn thể thao nhằm mục đích tập luyện cho cơ thể mạnh khoẻ cường tráng dẻo dai, nhưng môn thể thao này ngày càng phát triển thêm, tinh tế khoa học hơn về phương diện kỹ thuật, nghệ thuật và cộng thêm phần triết lý văn hóa đời sống nữa.
Hay theo suy tư của Đức Hồng Y Ratzinger: „ Như thế, môn chơi đã vượt qua cuộc sống hằng ngày. Môn chơi trước hết, nhất là đem đến cho trẻ em, bạn trẻ một bộ mặt đức tính khác: Sự tập luyện bước vào đời sống. Nó vẽ nên dấu chỉ hình ảnh đời sống tự mình phát triển cung cách sống cởi mở tự do.
Với tôi, hấp lực của môn chơi Bóng đá nằm ở chỗ, nó liên kết cả hai khía cạnh này trong một hình thái có sức hấp dẫn thuyết phục.
Nó bó buộc con người, trước hết tự mình thuần thục hóa chính mình qua việc tập luyện để thắng chính mình, qua sự vượt trội có sẵn hay đạt được đưa đến tự do. Thể thao bóng đá cũng dậy cho biết sống chơi kỷ luật với nhau. Trong một đội banh bắt buộc phải khép mình từng cá nhân vào tập thể chung.
Môn thể thao bóng đá nối kết qua cùng chung đích điểm. Thành công hay không thành công của mỗi cá nhân nằm trong liên quan thành công hay không thành công của toàn đội banh.“
Chính vì thế bộ môn thể thao bóng đá trở nên phổ thông đại chúng. Bộ môn thể thao này mang tầm ảnh hưởng lớn trong lãnh vực đào tạo giáo dục không chỉ về nghệ thuật kỹ thuật chơi nhồi bóng, nhưng còn cả về cung cách tính tình lối sống chơi chung đồng đội, lội sống tôn trọng nhau, lối sống kiên nhẫn, lối sống phát tỏa niềm vui niềm hy vọng.
Khi ra sân thi đấu các cầu thủ đều mong muốn chơi đá lọt lưới khung thành đối thủ đội bạn mang chiến thắng về cho đội tuyển, cho quốc gia đất nước mình.
Trong cuộc thi đấu các cầu thủ cố gắng vận dụng thể lực cũng như tinh thần sáng tạo, áp dụng kỹ thuật, nghệ thuật cùng kinh nghiệm nuôi niềm hy vọng dâng cao có cơ hội dẫn banh làm bàn dành chiến thắng. Nhưng dẫu vậy họ cũng cần sự may mắn nữa.
Còn con người không phải là cầu thủ thể thao hay cầu thủ đá banh trên sân cỏ, không chạy trên sân vận động, trên sân cỏ bóng đá, nhưng trong đời sống con người hằng luôn phải đi, phải chạy trên sân trường đời sống.
Họ luôn phải cố gắng không ngừng bươn chải làm việc, học hành, hy sinh dấn thân chiến đấu, mới mong đạt tới thành công có kết qủa tốt đẹp như lòng mong muốn hy vọng.
Nhưng dựa vào đâu để con người có khí thế sức lực dẻo dai chạy hay đi đường dài, không phải như các cầu thủ bóng đá chỉ chạy thi đấu 90 phút trên sân cỏ, mà trong suốt cả đời sống hằng chục năm trời?
Để mình được hay tự đào tạo giáo dục, tập luyện, giữ ý chí kiên cường chịu đựng vượt qua những khó khăn trên trường đời, cùng học hỏi rút tỉa kinh nghiệm và luôn niềm niềm hy vọng cố gắng vươn lên, là điều cần thiết cùng căn bản, hay nói theo ngôn ngữ cụ thể đó là như „bản vị tiền bạc“ cho đời sống.
Dẫu vậy, trong dân gian có kinh nghiệm tin tưởng khôn ngoan cùng đạo đức chan chứa niềm hy vọng nơi Đấng Toàn Năng: „Làm bởi bay ban bởi Ta“. Hay „ Mình lo, Chúa liệu“.
Ngôn sứ Isaia đã có tâm niệm tin tưởng làm kim chỉ nam cho đời sống con người:
„ Những người đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa nhận được thêm sức mạnh. Họ như chim đại bàng tung cánh bay vút lên cao. Họ chạy mà không mỏi mệt. Họ đi đường trường mà không mỏi gối chùn chân. „ ( Isaia 40,31).
Mùa Euro 2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tìm nguyên nhân cá chết dưới ánh sáng của thông điệp “Laudato si”
- Viết bởi Cao Gia An, SJ
Vẫn chưa có một câu trả lời chính thức về nguyên nhân cá chết. Sự im lặng và những cách nói lập lờ từ phía những người có trách nhiệm không những đã không giải quyết được gì, mà còn khiến nhiều người thêm bức xúc. Vừa lo lắng cho môi trường sống vừa lo lắng cho vận mệnh của tương lai, nhiều người đã dương cao tấm biểu ngữ: "Cá cần nước sạch, dân cần minh bạch". Khi thông tin không minh bạch, thì đương nhiên sẽ phát sinh nhiều lời đồn đoán.
Bài viết này không muốn thêm vào một lời đồn hay một giả đoán. Từ góc độ tôn giáo, bài viết muốn góp một chút suy tư về những nguyên nhân sâu xa gây nên thảm trạng cá chết hàng loạt dọc bờ biển Miền Trung, dưới sự hướng dẫn của thông điệp "Laudato Si" (LS). Thông điệp này được Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô ban hành tại Roma ngày 24.05.2015, được diễn đạt không chỉ bằng ngôn ngữ tôn giáo và thích hợp không chỉ cho những người thuộc công giáo.
1.Tại sao phải nhất quyết đi tìm nguyên nhân?
Vì không thể không đi tìm. Là người có tâm thì không ai có thể dửng dưng trước thảm hoạ đang diễn ra trong 'căn nhà chung' mà mình đang sống, nhất là ngay chính trên quê hương xứ sở của mình.
Trong thời gian cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót, hẳn chúng ta còn nghe vọng vang lời nhắn nhủ tha thiết từ vị Cha chung của chúng ta: "Chúng ta đừng để mình ngập ngừng trong thái độ dửng dưng đáng xấu hổ... Ước chi chúng ta có thể chung tay phá đổ những rào cản của thái độ dửng dưng lãnh đạm, vẫn thường được dùng để che giấu thói giả hình và tính ích kỷ".[1] Theo đó, sự dửng dưng bị gọi là thái độ đáng xấu hổ. Sự dửng dưng lãnh đạm được ví như chiếc mặt nạ, được dùng để che phủ thói giả hình và tính ích kỷ. Vượt ra khỏi thái độ dửng dưng lãnh đạm là một cách cụ thể sống Lòng Thương Xót của người công giáo trong Năm Thánh này.
Hay như gần hơn, chúng ta tìm thấy một lối nói thấu tình đạt lý trong thư chung của ĐGM Giáo Phận Vinh viết về thảm hoạ ô nhiễm môi trường biển: "Rất có thể con cháu chúng ta sau này sẽ hỏi: 'Vào thời điểm đất nước lâm nguy, Biển Đông bị ô nhiễm, ông, bà, cha, mẹ đã làm gì để cứu biển và cứu chúng con?'". Không có gì ngạc nhiên khi câu hỏi nhắm vào việc chúng ta đã "làm gì". Thực tế, "chung tay phá đổ những rào cản" hay "làm gì" là những cách nói khởi đi từ nguồn cảm hứng của Kinh Thánh. Hẳn chúng ta biết rằng, đời sống đạo đức của một người Ki-tô hữu không được phép chỉ gói gọn trong việc "không làm chuyện xấu", nhưng còn là "phải làm điều tốt". Chung cục, Thiên Chúa sẽ chất vấn chúng ta về những điều tốt chúng ta đã không làm (Cf. Mt 25,31-46). Cũng vậy, thánh Gia-cô-bê khẳng định: "kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội" (Gc 5,13).
Như vậy, có thể nói rằng việc đi tìm nguyên nhân là một cách xét mình. Chúng ta không đi tìm nguyên nhân theo kiểu phải lần cho ra kẻ chịu trách nhiệm chính của thảm hoạ để ném đá và kết án. Chúng ta nhìn lại mình, nhìn lại xã hội mình đang sống, nhìn lại trách nhiệm mà chúng ta phải có với thế hệ tương lai. Bởi lẽ, "chỉ nói rằng chúng ta phải bận lòng về thế hệ tương lai thì không đủ! Chính chúng ta, chứ không ai khác, phải là những người đầu tiên có trách nhiệm để lại cho thế hệ con cháu một hành tinh có thể ở được" (LS 160). Trong bối cảnh của đất nước chúng ta, vừa không ngừng tuyên bố muốn xây dựng một đất nước vững mạnh, vừa chỉ lo chú tâm khai thác những nguồn lợi của hiện tại theo cách bất chấp hậu quả cho tương lai, thì không khác gì đang tự vả vào miệng mình. Không thể có một đất nước vững mạnh nếu cái mà thế hệ tương lai được kế thừa chỉ là gánh nặng và những nợ nần để lại từ thế hệ cha ông.
2.Nguyên nhân đến từ con người
Thiên nhiên có khả năng thích ứng với thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên khó thích ứng với những can thiệp thô bạo từ con người, nhất là những can thiệp đến từ ý định chỉ muốn trục lợi kinh tế và chấp chấp hậu quả. Thế nên những lời đổ lỗi cho thiên nhiên, như triều cường đỏ, tảo đỏ, ô nhiễm tiếng ồn... đều là những kiểu nói lấp liếm và không thuyết phục. Chúng ta biết rằng nguyên do gốc rễ của việc cá chết hàng loạt đến từ con người chứ không phải từ thiên nhiên.
"Sẽ là vô ích nếu chỉ mô tả các triệu chứng chứ không nhận biết những nguyên do nhân loại gây ra cuộc khủng hoảng sinh thái" (LS 101), đó là câu khởi đầu chương III của thông điệp Laudato Sì, "những nguyên do nhân loại của cuộc khủng hoảng sinh thái". Theo đó, con người chính là nguyên do. Đằng sau cuộc khủng hoảng sinh thái là cuộc khủng hoảng về con người và về xã hội. "Chúng ta đang phải đối diện không phải với hai cuộc khủng hoảng riêng biệt, một cuộc khủng hoảng môi trường và một cuộc khủng hoảng xã hội, nhưng đúng hơn là với một cuộc khủng hoảng phức tạp cả về môi trường lẫn xã hội" (LS 141). Bởi lẽ, "thoái hoá môi trường sống và thoái hoá môi trường nhân loại đi liền với nhau. Sẽ là không thích đáng nếu chỉ nói về thoái hoá môi trường sống, mà không để ý đến những căn nguyên làm thoái hoá con người và xã hội" (LS 48).
Như vậy, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng sinh thái, theo Laudato Sì, có thể quy về một mối: "nền sinh thái con người" đang bị biến chất[2]. Nếu nguyên nhân đến từ con người, việc "chỉ tìm kiếm một giải pháp kỹ thuật cho vấn đề sinh thái có nghĩa là cô lập và che giấu chuyện trong thực tế móc nối với rất nhiều những vấn đề sâu xa khác". (LS 111). Đâu là những vấn đề sâu xa khác mà chúng ta có thể nghĩ đến?
Đọc xuyên suốt thông điệp, có thể tóm lại rằng: vấn đề sâu xa nằm trong não trạng thống trị của con người, được cụ thể hoá trong cách con người sử dụng quyền lực. Trong bối cảnh của thông điệp, phạm vi "quyền lực" được nhắc đến nhiều nhất là trong lãnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ. Trong bối cảnh của chúng ta, chúng ta có thể nới rộng những điều được phân tích đến cả phạm vi chính trị và xã hội.
"Chưa bao giờ con người ngày nay lại có nhiều quyền lực đến như vậy, lại chẳng có gì đảm bảo rằng con người sẽ sử dụng tốt quyền lực ấy" (LS 104). Nhưng một cách cụ thể "con người" là ai? Trong bối cảnh chung cho toàn cầu, thông điệp phải dùng một ngôn ngữ chung. Nhưng trong bối cảnh cụ thể của mỗi xã hội, thông điệp gởi đến những lời chất vấn cụ thể: "Những quyền lực ấy đang nằm ở đâu? Trong tay ai? Là nguy hiểm khủng khiếp khi quyền lực nằm trong tay của một nhóm nhỏ" (LS 104). Thí dụ minh nhiên được nhắc đến để minh hoạ cho mối nguy hiểm khủng khiếp là trường hợp của chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, và những chế độ độc tài toàn trị (Cf. LS 104).
Như thế, có thể nói rằng khái niệm sinh thái theo tinh thần của thông điệp Laudato Sì là một nền sinh thái toàn diện. Những hệ quả lưu lại trên nền sinh thái tự nhiên là dấu chỉ hữu hình phản ánh chính nền sinh thái xã hội. Nhưng để có được một nền sinh thái xã hội lành mạnh, cần có những tổ chức xã hội lành mạnh. Khi sự không lành mạnh nằm trong chính những tổ chức xã hội có trách nhiệm quan trọng và có quyền quyết định vận mệnh của xã hội, thì một nền sinh thái xã hội lành mạnh là chuyện bất khả thi, và một nền sinh thái tự nhiên trong sạch là chuyện vô cùng khó khăn. Vì thế, để thăng tiến môi trường sinh thái, thông điệp khích lệ việc dấn thân của mọi công dân trong các lãnh vực kinh tế, xã hội và chính trị, để tạo ra "một sức ép chính đáng và cần thiết đối với những người nắm quyền về chính trị, xã hội và kinh tế" (LS 206). Khi người công dân không kiểm soát được việc thực thi quyền lực chính trị, thì việc kiểm soát những huỷ hoại môi trường là bất khả thi (LS 179).
3.Cá chết, và những cái chết khác
Nhìn trong viễn tượng của một nền sinh thái toàn diện, có thể nói rằng câu chuyện không dừng lại ở việc cá chết. Cá chết là cái hậu quả hữu hình. Nhưng chắc chắn đó chưa phải là hậu quả duy nhất và nghiêm trọng nhất. Cái chết của cá nói về nhiều cái chết khác, vô hình nhưng nguy hại hơn rất nhiều.
Cá chết vì nước bị nhiễm bẩn. Nếu cái chết ấy bị thả rơi vào trong im lặng, kéo theo sẽ là những cái chết khác của biển và của cả một hệ sinh thái vùng duyên hải miền Trung. Xét từ một mặt, cái chết hàng loạt của cá kéo theo nhiều cái chết khác. Cái chết của sự tín nhiệm dành cho những người có trách nhiệm. Cái chết của niềm tự hào vô lối rằng "đất nước ta rừng vàng biển bạc". Cái chết của xác tín duy vật và đầy tính thống trị đối với thiên nhiên "bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm". Xét từ một mặt khác, vẫn ước mong rằng cái chết của cá nên là một hồi chuông gióng lên để cáo chung cho nhiều cái chết khác, có giá trị tính cực và xây dựng hơn. Cái chết của sự vô tâm và vô cảm, để chúng ta không còn ngoảnh mặt làm thinh trước những tàn hại gây ra do một cơ chế quản lý đầy vấn đề. Cái chết của sự sợ hãi, để chúng ta không còn thu mình lại và tách mình xa khỏi những vấn đề xã hội chính trị. Cái chết của lối sống cục bộ và ích kỷ, để sự liên đới và tình người được lớn lên giữa lòng dân tộc.
Tạm Kết
"Người Ki-tô hữu tốt cũng là người công dân tốt". Đây có thể là một cách diễn đạt của lời dạy từ công đồng Vatican II: "mọi Ki-tô hữu đều phải ý thức về ơn gọi đặc biệt của mình trong cộng đoàn chính trị"[3]. Những biến cố nghiêm trọng của cộng đồng xã hội vừa là thách đố nhưng cũng vừa là cơ hội để cộng đoàn Ki-tô hữu sống và bộc lộ căn tính của mình. Như muối cho đời và men trong bột, ơn gọi của Giáo Hội là tan ra giữa lòng thế giới để cho đi sự sống của riêng mình. Bằng không, muối hay men cũng đều trở thành vô dụng.
Hành trình hội nhập và dấn thân tích cực trong hoàn cảnh cụ thể của một xã hội là trách nhiệm không thể miễn trừ của Giáo Hội của Đức Ki-tô. Trong trong hoàn cảnh cụ thể của Giáo Hội Việt Nam, lời nhắn nhủ của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô là vô cùng ý nghĩa và đặc biệt hữu ích: "Tôi muốn có một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích, bị nhiễm bẩn vì đã ở trên đường, hơn là một Giáo Hội bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bấu víu vào sự an toàn của riêng mình... Thay vì sợ mắc sai lầm, chúng ta hãy sợ việc đóng kín mình trong những cơ cấu chỉ mang đến cho chúng ta một sự an toàn giả tạo, trong những luật lệ biến chúng ta thành những vị quan toà không biết chạnh lòng, hay trong những thói quen sống an toàn trong khi bên ngoài còn bao nhiêu người đói khát. Và lời của Đức Giê-su vẫn lặp lại không ngừng với chúng ta: "Chính anh em hãy cho họ ăn!'".[4]
[1] Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, Tông Thư "Dung Mạo Lòng Thương Xót", số 15.
[2] Trong một thư chung nổi tiếng lên án tệ nạn tham nhũng, viết năm 1991 tại Plática, Đức Hồng Y Jorge Mario Bergolio nói: "Ngày nay người ta nói nhiều về tham nhũng và lũng đoạn, nhất là trong lãnh vực chính trị... Mọi lũng đoạn của xã hội đều bắt nguồn từ sự lũng đoạn của từng cá nhân, sự lũng đoạn trong trái tim con người" (Jorge Mario Bergolio, Corrupción y Pecado, Claretiana – Buenos Aires, 2013, nn.1-2).
[3] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng", số 75.
[4] Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, Tông Huấn "Niềm Vui Tin Mừng", số 49.
Cao Gia An, SJ
Nguồn: Dongtenvietnam
Vị cứu giúp con người trong cơn khủng hoảng
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Trước thảm cảnh người tỵ nạn vượt biên bằng tầu thuyền trên biển Đông phải đối diện với những nguy hiểm đe dọa mạng sống, sóng gió bão táp, nạn cướp bóc hãm hiếp của hải tặc…năm 1979 Ông Neudeck đã cổ động người dân nước Đức thành lập hội „ Một con tầu cho Việt Nam“ để cứu giúp vớt những con thuyền nhỏ bé mong manh chứa chất đầy ắp người đang trôi dạt lênh đênh trên biển cả.
Hội đã nhận được sự ủng hộ quảng đại rộng rãi của người dân nước Đức từ nhiều thành phần về tinh thần cũng như vật chất. Và từ đó Hội đã thuê bao con tầu Cap Anamur ngày đêm từ 1979 đến 1986 chạy ngang dọc trên vùng biển Đông phía Vịnh Thái Lan tìm kiếm cứu vớt những người tỵ nạn tầu thuyền, mà lúc đó gọi bằng tên “Boat people".
Từ đó người ta không gọi là hội „ Một con tầu cho Việt Nam“ , nhưng gọi là Hội Cap Anamur .
Tên Cap Anamur và tên Ông Neudeck trở thành thân thương quen thuộc gắn bó với người tỵ nạn Việt Nam không chỉ ở nước Đức, mà còn trên nhiều nước khác nữa.
Chiến dịch bác ái tình người Cap Anamur do Ông và những vị ân nhân khác cùng sáng lập đã cứu vớt hơn 11.000 người tỵ nạn Việt Nam, mà phần rất lớn đã tìm được nơi chốn định cư sinh sống trên đất nước Cộng Hoà liên bang Đức.
Ông Neudeck không chỉ dấn thân giải quyết cứu giúp trong cơn khủng hoảng thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam, nhưng Ông còn dấn thân làm công việc bác ái cứu giúp những người gặp hoàn cảnh khốn khó vì chiến tranh, trong bệnh tật nghèo đói, ở các nước vùng khác trên thế giới như bên Phi Châu, bên vùng Trung Đông, bên Kosovo, bên Syria, bên Afganistan…
Đời sống việc làm dấn thân bác ái của Ông cho con người không chỉ nói lên chiều kích trái tim rộng mở quảng đại, tài trí cùng lòng can đảm to lớn của một người có khả năng ý chí kiên cường đối diện giải quyết khủng hoảng, nhưng còn chiếu tỏa một nền tảng đạo đức thâm sâu của tâm hồn Ông, như trong phúc Chúa Giêsu nói:
„ Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;36 Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han."37 Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống;38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc?39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? "40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.."( Mt. 25, 35-40)
Sau hàng chục năm không mệt mỏi hy sinh quên mình dấn thân phục vụ làm việc bác ái giúp con người trong những khi họ gặp hoàn cảnh khủng hoảng, Ông Rupert Neudeck đã được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã sinh thành nuôi dưỡng đời Ông, gọi trở về đời sau ngày 31.05.2016 hưởng thọ 77 tuổi.
Đời sống bác ái của Ông Rupert Neudeck phản ảnh gương sống người Samarita nhân lành trong Phúc âm Chúa Giêsu. ( Lc 10, 25-37).
Với lòng thành kính xin chân thành chia buồn cùng vợ con gia đình Ông Neudeck.
Với lòng biết ơn chúng ta cám ơn Ông, và cùng dâng lời kinh cầu nguyện cho Ông.
Nhớ tới Ông, chúng ta muốn noi gương sống làm việc bác ái Ông đã sống để lại.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Chức Phó Tế cho phụ nữ
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Hôm 12.05.2016 Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với các vị Bề trên Dòng nữ: „Khi người ta nói đến những người phụ nữ như những vị Phó tế nữ ở vào thế kỷ thứ nhất thời Giáo hội lúc ban đầu, nhưng không nói gì rõ ràng chính xác về vai trò của họ lúc đó. Phải chăng cần phải thiết lập Ủy ban để nghiên cứu tìm hiểu việc này cho chính xác sâu rộng ? Tôi bằng lòng phương cách này. Tôi sẽ nói chuyện để thiết lập một Ủy ban nghiên cứu đề nghị này.“
Dựa vào câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, những thảo luận về chức Phó Tế cho phụ nữ lại sôi động dấy lên nơi khắp các phương tiện truyền thông thế giới, nơi những người từng có ý kiến đòi hỏi phong chức Phó Tế cho phụ nữ trong nội bộ Giáo Hội.
Kể từ Công Đồng Vatican II những ý kiến, những yêu cầu và những bàn thảo về chức Phó Tế cho phụ nữ luôn là đề tài sôi nổi, và thời sự hầu như luôn được lặp lại, nhất là ở những Giáo hội bên các nước tây phương.
Nhưng Giáo Hội Công Giáo, trải qua thời các Đức Giáo Hoàng, cho tới ngày hôm nay không có quy định gì về việc thành lập chức Phó Tế cho phụ nữ.
Khác với những Giáo Hội Tin lành, theo truyền thống trong Giáo hội Công giáo ba chức thánh: Giám mục, Linh mục, và Phó tế - còn gọi là thầy Sáu- chỉ dành cho những người đàn ông mới được nhận lãnh.
Xưa nay các Đức giáo hoàng và Công đồng Vatican II cũng đều qủa quyết xác nhận truyền thống kỷ luật này của Giáo hội kèm theo với luật bắt buộc sống độc thân của hàng giáo sỹ, chỉ trừ các Phó tế vĩnh viễn có từ thời Công đồng Vatican II được phép lập gia đình trước khi chịu chức Phó tế và chỉ một lần không được tái kết hôn lần nữa.
Nhưng những bút tích dấu chứng về nữ Phó tế trong Giáo Hội nói thế nào?
1. Ngay từ thời Giáo Hội thuở ban đầu đã có chứng từ bút tích nói về vai trò người nữ Phó tế, như Thánh Phaolô trong thư gửi Giáo Đoàn Roma viết:
„Tôi xin giới thiệu với anh em chị Phê-bê, người chị em của chúng tôi, là nữ phó tế - diakonoi -Hội Thánh Ken-khơ-rê.2 Mong anh em tiếp đón chị trong Chúa cách xứng đáng, như dân thánh phải đối xử với nhau. Chị có việc gì cần đến anh em, xin anh em giúp đỡ, vì chính chị cũng đã bảo trợ cho nhiều người, kể cả tôi nữa.(Thư Roma 16, 1-2).
2. Giáo phụ Origenes (185- 254) đã viết quảng diễn đoạn Kinh Thánh của Thánh Phaolô như sau:
„Đoạn kinh thánh ( Roma 16,1-2) của Thánh Phaolô dậy nói về quyền bính tông đồ, các phụ nữ cũng được tuyển chọn làm việc phục vụ trong Giáo hội. Chị Phê-Bê, một người có chức quyền trong xứ đạo Kên-khơ-rê, như Thánh Phaolô tông đồ nhắc viết đến giới thiệu với lời ca ngợi nồng nhiệt, khi Thánh nhân kể ra những việc làm của chị ta mang lại hữu ích cần thiết cho nhiều người.“
3. Didascalia Apostolorum, luật lệ của xứ đạo Syria năm 230 viết:
„Vì thế, thưa ngài Giám mục, xin tuyển dụng những người thợ phục vụ săn sóc những người nghèo và những cộng tác viên để họ trợ giúp ngài trong đời sống. Xin hãy tuyển chọn những người được toàn dân yêu mến kính trọng, đặt họ như là những Phó Tế, người đàn ông cho những công việc cần thiết, và cả phụ nữ cho việc phục vụ công việc cho người phụ nữ. Có những ngôi nhà (trường hợp), ngài không thể sai một vị Phó Tế người đàn ông đến với những người phụ nữ được, nhưng theo ý mong muốn của người lương dân, ngài có thể cử sai một vị Phó tế nữ giới đến đó được.
Vị Giám mục đứng trong vị thế người đại diện cho Thiên Chúa, nhưng vị Phó Tế nam giới trong chỗ đứng của Chúa Kitô, anh em hãy yêu mến họ. Vị Phó Tế nữ giới theo mẫu gương của Chúa Thánh Thần được anh em kính trọng.“
4. Constitutiones Apostolorum, luật lệ xứ đạo Syria năm 380 viết:
„Thưa ngài Giám Mục, ngài đặt tay phong chức Phó Tế cho đàn ông và cho phụ nữ trước sự hiện diện của hàng Linh mục, của các Phó tế nam, các Phó tế nữ với lời cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu là Cha Đức Giêsu Kitô, Đấng tạo dựng nên người nam và người nữ, Chúa đã ban tràn đầy Thánh Thần cho Maria, Debora, Anna và Hulda, Chúa đã không khinh chê để Con của Chúa sinh ra bởi người phụ nữ, và Chúa đã dùng đặt họ là những chứng nhân, là những người nữ canh giữ cửa thánh.
Xin hãy đoái nhìn đến những nữ tôi tớ Chúa đây được tuyển chọn là cộng sự viên phục vụ cho công việc của Ngài. Xin ban cho họ Thánh Thần Chúa, thanh luyện họ khỏi những vết nhơ vướng mắc của xác thịt và tinh thần, để họ xứng đáng làm công việc được tin tưởng trao phó, hầu làm rạng danh Chúa và mang lại lời ca tụng Chúa Giêsu Kitô con Chúa trong sự tôn kính thờ lạy Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.“.
5. Công Đồng Nimes (394-396) có phán quyết hồ nghi phản bác:
„ Có những người thuật lại rằng, theo kỷ luật các tông đồ và vô danh cho tới ngày hôm nay, những người phụ nữ, mà người ta không biết ở nơi đâu, xuất hiện như được tuyển chọn vào phục vụ công việc tế tự thuộc hàng tư tế Levi. Điều này không phù hợp cùng không được phép theo kỷ luật của Giáo hội. „
6. Công Đồng Chalcedon ( 451) đưa ra kỷ luật:
„ Một người phụ nữ được phong chức Phó Tế không được phép dưới 40 tuổi, người phụ nữ này phải được điều tra thử thách kỹ lưỡng. Trong trường hợp chị ta kết hôn lập gia đình, sau khi nhận lãnh chức Phó Tế và còn phục vụ việc đạo giáo tinh thần,…chị ta cùng với người chồng nên (phải) ngưng công việc này.“
7. Bên Giáo hội phía tây phương chức vụ Phó tế cho phụ nữ có hiện thực ở trong những tu viện dòng nữ, như những tu viện của các chị Dòng kín Cartäuserinnen.
Vào cuối thế chiến thứ hai thắc mắc yêu cầu về chức Phó tế cho phụ nữ, sau hàng thế kỷ yên lặng không mấy được nói đến, lại được nêu ra bàn thảo sâu rộng và sôi nổi.
Năm 1964 công đồng Vatican II trong hiến chế Lumen gentium số 29 đã thiết lập lại chức Phó tế vĩnh viễn cho đàn ông thôi. Công Đồng Vatican II nhìn nhận thắc mắc về phụ nữ như dấu chỉ căn bản của thời đại.
8. Cô Charlotte Allen đưa ra nhận xét trong tạp chí First Things: “Từ ngữ „ diakonoi“ Thánh Phaolô dùng nói viết về nữ Phó tế Phe-bê (Roma 16,1-2) mang ý nghĩa là người phục vụ. Trong Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Gioan từ ngữ người phục vụ cũng được dùng trong bài tường thuật tiệc cưới Cana đã đổ đầy nước vào sáu chum nước.
Trong những tài liệu thế kỷ thứ ba và thứ tư cũng có nói đến những nữ Phó tế. Những người này hoặc là những bà góa chồng hay là những người độc thân sống trong những tu viện nhà dòng. Việc bổn phận chính của họ là trông coi săn sóc việc từ thiện bác ái. Họ cũng là những phụ tá trong lễ nghi phụng vụ, như ngày nay còn có nơi tu viện dòng nữ.
9. Vào thời Trung Cổ những vị nữ Phó tế biến mất không thấy còn nữa, khi chức Phó Tế được trao cho những công việc phụng vụ như giảng lời Chúa, công bố phúc âm theo thứ tự luật lệ của Giáo Hội.“
10. Làn sóng thông tin nhạy cảm nhanh chóng về vấn đề chức Phó tế cho phụ nữ sau câu nói của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các vị Bề Trên Dòng nữ đã dấy lên sôi động rộng rãi theo chiều hướng hiểu suy diễn của phong trào đòi phong chức Phó tế cho phụ nữ đã phần nào gây hoang mang cho nhiều người.
Cha Lombardi, vị phát ngôn viên của Đức Giáo Hoàng đã lên tiếng cắt nghĩa ý của Đức giáo hoàng: “Đức giáo hoàng không nói đến việc chức Phó Tế cho phụ nữ và ngài cũng không bằng lòng với chuyện này. Ngài chỉ muốn tìm hiểu cho rõ ràng chính xác về vai trò theo phương pháp khoa học của những người phụ nữ như những vị nữ Phó tế trong thời Giáo hội lúc ban đầu như thế nào.“
11. Không nói đến việc thiết lập chức Phó tế cho phụ nữ, nhưng Đức giáo hoàng Phanxicô luôn bày tỏ tâm tư suy nghĩ ca ngợi về họ: “Phụ nữ có nhiều điều để nói với chúng ta trong xã hội ngày nay. Thỉnh thoảng, đàn ông chúng ta chưa tạo không gian cho họ. Phụ nữ có khả năng nhìn nhận vấn đề khác chúng ta, và có thể đưa ra những câu hỏi mà đàn ông không hiểu nổi”. (Bài giảng ở Manila 18.01.2015.).
Mùa Xuân 2016
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Lễ Mình Máu thánh Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lễ Mình Máu thánh Chúa Giêsu - Sollemnitas Sanctissimi Corporis et Sanguinis Chisti - là lễ ngày trọng, lễ lớn trong phụng vụ Giáo Hội Công Giáo.
Hằng năm lễ này được mừng kính vào ngày Thứ Năm sau Chúa nhật lễ kính Chúa Ba Ngôi, và 10 ngày sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trong ngày lễ này, Mình Máu thánh Chúa Giêsu là trung tâm trọng điểm của lễ mừng kính nhắc nhớ lại chiều thứ năm tuần thánh, Chúa Giesu đã dùng Bánh và Rượu lập Bí Tích Thánh Thể.
Trong bữa ăn tối sau cùng với các Thánh Tông Đồ, quen gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu trước khi tự nguyện hiến thân chịu chết cho ơn cứu độ con người, đã dùng bánh làm hình ảnh thân xác mình, và rượu làm hình ảnh máu của mình thiết lập Bí tích Thánh Thể để lại cho con người, làm lương thực nuôi dưỡng đức tin cho những ai tin yêu mến Người. Chúa Giêsu không lập Bí tích Thánh Thể chiều hôm bữa tiệc ly một lần rồi thôi, nhưng Ngài truyền cho các Thánh Tông Đồ, cho Giáo hội nối tiếp công việc của Ngài: Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.
Từ ngày đó Giáo Hội Chúa ở trền gian hằng ngày, hằng tuần đều cử hành Bí Tích Thánh Thể trong thánh lễ Misa làm lương thực tình yêu của Chúa cho tâm hồn đức tin người tín hữu Chúa, như khi xưa Chúa Giêsu đã làm dưới hình dạng tấm Bánh và Rượu nho.
Ngày lễ trọng mừng kính Mình Máu thánh Chúa có nguồn gốc từ thị kiến của nữ tu Dòng Thánh Âucơtinh Juliana bên Liege . Năm 1209 chị nữ tu Juliana nhiều lần đã được nhìn thấy một hình tròn như mặt trăng có vệt đen. Chúa Giêsu Kitô đã mặc khải cho chị vòng tròn mặt trăng đó là chu kỳ phụng vụ những ngày lễ trong Giáo Hội, còn vệt đen là còn hãy còn thiếu một ngày lễ nữa trong vòng chu kỳ phụng vụ mừng kính Bí tích Thánh Thể nơi bàn thờ. Vì thế năm 1246 giáo phận Liege bên Bỉ lập ra ngày lễ kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu.
Đức Giáo Hong Urbano IV. năm 1264 đã ấn định thiết lập ngày lễ này trong Giáo Hội. Và đến năm 1317 dưới thời Đức giáo hoàng Gioan XXII. ngày lễ trọng này là ngày lễ trọng trong Giáo hội hoàn vũ.
Vào ngày lễ này, sau thánh lễ Misa, nhiều nơi cử hành thánh lễ ở ngoài trời, là phần rước kiệu Mình Thánh trong Mặt Nhật đi xuyên qua các con đường nơi dân chúng sinh sống. Có nơi có tập tục Mặt Nhật Mình Thánh Chúa Giêsu được đoàn rước mang trên một con tầu chạy dọc dòng sông quanh vùng thành phố xứ đạo.
Cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa ngoài trời trọng thể với hoa đèn, cờ, kèn trống và những bản thánh ca kính Mình Máu Thánh Chúa, có những nơi còn làm những bàn thờ có hoa nến long trọng để làm trạm chầu Mình Thánh giữa đường, là một cung cách tuyên xưng đức tin sống động vào mầu nhiệm tình yêu Chúa.
Ngày lễ kính Mình Máu thánh Chúa với cuộc rước kiệu biểu lộ đức tin đã trở thành truyền thống trong nếp sống văn hóa Công giáo, nhất là ở những xứ sở, vùng đất nước đạo Công giáo phổ biến thịnh hành.
Thánh Tông đồ Giacobe nhắc nhở: Đức tin không có việc làm là đức tin chết. ( Giacobe 2, 17)
Vì thế, việc rước kiệu mừng kính tuyên xưng đức tin ngoài trời nơi công cộng ngày lễ kính Mình Thánh hay kính Đức Mẹ, kính các Thánh, không phải là hình thức bề ngoài phô trương. Nhưng phản ảnh lòng thành kính cùng tích cực của đức tin sống động vào Thiên Chúa tình yêu, Đấng là nguồn sự sống của mọi loài trong công trình tạo dựng thiên nhiên.
Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa 2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngôi nhà thiên nhiên
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người xưa nay vào mọi thời đại đều ra công nỗ lực xây dựng cho mình, cho gia đình có ngôi nhà để sinh sống. Vì đó là nhu cầu đời sống con người
Và chính phủ quốc gia đất nước nào cũng có những chương trình kế hoạch làm sao cho người dân có ngôi nhà ở. Vì đó là bổn phận cùng mục đích trong chính sách cai trị.
Thiên Chúa ngay từ khi sáng tạo vũ trụ đã lập nền tảng căn bản xây dựng ngôi nhà sự sống cho mọi thế hế, cho mọi loài sống trong vũ trụ: Ngôi nhà thiên nhiên.
Ngôi nhà thiên nhiên do Thiên Chúa sáng tạo có ánh sáng, bầu trời, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, không khí, đất, nước sông biển, ao hồ, suối thung lũng, núi rừng, các loài thú vật bay trên nền trời, thú vật bò chạy trên mặt đất, thú vật bơi lội dưới nước, cây cỏ bông hoa trái thảo mộc các thứ loại và con người.
Trong ngôi nhà thiên nhiên to lớn vĩ đại của vũ trụ, Thiên Chúa phú ban cho các loài được tạo dựng không chỉ có một lần, nhưng chúng còn có khả năng sinh tồn phát triển giống nòi sự sống của mình từ thế hệ nọ sang thế hệ khác nối tiếp liên tục. Vì nơi mỗi loài trong ngôi nhà thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng, ngài đều phú bẩm nơi nó mầm sự sống truyền sinh giống nòi.
Và trải qua bao nhiêu thiên niên kỷ thời đại từ thuở ngôi nhà thiên nhiên được tạo dựng vẫn luôn có cây nơi rừng tiếp tục mọc lên, vẫn có cá chim thú vật to nhỏ khác nhau sinh sản trong nước, nơi rừng, từ nguồn trong lòng đất, nơi núi rừng, ngoài biển nước vẫn luôn tuôn chảy mang sự sống đến cho mọi loài trong ngôi nhà thiên nhiên. Nước bị vẩn đục chảy ra biển có chất muối mặn hòa tan khử trùng, rồi bốc thành hơi nước và tạo thành nước mưa trong lành rơi chảy xuống vũ trụ trở lại nuôi sống các loài trong đó. Khả năng đó là thay đổi làm mới tươi trẻ sống động lại trong thiên nhiên những gì đã cũ cằn cỗi.
Ngôi nhà thiên nhiên đó là một kỳ công diệu vợi mà con người không thể tưởng tượng ra nổi. Phải, đó là một phép lạ do Đấng Tạo Hoá làm nên.
Thánh Phanxico thành Assi khi ngắm nhìn ngôi nhà thiên nhiên đã nói lên tâm tình lòng vui mừng ca ngợi vũ trụ là một mầu nhiệm thân thương cao vời.
Đức Giáo Hoàng Phanxico đã biểu lộ lòng xác tín “vũ trụ như một bí tích của cộng đoàn, như một phương tiện chia sẻ với Thiên Chúa và tha nhân trong chiều kích vũ trụ. Đó là một xác quyết khiêm tốn, gặp gỡ với điều của Thiên Chúa và nhân loại trong những thành phần nhỏ nhất của trang phục không viền mối sáng tạo của Thiên Chúa, ngay cả trong hạt bụi nhỏ bé nhất của hành tinh chúng ta” ´( Laudato Si Nr. 9) ̣
Ngôi nhà thiên nhiên được Đấng Tạo Hóa trao vào tay con người quản trị cho sự sống của họ. ( St 1, 28-30).
Nhưng trong dòng thời gian trải qua các thế hệ, các thời đại, các mục đích ý thức hệ chính trị cùng kinh tế, con người đã cách này cách khác khai thác lạm dụng phung phí, cùng phá hủy nguồn tài sản cho sự sống được tồn tại cùng phát triển của ngôi nhà thiên nhiên. Mức độ lạm dụng phá hủy ngôi nhà thiên nhiên đã chạm đến lằn ranh báo động đỏ.
Đốt phá rừng cây, bạt núi đồi, ngăn chặn nguồn nước chảy nơi sông, nơi bờ biển, thải rác chất độc xuống ao hồ sông biển, thải khí khói độc hại lên bầu trời, chôn vùi những cặn bã rác độc hại lâu khó tan biến trong lòng đất…với mục đích kinh tế kiếm lợi nhuận đã và đang gây ra ô nhiễm phá hủy môi trường sinh thái tận nơi nguồn nước trong lòng đất, nơi biển hồ sông ngòi biển cả, không khí bầu trời.
Những lạm dụng phá hủy ngôi nhà thiên nhiên đó mang đến những hậu qủa nghiêm trọng như xảy ra nạn cháy rừng, dông bão mưa ngập lụt lội, hạn hán, đất xạt lở, càng ngày càng hiếm những con thú vật nơi rừng hoang, cá chết ngoài biển, nơi sông hồ, thiếu không còn nước vệ sinh trong lành, không khí dầy đặc khó hít thở, nhiệt độ khí hậu tăng nóng thêm lên, tuyết trở thành mòn hàng hiếm qúy, vì ngày càng ít tuyết rơi phủ, những tảng băng tuyết đóng từ nghìn năm nay ở miền bắc cực, trên đỉnh núi cao đang chảy vỡ tan. Và sau cùng con người thiếu thức ăn rau cỏ cá thịt sạch thiên nhiên cùng mắc những chứng bệnh nan y nhất là về đường hô hấp, vì thiếu khí trong lành để hít thở, thiếu nước vệ sinh để ăn uống…
„ Sự tàn phá môi trường sinh thái của con người đã rất trầm trọng, vì Thiên Chúa không những trao cho con người trái đất này, nhưng chính sự sống cũng là một quà tặng của Thiên Chúa, con người cần phải bảo vệ nó trước mọi tình trạng sa sút. Mọi cố gắng bảo vệ và kiện toàn trái đất nằm trong điều kiện phải có những thay đổi sâu xa trong “cách sống, các mẫu sản xuất, tiêu thụ và cơ cấu quyền lực, là những thứ đang thống trị xã hội” ( Laudatio Si Nr.5)
Trước nguy cơ như „tự sát“ vì môi trường sinh thái đã cùng đang bị phá hủy trầm trọng tới mức báo động, Chính phủ các nước văn minh tân tiến kỹ nghệ đã cùng đang kiểm điểm nhìn lại những khuyết điểm thiếu sót lơ là với môi trường sinh thái thiên nhiên, và tìm phương cách sữa chữa gìn giữ bảo vệ thiên nhiên cho hôm nay cùng ngày mai.
Nơi xã hội các nước bên Âu Mỹ, môi trường sinh thái càng ngày càng được quan tâm chú trọng nhiều hơn, gần như được đặt lên hàng ưu tiên, hàng quốc sách. Chính phủ đưa ra những luật lệ kiểm soát gắt gao nhằm sửa chữa bảo vệ gìn giữ môi trường sinh thái ngôi nhà thiên nhiên.
Các nhà sản xuất xe hơi, máy móc, động cơ tầu thủy, xe lửa, xe buýt, máy bay…được khuyến khích cùng bắt buộc theo những tiêu chuẩn sản xuất sản phẩm không được chỉ vì lợi nhuận kinh tế mà gây ra những hậu qủa phá hủy môi trường thiên nhiên.
Ở trường học các học sinh được giáo dục ý thức về ngôi nhà thiên nhiên là tài sản chung của mọi người cho mọi thế hế, về cách gìn giữ bảo vệ môi trường sinh thái thiên nhiên.
Ở nhà tư việc dùng tiết kiệm năng lượng và nước được khuyến khích, rác thải được phân chia từng thứ loại có nơi chốn không được vất bừa bãi.
Đó là theo chiều kích thước hàng ngang đường chân trời con người nhìn vào ngôi nhà thiên nhiên mình đang ở. Còn theo đường thẳng đứng hướng lên trời cao, Đức giáo hoàng Phanxico có suy tư:
„ Đối với các Kitô hữu, việc tin vào một Thiên Chúa ba ngôi hiệp thông cho thấy rằng Ba Ngôi đã để lại dấu ấn của mình trên mọi tạo vật. Thánh Bonaventure đã đi xa đến mức nói rằng con người nhân loại, trước khi phạm tội, đã có thể thấy được cách mỗi loài thụ tạo “chứng thực rằng Thiên Chúa là ba ngôi”. Việc suy tư về Ba Ngôi là là việc cần phải nhận ra trong thiên nhiên “khi cuốn sách ấy được mở ra cho con người và đôi mắt của chúng ta vẫn chưa trở nên tối tăm”.Vị Thánh dòng Phanxicô dạy chúng ta rằng mỗi loại thụ tạo mang lấy trong chính nó một cấu trúc cụ thể thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi.“ (Laudato si Nr. 239.).
Lễ Chúa Ba ngôi, 22.05.2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đức Chúa Thánh Thần và Giáo Hội Chúa Kitô
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm kết thúc mùa mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh, Giáo Hội mừng lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Theo tiếng Hy Lạp cổ πεντηκοστήἡμέραpentēkostē hēméra , 50 ngày, lễ Ngũ tuần. Theo truyền thống Kitô Giáo lễ Ngũ tuần là lễ trọng của Kitô giáo mừng vào ngày thứ 50. sau Chúa nhật lễ Chúa Giêsu Phục sinh. Trong ngày lễ mừng này Giáo hội và toàn thể tín hữu Chúa Kitô đón mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Kinh Thánh tân ước nơi sách Tông Đồ công vụ thuật lại, Đức Chúa Thánh Thần từ trời cao hiện ra ngự xuống trên Đức Mẹ
Maria và các Môn đệ Chúa Giêsu ở Gierusalem trùng hợp vào lễ Schawuot của Do Thái giáo cũng là ngày lễ Ngũ tuần. (CV 2,1-41).
Lễ Schawuot của người Do Thái mừng vào ngày thứ 50. sau bảy tuần lễ mừng lễ Passachfest- Lễ Vượt Qua - Lễ Schawuot cũng lễ tạ ơn cầu mùa, sau khi họ đã mừng lễ Passachfest ,và bắt đầu đến mùa thu hoạch hoa qủa.
Và Ngày lễ Ngũ tuần truyền thống Do Thái từ đó trở thành lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống theo truyền thống Kitô giáo. Và lần đầu tiên năm 130 sử sách đã chọn nói đến lễ Đức Chúa Thánh Thánh Thần hiện xuống. Và cũng theo truyền thống lễ đức Chúa Thánh Thần hiện xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần năm xưa ở Giêrusalem cũng được hiểu là ngày khai sinh Giáo Hội Chúa Giêsu ở trần gian.
Trong dòng lịch sử thời gian, những đặc tính của Giáo hội Chúa Giêsu càng hiện ra rõ nét hơn:
Gíao Hội Chúa là Cộng đoàn, như Cộng đoàn ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tụ tập chăm lo việc cầu nguyện. Mọi người đồng tâm nhất trí với nhau trong đức tin vào Chúa. (Cv 4,32).
Giáo Hội Chúa , như trong kinh Tin Kính xưng tụng là thánh thiện, không phải vì công lao của Giáo hội, nhưng vì Đức Chúa Thánh Thần là linh hồn sự sống của Giáo hội. Đức Chúa Thánh Thần chỉ đường Giáo hội hướng về Chúa Giêsu, Đấng là tình yêu.
Gíao hội Chúa là công giáo, vì Phúc âm của Chúa cho mọi dân tộc trên hoàn cầu. Và vì căn nguyên đó, Giáo Hội để Đức Chúa Thánh Thần ngay từ lúc khởi đầu cho nói tất cả các ngôn ngữu mà mọi người đều hiểu.
Giáo hội Chúa là tông truyền, vì Giáo hội được thành lập trên nền tảng các Tông Đồ môn đệ do Chúa Giêsu kêu gọi tuyển chọn, và những giáo huấn của Giáo hội như những khâu mắt zích của sợi dây xích amók gắn nối liền với nhau không đứt đoạn được gìn giữ chăm sóc cùng phát triển thích nghi do sự liên tục của các vị Giáo Hoàng, Giám mục do Giáo Hội cắt cử phong chức.
Ngoài ra Giáo hội Chúa Giêsu còn mang sứ mạng truyền giáo là đặc tính căn bản mình nữa. Từ ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống năm xưa ở Gierusalem, Đức Chúa Thánh Thần hằng như động cơ của cỗ máy, không ngừng nghỉ trúc đẩy hướng dẫn Giáo hội đứng dậy lên đường đi đến tận cùng mọi biên giới hình thế địa lý, thời gian thế kỷ, năm tháng, tâm lý nếp sống văn hóa, hoàn cảnh tâm tính đời sống con người thuộc mọi thời đại của mọi dân tộc đất nước trên vũ trụ. Như Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ: „ Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.“ ( Cv 1, 8).
Chính vì thế Phúc âm của Chúa đã được loan truyền khắp nơi. Đời sống Giáo Hội Chúa lan truyền từ Giêrusalem sang Roma, sang các vùng lục địa đất nước bên Âu châu, Á châu, bên Phi châu, bên Mỹ châu, bên Úc châu.
Giai đoạn thời đại nào cũng có những khiếm khuyết bóng tối lỗi lầm ngay trong lòng Giáo Hội.
Nhưng không vì thế mà Giáo hội bị tan rã sụp đổ. Trái lại, Đức Chúa Thánh Thần hằng gìn giữ hướng dẫn Giáo hội xét mình quay trở lại làm mới xây dựng lại đời sống Giáo hội như Chúa muốn.
Và luôn hằng có những phê bình chỉ trích Giáo hội Chúa ở trần gian hầu như về mọi khía cạnh. Đó cũng là điều tự nhiên nơi con người, cùng cũng có khía cạnh tốt tích cực cần thiết.
Nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội bị vướng vào lâm nguy, bị chèn ép đẩy sang một góc sống trong lung lạc lo sợ hoài nghi về bản chất của chính mình, hay vội vàng chạy thay đổi theo thời đại…
Trái lại, đây là dịp tốt cho Gíao hội (khiêm nhường) nhìn lại chính mình mà sửa sai, cậy nhờ vào ơn Đức Chúa Thánh Thần soi sáng. Và như thế có đà sức phấn khởi phát triển tiến lên cho tốt đẹp, cho đúng ý Chúa muốn cùng giữ vững căn tính là nhân chứng cho Chúa giữa lòng xã hội, và là lương tâm khía cạnh luân lý cho con người.
Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống 15.05.2016
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lạy Chúa Thánh Thần, Quà tặng của Lòng Thương Xót
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG, C
(Cv 2,1-11; 1 Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thật vậy, từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, Người yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho nhân loại. Đến lượt Đức Giêsu, qua việc nhập thể và nhập thế, cũng như những lời rao giảng và hành động của Ngài, Ngài đã mặc khải và diễn tả xuất sắc lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Đường thương xót đó không dừng lại cũng như kết thúc qua việc Đức Giêsu về trời, mà còn tiếp diễn và tồn tại muôn đời. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã chuyển trao lòng thương xót ấy nơi Chúa Thánh Thần.
Vì thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nên từ ngày Người hiện xuống, lòng thương thương xót của Thiên Chúa như dòng sông không ngừng chảy đến với mọi người qua các chứng nhân dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
- 1.Chúa Thánh Thần công khai hóa Giáo Hội bằng lòng xót thương
Khi lần dở các trang Tin Mừng, chúng ta thấy trong suốt hành trình tại thế của Đức Giêsu, Ngài đã ấp ủ, cưu mang công cuộc thiết lập Giáo Hội qua việc dạy dỗ, hướng dẫn các Tông đồ cũng như dân chúng đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa để được cứu độ. Tuy nhiên, con đường đó đã trở nên xa lạ đối với các ông và dân chúng khi họ không hiểu được tâm tư của Thầy Giêsu, bởi vì mục đích của họ không nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, mà luôn bám vào những suy tính của trần gian.
Nhưng, đến ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần chính thức công khai hóa Giáo Hội qua ơn ban bình an và lửa mến tràn ngập nơi tâm hồn các Tông đồ, qua đó, các ông đã được biến đổi từ một con người ích kỷ, vụ lợi, kiêu ngạo, sợ hãi, nhát đảm, ham sống sợ chết..., trở nên chứng nhân của lòng thương xót.
Điều này đã được các Tông đồ chứng minh bằng thái độ can đảm, hân hoan, sẵn sàng mở tung cánh cửa đã đóng kín, để ra đi loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đấng chịu đóng đinh cho mọi người, bất chấp mọi khó nguy, liên lụy và ngay cả cái chết.
Khi nói về mục đích của cuộc đời, thánh Phaolô đã diễn tả: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8); “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21)”; nên “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và thánh Phêrô cũng biểu lộ tâm tình hân hoan khi: “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Vì thế, các Tông đồ luôn coi việc loan báo Tin Mừng là một điều cấp thiết đến độ không thể không thi hành: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
- 2.Hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần được triển nở trong đời sống Giáo Hội
Như vậy, kể từ ngày Giáo Hội công khai hóa, các Tông đồ đã cảm thấu và đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa thật dồi dào, nên tâm hồn các ông tràn đầy bình an và lửa sốt mến, khiến các ông đã không giữ lại cho riêng mình, nhưng đã chuyển trao cho mọi người, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh, bị áp bức, bất công...
Cũng thế, trải qua dòng thời gian hơn 2.000 năm qua, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hiện diện và hoạt động cũng như làm cho kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa luôn được tỏa sáng như ngọn hải đăng trên con thuyền của Giáo Hội.
Những dấu ấn ghi đậm sự can thiệp của Chúa Thánh Thần như: Giáo Hội luôn gặp nhiều giông tố, bão bùng, nguy khốn; biết bao kẻ đe dọa, chống phá và muốn hủy diệt Giáo Hội ngay trong trứng nước, từ thời sơ khai và cho đến tận hôm nay! Nhưng Giáo Hội Chúa vẫn hiên ngang, đứng vững, lớn mạnh không ngừng và tồn tại muôn đời.
Sự can thiệp của Chúa Thánh Thần còn được thể hiện cụ thể qua việc biến đổi tâm hồn con người. Vì thế, biết bao người nguội lạnh, khô khan, cố chấp... Nhưng qua một biến cố hay sự kiện nào đó, họ được khai trí mở lòng, nên đã ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhất là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời, lập tức họ đã trở nên những người yêu mến Giáo Hội hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.
Hay có những người “dốt đặc cán mai”; “chân lấm tay bùn”; hoặc thuộc hạng “cùng đinh” trong xã hội, nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần đổ đầy lòng xót thương trên cuộc đời họ, họ đã trở thành những người lỗi lạc, hàn lâm, uyên bác đến lạ thường khi nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em...!
Lại có những kẻ trước đây thuộc về thế giới ma quỷ. Sẵn sàng làm đồ đệ cho chúng và ra tay tàn ác với anh chị em đồng loại, thậm chí ngược đãi, chống phá Giáo Hội... Nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hóa và xót thương, nay lại trở thành những chứng nhân Tin Mừng ngay giữa lòng xã hội...
Đây chính là hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần.
- 3.Hãy làm cho hoa trái xót thương của Chúa Thánh Thần triển nở
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, mỗi người được đón nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào và phong phú. Tuy nhiên, ơn thánh của Chúa Thánh Thần không chỉ dừng lại trên cá nhân, mà phải sinh hoa kết trái đến với người khác, để mọi người đều được chung chia niềm vui và hạnh phúc như chúng ta.
Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, mỗi người hãy suy nghĩ và tự cật vấn bản thân xem: đã bao lần ta thờ ơ, khước từ ơn Chúa đến với mình; biết bao lần ta đã đóng chặt ơn Chúa cho riêng bản thân và đã vô cảm trước tiếng kêu gào thống thiết của người nghèo khổ, đói khát cơ bần nơi xó chợ, bãi rác, ngoài công viên, nơi bến xe, gầm cầu...?
Biết bao lần ta đã lựa chọn sự hời hợt, hình thức, tham lam, ích kỷ, vụ lợi, ghen tương, vu khống, kiêu ngạo, thù hận, thiếu niềm tin, lòng trông cậy và yêu mến Chúa trong đời sống đạo? Biết bao lần ta đã phớt lờ tiếng nói của Lương Tâm, để lựa chọn những hành vi tội lỗi không phù hợp với bản chất Công Giáo và giá trị Tin Mừng?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an và lòng thương xót của Người cho chúng ta. Khi có được sự an bình thư thái và ngụp lặn trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người sẽ làm cho hoa trái của Chúa Thánh Thần được triển nở trong tâm hồn và đời sống của chúng ta ngang qua những lựa chọn đầy chất Kitô của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến để biến đối tâm hồn chúng con cho phù hợp với tư cách người môn đệ của Chúa trong lòng xã hội hôm nay. Amen.
___________________________________________________________________________________________________________
SUY NIỆM THÁNH LỄ VỌNG
(Ga 7,37-39)
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng :"Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông" (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn "xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời" (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết : "Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo..." làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa : "Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm" (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói : "Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa" (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, "mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta". (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Câu trả lời cho câu hỏi Chúa Thánh Thần là gì, Ngài làm điều chi và làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là "nước hằng sống chảy ra như giòng sông" (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: "Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy" (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn : ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như : tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để "các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa." (Lời nguyện nhập lễ)
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!" Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
____________________________________________________________________________________________________
CHÚA THÁNH THẦN LÀ THẦN CHÂN LÝ
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG, C
(Cv 2,1-11; 1 Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23)
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trong lịch sử cứu độ của Dân Chúa, Chúa Thánh Thần đóng vai trò rất quan trọng nơi nhiệm cục cứu độ từ khi sáng tạo cho đến ngày tận cùng của nhân loại. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội; là Sinh Khí trong thân xác con người.
Khi xuống trần gian, Đức Giêsu đã mặc khải cách tiệm tiến về Chúa Thánh Thần. Cuối cùng, Ngài đã trao ban Chúa Thánh Thần cho nhân loại thông qua việc thổi hơi trên các Tông đồ và trao ban bình an kèm theo ơn tha tội. Khi Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các ông, Người đã biến đổi, ban sức mạnh, lòng cam đảm và sự trung thành, để các ông ra đi làm chứng cho Chân Lý là chính Đức Kitô.
- 1.Đức Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các Tông đồ
Khi các Tông đồ phải đối diện với cuộc thương khó của Đức Giêsu, các ông hoang mang, sợ hãi và tìm mọi cách để chạy trốn thoát thân. Rồi sau khi Đức Giêsu chết, tất cả các ông đều sợ hãi, vì thế, họ đã đóng kín cửa vì sợ người Dothái. Các ông sợ vì Thầy mà bị liên lụy; họ đã giết Thầy thì hẳn cũng sẽ tìm cách giết môn đệ, để dẹp luôn những tư tưởng mà Đức Giêsu đã gieo vào trong lòng của các ông.
Nhưng có lẽ điều cốt yếu mà các ông đang hoang mang, đó chính là ơn cứu độ mà Đức Giêsu đã rao giảng. Bởi lẽ, các ông cũng như những người đương thời cho rằng: Đức Giêsu chết là hết. Lòng tham vọng trần tục của các ông tan thành mây khói. Thấu hiểu được lòng dạ từng môn đệ, nên Đức Giêsu đã hiện đến, trao ban cho các ông chính nguồn cội của lòng thương xót là Chúa Thánh Thần qua ơn bình an và ơn tha tội.
Khi lãnh nhận món mà cao quý và vô giá như vậy, lòng các Tông đồ đã tràn ngập niềm vui, hạnh phúc, nhất là từ trong tâm khảm, các ông được ơn biến đổi.
Thật vậy, khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời mình như thế, nên các ông đã không thể ngồi yên hoặc an hưởng một mình, mà đã hân hoan mở tung cách cửa cô đơn, sợ hãi, ích kỷ, vụ lợi, hình thức... để thực thi lệnh truyền của Đức Giêsu: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”; “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
2. Chúa Giêsu trao ban cho các Tông đồ Thần Chân Lý
Khi trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, Đức Giêsu đã mạc khải cho các ông biết Người chính là “Thần Khí sự thật”. Khi đến, Người sẽ giúp cho các Tông đồ hiểu được những lời Ngài đã rao giảng. Mặt khác, Chúa Thánh Thần sẽ bào chữa cho các ông khi phải ra trước mặt quan toà để làm chứng cho sự thật: "Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói" (Lc 12,11-12). Thật thế, nếu xét trên bình diện con người, các ông làm sao có thể thi hành một sứ mệnh cao cả và quan trọng đến như vậy. Bởi vì các Tông đồ là những người rất bình thường trong những người bình thường nhất. Họ là những người quanh năm suốt tháng chỉ biết sống với nghề chài lưới, vật lộn với sóng nước biển khơi, học vấn thì kém cỏi, khả năng diễn thuyết trước công chúng thì quá xa vời. Thế nhưng, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để làm chứng cho Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã chết và sống lại vì yêu con người. Điều này đã được chứng minh nơi Tông đồ trưởng Phêrô trong bài giảng đầu tiên. Phêrô đã khuất phục được rất nhiều người, trong đó có khoảng 3.000 người tin theo (x. Cv 2,41).
3. Chúa Thánh Thần và đời sống chứng nhân của người Kitô hữu
Ngày xưa, khi các Tông đồ chưa nhận được ơn Chúa Thánh Thần thì họ lo lắng, sợ hãi, thiếu tự tin… Nhưng khi nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để rao truyền chân lý. Các ngài đã coi đó như là mối lợi tuyết đối mà Chúa dành cho mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Thiết nghĩ, đây là dịp để chúng ta suy nghĩ về vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mỗi người, cũng như trách nhiệm của chúng ta trước sứ mạng được trao.
Là người Công giáo, được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, chúng ta có trách nhiệm loan truyền Đức Giêsu và làm chứng về Ngài trong gia đình, làng xóm, xứ đạo và thế giới hôm nay bằng đời sống chứng nhân.
Thế nhưng, thực tế thì khác nhiều lắm! Nếu được hỏi: “Ông bà, cô bác, anh, chị, em… có tin Chúa không?” Ngay lập tức, ta sẽ nhận được câu trả lời là “có”, thậm chí còn bị mắng vốn là “hỏi thế mà cũng hỏi”; “hỏi ấm ớ…”. Nhưng thử hỏi trong đời sống đức tin, chúng ta sống đạo hay chỉ giữ đạo? Đây là câu hỏi xoáy vào tận nội căn của mỗi người, bởi vẫn còn đó những cảnh cãi vã nhau gay cấn ngay khi vừa ra khỏi nhà thờ sau thánh lễ và không nhân nhượng khi tuyên bố: “Tao mà không vừa rước lễ xong, thì hôm nay, tao sẽ xé xác mày”; rồi những lần đi lễ “ôm”, những cảnh “đạo gốc” và phì phèo điếu thuốc (đi lễ nhưng ngồi ở những gốc cây quanh nhà thờ)... Hay khi buôn bán: lấy tiền 1kg, nhưng ăn bớt chỉ còn 800gr; bơm nhồi hoá chất độc hại vào những rau, củ, quả… mà mình sẽ bán; hoặc thượng tôn cái “bụng” mà gian tham, bóc lột, nhận hối lộ... từ đó sinh ra thói vô cảm, dửng dung với anh chị em... Lại nữa, chúng ta cũng thấy không ít người Công giáo sống đạo theo kiểu “lâm thời”. Khi gian nan thử thách đến là sẵn sàng khấn “ông địa” vái “bà mo” hay đi xem bói, xem tướng, lên đồng, không còn tin tưởng vào Thiên Chúa tuyệt đối nữa... Nhiều khi chúng ta giống như những “tượng thánh giả tạo”: bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng khi nước sơn hình thức bị phai nhạt, tức là những thử thách ập đến, tượng thánh đó sẽ hiện nguyên hình quỷ.
Đây phải chăng là những căn bệnh trầm kha trong cách sống đạo của nhiều người Công Giáo hiện nay!
Như vậy, trên lý thuyết: tin thì vẫn cứ tin, ít ai có khái niệm bỏ đạo, nhưng cách sống đạo thì hời hợt, trong cuộc sống thì bon chen, quỷ quyệt… Những thái độ đó chẳng khác gì khối “ung nhọt” nằm trong thân xác tráng kiện bên ngoài với cái mác hai chữ Công Giáo giả tạo, hay như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp mắt, nhưng bên trong thì thối tha.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy xin Người biến đổi con người cũ của chúng ta thành con người mới trong Thần Khí và sự thật, để dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải là người Công Giáo chân chính như lòng Chúa và Giáo Hội mong muốn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Người ngự đến để đổi mới mặt địa cầu; để dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn. Xin Người ban sức mạnh; lòng cam đảm để chúng con sẵn sàng ra đi làm chứng cho sự thật là chính Đức Kitô và luôn sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Nhớ về mẹ
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm nhiều nước trên thế giới đều dành một ngày nhớ về mẹ, hay còn gọi là ngày hiền mẫu, tùy theo tập tục nếp sống văn hóa mỗi dân tộc đất nước, để tôn vinh người mẹ.
Nhiều nước trên thế giới chọn ngày chủ nhật thứ hai trong tháng Năm là ngày nhớ về mẹ. Trong ngày này những người con nhớ đến với tâm tình vui mừng lòng biết ơn mẹ đã sinh thành dậy dỗ giáo dục mình nên người. Họ mang bông hoa hay chọn món qùa qúy gía tặng mẹ mình, để nói lên lòng vui mừng và biết ơn.
Những người không còn mẹ, vì mẹ đã qúa vãng về đời sau, cũng nhớ đến mẹ mình với lòng thành kính biết ơn, nhớ đến những kỷ niệm ngày xưa đã cùng chung sống với mẹ thời thơ ấu, tuổi thanh thiếu niên, tuổi khôn lớn đi vào đời, đến những thành qủa trong đời sống hôm nay là công lao kết qủa của mẹ đã gieo trồng vun xới khi xưa cho đời sống người con ngày mai.
Lòng thảo hiếu với mẹ đã sinh thành nuôi dậy người con không chỉ sống dậy trong ngày nhớ ơn mẹ. Nhưng hình ảnh, lời nói, cử chỉ tình yêu thương, sự lo âu đùm bọc săn sóc của người mẹ cho người con luôn hằng như cuốn phim chiếu lại, xuất hiện trong tâm trí người con mọi lúc trong đời sống.
Khi còn nhỏ thơ bé, người con không thể hiểu được tình yêu thương mẹ dành cho những người con của mẹ mình. Nhưng càng lớn lên đi vào trường đời sống, người con càng nhận ra rõ tình yêu của mẹ không phân tán chia ra giữa những người con, mà nó nhân thêm nhiều ra cho mọi người con trong gia đình.
Ngạn ngữ dân gian có suy tư: „Phúc đức tại mẫu Bà ơi!. Phải, tương lai đời sống tinh thần người con là công trình do người mẹ góp phần xây dựng từ căn bản và nhiều nữa.
Những điều căn bản trong đời sống, như cách giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, cách chào hỏi ăn nói lễ phép, biết cầm đũa bát ăn uống, cách tắm rửa mặc quần áo, biết đến người khác trong xã hội, đến đạo giáo…là do người mẹ uốn nắn chỉ dậy cho. Lẽ tất nhiên mẹ không thể nào dậy cho con mình biết hết tất cả. Vì chính bà cũng không biết hết tất cả. Nhưng là những căn bản cho đời sống, và từ đó ngừơi con học hỏi thêm, làm giầu thêm cho đời sống qua kinh nghiệm sống ở đời.
Từ căn bản đó đời sống người con có chân đà phát triển lớn lên đi vào đời. Và cũng từ căn bản đó người con không chỉ xây dựng đời sống thành công cho riêng mình, mà còn cho gia đình con cái họ thành lập sau này, cùng cho đời sống chung trong xã hội con người với nhau.
Người con nào cũng bắt đầu đời sống từ nơi cung lòng người mẹ. Nơi đó người mẹ ôm ấp che chở nuôi dưỡng sự sống hình hài thân xác cho người con được phát triển từ một trứng nước bào thai thành một con người.
Chưa hết khi người con chào đời, mẹ cũng luôn bồng bế mang con trong lòng mình. Vì lúc đó người con chưa có khả năng đứng ngồi, đi được. Và đến lúc người con đứng lên đi được, mẹ cũng luôn cầm tay dắt, và mang bồng con trên tay mình, khi đôi chân người con mỏi mệt không bước đi được nữa.
Mẹ là thầy cô giáo đầu tiên đời con người. Mẹ hiểu con muốn gì, dù lúc còn thơ bé người con chưa biết nói. Lúc con bập bẹ, mẹ là người đều tiên dạy con mình nói. Suốt những tháng năm dài tuổi thơ bé, con hằng nghe mẹ nói. Những âm thanh tiếng nói đó ăn rễ khắc ghi sâu đậm trong tâm trí người con. Và đến khi người con theo chu kỳ thiên nhiên Tạo Hóa ấn định bật môi lưỡi mở miệng phát ra thành tiếng thành lời giống gần như của mẹ mình. Và rồi trong suốt đời sống, con học thêm nơi mẹ mình nhiều chữ nghĩa nữa. Vì thế dân gian có ngạn ngữ: tiếng mẹ đẻ.
Đến khi em bé cắp sách đi học ở nhà trường, về nhà mẹ là người thúc dục kèm dạy con học bài, dạy con tô viết chữ, tập đọc, làm toán làm bài. Mẹ dạy con học ăn , học nói, học gói, học mở.
Nhớ về mẹ, dù mẹ đã khuất núi, hay dù mẹ là người dân giã quê mùa không văn minh tân tiến, mẹ luôn luôn vẫn là người mẹ duy nhất đời con. Vì thế dân gian có xác tín tin tưởng: Mỗi người chỉ có một người mẹ.
Mẹ hiểu biết con mình không như người khác hiểu biết về con của mẹ.
Mẹ luôn có trái tim cùng sự suy nghĩ nhận xét rộng mở bao dung cho người con.
Mẹ hằng quan tâm săn sóc người con trong mọi hoàn cảnh. Mẹ được Trời cao phú ban cho trực giác bén nhậy hiểu biết nhận ra những nhu cầu đời sống cho con mình.
Từ nơi mẹ chảy tuôn ra dòng sữa sức sống nuôi sống thân thể cùng tinh thần cho người con của mẹ.
Xin ngước mắt lên Trời cao dâng lời tạ ơn Đấng Tạo Hóa Càn Khôn đã dựng nên người mẹ chúng con thật cao cả kỳ diệu tuyệt vời.
Chúa Giêsu trên thập gía đã nói lời trối trăn Đức mẹ Maria cho Thánh Giaon: Đây là mẹ con!
Thiên Chúa cũng ban cùng trối trăn người mẹ sinh thành dưỡng dục uốn nắn đời sống cho mỗi người con: Con phải thảo kính cha mẹ con! ( Điều Răn thứ bốn.)
Xin cúi đầu nghẹn ngào nói lên tâm tình lòng hiếu thảo cám ơn mẹ đã sinh thành dưỡng dục uốn nắn đời sống chúng con ngày hôm qua, hôm nay cùng cho ngày mai.
Ngày nhớ về mẹ, 08.05.2016
Tặng các người mẹ trần gian
Mừng kính Chúa Giêsu lên trời
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm toàn thể Hội Thánh Công giáo mừng lễ Đức Chúa Giêsu lên trời.
Vậy đâu là nguồn gốc lịch sử và đức tin của ngày lễ mừng này?
Trong kinh Tin Kính chúng ta đọc tuyên xưng: „ Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha.“.
Lời tuyên xưng đức tin đặt trên nền tảng lời Kinh Thánh thuật lại trong Phúc âm theo thánh Luca 24, 50-53 và nơi sách Công vụ Tông Đồ 1, 1-11.
Cả hai đoạn Kinh Thánh thuật lại thời điểm cùng cung cách và nơi chốn Chúa Giêsu lan trời: 40 ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại, ở thành Gierusalem, có đám mây quyện cất cùng hai Thiên Thần hộ vệ đưa Chúa Giêsu lên trời cao.
Lễ Chúa Giêsu lên trời có ý nghĩa sâu rộng trong đức tin đạo Công giáo về khía cạnh thần học ngày cánh chung, ngày sau cùng.
Thánh Phaolô trong thư gửi Gíao đoàn Philippe đã viết về việc Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha cắt nhắc đưa lên cao:
„ Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập gía. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. „ ( Pl 2,8-9)
Đức tin vào Chúa Giêsu lên trời ngay vào thời khởi đầu Kitô giáo đã được cáo Giáo phụ viết trong các bản văn như nơi Giáo phụPolykarp thành Smyrna, Justin và Irene thành Lyon.
Từ thế kỷ thứ ba sau Chúa Giêsu giáng sinh đã nói đến Chúa Giêsu lên trời trong Hội Thánh công giáo Roma. Đến năm 325 và năm 381 dựa trên nền tảng đó, Kinh tin kính các Thánh Tông đồvà Công đồng Nicea đã viết lại thành văn bản tuyên tín:
Lateinisch:
„et resurrexit tertia die secundum scripturas,
et ascendit in cælum,sedet ad dexteram Patris,
et iterum venturus est cum gloriaiudicare vivos et mortuos,
cuius regni non erit finis;“
„ Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng tận.“
Phụng vụ lễ trọng mừng kính Chúa Giêsu lên trời có từnăm 383 ở Gierusalem. Dựa theo phúc âm Thánh Luca, lễ mừng kính vào ngày thứ Năm, 40 ngày sau lễ Chúa Giêsu phục sinh, và 10 ngày trước lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Theo tập tục nếp sống từ xưa bên Âu Châu, ba ngày trước lễ mừng Chúa Giêsu lên trời là ba ngày rước kiệu cầu mùa. Khi đi rước kiệu qua cánh đồng, qua khu nhà cửa sinh sống, kinh cầu các Thánh được đọc xướng xin chúc lành của Chúa qua lời chuyển cầu của các Thánh cho mùa màng, cho đời sống con người.
Ỏ Gierusalem trên vùng núi cây dầu có nhà nguyện Chúa Giêsu lên trời. Tương truyền nơi đó ngày xưa Chúa Giêsu đã đứng khi lên trời. Trong ngôi nhà nguyện bây giờ thuộc Hồi Giáo có dấu vết chân Chúa Giêsu đứng còn in trên mặt đất khi Người vềtrời.
Lễ mừng kính Chúa Giêu lên trời là lễ mừng hướng lên trời cao. Trời cao không chỉ nơi trên cao, nhưng trời che phủ, nâng đỡ mặt đất.
„ Phải chăng tôi cho rằng tôi phải chống đỡ trời, hay tôi nhận ra rằng trời che chở nâng đỡ tôi? Người nào tin tưởng rằng trời che chở năng đỡ mình, người đó đang gần sát với nền tảng căn bản đời sống của mình. Và từcăn bản đó, tâm trí đầu óc, trái tim tâm hồn, chân tay thân thể họ được tựdo bằng an trong cung cách nếp sống tình liên đới với mọi người.“ ( F. Kamphausen).
Lễ Chúa Giêsu lên trời 2016
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long